Rồng Tiên lược truyện

PHẦN 52

Đây nói về Hùng Cao Vương. Nhận thanh Hỏa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm. Thống lãnh 30 vạn quân trấn thủ Trung Bắc Văn Lang. Chống lại 60 vạn quân Ân do Vi Tử Điển, Vi Tử Khải, thống lãnh ba vạn quân tướng sĩ ồ ạt tiến quân sâu vào nước Văn Lang chia làm ba giai đoạn.

Giai đoạn 1: Là giai đoạn mở đầu thọc sâu vào nước Văn Lang. Tấn công vào những thành trì chủ chốt trọng yếu, còn các Châu, Quận, Huyện không đánh cũng tự đầu hàng. Bước đầu tiên là đánh thẳng vào Bắc Giang Giao Châu, Lạc Giang Giao Châu, Quý Linh Giao Châu, Kinh Giang Giao Châu. Chiếm lĩnh Nam Kinh Xích Quỷ. Thời coi như đã khống chế một số các Châu khác như. Động Đình Châu, Diêm Hồ Châu, Ninh Giao Châu, Hợp Giao Châu. Thời coi như đã hoàn thành giai đoạn một.

Giai đoạn 2: Là chiếm cho được các Châu trọng yếu thọc sâu vào Trung Trung Văn Lang như Vân Giao Châu, Bạch Lang Châu, Phúc Giao Châu, Diên Giao Châu, Tây Giang Châu, Hạ Giang Châu, Hồng Định Châu, Lô Hồng Châu. Rồi tiến quân đánh thẳng vào Hộp Phố Châu Văn Lang. Chiếm lĩnh Nam Kinh, Kinh đô Văn Lang.

Giai đoạn 3: Thời coi như khống chế hầu hết Trung Trung Văn Lang. Châu Văn Lang như: Vân Giao Châu, Vũ Giao Châu, Phúc Giao Châu, Bạch Lang Châu, Lũng Trung Châu, Diên Giao Châu, Tây Tây Giang Châu, Hạ Giang Châu, Hồng Định Châu, Hà Hạ Châu, Lô Hồng Châu, Hồng Hạ Châu. Văn Lang Hợp Châu. Phong Châu, Vĩnh Châu, Hà Châu, Yên Châu, Tuyên Châu, Sơn Châu, Mộc Châu, Quan Châu, Phú Châu, Thái Đức Châu, Cao Châu, Túc Châu, Đường Châu, Nghĩa Châu, Hưng Châu, Lý Châu, Đông Châu, Việt Lang Châu. Còn các Châu thuộc phía Nam Văn Lang thời giặc chưa tính tới (Hoài Hoan, Cửu Đức, Nhật Nam). Như Linh Hải Châu, Hà Châu, Bình Châu, Hải Đông Châu, Tây Nam Ai Châu, Tam Diệp Châu, Thạch Hải Châu, Hòa Tây Châu, Hồng Lĩnh Châu, Kỳ Hải Châu, Quảng Hà Châu, Tuyên Hóa Châu, Thiên Trị Châu, Nam Hồ Châu v.v.. Và còn nhiều Châu Khác nữa.

Với khí thế hùng mạnh giặc Ân tấn công nước Văn Lang bằng một sách lược chưa từng có. Tây Văn Lang, Trung Văn Lang, Đông Văn Lang. Hùng Cao Vương phải đem hết tài năng để chống trả. Khi giặc tấn công cả đường thủy lẩn đường bộ. Quân giặc mỗi lúc một tiến sâu vào nước Văn Lang, và nuốt lần, nuốt hồi từng Châu từng Quận từng Huyện. Phải nói là người dân Văn Lang coi Tổ Quốc hơn mạng sống của mình. Lao vào cuộc tử chiến, biết rằng những trận đánh không cân sức nhưng vẫn cứ làm. Để chống trả cùng lúc hai mũi tấn công đường thủy cũng như đường bộ, phân bổ lực lượng bày ra những trận pháp bất ngờ tiêu diệt chúng.

Đây nói về Hùng Cao Vương bố trí lực lượng tấn công tiêu diệt giặc Ân xâm lược, theo đường bộ do Vi Tử Điển trực tiếp chỉ huy.

Bùi Xuân Mẹo nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân điểm 3 vạn quân tới Huyện Lỗ An. Xả Tử Địa gò Mộ Ma. Lợi dụng địa hình phức tạp nơi đây, toàn là rừng còi đầy gai góc, lại có nhiều gò đồi liên kết. Thuận lợi cho ta phục kích tiêu diệt chúng. Đây là con đường bình địa thuận lợi duy nhất vượt qua Kinh Giao Châu, tiến đánh Xích Linh Giao Châu. Chọn cỡ 3 nghìn quân, cho binh lính đào hào, đào hầm ngụy trang, ẩn mình dưới đất để cho quân giặc đi qua không ngăn chặng chi cả. Giặc sẻ để lại một ít quân, canh giữ nơi hiểm địa nầy. Chờ trời tối kéo quân bao vây ở vòng ngoài không cho một tên nào chạy thoát. Còn vòng trong quân ta từ dưới đất chui lên. Chọn những người võ công cao cường ra tay thần tốc mau lẹ. Bất ngờ phất thuốc mê vào bọn chúng. Còn số khác thời nhanh như tia chớp tiêu diệt gọn sạch. Bảo vệ tuyệt đối bí mật của chúng ta, Và chính nơi đây sẽ là mồ chôn cuối cùng 30 vạn quân của chúng.

Cao Đình Luân nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân điểm 10 vạn quân mai phục tại rừng Lâm Nguy, giáp ranh giữa Kinh Giao Châu và Xích Linh Giao Châu. Nơi đây có ba khu rừng như kiền ba chân: Rừng Ông Cọp, rừng Ma và rừng Quỷ. Tại đây sẽ xảy ra trận chiến giữa ta và chúng có thể nói là một mất một còn. Nếu giặc qua khỏi địa phận Lâm Nguy nầy thời giặc tiến đánh Xích Linh Giao Châu khá thuận lợi không có gì là trở ngại địa hình nữa, có thể nói giặc nuốt Nam Kinh Xích Quỷ nhanh chóng. Kinh Đô Giao Chỉ, Kinh Đô Cổ Kinh Dương Vương muốn nuốt Nam Kinh Xích Quỷ thời phải chiếm Xích Linh Giao Châu trước mà con đường thần tốc thời không có con đường nào tốt hơn là thông qua khu rừng Lâm Nguy nầy, để tránh hỏa công giặc sẽ đi qua khu rừng nhất là sau cơn mưa hoặc dừng chân thám thính nếu phát hiện có quân mai phục chúng sẽ tỏa ra bao vây sau đó dùng hỏa công thiêu rụi chúng ta. Hiểu được dụng ý của giặc thời ta mới thắng được giặc, vì vậy đề ra một chiến thuật hợp lý phương án hữu hiệu giặc không thể nào ngờ tới thời phần thắng về ta mới có hiệu quả cao.

Phương án A: khi giặc đến còn cách khu rừng Lâm Nguy chừng 6 – 7 dặm thời cho quân dừng lại, vì vậy ta phải tính toán phục kích theo hướng dừng của giặc và cho quân phục kích ở hai bên, ngay đầu cổ con mãng xà mỗi bên 5 vạn quân kéo dài 5 – 6 dặm để giữ bí mật không cho giặc phát hiện, theo kế sách sau đây.

1 - Cho quân ẩn mình dưới đất, bộ binh gần sát chân địch, có thể nói một cuộc ẩn mình đầy nguy hiểm, đầy gan dạ cẩn mật ngụy trang khéo léo, với chiêu pháp nầy thời hiệu quả tiêu diệt rất cao nhưng nguy hiểm cũng rất cao, đội quân cảm tử.

2 - Là quân kỵ binh ẩn nấp phục kích cách xa địch, đừng để địch phát hiện.

3 - Là tấn công trước dự định âm mưu của giặc tấn công ta làm cho chúng bất ngờ trở tay không kịp, từ khu rừng tấn công ra gián xuống một đoàn cực mạnh vào đầu cổ con mãng xà. Kế theo là hai bên tả hữu phục kích bất ngờ dưới đất chui lên như Ma, từ lùm cây xó bụi chui ra như Quỷ tấn công vào chúng sau đó là kỵ binh xông tới tấn công.

B: Chúng ta dồn hết lực lượng tấn công vào đầu cổ con mãng xà ra sức tiêu diệt chúng, đánh bật chúng chạy tháo lui trở lại.

Con chuột mà đấu con voi

Phải nhờ mưu trí phải soi mưu Thần

Thắng giặc đòn bẩy nên cần

Nương vào thế lực lựa lần trí khôn

Phá rừng nào phải khó khăn

Chỉ cần mồi lửa cũng phen đi đời

Giặc Ân dù mạnh tới trời

Cũng không thắng được con người hiếu trung

Hết lòng vì nước vì dân

Hết lòng bảo vệ non sông hết lòng.

Đây nói về Vi Tử Điển là anh của Ân Thọ không được chọn lên ngôi Hoàng Đế, vì vậy luôn luôn mơ mộng đến thế giới riêng cho mình, thấy Ân Thọ muốn nuốt nước Văn Lang giàu có, cho đây là cơ hội nên nóng lòng biến nước Văn Lang thành thuộc địa nhà Ân, thống lãnh 30 vạn quân ồ ạt lao thẳng về thành Bắc Giang Giao Châu. Các Châu, Quận, Huyện lần lượt bị chúng nuốt vào bụng như nuốt con kiến, con giun, con dế, sự thắng lợi quá dễ dàng ấy đã làm cho quân lính giặc Ân coi thường quân Văn Lang như cỏ rác, càng lúc chúng càng kiêu căng ngạo mạng.

Chúng nuốt thành Bắc Giang Giao Châu như nuốt con dế, phá thành Bắc Giang Giao Châu như phá ụ gò mối, càng ngày Vi Tử Điển hết chiến thắng nầy tới chiến thắng khác, luôn luôn gặt hái bao điều thuận lợi, không coi quân Văn Lang vào đâu cả và chúng bắt đầu trả giá cho sự ngông cuồng đó ở huyện Hàm Giang.

Theo kế sách của Vi Tử Điển chỉ cần dọn sạch con đường tiến, bảo vệ con đường lui, chiếm lĩnh các Châu, Phủ trọng yếu là thượng sách và cứ thế tiến sâu vào đất Văn Lang, vì thế giặc bỏ qua Kinh Giao Châu tiến đánh Xích Linh Giao Châu. Giặc muốn thôn tính thành Xích Linh Giao Châu một cách thuận lợi phải đi theo đường tắc, chỉ cần qua khỏi đồi gò Mộ Ma và rừng Lâm Nguy thời coi như tám mươi phần trăm thuận lợi.

Đây nói về Bùi Xuân Mẹo dẩn 3 vạn quân tới huyện Lỗ An, xã Tử Địa ẩn mình phục kích phán đoán giặc sẽ đi qua con đường nào, bố trí cho 3 nghìn quân đào hầm bí mật phục kích dưới đất, nơi gần nhất chúng đi qua trong các lùm cây bụi rậm gai gốc, còn 2 vạn 7 nghìn quân thời ẩn mình cách xa khu vực gò Mộ Ma một cách kín đáo, Bùi Xuân Mẹo cùng một số tướng lĩnh tới gần các đồi Mộ Ma phục kích, chỉ huy trận địa.

Nhìn về hướng Bắc xa xa, khói bụi mịt mù, không bao lâu thời nghe tiếng vó ngựa phi nước đại, có lẽ là đội quân thám báo dò đường cũng như thám thính tình hình những nơi hiểm địa như gò đồi Mộ Ma nầy. Thoáng chốc chúng đã đến, ước phỏng 50 tên, chúng tỏa ra quan sát khu vực Mộ Ma một cách cẩn thận, hầu phát hiện mai phục quân Văn Lang chúng sùng lục khắp nơi không phát hiện được gì liền cho ba người phi ngựa trở lại, có lẽ là chúng báo cáo tình hình, còn những tên còn lại tiếp tục theo dõi kiểm soát quan sát. Không bao lâu đại binh kéo đến như nước lũ tràn qua khu rừng còi Tử Địa Mộ Ma đông như kiến.

Bùi Xuân Mẹo cùng các tướng lĩnh vô cùng hồi hộp, hơn hai canh giờ gần hết một buổi đại quân giặc Ân mới đi qua hết khu Tử Địa, nếu không phải bật anh hùng nhìn thấy quân giặc đông đến thế thời khiếp đảm rụng rời tay chân. Đến lúc nầy Bùi Xuân Mẹo cùng các tướng mới thở phào nhẹ nhổm, trút đi tản đá nặng đè lên ngực, tiếp tục theo dõi quan sát diễn biến tình hình, quả không ngoài dự đoán của chúng ta, quân Ân ở lại trấn dữ đồi gò Mộ Ma nơi hiểm yếu nầy khoảng độ 2 nghìn quân, trời xui đất khiến may sao chúng đã lọt vào ổ phục kích của chúng ta.

Ông mặt trời sắp đi ngủ, nhìn khu Tử Địa tăng thêm vẻ huyền bí làm cho con người cảm giác sợ hãi như ẩn hiện đầy bóng Ma. Lũ giặc Ân cũng có cảm giác như vậy.

Có tên nói:

Ta cảm giác ớn lạnh khi phải ở nơi đây.

Một tên chửi:

Đồ nhát gan nơi đây chỉ là đồi hoang gò vắng toàn là gai góc bụi rậm có gì mà sợ.

Nhìn những gò ụ liên sở bụi cây cụm lá khác biệt nơi khác, giống như Thế Giới của Ma.

Có tên khoác lác nói:

Sợ cái gì? Địch đến ta còn không sợ, sợ gì Ma Quỷ. Ta có gươm, đao, giáo, mác lại có 2 nghìn binh không có con Ma nào dám tới đâu.

Đêm đã về khu Tử Địa càng thêm u tịch, lạnh lẽo thỉnh thoảng vài con vật chuyên ăn đêm hòa lẫn côn trùng rỉ rả mỗi lúc một thêm nhiều, trên bầu trời các vì sao cũng thi nhau xuất hiện, một cơn gió lạnh thoáng qua làm cho những tên lính giặc Ân cảm thấy rùng mình sởn óc, chúng nhìn nơi đâu cũng một màu đen ẩn hiện bóng Ma.

Có tên nói:

Không phải là Ma đâu, đó chỉ là ảo giác mà thôi, yên tâm nghỉ đi, quân ta mới đi khỏi đây chưa xa không có con Ma nào đâu, làm gì có địch có Ma.

Đó là lời nói của tên cầm đầu, có tên phụ họa thêm:

Nơi đây toàn là gai góc, gò ụ ban ngày còn khó đi huống chi là ban đêm.

Ai nấy cũng nghe có lý sự đề cao cảnh giác đã giảm sút, vì mệt mỏi nhiều ngày chúng cho người canh giữ gác qua loa, đại đa số vừa nhắm mắt là đi vào giấc ngủ ngon lành. Đầu canh tư bỗng có tiếng động khẽ, rồi hai tiếng, ba tiếng, giặc Ân những tên vừa thiu thiu chúng nghe, chúng nghỉ đó chẳng qua là những con vật chuyên ăn đêm như chồn, cheo, chuột, rắn v.v.. Vì thế chúng không quan tâm đến mấy, những tên lính gác phát hiện có người tấn công thời không kịp la lên vì đầu chúng đã lìa khỏi cổ, quân Văn Lang từ dưới đất chui lên như Ma như Quỷ lanh hơn con sóc lượm đẹp những tên canh gác rồi ập vào tấn công những tên say ngủ, có một số chạy thoát để báo tin nhưng chúng làm sao thoát được khi mạng lưới người phục kích bao vây dày đặc lớp trong lớp ngoài, thế là không một tên nào thoát lọt tất cả đã bị tóm sạch.

Còn một số tên bị thuốc mê với tài khai thác thông tin, dụ dỗ khéo léo cuối cùng chúng cũng khai. Chúng nói:

Chúng tôi có nhiệm vụ canh giữ nơi đây, phát hiện có địch thời cho người báo cáo ngay hoặc bị tấn công thời bắn pháo hiệu xanh đỏ cho các trạm bí mật khác biết. Nếu có quân ta kéo đến phải bắn pháo hiệu xanh 3 lần, nếu không bắn pháo hiệu lịnh hoặc bắn sai thời phải bắn pháo hiệu xanh đỏ cấp báo, nếu bắn pháo hiệu đúng là quân ta thời trạm ở đây cũng bắn pháo trả lại y vậy, nếu bắn sai đó là địch thời tức tốc tỏa quân bao vây tiêu diệt.

Đã nắm gọn thông tin ít nhất là ba người khai giống nhau mới có cơ sở để tin, liền cho 2 nghìn quân đóng giả làm quân Ân còn lại đào hào trận, hố trận cắm chông độc, trong vòng hai ngày một đêm cho xong, thời đàn cáo, sói thua chạy đến đây tấn công, chúng lọt lưới hào trận xơi chúng.

* * *



PHẦN 53


Nói về Đề Cốt Ma là tướng tài được Vi Tử Điển coi trọng là vị tướng tiên phong võ công cái thế, trùm sò của ngành Yêu Thuật. Học trò của Lão Ma Tôn thống lảnh 10 vạn quân tiên phong. Nếu nói về tướng tài thời phải kể đến Vũ Tử Như là học trò của Lão Chúa Tôn của 36 loài bò sát Xà Tôn Chúa Yêu làm quân sư cho Vi Tử Điển tài năng không kém gì Triệu Công Tiễn có khi còn hơn Triệu Công Tiễn nữa là khác, cũng có một con Kim Thiền vô cùng lợi hại.

30 vạn quân do Vi Tử Điển thống lãnh không chia làm nhiều mũi tấn công. Nên tấn công vào điểm nào đó. Thời sức mạnh dời non lấp bể, đi tới đâu là tỏa ra quét sạch tới đó không có một thế lực nào chống đỡ nổi. Chúng như đàn Sói dữ, gặp Hổ xơi Hổ, gặp Voi xơi Voi. Thế mạnh như nước vỡ bờ. Chúng tin rằng không bao lâu, sẻ nuốt Nam Kinh Xích Quỷ. Và thật vậy chúng chỉ cần vượt qua khu rừng Lâm Nguy. Thời coi như Xích Linh Giao Châu đã nằm gọn trong tay chúng. Xích Linh Giao Châu mất, thời Nam Kinh Xích Quỷ chẳng mấy chốc sẻ rơi vào tay chúng.

Khi quân Ân còn cách khu rừng Lâm Nguy chừng 6 – 7 dặm, thời cho quân dừng lại với ba lý do.

1: Trời đã về chiều.

2: Chín mười ngày trời không mưa.

3: Khu rừng Lâm Nguy địa hình phức tạp.

Có tới ba khu rừng, Thế như kiền ba chân bao trùm một vùng rộng lớn. Đồi dốc khó lường. Thế lực của giặc hùng mạnh. Nhưng Hùm sa lưới cũng khó mà thoát chết. Cẩn thận và dè dặt vẫn là thượng sách.

Vi Tử Điển ra lệnh cho Đề Cốt Ma cho quân thám thính. Rồi mới bàn kế sách tiến qua ba khu rừng nầy. Thế là Đề Cốt Ma cho 300 kỵ binh như 300 mũi tên lao thẳng về ba khu rừng. Với khí thế đó dù cho một con Nai cũng khó mà trốn thoát. Huống chi là quân mai phục thời lộ tẩy liền. Ba trăm kỵ binh sùng lục khắp nơi không phát hiện ra quân mai phục mà chỉ thấy thú rừng nhiều vô số kể. Hình như ba khu rừng nầy ít người lui tới thì phải. Có lẽ cũng không ít người bỏ mạng tại đây. Nên mới gọi là rừng Lâm Nguy, rừng Cọp, rừng Ma và rừng Quỷ. Ba trăm kỵ binh sùng lục hơn canh giờ vẫn không tìm đâu ra một bóng người. Mặt trời sắp lặng mới quay trở lại báo cáo.

Đội trưởng đội thứ nhất báo cáo:

Bẩm chủ soái. 100 thuộc hạ đi, về đủ mặt. Sùng lục hầu hết rừng ông Cọp không phát hiện được gì, chỉ thấy vài con Cọp hoảng sợ bỏ chạy mà thôi. Hết.

Đội trưởng đội thứ hai báo cáo:

Bẩm chủ soái. 100 thuộc hạ đi, về đủ mặt. Dẫm nát khu rừng Ma cũng không phát hiện có người chỉ thấy rắn nhiều vô số. Hết.

Đội trưởng đội thứ ba báo cáo:

Bẩm chủ soái. 100 thuộc hạ đi, về đủ mặt. Sùng lục nghe ngóng dù chỉ là một con Thỏ cũng không phát hiện được. Không có quân Văn Lang phục kích, chỉ thấy cầm thú, chim chóc rừng Quỷ nhiều vô kể. Hết.

Đề Cốt Ma tức tốc báo cáo lên cấp trên Vi Tử Điển vương gia:

Bẩm Vương gia 300 kỵ binh đã sùng lục ba khu rừng, nhưng không phát hiện ra quân phục kích. Dù chỉ là một bóng người cũng không có. Dù chỉ là một điểm nhỏ khả nghi cũng không thấy.

Vi Tử Điển nghe báo cáo như thế lấy làm lạ hỏi:

Sao lạ thế? Hay là quân Văn Lang chưa đến phục kích. Không lẻ nào không đoán được đường tiến quân của ta.

Tạ Hầu Công nói:

Địch đón được đường tiến quân của ta. Nhưng còn phải cân đối lực lượng, hoặc địch hiểu ta rất chú trọng những nơi hiểm địa nhất là nơi hiểm địa quan trọng nầy, có cách đối phó tiêu diệt chúng.

Đề Cốt Ma nói:

Có lý, có lý. Chúng làm sao phục kích qua mặt được ta. Chỉ cần có người là ta phát hiện. Cũng may cho chúng nếu có mai phục thời ta tỏa quân bao vây. Một mặt dùng hỏa công, chúng chạy đâu cho thoát. Xét ra chúng cũng có người tài đấy.

Vi Tử Điển nói:

Tuy biết rằng hiểm địa không có quân mai phục, nhưng trời tối rồi không thể tiến quân qua được, việc gì cũng có thể xảy ra. Tiến chắc, đánh chắc, thắng chắc vẫn hay hơn.

Vũ Tử Như nói:

Không những chúng hiểu rõ đường đi nước tiến của chúng ta và còn hiểu rõ nơi hiểm địa nầy rất quan trọng đối với chúng. Nếu chúng ta qua được một cách an toàn. Thời chúng làm sao giữ nổi thành Xích Linh Giao Châu. Không bao giờ chúng bỏ qua nơi hiểm địa nầy đâu, mà đi bảo vệ chỗ khác. Trừ khi chúng ít quân quá không làm gì được chúng ta. Hoặc chúng phục kích đâu đó chờ cho quân ta đi qua lọt vô khu rừng nào thời chúng xuất hiện dùng hỏa công tiêu diệt chúng ta. Nếu không tiêu diệt được chúng ta, thời chúng ta cũng bị một đòn chí tử. Hao binh tổn tướng nặng nề. Không còn đủ sức tấn công chiếm lĩnh Xích Linh Giao Châu. Có lẽ chúng phục kích gần ba khu rừng chờ cơ hội tấn công ta. Không ngoài khả năng gần đây cũng có. Vì thế đối phó với chúng, ngay lúc nầy canh gác đề phòng cẩn thận. Chỉ cần qua khỏi đêm nay, thời ngày mai là ngày tử lộ của chúng. Chúng ta sẽ cho quân đốt ba khu rừng biến thành biển lửa nhanh chóng. Nếu chúng phục kích thời chúng sẻ thành than. Cháy nhà ra mặt chuột, kế hoạch của chúng sẽ bị phá hỏng làm kinh động đến các ổ phục kích. Khi chúng ta phát hiện thời tỏa quân bao vây, tiêu diệt trọn ổ. Khi ba khu rừng cháy sạch đã mở ra con đường thông thoáng tiến quân qua nơi hiểm địa một cách an toàn, dọn sạch gai góc con đường tiến lui của chúng ta, để lại ít quân bảo vệ chỗ nầy như bao chỗ hiểm địa khác.

Vi Tử Điển nghe Vũ Tử Như nói hợp tình hợp lý, phân tích lợi hại minh bạch liền làm theo kế sách đó, ra lệnh cho toàn bộ quân Ân kéo dài đến 15 – 16 dặm, đề cao cảnh giác đốt đuốc canh gác cẩn thận, phát hiện khả nghi bắn pháo hiệu thông báo ngay.

Có lẽ Cao Hùng Vương cũng đã lường trước được điều nầy nên hai vạn quân khi di chuyển gần tới ba khu rừng liền cho quân dừng lại. Hùng Cao Vương cùng một số tướng lĩnh âm thầm lặng lẽ tiến đến gần ba khu rừng ẩn núp bí mật theo dõi động tịnh ý đồ của giặc, quả đúng như dự đoán chúng không cần bí mật cho người lặng lẽ âm thầm khám phá khu rừng mà là trận khám phá tàn quét lục lạo tìm kiếm quân phục kích nếu chúng phát hiện ra liền bắn pháo hiệu ngay. Quân Ân chia ra làm nhiều mũi bao vây tấn công tức khắc và trận hỏa công chúng tạo ra vô cùng kinh khiếp, khi thấy chúng bỏ đi lúc nầy trời đã xâm xâm tối. Hùng Cao Vương liền ra lệnh cho ba quân tướng sĩ âm thầm lặng lẽ vượt qua ba khu rừng tiến về gần quân giặc, nhẹ nhàng như mèo rình chuột.

Hùng Cao Vương nói:

Chúng ta phải ra tay trước, khi chúng ra tay đánh ta. Nếu đêm nay không đánh, chúng sẽ giáng những đòn bất ngờ chí tử. Qua khỏi đêm nay thời khó mà tiêu diệt được chúng, không những Xích Linh Giao Châu dẫn đến thất thủ mà ngay cả Nam Kinh Xích Quỷ cũng khó mà trụ vững.

Đây nói về Cao Đình Luân tính toán đường tiến quân của giặc, táo bạo đào hầm bí mật phục kích ngụy trang khéo léo là một việc làm đầy táo bạo, nếu giặc phát hiện thời đi tiêu chết sạch nhưng không táo bạo như thế thời khó mà tiêu diệt được giặc, khi giặc đông hơn ta gấp ba lần. Cao Đình Luân cũng hiểu: Vì sao ta không tấn công toàn diện con mãng xà mà chỉ tấn công ở khúc đầu, đó là một chiến thuật mang tính cách đột phá. Quân ta 12 vạn đánh thẳng vào khúc đầu quân giặc chỉ có 10 vạn mà thôi, giặc lại bị tấn công bất ngờ, ngoài sự chuẩn bị của chúng vì thế khúc đầu quân giặc sẽ bị đánh tả tơi, khúc giữa, khúc đuôi bị động hoang mang chỉ lo phòng thủ, nên khúc đầu con mãng xà sẽ bị đánh tan nhanh chóng, trở lại tấn công khúc giữa dồn khúc giữa thối lui trở lại, chúng sẽ lần lượt lọt vào ổ mai phục của chúng ta.

Cao Đình Luân hiểu rõ ý đồ chiến thuật của Cao Lạc Vương Gia, đêm nay là đêm quyết định thắng hay bại chỉ một trận nầy, chết hay sống cũng chỉ một trận nầy.

Giặc Ân được lệnh ngừng nghỉ thời trời đã sẩm tối, màn đêm buông xuống vội vã, mới đó đã tối đen, che đậy những ổ mai phục càng thêm an toàn, ở đời có nhiều cái may mà cũng có nhiều cái rủi, tất cả đều do ý trời che chở hay gián họa, cái may ở đây quân ta phục kích như ý, giặc lọt vào ổ phục kích mà không hay, thuận lợi cho ta ra tay vô cùng.

Giặc Ân đèn đuốc sáng choang, canh gác cẩn thận, canh một rồi đến canh hai thời gian chầm chậm trôi qua, hết canh ba sang canh tư tất cả đều bình yên vắng lặng, quân Ân thở phào nhẹ nhổm chỉ cần qua một canh giờ nữa thời coi như một đêm dừng quân gần nơi hiểm địa an toàn.

Con mãng xà nầy khác hơn các con mãng xà khác, là bộ chỉ huy không ở đầu mà ở ngay quả tim của nó, đèn đuốc nơi đây sáng hơn chỗ khác, đó là cuộc họp đến giờ nầy mới đi vào kết thúc, các quan tướng cấp cao của giặc bàn bạc những gì mà lâu đến thế? Còn bàn bạc gì nữa đó là bàn bạc về mưu mô chiến thuật vượt qua khu hiểm địa, tấn công chiếm lĩnh Xích Linh Giao Châu.

Bỗng bầu trời mây đen kéo đến che khuất những vì sao sâu thẳm xa xa, gió Bắc thổi mạnh mang theo hơi lạnh như sắp đổ cơn mưa, đèn đuốc tắt ngúm, quân Ân la hét đốt đèn đốt đuốc lên. Kìa pháo lệnh tử chiến đã bắn lên, pháo lệnh của ai thế, còn pháo lệnh của ai nữa đó là pháo lệnh tử chiến của quân Văn Lang và thật vậy pháo lệnh vừa bắn lên thời nghe quân reo dậy đất ngựa hí vang trời. Quân Văn Lang phục kích gần đó ào ào xông tới tấn công gươm, đao, giáo mác trút xuống đầu giặc Ân như vũ bão.

Phó Soái giặc Ân là Đà Lữ Tôn xua quân chống trả không ngờ gặp đội quân thiết giáp mở đầu tấn công quân Văn Lang. Mở màn trận đầu Đà Lữ Tôn không phải là đối thủ xứng tầm với Cao Vương. Hùng Cao Vương đưa xe tấn công còn Đà Lữ Tôn thời đưa hàng tốt ra chống đỡ liền bị đội quân xe thiết giáp chém sạch, mã không giao chân, pháo không yểm pháo thế trận hỗn loạn rời rạc. Quân Văn Lang xe, pháo, mã, tốt liên kết thành thế trận tấn công như cơn bão lốc, như nước vỡ bờ càn quét chém thôi là chém. Đà Lư Tôn đành bỏ mạng ngay trận chiến mở màn, quân Văn Lang thừa thắng xông lên hạ gục giặc Ân chết thôi là chết.

Nói về quân Văn Lang phục kích dưới đất, thấy thời cơ đã chín mùi bất ngờ từ dưới đất chui lên xáp chiến, hàng vạn quân binh tấn công vào quân Ân như ma như quỷ, quân Ân rối loạn mờ mịt không phân biệt được đâu là quân địch quân ta, còn quân Văn Lang thời khác hẳn, chủ động mọi tình thế, phân biệt rõ quân giặc quân ta, như đàn mãnh Hổ xông vào đàn Cừu ngơ ngác xóa sổ hàng vạn tên, phay chúng như phay chuối, quân Văn Lang tả hữu xông vào kẹp cổ con mãng xà nghẹt thở để cho cánh quân Tây Nam nện xuống cái nào cái nấy như trời giáng, thế là đầu cổ con mãng xà đã bị đánh dẹp lép nát nhừ ra tương, 10 vạn quân âm hồn chầu địa phủ.

Đây nói về nơi quả tim con mãng xà các quan tướng cấp cao sắp sửa tan cuộc họp, bỗng nghe pháo nổ tử chiến nổi lên, kinh hoảng hỏi:

Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

Quân binh thưa:

Bẩm Vương Gia địch đã tấn công ta.

Vi Tử Điển hốt hoảng ra lệnh:

Quân ở đâu nằm yên ở đó không được di chuyển lộn xộn.

Đề Cốt Ma nghe trận chiến nơi đầu cổ con mãng xà xảy ra rầm trời rầm đất, phóng lên lưng ngựa trở về đầu con mãng xà để chỉ huy, lúc nầy bầu trời trong sáng trở lại. Đề Cốt Ma ngựa phi tới cổ con mãng xà thời thấy đội kỵ binh xạ tiễn, đội kỵ binh thiết giáp, đội quân âm phủ đang càn quét quân Ân dữ dội có lẽ 10 vạn quân chẳng còn bao nhiêu.

Đề Cốt Ma râu tóc dựng ngược thét lên như sấm phi ngựa xông lên càn quét quân Văn Lang nhưng nào có dễ, đội quân thiết giáp bao vây chống trả. Nan Hổ địch Quần Hồ làm sao lại. Bị đánh tối tăm mặt mày.

Lúc nầy Vũ Tử Như đã xuất hiện, ra lệnh cho 5 vạn quân đầu khúc giữa cũng chính là đội quân chủ lực bảo vệ quả tim xông lên chiến đấu. Đội quân thiết giáp, đội quân xạ tiễn, đội quân gươm, đao, giáo, mác xông lên tử chiến.

Thế là trận chiến kinh Thiên

Thế là trận chiến rung rinh đất trời

Quân reo ngựa hí dậy trời

Kiếm Đao gầm thét núi đồi ngã nghiêng

Mưa tên bão giáo liên miên

Thây người ngã đổ khiếp kinh thây người

Long tranh hổ đấu kể gì

Rền vang trận chiến kể chi sống còn

Quân Nam bảo vệ nước non

Kể gì mạng sống, tấn công dậy trời

Giặc Ân ỷ mạnh chém xơi

Quân Nam gan mật bằng trời tiến lên.

* * *

Kìa trận chiến bão tên mưa giáo

Kìa gươm Đao, tuôn xối ào lên

Nước non ơi hỡi nước non

Thây người ngã xuống để cho hòa bình

Đánh cho lũ giặc hồn kinh

Ngông cuồng xâm lược bỏ mình tại đây.

* * *
 
PHẦN 54

Vũ Tử Như xuất hiện điều binh khiển tướng làm cho trận chiến trở nên long trời lở đất, quân Văn Lang mỗi lúc một đông xáp chiến mỗi lúc mỗi thêm dữ dội, tấn công như cơn bão lốc quân Ân ngóc đầu lên không nỗi.

Đề Cốt Ma tức giận thét:

Cho lũ mày chết.

Tức thời thổi ra một trận cuồng phong bão tố ầm ầm, quân Văn Lang ngã rạp đứng dậy không nỗi. Phó tướng quân Văn Lang là Đinh Thuận kìm ngựa trụ vững chống lại cuồng phong bão tố. Vũ Tử Như cũng phải kinh khiếp cho vị tướng Nam oai dũng phi thường nầy.

Vũ Tử Như nghỉ: Phải hạ sát tên nầy. Bằng lâm râm niệm chú, tức thời một vệt ánh sáng trong mình Vũ Tử Như bay lên không rồi nhắm đầu Đinh Thuận lao xuống, chỉ nghe Đinh Thuận thét lên một tiếng ngã nhào xuống ngựa khắp mình ra máu rồi chết tốt. Quân Ân thắng thế ào ào xông lên chém giết quân Văn Lang như chém chuối.

Nói về Hùng Cao Vương thấy cuồng phong nổi dậy một cách kỳ lạ, biết là có yêu thuật xuất hiện liền phi ngựa đến nơi ấy thấy Cao Đình Luân đang phi ngựa xông vào trận cuồng phong chống trả lại quân Ân, cướp lấy xác của Đinh Thuận trước bầy sói, Đao Kiếm rợp trời.

Hùng Cao Vương thấy vệt ánh sáng bay lượn trên không, nhắm đầu Cao Đình Luân lao xuống. Cao Đình Luân cái chết chỉ còn trong gan tất. Hùng Cao Vương nhanh như chớp rút Bảo Kiếm Trấn Quốc ra, Hỏa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm chỉ vào vệt sáng lao xuống đầu Cao Đình Luân, chỉ nghe một tiếng nổ long trời lở đất, con Kim Thiền tan xác thành tro bụi. Vũ Tử Như kinh hãi đến sững người.

Hùng Cao Vương chỉ Kiếm vào người Đề Cốt Ma. Kiếm khí tuôn ra ào ào mang theo cả sấm sét phủ xuống đầu Đề Cốt Ma. Đề Cốt Ma hoảng quá tàn hình độn thổ biến mất, Hùng Cao Vương chỉ Kiếm xuống đất thét chui lên.

Đây nói về quân Ân đang ra sức chém giết quân Văn Lang, bỗng trận cuồng phong tan biến mất, quân Văn Lang đang ngã rạp bật đứng dậy như Lau Sậy ào ào xông tới tiêu diệt giặc Ân.

Nói về Đề Cốt Ma sợ Kiếm Khí tàn hình trốn dưới đất, bỗng thấy mình mẩy đau nhức như hàng vạn mũi kim châm liền trồi lên mặt đất ném ra một vật hô biến, tức thời rừng núi hiện ra trùng trùng điệp. Hùng Cao Vương kinh hoảng thấy quân Văn Lang đang lạc vào núi cao rừng thẳm ngơ ngác, Kiếm Khí tuôn ra mù mịt sấm sét ầm ầm nhưng núi rừng vẫn không tan.

Vũ Tử Như nói với Đề Cốt Ma:

Giết tên đầu sỏ ấy đi.

Đề Cốt Ma nói:

Kiếm Khí quá lợi hại không thể tới gần được.

Còn quân Văn Lang không tiêu diệt chúng được sao? Vũ Tử Như hỏi.

Đề Cốt Ma nói:

Chỉ còn cách là biến ra loài mảnh hổ ẩn tàn theo pháp thuật tiêu diệt chúng mà thôi nhưng làm thế thời nguy hiểm lắm.

Vũ Tử Như nói:

Nhưng ở vào thế cỡi cọp, leo xuống thời cọp cũng sẽ ăn, tìm con đường tử có lẽ thấy con đường sinh.

Đề Cốt Ma nghe nói cũng phải liền nuốt vội ba viên yêu thuật rùng mình hô biến, tức thời hiện ra ba con mãnh hổ to lớn phóng vào cảnh núi rừng yêu thuật biến mất.

Đây nói về quân Văn Lang còn đang ngơ ngác trước cảnh núi rừng trùng trùng điệp điệp không thấy quân Ân đâu nữa, đang lúc ngơ ngác thời thấy một đàn hổ dữ hiện ra dưới sự điều khiển của ba con hổ lớn tấn công vào quân Văn Lang. Quân Văn Lang chống trả quyết liệt nhưng chém bay đầu thời nó mọc ra đầu khác, chém gãy chân thời nó mọc ra chân khác, quân Văn Lang hốt hoảng rối loạn, bị cọp vồ chết lớp lớp, tình thế vô cùng nguy ngập. Hùng Cao Vương bỗng nhớ linh Kiếm theo ý con người. Cao Vương thét to:

Linh Kiếm hãy đánh tan rừng núi yêu thuật của chúng đi.

Thơ rằng:

Khiếp thay Linh Kiếm trời Nam

Lửa Thiên đỏ rực, hào quang chóa lòa

Ầm ầm lửa cháy rực trời

Đốt tan núi phép rừng đồi còn chi

Sấm tuôn sét đánh kiếm phi

Ầm ầm bão tố còn chi quân thù

Cuồng phong càn quét kinh người

Tan thây Hổ dữ rồi đời Yêu tinh

Đất trời nghiêng ngửa rung rinh

Quân Ân năm vạn khiếp kinh đi đời

Cốt Ma tan xác nát nhừ

Cháy thành tro bụi ôi thời còn chi

Tử Như khiếp vía hồn kinh

Lui quân chạy trốn mới mong sống còn

Điển Vương khiếp vía kinh hoàng

Ba quân tướng sĩ đạp càn tẩu dông

Quân Nam rượt đuổi hò reo

Rượt thôi là rượt xiết bao oai hùng

Quân Ân khiếp vía kinh hoàng

Chạy thôi là chạy bò càng bò lăng

Đạp nhầu bỏ mạng giáo quăn

Chết vài ba vạn còn chi vía hồn

Ôi gò Mộ Địa kia rồi

Điển Vương thở dốc cuộc đời thảm thê

Xâm lăng kết quả là đây

Chạy đâu cho thoát lưới vây trùng trùng

Chờ xem họa phúc kiết hung

Tới rồi đoạn kết ung dung đợi chờ.

Đây nói về quân Văn Lang bị đàn hổ dữ yêu quái tấn công nguy cập đến nơi, bỗng thấy lửa dậy đỏ trời, hào quang chơm chớp, sấm sét ầm ầm, kinh thiên động địa núi rừng biến mất, hổ dữ chẳng còn. Kiếm Khí trùng trùng càn quét quân Ân dữ dội chết la chết liệt. Quân Văn Lang lấy lại khí thế ào ào xông lên. Đao, thương trút xuống giặc Ân như thác đổ.

Nói về Vũ Tử Như nhìn thấy Kiếm Khí mờ mịt, sấm sét ầm ầm, lửa dậy đỏ trời thời hồn phi phách lạc, nhớ lại lời truyền khẩu nói về Bảo Kiếm Trấn Quốc: Như vậy là có thật rồi không phải lời đồn suông.

Vũ Tử Như sợ hãi đến nỗi muốn vỡ mật miệng: Hô rút, rồi phóng ngựa chạy dài.

Nói về Vi Tử Điển đứng ngồi không yên lo lắng vô cùng, thấy lửa đỏ trời sấm sét ầm ầm, cuồng phong gào thét mỗi lúc càng dữ dội thời khiếp đảm:

Chuyện gì? Chuyện gì đã xảy ra?

Thoáng nhìn thấy một con ngựa phi tới thời ra đó là Vũ Tử Như mặt không còn chút máu, nói không ra lời hình như cái gì đó chận nơi cổ họng. Vũ Tử Như như muốn nghẹt thở liền oại ra một cục máu, có lẽ đã bị hào quang sấm sét đánh trúng.

Vũ Tử Như lấy lại bình tỉnh nói:

Bẩm Vương Gia rút quân chạy thôi, chạy mau kẻo không kịp, 20 vạn quân tướng tá chết sạch rồi, quân ta đã bị Linh Kiếm trấn Quốc sát hại, chạy mau, chạy mau.

Vi Tử Điển như nhớ ra điều gì, mặt mày cắt không còn chút máu ra lịnh rút. Quân Ân vô cùng hỗn loạn thi nhau mà chạy đạp càn lên nhau chết vô số kể, quân Văn Lang rượt đuổi tới tấp chém thôi là chém.

Đây nói về Vũ Tử Như cùng Vi Tử Điển bỏ chạy thục mạng, chạy hơn nữa ngày trời mới dừng chân để nghỉ, thời nhìn thấy gò đồi Mộ Ma không xa ở ngay trước mắt. Vi Tử Điển định phóng ngựa tới đó.

Vũ Tử Như ngăn cản:

Bẩm Vương Gia khoan tới đó đã vì không có pháo lệnh mật hiệu bắn lên, ta thoát chết quân Văn Lang, không khéo lại chết về tay quân mình mới khổ?

Vũ Tử Như nói:

Chờ quân ta đến đông đủ hãy hay.

Hai người cùng một số kỵ binh chờ đợi không bao lâu, thời bộ binh cũng đã chạy tới mỗi lúc một đông. Vũ Tử Như, Vi Tử Điển lúc nầy đã lấy lại bình tỉnh, chờ đợi quân binh tướng sĩ đến đông đủ, cho người kiểm lại chỉ còn 12 vạn quân. Vi Tử Điển xây xẩm cả mặt mày, than trời trách đất bức đầu bức cổ, lúc nầy mặt trời gần xuống núi sắp lặng về Tây.

Vi Tử Điển cứ than dài thở ngắn mãi:

Trời hại ta rồi, trời hại ta rồi.

Vũ Tử Như an ủi:

Không phải ta thua chúng, mà tại chúng có báu vật trong tay, không ngờ lời đồn ấy là sự thật, không phải chỉ có một cây Linh Kiếm đâu mà có tới bảy cây, Thiên Thiên Kiếm, Hậu Thiên Kiếm, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Kiếm. Quyền biến vô cùng vô tận, có lẽ thanh Kiếm vừa triệt phá quân ta là Hỏa Linh Tiên Thiên Bảo Kiếm.

Vi Tử Điển nói:

Chỉ có một Hỏa Linh Tiên Thiên Bảo Kiếm mà lợi hại đến thế sao?

Vũ Tử Như thở dài nói:

Dù cho có 100 vạn quân cũng chết hết. Quỷ, Thần cũng khó mà toàn mạng.

Vi Tử Điển nói:

Bảy thanh Bảo Kiếm Trấn Quốc Vua Hùng truyền lại, lời đồn ấy quả là khó tin, nghỉ rằng chỉ là câu chuyện bịa ra để hù các nước lân cận, bảo vệ nền Độc Lập của mình vì ngay cả các quan tướng cấp cao của nước Văn Lang cũng chưa bao giờ nhìn thấy thời ai mà tin là có thật. Nhưng hôm nay tai nghe mắt thấy Kiếm Linh xuất hiện, lửa dậy đỏ trời, sấm sét đùng đùng, Kiếm Khí tuôn ra mù trời mịt đất, cuồng phong gào thét càn quét khủng khiếp làm cho binh lính, 18 vạn quân tướng tá đi tiêu, hơn 10 tướng giỏi đi đời.

Càng nghỉ Vi Tử Điển càng khiếp hoảng nói:

Có lẽ các cánh quân khác cũng gặp hoàn cảnh như ta, chúng dụ quân ta sâu vào địa phận của chúng, chúng mới phản công ra tay tiêu diệt sa vào sách lược kế bẩy của chúng, chúng ta mau rút quân ra khỏi những nơi nguy hiểm nầy không thể ở lâu được nữa, mau rút quân bảo toàn tánh mạng, có lẽ đêm nay hoặc sáng mai chúng sẽ tấn công chúng ta.

Vũ Tử Như nói:

Vương Gia nói phải.

Liền ra lệnh cho đội quân mật hiệu, bắn pháo mật hiệu lên tức thời pháo xanh mật hiệu bắn lên không, một lát sau nơi khu tử địa gò Mộ Ma pháo xanh bắn lên đáp trả lại.

Vi Tử Điển nói:

Đúng là loại pháo xanh của ta chế ra không nghi ngờ gì nữa.

Vũ Tử Như truyền bắn mật hiệu tiếp theo, tức thời 2 quả pháo xanh được bắn lên không trung lần nữa, bên kia khu Tử Địa cũng bắn trả lên như vậy.

Vũ Tử Như, Vi Tử Điển thở phào nhẹ nhõm:

Đúng là quân ta rồi.

Để chắc ăn trăm phần trăm liền ra lệnh cho đội bắn pháo hiệu lần ba, bên kia cũng đáp trả lại như vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, cho binh lính nghỉ xả hơi rồi chậm rãi cho binh lính tiến về khu Mộ Địa, lúc nầy mặt trời đã xuống núi. Khu Mộ Địa gò Mộ Ma lại hiện ra cảnh ảo ảnh làm cho người ta tưởng chừng như đi vào Thế Giới Ma, nhìn cảnh quân Ân uể oải như người bịnh nặng lê lết bước đi, càng lúc càng sâu vào khu Mộ Địa nhưng quân Ân nào hay đây sẽ là mồ chôn của chúng vì hào trận đã giăng khắp nơi.

Vi Tử Điển ước lượng mình đi sâu vào khu Mộ Địa khá xa, ít ra cũng 3 – 4 dặm bực mình nói:

Sao không thấy quân binh đón rước ra đón chi cả.

Vũ Tử Như cũng lấy làm lạ chửi:

Đúng là một lũ ngu đần đáng chết.

Quân Ân lại đi thêm chừng hơn hai dặm nữa cũng không thấy đèn đuốc quân binh ở đâu. Vũ Tử Như sanh nghi: Canh giữ nơi đây tới 2 nghìn quân kia mà, sao không thấy một quân binh nào hết vậy. Nghỉ đến đây tự nhiên ớn lạnh nổi da gà, liền ra lệnh cho quân binh mau mau qua khỏi khu Mộ Địa nầy, 12 vạn quân như linh cảm có điều chi bất ổn, hò hét: Nhanh lên, nhanh lên.

Có lẽ quân Văn Lang chờ quân Ân lọt hết vào ổ phục kích mới ra tay, trong màn đêm u tối được soi sáng bởi ánh trăng dìu dịu cũng đủ cho tầm nhìn thấy rõ hàng chục mét. Bỗng hàng loạt tiếng pháo nổ nhiều vệt đỏ bắn lên trời, có người la hoảng:

Đó là pháo lệnh tử chiến của quân Văn Lang, chạy mau chạy mau quân ta lọt vào bẫy phục kích rồi.

Nhưng chạy đi đâu, nơi nào cũng nghe quân reo dậy đất, tên, lao lớp lớp bắn phóng xối xả vào quân Ân như mưa sa bão táp, quân Ân hoảng hốt chạy loạn xạ lao vào gai gốc, sụp hầm sụp hố chết thôi là chết, quân Ân lớp trước ngã xuống lớp sau đạp lên xác anh em đồng đội chạy thục mạng.

Quân Ân lưng mật sợ Kiếm Linh

Tháo chạy thoát thân tưởng yên bình

Nào hay Mộ Địa con đường chết

Hào trận vùi chôn giặc muôn binh

Mưa tên bão giáo rền trời đất

Quân Ân vùi xác chất chồng lên

Tám vạn đi tiêu trong chốc lát

Diêm Vương âm phủ gọi từng tên.

* * *



PHẦN 55


Nói về Vi Tử Điển, Vũ Tử Như biết mình đã rơi vào ổ phục kích của địch, chỉ còn đường là ra lịnh cho quân ào lên mở đường máu tẩu thoát, lớp nầy ngã xuống lớp khác đạp lên nhau để chạy nhưng mưa tên bão giáo lao vào quân giặc xối xả, quân Ân chết thôi là chết.

Vũ Tử Như hộ vệ Vi Tử Điển chạy thục mạng cho tới sáng, thời trước mặt có con sông lớn ngang qua, phải có thuyền thời đi qua mới được.

Vi Tử Điển hỏi:

Con sông trước mặt ta có phải là Hàm Giang không?

Vũ Tử Như nói:

Bẩm Vương Gia đúng vậy trước ta là Hàm Giang bến Hàm Tử, chúng ta đã cho quân canh giữ nơi nầy, có 300 thuyền lớn ở đây phục vụ cho quân ta khi cần thiết.

Vi Tử Điển nghỉ đến cái tài xuất quỷ nhập thần của quân Văn Lang giả làm quân ta khéo léo tài tình, đưa ta vào bẫy để tiêu diệt.

Nghĩ đến cảnh ấy Vi Tử Điển nổi da gà nói:

Chúng ta không thể không đề phòng.

Vũ Tử Như nói:

Con chim bị ná, con cá bị lưới, con hổ bị bẫy mấy lần may thoát chết, không tin vào đâu được, chỉ tin ở mình.

Vi Tử Điển nói:

Giết lầm còn hơn, địch ta khó lường.

Chờ đợi quân còn sống sót đến những con cá lọt lưới thoát khỏi hiểm địa nơi đồi gò Mộ Ma, ước lượng chỉ còn hơn 5 vạn quân, tả tơi còn hơn những con chim sống sót vùi dập sau cơn bão.

Vi Tử Điển hỏi:

Ở đây thuộc địa phận nào?

Vũ Tử Như nói:

Còn địa phận Kinh Giao Châu.

Vi Tử Điển kinh hãi nói:

Ta chạy suốt đêm mà chưa qua khỏi địa phận Kinh Giao Châu sao?

Vũ Tử Như nói:

Bẩm vương gia qua khỏi sông Hàm Giang là chúng ta qua khỏi địa phận Kinh Giao Châu.

Vũ Tử Như hỏi:

Bẩm Vương Gia chúng ta cần bắn pháo mật hiệu lên không?

Vi Tử Điển nói:

Tùy quân sư định liệu, những trạm chủ chốt nằm sâu trong đất Văn Lang không còn đáng tin nữa như khu Mộ Ma là một cụ thể.

Vũ Tử Như hiểu rõ ý của Vương Gia Vi Tử Điển. Dù chưa hiểu rõ quân binh canh giữ nơi sông Hàm Giang bến Hàm Tử kia là ta hay địch, vẫn cho bắn pháo hiệu lên không, tức thời nơi sông Hàm Giang bắn pháo hiệu trả lại y như vậy, ba lần bắn lên, ba lần bắn đáp trả không sai mật hiệu.

Vũ Tử Như nói:

Nơi gò Mộ Ma cũng bắn pháo hiệu đáp trả không sai mật hiệu nhưng đó không phải là quân ta mà là quân Văn Lang.

Vũ Tử Như nhớ lại: Nơi đây đã xảy ra trận kịch chiến, quân Kinh Giao Châu chết sạch, chỉ còn hai người, Thần Linh kịp thời đến giải cứu. Ngọc Linh Châu con của Trung Đại Nhân tử nạn tại nơi đây.

Càng nghỉ Vũ Tử Như càng nghi ngờ: Quân canh giữ tại đây chết cả rồi, quân Văn Lang đóng giả làm quân Ân mà thôi. Thà giết lầm hơn là lọt vào kế bẫy của chúng.

Vũ Tử Như chọn 500 tên có võ công cao truyền mật lịnh cho họ, phải làm thế nầy, phải làm thế nầy, chỉ thấy 500 tên lính sát thủ gật đầu lia lịa.

Hôm nay là một ngày kỳ lạ, sương mù càng lúc càng mù mịt, chẳng chịu tan, có phải đây là anh Linh chiến sĩ Hồn Thiêng dân tộc, duy trì khí thiên sông núi tạo ra sương mù dày đặc bảo vệ quân Văn Lang tiêu diệt kẻ thù, chỉ có Thần Thánh là hiểu rõ.

Lần nầy khác hơn lần ở đồi Mộ Ma, trạm Hàm Tử cho người đến đón khoảng 50 người, 50 người ung dung rời khỏi bến Hàm Tử tiến về chỗ quân Ân mới đến không phòng bị gì cả, sương mù dày đặc che khuất tầm nhìn, khoảng 20 mét là không nhìn thấy nhau, bất ngờ bị tấn công 50 người chẳng kịp la lên thời chết sạch, những quân binh bảo vệ nơi đây thấy người đi tới tưởng là quân của mình không phòng bị chi cả bất ngờ bị tấn công chết sạch không còn một tên.

Giữ nhà cho sói có yên đâu

Nanh vuốt còn kia sói vặn đầu

Có kiện thời cùng nhau đi kiện

May ra hồn thoát kiếp khổ đau.

Tên đội trưởng đội sát thủ quay lại báo cáo:

Bẩm quân sư chẳng còn sót một tên, tất cả đều chết sạch.

Vũ Tử Như khen:

Ngươi làm tốt lắm, ngươi có phát hiện ra điều gì khả nghi không?

Đội trưởng sát thủ:

Dạ không.

Vũ Tử Như ngẫm nghĩ: Thế là giết lầm quân ta mấy trăm mạng rồi, đã là sói dù có ăn thịt đồng loại cũng không có gì là hối hận.

Thế là Vi Tử Điển, Vũ Tử Như tiến ra sông Hàm Giang bến Hàm Tử. Quân binh đang vội vã hối thúc nhau xuống thuyền, khoảng độ hơn trăm chiếc chưa kịp qua sông còn ở nơi vạch xuất phát.

Bất ngờ pháo lịnh tử chiến nổi lên, Vi Tử Điển thất kinh, quân Ân khiếp vía, Vũ Tử Như hối quân chèo chống cho mau đưa Vi Tử Điển qua sông còn Vũ Tử Như ở lại huy động ba quân chống trả.

Đây nói về Huỳnh Trung Phong, đại phá quân Ân tại khúc sông Lạc, Rừng Lạc Hồn Âm U tiêu diệt hơn 2 nghìn chiến thuyền 20 vạn quân tướng tá chết sạch không còn một mạng. Nhưng đã hi sinh người con trai lớn là Huỳnh Trung Thông. Huỳnh Trung Phong nhìn người con yêu quí nhắm mắt lìa đời về cõi vĩnh hằng mà lòng căm thù lũ giặc, không bút mực nào tả nỗi lòng căm thù đó, quyết tâm quét sạch quân thù không còn một móng.

Thời nhận được mật báo từ Hùng Cao Vương, nội dung mật thư như sau: Đại phá quân Ân khúc sông Lạc Cội, rừng Lạc Hồn là chiến công lừng lẫy vang dội non sông, ta đã báo cáo công trình lên Hùng Quốc Vương rồi. Tướng quân nhanh chóng chọn 3 vạn tinh binh tướng tài giỏi, cấp tốc đến Hàm Tử nội trong một ngày một đêm phải tới nơi phục kích trước khi giặc đến.

Huỳnh Trung Phong gác lại thương đau lo cho đại sự, liền ra lệnh cho Phan Anh Tuấn, Nguyên Gia Thành khẩn cấp thống lĩnh 3 vạn quân tinh nhuệ, huy động tất cả thiết kỵ binh nhanh chóng lên đường đến sông Hàm Giang bến Hàm Tử phục kích trước khi giặc đến. Với sự quyết tâm của quân binh di chuyển thần tốc không biết mệt mỏi tới bến Hàm Tử phục kích trước nửa đêm, cũng là lúc sương mù phủ xuống càng lúc càng nhiều, hình như có Hồn Thiên anh linh chiến sĩ xuất hiện, luôn luôn che chở bảo bọc quân Văn Lang, sương mù mỗi lúc một dày không nhìn thấy chi cả, nhờ đó mà 3 vạn quân Văn Lang đến phục kích cách bến Hàm Tử hơn nữa dặm, quân Ân canh gác nơi đây không phát hiện được gì cả.

Phan Anh Tuấn, Nguyên Gia Thành lợi dụng sương mù mò sát tới bến Hàm Tử theo dõi cuộc diện, nhìn thấy pháo mật hiệu bắn lên cách đó không xa chừng hơn nữa dặm thời biết quân Ân thua chạy kéo đến, không hiểu là chúng còn lại bao nhiêu quân qua mấy lần phục kích truy sát của quân ta. Tiếng pháo bắn lên đáp trả từ quân Ân canh giữ nơi đây, hai bên cứ bắn qua bắn lại như vậy cho tới ba lần, pháo 1 rồi pháo 2, pháo 3 có lẽ đã ăn khớp tín hiệu nhau.

Phan Anh Tuấn, Nguyên Gia Thành nhìn thấy 50 tên lính rời khỏi bến Hàm Tử đi về phía quân Ân kéo đến, có lẽ chúng đi tiếp đón quân binh nhưng sau đó là hình như có tiếng đánh nhau thoáng cái là im lặng như cũ.

Phan Anh Tuấn, Nguyên Gia Thành giật mình: Chuyện gì đã xảy ra, sau đó thời ước lượng 50 người đi về bến Hàm Tử và cuộc tàn sát xảy ra nhanh chóng và cũng kết thúc nhanh chóng. Hai người không hiểu chuyện gì đã xảy ra, hai người tiếp tục theo dõi. Chừng nhìn thấy quân Ân ùa tới đông như kiến thời chợt nghĩ ra thà giết lầm còn hơn lo sợ, bọn nầy ác độc thật, chúng dọn đường sạch sẽ để đi.

Phan Anh Tuấn, Nguyên Gia Thành nhanh chóng rời khỏi nơi ẩn núp, trở lại chỗ quân binh truyền lệnh bắn pháo hiệu tấn công, tức thời quân Văn Lang ào ào phi ngựa xông tới càn quét tấn công như cuồng phong bão tố, ngựa hí quân reo dậy trời dậy đất. Quân Ân bao lần thoát chết, sức tàn lực kiệt chống làm sao lại trước đàng Sư Tử, mảnh Hổ đang thèm thịt loài Cáo, Sói xông tới xơi thôi là xơi.

Lúc ấy quân Ân đã xuống thuyền hơn trăm chiếc, có hơn vạn quân vội vã chèo chống ra khơi vượt qua sông, còn 180 chiếc quân Ân chưa kịp xuống thời bị quân Văn Lang ào tới tấn công như sấm sét.

Vũ Tử Như hò hét quân binh chống trả, ngăn chặn không cho quân Văn Lang cướp thuyền rượt đuổi truy sát Vi Tử Điền. Vũ Tử Như chống trả không lại trước đàn mãnh Hổ, Sư Tử cuối cùng chết theo 5 vạn quân Ân.

Quân Văn Lang xuống thuyền qua sông rượt đuổi truy sát Vi Tử Điển một đoạn thật xa thời có lịnh thu quân không rượt đuổi nữa.

Đây nói về Ân Trụ Vương đi đến đâu thời các loại Yêu Tinh, Quỷ Dữ ra phò đến đó, có thể nói đây là một điều khác lạ trong lịch sử Vua, Chúa từ xưa đến nay, sự khác thường đó cũng nói lên Ân Trụ Vương có nhân duyên với các loài Yêu Tinh, Quỷ Dữ.

Nhìn nhân duyên Ân Trụ Vương hiện tại theo luật nhân duyên, thời tiền thân kiếp trước chưa đầu thai làm người thời Ân Trụ Vương là Chúa Tể của các loài Yêu Tinh và Quỷ Dữ.

Nếu đã là Chúa Tể của các loài Yêu Tinh và Quỷ Dữ ra đời thời Đại Họa nhân loại sẽ không sao tránh khỏi, xã hội suy tàn Đạo Đức sẽ ra đời, thậm chí ngay cả anh em, vợ chồng, cha con cũng tàn sát nhau nói gì đến Họ Hàng dân tộc thời sự chém giết nhau vì danh lợi còn ghê gớm hơn nữa vào thời kỳ ấy, những nhơn thiện, trung thần thi nhau nhận lãnh Đại Họa. Với đường lối chính sách giả nhân, giả nghĩa che đậy sự nhơ bẩn của mình, nói thiện mà làm ác, các Trung Thần Nhân Thiện khuyên can hoặc tố giác những hành vi đi ngược lại Đạo Đức liền bị xử tử ngay. Sự chết oan chết ức của các bật nhân hiền là do Hôn Quân vô Đạo cùng một số gian Thần Nịnh Thần tạo ra với bản lỉnh độc ác, độc trị, độc quyền, hiến pháp, luật pháp không phải là chân lý, cán cân công lý gì cả mà chỉ là một thứ công cụ bảo vệ cho hôn Quân vô Đạo mà thôi.

Với bản lĩnh đi ngược lại con đường chính nghĩa, dẫn đến Đạo Đức con người xuống cấp dẫn đến chiến tranh thảm khốc nhất là những nước lân cận, sát bên tay ác Đạo háo chiến nầy, sự xâm lược của tay Hôn quân háo chiến đối với các nước lân cận chỉ là một sớm một chiều mà thôi và nước Văn Lang là một trong những nước bị nhà ÂN xâm lược. Với bề thế uy nghi tột đỉnh. Ân Trụ Vương đi đến đâu các quan tướng đều phò tá đông đủ đến đó, ít ai dám vắng mặt, lúc nào cũng có 5 nghìn kỵ binh hung hản ai nhìn thấy cũng phải khiếp sợ, xa giá đến đâu thời dân chúng thắp hương vọng bái đến đó, thậm chí chỉ nghe tên Ân Trụ Vương thời dân chúng cũng đã lưng mật rồi.

Ân Trụ Vương ở bên kia bờ Bắc, nam sông Trường Giang, ngay ranh giới Nam phương và Bắc phương. Ân Trụ Vương nhìn về phương Nam nước Văn Lang thấy cảnh non xanh, nước biếc, núi non uốn khúc, sông lạch lượng quanh, cánh đồng mênh mông, rừng đồi nhấp nhô sau lũy tre làng, cánh cò trắng lả từng đàn, từng đàn bay lượn dưới những đám mây lành, từng bực thang nối nhịp tận trời xa.

Ân Trụ Vương say mê nhìn mãi không biết chán, nghỉ ta phải chiếm cho bằng được non sông Tổ Quốc nầy. Ngay lúc ấy bỗng một cơn lốc lạ nổi lên làm bay mão quan binh, cũng như làm bay mão của Ân Trụ Vương, ai nấy cũng đều kinh hãi, chuyện lạ từ xưa tới nay chưa từng có.

Lời xưa thường nói, hiện tượng không lành xảy ra thời tai họa sẽ ập tới không sớm thì muộn. Ân Trụ Vương vốn không tin vào nhân quả, không tin vào điềm ứng báo xảy ra mà chỉ tin vào quyền lực của mình.

Ân Trụ Vương thường nói: Ta muốn là Trời muốn ai ngăn cản chống đối ta là chết. Các quan tướng nghe lời nói ấy thời ớn lạnh nổi da gà. Nơi Ân Trụ Vương ngự lúc nào cũng có ba luồng hắc Đạo xông lên tới tận mây xanh, đó là Hắc Đạo của Ân Trụ Vương, Hắc Đạo của Vưu Hồn, Bí Trọng.

Ân Trụ Vương lúc nào cũng đắc ý bởi tin tức thắng trận dồn dập từ các mũi tấn công báo về. Ân Trụ Vương nhớ lại lời Thương Dung, Triệu Khải, Mai Bá đề cao nước Văn Lang liền hỏi:

Các Thừa Tướng. Có nghe thấy quân ta thắng trận không?

Thương Dung, Triệu Khải, Mai Bá nghe vua Trụ hỏi thời giật mình.

Thương Dung nghỉ: Đúng là tên Hôn quân lòng dạ tiểu nhân, cố ý chỉ trách ta đây mà, không khéo thời mất mạng như chơi.

Thương Dung bằng thưa:

Muôn tâu bệ hạ, thần đều nghe thấy rõ quân ta đã gặt hái nhiều chiến công oanh liệt, đã tiến sâu vào đất Văn Lang, thế mạnh như vũ bão, như chẻ tre, chiến thắng liên miên hết thành nầy đến thành nọ, hết châu nầy đến châu kia, đó là nhờ hồng phúc uy linh của Chúa Công Bệ Hạ, quân Văn Lang chỉ có tiếng mà không có miếng, tệ mạc như vậy thời quân ta chiếm lĩnh nước Văn Lang nhanh chóng thôi.

Ân Trụ Vương có vẽ không hài lòng câu trả lời của Thương Dung nhưng thôi không hỏi nữa.

Ân Trụ Vương nói:

Các khanh giúp trẩm thống nhất Nam phương, Bắc phương thống nhất một nhà mà các đời trước không làm được với công lao nầy trẩm sẽ phong thưởng xứng đáng.

Triệu Khải, Mai Bá nghỉ: Sao quân Văn Lang lại yếu như thế? Hay có âm mưu gì chăng? Không lẽ là lời đồn hư ảo, thầy đã từng kể nước Nam có truyền thống Tiên Rồng, đã đánh thời đó là Thánh Chiến lợi hại vô cùng, khó có thế lực nào đương đầu lại, lợi hại hơn nữa là bảy thanh Bảo Kiếm Trấn Quốc, một khi đã rút ra khỏi vỏ thời đối thủ kể như đã đến giờ tận số hay là. Triệu Khải, Mai Bá rùng mình không còn dám nghỉ tiếp nữa.

Tin chiến thắng dồn dập, Ân Trụ Vương lúc nào cũng mở cờ trong bụng, liền cho mở tiệc đãi đằng các quan tướng rượu.

Được vài tuần Vưu Hồn, Bí Trọng tâu:

Muôn tâu Bệ Hạ, nghe nói các cô gái phương Nam xinh đẹp lắm, sao Bệ Hạ không truyền cho lũ ấy đến mua vui, dâng đồ ăn thức uống cho chúng ta.

Ân Trụ Vương thích thú ra lệnh đưa các cô gái phương Nam mới bắt đưa về đến phục vụ. Ân Trụ Vương nhìn tới nhìn lui những cô gái quê không có gì là xuất sắc lắm nên không lấy hào hứng chút nào nói:

Các ngươi phục vụ tốt thời sống, còn phục vụ không tốt thời ta quăn các người cho cá sấu nuốt, cho rắn ăn.

Trong lúc tiệc tùng Vua tôi vui vẻ thời có Quan phụng ngự vào tâu:

Bẩm Chúa Công Bệ Hạ, quân ta đại bại ở thành Đông Giang Châu, đi tiêu hơn 10 vạn quân bỏ mạng hơn 10 tướng lĩnh.

Cái gì? Ân Trụ Vương quát:

Tướng nào chỉ huy đánh thành Đông Giang Châu?

Quang phụng ngự tâu:

Bẩm Chúa Công. Chủ Soái Tử Điền Phi.

Ân Trụ Vương hỏi:

Quân ta có bao nhiêu vạn quân?

Quan phụng ngự tâu:

Bẩm Chúa Công quân ta có 15 vạn, chỉ còn 5 vạn lê lết cùng đường.

Ân Trụ Vương lại hỏi:

Khương Hoàng Nhân xử thế nào?

Quang Phụng ngự tâu:

Bẩm Chúa Công, Khương Hoàng Nhân xử tử Điền Phi nhưng các tướng khuyên can mãi xin tội cho Tử Điền Phi mới khỏi tội chết, Tử Điền Phi hứa lấy công chuộc tội.

Ân Trụ Vương quát:

Đồ con chuột mà dám ăn thịt con voi.

Sùng Hầu Hổ nói:

Quét sạch chúng đi dám đụng đến gan Trời.

Ân Trụ Vương quát:

Truyền lệnh ta, quét sạch, giết sạch, đốt sạch, phá sạch, vét sạch.

Ân Trụ Vương giận cá chém thớt quát tháo:

Đêm mấy con mọi Nam quăn cho rắn cho cá ăn.

Thế là những cô gái quê vô tội làm mồi cho cá sấu cho mãng xà chết thê chết thảm.

Đây nói về Mai Thúc là người hiểu lý lẻ vô tình nói ra một câu:

Việc xâm lược nước người đã sai rồi, nay lại tàn sát những người vô tội, Chúa Công cũng hơi quá đáng.

Không ngờ lời nói nầy lọt đến tai Ân Trụ Vương liền cho người bắt Mai Thúc đem ra phanh thây xẻ thịt vô cùng thê thảm. Ân Trụ Vương là tay độc ác thuộc hàng bậc nhất, khắc tiếng tàn bạo, ai xúc phạm đến uy danh phản đối phê bình thời bị xử tử ngay không cần biết đến nhân quả, đúng sai chi cả, thấy việc làm tàn độc của Ân Trụ Vương các Trung Thần không khỏi nhìn mặt nhau mà than thở.

* * *
 
PHẦN 56

Lúc bấy giờ ở Nam Kinh Xích Quỷ, Hùng Tiên Lang Quốc Vương đang cầu nguyện Đức Cha Trời, Long Hoa Cửu Huyền, Lạc Long Quân cùng Hồn Thiên dân tộc hộ trì chính nghĩa giúp quân Văn Lang đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi đất nước, bảo vệ chủ quyền Độc Lập, Thiên Hạ thái bình an lạc như các thời Vua Hùng Tiên Đế trước đây.

Bỗng có quan giám sát vào báo:

Bẩm Quốc Vương quân ta đại thắng tại thành Đông Giang Châu, tiêu diệt hơn 10 vạn quân Ân, tướng lĩnh đi tiêu hơn chục mạng, 5 vạn quân còn lại tả tơi lê lết cùng đường trông thê thảm quá.

Hùng Tiên Lang Quốc Vương khen nói:

Quân ta khá lắm.

Liền cho quan Ngự Sử ghi vào sổ công đức, công lao cứu Quốc.

Đây nói về Quốc Sư Cao Hầu Vương xem thiên văn, thấy khí số phương Nam nước Văn Lang còn kéo dài gần nghìn năm nữa mới chuyển sang giai đoạn âm u, tuy lúc nầy ánh sáng Hồng phúc phương Nam mờ đi rất nhiều nhưng không hiểu vì sao lại như thế. Nhìn về hướng Bắc thấy yêu khí cuồn cuộn bốc lên tận mây xanh liền co tay bấm độn nhập thiền, thời biết Ân Trụ Vương đang thảm sát những cô gái vô tội lại phán truyền những lời độc ác đối với con cháu Văn Lang.

Thời than rằng: Quả là một Chúa Tinh ác độc, tiếp tục nhập thiền xem xét khí số nhà Ân thời còn hưng thịnh 32 năm nữa mới mất, ôi mệnh trời khó cải, khó mà giết tên hôn Quân vô Đạo nầy.

Hùng Tiên Lang Quốc Vương cho mời Cao Hầu Vương đến nói:

Quốc Sư hãy bấm độn xem quân ta hiền hung ra sao trước một thế lực hơn ta gấp ba lần.

Thấy Quốc Vương lúc nào cũng lo lắng cho quân binh. Lo lắng cho non sông Tổ Quốc cho muôn dân xã tắc. Long thể giảm sút, liền tâu rằng:

Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Nếu chúng ta không có Bảo Kiếm Trấn Quốc. Thời cũng khó mà chống trả trước sức mạnh của giặc hơn ta gấp ba lần. Nhờ có Bảo Kiếm Trấn Quốc quân Ân sẻ bị đánh tan tành, khó còn mạng mà trở về. Quốc Vương Bệ Hạ cứ yên tâm. Chờ tin chiến thắng khắp nơi báo về.

Hùng Tiên Lang nói:

Ta cũng mong như thế.

Và quả đúng như vậy. Mấy ngày sau tin chiến thắng dập dồn đổ về thành Xích Quỷ vang dội liên miên, Hết chiến thắng nầy, đến chiến thắng khác.

Nào là quân Ân đại bại, ở khúc sông Lạc Cội, rừng Lạc Hồn Lạc Giao Châu. Đi tiêu 20 vạn quân, thiêu rụi hơn 2 nghìn chiến thuyền, xác giặc đầy sông chật bãi, làm mồi cho quạ cho cá cho tôm.

Nào là quân Ân thất thủ tại rừng Hổ Mang Lau Sậy, đi tiêu 2 vạn quân, Ngạc Sùng Văn phó thống soái bỏ mạng.

Nào là Tây Giang Châu quân Ân bật gọng chôn vùi hơn 12 vạn quân, tương tá quan binh hồn chầu địa phủ.

Nào là Dương Giao Châu, Kiến Giao Châu, Rừng Hà Lâm. Đã bị quân ta hạ gục xóa sổ gần 30 vạn quân, không một người sống sót.

Nào là eo Dạ Loan Châu khúc sông Bạch Đằng Giang, đi tiêu 15 vạn quân Ân, 1500 chiến thuyền, tướng tá quân binh đi chầu âm phủ, không còn một mạng sống sót.

Nào là đại phá quân Ân, tại Quế Giang Giao Châu. Địa phận núi Ngũ Chân, Núi Tượng, U Minh Hạ 20 vạn quân Ân không còn một tên chạy thoát.

Nào là Đại phá quân Ân, nơi rừng Lâm Nguy, địa phận Xích Linh Giao Châu, chấn động Nam Bắc, quét sạch gần 30 vạn quân. Vi Tử Điển chạy thục mạng qua ba lần thoát chết và còn nhiều trận vẻ vang khác nửa.

Hùng Tiên Lang Quốc Vương. Hết ngày nầy, sang ngày khác, tin vui dồn dập. Có thể nói bội thu tin chiến thắng, không còn gì vui sướng hơn. Quân Ân khiếp đảm co cụm về một chỗ, không còn đủ sức để tấn công nửa.

Hùng Quốc Vương hỏi:

Theo ý Quốc Sư thời ta phải làm sao? Ở vào tình thế nầy.

Cao Hầu Vương nói:

Thừa thắng xông lên tiêu diệt tận ổ của chúng. Chúng ta dốc toàn lực lượng đánh cho chúng một trận nên thân. Tiêu diệt tất cả các cánh quân giặc. Đã dẫm chân lên đất nước Văn Lang.

Hùng Quốc Vương hỏi:

Chúng ta sẽ tấn công vào ngày nào.

Cao Hầu nói:

Vào ngày 23 tháng 9 (Tức là cách đây 3141 năm. Năm Mậu Thân). Ngày nầy là ngày kinh hồn khiếp vía của chúng. Trừng trị cái tội xâm lăng ngông cuồng tàn bạo. Không còn dòm ngó đến phương Nam chúng ta nửa. Tình thế đã nghiêng phần thắng về mình. Vì vậy chúng ta không cần phí 10 vạn quân bảo vệ Nam Kinh Xích Quỷ nửa, dồn hết lực lượng cho cuộc tấn công phản kích quan trọng nầy. Có thể đưa quân chinh phạt đất Bắc. Trừ đi mối hậu họa về sau.

Hùng Tiên Lang nói:

Làm theo ý của Quốc Sư vậy.

Thế là một cuộc triệu tập khẩn cấp hầu hết các thủ lỉnh, tướng Vương của các cánh quân, cấp tốc về Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ để họp.

Hùng Tiên Lang Quốc Vương dậy sớm hơn mọi khi. Có lẽ suốt đêm không ngủ, vì sáng mai có cuộc họp quan trọng. Cuộc họp đi vào lịch sử của dân tộc, suốt hơn 1800 năm Dựng Nước và Giữ Nước. Cuộc họp trọng đại ấy, mở ra vào ngày 14 tháng 9 năm Mậu Thân. Trước công nguyên 1133 tại Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ. (Tức là cách đây 3141 năm trước và sau công nguyên).

Bình minh ló dạng, tiếng chim ríu rít, rộn rã trên cành. Ngọn gió ngọt ngào làm rung rinh cành cây kẽ lá. Non xanh nước biếc ngâm mình trong nắng ấm ban mai. Những đám mây vội vã kéo đi, làm lộ rõ bầu trời thăm thẳm tận đâu đâu. Dưới đất trên nẻo đường quê hương, những con ngựa chiến, vùn vụt lướt nhanh trên đường dài, nhắm Kinh Đô Xích Quỷ lao tới. Họ là ai? Còn ai nửa, đó là những thủ lĩnh Tướng Vương, của các cánh quân vội vã về Nam Kinh Xích Quỷ để họp.

Thấy các Tướng Vương có mặt đông đủ. Hùng Tiên Lang Quốc Vương đi ngay vào vấn đề chính:

Thời cơ đã đến. Quân Ân đã bị chúng ta chặt đứt cả tay lẫn chân, co cụm cựa quậy hết nổi. Vì thế chúng ta thừa thắng xông lên, đâm thẳng vào tim xâm lược của chúng. Kết thúc trận chiến, đưa bầy sói dữ sang bên kia Thế Giới Địa Ngục. Bảo vệ chủ quyền Độc Lập, thái bình an lạc muôn năm. Chúng ta đồng loạt tấn công vào các doanh trại của giặc đóng quân trên đất nước chúng ta. Vào ngày 23 tháng 9 ngày tận số của quân xâm lược. Đã bước chân lên đất nước chúng ta. Thời không còn mạng để trở về.

Cuộc họp ấy kéo dài hơn nửa ngày mới kết thúc. Các Thủ Lĩnh vội vã trở về nơi ba quân tướng sĩ. Chuẩn bị chu đáo cho cuộc phản công quét sạch quân thù.

Hùng Tiên Lang Quốc Vương cho gọi người con lớn là Điền Điền Lang. Cha của Diệp Lang đến dạy bảo:

Theo cuộc họp sáng nay con đã biết. Tình thế thay đổi, con mau chóng thống lĩnh 10 vạn quân. Rời khỏi Hợp Giao Châu, đến Lạc Giao Châu, hiệp với quân Huỳnh Trung Phong, theo kế sách cuộc họp mà tiến hành. Tuân lệnh.

Đây nói về Vi Tử Khải, thất bại ê chề ở Lạc Giao Châu. Khúc sông Lạc Cội, rừng Lạc Hồn, đi tiêu 20 vạn quân, 2000 chiến thuyền. Lúc nào cũng rầu rĩ, chỉ còn biết nghe theo làm theo lời của Mao Ly Hương. Mao Ly Hương là tay dâm ác. Độc địa vô cùng, không có việc gì là không dám làm. Lúc nào cũng mơ mộng làm chủ nước Văn Lang. Vi Tử Khải thất bại nặng nề. Làm vỡ mộng của Mao Ly Hương. Lại thêm Mao Toại bị quân Văn Lang phanh thây xẻ thịt. Mao Ly Hương tức muốn vỡ tung lồng ngực. Lòng căm thù ăn tươi nuốt sống quân Văn Lang. Quyết trả thù cho bằng được, bất kể đó là thủ đoạn gì. Bằng cho người lùng sục trong dân. Cướp lấy 20 trẻ sơ sinh 10 trai 10 gái giao nạp cho thầy là Ác Độc Yêu Bà.

Ở núi Âm Trì, Động Âm Hồn, chưa có ai tới đây mà còn sống sót trở về. Trừ một người duy nhất đó là Mao Ly Hương. Đệ tử ruột của Ác Độc Yêu Bà.

Đây nói về núi Âm Trì nằm xen lẫn với bao ngọn núi khác. Sương mù quanh năm, có nhiều sơn hào quí hiếm. Nhưng ai tới đây thời không còn trở về nửa. Tiếng đồn núi dữ nên ít ai dám mò tới. Thế mà hôm nay có người mò đến cỡi con ngựa phi nước đại lao đi vùn vụt về núi Âm Trì, Động Âm Hồn. Hình như chở hai cái giỏ lớn ở hai bên lưng ngựa. Không ai ngờ được người ngồi trên lưng ngựa kia, là một cô gái tuổi khoảng độ 23 – 24 xinh đẹp khiêu gợi vô cùng. Nhìn thân hình tròn chắc mông đầy, lưng ong, ngực nở. Làng da trắng nuốt, gợi cảm đến bốc lửa.

Nhất là những tay háo sắc thời phải chết mê chết mệt. Sẻ bị cô Ả hốt hồn. Cô đến đây để làm gì? Cô tìm ai. Qua bao sườn dốc heo hút cheo leo và cuối cùng cô cũng đến một phong cảnh hết sức huyền bí. Không những hoang vắng lạnh lẽo. Mà nơi đây xương người, sọ người chất đống khắp nơi, ai nhìn thấy cũng phải ớn lạnh rờn rợn trong người. Sương mù dày đặc, tiếng ngựa lộc cộc mỗi lúc một sâu vào Âm Hồn Cốc. Cuối cùng cô đã đến một hang động. Đó là Động Âm Hồn.

Bỗng cô lên tiếng gọi:

Sư phụ, Sư phụ. Con là Mao Ly Hương về thăm Sư phụ đây.

Tức thời một luồng âm phong lạnh lẽo đen nghịt xuất hiện, làm các bay đá chạy con ngựa khiếp sợ run rẩy. Luồng âm phong tan biến, xuất hiện một Lão Bà xấu xí. Như mụ Phù Thủy ác Quỷ, gớm ghiếc vô cùng. Ác Bà nguyên là con Hồ Tinh bảy đuôi. Tu luyện thành người. Nhưng vì luyện công bất cẩn tẩu hỏa nhập Ma. Kinh mạch biến dạng. Từ một con Yêu Nữ xinh đẹp, biến thành Bà Cụ già xấu xí. Không những thế gặp ánh sáng mặt trời, thân mụ Yêu Tinh đau đớn vô cùng.

Nếu Bà tìm được 20 trẻ sơ sanh. 10 trai 10 gái. Bà không những luyện được ÂM DƯƠNG Yêu Thuật Thần Thông vô cùng lợi hại. Mà còn trẻ đẹp lại hơn xưa. Khêu gợi còn hơn cả Mao Ly Hương.

Mao Ly Hương thấy Sư phụ hiện ra, liền chạy đến ôm Bà khóc lóc. Kể lể hết chuyện nầy sang chuyện khác:

Quân Văn Lang hiếp con quá, chúng giết Sư huynh con, còn chà đạp lên danh dự của Sư phụ.

Ác Bà quát:

Chúng nói gì?

Mao Ly Hương nói:

Chúng nói con mụ Hồ Tinh bảy đuôi mà đến gặp chúng, thời chúng lột da cho chó nuốt.

Ác Quỷ Yêu Bà nghe xong tức đến nổi miệng gầm gừ liên tục. Hai con mắt tóe lửa, phát ra ánh sáng xanh lè, thấy mà rợn người.

Ác Bà hằn học tức tối kể:

Ta là con cháu nhiều đời của Cửu Tinh Hồ Tổ. Hồ Tổ bị quân Văn Lang con cháu Tiên Rồng sát hại tại hang Âm Trì Núi Đá, đầu Địa Long Vũ Trụ. Cách đây gần 2 nghìn năm. Họ hàng nhà Chồn, Cáo chết thê chết thảm hàng vạn mạng. Cầm đầu 100 bộ Lạc. Chiếm lấy Địa Long Vũ Trụ. Mộc Tổ, Ngư Tổ, Hồ Tổ bị con cháu Tiên Rồng quét sạch. Cũng vì ta nóng lòng trả thù. Dẫn đến luyện công đảo ngược, suýt nửa thời mất mạng khí huyết chạy ngược đau đớn vô cùng biến ra hình dạng thế nầy. Kỵ ánh sáng nên ta mới ở mãi trong Động Âm Hồn cả nghìn năm. Theo lời Chúa Tinh Tổ Tổ. Muốn trả thù cho các loài Yêu Tinh. Chỉ còn cách là đầu thai vào loài người, ngự trị loài người, sát hại chúng. Làm cho máu chảy thành sông, thây chất thành núi. Chúng ta trở thành Yêu Người, Quỷ Người làm chủ Vũ Trụ. Và ta đã thấy lời dạy của Chúa Tinh Tổ Tổ hiệu quả vô cùng. Hiện giờ hàng vạn vạn Yêu Tinh đã đầu thai làm người đang ra sức phò Chúa Tổ và con là một trong số Yêu Tinh đó. Cái Lão Hùng Vương con trời đã về trời từ lâu nhưng nền Quốc Đạo của Lão vẫn còn hùng mạnh nơi chốn nhân gian, làm cho muôn loài Yêu Tinh khốn khổ, ta nhìn về phương Nam thấy ánh sáng Văn Hóa Tiên Rồng đã lu mờ, đây là cơ hội cho ta tiêu diệt chúng nhưng ta đã hết cách để tiêu diệt chúng vì ta kị ánh sáng mặt trời, nếu ta kiếm được…

Ác Bà bỗng im lặng và bà đánh hơi có mùi trẻ sơ sinh. Mao Ly Hương biết sư phụ đã phát giác ra trẻ sơ sinh liền thưa:

Con đã tìm thấy mà cái sư phụ cần rồi.

Ánh mắt bà sáng lên, bà hỏi:

Ở đâu?

Mao Ly Hương chỉ hai giỏ xách lớn:

Ở hai bên hông ngựa kia kìa.

Ác Bà phất tay một cái, tức thời hai các giỏ lớn rời khỏi lưng ngựa bay đến trước mặt Bà, hai con mắt Yêu Tinh chòng chọc nhìn vào hai cái giỏ lớn, cười lên the thé như quỷ hú ma tru, rờn rợn nổi da gà, có lẽ mụ Yêu Tinh thích thú quá liền hiện nguyên hình là con Hồ Tinh cái bảy đuôi, to lớn như Bò Mộng, nanh vuốt sắc nhọn dài thòng thấy mà phát khiếp.

Mao Ly Hương nhìn con Chồn cái bảy đuôi không hề khiếp hoảng mà cô còn thấy thích thú trước sự xuất hiện nầy, cô nhìn con Hồ Tinh bảy đuôi như nhìn người thân lâu đời lâu kiếp, mỗi lần Hồ Tinh quật đuôi là mỗi lần gió nổi ầm ầm, Hồ Tinh vồ tới hai cái giỏ lớn biến mất.

Mao Ly Hương từng sống ở đây với một thời gian khá lâu nên cảnh ăn thịt người không lạ lùng gì đối với cô cả, nhìn những bộ xương người chồng chất những chiếc đầu lâu trắng hếu rải rác khắp đó đây, không những cô không sợ hãi mà còn đá tới đá lui một cách thích thú, đúng là thầy nào trò nấy tàn sát con người chính là thú vui.

Thầy nào trò nấy có khác chi

Yêu Tinh ác Quỷ, Đức Thiện gì

Có lợi cho mình cha cũng giết

Thỏa cơn thèm khác nuốt con đi

Trẻ thơ con nít là món nhấm

Uống máu ăn người chuyện bình thường

Vốn loài yêu Quỷ tàn bạo ác

Hại người cứ hại thiện cần chi.

Qua mấy ngày sau nơi Động Âm Hồn những tiếng động ầm ầm liên tiếp xảy ra, bỗng từ Động Âm Hồn, âm phong một đen một trắng tỏa ra mù mịt bao phủ một vùng rộng lớn, nổ lốp bốp như lúa rang vô cùng quái lạ, đó chính là sự thành tựu của Âm Dương yêu thuật thần công, nơi nào có hai luồng quái phong phủ đến thời nơi đó không còn con vật nào sống sót kể cả cây cỏ.

Mao Ly Hương chứng kiến cảnh tàn phá khủng khiếp của yêu thuật Thần Công thời kinh hãi khiếp sợ đến ngơ ngẩn cả người. Hai luồng yêu thuật biến mất, liền xuất hiện một người con gái xinh đẹp, tuổi độ 21 – 22 ai nhìn thấy cũng phải mê, có lẽ từ đây về sau những kẻ háo sắc sẽ bị con Hồ Tinh cái nầy ăn tươi nuốt sống.

Mao Ly Hương, Mao Ly Hương giọng nói thanh tao ngọt ngào như mật rót vào tai. Mao Ly Hương nhìn người con gái mới xuất hiện đẹp đến nổi lóa cả mắt những đường nét gợi cảm, khích dục bốc lửa thu hút đến kỳ lạ.

Mao Ly Hương chạy tới nói:

Sư phụ đó sao?

Yêu nữ nói:

Không phải ta thì còn ai nữa. Ta đã luyện được yêu thuật Thần Công có thể trả thù được rồi một mình ta đối với trăm vạn quân cũng chỉ là con gà con chó mà thôi.

Mao Ly Hương vô cùng mừng rỡ nói:

Sư phụ giúp con tiêu diệt quân Văn Lang chứ?

Mụ yêu tinh nói:

Dĩ nhiên rồi, không những giúp con trả thù mà còn giúp quân Ân quét sạch nhà nước Văn Lang mới hả cơn giận của ta, bao nhiêu năm khốn khổ nơi âm Hồn Cốc.

Mụ Yêu Tinh nói:

Con về trước đi sư phụ tới sau.

Mao Ly Hương từ biệt Yêu Nữ phi ngựa xuống núi, sắc mặt đầy vẻ hân hoan nhưng cũng không che hết tâm hồn độc ác đầy tham vọng của con Yêu Nữ đội lớp người.

Đây nói về Vi Tử Khải, đặt hết niềm tin vào Mao Ly Hương, chuyển xây tình thế đang lâm vào bế tắc, có thể nói là rơi vào cảnh khốn khổ nhưng Mao Ly Hương đã đi hơn 10 ngày mà sao chưa thấy trở lại.

Vi Tử Khải lẩm bẩm: Được hay không được cũng phải trở lại chứ hay là cô ta bỏ đi luôn rồi, ta biết phải làm sao đây.

Vi Tử Khải đang bối rối lo lắng thời có quân vào báo:

Phu Nhân đã về.

Vi Tử Khải mừng quá như người sắp chết đuối gặp chiếc phao vội vã chạy ra đón Mao Ly Hương hỏi dồn hỏi dập:

Thế nào có thỉnh được sư phụ không?

Mao Ly Hương nở nụ cười tươi như hoa:

Thiếp đã mời được sư phụ đến giúp rồi, ngày tận số của chúng đã đến, nước Văn Lang sẽ thuộc về hai chúng ta.

Vi Tử Khải nhìn quanh, nhìn quất nào có thấy ai đâu, sanh nghi hỏi:

Sư phụ đâu?

Mao Ly Hương làm mặt giận nói:

Vương Gia không tin thiếp sao.

Vi Tử Khải nói:

Đâu có, đâu có vì ta không thấy sư phụ nên hỏi đó thôi.

Mao Ly Hương nguýt Vi Tử Khải cặp mắt liếc ngang sắc lém nói:

Với cái bệnh thấy gái đẹp là chết ngộp nếu gặp sư phụ của thiếp thời còn hồn đâu nữa mà làm Vua nước Văn Lang.

Vi Tử Khải bây giờ mới thở phào nhẹ nhõm. Bỗng nghe mùi hương nứt mũi pha lẫn nhau mùi hơi Chồn, thình lình xuất hiện một tuyệt sắc giai nhân. Vi Tử Khải nhìn sửng chết mê chết mệt, bị thu hút bởi ma lực hấp dẫn của thân hình đều đặn căng phồng tràn trề nhựa sống.

Nàng là ai sao nàng xinh đẹp quá

Như bình minh sáng chóa cả trời xanh

Nàng là Tiên hay một ả Yêu Tinh

Nhìn vóc dáng một thân hình bốc lửa

Pho tượng người lung linh đầy gợi cảm

Ôi nhấn chìm hết thảy bậc đàn ông

Ôi làm nở hết thảy vạn mùa xuân

Những con Chiên sùng bái mãi dưới chân.

Mao Ly Hương thấy người mới xuất hiện, mừng rỡ chạy đến nắm tay nói:

Sư phụ, sư phụ.

Vi Tử Khải đang say sưa ngắm nhìn thân hình căng nhựa sống, có sức thu hút đầy ma lực không sao kiềm chế lòng nổi.

Vi Tử Khải nghe Mao Ly Hương gọi người mới xuất hiện bằng sư phụ thời giật mình kinh hãi, không dám nghĩ ngợi lung tung nữa, lấy lại bình tỉnh chấp tay thi lễ nói:

Bổn Vương ra mắt Tiên Cô.

Vị Tiên Cô ấy lạnh nhạc chẳng đáp lễ chi cả, hình như coi Vi Tử Khải chẳng ra gì. Vi Tử Khải thấy thái độ lạnh nhạc đối xử của vị Tiên Cô mới đến đối với mình chẳng khác gì kẻ hầu người hạ thời lấy làm tức lắm nhưng ráng dằn lòng không để lộ sự bất mãn ra mặt thời sẽ hỏng việc lớn.

Vi Tử Khải làm ra vẻ kính trọng:

Mời Tiên Cô vào lều an nghỉ.

Vi Tử Khải ngự trên một chiến thuyền to lớn như một biệt thự trên đất liền, có một căn lều lớn là nơi hội các quan tướng, mụ Yêu Tinh được coi như là thượng khách, một người tối quan trọng cho cuộc xoay chuyển thế cờ, đánh bại quân Văn Lang chiếm lấy Nam Kinh Xích Quỷ.

Không để cho Vi Tử Khải chờ đợi lâu, mụ đi ngay vào vấn đề chính. Mụ Yêu Tinh nói:

Ta ở trên mây nghe ngóng xem xét tình hình, thời quân Văn Lang sắp tấn công chúng ta, chậm lắm là 3 – 4 hôm nữa là cùng.

Vi Tử Khải lấy làm kinh hãi nói:

Quân ta chỉ còn 10 vạn quân, 300 chiến thuyền, 5 vạn quân bộ binh, 5 vạn quân thủy chiến làm sao chống cự lại.

Mụ Yêu Tinh nói:

Cần gì đến 10 vạn quân, chỉ cần đến 5 vạn là đủ, lần nầy gặp ta chúng chết chắc không còn một tên, nếu thành công chiếm lấy nước Văn Lang, nhớ dâng nạp trẻ con cho ta hàng năm.

Mao Ly Hương nói:

Đó là điều mà đệ tử phải làm, miễn là sư phụ đánh bại quân Văn Lang.

Mụ Yêu Tinh nói:

Điều đó con khỏi lo.

Vi Tử Khải nghe đến ăn thịt trẻ con thời ớn lạnh nổi da gà, trời không lạnh mà run, không còn dám mơ tưởng đến cái thân đẹp đẻ đầy ma lực đó nữa vì sợ ả ăn thịt luôn cả mình. Mụ Yêu Tinh được đưa tới một chiếc thuyền sang trọng sạch sẽ, có nhiều tên lính phòng vệ, đầy đủ tiện nghi, sơn hào hải vị, món ngon vật lạ dâng lên hầu hạ, nhưng mụ Hồ Tinh nào thích những món nầy hoặc là gà sống hoặc là thịt người, mụ ngửi ngửi sơn hào hải vị rồi cho dọn đi.

Không hiểu trời xui đất khiến hay là Mao Ly Hương hiểu ý sư phụ, chọn những miếng mồi béo bở, đó là những tên lính còn trẻ sung mãng sức lực, tinh khí tràn trề da đầy thịt nở. Mụ nhìn thấy mấy chục tên như thế thèm muốn nhỏ dãi, mụ nhìn thấy một tên rất ưng bụng liền cho hầu nữ gọi tên ấy vào, thế là tên lính trẻ sung mãn được gọi vào.

Mụ nói với mấy đứa hầu nữ:

Các ngươi ra khoan sau hết đi, khi nào cần ta gọi.

Tên lính bước vào căn phòng sang trọng dành riêng cho phụ nữ, thời đã choáng ngộp rồi huống chi nhìn thấy một thứ mà hồi giờ chưa từng thấy, đó là một nàng Tiên, trên người chỉ là y phục đồ tắm, tên lính sửng sốt chết mê tại chỗ, y muốn nhào đến ôm chầm lấy thân hình khiêu gợi bốc lửa, mông đầy, lưng ong, ngực nở, da trắng mịn như trứng gà bóc vỏ, trong ngọc trắng ngà, mặt như hoa mới nở, rực rỡ như phù dung cọng thêm mùi hương quyến rủ của loài hoa chuyên ăn thịt người.

Tên lính mê mẩn cả người lao vào ôm lấy thể xác của mụ Yêu Tinh. Mụ đẩy nhẹ tên lính ra nói:

Vội gì tối nay vào lúc canh ba vào đây hầu ta.

Tên lính tưởng mình nghe lầm ngơ ngác, mụ Yêu Tinh thấy thế nhắc lại:

Tối nay lúc canh ba vào đây hầu ta.

Tên lính thấy thân người như muốn nổ tung, như uống phải một ly rượu mạnh cháy cả ruột gan. Bước ra khỏi căn phòng sang trọng tên lính như kẻ mất hồn, lúc nào cũng nóng ran cả người, ai hỏi gì cũng không nói, cứ nhìn mặt trời sao hôm nay trời lâu tối thế, không muốn ăn uống chi cả.

Thời gian nào có theo ý của ai, nó từ từ trôi qua mặt trời đã lặng, trên bầu trời lỏi rỏi những vì sao, tiếng sóng vỗ lao xao vào mạn thuyền làm trỗi dậy cảnh nhạc buồn, lăng lỏi vào tâm hồn những kẻ xâm lược, tương lai còn mờ mịt như những giọt sương nhen nhúm qua đêm, những cuộc đời ngắn ngủi khi ánh thái dương xuất hiện nhưng tên lính nào quan tâm đến cảnh vật, bởi ám ảnh một thân hình quyến rũ lôi cuốn đến mê người.

Dưới ngọn đèn mờ lung linh huyền ảo, một thân hình bốc lửa đang chờ đợi, tiếng chân dồn dập đi tới, mụ Yêu Tinh nở nụ cười khoai khoái con mồi đã đến, tên lính vội vã bước vào căn phòng, gã như điên như dại vì trước mắt gã là mùa xuân của muôn hoa, mật ngọt ập tới, mùi hương xông vào mũi, đóa hoa rung rinh như mời mọc, cuốn hút con ong, tên lính lao nhanh tới ôm chầm lấy thân hình của mụ Hồ Ly, cánh tay Hồ Ly ôm chầm lấy tên lính, bất ngờ vuốt nanh của mụ mọc ra dài thòn, sắc nhọn bốp chết tên lính, mụ liền hiện ra con Quỷ Dữ những chiến nanh sắc nhọn ngoạm vào tên lính như ngoạm vào cục nhừ.

Không bao lâu thời mụ chén sạch sành sanh, chỉ còn lại bộ xương cùng cái sọ đầu lâu trắng hếu, mụ gom chúng bỏ vào một xó dùng chăn mền phủ lại đánh một giấc ngủ tới sáng và cứ thế đêm nào cũng ăn thịt một tên háo sắc, xem mụ càng ngày càng đẹp ra.

Những tên háo sắc họa dường bao

Kết cuộc thảm thê xuống âm tào

Vóc ngọc mình ngà là chi rứa

Yêu Tinh biến hóa thuật yêu cao

Hôi tanh nhơ nhớp nào ai biết

Mê si lặn hụp mãi bám vào

Mất mạng ô danh con đường chết

Chỉ người giác ngộ, thoát chiêm bao.

* * *
 
PHẦN 57

Đây nói về Ngạc Sùng Cảnh ra quân thua liền 5 trận, đi tiêu hơn 40 vạn quân, những cú sốc liên tiếp ập đến làm cho Ngạc Sùng Cảnh quỵ xuống đứng lên không nỗi nữa, cũng may nhờ Hồ Ma Yêu cứu mạng, hiện giờ trong tay còn chỉ lại hơn 10 vạn quân các tướng tài đều bỏ mạng tại sa trường. Ngạc Sùng Cảnh giờ đây nhìn mỹ nhân như nhìn khúc gỗ, không nghe mùi nghe vị gì nữa. Nhìn món ngon vật lạ, sơn hào hải vị món nào cũng thấy đắng, nhìn kỹ nữ múa hát như nhìn con rối nhảy lung tung.

Hồ Yêu Ma thấu hiểu tâm trạng của người tuyệt vọng liền nói:

Bẩm Thống Soái. Tôi có hai người bạn thân quen. Thần thông Pháp thuật vô biên. Nếu mời được hai người nầy ra giúp, thời lo gì quân Văn Lang không bị đánh bại. Nước Văn Lang sẽ thuộc về chúng ta.

Man Công nói:

Bẩm Thống Soái nếu cầu được thầy tôi xuống núi. Thời dù có trăm vạn quân cũng khó mà toàn mạng, huống chi vài chục vạn quân Văn Lang.

Ngạc Sùng Cảnh như người chết đuối vớ được phao, như cây sắp chết héo gặp mưa rào, tia sáng hy vọng đã hiện ra.

Ngạc Sùng Cảnh mừng rỡ nói:

Làm thế nào mời được những con người tài ba xuất chúng nầy.

Hồ Ma Yêu nói:

Việc nầy để tôi lo liệu cho.

Ngạc Sùng Cảnh lại nói tiếp:

Còn thầy của Man Lão Sư làm sao tôi cầu được?

Man Công nói:

Thống soái phải tìm cho ra mười cặp, đực cái chuột trắng và một đôi trống mái chim Trĩ Trắng.

Ngạc Sùng Cảnh nghe xong thì lắc đầu thở dài nói:

Tìm cho ra mười cặp đực cái Chuột Trắng đã khó lắm rồi. Thời gian lại quá gấp, huống chi là cặp chim Trĩ Trắng trống mái.

Bỗng có người lên tiếng:

Bẩm Thống Soái. Quê nhà thuộc hạ có nuôi Chuột Trắng.

Người lên tiếng ấy chính là đội trưởng của đội mật thám. Ngạc Sùng Cảnh mừng rỡ nói:

Nhờ Tướng quân tìm giúp cho. Tuân lịnh.

Ngạc Sùng Cảnh hỏi:

Man Lão Sư thiếu cặp trống mái chim Trĩ Trắng có được không?

Man Công nói:

Không thể được.

Ngạc Sùng Cảnh thất vọng vậy phải biết làm sao. Chim Trĩ trắng là loại chim quí hiếm. Ít ai thấy chớ đừng nói đến tìm bắt chúng. Thấy vẻ mặt đầy thất vọng của Ngạc Sùng Cảnh.

Man Công nói:

Điều nầy thời tôi có thể làm được, vì tôi vô tình phát hiện ra chỗ ở của chúng.

Ngạc Sùng Cảnh vô cùng mừng rỡ nói:

Xin Lão Sư giúp cho.

Man Công nói:

Tôi sẽ cố gắng, còn bắt được hay không thời chưa hứa được.

Nói xong nhảy lên không đằng vân bay mất. Ngạc Sùng Cảnh thấy hai Lão quái vật nhảy lên không bay đi mất thời kinh hãi nói:

Trời giúp ta, Trời giúp ta.

Niềm tin chiến thắng nổi lên. Ngạc Sùng Cảnh nhìn về phương Nam nói:

Là đất của nhà Ân.

Đây nói về Hồ Ma Yêu. Nhảy lên không trung, nhắm hướng Đông Bắc đằng vân bay đi thời thấy xa xa mây đen mù mịt bao phủ một vùng rộng lớn. Cuồng phong nổi dậy ầm ầm, các bay đá chạy cây cối đổ ngã. Chim muôn vạn thú khiếp kinh. Đúng là ngọn gió Hắc phong rồi. Chuộc Đệ chắc là ở đây. Quả đúng như vậy. Hồ Ma Yêu từ trên mây đáp xuống. Thấy Chuột Tinh đang luyện Hắc Phong Công. Một loại Yêu Công vô cùng lợi hại. Ai bị Yêu Công thổi trúng là mù cả hai mắt, sau đó ba ngày là chết. Thần tiên cũng khó mà chống lại ngọn gió độc lợi hại nầy.

Chuộc Tinh nhìn thấy Hồ Ma Yêu tới liền thâu ngọn gió Hắc Phong lại hỏi:

Nghe nói Lão Huynh ra phò Chúa Tinh Tổ Tổ chinh phạt Nam Phương, sao còn rảnh rỗi tới đây?

Hồ Ma Yêu thở dài nói:

Quân Nam Văn Lang quả nhiên có chút tài. Một mình Huynh đánh không lại. Nên mới tìm đến hai Đệ cầu cứu. Ủa Dơi Đệ không có ở đây sao?

Bỗng trên không có tiếng nói:

Huynh tới lúc nào thế?

Thì ra trên không trung xuất hiện một con Dơi khổng lồ. Mỗi lần quật cánh là gió dậy ầm ầm các chạy đá bay, cây cối đổ ngã. Luồng Siêu âm từ đầu con Dơi khổng lồ phát ra. Ai bị quét trúng tức thời ngã lăn ra trào máu mà chết. Thần Tiên cũng phải tránh xa không dám tới gần.

Hồ Ma Yêu là con cáo già thành Tinh, Mưu mẹo khôn khéo hơn Chuột Tinh và Dơi Tinh. Hồ Ma Yêu nói:

Lâu nay Huynh khâm phục tài nghệ của hai Đệ. Chỉ có hai Đệ mới đánh thắng quân Văn Lang. Nên Huynh mới tới đây cầu hai Đệ ra giúp.

Chuộc Tinh, Dơi Tinh nghe Hồ Ma Yêu tân bốc lấy làm khoái chí nói:

Huynh đã đến đây cầu cứu hai Đệ. Thời hai Đệ làm sao mà từ chối lời yêu cầu của Huynh được.

Hồ Tinh Ma Yêu mừng rỡ nói:

Cảm ơn hai Đệ.

Thế là ba con Yêu Tinh đằng vân bay đến chỗ Ngạc Sùng Cảnh.

Nhìn Ngạc Sùng Cảnh vẻ mặt hết lo âu sầu muộn. Quỳ trước bàn Hương án. Trên bàn Hương án, có cặp chim Trĩ trống mái trắng, với 10 cặp Chuột Bạch trắng. Tất cả đều còn sống.

Man Công khấn vái lâm râm, một lát sau. Bỗng trên không một vùng mây đen xuất hiện. Cuồng Phong nổi dậy ầm ầm các bay đá chạy. Tức thời những đồ cúng phẩm. Chuột trắng, chim Trĩ trắng liền bị cuốn hút lên không bay vào vùng mây đen. Hào Quang chơm chớp nổ rang kéo dài. Sau đó thời biến mất, xuất hiện một người kỳ quái. Trên đầu luôn luôn xuất hiện luồng khí đen.

Ngạc Sùng Cảnh kinh sợ quỳ lạy ra mắt nói:

Ngạc Sùng Cảnh xin ra mắt Tổ Sư.

Lão Xà Rồng Chúa Tinh phất tay một cái. Tạo ra luồng kình lực đỡ Ngạc Sùng Cảnh dậy. Ngạc Sùng Cảnh lại càng khiếp sợ trước pháp thuật Thần Thông của Xà Rồng Lão Tổ.

Man Công thấy Sư Phụ giá lâm, mừng rỡ quỳ lạy, kể lể hết chuyện nầy tới chuyện khác. Lũ quân Nam ỷ có chút tài ba coi Trời bằng nắp vung, hại chết Triệu Công Tiễn Đệ Đệ.

Chúa Xà Rồng nói:

Không phải chúng giết Triệu Công Tiễn không đâu. Mà còn giết chết Vũ Tử Như nửa.

Man Công vô cùng kinh hãi. Quân Nam Văn Lang quả nhiên lợi hại vô cùng. Nếu Sư Phụ Không giá lâm, thời khó mà trả thù, khó mà đánh bại được quân Văn Lang.

Lão Yêu Tổ Xà Rồng nói tiếp:

Ta xuống núi lần nầy. Một là lời thỉnh cầu thành tâm dâng đủ lễ của Thống Soái. Hai là trả thù cho hai Đệ Tử của ta.

Man Công nói:

Ta kéo binh đến tiêu diệt chúng.

Chúa Xà Rồng nói:

Cần gì tìm chúng cho mất sức. Cứ ở đây mà chờ, chúng nó sẻ kéo đến đây chậm lắm ba bốn bửa nửa là cùng. Cứ cho binh lính ăn no dưỡng sức để tiêu diệt chúng.

Khi ấy trên không xuất hiện vùng mây đen rồi từ từ hạ xuống. Vùng mây đen biến mất hiện ra Hồ Ma Yêu cùng hai người nửa, mặt mày quái dị vô cùng. Một người mặt Chuột một người mặt Dơi. Cũng giống như Lão Xà Rồng đầu hai con Yêu lúc nào cũng có khí đen ở trên đầu. Nhìn thấy Chúa Tinh Xà Rồng ngồi ghế cao thời tức lắm. Nhưng không lẻ gây chuyện ở đây, đành làm thinh nhưng lấy làm khó chịu. Ngạc Sùng Cảnh tinh ý, thấy sự khó chịu của Dơi Tinh, Chuộc Tinh. Liền cho người lấy hai cái ghế cao. Chỉ thấp hơn ghế Xà Rồng một tí.

Qua ngày hôm sau. Ngạc Sùng Cảnh cho mời Man Công, Hồ Ma Yêu tới nói:

Ra trận phải có Chủ Soái. Nên ta phong cho hai Lão ngôi vị Chủ Soái. Điều khiển ba quân tướng sĩ. Nếu lần nầy đánh thắng, làm chủ nước Văn Lang, thời hai Lão Chủ Soái tha hồ mà hưởng lạc.

Man Công, Hồ Ma Yêu vô cùng mừng rỡ. Mỗi người thống lãnh năm vạn quân chuẩn bị giao chiến với quân Văn Lang.

Đây nói về Khương Hoàng Nhân, đang ngồi vui vẻ, cùng các quan tướng bàn luận công lao các tướng sĩ. Và kế hoạch chỉ đạo thôn tính nước Văn Lang.

Thời có quân thám báo hớt hãi về báo:

Bẩm thống soái. Quân ta đại bại ở Dạ Loan Châu rồi, chết sạch sành sanh.

Khương Hoàng Nhân quát:

Cái gì? Ngươi nói cái gì?

Quân thám báo thưa:

Bẩm thống soái 15 vạn quân, 1500 chiến thuyền. Bị quân Văn Lang dùng hỏa công thiêu rụi hết rồi. Tất cả làm mồi cho tôm cho cá.

Khương Hoàng Nhân lấy lại bình tỉnh hỏi:

Ngươi thấy hay nghe ai nói.

Quân thám báo nói:

Bẩm thống soái thuộc hạ nghe lời đồn, không tin liền đến Dạ Loan Châu xem thử. Thời ôi thôi vô cùng thê thảm, quả thật lời đồn không sai. Tất cả quân binh tướng tá về chầu âm phủ hết rồi.

Khương Hoàng Nhân nghe xong mặt không còn chút máu lẩm bẩm: Chuyện gì đã xảy ra.

Thời có quân vào báo. Khương Hoàng Nhân linh cảm như có điều chẳng lành tiếp tục xảy ra. Quả đúng là một ngày xui xẻo hết bị đạp rồi đến bị đá. Cái nào cái nấy như Trời giáng:

Bẩm thống soái. Quân ta đại bại ở Quế Giang Giao Châu rồi. Đi tiêu 20 vạn quân chẳng còn một người sống sót. Hồn chầu Địa Phủ.

Khương Hoàng Nhân thét lớn:

Ngươi nói cái gì?

Tên lính thám báo sợ hãi nói:

Bẩm Thống Soái. Lý Hạo Thiên cùng tướng sĩ 20 vạn quân vùi chôn nơi chiến địa.

Khương Hoàng Nhân thét lên một tiếng thật lớn rồi ngã nhào ụa ra mấy ngụm máu. Sau đó không ăn không uống gì nổi nửa.

Khương Hoàng Nhân nghỉ đến cảnh Ân Trụ Vương sẻ xẻ thịt mình, khó mà tránh khỏi cái chết thê thảm. Bằng kêu Khương Hào vào nói:

Cha sẻ đi trước, để khỏi làm liên lị đến con. Con ở lại sống chết cùng với quân Văn Lang, may ra còn có con đường sống.

Khương Hào ôm Cha khóc ròng:

Cha ơi Cha, Cha không nên đi sớm như thế.

Bỗng một luồng gió lạ xuất hiện âm u lạnh lẽo. Rồi hiện ra một người, mặt trắng bệch như thây ma nói:

Ta đến đây cứu cha ngươi.

Nói xong người ấy phất tay một cái. Khai thông các huyệt Đạo bị bế tắc trong người. Làm cho kinh mạch thông suốt trở lại. Khương Hoàng Nhân ụa ra mấy cục máu bầm. Liền thấy trong người khỏe hẳn, ngồi dậy cảm ơn cứu mạng.

Lão Bạch Cốt Ma Tôn nói:

Thống Soái chưa khỏi hẳn đâu.

Liền lấy viên thuốc màu trắng đưa cho Khương Hoàng Nhân uống. Mà Lão đả bỏ nhiều công sức mới luyện thành. Kỳ diệu thay Khương Hoàng Nhân hồi phục sức lực nhanh chóng. Còn khỏe hơn hồi chưa ngã bệnh nửa là khác. Khương Hoàng Nhân biết người cứu mình là một dị nhân kỳ tài trên cõi đời.

Nên hết sức kính trọng lạy tạ ơn cứu mạng nói:

Xin ân nhân cho biết quí danh để tiện bề xưng hô cho khỏi thất lễ.

Lão nói:

Thống Soái cứ gọi ta là Bạch Cốt Ma Tôn.

Khương Hoàng Nhân giật mình không dám lên tiếng nửa. Vì Lão hiểu Bạch Cốt Ma Tôn còn đáng sợ hơn Vua Trụ gấp trăm lần.

Bạch Cốt Ma Tôn nói:

Ta có thể giúp ngươi tiêu diệt quân Văn Lang hoàn thành sứ mệnh của ngươi. Và cũng trả thù cho Đệ tử ta là Đề Cốt Ma đã bị quân Văn Lang sát hại. Ta sẽ lấy xương cốt của chúng để luyện Ma binh. Ngươi xem đây.

Nói xong Lão hét lên Ma quân hiện mau. Tức thời Ma quân hiện ra trùng trùng điệp điệp. Những bộ xương người trắng hếu, thấy mà rợn cả người.

Bạch Cốt Ma Tôn kêu bộ xương người đến rồi nói với Khương Hoàng Nhân rằng:

Thống Soái chọn người có võ công cao đấu với Bạch Cốt Ma xem sao.

Khương Hoàng Nhân liền chọn một phó Tướng có võ công cao ra đấu với Bạch Cốt Ma. Tên phó tướng múa Đao vùn vụt chém xối xả vào bộ xương, biết đi như người sống. Không ngờ Bạch Cốt Ma lanh lẹ vô cùng. Tiến lùi nhanh như một bóng Ma. Nơi miệng phát ra âm thanh ma quái làm xây xẩm mặt mày.

Lần nầy Bạch Cốt Ma không cần né tránh nửa. Đưa tay chụp lấy lưỡi Đao. Rồi lưỡi Đao liền gãy lìa. Tên phó tướng kinh khiếp. Nào để cho tên phó tướng sống sót, cánh tay Bạch Cốt Ma chụp xuống đầu tên phó tướng. Tên phó tướng chỉ còn chờ chết.

Bạch Cốt Ma Tôn quát:

Dừng tay không nên giết.

Tên phó tướng thoát chết mặt cắt không còn chút máu. Khương Hoàng Nhân kinh hãi không kém lẩm bẩm nói: Lợi hại vô cùng, lợi hại vô cùng. Quân Văn Lang cũng khó mà toàn mạng.

Bạch Cốt Ma Tôn phất tay một cái, kỳ diệu thay tất cả Bạch Cốt Ma tan biến đâu mất. Lại một lần nữa Khương Hoàng Nhân vô cùng khiếp phục. Tinh thần phấn chấn vô cùng, nghĩ đến cảnh tiêu diệt quân Văn Lang chiếm lãnh Nam Phương hoàn thành sứ mệnh.

Bạch Cốt Ma Tôn thấy Khương Hoàng Nhân lấy lại niềm tin, tinh thần phấn khởi liền nói:

Ta giới thiệu cho Tướng Soái một người vô cùng lợi hại. Đó là Muội Muội của ta. Bạch Cốt Ma Tôn Lão Bà. Điều khiển các bộ xương Bò sát bơi lội, Cầm thú, Thuồng Luồng, Cá Sấu, Khủng Long, Voi, Sư Tử, Cọp, Sói… Muội Muội xuất hiện đi.

Tức thời một luồng âm phong nổi lên, Bạch Ma Bà xuất hiện cười the thé nghe mà rởn óc. Bà nói:

Ta vốn có thù với thằng con Trời Hùng Lang. Khí số con cháu của nó đã giảm sút. Đây là lúc ta quét sạch chúng, giành lại Địa Long Vũ Trụ.

Khương Hoàng Nhân mừng quá. Mời hai vị Ma Tôn làm thượng khách cho người tiếp đãi hầu hạ tử tế.

Khương Hoàng Nhân hỏi:

Bẩm nhị vị Tổ Tổ Ma Tôn. Khi nào chúng ta tiêu diệt quân Văn Lang?

Bạch Cốt Ma Tôn hiểu ý Khương Hoàng Nhân nói:

Không cần đi đâu cả ở đây đợi chúng đến, ta làm thịt một thể, hốt trọn ổ không chừa một tên. Ta sẽ lấy xương của chúng luyện thành Bạch Cốt Ma Binh.

Khương Hoàng Nhân gọi con đến nói:

Hiện giờ ta chỉ còn 10 vạn quân. Con thống lãnh 5 vạn quân theo Bạch Cốt Ma Tổ Bà Bà. Còn Cha thống lãnh 5 vạn quân còn lại theo Bạch Cốt Ma Tôn Lão Tổ Tổ. Quét sạch quân Văn Lang chiếm lĩnh Nam Phương theo ý của Chúa Công Bệ Hạ, gồm thâu Bắc Nam về một mối.

Thế là Cha con Khương Hoàng Nhân chia làm đôi số quân còn lại chửng bị cho cuộc chiến.

* * *
 
PHẦN 58

Đây nói về Vi Tử Điển. Vượt qua bao nguy hiểm thoát chết mấy lần. Vừa qua khỏi sông Hàm Giang, cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng, sợ quân Văn Lang đuổi theo truy sát. Cuối cùng cũng đến Nam sông Trường Giang. Dọc đường binh lính kiệt sức chết thêm mấy nghìn người nửa. Vi Tử Điển nhìn binh lính kiệt sức chết nhiều quá thời lo lắng. Trước mặt ba dặm là con sông Nam Trường Giang rộng lớn. Khó mà qua nhanh cho được. Vì thuyền bè để lại nơi đây rất ít chỉ có vài chục chiếc. Chỉ có hơn nghìn quân vận chuyển lương thực dự bị nơi đây.

Vi Tử Điển thấy quân Văn Lang không truy đuổi nữa. Liền cho quân dừng nghỉ nếu tiếp tục tháo chạy nửa thời binh sĩ sẻ kiệt sức cộng thêm sự đói khác mà chết hết. Quân binh được lệnh dừng nghỉ, người nào người nấy ngã quỵ xuống đất, tưởng chừng như sắp chết đến nơi. Vi Tử Điển chỉ biết nhìn trời mà than mà thở.

Xâm lược nào ai nghĩ cảnh nầy

Bỏ chạy tháo thân thảm thê thay

Ba quân tướng sĩ phờ xơ xác

Khiếp vía hồn kinh, họa tai vây

Bỏ mạng đầy đường, ngơ ngơ ngác

Sạch quân, sạch tướng, sạch cả tay

Có ai nghĩ đến, tham là thế

Xâm lược không thành, nuốt đắng cay.

Hơn bảy nghìn quân được lịnh dừng nghỉ, quân binh ngã quỵ hàng loạt lăn đùng ra thở dốc, sau đó là thiếp luôn đi vào giấc ngủ không hay biết gì nữa. Có người ngủ luôn không dậy. Thì ra hồn đã lìa khỏi xác. Cho đến sáng hôm sau hơn 7 nghìn quân còn lại, mới lê lết đến Nam Sông Trường Giang. Hơn một nghìn ở đây ra tiếp đón. Cũng may ở đây có lương thực dự trữ hậu thuẫn ở phía sau. Nên quân binh mới thoát chết.

Vi Tử Điển ở lại nơi đây vài ngày tiến không được, thối cũng không xong. Cứ than vắng thở dài mãi: Trời hại ta rồi, trời hại ta rồi. Nghỉ đến Bảo Kiếm Trấn Quốc của quân Văn Lang thời khiếp sợ hoảng vía kinh hồn. Nghỉ đến các cánh quân khác, cũng sẻ bị thê thảm mà thôi. Liền cho quân dọ thám nghe ngóng tình hình, thời y như dự đoán không sai chút nào.

Tất cả những mũi tấn công sâu vào đất liền đều có kết cuộc thê thảm. Không còn một tên sống sót. Thê thảm còn hơn cả cánh quân của mình. Vi Tử Điển đả nhìn thấy lối thoát. Không thể tiến quân được nửa thời lùi vậy báo lại tình hình cho Chúa Công hay.

Vi Tử Điển chuẩn bị ra lệnh rút hết quân ra khỏi đất Văn Lang. Thời có quân thám báo về báo:

Bẩm Vương Gia. Rút quân qua Nam sông Trường Giang kẻo không kịp. Quân Văn Lang trùng trùng điệp điệp ồ ạt tiến quân đánh chúng ta. Khí thế long trời lở đất.

Vi Tử Điển kinh hoàng ra lệnh rút quân mau qua bên kia sông Trường Giang. Cho người về báo lên Vua Trụ. Cầu viện quân giải cứu. E rằng quân Văn Lang đã qua sông Trường Giang chận đầu chúng ta rồi.

Càng nghỉ Vi Tử Điển càng hốt hoảng. Hối thúc quân binh mau qua sông Trường Giang. Nhưng vì thuyền quá ít, sông Trường Giang lại quá rộng. Phải qua lại vài lần mới qua hết được sông Trường Giang. Binh lính qua sông thi nhau chạy thục mạng. Chạy đến nổi té lên ngã xuống tắc da đổ máu mà không hay biết gì cả. Quan binh đang chạy thục mạng, thời thấy trước mặt không xa khói bụi mịt mù.

Vi Tử Điển nhìn lên trời than:

Mạng ta đã hết, định rút kiếm tự tử.

Đây nói về các Thủ Lĩnh của các cánh quân Văn Lang. Về họp tại Nam Kinh Xích Quỷ. Thống nhất quyết định một cuộc phản công vào ngày 23 tháng 9 là ngày quét sạch quân thù xâm lược ra khỏi non sông Tổ Quốc giữ vững chủ quyền Độc Lập. Đã có bề dày lịch sử. Hàng vạn năm ở thời Xích Quỷ. Gần hai nghìn năm ở thời Văn Lang. Mục tiêu xác định là tấn công vào ba mục tiêu chính.

1: Là tấn công vào quân Ân. Đóng đô tại Huyện Trùng Giang do Vương Khải Gia chỉ huy.

2: Là tấn công vào quân Ân. Đóng đô tại Huyện Tây Bắc Triết Giang Nam, do Ngạc Sùng Cảnh chỉ huy.

3: Là tấn công vào quân Ân. Đóng đô tại Huyện Nam Giao, do Khương Hoàng Nhân chỉ huy.

*- Nhiệm vụ tấn công vào mục tiêu một. Đóng đô tại Huyện Trùng Giang. Do Điền Điền Lang, cùng Hùng Cao Vương chỉ huy.

*- Nhiệm vụ tấn công vào mục tiêu hai. Đóng đô tại Huyện Tây Bắc Triết Nam Giang. Do Diệp Lang Đích Tôn Vương cùng Tây Thục Vương chỉ huy.

*- Nhiệm vụ tấn công vào mục tiêu ba. Đóng đô tại Huyện Nam Giao. Do Cao Lạc Hầu Vương cùng Cao Lạc Hải chỉ huy.

Đánh đuổi ngoại xâm là điều tất yếu tự nhiên, là nghĩa vụ, là trách nhiệm. Yếu tố sống còn của một dân tộc. Đức tính Vũ dũng. Không khiếp sợ quân thù, dù ta là con Chuột. Giặc là con Voi cũng sẵn sàng đối mặt. Lòng trung hiếu như kim cang bất hoại. Ra sức giữ nước bảo vệ chủ quyền Độc Lập. Bảo vệ quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do ngôn luận. Phê phán những kẻ làm hại Đồng Bào. Làm hại non sông Tổ Quốc. Sống trong hoàng cảnh, ngoại xâm uy hiếp, đe dọa, đưa dân tộc đến con đường nô lệ thời mỗi người dân Văn Lang tự đứng lên góp công, góp của, góp sức, góp trí cứu nước đánh đuổi quân thù. Thà hy sinh cho đất nước sống còn, không sợ gian khổ. Không sợ mất mạng. Đó chính là truyền thống cao quí Anh Linh của nền Quốc Đạo dân tộc. Truyền thống dựng nước và giữ nước. Đã trải qua hàng nghìn hàng vạn năm. Truyền thống văn hóa Tiên Rồng. Như vũ khí, như tài sản bất ly thân. Làm khiếp đảm quân thù xâm lược.

Để dồn hết sức mạnh lực lượng tấn công vào quân xâm lược ở mục tiêu một. Điền Điền Lang Vương thống lãnh gần 20 vạn quân Huỳnh Trung Phong làm phó thống soái. Từ Lạc Giao Châu. Thủy quân. Bộ binh. Kỵ binh rầm rầm rộ rộ. Tiến thẳng đến huyện Trùng Giang tấn công vào thuyền trại thủy quân của Khải Vương Gia. Hướng Tây Nam doanh thủy trại của giặc.

Hùng Cao Vương thống lãnh gần 20 vạn quân. Cao Đình Luân làm phó thống Soái. Từ rừng Lâm Nguy Xích Linh Giao Châu, rầm rầm rộ rộ khói bụi mịt mù. Tiến thẳng đến huyện Trùng Giang tấn công vào hướng Đông Nam doanh trại của giặc bộ binh đóng trên đất liền.

Quân Văn Lang đã đến hồi phản kích

Thời non sông gào thét, chuyển rung rinh

Đả phản công thời đá vàng cũng nát

Lũ quân thù khó thoát, trận khởi binh.

Mục tiêu hai quét sạch quân Ân Cánh Tây Bắc. Diệp Lang thống lãnh gần 20 vạn quân. Thục Mân làm phó thống soái. Từ Tây Dương Châu rầm rầm, rộ rộ khó bụi mịt mù. Theo hướng Tây rồi chuyển sang hướng Bắc. Tiến thẳng đến huyện Tây Bắc Triết Nam Giang, tấn công vào hướng Tây Nam doanh trại của giặc.

Tây Thục Hầu Vương thống lãnh gần 20 vạn quân. Từ Kiến Giao Châu.Thục Lao làm phó thống soái. Đại quân kéo dài rầm rầm, rộ rộ. Quân reo ngựa hí dậy trời dậy đất. Tiến thẳng về hướng Bắc rồi bọc lên hướng Tây Bắc, tiến thẳng đến huyện Tây Bắc Triết Nam Giang tấn công vào hướng Đông Nam doanh trại của giặc.

Tiên Rồng chuyển động chân trời

Giặc Ân khiếp vía rã rời tay chân

Quân Nam rầm rộ tiến quân

Khói mù bụi mịt hực hừng uy phong.

Mục tiêu ba quét sạch quân Ân cánh Đông Bắc Văn Lang. Cao Lạc Hầu Vương thống lãnh hơn 10 vạn quân Nguyên Chấn Lạc làm phó thống soái. Từ Quế Giang Giao Châu. Kéo quân rầm rầm rộ rộ, tiến thẳng về hướng Bắc đến huyện Nam Giao. Tấn công vào hướng Tây Nam doanh trại của giặc.

Cao Lạc Hải, thống lãnh 8 vạn quân theo đường biển. Bọc lên theo sông Nam Trường Giang. Đổ bộ lên đất liền tiến thẳng đến huyện Nam Giao, đánh thẳng vào trại giặc hướng Đông Bắc.

Cờ phất phới ba quân rầm rộ

Tiến bao vây hùng hổ uy phong

Người cùng ngựa điệp trùng xông tới

Tiếng hò reo dậy núi dậy non.

Nói về Vi Tử Khải, nghe quân thám báo, báo cáo là quân Văn Lang. Đang tiến quân ồ ạt chia làm hai mũi, tấn công vào doanh trại trên đất liền cũng như ở dưới sông, theo hướng Đông Nam, Tây Nam của hai doanh trại. Vi Tử Khải lấy làm kinh sợ.

Ác Độc Yêu Bà nói:

Sợ gì chúng. Chúng đến để nạp mạng.

Nói xong Mụ Yêu Tinh, dùng pháp thuật thần thông triệu tập vô số vô biên Chồn, Cáo, toàn là những Yêu Tinh cao cấp. Từ hai đuôi trở lên cho đến năm đuôi, mỗi lúc mỗi kéo đến đông nghịt.

Mụ Yêu Tinh bỗng to lớn dị thường như người khổng lồ. Thổi ra luồng Hắc Đạo Âm Dương, một đen một trắng. Tỏa ra bao phủ một vùng rộng lớn, tiếng lốp bốp nổi lên như lúa rang. Hai luồng Hắc Đạo xâm nhập vào hết thảy các loài Chồn Cáo ấy. Mụ Yêu Tinh hô biến. Thời tất cả loài Chồn Cáo điều biến thành người.

Người nào người nấy điều có pháp thuật thần thông, phóng ra yêu khí mờ trời mịt đất.

Vi Tử Khải lấy làm kinh sợ, lẩm bẩm nói: Quân Hồ xuất hiện. Quân Hồ xuất hiện ra đứng trên mặt nước như đứng trên đất bằng. Chúng dùng xương người, xương cầm thú biến ra vũ khí. Như gươm, đao, giáo, mác cùng một số vũ khí hình thù quái dị. Nhìn cảnh quân Hồ trùng trùng điệp điệp. Hò hét dậy trời dậy đất. Thần thánh cũng phải kinh hãi, huống chi là người phàm.

Quả đúng như Mao Ly Hương nói. Nếu cầu được Sư Phụ. Thời dù cho quân Văn lang đông cho mấy. Mạnh đến đâu cũng sẽ bị tiêu diệt. Nếu toàn bộ quân chủ lực Văn Lang bị tiêu diệt trong trận nầy. Thời nước Văn Lang sẽ mất về tay nhà Ân làm nô lệ thuộc địa cho đất Bắc. Một trận chiến sống còn của dân tộc. Ác Độc Yêu Bà trao cho Mao Ly xâu sọ người Bà mới luyện thành. Cùng nhiều câu Thần Chú điều khiển quân Hồ. Mao Ly Hương thống lãnh hơn 10 vạn quân Hồ cùng 5 vạn quân Ân. Giăng hàng ngang chờ quân Văn Lang đến là xông ra tiêu diệt. Ác Độc Yêu Bà cũng thế. Điều động 5 vạn quân Ân, 300 chiến thuyền, 10 vạn quân Hồ Yêu Tinh. Giăng hàng ngang, hàng dọc trùng trùng lớp lớp. Đứng trên mặt nước, chờ quân Văn Lang đến là xáp chiến. Mao Ly Hương căm thù quân Văn Lang đến tận tủy xương. Quyết ra tay quét sạch quân Văn Lang ở trận nầy. Mắt chăm chăm nhìn về hướng Đông Nam như muốn ăn tươi nuốt sống.

Đây nói về quân Văn Lang. Do Điền Điền Lang Vương, Hùng Cao Vương. Chia làm hai nhánh tiến quân, gần 40 vạn quân rầm rầm rộ rộ tiến thẳng đến huyện Trùng Giang. Quân Văn Lang đang di chuyển, gươm, đao, giáo mác, ngựa hí quân reo rền trời rền đất. Thời có hai vị Thần xuất hiện ở hai cánh quân. Hùng Cao Vương thấy vị Thần xuất hiện. Liền cho ba quân tướng sĩ dừng lại.

Hùng Cao Vương vô cùng kinh ngạc. Chấp tay thi lễ nói:

Không hiểu Lão Thần Tiên từ cõi nào đến có điều chi dạy bảo.

Vị Thần Tiên đáp lễ nói:

Lão Thần là Chủ của các con sông lớn, nơi Hạ Thiên Vũ Trụ. Thừa lịnh Dược Vương Lão Tổ Tổ đem Linh Dược đến cho quân Văn Lang uống để chống lại dược khí của các loài Yêu Tinh. Cao Vương hãy ra lịnh cho ba quân tướng sĩ ngửa mặt lên trời uống tắm Linh dược.

Lịnh đã ban truyền ba quân tướng sĩ răm rắp làm theo. Vị Thần Tiên bay lên không mở bầu Linh dược trút xuống kỳ diệu thay. Linh dược vừa ra khỏi bầu liền biến thành trận mưa rào trút xuống xối xả cả người lẫn ngựa gần 20 vạn quân Văn Lang. Vị Thần Tiên thấy đả hoàng thành sứ mệnh liền biến mất. (Giang Công Thần Chủ).

Gần 20 vạn quân do Điền Điền Lang chỉ huy băng rừng lội suối rầm rầm rộ rộ náo động đất trời. Thời thấy vị Thần Tiên xuất hiện.

Điền Điền Lang vô cùng kinh ngạc. Chấp tay thi lễ hỏi:

Không hiểu Lão Thần Tiên từ cõi nào đến, có điều chi dạy bảo.

Vị Thần Tiên đáp lễ nói:

Lão Thần là Chủ của các dãy núi cao nơi hạ Thiên Vũ Trụ. Thừa lệnh Dược Vương Lão Tổ Tổ. Đem Linh dược đến cho quân Văn Lang uống, để chống lại Độc khí của các loài Yêu Tinh. Điền Vương hãy ra lịnh cho ba quân tướng sĩ ngước mặt lên tiếp uống Linh dược.

Điền Điền Vương tức thời ra lịnh cho ba quân tướng sĩ làm theo lời dạy của vị Thần Tiên. Cao Sơn Thần Núi. Vị Thần Tiên bay lên không mở bầu Linh dược trút xuống hóa ra trận mưa rào tắm gội cả người lẫn ngựa quân Văn Lang. Gần 20 vạn quân Văn Lang cảm thấy trong người khỏe khoắn, mệt mỏi chẳng còn. Vị Thần Tiên thấy đã hoàng thành sứ mệnh liền biến mất.

Quân Văn Lang sau khi tắm uống Linh dược thời trở thành đội quân nhà Trời. Trí huệ, Thần lực, võ nghệ đều tăng lên gấp ba gấp bốn. Đúng với ý nghĩa đội quân con Rồng cháu Tiên. Khi gần đến Trùng Giang thì thấy đất trời u ám, hung khí mờ mịt, mây đen cuồn cuộn trên bầu trời. Thời hiểu rõ đây là trận chiến một còn một mất. Giữ vững Chủ quyền Độc lập, hay nô lệ cũng ở vào trận chiến nầy mà thôi.

Quân Nam Hùng khí bừng lên

Phen nầy tử chiến ghi tên sổ vàng

Rồng Tiên lịch sử chói vang

Phen nầy còn mất giang sang mất còn.

* * *



PHẦN 59


Đây nói về Diệp Lang Đích Tôn Vương, cũng như Tây Thục Vương. Hai cánh quân di chuyển rầm rầm rộ rộ. Cờ bay phất phới, gươm giáo uy nghi. Bỗng thấy hai vị Tiên Cô xuất hiện ở hai cánh quân.

Tây Thục Vương thấy Tiên Cô xuất hiện liền chấp tay thi lễ nói:

Tiên Cô ở cung nào đến có điều chi dạy bảo.

Tiên Cô đáp lễ nói:

Tiên nữ ở cung Diêu Trì Vương Mẫu. Hạ Thiên Vũ Trụ vân lịnh Vương Mẫu. Đem thuốc giải độc Linh dược cho ba quân tướng sĩ người ngựa uống, trước khi giao đấu với các loài Yêu Tinh vô cùng lợi hại. Thục Vương hãy ra lịnh cho ba quân tướng sĩ xòe ngửa lòng bàn tay ra để nhận lấy thuốc. Mỗi người chỉ uống một viên còn cho ngựa.

Thục tây Vương vừa truyền lịnh xong gần 20 vạn quân tức tốc ngửa bàn tay ra. Tiên nữ liền bay lên không trung đứng trên mây. Phất cái túi bao một cái. Tức thời hóa ra một trận mưa thuốc. Kỳ diệu thay người có ngựa thời nhận được hai viên. Còn không ngựa thời chỉ có một viên thôi. Trong số gần 20 vạn người chỉ có một người cỡi ngựa chỉ nhận được một viên. Đó là Thục Chăm.

Thục Chăm la lớn:

Ta thiếu mất một viên rồi.

Tiên Cơ ở trên mây cười lớn:

Làm gì có thiếu. Vì tướng quân đã uống thuốc giải độc rồi.

Thục Chăm nhớ lại liền làm thinh. Thục Chăm nào biết viên thuốc mà Thục Chăm uống trước là Linh đan cải tử hoàn sinh quí hiếm vô cùng. Tiên Nữ thấy nhiệm vụ đã hoàng thành liền biến mất trong không trung.

Diệp Lang thấy Tiên Cô xuất hiện liền chấp tay thi lễ nói:

Tiên Cô ở cung nào đến, có điều chi dạy bảo.

Tiên Cô thi lễ nói:

Tiểu Nữ ở Cung Diêu Trì Vương Mẫu. Hạ Thiên Vũ Trụ. Vâng lịnh vương mẫu đem thuốc giải độc linh dược cho ba quân tướng sĩ người ngựa uống trước khi giao chiến với các loài yêu tinh vô cùng lợi hại, độc khí phun ra mù trời mịt đất. Đức Tôn Vương hãy ra lệnh cho ba quân tướng sĩ xòe ngửa bàn tay ra để nhận lấy thuốc, mỗi người chỉ uống một viên, còn viên kia thời cho ngựa.

Gần 20 vạn quân được lệnh tất cả đều ngửa bàn tay ra, Tiên Cô liền bay lên không trung đứng trên mây mở nút hồ lô niệm chú, tức thời hàng vạn viên thuốc bay ra hóa thành trận mưa thuốc rơi vào bàn tay quan, binh một cách nhanh chóng kỳ diệu thay người có ngựa thời nhận được hai viên, còn không ngựa thời chỉ nhận được một viên thôi.

Thái Nga la lớn:

Sao tôi chỉ có một.

Tiên Cô ở trên mây nói:

Tướng quân uống rồi còn uống chi nữa.

Thái Nga nhớ lại liền làm thinh, Thiên Hương không có viên nào ngơ ngác nhìn lên vị Tiên Cô muốn nói gì đó nhưng lại thôi.

Tiên Cô ở trên mây hiểu ý nói:

Cung Chủ hãy lấy hai viên linh đan trong lọ thần cho tiểu Long Câu cùng Cung Chủ uống, trước khi chiến đấu với yêu tinh.

Ngọc Thiên Hương nhớ mình có lọ linh đơn giải độc, liền dốc ra hai viên cho mình và tiểu Long Câu uống, Tiên Cô thấy nhiệm vụ đã hoàn thành liền biến mất.

Đại quân uống thuốc kháng độc xong tiếp tục tiến quân gần đến huyện Tây Bắc Triết Nam Giang, thời thấy yêu khí mù mịt đen trời mịt đất thời biết trận chiến nầy vô cùng nguy hiểm có thể nói là mất mạng, một là xanh cỏ, hai là tỏ ra uy phong.

Đã đến lúc một còn một mất

Vào tử chiến tỏ rạng uy phong

Đường cứu nước tiến lên phía trước

Đuổi quân thù ra khỏi non sông.

Đây nói về Cao Lạc Hầu Vương, cũng như Cao Lạc Hải, hai cánh quân rầm rầm rộ rộ hăng hái tiến về huyện Nam Giao bỗng xuất hiện hai vị Tiên Ông ở hai cánh quân.

Cao Lạc Hầu Vương thấy Tiên Ông xuất hiện liền chấp tay thi lễ nói:

Tiên Ông ở cõi nào tới, có điều chi dạy bảo.

Tiên Ông đáp lễ nói:

Ta vân lệnh Thái Thượng Lão Tổ Tổ đem linh dược chống độc cho quân quan, tướng uống tắm gội trước khi giao chiến với Bạch Cốt Ma Tôn, Bạch Cốt Quỷ độc khí trùng trùng dù cho Thần Thánh cũng khó mà xông vào Bạch Cốt Ma độc trận huống chi là người phàm thời tiêu ra nước hết. Cao Vương mau ra lịnh cho ba quân tướng ngửa mặt lên trời để nhận lãnh linh dược.

Mười vạn quân được lệnh liền ngửa mặt lên trời. Tiên Ông liền bay lên không trung, niệm chú lắc lắc Hồ Lô mấy cái mở nút, tức thời một luồng khói trắng tuông ra hương thơm ngào ngạt, hóa ra một trận mưa rào tắm uống cho người ngựa ba quân tướng sĩ, thấy mình đã hoàng thành nhiệm vụ Tiên Ông liền biến mất.

Nói về Cao Lạc Hải thống lảnh 8 vạn quân rời khỏi thuyền, đại quân rầm rầm rộ rộ tiến thẳng về huyện Nam Giao thời thấy một đạo hào quang bay đến Tiên Ông xuất hiện.

Cao Lạc Hải thi lễ nói:

Tiên Ông từ cõi nào đến có điều chi dạy bảo.

Tiên Ông đáp lễ nói:

Ta vân lệnh Thái Thượng Lão Tổ Tổ, Viêm Đế Thần Nông Lão Tổ Tổ đem linh dược xuống trần cho ba quân tướng sĩ uống tắm linh dược kháng độc, trước khi giao chiến với Bạch Cốt Ma, Bạch Cốt Quỷ quá lợi hại. Cao Lạc tướng quân mau ra lệnh cho ba quân tướng sĩ ngửa mặt lên.

Được lịnh 8 vạn quân đều đồng loạt ngửa mặt lên trời. Tiên Ông liền bay lên không trung cầm năm loại ngũ cốc phất qua phất lại vài lần, tức thời một trận mưa dược trút xuống như mưa tắm gội người ngựa quân Văn Lang. Năm loại ngũ cốc là tinh khí của trời đất kết hợp cả thân, rễ, củ, quả. Quân Văn Lang tiếp nhận linh khí trời đất xong tinh thần phấn chấn sinh lực dồi dào tất cả sự mệt mỏi biến mất không còn, thấy mình đã hoàng thành sứ mệnh, Tiên Ông liền biến mất.

Sau khi tiếp nhận linh dược xong hai cánh quân, Cao Lạc Hải cùng Cao Lạc Vương tiến sâu vào địa phận huyện Nam Giao âm u mù mịt hơi lạnh thấu xương, mùi tanh hôi khó chịu, đó chính là độc khí do ma trận Bạch Cốt tạo ra nếu không nhờ uống linh dược thời xây xẩm mặt mày ngã lăn ra bất tỉnh, lục phủ ngũ tạng hư nát mà chết, Thần Tiên cũng khó mà xông vào Ma Độc Trận.

Kìa trước mắt là quân thù hùng mạnh

Mộng xâm lăng tàn bạo ác kinh thiên

Giờ quyết tử tính từng giây từng phút

Quyết tử xông lên tử chiến với yêu Tinh.

Nói về hai cánh quân, Cao Lạc Hải cùng Cao Lạc Vương bất chấp trời đất âm u mù mịt hơi lạnh thấu xương, mây đen cuồn cuộn tiếng linh tinh nổ lốp bốp, những cục lửa đỏ lòm bay lên bay xuống, mùi hôi tanh càng dữ dội, hai cánh quân càng lúc càng tiến gần đến doanh trại của giặc, thời một thế giới hãi hùng hiện ra ở hai cánh quân, mỗi cảnh giới ma khác nhau, Ma Cầm Thú và Ma Người.

Cao Lạc Hầu Vương cùng quân binh kinh hoàng, trước mắt là một thế giới bộ xương người, trùng trùng điệp điệp ngút tận đâu đâu, hai con mắt xanh lè phát tỏa ra ánh sáng thấy mà ghê sợ. Cao Lạc Vương cùng ba quân tướng sĩ nghĩ: Đây là đâu thế? Giới ma binh. Cao Lạc Vương lấy lại bình tỉnh, ngâm bài thơ rằng.

Ta là con cháu Tiên Rồng

Ta đi theo bước cha ông vạn đời

Ta là con cháu nhà trời

Càn Khôn vũ trụ ra vào như không

Xá gì một lũ ma Tinh

Kiếm linh ta chém nát tan chẳng còn

Anh linh truyền thống anh hùng

Trảm yêu trừ Quỷ mở đường cứu dân

Kìa truyền thống anh linh thuở trước

Thời cha ông mở nước dựng non

Đánh tan muôn vạn yêu Tinh

Dựng nền Quốc Đạo văn minh lẫy lừng

Nào con cháu Tiên Rồng tiến lên

Nào gươm, Đao, giáo, mác tiến lên

Phất cờ tay chỉ gươm binh

Văn Lang hào khí tiến lên diệt thù, tiến lên.

Tám vạn cánh quân Cao Lạc Hải bất chấp cuồng phong càng quét dữ dội, gần tới doanh trại của giặc ôi thôi chuyện lạ xảy ra, tưởng mình đang lạc vào thế giới xa lạ, Ma, Yêu Quỷ binh một thế giới toàn là xương, xương ma cá sấu, xương ma thuồng luồng, xương ma khủng long cho đến xương ma hổ, báo, voi, sư tử, đại bàng, trăng, rắn ôi thôi trùng trùng điệp điệp, gào thét hung dữ vô cùng, cuồng phong dữ dội là do chúng tạo ra. Cao Lạc Hải cùng ba quân tướng sỉ kinh hoàng. Bỗng nghe tiếng hát đầy thần lực âm vang.

Thuở trời đất mới sinh khai lập

Đức Cha Trời mở rộng non xanh

Truyền rằng nhân loại trưởng thành

Thay trời hành đạo dẹp loài yêu tinh

Lời truyền ấy ứng linh ba cõi

Giống Tiên Rồng dòng dõi tối cao

Hiếu trung chẳng sợ ma nào

Tiến lên quét sạch ngã nhào yêu tinh

Hãy tiến lên vì nước vì non

Hãy tiến lên càn quét yêu ma.

* * *

Quân Ân xâm lược can qua.

Để cho non nước bài ca yên bình.

Để cho dân chúng yên lành

Quê mình mãi mãi học hành ấm no.

Tiếng hát đầy thần lực âm thanh truyền đi 7 – 8 dặm đường, bài thơ sư phụ truyền dạy khi nào lâm vào tình thế nguy hiểm thời hát lên. Cao Lạc Hải cùng ba quân tướng sĩ nghe lời hát đầy chí khí ấy thời hò reo dậy trời dậy đất, hò hét xông lên.

Đây nói về Diệp Lang cùng Tây Thục Vương hai cánh quân sau khi dùng thuốc kháng độc, ba quân tướng sỉ thấy trong người thần lực tăng lên gấp ba gấp bốn lần, thấy trong người nhẹ nhàng như muốn bay lên, tiến quân ồ ạt càng lúc càng tiến gần doanh trại giặc, bất chấp cuồng phong càng quét mỗi lúc một dữ dội, yêu khí mù mịt, độc khí trùng trùng, bất ngờ nhìn thấy chuyện lạ xuất hiện, ba quân tướng sĩ la lên coi kìa, nào là quân chuột, nào là quân dơi, nào là quân chồn, gươm, đao, giáo, mác sáng ngời và tướng chỉ huy của chúng là một con chuột khổng lồ ba đầu, một con dơi khổng lồ ba đầu, sáu con mắt của tướng chuột tướng dơi như 12 ngọn đèn pha càn quét quân Văn Lang. Nhìn quân yêu t.inh tr.ùng trùng điệp điệp không biết bao nhiêu mà đếm, tinh thần quân Văn Lang hơi khiếp hoảng, bỗng nghe tiếng ca như Rồng ngân nổi lên vang dội 9 – 10 dặm đường.

Từ thuở Hồng Hoang mở đất trời

Cỏ cây cầm thú nở sanh sôi

Cha Trời Địa Mẫu cùng xuống thế

Nhân loại từ đó đã ra đời

Một bọc trăm con nào ai khác

Ngũ hành trấn khắp chủ mọi nơi

Thay Trời hành Đạo trừ bạo ác

Gươm thiên càn quét chuột yêu dơi

Huyền cơ một trận xoay bộ máy

Yêu Tinh Quỷ dữ nát tàn đời

Tiên Rồng chánh nghĩa quân cứu thế

Hùng khí Nam Thiên dậy biển khơi

Ba quân tướng sĩ nào xông tới

Quét sạch quân thù giữ nước ôi

Chủ quyền Độc Lập muôn đời mãi

Hiếu trung tỏ rạng Đức sanh sôi

Ba quân tướng sĩ nào xông tới

Bảo vệ quê hương khắp đất trời

Ba quân tướng sĩ nào xông tới

Đánh đuổi giặc thù diệt chuột dơi

Tiến lên, tiến lên, tiến lên.

Ba quân tướng sĩ nghe lời ca đầy chính khí ấy, thời hùng tâm trỗi dậy hò hét dậy trời dậy đất, 20 vạn quân ào ào xông tới xáp chiến với yêu Tinh, thế là trận chiến xảy ra kinh thiên động địa dậy trời dậy đất.

Đây nói về Tây Thục Vương thống lãnh gần 20 vạn quân sau khi tắm gội linh dược xong, tinh thần ba quân tướng sĩ vô cùng phấn chấn khí lực sung mản tràng trề, quân reo ngựa hí tiến quân rầm rộ, càng lúc càng tiến gần đến doanh trại của giặc, bất chấp cuồng phong quét tới mịt mù, khí độc ngùn ngụt đen trời mịt đất, những âm thanh kỳ lạ đinh tai nhức óc, bỗng nghe một tiếng nổ long trời lở đất, thời một cảnh tượng hiện ra vô cùng khủng khiếp, nào là đủ loại rắn hai đầu trở lên cho đến năm đầu, cá sấu có cánh, thuồng luồng có cánh, khủng long có cánh, mỗi lần đập cánh là giông bão nổi lên, còn rắn nhiều đầu, thời vô cùng khiếp đảm, đầu phun lửa, đầu phun độc, đầu phun kiếm khí, đầu phun nọc rắn, đầu phun cuồng phong gió bão, đầu phun khí đen mù mịt, chỉ huy là một con rắn khổng lồ chín đầu, các vị Thần xưa nay đều tránh xa con rắn Chúa xà Rồng nầy, là chúa tể 36 loài bò sát, pháp thuật vô biên. Quân binh Văn Lang nhìn thấy trùng trùng điệp điệp yêu tinh cũng phải kinh hoảng. Thời ở trên mây bỗng nổi lên tiếng hát vang dội núi non biển cả.

Ta tu ở núi Vệ Linh

Còn ta tu ở Tiên Sơn ngút Trời

Hoành Sơn ta tạm ở ngồi

Động, Hồ ta chủ ta vào ta ra

Trường Giang ta chủ ta coi

Đất bằng ta chủ ta coi lúa màu

Đại Dương ta chủ khắp nào

Đến đây giúp sức, diệt loài yêu Tinh.

Thì ra đây là bảy vị Thần ở khắp nơi đến giúp quân Văn Lang diệt yêu Tinh chuyên làm hại con người, cũng như tiêu diệt kẻ ngoại xâm đi ngược lại ý của Đức Cha Trời. Quân Văn Lang thấy các vị thần đến giúp, tinh thần phấn chấn, hùng khí nổi lên.

Tây Thục Vương chỉ kiếm về phía quân thù thét lên:

Tiến lên, con Rồng Cháu Tiên tiến lên quét sạch quân thù ra khỏi non sông Tổ Quốc. Tiến lên, tiến lên.

Gần 20 vạn quân ào ào xông tới, một cuộc xáp chiến khủng khiếp trong lịch sử.

Đây nói về Điền Điền Lang, Hùng Cao Vương hai cánh quân sau khi tắm gội dược liệu, tinh thần phấn chấn, tiến quân ồ ạt, càng lúc càng tiến gần đến doanh trại của giặc, bất chấp cuồng phong càn quét mỗi lúc một thêm dữ dội, mùi hơi chồn cáo nồng nặc, khí độc mịt mù. Bỗng nghe một tiếng sét nổ thời một chuyện lạ hiện ra ngoài sức tưởng tượng của quân Văn Lang, Quân Hồ trùng trùng điệp điệp đi đứng trên mặt nước như đi trên đất liền, chúng chờ cho quân Văn Lang gần tới là ào ào xông tới tấn công, sức mạnh như cuồng phong bão táp. Quân Văn Lang tức thời chống trả, trận chiến mỗi lúc xảy ra ác liệt. Quân Hồ lớp ở dưới đất lớp bay lên cao tấn công xuống vô cùng lợi hại, quân Văn Lang càng đánh càng lép vế nhưng vì tinh thần không sợ chết ra sức chống trả.

Nói về Hồn Thiêng dân tộc mấy nghìn năm đứng chật không trung nhưng không biết làm sao giúp quân Văn Lang được vì độc khí yêu tinh bao phủ mù mịt, nhìn thấy quân Văn Lang lép vế bởi số yêu tinh bay lên không đánh xuống nhưng không biết làm sao trợ giúp được.

Bỗng thấy trên vũ trụ một đạo hào quang bay tới mùi hương nực mũi, hiện ra Dược Vương Tổ Tổ nói:

Các ngươi vào trận giúp quân Văn Lang đi, mùi hương các ngươi ngửi đó chính là mùi hương kháng độc.

Nói xong Dược Vương biến mất.

Đây nói về Hùng Cao Vương đánh vào hướng Đông Nam doanh trại của giặc, bất chấp cuồng phong độc khí càn quét mỗi lúc một dữ dội, quân Văn Lang ào ào xông tới, Mao Ly Hương tức thời niệm chú, quân Hồ lớp ở dưới đất, lớp ở trên không như cuồng phong vũ bão tấn công quân Văn Lang như sấm sét cũng như cánh quân của Điền Điền Lang càng đánh quân Văn Lang càng lép vế, bởi quân Hồ lớp đánh dưới đất, lớp đánh trên không đánh xuống, quân Văn Lang chống đỡ tối mặt tắt mày. Hùng Cao Vương không sử dụng gươm linh trấn quốc được vì hai bên giao chiến xáp lá cà. Hùng Cao Vương đang bối rối chưa biết phải làm sao thời nghe trên không cuộc giao chiến xảy ra dữ dội, quân Hồ lớp chết, lớp bị thương rớt xuống đất hiện nguyên hình là chồn, cáo hai đuôi, ba đuôi, bốn đuôi, năm đuôi.

* * *
 
PHẦN 60

Lúc bấy giờ bên kia bờ bắc Nam sông Trường Giang. Ân Trụ Vương đang ngự tại lều chính, quan tướng đến chầu đông đủ.

Ân Trụ hỏi:

Hôm nay có tin tức gì về chiến trận không?

Thời có quan phụng ngự tâu:

Bẩm Chúa Công Bệ Hạ, Ngạc Thống soái đóng quân ở huyện Tây Bắc Triết Nam Giang đã bị quân Văn Lang bao vây nguy cơ đến nơi.

Cái gì? Ân Trụ Vương sửng sốt hỏi:

Có chuyện đó sao?

Quan phụng ngự tâu:

Không những thế quân ta thất thủ tại Tây Giang Châu đi tiêu 12 vạn quân tướng tá chết sạch, thất thủ tại rừng lau sậy 2 vạn quân là vì bất ngờ bị tấn công trở tay không kịp, thi nhau ngã gục bỏ mạng làm phân cho cây cỏ, Ngạc Sùng Văn trốn chạy nhưng chạy không thoát bị chúng xẻ thịt như xẻ một con heo.

Ân Trụ Vương thét lớn:

Cái gì?

Quan phụng ngự tâu:

Bẩm Chúa Công chưa hết đâu, tại rừng Hà Lâm quân ta thất thủ đi tiêu 5 vạn quân làm mồi cho kềnh kềnh cho lũ quạ. Tại Tây Dương Giao Châu quân ta bị đánh dập mật nát phèo nát phổi, 12 vạn quân chết sạch không còn một mạng để trở về báo cáo.

Cái gì? Ân Trụ Vương lại thét lớn không còn giữ nổi bình tỉnh la hét om sòm. Quan phụng ngự thấy Ân Trụ Vương la quá tạm thời nín thinh. Quát tháo la lối một hồi Ân Trụ Vương tỉnh táo trở lại, thấy Quan phụng ngự vẫn còn đứng đó liền quát:

Sao ngươi chưa lui.

Quan phụng ngự lại tâu:

Bẩm Chúa Công Bệ Hạ tại Kiến Giao Châu còn thê thảm hơn nữa, hơn 12 vạn quân phần thì bị chúng đốt, phần thì bị sét đánh, phần thì bị ăn giáo, ăn lao, ăn Đao, ăn Kiếm, chết thôi là chết đầy gò chật bãi.

Ân Trụ Vương quát:

Ngươi nói chi mà dài dòng thế ngắn gọn thôi.

Ân Trụ Vương hỏi:

Những việc thất bại trên xảy ra bao giờ?

Quan phụng ngự thưa:

Bẩm Chúa Công Bệ Hạ, dạ hơn nửa tháng rồi.

Ân Trụ Vương sửng sốt thét lên:

Cái gì? Đêm mấy tên thám báo chém hết cho ta.

Tin thất trận dồn dập, quan tướng ai nấy cũng đều xanh mặt: Chuyện gì thế? Chuyện gì xảy ra thế?

Thương Dung, Triệu Khải, Mai Bá thời đã lường trước sự việc nhưng không dám tâu. Cùng thời điểm căng thẳng ấy Ân Trụ Vương đang trúng những đòn chí tử thất bại tin dữ giáng xuống xây xẩm mặt mày, thời có Quân phụng ngự nữa đến tâu:

Bẩm Chúa Công Bệ Hạ, Khương Hoàng Nhân đóng quân tại Nam Giao đã bị quân Văn Lang bao vây rồi nguy cơ đến nơi.

Ân Trụ Vương lại thét lớn:

Cái gì?

Xây xẩm cả mặt mày, Vua Trụ nãy giờ đã bị ăn đấm giờ lại thêm ăn đá điếc cả tai:

Ngươi nói sao?

Quang phụng ngự tâu:

Bẩm Chúa Công Bệ Hạ, quân Văn Lang không những bao vây quân ta tại Nam Giao mà còn đánh bại quân ta ở Dạ Loan Châu Bạch Đằng Giang xóa sổ 15 vạn quân đi tiêu 1.500 chiến thuyền, không ai là sống sót làm mồi cho cá cho tôm. Tại Quế Giang Châu quân ta đại bại chụm sạch hơn 20 vạn quân, bị chận đánh các đường lui như rừng U Minh Hạ, đồi Lâm Giao, tất cả đều bỏ mạng kể cả quân thám báo nên không còn ai về báo cho Khương Hoàng Nhân biết.

Ân Trụ Vương như trên trời rơi xuống hỏi:

Thất bại ấy xảy ra cách đây bao lâu?

Quan phụng ngự tâu:

Bẩm Chúa Công Bệ Hạ những ch.uyện ấy xảy ra hơn nửa tháng rồi.

Cái gì? Ân Trụ Vương lẩm bẩm: Sao trùng hợp thế, chuyện gì đã xảy ra. ÂN Trụ Vương càng nghĩ càng tức tối. Thời có quan phụng báo vào tâu:

Bẩm Chúa Công Bệ Hạ, Khải Vương Gia đóng quân tại Trùng Giang đã bị quân Văn Lang bao vây rồi.

ÂN Trụ Vương như muốn té ngửa thét lớn:

Cái gì? Ngươi nói lại ta nghe.

Quang phụng ngư thưa:

Bẩm Chúa Công Bệ Hạ không những quân Văn Lang tiến quân ồ ạt bao vây Khải Vương Gia tại huyện Trùng Giang mà còn đánh bại quân ta tại khúc sông Lạc Cội rừng Lạc Hồn, chận đứng phục kích bất ngờ tấn công đường rút lui của ta tại eo Tử Thần, chôn vùi quân ta hơn 20 vạn quân, hai nghìn chiến thuyền không còn một ai sống sót.

Ân Trụ Vương ngơ ngơ ngác ngác nói:

Quân Văn Lang là quân Thần Thánh sao?

Quan phụng ngự tấu:

Bẩm Chúa Công quân Văn Lang quả đúng là quân Thần Thánh không biết đâu mà lường.

Quả đúng là một buổi chầu xui xẻo tin dữ dồn dập, Vua tôi xây xẩm mặt mày, thê thảm hơn hết vẫn là Vua Trụ, tin dữ dồn dập đấm đá cái nào cái nấy chí tử, nói chung là Vua tôi liểng xiểng xây xẩm cả mặt mày. Thế mà nào có hết, tin dữ vẫn tiếp tục giáng xuống.

Quân thám báo hớt ha hớt hãi mặt mày tái xanh tái mét khẩn báo:

Bẩm Chúa Công mau đem quân cứu Điển Vương Gia, bị quân Văn Lang truy sát chạy thục mạng, 30 vạn quân giờ chỉ còn 1 vạn.

Trụ Vương kinh khiếp hỏi:

Điển Vương Gia hiện giờ ở đâu?

Quân thám báo thưa:

Bẩm Chúa Công ở bên kia Nam Sông Trường Giang.

Vua Trụ hốt hoảng la lớn:

Quân Văn Lang tới đó rồi sao?

Quân thám báo thưa:

Bẩm Chúa Công Bệ Hạ, không những tới đó mà nay mai gì sẽ đánh tới đây.

Vua tôi quan tướng nhôn nhao cả lên, thấy Trụ Vương chần chừ, không đưa quân giải cứu. Thương Dung tâu:

Muôn tâu Chúa Công Bệ Hạ không thể chần chừ thêm nữa, trước mắt là giải cứu Điển Vương Gia thoát nạn, sau đó là hỏi rõ vì sao quân ta thất bại một cách dễ dàng như thế.

Ân Trụ Vương nghe cũng có lý liền ra lệnh cho Ân Phá Bại đem quân đến giải cứu Điển Vương Gia.

Đây nói về binh lính Điển Vương Gia chạy thục mạng, thời thấy trước mặt không xa khói bụi mịt mờ. Vi Tử Điển nhìn lên trời than, mạng ta đã hết rồi, định rút kiếm tự tử, nhưng nhìn rõ quân kéo đến không phải là quân Văn Lang mà là quân Ân, Vi Tử Điển nhìn rõ vị tướng quân ấy chính là Ân Phá Bại Đại tướng quân.

Ân Phá Bại nhìn nhìn thấy tình cảnh quân binh xơ xác chạy trốn thục mạng, thê thảm không lời nào tả nổi, nhìn Vi Tử Điển mặt không còn chút máu đứng thở dốc hình như muốn tự sát thì phải. Thời hiểu rõ quân Văn Lang lợi hại như thế nào.

Ân Phá Bại xuống ngựa đến trước Vương Gia thi lễ nói:

Xin Vương Gia tha thứ cho tội đến trễ.

Vi Tử Điển nói:

Ta cứ tưởng là quân Văn Lang chận đầu tiêu diệt ta.

Ân Phá Bại nói:

Quân Văn Lang lợi hại đến thế sao?

Vi Tử Điển lắc đầu không nói. Ân Phá Bại hỏi thì hỏi nhưng cũng hiểu rõ tình thế quân Văn Lang khủng khiếp đến mức độ nào, 30 vạn quân giờ chỉ còn hơn 8 nghìn quân xơ xác dở sống dở chết.

Một ngày mới lại về, ngày 23 tháng 9 năm mậu Thân. Ân Trụ Vương uể oải như người bệnh nặng, các quan tướng cũng có tâm trạng bệnh lây, người nào người nấy cảm thấy nặng nề như mang đá vào mình, nhìn đất trời u ám, yêu khí trùng trùng phủ lấy bầu trời phương Nam, không hiểu vì sao, hay là linh cảm có gì bất lợi cho mình ngày nay.

Ân Trụ Vương thở dài thường thược có vẻ não nề. Một buổi chầu bao trùm không khí mệt mỏi cũng chẳng có ai muốn thưa báo gì.

Bỗng có quan phụng ngự vào tâu:

Có Vi Tử Điển vương gia vào chầu.

Vi Tử Điển vào chầu, lạy Vua Trụ xong rồi tâu:

Bẩm Chúa Công Bệ Hạ tội thần đáng chết vì không thể hoàng thành sứ mệnh mà Bệ Hạ tin tưởng giao phó, 30 vạn quân giờ chỉ còn có 8 nghìn.

Các quan đã nghe quân thám báo nói rồi bán tín bán nghi, nhưng hôm nay Vương Gia đã nói lên sự thật, các quan ai nấy cũng đều sửng sốt. Ai cũng nghỉ là Ân Trụ Vương sẽ quát tháo giận dữ, có khi còn xử tử Vi Tử Điển nữa là khác, đằng nầy hôm nay lại trái ngược mọi khi.

Vua Trụ ôn hòa hỏi:

Vương Gia thấy sao thời kể lại y như vậy, đầu đuôi sự việc cho Trẩm nghe.

Vi Tử Điển kể: Bước đầu quân ta đi đến đâu thời chiến thắng đến đó, các Châu, Quận, Huyện lần lượt bị quân ta chiếm lĩnh. Quân Văn Lang bỏ mạng cũng nhiều nhưng đó chỉ là quân địa phương ô hộp và cứ thế quân ta tiến sâu vào đất Văn Lang hai ba trăm dặm, thế mạnh như chẻ tre, như đàn sư tử đi tới đâu thời dê, heo ngã quỵ tới đó không có một sức mạnh nào chống đỡ nổi. Không ngờ đó là kế sách của chúng, dụ ta nhanh chóng tiến sâu vào đất Văn Lang chúng mới ra tay tiêu diệt chúng ta, phục kích chận đứng giăng bẩy bất ngờ tiêu diệt chúng ta. Chúng ta không phải thua chúng về binh hùng tướng mạnh mà là, mà là…

Vi Tử Điển ngập ngừng không nói. Vua Trụ nóng lòng nghe quát:

Mà là mà sao?

Vi Tử Điển thưa:

Bẩm Chúa Công Bệ Hạ mà là thất linh Bảo Kiếm Trấn Quốc của Vua Hùng quá lợi hại.

Cái gì? Vua quan đều sửng sốt và họ đã hiểu tất cả. Có người lên tiếng:

Có Bảo Kiếm Trấn Quốc thiệt sao?

Ân Trụ Vương hỏi:

Vương Gia đã thất bại dưới uy lực của Bảo Kiếm Trấn Quốc đó sao?

Vi Tử Điển gật đầu run run kể, dù ta có trăm nghìn quân, binh hùng tướng mạnh cũng không địch nổi một linh Kiếm Trấn Quốc, huống chi chỉ là 30 vạn quân. Quân ta đại bại do Hỏa Linh Kiếm, một loại linh Kiếm biến hóa theo ý con người, sự lợi hại của Hỏa Linh Kiếm phải nói là vô cùng khiếp đảm, lửa dậy đỏ trời, Kiếm khí mịt mù, sét đánh ầm ầm, nháy mắt 20 vạn quân nát như tương chết không kịp ngáp, quân binh tướng tá tất cả đều đi đời, quân ta chống đỡ gì nỗi chỉ còn cách rút lui tháo chạy. Nhưng nào thoát khỏi nanh vuốt của chúng, chúng đã bố trí cho quân phục kích giăng bẫy, chờ cho ta lọt lưới là chúng tấn công ngay làm cho quân ta bất ngờ trở tay không kịp, bị chúng xơi sạch, đầu đuôi thủ dĩ chẳng còn chút chi. Thần nghỉ các cánh quân khác cũng không sao tránh khỏi tình cảnh thảm hại như vậy, trước uy lực của bảy thanh Linh Kiếm trấn Quốc của chúng.

Ân Trụ Vương như đã vỡ lẽ sự thất bại liên tiếp của các cánh quân:

Thì ra là thế, Vua Hùng quả là lợi hại, khó mà đánh bại dù đã trải qua hàng nghìn năm, muốn thắng được Hùng Vương phải có một giải pháp khác, bài toán hàng nghìn năm nữa, may ra mới thắng được Quốc Tổ Vua Hùng.

Mộng xâm lăng liền tan theo mây khói. Vưu Hồn, Bí Trọng, Hầu Hổ nghe Điển Vương kể uy lực tàn sát của Kiếm linh cũng sợ hết hồn hết vía. Bỗng lúc ấy nghe sấm chớp ầm ầm từ khắp nơi vọng tới mỗi lúc một khủng khiếp, rung trời chuyển đất, Thiên Long Địa Chấn, lều trại chao đảo.

Vi Tử Điển kinh hãi nói:

Kiếm Linh sấm nổ cánh quân đã bị tấn công, mau mau rút quân về Bắc kẻo không còn kịp.

Ân Trụ Vương ngơ ngác:

Rút quân sao?

Ân Trụ Vương cứ chần chừ mãi, sấm sét càng lúc càng to, Kiếm khí mờ mịt càng lúc càng dữ dội, cuồng phong gào thét tưởng chừng như trời đất sắp sụp đến nơi, quan tướng mỗi lúc một thêm khiếp hãi kinh hoàng.

Bỗng có quân vào báo:

Có Khải Vương Gia đến.

Ân Trụ Vương cùng quan tướng ồ ra đón Vi Tử Khải, xem đang xảy ra chuyện gì, thấy Vi Tử Khải một người một ngựa bơ phờ tái xanh tái mét, mặt không còn chút máu.

Vi Tử Khải ráng lắm mới nói nên lời:

Bệ Hạ, Bệ Hạ chạy mau, chạy mau chần chừ thời không kịp.

Bỗng có người nói:

Xem kìa, xem kìa.

Vua quan tướng tá nhà Ân nhìn về hướng Nam bên kia Nam sông Trường Giang, trên bầu trời hào quang chói lọi, Ngũ Long, Ngũ Phụng xuất hiện, hào quang đủ màu sắc rực rỡ cả Nam phương. Ngũ Long, Ngũ Phụng bay lên lộn xuống đẹp mắt vô cùng, hình như đang thu hút thần lực Vũ Trụ, truyền thần lực đến Ngũ Linh Tiên Thiên Bảo Kiếm.

Tức thời Địa Chấn ầm ầm, Hạ Thiên thế giới Vũ Trụ rung rinh.Lầu đài Cung Điện các cõi trời hạ thiên thế giới tưởng chừng như muốn sụp đổ đến nơi.

Tứ Hải Nam Vương ở 4 Châu Lớn như.

– Nam Hải Long Vương ở Nam Thiện Bộ Châu.

– Bắc Hải Long Vương ở Bắc Cô Lô Châu.

– Đông Hải Long Vương ở Đông Thắng Thần Châu.

– Tây Hải Long Vương ở Tây Ngưu Hóa Châu.

Lâu đài Cung Điện tứ Hải Long Vương ở bốn Châu lớn như muốn sụp đổ đến nơi: Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

Nói về 36 Cung Trời, 72 Cung Động Cung Điện, 18 tầng địa ngục Địa Chấn ầm ầm làm cho chư Thiên, quỷ Thần hốt hoảng không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Ân Trụ Vương cùng các quan tướng thấy Ngũ Long, Ngũ Phụng xuất hiện bay lượn trên không trung, sấm sét mỗi lúc một to, đất trời rung chuyển ầm ầm, cuồng phong bão lốc nổi lên dữ dội, cuốn phen mão mũ quan Vua. Ân Trụ Vương cùng quan tướng thất kinh, Trụ Vương liền ra lệnh rút quân.

Tức thời 30 vạn quân còn lại vượt qua Bắc sông Trường Giang chuồng thẳng nhắm hướng Tây An, Lạc Dương chuồng êm không ai hay, không ai biết, ngược lại lúc ban đầu ra quân rầm rộ.

Đây nói về Diệp Lang, hát bài ca hùng khí Nam Thiên Con Cháu Tiên Rồng thay trời hành Đạo, tiêu diệt loài Ma yêu, Quỷ dữ, phất cờ chỉ Kiếm tức thời 20 vạn quân ào ào xông tới.

Yêu Tinh Chúa Chuột nào chịu lép vế, hét lên một tiếng như sấm nổ, chỉ tay về phía quân Văn Lang ào ào xông tới, tức thời hàng mấy mươi vạn người Chuột gào thét đinh tai nhức óc ào ào xông tới xáp chiến với quân Văn Lang.

Yêu Tinh Chúa Dơi nào chịu thua kém Yêu Tinh Chúa Chuột đập cánh gào thét chỉ huy, quân Dơi bay lên đen trời tấn công xuống đầu quân Văn Lang.

Quân Dơi, quân Chuột đông hơn kiến cỏ mạnh hơn hổ dữ, xông vào đâm chém trên không dưới đất, cấu xé quân Văn Lang.

Quân Văn Lang nhờ uống linh dược kháng độc, thần lực tăng lên gấp ba gấp bốn lần, mạnh như đàn sư tử xông vào xáp lá cà đâm chém lũ yêu Tinh Chuột, Dơi tới tấp. Thế là trận chiến kinh thiên Động Địa dậy trời dậy đất, quân reo ngựa hí, ma gào quỷ thét, gươm, đao, giáo, mác đinh tai nhức óc, Đao, Kiếm choảng nhau ầm ầm, ai nhìn thấy trận chiến cũng phải kinh hồn bạt vía. Càng đánh quân Văn Lang càng yếu thế vì phải chống trả với hai thế lực hùng mạnh, quân Chuột tấn công dưới đất, quân Dơi tấn công từ trên không đánh xuống. Quân Văn Lang lúng túng chống cự hết sức khó khăn, càng đánh càng yếu thế, lại thêm khí độc do Yêu Tinh Dơi Chuột phun ra mù trời mịt đất.

Ngọc Thiên Hương thấy quân Văn Lang yếu thế là do quân Dơi tấn công từ trên không đánh xuống, liền phi ngựa bay lên không trung múa Kiếm Tiên chém tới tấp vào quân Dơi, hào quang chơm chớp bao phủ một vùng rộng lớn, quân Dơi bị chém tả tơi, rớt xuống đen đất.

Bỗng nghe một tiếng sấm nổ, người Dơi to lớn có hai cái đầu bay tới chém Thiên Hương, yêu Đao vô cùng lợi hại, Đao khí tuôn ra mịt mù, người Dơi hai đầu vô cùng lợi hại, một đầu phun lửa, một đầu phun độc khí tạo ra luồng mây đen dày đặc cuồn cuộn bao phủ lấy Ngọc Thiên Hương, lửa yêu khí yêu bao phủ một vùng rộng lớn, nhìn Ngọc Thiên Hương chìm trong biển lửa và độc khí, ai cũng nghỉ là Ngọc Thiên Hương khó mà chống trả lại nỗi, có khi còn mất cả mạng trong vòng vây khí độc biển lửa.

Ngọc Thiên Hương thét lớn:

Loài yêu tinh xem đây.

Kiếm Tiên chém tới ầm ầm, Thiên Hương cõi ngựa bay trong lửa, nhờ áo giáp Tiên phát huy tác dụng, phát tỏa hào quang chống trả lại lửa yêu và khí yêu. Dơi Tinh hai đầu thấy Thiên Hương xông pha trong khí độc và lửa dữ Kiếm khí chém ầm ầm thời kinh hãi, hai cánh quạt lia quạt lịa, cuồng phong ập tới sức mạnh trên ba trăm cây số giờ. Tiểu Long Câu thổi ra kình phong chống trả, cuộc đánh nhau trên không trung vô cùng ngoạn mục đẹp mắt nhưng cũng đầy sự nguy hiểm.

Người Dơi to lớn hai đầu là tên phó tướng của Chúa Dơi ba đầu, thấy Thiên Hương vô cùng lợi hại, liền gào thét cho quân Dơi ào ào xông tới bao vây Ngọc Thiên Hương đen trời tấn công như cuồng phong vũ bão. Ngọc Thiên Hương cỡi con Tiểu Long trên không không trung tả xông hữu đột Kiếm Tiên càn quét vào lũ yêu Dơi, chém lũ yêu Dơi như chém chuối, lũ Dơi hung hản lớp nầy chết lớp khác xông lên.

Nói về trận chiến dưới đất cũng xảy ra quyết liệt, quân Dơi lớp thì tấn công Thiên Hương trên không, lớp thì tấn công quân Văn Lang dưới đất, dồn ép quân Văn Lang chịu không nổi, thiệt mạng hơn mấy nghìn quân bị thương chưa kể.

An Lạc Tiên lấy gương thần vận lực chiếu lên không trung, càn quét quân Dơi hào quang chóa mắt. Thần quang quét tới đâu quân Dơi bật gọng tới đó, chết thôi là chết, đó chỉ là những quân Dơi tu luyện còn yếu, còn những con Dơi tu luyện cao, thời chỉ đau đớn làm chúng sợ hãi mà thôi không dám tấn công từ trên tấn công xuống. Quân Văn Lang nhẹ nhõm hò hét xông lên tấn công quân Chuột, gần 20 vạn quân chiến đấu quên mình, dốc toàn lực tiêu diệt Chuột, thế trận ngang ngửa, nếu nhìn kỉ thời quân Văn Lang có phần lấn thế.

Nhưng kìa một tên tướng Chuột to lớn hai đầu vô vùng lợi hại, một đầu phun lửa, một đầu phun hơi độc, cầm thanh Đại Đao càn quét quân Văn Lang, đi tới đâu là quân Văn Lang ngã rạp mất mạng tới đó, thì ra đây là một tên phó tướng của Chú Chuột ba đầu.

Thái Nga thấy tướng Chuột to lớn hai đầu xuất hiện hạ gục quân Văn Lang như hạ chuối, tức thời cỡi ngựa phi lên chận đầu đánh, đường Đao xé gió ầm ầm, kình lực tuông ra đẩy lùi ngọn lửa yêu xông tới chém tướng yêu Chuột, yêu Chuột đưa đao chống đổ ầm ầm. Thái Nga phóng ngựa xáp tới, đường Đao chơm chớp tấn công vào thượng trung hạ trên người yêu Chuột, yêu Chuột chống đỡ hụt cả hơi nổi điên la ré đinh tai nhức óc, bằng đấm vào miệng vào mũi tức thời lửa dữ, khí độc từ hai đầu tuông ra cuồn cuộn phủ xuống người Thái Nga. Thái Nga kinh hoảng thấy trời đất tối đen lửa nóng chết người không biết đường nào mà thoát ra nữa, không lẽ chờ chết liền lấy bảo bối Kiếm Tiên ném lên không niệm chú, tức thời một đạo hào quang bay lên không chém xuống tướng yêu Chuột, mang theo cả sấm sét ầm ầm ầm. Tướng Chuột không sao tránh kịp bị Kiếm Tiên bảo bối chém đứt làm mấy khúc.

Quân Văn Lang thắng thế xông lên chém xối xả như trút nước vào quân Chuột, với tinh thần vì nước vì non quân Văn Lang nào kể chi sống chết, chỉ biết xông lên quét sạch quân thù, hùng khí ngút trời tinh thần quyết tử, quân Văn Lang ào tới chém xối xả quân Chuột chết thôi là chết.

Đây nói về Hồ Ma Yêu, nhìn thấy Lạc Tiên, Thiên Hương thời mê mẩn cả người, quên cả theo dõi trận chiến, khi nhìn lại thời thấy quân Văn Lang áp đảo quân Chuột, thời thất kinh, liền la hét điều khiển 5 vạn quân Ân xông lên xáp chiến với quân Văn Lang nhưng Hồ Ma Yêu nào có biết, quân Văn Lang giờ đây là quân nhà trời, võ nghệ sức lực phi thường, 5 vạn quân Ân xông tới, liền bị quân Văn Lang quật ngã như đàn sư tử quật ngã đàn cừu, dê, loáng một cái là chết sạch.

Hồ Ma Yêu là tay Cáo Già, chờ cho quân Dơi quân Chuột đánh bại quân Văn Lang, thời mới xua năm vạn quân ra, quật chết những con sư tử đã bị thương nặng, chiến thắng thuộc về mình, không ngờ tình thế xoay chuyển không như ý muốn, quân Chuột lép vế trước quân Văn Lang là do gương Thần càn quét quân Dơi từ trên không đánh xuống. Hồ Ma Yêu liền tàn hình bay đến cướp lấy gương Thần của Lạc Tiên.

Bỗng trên không có người nói vọng xuống:

Coi chừng Hồ Ma Yêu cướp lấy gương Thần.

Lạc Tiên kinh hãi chiếu gương xung quanh mình, thời thấy Hồ Ma Yêu đã tới sát, chuẩn bị ra tay cướp lấy gương Thần.

Lạc Tiên nổi giận thét lớn:

Cho mày chết.

Lạc Tiên vận lực vào gương Thần phóng ra tia Kim quang. Hồ Ma Yêu tránh không kịp đau đớn sút chút nữa ngất đi. Hồ Ma Yêu bay ra khỏi vòng chiến, thấy quân Ân bị quân Văn Lang hạ gục gần hết thời tức giận vô cùng cỡi ngựa xông vào chém giết quân Văn Lang, không ngờ quân Văn Lang như đàn sư tử bao vây Hồ Ma Yêu tấn công tới tấp, làm Lão chống đỡ muốn hộc hơi. Lão tức quá rút Bảo Kiếm chém sắt như chém bùn càn quét quân Văn Lang, nháy mắt quân Văn Lang bỏ mạng mấy chục người.

Thục Cương thấy vậy cỡi ngựa xông tới chém một Đao xuống đầu Hồ Ma Yêu. Hồ Ma Yêu đưa Bảo Kiếm chống đỡ, định chặt đứt thanh Đại Đao của Thục Cương rồi kết liễu luôn cuộc đời của Thục Cương, nhưng Thục Cương quá hiểu rõ về Lão và cũng hiểu rõ về thanh Bảo Kiếm mà Lão đang sử dụng. Thục Cương không cho Đao của mình đụng vào Kiếm của lão, chuyển sang như thế võ, như Ma Ảnh Đao biến hóa vô cùng làm cho lão không rõ được hư thực của Đao. Hồ Ma Yêu nỗi giận thét lên đinh tai nhức óc, thanh Bảo Kiếm chém tới ầm ầm cát bay đá chạy, Thục Cương không phải là đối thủ của Lão chỉ cần sơ hở một li là mất mạng như không.

Thái Nga sau khi giết chết phó tướng yêu Chuột hai đầu, thấy chồng mình đang giao chiến với lão Ma Yêu thời kinh hãi, sợ Thục Cương mất mạng liền phi ngựa tới phóng Kiếm lên không niệm chú, chém xuống như tia chớp. Hồ Ma Yêu bất ngờ tránh không kịp bị bảo bối Kiếm Tiên chém chết hiện nguyên hình là con Chồn to lớn năm đuôi đứt làm nhiều khúc. Thục Cương nhanh như tia chớp chiếm lấy thanh Bảo Kiếm chém sắt như chém bùn phóng ngựa xông tới càn quét, quân Chuột, quân Ân, chém quân Chuột quân Ân như chém chuối nháy con mắt hàng trăm tên giặc đã bỏ mạng.

Nói về Lạc Tiên đánh cho Lão Ma Yêu một tia kim quang làm lão đau quá biến mất liền rọi gương thần lên không trung thời thấy một vị Tướng Soái Hồn Thiên dân tộc đang chỉ huy Hồn Thiên dân tộc đánh với quân Dơi trên không, quân Dơi bị quân Hồn Thiên dân tộc đánh tơi bời, chết thôi là chết.

Nói về Ngọc Thiên Hương đang chiến đấu với Dơi hai đầu trên không trung, cùng hàng nghìn hàng vạn người Dơi bao vây đồng loạt tấn công làm cho Thiên Hương chống trả mệt nhừ. Bỗng thấy quân Dơi la ré hình như bị ai đánh, tướng Dơi hai đầu có vẻ lúng túng. Thiên Hương nhờ uống linh dược, lại học Đạo tu luyện trên cung Vương Mẫu nên nhìn thấy quân Hồn Thiêng dân tộc đến giúp sức tấn công quân yêu Dơi. Thiên Hương nhìn thấy tướng Dơi hai đầu lúng túng. Thiên Hương liền phóng Kiếm Tiên lên không niệm chú, Kiếm Tiên chém xuống tướng Dơi hai đầu tránh không kịp bị Kiếm Tiên chém trúng chết tươi rơi xuống đất hóa thành nguyên hình con Dơi hai đầu to lớn như con hổ, bị chặt đứt làm ba khúc. Thiên Hương điều khiển Kiếm Tiên bay lượng chém vào quân Dơi, quân Dơi chết thôi là chết trận chiến trên không còn ngoạn mục, trùng trùng điệp điệp quân Dơi đấu với quân Hồn Thiêng cuồn cuộn như hai cơn lốc khổng lồ đen nghịt cả không gian bầu trời quần thảo cuốn hút lấy nhau.

* * *
 
PHẦN 61

Đây nói về Chúa Tinh Yêu Chuột ba đầu, thấy quân Chuột chết hơn hai phần ba, càng lúc càng yếu thế, không thể nào chống trả lại quân Văn Lang, tức điên thét lên như sấm nổ sáu con mắt phát ra tia sáng đến rợn người, cái đầu chính giữa lúc lắc thổi ra một luồng quái phong đen ngòm, núi non như muốn sụp, cây cối ngã đổ ầm ầm, quân Văn Lang ngã rạp xuống đất, mở mắt không ra có người đã bị trận hắc phong yêu độc của Chuột tinh thời 20 vạn quân chết hết chẳng còn một mạng, thân xác bay đi khắp chốn chẳng biết đâu mà tìm.

Cái đầu thứ hai bên tả lắc qua lắc lại vài cái liền thổi ra quân binh Chuột trùng trùng điệp điệp, đen trời đen đất bay tới tàn sát quân Văn Lang. Cái đầu thứ ba bên hữu lắc qua lắc lại vài cái liền phun ra Đao Kiếm mù trời mịt đất bay tới càn quét quân Văn Lang, tình thế nguy ngập. Thái Nga phóng Kiếm Tiên lên không niệm chú, muôn Đạo hào quang túa ra chống trả lại Chuột phép, Đao phép, Kiếm phép hắc phong do Chuột Tinh Chúa Yêu tạo ra, nhưng cũng không sao ngăn cản được chúng, Thái Nga vận hết cốt tâm lực điều khiển Kiếm Linh chống trả.

Trước tình thế nguy ngập, An Lạc Tiên thấy Thái Nga đã trổ hết thần lực cũng không chống trả nỗi quân Chuột, Đao khí, Kiếm khí, hắc phong do Chúa Tinh Yêu Chuột tạo ra liền vận hết cốt thần lực gương thần tỏa ra muôn Đạo kim quang chống trả lại quân Chuột, Đao khí, Kiếm khí, Hắc phong ầm ầm cuồn cuộn ập tới mỗi lúc một khủng khiếp. Thái Nga, Lạc Tiên chỉ cầm cự một lúc nữa mà thôi, tình thế nguy cấp chỉ còn tính từng phút từng giây mà thôi. Lạc Tiên nghĩ đến quân Hồn Thiêng dân tộc sẽ giải cứu chúng ta.

Đây nói về Chúa Tinh ba đầu của loài Dơi, thấy quân Dơi bị đánh xơ xác chết hơn hai phần ba là do quân Hồn Thiêng dân tộc tấn công, tức đến nổi miệng khạc ra lửa, cái đầu chính giữa gầm thét long trời chuyển đất, thổi ra một luồng quái phong đen trời mịt đất, cùng lúc với hắc phong chúa Chuột cuồn cuộn tuôn ra bao phủ một vùng trời rộng lớn làm cho quân Hồn Thiêng dân tộc xây xẩm, thất kinh hồn vía nhưng cũng cố gắng chống trả, đến khi nhìn thấy yêu Dơi trùng trùng điệp điệp tuông ra từ cái đầu bên hữu Chúa Dơi chật đất đen trời lại thêm Đao khí, Kiếm khí càn quét. Quân Hồn Thiêng dân tộc bay lên không trung tránh thoát nếu không chân khí ngũ căn tan hoại linh hồn tức khắc đi vào cõi luân hồi.

Nói về Lạc Tiên nhìn thấy quân Văn Lang chỉ còn chờ chết, thiệt mạng có lẻ hơn 2 vạn người liền rọi gương thần lên không xem quân Hồn Thiêng dân tộc ở đâu không đến giải cứu, thời không thấy quân Hồn Thiêng dân tộc đâu nữa. Lạc Tiên vô cùng kinh khiếp, Lạc Tiên rơi nước mắt than: Thế là hết.

Nói về quân Hồn Thiêng dân tộc bay lên tận mây xanh nhìn xuống, thấy Thiên Hương cởi con Tiểu Long bay lượng trong luồng hắc phong, quái phong do hai Chúa Tinh yêu Chuột, yêu Dơi thổi ra. Nhìn Thiên Hương tả xông hữu đột, phần thì chống trả Đao Kiếm cuồn cuộn lao tới, phần thì chống trả yêu Chuột, yêu Dơi tấn công. An Lạc Tiên nhìn thấy cảnh ấy càng rơi nước mắt, Hồn Thiêng dân tộc chỉ biết lắc đầu cầu Đức Cha Trời cứu giúp mà thôi.

Bỗng Hồn Thiêng dân tộc la lớn:

Kìa linh Kiếm Trấn Quốc đã xuất hiện, kìa sấm chớp đã nổi lên.

Nói về Ngọc Thiên Hương nhớ lại mình còn một bảo bối nữa, đó là bảo bối chim ưng, liền lấy ra quen lên không hô biến, tức thời hiện ra một con chim ưng to lớn, quạt cánh ầm ầm xông vào mổ nuốt yêu Chuột, yêu Dơi nhưng lạ thay những con yêu Chuột, yêu Dơi nầy không sợ mà còn bao vây tấn công chim ưng tình thế mỗi lúc mỗi khốn nguy cho Thiên Hương. Thiên Hương đang cố sức chống trả, thời nghe sấm chớp nổi dậy ầm ầm, Kiếm Tiên bảo bối, chim ưng bảo bối, lảo đảo hào quang mờ đi vô cùng kinh hãi thâu bảo bối lại, nhìn xuống đất xem chuyện gì đã xảy ra, thời thấy Diệp Lang đang đấu phép với Chúa Chuột, Chúa Dơi yêu tinh.

Thái Nga, Lạc Tiên cũng có tâm trạng như Thiên Hương, bỗng thấy bảo bối của mình giảm đi sức mạnh, hào quang mờ dần khi sấm chớp nổi lên. Thái Nga, Lạc Tiên kinh hãi thâu bảo bối lại, nhìn xem là chuyện gì thời thấy Diệp Lang đang chỉ Kiếm lên không sấm nổ ầm ầm, Kiếm khí tuôn ra mờ mịt càn quét vào luồng quái phong, hắc phong sấm chớp rung trời chuyển đất. Diệp Lang cỡi ngựa phi tới gần 20 vạn quân lùi ra sau, nhìn Diệp Lang đấu phép với hai Chúa Tinh Yêu Dơi, Yêu Chuột.

Đây nói về Tây Thục Vương thấy các vị thần đến giúp sức, đứng ở trên không thời vô cùng mừng rỡ liền phất cờ chỉ Kiếm, 20 vạn quân ào ào xông tới, chiến đấu với các loài yêu tinh Chúa xà Rồng là con Rắn chín đầu vô cùng lợi hại pháp thuật vô biên, chúa tể của 36 loài bò sát. Thấy quân Văn Lang ào ào xông tới, thời hét lên một tiếng rung trời chuyển đất phất tay ra hiệu tấn công, yêu Tinh được lịnh, Rắn có cánh, Thuồng luồng có cánh, Cá Sấu có cánh, Khủng Long có cánh bay lên không trung đen trời mịt đất, tấn công xuống đầu quân Văn Lang vô cùng khủng khiếp, độc khí, cuồng phong, nanh vuốt tàn sát quân Văn Lang. Còn ở dưới đất, các loài Rắn không cánh, Thuồng luồng không cánh, Cá Sấu không cánh, Khủng Long không cánh nói chung là 36 loài bò sát không cánh ào ào xông tới tấn công quân Văn Lang, trên không dưới đất đồng loạt tấn công, phải nói là vô cùng lợi hại, khủng khiếp, lợi hại hơn hết vẫn là Rắn nhiều đầu, Thuồng luồng nhiều đầu, Cá Sấu nhiều đầu, Khủng Long nhiều đầu phải nói là khó đối phó vô cùng lợi hại đến kinh khiếp. Đầu phun khí độc, đầu phun lửa, đầu phun Đao khí, Kiếm khí chưởng lực tuông ra ầm ầm, lửa dậy đỏ trời, chưởng phong gào thét trên không dưới đất đồng loạt tấn công, vừa xáp chiến thời quân Văn Lang chịu không nỗi, một số quân binh đã bỏ mạng.

Các vị thần đứng trên không xuống không được vì Độc khí Yêu Tinh mịt mù, đang lúc bối rối, thời một đạo hào quang bay đến, hiện ra một vị Tiên Ông. Bảy vị thần chấp tay thi lễ, Tiên Ông liền đưa bảy hoàng linh dược kháng độc cho bảy vị Thần rồi biến mất. Bảy vị thần uống linh dược xong, liền bay xuống xông vào trận độc khí, đánh với yêu Tinh nhưng yêu Tinh quá đông, một vị Thần phải chiến đấu với cả trăm cả ngàn quân yêu Tinh bao vây, chống trả mệt nhừ có thể nói là mất mạng tới nơi.

Bỗng nghe quân reo ngựa hí trên không, quân Hồn Thiêng dân tộc bay xuống trùng trùng điệp điệp ào ào xông tới xáp chiến tấn công quân yêu Tinh, trên không cũng như dưới đất thấy quân Yêu Tinh bị đánh dội ngược trở lại hạn chế chận đứng sự tấn công của chúng.

Quân Văn Lang tuy không thấy nhưng cũng biết quân Hồn Thiêng dân tộc kéo đến trợ giúp cho mình, quân Văn Lang vô cùng phấn chấn lấy lại khí thế, hò hét xông lên Đao, Kiếm, thương, lao, cung tên đánh chém phóng bắn như mưa trút xối xả vào quân Yêu Tinh ầm ầm.

Nói về Man Công thấy thầy ra oai cũng phất cờ hò hét 5 vạn quân Ân xông tới cùng quân Yêu Tinh xáp lá cà giao chiến với quân Văn Lang. Thục Lao, Thục Di, Thục Chăm, Thục Liêu, Thục Châu như năm con mãnh hổ đầu đàn phi ngựa xông lên càn quét quân Ân tơi tả. Man Công phi ngựa xông tới thổi ra một luồng kình lực độc khí vô cùng lợi hại cuốn phen binh lính quân Văn Lang. Thục Chăm nhờ uống linh đơn xông vào kình lực độc khí, Đại Đao chém tới ầm ầm. Man Công tức giận múa Đại Đao giao chiến, trận chiến trên không, trận chiến dưới đất càng lúc càng khốc liệt, quân Yêu Tinh mạnh quá, áp đảo các vị thần, áp đảo quân Hồn Thiêng dân tộc.

Quân Văn Lang dưới đất tuy tiêu diệt sạch năm vạn quân Ân. Hạ gục Man Công nhưng bị quân Yêu Tinh sát hại không ít, càng đánh quân Văn Lang càng yếu thế, trước thế lực hùng mạnh của các loài Rắn năm đầu, Thuồng luồng năm đầu, Cá Sấu năm đầu, Khủng Long năm đầu, chúng xông tới đâu là quân Văn Lang ngã tới đó, bị chúng nuốt sống chốc lát đi tiêu 2 vạn quân, tình thế nguy cập. Các vị thần mỗi người quăng lên không một bảo bối.

1- Vệ Linh Thần Núi, quăng lên không một ngọn Đao Thần, Vệ Linh niệm chú hô biến, ngọn phi Đao nổ ầm ầm, bỗng to lớn khổng lồ, hào quang rực rỡ, bay lượng chém xuống các loài Yêu Tinh chết thôi là chết.

2- Tiên Sơn Thần Núi, quăng lên không cái bầu Hồ Lô Thần hút, Tiên Sơn niệm chú hô biến, bầu Hồ Lô nổ ầm ầm, bỗng to như quả núi phóng ra muôn đạo hào quang, tốm hút Yêu Tinh, những Yêu Tinh yếu phép chống trả không lại Thần Hút liền bị hút vào bình chết sạch.

3- Liên Sơn Thần Núi, quăng lên không một ngọn núi nhỏ, niệm chú hô biến, ngọn núi nhỏ nổ ầm ầm, biến thành ngọn núi lớn, hào quang tua tủa đánh xuống quân Yêu Tinh chết thôi là chết.

4- Động Hồ Cốc Chủ, quăng lên trời một cái túi, niệm chú hô biến, tức thời tiếng nổ ầm ầm liên tục xảy ra, cái túi bỗng to như đám mây lớn, từ miệng túi tuông ra trùng trùng hào quang hóa thành một trận Đao Kiếm bay xuống tiêu diệt Yêu Tinh chết thôi là chết.

5- Giang Công Thần Chủ, quăng lên không trung một xâu chuỗi ngọc niệm chú hô biến, tức thời tiếng nổ ầm ầm nổi lên, xâu chuỗi ngọc bỗng nhiên to lớn, như hàng chục tản đá tròn to lớn nối với nhau, tỏa ra muôn đạo hào quang đánh xuống các loài Yêu Tinh chết thôi là chết.

6- Hùng Phong Thần Núi, quăng lên không trung một cái búa nhỏ, niệm chú hô biến, búa thần nổ đùng đùng, biến thành cái búa khổng lồ hào quang rực rỡ bay lượn chém xuống Yêu Tinh chết thôi là chết.

7- Hải Nam Thần Biển, quăng lên không trung một viên Bảo Châu, niệm chú hô biến, tức thời viên Bảo Châu nổ ầm ầm to lớn khổng lồ phát ra tia sáng càn quét quân Yêu Tinh chết thôi là chết.

Chúa Yêu Tinh xà Rồng thấy bảy vị Thần quăng ra bảy loại bảo bối tàn sát quân Yêu Tinh chết thôi là chết, tức giận gào thét rung trời chuyển đất, hiện nguyên hình là một con Rắn khổng lồ chín đầu, đầu chính giữa há mồm đỏ lé phun ra trùng trùng con Rắn chín đầu tấn công vào quân Hồn Thiên dân tộc, tấn công vào quân Văn Lang cùng bảy vị Thần.

Đầu bên hữu kế bên đầu chính giữa phun ra bảy viên ngọc Rắn nổ lên ầm ầm, vụt to lớn như bảy ngọn núi, chống trả lại bảy bảo bối của bảy vị Thần. Đầu bên tả phun ra ngọn yêu phong khủng khiếp cuồn cuộn bao trùm một vùng trời rộng lớn, còn lại sáu đầu ở hai bên tả hữu, đồng loạt phun ra Đao phong Kiếm khí, lửa dậy đỏ trời, thiêu đốt, càn quét tưởng chừng như trời đất sắp sụp đến nơi. Quân Hồn Thiêng không chịu nổi với yêu phong độc khí xây xẩm mặt mày tức tốc bay lên không trung để tránh. Chín cái đầu Rắn lại phun ra một luồng kình lực vô hình kỳ quái tốm sạch bảy bảo bối của bảy vị Thần nuốt hết thảy vào bụng. Các vị Thần khiếp quá bay lên không trung thoát ra khỏi luồng kình lực vô hình, luồng yêu phong độc hại.

Quân Văn Lang chỉ còn chờ chết, xà Rồng Chúa Yêu Tinh thấy Hồn Thiêng dân tộc cùng bảy vị Thần trốn chạy tít trời xanh. Lão Chúa xà Rồng thấy 36 loài Yêu Tinh thây phơi chật đất cái đầu chính giữa gầm gừ liên tục, Chúa Yêu nhìn đệ tử Man Công của lão chết thê chết thảm, chín cái đầu gầm gừ nhìn quân Văn Lang sắp đi vào diệt vong vẫn chưa hả cơn giận.

Tình thế vô cùng nguy cấp, Tây Thục Vương phi ngựa tới trước ra lệnh cho quan quân lùi lại, Kim Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm rút ra thét lớn:

Ngày tận số của người đã đến rồi.

Kiếm Linh chỉ lên không, tức thời sấm sét ầm ầm, hào quang chơm chớp, Kiếm khí tuôn ra mù mịt. Tây Thục Vương một còn một mất đấu phép, đấu trí với Chúa Yêu xà Rồng.

* * *



PHẦN 62


Đây nói về Điền Điền Lang cùng gần 20 vạn quân nhìn thấy quân Hồ đi trên mặt nước như đi trên đất bằng thời kinh dị vô cùng. Nói về yêu nữ ác Tinh là con Hồ Ly bảy đuôi, tu luyện thành người pháp thuật thần thông vô biên, nhìn thấy quân Văn Lang kéo đến thuyền thuyền lớp lớp, quân dưới nước quân trên bờ trùng trùng điệp điệp kéo tới bao vây. Hai con mắt Chúa Yêu Tinh Nữ phóng ra 2 luồng ánh sáng xanh lè, phất tay hét lớn, ra lịnh quân Hồ tấn công, tức thời quân Hồ có cánh bay lên không trung đen trời mịt đất tấn công xuống đầu quân Văn Lang.

Quân Hồ Tinh không cánh ào ào xông tới chạy trên mặt nước, nhảy lên bờ, nhảy lên thuyền tấn công quân Văn Lang, thế là trận chiến xảy ra vô cùng khốc liệt, tên lao vun vút, Đao Kiếm ầm ầm, Ma gào Quỷ thét, quân reo ngựa hí, đánh nhau vang dậy đất trời, quân Hồ Tinh càng đánh càng lấn thế, lợi hại nhất vẫn là trên không tấn công xuống, quân Văn Lang chết thôi là chết, quân Hồ Tinh phun ra khí độc, phun ra chưởng lực các thuyền như muốn vỡ tan đến nơi.

Huỳnh Trung Phong kinh hãi, nỗi trống, nỗi chiêng củng cố tinh thần tướng sĩ, bình tĩnh chiến đấu. Mai Đức Thọ, Phan Anh Tuấn, Nguyên Gia Thành ra sức chỉ huy trận chiến không cho rối loạn, quân Văn Lang vẫn giữ vững tinh thần quyết tử chiến đấu. Bỗng nghe quân reo ngựa hí trên không, quân Hồn Thiêng dân tộc đã kéo đến tấn công vào quân Hồ Tinh, trận chiến càng thêm khốc liệt. Quân Hồ Yêu Tinh chết như rạ, rớt xuống hiện nguyên hình là Chồn Cáo hai đuôi, ba đuôi, bốn đuôi, năm đuôi, đầy sông chật bãi, quân Văn Lang lấy lại khí thế thuyền thuyền lớp lớp ào ào xông tới.

Hồ Ly yêu nữ bảy đuôi gào thét ra lệnh cho 400 chiến thuyền, 5 vạn quân ào ào xông tới giao chiến với quân Văn Lang nhưng lũ giặc Ân nào có biết. Quân Văn Lang nhờ uống linh dược sức lực võ nghệ tăng lên gấp ba gấp bốn lần, quân Ân vừa xáp chiến với quân Văn Lang chẳng khác nào Chuột đấu với Mèo, nháy mắt là Mèo chén sạch.

Trận chiến trên không, trận chiến dưới đất vô cùng khốc liệt, quân Yêu Hồ càng đánh càng yếu thế hơn, bị quân Hồn Thiêng dân tộc cộng với tinh thần anh dũng của quân Văn Lang chiến đấu quên mình, quân Yêu Hồ chết thôi là chết, Hồ Yêu Yêu Nữ ác Bà tức tối đến mồm khạc ra lửa, phun ra một luồng yêu khí, yêu thuật Âm Dương Thần Công, hai con mắt phóng ra Đao khí, Kiếm khí càn quét quân Văn Lang. Âm Dương yêu thuật thần công cuồn cuộn tuôn ra mù trời mịt đất, tiếng lốp bốp như lúa rang phát ra vạn ức tia lửa độc tàn sát quân Hồn Thiêng dân tộc, quân Văn Lang sự tàn phá của Âm Dương yêu thuật quả là khủng khiếp, quân Hồn Thiêng dân tộc chịu không nỗi bay lên không trung tránh luồng yêu phong ghê gớm ấy, quân Văn Lang chỉ còn chờ chết mà thôi.

Trước tình thế nguy cấp ấy, Điền Điền Lang tiến thuyền tới trước, chớp mắt mà quân Văn Lang chết hơn 2 vạn, Điền Điền Lang tức tốc rút Mộc Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm ra chỉ lên trời, tức thời hào quang chơm chớp sấm sét ầm ầm, Kiếm khí tuôn ra mờ trời mịt đất, một còn một mất với Hồ Ly ác Yêu Tinh.

Hùng Cao Vương thống lãnh gần 20 vạn quân xông tới. Mao Ly Hương miệng lâm râm niệm chú phất cờ chỉ tay về phía quân Văn Lang đang ào ào xông tới. Quân Yêu Hồ tức thời gào thét vang động đất trời, quân Hồ Tinh có cánh bay lên không đen trời mịt đất tấn công xuống đầu quân Văn Lang như vũ bão. Thế là trận chiến xảy ra khủng khiếp rền trời rền đất, quân Hồn Thiêng dân tộc kéo tới kịp lúc đánh quân Yêu Hồ tơi tả.

Bùi Xuân Mẹo, Cao Đình Luân cho quân lính đánh trống, dộng chiêng yểm trợ tinh thần binh sĩ, trận chiến mỗi lúc một thêm khốc liệt. Mao Ly Hương lòng muốn tốc thắng, phất cờ ra lịnh cho 5 vạn quân Ân ào ào xông tới. Mao Ly Hương phi ngựa xông vào chém quân Văn Lang cho hả cơn giận, nào hay quân Văn Lang vô cùng lợi hại, mỗi vị quân là mỗi vị tướng, sức mạnh võ nghệ cao cường, binh lính bao vây đánh Mao Ly Hương nhừ tử bỏ mạng đến nơi, tên lao phóng bắn với sức lực kinh người, 5 vạn quân Ân bỏ mạng thây phơi chật đất. Mao Ly Hương kinh khiếp thoát ra khỏi vòng chiến quăng xâu Đầu Lâu lên không niệm chú, tức thời xâu Đầu Lâu phát ra ánh sáng xanh lè bay lượng đánh xuống quân Văn Lang chết thôi là chết. Mao Ly Hương khoái chí điều khiển xâu Đầu Lâu tàn sát hơn nữa. Quân Văn Lang tình thế vô cùng nguy hiểm, quân Hồn Thiêng dân tộc tới gần xâu Đầu Lâu không được lại còn đang đánh với quân Yêu Hồ.

Không còn cách nào hơn Hùng Cao Vương phi ngựa tới trước ra lịnh cho quân Văn Lang lùi lại, rút Hỏa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm Trấn Quốc ra chỉ thẳng vào xâu Đầu Lâu đang bay lượng đánh xuống đầu quân Văn Lang, chỉ thấy Hỏa quang sấm nổ, Kiếm khí tuông ra chém thẳng vào xâu Đầu Lâu ầm ầm, đùng đùng, ầm ầm liên hồi không dứt, xâu sọ người bị Kiếm khí chém nát ra từng mảnh, sấm sét đánh xuống quân Yêu Hồ chết thôi là chết. Mao Ly Hương ngơ ngác thời một tia chớp đánh xuống cháy ra than.

Nói về Vi Tử Khải chứng kiến cảnh khủng khiếp ấy, mặt không còn chút máu lẳng lặng chuồng mất.

Đây nói về Bạch Cốt Ma Tôn Ác Bà thấy quân Văn Lang phất cờ ào ào xông tới, liền nổi lên một trận cười đinh tai nhức óc, chỉ tay một cái Ma quân xông tới mù trời mịt đất, phát ra âm Ma kì lạ làm cho người nghe xây xẩm mặt mày, độc khí phun ra mịt mù. Bạch Cốt Ma Bà vô cùng kinh ngạc, thấy quân Văn Lang xông vào âm Ma Trận, Độc Ma Trận không hề hấn gì thời kinh ngạc không lẻ quân Văn Lang là quân trời, càng đánh càng hăng, quân Ma Cốt thú cầm, bò sát bị quân Văn Lang hạ gục tơi bời, xương phơi trắng đất, thành gò thành đống. Bạch Cốt Ma Tinh Ác Bà vô cùng tức giận thét lên một tiếng rung trời chuyển đất, thổi ra một luồng Ma phong hôi thúi, độc hại khủng khiếp cuồn cuộn phủ tới càn quét tàn sát quân Văn Lang.

Đồ Ác Ma hỗn láo, tiếng thét lanh lảnh nổi lên, thì ra đó là tiếng thét của Hạ Tiên. Nói về Hạ Tiên lúc nào cũng chăm chú để ý đến Bạch Ma Bà, thấy bà phùng mang trợn mắt thổi ra luồng Ma phong hôi thúi làm cho quân Văn Lang xây xẩm mặt mày. Hạ Tiên vận hết Thần lực vào Tiên Kiếm, thi triển chiêu Lôi Âm Sấm Kiếm, tức thời hào quang chơm chớp lan tỏa một vùng rộng lớn sấm nổ ầm ầm, đánh xuống luồng Ma phong tức thời Ma phong tan biến đâu mất.

Bạch Cốt Ma Bà kinh hãi:

Hay cho con tiện tì xem đây.

Tức thời vung tay một cái, trời đất mờ mịt, một bàn tay dài buôn ra chụp lấy Hạ Tiên. Hạ Tiên kinh khiếp múa Lôi Âm Sấm Kiếm chặt vào cánh tay ma quái của bà nhưng cánh tay Ma quái biến hóa vô cùng kỳ lạ không thể làm gì được, một cánh tay Ác Bà chụp lấy Hạ Tiên, một cánh tay chụp quân Văn Lang bốp nát như tương. Hạ Tiên khiếp quá quăng bảo châu như ý lên không niệm chú đánh xuống đầu Bạch Cốt Ma Bà. Bạch Cốt Ma Bà nổi lên một trận cười ghê rợn, đưa bàn tay chụp lấy viên bảo châu bỏ vào miệng nuốt mất. Hạ Tiên càng thêm kinh hãi.

Đây nói về Khương Hào thống lĩnh 5 vạn quân Ân, thấy quân Văn Lang bị Bạch Cốt Ma Bà quật chết la liệt, đây chính là cơ hội tiêu diệt quân Văn Lang, liền phất cờ chỉ Kiếm 5 vạn quân Ân ào ào xông tới chém bắn xối xả vào quân Văn Lang.

Cốt Bà lợi hại biết dường bao

Ba quân tướng sĩ ngã lăn nhào

Hạ Tiên liều mạng vào trận chiến

Đấu cùng Bạch Cốt định thấp cao

Càn, Khôn, Ly, Khảm vây tứ hướng

Tốn, Chấn, Cấn, Đoài thượng hạ bao

Cốt Bà cười khẩy nầy khá lắm

Chút tài mà dọa được ta sao

Cánh tay ma quái dài tóm bắt

Hạ Tiên liều chết, xã lăn vào

Quân Ân ập đến như bão thác

Nguy cơ trùng điệp họa dân cao.

Trong lúc vô cùng nguy cấp, bỗng trên không trung có tiếng nói:

Thầy đến giúp con đây, mau thi triển chiêu Triệt Ma Ảo Ảnh Kiếm.

Thì ra tiếng nói ấy là thầy của Hạ Tiên, Quang Âm Thánh Mẫu. Nói về Quang Âm Thánh Mẫu đang ngồi thiền định xem xét trận chiến giữa quân Văn Lang và các loài yêu Tinh, thấy Bạch Cốt Ma Bà quá lợi hại, e rằng 8 vạn quân Văn Lang sẽ chết hết. Hạ Tiên sắp lâm nạn chớp mắt Thánh Mẫu tới nơi, đứng trên mây ném xuống một đóa hoa sen thơm ngát, hào quang đủ màu sắc chiếu xuống làm cho Bạch Cốt Ma Bà đau nhức chịu không nổi, bị chiêu Triệt Ma Ảo Ảnh Kiếm chém trúng nổ ầm ầm, xương cốt Ác Độc Ma Bà nát thành đống.

Thánh Mẫu thâu hoa sen lại biến mất trong không trung. Quân Văn Lang như đàn sư tử ào ào xông vào đàn dê tung hoành hạ gục quân Ma, quân Ân không còn một mạng.

Đây nói về Bạch Cốt Ma Tôn thấy quân Văn Lang phất cờ ào ào xông tới, tức thời Lão Ma Tôn hét lên một tiếng như sấm nổ, ra lịnh tấn công, Ma binh ào ào xông tới, lớp bay lên không tấn công xuống đầu 12 vạn quân Văn Lang, lớp chạy dưới đất nhanh như tên bắn, thế là trận chiến xảy ra vô cùng khốc liệt, Ma binh đông quá võ nghệ cao cường vô cùng lợi hại, quân Văn Lang chống trả cả 2 mặt, trên không và dưới đất càng đánh càng yếu thế, loáng cái đi tiêu hơn vạn quân.

Cao Hùng Phi, Trần Nhân Luân, Cao Lạc Hổ, Nguyễn Sinh Kỳ bị Ma quân bao vây ráo riết, một người phải đấu với mấy chục tên Ma quân, tình thế nguy cập đến nơi, thời nghe trên không trung quân reo ngựa hí, quân Hồn Thiêng dân tộc ào ào bay xuống, tấn công Ma binh, trận chiến trên không dưới đất, quân binh mù mịt bay lên bay xuống đánh nhau ầm ầm, quân reo ngựa hí, Quỷ gào Ma thét, gươm, Đao, giáo, mác cuồn cuộn rối rả vào nhau đùng đùng ầm ầm ì ì liên miên bất tận, cát bay đá chạy cây cối ngã đổ ào ào.

Càng đánh Ma binh càng yếu thế, Khương Hoàng Nhân kinh hoảng, phất cờ ra lịnh cho 5 vạn quân ào ào xông tới, quân Ân vừa xáp chiến đã bị quân Văn Lang hạ gục rầm rầm, loáng cái quân Ân tướng tá chết sạch, Khương Hoàng Nhân chung cùng số phận.

Bạch Cốt Ma Tôn thấy độc khí ma âm không hại được quân Văn Lang, quân Hồn Thiêng dân tộc, thời tức tối thét lên vang trời động đất Ma quân chết thôi là chết sắp bị chết sạch đến nơi. Ma Tôn la hét một hồi biến hóa ra không biết bao nhiêu Ma Tôn mà kể, tạo ra ma trận bao vây quân Hồn Thiêng dân tộc, quân Văn Lang.

Mỗi Ma Tôn phun ra độc khí, phun ra Kiếm khí, Đao khí tàn sát quân Hồn Thiêng Dân Tộc, quân Văn Lang. Quân Hồn Thiêng Dân Tộc chịu không nổi trước Độc khí, Kiếm khí, Đao khí liền phá vòng vây pháp thuật của Ma Tôn bay lên không trung thoát nạn, chỉ còn quân Văn Lang và sắp mất mạng đến nơi, tình thế vô cùng nguy cấp.

Cao Lạc Vương phi ngựa tới trước thét lớn:

Xem Bảo Kiếm của ta đây.

Tức thời Thủy Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm rút ra chỉ lên không hào quang sấm nổ ầm ầm, Kiếm tuông ra mù mịt. Nói về Ma Tôn đang đắc ý chuẩn bị phất tay là hốt sạch 10 vạn quân Văn Lang, bỗng nghe sấm chớp ầm ầm Kiếm phong cuồn cuộn mờ trời mịt đất xuống hàng vạn vạn Ma Tôn, hàng vạn vạn Ma Tôn chịu không nỗi tan biến đâu hết. Thế là cuộc đấu phép giữa Cao Lạc Vương và Ma Tôn.

Ma Tôn tay chỉ quân Nam

Mù trời mịt đất Kiếm tuông giáo gầm

Ào ào lao tới ầm ầm

Chém đâm càng quét kinh hồn khiếp kinh

Cao Vương truyền ý Kiếm linh

Sấm tuôn sét đánh tan yêu nhuộm màu

Kiếm Linh càn quét ù ù

Làm cho Bạch Cốt rã rời tay chân

Ma Tôn niệm chú bay lên

Tay dài mầu nhiệm cướp đi Kiếm Trời

Nào hay Kiếm phép tuyệt vời

Hóa ra lưới phép chụp thời Ma Tinh

Ma Tôn khiếp vía hồn kinh

Tàn hình biến mất hư không tàn hình

Hóa ra ba mũi tên Thần

Hầu mong lấy mạng diệt trừ Cao Vương

Kiếm linh phát tỏa linh quang

Ầm ầm sấm sét đánh tan tên Thần

Cao Vương chỉ Kiếm quân thù

Kiếm Linh nầy hởi diệt loài Ma quân

Tức thời sấm dậy sét tuông

Ầm ầm đánh xuống Yêu Tinh ầm ầm.

Thế là trận chiến mỗi lúc một thêm dữ dội. Ma Tôn phóng lên muôn đạo Thần quang chống trả, tưởng như trời đất muốn sụp đến nơi. Ma Tôn hóa người to như trái núi cao tới mây, quân Văn Lang vô cùng khiếp đảm, bàn chân của lão Ma Tôn dẩm xuống cũng phải bỏ mạng vài ba trăm người.

Khi ấy theo hướng Tây Nam bỗng nghe tiếng sấm nổ, hào quang chóa lọi cả phương Nam, cuồng phong dữ dội, xuất hiện năm con Rồng, năm con Phụng khổng lồ xuất hiện bay lượn trên không, hào quang rực rỡ đủ màu đủ sắc, một chuyện kỳ lạ chưa từng thấy bao giờ.

Cao Lạc Vương bỗng thấy Kiếm Linh như khác hẳn:

Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

Cao Lạc nghỉ Lão Ma Tôn quyết tiêu diệt quân Văn Lang, hai bàn tay của lão như hai đám mây đánh xuống quân Văn Lang với hai luồng Ma Lực rung trời chuyển đất ầm ầm nện xuống quân Văn Lang, quân Văn Lang chỉ còn nhắm mắt chờ chết.

Cao Lạc Vương truyền ý vào Kiếm Linh, tiêu diệt lão Ma Quỷ kia đi, kì lạ thay Kiếm linh vụt to lớn một cách kỳ lạ, tức thời một tiếng sấm nổ chấn động hư không, kiếm phong tuông ra làm chấn động đến các cõi trời, làm cho lâu đài cung điện rung động ầm ầm, tưởng chừng như muốn sụp đổ đến nơi.

Nói về Lão Ma Tôn đang đắc ý, bỗng một tiếng sấm nổ khủng khiếp làm cho lão giật mình, Kiếm quang chiếu lên chặt đứt hai bàn tay Ma Quỷ của Lão. Lão ngơ ngác thời hàng nghìn hàng vạn tia sấm sét khủng khiếp đánh xuống đầu Lão, hàng loạt tiếng nổ chấn động vũ trụ. Lão Ma Tôn bị bị sấm sét đánh chết tan ra tro bụi.

Cao Lạc Vương thấy Lão Ma Tôn đã chết, liền chuyển ý thâu Kiếm lại nhưng Linh Kiếm không theo ý của Lạc Vương mà theo một lực vô hình nào đó. Sấm Kiếm mỗi lúc một dữ dội, Kiếm phong mỗi lúc một khủng khiếp quét sạch Ma quân tan hồn tan xác.

Cao Lạc Vương thấy Linh Kiếm không theo ý mình vô cùng kinh hãi như nhớ ra chuyện lạ nào đó, nhìn về hướng Tây Nam không còn thấy Ngũ Long, Ngũ Phụng nữa hào quang rực rỡ bầu trời phương Nam cũng biến mất. Tức thời Linh Kiếm liền nhỏ lại như xưa, Kiếm khí, sấm chớp tuy giảm xuống mấy chục lần nhưng Kiếm khí vẫn tuôn ra dữ dội, sấm sét rung trời chuyển đất ầm ì không ngớt. Bỗng một lực vô hình đoạt mất Kiếm Linh. Cao Lạc Hầu Vương chết điếng như kẻ mất hồn: Ta biết phải làm sao đây? Ta biết phải làm sao đây?

* * *
 
PHẦN 63

Nói về Diệp Lang thấy Chúa Tể của loài yêu Dơi, yêu Chuột vô cùng lợi hại bằng phi ngựa tới trước rút Địa Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm đấu phép với chúng, Kiếm Quang xuất hiện sấm sét ầm ầm, Kiếm phong tuông ra mờ trời mịt đất đánh vào yêu thuật quân Chuột, quân Dơi, lớp bay lên trời, lớp bay dưới đất ào ào xông tới tiêu diệt quân Văn Lang liền bị sấm sét, Kiếm khí đánh chém tơi bời, quân Yêu Tinh lớp nầy tan biến, lớp khác hiện ra xông lên, một trận đấu phép khủng khiếp chưa từng thấy.

Địa Quang Linh Kiếm chiếu lên

Hào quang chơm chớp sấm rền dậy non

Diệp Lang múa Kiếm dọc ngan

Chém vào yêu Chuột, yêu Dơi ầm ầm

Chuột Tinh nổi giận hầm hầm

Hiện đầy yêu Chuột rầm rầm xông lên

Lao vào tàn sát quân Nam

Trùng trùng điệp điệp ôi thôi trùng trùng

Quân Nam chống cự mệt nhừ

Khó bề chống lại ôi nào khốn nguy

Ngã nhào chết thảm chết thê

Khó bề chống cự ôi thôi khó bề

Diệp Lang chỉ Kiếm lên thề

Nếu không thắng được ta còn mà chi

Tức thời Linh Kiếm vung lên

Ầm ầm sấm nổ vang lên ầm ầm

Kiếm Linh biến hóa không ngừng

Hào quang sấm chớp đánh vào Dơi Tinh

Kiếm phong càn quét khiếp kinh

Chém vào yêu Chuột ôi thôi chém vào

Yêu Chuột, yêu Dơi ngã nhào

Chúa Dơi, chúa Chuột thét gào hô phong

Chỉ tay một cái rung rinh

Quân yêu sức mạnh tăng lên vù vù

Diệp Lang nổi giận đùng đùng

Một phen sống chết diệt trừ yêu Tinh

Ý liền truyền đến Kiếm Linh

Sấm tuông sét nổ rung rinh đất trời

Đao phong Kiếm khí ào ào

Tan thây quân Chuột ngã nhào quân Dơi

Chúa Dơi Chúa Chuột hung hăng

Thần thông biến hóa khiếp kinh lạ đời

Phất tay một cái vậy thời

Núi tuông đất sụp biển trời rung rinh.

Thế là cuộc đấu phép mỗi lúc một thêm dữ dội đất trời mù mịt, Kiếm tuông sấm nổ mỗi lúc mỗi thêm kinh hoàng. Chúa Tinh Yêu Chuột, Chúa Tinh Yêu Dơi thân hình bỗng to lớn một cách kỳ lạ, thân to như núi, cao tới mây, nhìn xuống quân như đàn kiến, bốn bàn tay yêu quái to như bốn đám mây, quân Văn Lang vô cùng kinh hoảng chỉ còn nhắm mắt chờ chết khi bốn bàn tay khổng lồ đánh xuống.

Lúc bây giờ Địa Quang Linh Kiếm bỗng to lớn một cách kỳ lạ. Diệp Lang chợt thấy hào quang sáng rực không gian, kinh ngạc nhìn về hướng Đông Nam thấy Ngũ Long, Ngũ Phụng đang bay lượn trên nền trời vô cùng đẹp mắt, hào quang đủ màu sắc rực rỡ cả không gian phương Nam. Nói về Chúa Yêu Tinh Chuột, Chúa Yêu Tinh Dơi sử dụng đến pháp thuật cuối cùng, vụt to lớn một cách kỳ lạ to như trái núi, cao lên tới tận các tầng mây, biến thành một thân hình sắt thép đâm không thủng chém không đứt, vô cùng đắc ý, bốn bàn tay như bốn đám mây chửng bị đánh xuống quân Văn Lang chỉ còn nhắm mắt chờ chết. Diệp Lang thấy Kiếm linh vụt cao to mấy chục thước nhưng nhẹ bổng, Diệp Lang chuyển ý vào Linh Kiếm mau diệt hai loài chúa Yêu Tinh đi. Tức thời một tiếng sét nổ chấn động đến tam thiên Đại thiên thế giới. Kiếm khí tuôn ra làm chấn động đến các cõi trời, làm cho cung điện lầu đài rung động ầm ầm, tưởng chừng như muốn sụp đổ.

Chư Thiên Quỷ Thần vô cùng hoảng hốt:

Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

Nói về Chúa Chuột, Chúa Dơi vô cùng đắc ý, bỗng nghe một tiếng sét nổ chấn động như muốn nổ tung lồng ngực, Chúa Tinh yêu Chuột, yêu Dơi khiếp hồn. Kiếm khí, Đao khí bay lên chặt đứt băm nát bốn cánh tay. Hai Chúa Tinh yêu Chuột, yêu Dơi định tàn hình chạy trốn nhưng đã muộn, hàng nghìn hàng vạn tia sấm sét đánh xuống người hai Chúa yêu Tinh, hàng loạt tiếng nổ ầm ầm chấn động vũ trụ. Hai con Quỷ yêu Tinh tan xương nát thịt ra tro ra bụi.

Diệp Lang thấy hai con yêu Tinh đã chết bằng thu Kiếm lại nhưng không làm sao thu được: Biết làm sao đây? biết làm sao đây?

Diệp Lang phát hiện như có lực vô hình điều khiển, Kiếm Quang mỗi lúc mỗi thêm dữ dội. Diệp Lang kinh khiếp không khéo quả đất bị đánh vỡ tới nơi. Bỗng thấy Kiếm Quang giảm xuống mấy chục lần trở lại bình thường, thì ra Ngũ Long, Ngũ Phụng biến mất nhưng Kiếm khí sấm sét vẫn tuôn ra mù mịt sấm sét long trời lở đất. Bỗng như có bàn tay vô hình đoạt lấy Kiếm Linh cả Kiếm lẫn vỏ. Diệp Lang chết điếng hồi lâu mới trở lại bình thường than thở mãi: Ta biết phải làm sao đây? Ta biết phải làm sao đây?

Đây nói về Tây Thục Vương thấy tình thế vô cùng nguy cấp, bằng phi ngựa tới trước đối mặt với yêu Tinh Chúa Tể xà Rồng. Kim Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm rút ra thét lớn ngày tận số của ngươi đã đến, thế là một cuộc đấu phép xảy ra.

Xà Rồng tay chỉ quân Nam

Yêu phong nổi dậy quét tan núi rừng

Quân Nam binh lính ngã nhào

Khiếp hồn khiếp vía xiếc bao hãi hùng

Quân yêu xông tới mịt mùng

Giáo tuông Kiếm chém đùng đùng dậy non

Thục Vương rút Kiếm chỉ lên

Kim Quang sấm nổ, Đao phong Kiếm rền

Đánh vào yêu quỷ xông lên

Đánh vào binh lính, yêu tinh đánh vào

Sấm tuông Kiếm quét ầm ầm

Yêu Tinh đứt cổ rụng đầu nát tương

Xà Rồng tức giận thét lên

Rùng mình hóa phép giáo tuông Kiếm gầm

Trùng trùng lao tới ầm ầm

Phân thây xẻ thịt nát nhừ quân Nam

Thục Vương truyền ý Kiếm Linh

Mau mau diệt lũ yêu Tinh hung tàn

Mau mau hóa phép Địa Đàng

Lưới trời ập xuống diệt loài yêu Tinh

Mau mau chận đứng Đao phong

Mau mau sấm sét đánh tan quân thù

Tức thời trời đất mịt mù

Xông vào quét sạch nuốt hồn quân Nam

Thục Vương nổi giận thét vang

Kiếm Linh quét dọc quét ngang ầm ầm

Kiếm quang cuồn cuộn rầm rầm

Chém vào yêu Quỷ đùng đùng dậy non

Kiếm Linh bỗng mạnh hơn lên

Đất trời đảo lộn rung rinh đất trời

Kiếm Linh theo ý của người

Thần thông biến hóa Đất Trời ngửa nghiên

Tam Thiên thế giới chẳng yên

Chín tầng địa ngục rung rinh chín tầng

Qủy Thần hốt hoảng kinh hoàng

Tưởng đâu Trời sập Địa Đàng còn chi

Kiếm Quang sấm nổ liền khi

Long Trời lở đất khiếp kinh hãi hùng

Đánh vào yêu Quỷ trùng trùng

Tan thay nát thịt chẳng còn một tên

Xà Rồng khiếp vía hoảng kinh

Triệu liền yêu Quỷ, yêu Tinh khắp cùng

Ba mươi sáu loài yêu Tinh

Trên non dưới biển, dưới sông đất liền

Ôi thôi đủ rắn đủ chình

Đủ loài hung dữ sấu kình thiếu chi

Thuồng luồng xà, mập, khủng long

Mỗi loài mỗi phép bủa vây mịt trời

Kiếm Quang vụt lớn tức thời

Ầm ầm sấm sét diệt loài yêu Tinh

Thánh Thần nhìn thấy khiếp kinh

Yêu Tinh bỏ mạng tan thây chẳng còn

Xà Rồng sét đánh nát nhừ

Triệu Năm tu luyện còn gì nữa đâu

Bất ngờ Linh Kiếm ai thâu

Thục Vương chết điếng xiếc bao hãi hùng

Kiếm Linh biến mất chẳng còn

Làm sao nầy hỡi biết mà làm sao.

Đây nói về Điền Điền Lang tức tốc rút Mộc Quang Tiên Thiên Bảo Kiếm ra, tức thời hào quang chơm chớp sấm sét ầm ầm, Kiếm khí tuôn ra mờ trời mịt đất đánh xuống quân yêu Hồ chết thôi là chết. Mụ Hồ Ly yêu tinh gào thét chống trả quyết liệt, mụ hóa hết phép nầy sang phép khác nhưng bị Kiếm linh phá hết, mụ càng đánh càng yếu thế, bỗng Kiếm Linh nổ lên một tiếng làm mụ Hồ Ly xây xẩm mặt mày, Kiếm Linh vụt lớn trên không trung tuôn mưa sấm mưa sét xuống đầu mụ Hồ Ly. Mụ Hồ Ly không sao tránh được tan hồn nát xác thành tro bụi.

Hùng Cao Lang cũng như Điền Điền Lang và Tây Thục Vương cùng lúc ấy thấy yêu thù, quân thù chết sạch, thâu Kiếm nhỏ lại nhưng không làm sao thu được, sấm sét càng lúc càng khủng khiếp, Kiếm phong càng lúc càng kinh hoàng, bỗng thấy Kiếm Linh giảm uy lực vài chục lần trở lại lúc bình thường. Thời bỗng có một lực vô hình đoạt mất Bảo Kiếm làm cho hai người sửng sốt, than vắng thở dài: Ta biết phải làm sao đây?

Nói về Hạ Thiên vũ trụ, nơi Ngọc Linh Cung có vị Ngọc Hoàng Huyền Khung Cao Thượng Đế Đại Thiên Tôn. Trên cai quản 6 tầng Trời cõi Dục, dưới cai quản chốn nhân gian và cõi âm phủ, thấy Thiên Cung rung chuyển như sắp sụp đổ thời kinh hãi hỏi:

Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

Liền cho đòi Thiên Nhãn Thánh vào hỏi:

Đại Thánh xem thử chuyện gì đang xảy ra?

Tức thời Đại Thánh dùng con mắt thứ ba nhìn xuống chốn trần gian, thấy cuộc chiến xảy ra khủng khiếp, quân Văn Lang đại chiến với các loài yêu Tinh.

Ngọc Hoàng hỏi:

Chuyện gì thế?

Thiên Nhãn Đại Thánh tâu:

Muôn tâu Ngọc Hoàng, quân Văn Lang chống quân xâm lược nhà Ân, các loài yêu Tinh, Ma Quỷ ra phò nhà Ân đánh quân Văn Lang, có lẽ quân Văn Lang chống cự không lại nên đã sử dụng đến Linh Kiếm Tiên Thiên Trấn Quốc, uy lực của Kiếm làm chấn động sáu tầng trời Cõi Dục, 36 cung Trời, 72 cung Động, cung Điện như muốn sụp đổ. Tứ Hải Long ở bốn cõi quả Địa Cầu, 18 tầng Địa Ngục ở cõi âm phủ chao đảo làm cho Quỷ Thần khiếp sợ.

Ngọc Đế hỏi:

Chúa Tể của các loài yêu Tinh ra đời hại nhà Thương ở phương Bắc, chuyển đến giai đoạn phong Thần, sao lại đưa quân xâm lược phương Nam.

Thiên Nhãn Đại Thánh liền chuyển sang pháp Nhãn nhập định nhìn về quá khứ, liền hiểu rõ tất cả tâu rằng:

Bẩm Ngọc Đế, Ân Trụ Vương có mối thù từ thời dựng nước Văn Lang. Có lẽ phương Nam truyền khẩu có phần sai lệch về Văn Hóa Cội Nguồn nên suy giảm về phước Đức, yêu Tinh mới dám lộng hành như vậy.

Ngọc Đế nói:

Mê Ngộ, phước Họa, siêu Đọa, Chiến Tranh hay Hòa Bình là do tâm linh Mê Ngộ tạo ra tất cả, hể đã gieo nhân thời phải hưởng quả, phước họa do mình triệu đến. Có lẽ đây cũng là ý Trời mượn Linh Kiếm diệt bớt những loài yêu Tinh, Ma Quỷ hung dữ, pháp thuật cao cường hiểm ác lợi hại cũng có nghĩa là diệt bớt đi vây cánh sức mạnh của Chúa Tinh. Để cho Triệt Giáo thua Xiển Giáo mở ra hội phong Thần sau ba mươi năm nữa ở tại phương Bắc. Nhà Chu lên thay thế nhà Ân.

Có lẽ Ngọc Đế không muốn bàn sâu vào chuyện nầy nữa, lộ nhiều thiên cơ. Ngọc Đế nói:

Các vị Tiên phạm luật Trời nặng thời cho đầu thai xuống trần, phạm nhẹ cho xuống trần để gánh vát tai nạn theo huyền cơ chuyển xây của Tạo Hóa. Vị nào tỉnh ngộ lỉnh hội chân tâm, làm chủ được mình thời ở ngôi vị cũ, nếu có công khai sáng ý Trời thời thăng cấp tùy theo công trạng, vị nào không làm chủ được tâm bị lôi cuốn vào hận thù yêu ghét tàn sát lẫn nhau thời vào ngôi phong Thần, lập công tu chí, tu trí, tu phước, tu Đức, sau ba nghìn năm nửa vào Hội phong Thánh, Long Hoa Đại Hội.

Khi ấy nơi Trung Thiên Vũ Trụ, nơi tần Trời thứ 16 Cõi Thiên Vân có hai vị Lão Tổ Tổ đang hội đàm với Đức Chí Tôn. Bỗng Huyền Cơ Lão Tổ Tổ cáo từ Đức Chí Tôn biến mất trong không gian, nháy mắt đến nơi trận chiến, nhìn thấy yêu Tinh, Ma Quỷ chết thôi vô số vô biên tan thây nát thịt chung cùng số phận với quân Ân.

Lúc bấy giờ Kiếm khí đang càn quét dữ dội mờ trời mịt đất, Ngũ Long, Ngũ Phụng do Hậu Thiên Bảo Kiếm tạo ra đang bay lượn thu hút thần lực vũ trụ, truyền đến Ngũ Linh Bảo Kiếm, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Sấm sét ầm ầm rung chuyển đến tam thiên đại thiên thế giới, lợi hại quá lợi hại sức mạnh của chúng ở Hậu Thiên Bảo Kiếm. Không phải Hậu Thiên Linh Kiếm thôi đâu, mà còn có cả Địa Linh Thiên Kiếm nữa, thì ra Hồng Quân Lão Tổ Tổ cũng đến, hai Lão Tổ Tổ phất tay một cái tức thời Hậu Thiên Linh Kiếm cùng Địa Linh Thiên Kiếm về tay hai Lão Tổ Tổ.

Khi ấy ở Hạ Tiên Vũ Trụ một luồng Ngũ Sắc bay lên, hai Lão Tổ Tổ nở nụ cười bí mật nói:

Thông Thiên ngươi tới trễ rồi, trò mà muốn hơn thầy sao được.

Hai Lão Tổ Tổ biến mất trong không gian vô tận.

Đây nói về Thông Thiên giáo chủ ở Bích Du Cung thấy trời đất rung chuyển, biết là có báu lạ vũ trụ xuất hiện, liền ra khỏi Bích Du Cung chớp mắt đã đến chỗ giao chiến quân Ân và quân Văn Lang, thấy quân Ân cùng các loài yêu Tinh chết la chết liệt là do bốn Linh Kiếm tạo ra. Thông Thiên giáo chủ nghỉ: Tất cả là của ta.

Liền phất tay một cái không ngờ thâu không được, Kiếm Linh tỏa linh khí càng thêm mờ mịt, sấm sét bùng lên dữ dội, những thân xác yêu Tinh bị sấm sét đánh ra tro bụi, Thông Thiên giáo chủ giật mình: Lợi hại quá. Bằng tàn hình ẩn vào không gian thò tay cướp lấy bốn thanh Linh Kiếm, cả Kiếm lẩn vỏ biến mất trong không gian.

Vì thiếu mất Địa Linh Tiên Thiên Bảo Kiếm nên Thông Thiên giáo chủ đặc lại tên mới. Tứ Linh Triệt Kiếm.

1: Tru Tiên Kiếm.

2: Lục Tiên Kiếm.

3: h.ãm Tiên Kiếm.

4: Tuyệt Tiên Kiếm.


Sau nầy Thông Thiên giáo chủ dùng bốn Linh Kiếm, mở trận tru Tiên h.ãm hại Xiển Giáo.

* * *



PHẦN 64


Đây nói về Hùng Tiên Lang Quốc Vương dẩn 10 vạn quân theo sau tiếp viện, đại quân rời khỏi Nam Kinh Xích Quỷ hơn 200 dặm thời nghe sấm chớp ầm ầm, nghỉ là do Linh Kiếm tạo ra liền nghỉ ngay đến Hậu Thiên Linh Kiếm. Hùng Tiên Lang Quốc Vương bằng rút Hậu Thiên Linh Kiếm ra mục đích là xem thử, thời bất ngờ một tiếng nổ long trời lở đất xảy ra muôn Đạo hào quang tua tủa phóng lên không trung, hiện ra Ngũ Long, Ngũ Phụng, hào quang muôn màu muôn sắc sáng rực cả phương Nam, Ngũ Long, Ngũ Phụng bay lên lộn xuống, cuồng phong nổi dậy ầm ầm. Mười vạn quân Văn Lang hộ giá Vua Hùng nhìn thấy kỳ tích lạ đời ấy quỳ lạy không ngớt.

Tiên Lang Quốc Vương sửng sốt, một chuyện lạ phải nói hàng vạn năm chưa thấy một lần, chừng thấy Thiên Long Địa Chấn ầm ầm Đất Trời muốn sụp, Hùng Vương kinh hoảng thâu Kiếm vào vỏ nhưng không được, trong khi ấy trời đất mỗi lúc mỗi thêm mù mịt, sấm sét càng lúc càng dữ dội. Bỗng như có một lực vô hình nào đó đoạt mất Hạ Thiên Linh Kiếm, Vua Hùng còn đang sửng sốt thời sấm chớp các nơi cũng không còn nữa.

Vua Hùng tự hỏi:

Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

Nhưng không ai trả lời được câu hỏi ấy, kể cả Cao Lạc Tể Vương, Quân Sư đương thời.

Đây nói về mục tiêu 1, mục tiêu 2, mục tiêu 3. Quân Ân đóng đô trên đất Văn Lang đã bị quét sạch không còn một mạng sống sót. Chuyển sang giai đoạn hai là giai đoạn ba mũi giáp công đánh thẳng vào trung tâm đầu não, hốt trọn ổ quân xâm lược, làm thịt tay Hôn Quân vô Đạo Ân Trụ Vương. Cánh quân do Điền Điền Lang, Hùng Cao Vương chỉ huy, sau khi triệt phá tiêu diệt sạch quân Ân tại huyện Trùng Giang, thời đưa quân vượt qua sông Nam Trường Giang, tiến thẳng ra Bắc sông Trường Giang đánh thẳng vào trung tâm đầu não doanh trại. Ân Trụ Vương đang ở Giang Giang Châu khí thế hừng hực gươm, đao, giáo, mác quân reo ngựa hí dậy trời. Cánh quân thứ hai do Diệp Lang, Tây Thục Vương sau khi quét sạch quân Ân tại huyện Tây Bắc Triết Nam Giang, thời đưa quân vượt qua sông Nam Trường Giang đánh bọc xuống Giang Giang Châu, quân reo ngựa hí rầm rầm rộ rộ cát bụi mịt mù ai thấy cũng phải kinh hãi.

Cánh quân thứ ba do Cao Lạc Hầu Vương, Cao Lạc Hải chỉ huy, sau khi quét sạch quân Ân tại huyện Nam Giao, thống lãnh đại quân vượt qua Nam sông Trường Giang đánh bọc lên Giang Giang Châu rầm rầm rộ rộ gươm Đao giáo mác sáng ngời ai thấy cũng kinh.

Đã đến lúc quân Nam càng quét

Thời Đất Trời gào thét chuyển rung

Quân Nam rầm rập tiến quân

Binh hùng tướng mạnh giáo gươm dậy trời.

Ba mũi đại quân từ ba hướng Đông Tây Nam tấn công đồng loạt về Giang Giang Châu khí thế ngút Trời, khi gần đến Giang Giang Châu thời phát hiện quân Ân đã rút đi tự bao giờ, tuy biết thế nhưng ba cánh đại quân vẫn ồ ạt như cuồng phong vũ bão ào ào lao tới, thời y như thám báo đã báo, doanh trại đã dọn đi từ lúc nào, quân Ân đã đi khá xa không đánh mà thắng, thế là giai đoạn hai mục tiêu hoàn thành, giặc Ân sợ hãi bỏ chạy, quân ta toàn thắng, niềm vui lan tỏa khắp đất nước Văn Lang.

Hoa Độc Lập Tự Do vẫn như ngày nào, mùi hương nồng ấm thơm ngát non sông, đàn cò trắng vẫn bay qua xốm làng lũy tre xanh thẳm, trận chiến kết thúc nhưng còn chờ quyết định của Vua Hùng, chuyển sang giai đoạn ba. Một là tấn công chinh phạt đất Bắc. Hai là rút quân cũng cố bảo vệ chủ quyền Độc Lập.

Qua hai ngày sau thời đại quân bảo vệ Vua Hùng đến, quan binh tướng sĩ hai bên đường đón chầu. Hùng Vương an ngự xong, quan văn tướng võ, Lạc Hầu, Lạc Tướng, Lạc Vương, Hầu Vương đến cung thỉnh lạy tạ.

Nét mặt Hùng Vương vô cùng rạng rỡ nói:

Các khanh bình thân miễn lễ.

Vua Hùng nói:

Mộng xâm lược nhà Ân đã tan theo mây khói, chúng thất bại ê chề nhục nhã, những tên háo chiến xâm lược dẫm chân lên đất Văn Lang, tất cả đều bỏ mạng làm phân cho đất nước chúng ta. Sự nỗ lực chiến đấu của quân ta, chiến đấu anh dũng, chiến đấu mưu trí, đã đưa lũ ngoại xâm vào con đường cùng, con đường chết tội ác của chúng đã rõ, theo quan văn tướng võ thời chúng ta phải làm thế nào cho hả cơn giận, khi chúng chà đạp lên non sông đất nước chúng ta.

Quan văn Tướng võ đồng thanh nói:

Muôn tâu Quốc Vương, chúng ta đánh tới Kinh Đô của chúng, nhổ cỏ tận gốc quét sạch những tên xâm lược còn sót lại.

Vua Hùng yên lặng suy nghĩ. Thời Quốc Sư Cao Lạc Tể Vương nói:

Muôn tâu Quốc Vương có năm điều chúng ta không nên làm.

1: Là chúng ta là con cháu Tiên Rồng, con cháu nhà Trời, không phải là quân xâm lược chỉ bảo vệ Chủ Quyền Độc Lập, bảo vệ lãnh thổ Ông Cha ta đã gầy dựng lên, theo ý của Đức Cha Trời. Nếu chúng ta đưa quân sang đất Bắc thời họ sẽ liều mạng chống trả lại ta, toàn dân kháng chiến chống ngoại xâm sức mạnh đoàn kết chống ngoại xâm là sức mạnh thiêng liêng cao quí của mỗi dân tộc. Chúng ta không phải là quân xâm lược mà là đội quân Chính Nghĩa, vũ khí của chúng ta là Công lý, Tự do bình đẳng tôn trọng lẫn nhau. Họ xâm lược chúng ta vì họ là những kẻ tàn bạo, ác độc, tà đạo. Còn ta là những người yêu nước, sống theo Chính Nghĩa, vì thế chúng ta không tấn công qua nước họ mà chỉ giữ vững Chủ Quyền Độc Lập Bảo Vệ lãnh thổ của ta mà thôi.

2: Truyền thống của ta từ xưa tới nay là thứ truyền thống chống ngoại xâm, tất cả mọi người dân đều sống theo Hiến Pháp dựng nước và giữ nước. Mà chỉ có Hiến Pháp dựng nước và giữ nước mới là Tôn Chỉ Chí Tôn vô thượng. Vua quan nối nhau giữ gìn như gìn giữ sinh mạng của mình, có thể nói các thế hệ con cháu vua quan nối tiếp nhau, trung thành hiếu thuận, phát huy truyền thống dựng nước, giữ nước, mỗi ngày mỗi thêm đâm chồi nẩy lộc đơm bông kết trái. Hiến Pháp dựng nước là Hiến Pháp bình đẳng, quyền Độc Lập, quyền Tự Do, quyền mưu cầu hạnh phúc, được phát huy và bảo vệ tối đa, truyền thống dựng nước chính là nền Hiến Pháp Quốc Đạo Dân Tộc.

Có thể nói Quốc Đạo là quả tim Dân Tộc.

Quốc Hội là trung tâm đầu não Dân Tộc, Quốc Đạo hay Quốc Hội, Tôn chỉ mục đích là thế Thiên hành Đạo, bảo vệ Chính Nghĩa, giữ gìn Chính Nghĩa, phát huy Chính Nghĩa, tiêu diệt tà Ma ác Đạo, trừng trị cái tội ngoại xâm của chúng, khi chúng đã dẩm chân lên đất nước chúng ta và chúng ta đã làm được điều nầy. Để khỏi sai phạm về Thiên Đạo, Thiên Luật thời chúng ta không nên xâm phạm Chủ Quyền Độc Lập của chúng. Xét cho cùng Ân Trụ Vương là kẻ háo chiến còn dân Bắc chỉ là nạn nhân chiến tranh mà thôi, chúng ta không thể vì một tên Vua Trụ háo chiến mà dẫn đến đầu rơi máu đổ thêm nữa, mang tiếng xâm lược chúng ta không phải là Quân Đội hiếu chiến mà chỉ là Quân Đội bảo vệ tự do hòa bình, Quân Đội chính nghĩa.

3: Không có cuộc chiến nào là có lợi mà chỉ dẫn đến sự đổ nát, đau thương cha mất con, vợ mất chồng, hận thù chồng chất lên nhau, hao tổn tài nguyên non sông đất nước, con người cũng như vật chất. Cuối cùng cũng chỉ là con số không, xâm lược gây ra đau thương cho những đất nước láng giềng là Đại tội ác, chúng ta cần phải tiêu diệt chúng, quét sạch chúng không còn một tên, không phải trên đất nước họ mà là trên đất nước chúng ta.

4: Cuộc chiến tranh tốc chiến tốc thắng kéo dài hơn ba tháng, chết chóc thương vong cũng nhiều, lúc nầy là lúc chúng ta hướng về đau thương mất mác, chia sẽ vượt qua khó khăn, động viên giúp đỡ những anh em đã ngã xuống vì quê hương Tổ Quốc vì Đồng Bào dân tộc, vì tự do an lành. Họ là những vì sao sáng, mãi mãi soi đường chúng ta đi. Chúng ta chỉ có một nền Quốc Học truyền thống dân tộc và mảnh đất Tiên Rồng chống ngoại xâm. Ngoại xâm đã khiếp sợ bỏ chạy, chúng ta không nên rượt theo truy sát tận ổ của chúng vì chúng ta phải đối mặt với toàn dân kháng chiến trên đất Bắc. Lại mùa Đông đã đến phương Bắc nhiệt độ xuống thấp, bảo tuyết mưa tuyết phủ đầy, không phù hợp cho quân ta ở lâu trên đất chúng, chiến tranh càng kéo dài chúng ta càng bất lợi.

5: Là ý Đức Cha Trời không cho chúng ta đánh qua đất Bắc, bằng chứng là Trời đã thâu hết 6 Linh Kiếm Trấn Quốc về Trời, vũ khí lợi hại nhất của chúng ta.

Nghe tới đây các quan văn tướng võ đều ồ lên. Điền Điền Lang, Hùng Cao Vương, Diệp Lang, Tây Thục Vương, Cao Lạc Vương đồng loạt bước ra quỳ trước Hùng Vương tâu rằng:

Muôn tâu. Quốc Thần đáng tội chết đã làm mất Bảo Vật Trấn Quốc.

Vua Hùng chỉ biết làm thinh rơi nước mắt, các quan văn võ thấy Vua Hùng rơi nước mắt đều vô cùng sợ hãi.

Vua Hùng nói:

Báu vật truyền đời gần hai nghìn năm, nay tới đời ta thời Trời thâu mất, ta đã làm gì nên tội.

Vua Hùng nói xong nước mắt chảy ròng:

Các khanh đứng dậy các khanh không có tội, mà là ta.

Quan văn tướng võ thấy thế đồng thanh nói:

Bệ Hạ, Bệ Hạ.

Cao Lạc Tể Tướng tâu:

Không phải Bệ Hạ có tội mà Huyền Cơ đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn phong Thần nơi đất Bắc.

Vua Hùng nghe có lý liền ra lệnh cho quân rút lui về Nam Kinh Xích Quỷ.

Đây nói về Ân Trụ Vương, kinh sợ khiếp đảm trước sự phản công của quân Văn Lang. Cùng 30 vạn quân bỏ chạy, âm thầm lặng lẽ vượt qua Bắc sông Trường Giang nhắm hướng Tây Ân, Lạc Dương tiến thẳng về Tây Dương, Triều Ca, lòng buồn rười rượi uy quyền tôn nghiêm không còn như xưa. 700 trấn chư hầu vốn coi Ân Trụ Vương bật Thánh nhưng nay xem vua Trụ chỉ là một tên háo chiến, đem sinh mạng quân tướng vào họng Rồng Cọp vì cuộc chiến tranh xâm lược đầy tốn kém ấy, dẫn đến đói rét dân chúng lầm than, lại thêm thời tiết khắc nghiệt bệnh dịch nổi lên cùng khắp, xâu thế mỗi tháng mỗi tăng, Vua Trụ càng ngày càng mất lòng tin nơi dân chúng.

Đã vậy Vua Trụ càng ngày càng tàn ác, mê say tửu sắc, dâm loạn vô cùng, trở thành một hôn quân Vô Đạo, đi ngược lại Đạo Đức, nghe theo lời tà Ma ngoại Đạo, Đạo Đức xã hội xuống cấp trầm trọng, trộm cướp khắp nơi nổi lên khắp mọi nơi, thế là cuộc đàn áp nổi lên khắp mọi nơi không còn luật lệ gì nữa những trung Thần phản ảnh can gián liền bị xử tử.

Đã thế Ân Trụ Vương còn chọc giận đến các Thánh Linh và Nữ Oai Nương Nương là một trong những số Thánh Linh ấy. Yêu Tinh ra phò Ân Trụ Vương mỗi lúc một nhiều làm hại muôn dân, các trung Thần khuyên can không được bị Vua Trụ ép vào đường cùng đành phải làm phản. Tạo ra một thế lực lớn chống trả lại triều Ân Vua Trụ và thế lực chống trả đó đứng đầu là Tây Bá Hầu Chu Văn Vương. Thế là Thiện Ác đối đầu, Tà Chánh phân tranh.

Vua Trụ có Triệt Giáo yêu Tinh ra giúp. Văn Vương có Xiển Giáo Tiên Thánh ra giúp, Huyền Cơ đã mở màn cho hội phong Thần ra đời, bổ nhiệm vào các vì sao xưa nay vẫn vô chủ.

Đây nói về Nam Kinh Xích Quỷ cờ xí tung bay phất phới, bông hoa các nơi tựu về chật nghẹt rực rỡ đủ màu đủ sắc. Không phải chỉ Nam Kinh Xích Quỷ không thôi mà các Bộ, Châu, Huyện khắp cả nước đều thế nhất là Kinh Đô Văn Lang càng rực rỡ hơn nữa. Tuy rằng Hùng Vương còn ở tận phương Bắc, trên đường thắng trận hồi Kinh, dọc hai bên đường hàng trăm dặm, dân chúng phất cờ nhảy múa, ca ngợi chiến công oanh liệt, đánh bại quân thù xâm lược, bảo vệ chủ quyền Độc Lập, bảo vệ lãnh thổ nước Văn Lang, hô vang khẩu hiệu:

Con Cháu Tiên Rồng anh hùng, anh hùng, anh hùng, Non Sông Tổ Quốc mãi mãi Độc Lập, Tự Do mãi mãi, mãi mãi, mãi mãi, Vua Hùng vạn tuế muôn năm, vạn tuế muôn năm.

Cao Lạc Tể Vương cùng một số quan văn tướng võ nòng cốt, bận rộn suốt ngày, bề bộn nhiều việc, có thể nói mệt nhừ, nhất là công việc tấu trình, phong quan tiến chức, khen thưởng, đây là một việc làm hết sức khó khăn, cân nhắc, công minh trước khi dâng lên Vua Hùng.

Hôm nay là một ngày đẹp đẽ, có lẽ Đất, Trời cũng muốn chia vui cùng con cháu Tiên Rồng, một ngày dịu mát, những đàn chim hôm nay cũng dậy sớm hơn mọi khi, nhảy nhót trên những nóc phố lùm cây, đường phố, ríu ra ríu rít vui nhộn, cơn gió nhẹ làm khoan khoái cả lòng người, ánh nắng hồng rực rỡ tràng về hôn nhẹ lên quê hương non sông Tổ Quốc, làm cho cây cỏ hoa màu ấm áp sanh sôi nảy nở đâm chồi nẩy lộc xanh tốt, chuyển mình đơm hoa kết trái.

Trên Lễ Đài. Vua Hùng nét mặt rạng rỡ, toát lên vẻ anh minh hiền từ như người cha đối với các con, ngồi dưới trước bức tượng Kinh Dương Vương Bồng Quốc Tổ. Nhìn thấy bức tượng các quan văn tướng võ như nhớ lại, hồi tưởng cách đây gần hai nghìn năm, tình phụ tử cha con mà Kinh Dương đã dành hết cho Quốc Tổ Vua Hùng vì Quốc Tổ Thiên Tài vĩ đại.

Thấy bá quan văn võ đủ mặt, quân, dân trùng trùng điệp điệp. Vua Hùng đứng dậy hướng mặt nhìn về bức tượng Kinh Dương bồng em bé, Quốc Tổ Vua Hùng hồi còn nhỏ lễ lạy. Các quan văn tướng võ, ba quân tướng sĩ, Đồng Bào đồng lạy theo. Những phút mặc niệm, nhớ đến Quốc Tổ Vua Hùng:

Một vị Quốc Tổ lớn lên trong tình thương Cha, Mẹ, tình thương non sông Tổ Quốc nước Xích Quỷ. Quốc Tổ lớn lên thông minh khác thường, Tự Tu, Tự Chứng tiếp nhận ý Cha Trời mở ra Văn Hóa Cội Nguồn Tiên Rồng, Cội Nguồn của toàn nhân loại Vũ Trụ, thống nhất bá tánh muôn dân trăm họ từ trên Non, Đồng Bằng, Hải Đảo.

Quốc Tổ thống lãnh bá tánh muôn dân, Đồng Bào trăm họ, mở rộng nước Xích Quỷ vào Nam, đặt chân đến Địa Long Vũ Trụ, mở ra thời đại mới, thời đại Văn Minh, Đồng, Thau, Sắt, Thép. Văn Minh hội họa, nghệ thuật điêu khắc, vẽ hình, họa cảnh. Mở rộng nền nông nghiệp Văn Minh lúa nước, Văn Minh Đạo Giáo vượt xa nền phong kiến Thần giáo, phong kiến Quân Chủ, phong kiến Địa Chủ, phong kiến chiếm hữu nô lệ.

Tiến đến lấy dân làm gốc, lấy luật làm thầy, lấy nền Hiến Pháp Văn Hóa Cội Nguồn Quốc Đạo làm Vua, lấy cán cân công lý là lẽ sống cho xã hội, bình đẳng Vua, quan, tướng, dân, hể có công thời khen thưởng, có tội đều được nghiêm trị, Vua, quan, dân, tướng như nhau. Quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, Hiến Pháp ban hành, luật phát bảo vệ triệt để.

Thời đại Văn Minh tinh thần lẫn vật chất, thời đại lấy Chính Nghĩa, Đạo Đức uốn nén dân, lấy luật trị dân. Bạo lực, độc quyền không dùng đến, chỉ theo Hiến Pháp luật pháp, thượng viện Quốc Đạo, hạ viên Quốc Luật mà thôi, trước sau như một. Phải nói Quốc Tổ là vị vua anh minh, tôn thờ Hiến Pháp, Luật Pháp triệt để, vượt xa các bật vua chúa ở vào thời đại đó. Quốc Tổ Vua Hùng về Trời để lại hai di sản.

Một là: Tổ Quốc Non Sông.

Hai là: Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc.

Và từ đó đến nay bao thế hệ con cháu nối nhau gìn giữ phát triển không ngừng, nghỉ đến công lao dựng nước, khai đạo đứng đầu là Hùng Tiên Lang Quốc Vương, đời thứ 26 thượng Hạ Hùng Vương, đời thứ ba Hạ Hùng Vương, quỳ trước bức tượng chân dung hai vị Quốc Tổ Kinh Dương Vương và Hùng Vương, thành tâm lễ bái, Trung Hiếu triệt để, tuân theo lời dạy của Quốc Tổ, giữ yên bờ cõi cho tận mai sau, cuộc hành lễ tưởng nhớ công ơn người dựng nước xong, quan văn tướng võ an vị chỗ ngồi.

* * *
 
PHẦN 65

Bài diễn văn khai mạc, lễ phong sắc, phong hàm phong vị, khen thưởng có công chống ngoại xâm, giọng sang sảng vang xa trầm ấm:

Hỡi ba quân tướng sĩ, hỡi Đồng Bào trăm họ, từ khi Quốc Tổ dựng nước Văn Lang tới nay đã gần hai nghìn năm, truyền thống dựng nước, giữ nước luôn luôn được giữ vững phát huy tiếp nối. Các thế lực ngoại xâm luôn luôn dòm ngó, chúng đã bao phen xâm lược nhưng đều thất bại, thất bại khiếp đảm, thất bại kinh hoàng.

Chúng thất bại phần lớn là do tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, tinh thần chịu khó đã đưa Quân Đội ta, dân tộc ta hết thắng lợi nầy sang thắng lợi khác, hết chiến công nọ đến chiến công kia, trở thành dân tộc Thần Thánh, nở hoa anh hùng, kẻ thù nào cũng đánh thắng, thế lực nào cũng bị đánh bại. Sống trên mảnh đất Tiên Rồng, mỗi lần có ngoại xâm là mỗi lần làm cho giặt thấy sức mạnh, tinh thần yêu nước, sức mạnh quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, triệu triệu người như một, chung lưng đấu cật, chung tay chung vai gánh vác khó khăn, trong đó có các vị Thần, có cả Hồn Thiên dân tộc bao đời hiện về giúp cho thế hệ con cháu chúng ta quét sạch ngoại xâm.

Vua Hùng nói tới đây. Thời trên không trung Hồn Thiêng dân tộc hiện ra trùng trùng điệp điệp, bảy vị Thần hiện ra nói:

Chúng Thần đến trễ xin Quốc Vương thứ tội.

Vua Hùng nói:

Miễn lễ.

Rồi mời bảy vị Thần vào ngôi vị danh dự. Vua Hùng lại tiếp tục bài diễn văn. Vua Hùng nói:

Theo Hiến Pháp Văn Lang có tài có đức, ra phò Chính Nghĩa trừ tà diệt ác, có công bảo vệ nền Quốc Đạo, có công với Non Sông Tổ Quốc đều được phong hàm, phong vị, khen thưởng tùy theo công trạng của mỗi người mà Phong Hầu, Phong Vương, Phương Thần, Phong Thánh. Cao Lạc Tể Vương tiếp chỉ. Có Thần.

Tiếp chỉ xong Cao Lạc Tể Vương đọc rằng:

Phụng Thiên thừa vận. Chiếu theo Hiến Pháp Văn Lang.

Sắc phong Hồn Thiêng Dân Tộc, có công bảo vệ Chánh Nghĩa, tiêu diệt tà Ma ác Đạo yêu Tinh, cứu bá tánh trăm họ thoát khỏi cảnh lầm than. Sắc phong: từ Hồn Dân phong lên Hồn Thần, từ Hồn Thần phong lên Trung Thần, từ Trung Thần phong lên Đại Thần, từ Đại Thần phong lên Thánh, từ Thánh phong lên Đại Thánh, từ Đại Thánh phong lên Nữ Thánh Mẫu, Nam Thánh Tổ. Hồn Thiêng Dân Tộc nghe nhận sắc chỉ sắc phong xong vái tạ Vua Hùng rồi biến mất.

Cao Lạc Tể Vương tiếp tục đọc:

Sắc phong các vị Thần trấn thủ khắp nơi, có công bảo vệ Chính Nghĩa, tiêu diệt tà Ma ác Đạo yêu Tinh, cứu bá tánh trăm họ thoát khỏi lầm than.

1: Sắc phong: Vệ Linh Thần Núi nay phong lên là Vệ Linh Quang Thánh.

2: Sắc phong: Tiên Sơn Thần Núi nay phong lên là Tiên Sơn Dũng Thánh.

3: Sắc phong: Liên Sơn Thần Núi nay phong lên là Liên Sơn Hùng Thánh.

4: Sắc phong: Động Hồ Thần Chủ nay phong lên là Động Hồ Công Thánh.

5: Sắc phong: Giang Công Thần Chủ nay phong lên là Giang Công Đức Thánh.

6: Sắc phong: Hùng Phong Thần Núi nay phong lên là Hùng Phong Trung Thánh.

7: Sắc phong: Hải Nam Thần Biển nay phong lên là Hải Nam Đế Thánh.

Bảy vị Thần nhận lỉnh sắc phong xong vái tạ Vua Hùng biến mất.

Nhìn ba quân tướng sĩ, dân chúng trùng trùng điệp điệp, Vua Hùng nổi lên một tấm lòng yêu thương vô hạn. Nghĩ đến cảnh toàn quân, toàn dân kháng chiến, kháng chiến anh dũng, kháng chiến quên mình vì nước, tất cả đều có công, nào phải riêng ai, thời tất cả đều được khen thưởng phong hàm phong vị.

Cao Lạc Tể Vương tiếp tục đọc bản sắc phong toàn Quân, toàn Dân:

Phụng Thiên thừa vận, chiếu theo Văn Lang Hiến Pháp, muôn dân trăm họ có công, góp công, góp của, góp sức, đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ, giữ vững chủ quyền Độc Lập nước nhà.

Sắc phong: Từ dân thường nay phong lên “Thần” Thần Dân trăm họ. Miễn thuế cho những Châu, Quận, Huyện bị giặc tàn phá, nặng mười năm, nhẹ năm năm, còn các Châu, Quận, Huyện khác thời giảm thuế một năm. Những gia đình có con, có cha, có chồng, có anh, có chị, có em hi sinh vì Tổ Quốc cũng như thương tật, người thờ phụng, chăm sóc được cấp cho ruộng làm ăn, miễn thuế.

Dưới lễ đài, dân chúng mừng vui khôn tả hô vang khẩu hiệu:

Văn Lang muôn năm, muôn năm, muôn năm, Con Cháu Tiên Rồng anh hùng, anh hùng, anh hùng. Hùng Vương vạn tuế muôn năm, muôn năm, muôn năm.

Âm thanh lan truyền nối nhau vang dội khắp non sông Tổ Quốc, mây ngũ sắc đầy Trời, Đức thơm vạn cõi.

Sắc phong: Ba quân tướng sĩ, từ Quân Dân phong lên Quân Thần, từ Cấp Tướng phong lên Thần Tướng, từ Tướng Soái phong lên Trung Thần. Từ Chủ Soái, Thống Soái, phong lên Đại Thần. Đại Thần, Hầu Tướng, Lạc Tướng bổ nhiệm về các Châu Phủ. Trung Thần, Tướng Soái, Bố Thánh Đại Nhân bổ nhiệm về các Châu nhỏ, Quận, Huyện lớn đông dân. Thần Tướng, Quan Lạc Điền, Lạc Dân gọi là Hữu Chính, Quan Hữu Chính bổ nhiệm về các Quận, Huyện, còn các phó tướng bổ nhiệm vào cấp xả tiếp tục lo cho dân, lo cho nước.

Sắc phong ba quân tướng sĩ vừa dứt, tiếng reo mừng ba quân tướng sĩ làm chấn động đến Thần Linh, đến cõi Trời ở gần Hạ Giới, làm cho các Thần Tiên cũng vui lây. Tiếng hô vang Hùng Vương vạn tuế vạn vạn tuế không ngớt. Lệnh phất cờ tất cả đều im lặng.

Cao Lạc Vương tiếp tục đọc bản sắc phong kế tiếp:

Phụng Thiên thừa vận, chiếu theo Hiến Pháp Văn Lang, có Tài có Đức ra phò Vua giúp nước, lập nhiều công trạng đều được phong hàm, phong vị, phong quan, phong tước, phong hầu, phong Vương, phong Thần, phong Thánh.

Sắc phong: Hùng Cao Vương, Cao Lạc Vương, Tây Thục Vương tiếp chỉ. Ba vị Vương Gia nghe tên liền đứng dậy tiến ra lễ đài, nghe nhận sắc phong chiếu chỉ. Sắc phong ba vị Vương Gia Đại Đại Thần nay phong lên ba vị Đức Thánh.

1 - Tây Thục Vương Gia Đại Đại Thần nay phong lên là Tây Vương Đức Thánh.

2 - Hùng Cao Vương Đại Đại Thần nay phong lên là Bắc Vương Đức Thánh.

3 - Cao Lạc Vương Gia Đại Đại Thần nay phong lên là Đông Vương Đức Thánh.

Bỗng lộc khen thưởng: Ba xe vàng, ba xe bạc, mười xe gấm, trích ra một phần ba, khen thưởng cho các Bộ, Vương phủ, Châu phủ có công gián tiếp chống ngoại xâm. Ba vị Vương Gia nhận lỉnh sắc phong chiếu chỉ, lạy tạ Vua Hùng trở về chỗ ngồi.

Kế đến sắc phong chín người con của Tây Thục Vương, tức thời mười hai người con cả dâu tiến ra lễ đài để nhận sắc phong, cha chết thời con thế.

Sắc phong: Từ Đại Thần Lạc Tướng, Hầu Tướng nay phong lên Đại Đại Thần, Hầu Vương, Lạc Vương từ Châu phủ lên Vương phủ, bỗng lộc tăng gấp đôi, ruộng đất cũng tăng gấp đôi, từ 50 mẫu tăng lên 100 mẫu, vàng nghìn lượng, bạc nghìn nén, gấm 100 cây cho mỗi Hầu Vương, Lạc Vương.

Sắc phong: Ba vị phu nhân tuy là phận nữ nhi nhưng không kém gì nam nhân hảo hán, hiếm thấy gan dạ đối mặt với quân thù. Sắc phong ba vị phu nhân thành ba vị phu nhân anh hùng Kiên Trung Đại Nương, vàng nghìn lượng, gấm trăm cây.

Mười hai vị con cháu Tây Thục Vương nhận lỉnh sắc phong chiếu chỉ xong lạy tạ Vua Hùng trở về chỗ ngồi. Và cứ thế lần lượt Cao Lạc Tể Vương tiếp tục đọc chiếu chỉ sắc phong.

Sắc phong: Trung Đại Nhân, Cao Lạc Hổ, An Lạc Điền, Cao Lạc Hải, Ngô Thời Nhuận. Sắc phong năm vị Quan phủ lên Vương phủ, Thượng Quan Hầu Vương, Lạc Vương Đại Đại Thần, bỗng lộc khen thưởng, ruộng đất 100 mẫu, vàng nghìn lượng, bạc nghìn nén, gấm trăm cây cho mỗi Hầu Vương Gia, Lạc Vương Gia, năm vị Vương Gia nhận lỉnh sắc phong chiếu chỉ xong lạy tạ Vua Hùng trở về chỗ ngồi.

Sắc phong: 1 An Lạc Sơn, 2 Nguyễn Sinh Kỳ, 3 Trần Nhân Luân, 4 Nguyên Chấn Lạc, 5 Cao Hùng Phi, 6 Huỳnh Trung Hải, 7 Đinh Hùng Quân, 8 Mai Đức Thọ, 9 Huỳnh Trung Phong, 10 Cao Đình Luân, 11 Văn Quang, 12 Lô Gô, 13 Bùi Xuân Mẹo, 14 Trung Hoài Nghĩa, 15 Mường Thái, 16 Đinh Hoàng, 17 Tùng Quang, 18 Phan Anh Tuấn, 19 Nguyên Gia Thành, 20 Hoàng Độ, 21 Hoàng Cao, 22 Đại Lực, 23 Thần Quân, 24 Ngô Gia Đông, 25 Ngô Thạch Hãn, 26 Mai Xuân Lành, 27 Thi Đại An, 28 Lê Công Minh, 29 Lê Đại Đại, 30 Thạch Lam, 31 Vũ Hà. Còn các vị phó tướng lên tới cả trăm vị, 31 vị tướng lĩnh kể trên sống thời bổ nhiệm làm quan phủ, bổ nhiệm về các Châu phủ, chết thời nhận lảnh bỗng lộc khen thưởng, phong quan tiến chức theo sắc lệnh, sắc phong ba quân tướng sĩ. Bỗng lộc khen thưởng cấp quan phủ 31 vị trên sống cũng như chết, ruộng đất 50 mẫu, vàng trăm lượng, bạc trăm nén, vải gấm 50 cây cho mỗi vị. Một trăm vị phó tướng sống thời bổ nhiệm làm quan Bố Chánh, làm quan Hữu Chính, bổ nhiệm về các Quận, Huyện theo sắc lệnh, sắc phong ba quân tướng sĩ chết thời nhận bổng lộc, phong quan tiến chức theo sắc lệnh, sắc phong ba quân tướng sỉ bổng lộc khen thưởng cấp Quận, Huyện, Quan Bố Thánh, Quan Hữu Chính, vàng ròng 50 lượng, bạc 50 nén, gấm vóc 10 cây, ruộng đất 20 mẫu. 131 vị quan cấp Châu phủ, cấp Quận Huyện nhận lỉnh sắc phong chiếu chỉ xong lạy tạ Vua Hùng trở về chỗ ngồi.

Sắc phong: Tám vị nhi nữ anh hùng: 1 Ngọc Thiên Hương, 2 An Lạc Tiên, 3 Hạ Tiên, 4 Ngọc Linh Châu, 5 Nê Diêng, 6 Khơ Nia, 7 Chăm Pha, 8 Ba Na sắc phong sống cũng như chết, Đệ Nhất nhi nữ anh hùng, Kiên Trung hào kiệt, bổng lộc khen thưởng, vàng nghìn lượng, gấm trăm cây, những vị chết, cha mẹ, anh, em thay thế nhận lãnh.

Sự xuất hiện trên lễ đài ba vị tuyệt thế quốc sắc giai nhân như ba vị Tiên Nữ giáng trần, ba quân tướng sĩ không ngớt lời trằm trồ khen ngợi.

Hùng Vương, Điền Điền Lang nhìn Ngọc Thiên Hương, An Lạc Tiên gục đầu khen ngợi mãi, hình như rất vừa ý, nói với Diệp Lang:

Cháu khéo lựa lắm.

Còn Cao Lạc Vương Gia tức là Đông Vương Thánh nhìn Hạ Tiên không ngớt trằm trồ khen ngợi:

Cao Lạc Đệ khéo lựa ở đâu ra cô vợ tương lai tài sắc vẹn toàn như thế.

Những cử chỉ biểu hiện của Vua Hùng ông nội, cũng như Điền Điền lang cha của Diệp Lang, nhìn Thiên Hương, Lạc Tiên gật đầu khen ngợi mãi. Đều không qua được mắt của hai vị Vương Gia An Lạc Điền và Trung Đại Nhân, hai vị Vương Gia cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Năm vị Đệ Nhất Nhi Nữ anh hùng nhận lãnh sắc phong chiếu chỉ xong lạy tạ Vua Hùng trở về chỗ ngồi.

Khi ấy sương mù bỗng nổi lên mù mịt không chịu tan, ai nấy đều lấy làm lạ, không hiểu là chuyện gì.

Vua Hùng hỏi:

Chuyện gì thế?

Cao Lạc Tể Vương thưa:

Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ đây là lỗi của Thần.

Vua Hùng lấy làm lạ:

Sao là lỗi của Quốc Sư được.

Cao Lạc Tể Vương thưa:

Vì Thần đã viết bản tấu sớ thiếu.

Vua Hùng hỏi:

Thiếu những ai?

Cao Lạc Tể Vương tâu:

Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ.

1: là ghi thiếu Hồn Quân Binh tử sĩ.

2: là ghi thiếu phủ Thánh Tư Mã Đại Nhân.

Bố Thánh Hầu Bưu, Bố Thánh Đại Nhân Bố Cừ Bố Khôi, Bố Thánh Dĩ An ba cha con đều chết sạch.

Hùng Vương cho người mang bút mực viết chiếu chỉ phong cấp, phong sắc cho Hồn Thiên tử sĩ cùng những vị sót thiếu, phong xong mà Hồn Thiêng tử sỉ chẳng chịu tan.

Hùng Vương kinh ngạc:

Còn chuyện gì nữa?

Cao Lạc Tể Vương thưa:

Trên lễ đài Quỷ hắc bạch vô thường khâm sai, từ cõi âm phủ dẫn cha con Hữu Tài đến cho Quốc Vương bệ hạ phán xử vì thế Hồn Thiêng ba quân tướng sĩ nán lại để xem.

Vua Hùng nghe kể về tội ác chất chồng, phân thây xẻ thịt muôn lần cũng chưa hết tội, lợi dụng chức quyền hại dân hại nước, vơ vét của dân, của công, tội ấy dư chết, huống chi bắt đàn bà con gái về làm hầu thiếp, kẻ tố giác hay chống lại đều bị con ngươi bắt nhốt, quăng vào ngục rắn cho rắn ăn thịt, tội ác như non như núi, chưa hết cha con ngươi nối giáo cho giặc, bán nước cầu vinh phản bội lại Non Sông Tổ Quốc, phản bội lại nòi giống Tiên Rồng, đi ngược lại lời dạy Quốc Tổ, phạm luật Trời ắt khó dung tha.

Vua Hùng phán:

Chiếu theo Hiến Pháp Văn Lang thời cha con ngươi đọa vào địa ngục làm súc sanh, Trâu, Bò, Ngựa trả quả cho những người mà cha con ngươi làm hại, hết kiếp Ngựa Trâu, sanh ra làm người thời mù điếc câm tàn tật tay chân, trị cái tội lừa dối Chính Nghĩa, đi ngược lại Cội Nguồn, lời dạy của Đức Cha Trời, hủy bán Hiến Pháp vũ trụ. Mãn kiếp tật nguyền sanh lại làm người thời ngu si nghèo đói ăn xin, để cho Thiên Hạ khinh khi, chửi rủa, trị cái tội hiếp đáp dân lành, xem thường Đạo Đức.

Vua Hùng phán xử cha con Hữu Tài xong thời sương mù tan biến, Trời Đất trong suốt trở lại. Vậy mới biết sống cũng như chết, đều sống chung một quy luật Thiên Đạo như nhau mà Thiên Đạo Cội Nguồn chính là Hiến Pháp Quốc Đạo nước Văn Lang.

* * *



PHẦN 66


Diễn văn bế mạc, giọng Vua Hùng sang sảng vang ra trầm ấm:

Hỡi ba quân tướng sĩ, hỡi Đồng Bào trăm họ chúng ta có chung một nguồn gốc đó là Tổ Tiên Khai Hóa, hiện thân ra Đức Cha Trời, Mẹ Trời, Lạc Long Quân và Âu Cơ. Ông bà tối cao chúng ta sinh ra từ một bọc, bào bọc anh em, năm màu da rực rỡ, 50 Nam, 50 Nữ, mỗi người lấy một họ ngày xưa, trăm họ còn ngày nay thời muôn họ.

Chúng ta hôm nay lại chung một truyền thống Tiên Rồng, chung một Quốc Tổ, chung non chung nước vì phát xuất nhiều cái chung ấy nên con cháu Tiên Rồng ta mang đậm dấu ấn đoàn kết, hàng nghìn hàng triệu năm ăn sâu vào tâm hồn mỗi con cháu chúng ta. Không những chúng ta có chung một Cội Nguồn truyền thống lâu đời mà còn có chung dòng Chính Nghĩa chống ngoại xâm, giữ vững chủ quyền Độc Lập, Độc Lập tự do là báu vật vô giá, không có một báu vật nào có thể đánh đổi được một báu vật mà ông cha ta phải trả giá bằng xương máu, sức lực trí huệ, mồ hôi và nước mắt, gần hai nghìn năm qua, bao thế hệ nối tiếp nhau gìn giữ nhau cho đến ngày hôm nay.

Với mưu đồ xâm lược từ lâu và lần nầy chúng đã xâm lược với quy mô lớn chưa từng thấy trong chiến tranh xâm lược của chúng, có thể nói ta một, chúng ba nhưng chúng có ngờ đâu Dân Tộc ta sinh ra và lớn lên trên tinh thần Quốc Đạo, gươm trí huệ được tôi luyện mài dũa trong nền Quốc Giáo.

Quốc Tổ, Quốc Giỗ, Quốc Lễ, Quốc Giáo, Quốc Đạo là năm tần Bảo tháp rực thắm hoa sen, từ nơi đây tinh thần đoàn kết triệu người như một. Một sức mạnh dời non lấp biển. Bằng chứng là quân xâm lược dù mạnh hơn ta, đông hơn ta. Nhưng chúng đã bị chúng ta hạ gục đánh bại. Chỉ cần chúng đặt chân lên đất chúng ta là chúng không còn mạng sống trở về. Mỗi lần có ngoại xâm là mỗi lần dân kháng chiến. Thêm mỗi lần nở hoa anh hùng, Trung Hiếu chóa ngời.

Ngày hôm nay chúng ta có thể ăn ngon ngủ yên, chồng cày vợ cấy, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, dân giàu nước mạnh, quê hương Tổ Quốc ngày càng phồn thịnh. Cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc, xa nhau rồi để gặp nhau, tình yêu thương vì thế mà càng thêm lớn, chia tay không phải là chia ly vĩnh viễn, chúng ta sẽ gặp gỡ lại nhau qua trôi đổi buôn bán làm ăn trong những ngày hội văn hóa, ngày hội thể dục, thể thao, án mây đen đã qua, bầu trời rực sáng, mùa xuân non sông Tổ Quốc lại trở về. Trăm dân tộc anh em nở hoa đoàn kết nở hoa chung tình. Dòng máu Lạc Hồng bừng lên ánh hào quang rực rỡ trên mảnh đất yêu thương nở hoa Độc Lập. Lễ phong sắc, phong hàm, phong vị đến đây là bế mạc. Chúng ta từ đâu đến thời về chỗ đó, bắt tay vào nhiệm vụ mới, hành trình mới, xây dựng mái ấm gia đình, xây dựng Quê hương Tổ Quốc.

Nghe bài diễn văn bế mạc, ba quân tướng sĩ cũng như Thần Dân 100 họ nỗi lên một tấm lòng yêu kính trọng đối với các vị Vua Hùng như mặt trời nối tiếp nhau, tỏa sáng đem lại sự ấm áp trong cuộc sống, trong lòng người.

Hùng Cao Vương thống lãnh ba quân tướng sĩ, đưa tiễn ba Đại Quân về Nam hơn 30 dặm. Đại Quân Thủ Đô Nam Kinh Văn Lang, Đại Quân Trung Đông Văn Lang, Đại Quân Tây Trung Văn Lang. Nhìn An Lạc Tiên, Ngọc Thiên Hương người ta nổi lên bao điều cảm xúc không diễn tả được, có thể nói cành Liễu thướt tha, miên man chờ đợi gió xuân đưa hồn vào giấc mộng bể trần, trăm năm hạnh phúc.

An Lạc Tiên, Ngọc Thiên Hương ríu ra ríu rít đi sát hai bên Diệp Lang như không muốn rời xa. Hùng Vương, Điền Điền Lang, Trung Đại Nhân, An Lạc Điền như nhớ lại hồi còn trẻ, một thời rực thắm tình yêu. Nào phải An Lạc Tiên, Ngọc Thiên Hương, Diệp Lang không thôi mà còn những cặp tình nhân nẩy sinh từ cùng cam, cọng khổ, giữa cái sống và cái chết trong gang tấc đối mặt với quân thù, tình yêu đồng đội trở thành tình yêu đôi lứa và giờ đây không sao rứt ra được nữa, sợi dây tình yêu vô hình thắt chặt gắng bó họ thêm.

Kìa tôi nói có sai đâu, Hạ Tiên lúc nào cũng đi sát bên Cao Lạc Hải như cặp uyên ương chẳng muốn rời nhau. Lạ hơn nữa, hai dân tộc khác nhau nay gắn bó với nhau, phải chăng tình yêu là một thứ tình thiêng liêng, nhịp cầu nối liền các dân tộc lại với nhau, xóa bỏ lần quan niệm phân biệt chủng tộc, tiến tới một xã hội chân thiện hoàn mỹ, xã hội Thiên Đàng Cực Lạc Quốc.

Tôi nói có sai đâu xem kìa, Tùng Quan tướng quân cùng Khơ Nia tướng quân liếc mắt đưa tình vô cùng mùi mẫn, họ giống như gió cùng mây chẳng muốn rời nhau. Đinh Hoàng tướng quân cùng Nê Diêng tướng quân cũng thế, như hai cục Nam Châm cuốn hút lấy nhau, tình yêu là thế ư, chỉ họ mới là người hiểu, 30 dặm tiễn đưa sắp hết sự quyến luyến càng thêm khắn khít.

Người về Nam tận xa xôi

Chia ly sợi nhớ bồi hồi xót xa

Hẹn ngày gặp lại chung vui

Như Chim liền cánh bay đi về Nguồn

Phương trời em mãi nhớ thương

Tình chàng nghĩa thiếp vấn vương chung tình

Phòng Khuê chờ đợi hồi tin

Hoa xuân chờ đợi Chúa xuân ấm nồng

Ba mươi dặm tiễn đầy lòng

Nhớ thương, thương nhớ ngập tràng tim em.

Nhìn Đại Quân xa dần xa dần rồi mất hút về Nam. Ngọc Hương con, Lạc Tiên con thì ra đó là tiếng gọi của hai vị Đại Nhân, à phải gọi hai vị Đại Vương mới đúng. Nghe tiếng gọi hai người con gái nhìn lại chỉ còn cha và anh, còn Đại Quân chỉ là lớp bụi mờ trở lại Nam Kinh Xích Quỷ. Hai vị Đại Vương bắt tay nhau như bắt một lời là bảo vệ tình anh em cho đến ngày nhắm mắt, thế là cuộc chia tay sau cùng, ba cha con An Lạc Điền, ba cha con Trung Đại Nhân, kẻ nhắm hướng Tây Giang Châu, người nhắm hướng Kinh Giao Châu trên ba xe chở đầy vàng bạc, gấm lụa vượt qua bao địa phận vẫn an toàn, không kẻ nào dám vuốt râu hùm vuốt Phụng. Hai vị Vương Gia về đến địa phận Tây Giang Châu, Kinh Giao Châu thời dân chúng đứng chật hai bên đường 12 – 20 dặm.

Đoàn quân đi về phía Nam hơn nghìn dặm, thời Đại Quân Cao Lạc Vương Gia tách đi về hướng Đông, đi được vài trăm dặm nữa thời Đại Quân Tây Thục Vương tách về hướng Tây, còn lại hơn 40 vạn quân cùng Hùng Tiên Lang Quốc Vương tiếp tục trên đường về Nam, đi tới đâu thời dân chúng hai bên đường hò reo ca ngợi tới đó, thấy dân hết lòng thành kính ngưỡng mộ, đốt trầm hương, dân hoa nhảy múa ca hát mừng Đại Quân chiến thắng trở về.

Thấy dân yêu mến hạnh phúc ôi

Ba quân tướng sĩ hát vang trời

Chiến công oanh liệt rền vang khắp

Thắng giặc trở về rạng Chúa, Tôi.

Đại quân về tới Long Biên thời chiêng trống dậy trời, đờn ca sáo thổi, Bộ, Châu, Quận, Huyện, quan tướng, dân chúng chặt ngật hai bên đường hò reo ca ngợi nhảy múa. Đáng lý Đại Quân đi ngược lên Phong Châu về Kinh Đô Văn Lang. Mà tiến thẳng vào Nam, có người nói khổ cho ba quân tướng sĩ quá, hết bình định phương Bắc giờ tới dẹp loạn phương Nam. Nghĩa lý gì quân phiến loạn phương Nam chỉ năm mười vạn, giặc Ân trên dưới 200 vạn quân còn bị hạ gục tơi bời, chiến nầy quân phiến loạn không còn con đường sống.

Đây nói về Nam Văn Lang có Ba Bộ.

1: Hoài Nam.

2: Cửu Đức.

3: Nhật Nam gồm có những Châu lớn như sau:

1 Linh Hải, 2 Xương Châu, 3 Thanh Châu, 4 Hà Châu, 5 Tôn Châu, 6 Vĩnh Châu, 7 Hồ Nam Châu, 8 Hải Đông Châu, 9 Bình Châu, 10 Tây ai Châu, 11 Tam Điệp Châu, 12 Thanh Hải Châu, 13 Hòa Tây Châu, 14 Hồng Lĩnh Châu, 15 Kỳ Hải Châu, 16 Quảng Hà Châu, 17 Tuyên Hóa Châu, 18 Tri Châu, 19 Nam Châu, còn một số Châu nhỏ, tức là Quận, Huyện lớn đông dân khác nữa.

Đại Quân càng đi sâu vào Nam Văn Lang càng thấy dân thưa thớt, hầu như đã có xảy ra chuyện gì.

Vua Hùng cho người hỏi, thời mới biết phần bị giết, phần bỏ đi theo Chiêm Quân sâu vào Nam. Chiêm Chiêm Vương đã bị Chiêm Quân giết đoạt hết binh quyền, nghe đâu dẫn quân tiến xâu vào Nam rồi.

Vua Hùng bây giờ mới vỡ lẽ, vì sao Chiêm Chiêm Vương không tham chiến chống ngoại xâm, càng đi sâu dân lại càng thưa thớt hơn nữa, thậm chí các Châu, Quận, Huyện không có, thấy xác người rải rác khắp nơi.

Vua Hùng thở dài nói:

Không ngờ con cháu Tiên Rồng lại tàn sát lẫn nhau như thế. Chiêm Quân tội ác như non như núi, phản Quốc hại dân, giết anh họ đoạt ngôi vị, tội ác khó tha.

Theo tin mật báo ta đã nhận được, cách đây gần hai tháng nhưng vì đang lúc dầu sôi lửa bỏng cuộc chiến xảy ra quyết liệt một còn một mất đối với giặc Ân. Vua Hùng lệnh cho ba quân tướng sĩ hơn 40 vạn quân đi tới đâu chôn cất dân tử tế đến đó.

Đây nói về Chiêm Chiêm Vương, trấn thủ Nam Văn Lang, đóng đô ở Bình Châu, không có giấy da triệu tập của Vua Hùng Tiên Lang, sanh lòng buồn bực nghỉ: Sao lạ thế? Từ xưa tới nay, những cuộc họp quan trọng đều có Chiêm Chiêm Vương ta, nay nước nhà giặc Ân xâm lấn, ta đang nóng lòng chờ Vua Hùng triệu tập bàn kế sách chống ngoại xâm, chờ hoài sao không thấy Vua Hùng gọi. Nghe nói các vương gia ở Tây, ở Đông cùng Vua Hùng thân chinh chống giặc. Còn ta là Nam Hầu Chiêm Chiêm Vương một trong bốn trụ cột nước Văn Lang lại không được tham dự chống ngoại xâm là có ý gì? Chống ngoại xâm nào phải của riêng ai, toàn dân toàn quân kháng chiến khi đất nước có ngoại xâm. Vua Hùng xem thường ta quá, lẽ nào Nam Văn Lang lại thua kém Tây Văn Lang, Đông Văn Lang, Bắc Văn Lang.

Bằng họp các Bộ, các Châu, Quận, Huyện lại. Nam Chiêm Chiêm Vương nói:

Từ khi Quốc Tổ Vua Hùng dựng nước Văn Lang tới nay đã gần hai nghìn năm, bao đời các Bộ Tộc Chiêm ta có nhiệm vụ khai hoang mở rộng vào Nam, khi nào Con Cháu Tiên Rồng làm chủ Địa Long vũ trụ, thời Quốc Tổ trở lại trần gian phong Thánh cho các Bộ Tộc Chiêm ta, vì thế các bộ Tộc Chiêm ta hết lòng vì Non vì Nước. Nam Văn Lang, Tây Văn Lang nói chung theo Hiến Pháp Văn Lang. Các Châu, Quận, Huyện khai hoang mới thành lập thời miễn thuế 20 năm. 30 năm, 40 năm, tiến lần về Nam làm chủ lần Địa Long theo ý của Đức Cha Trời, Lạc Long Quân. Các Bộ Tộc Thượng anh em cũng thế, theo Đại Ngàn tiến lần vào Nam, con đường du canh du cư. Nay có giặc ngoại xâm, sao lại bỏ quên chúng ta, hay là cho chúng ta là người ngoài, hay có ý gì đây lành hay dữ sao ta lo quá.

Các quan tướng Bộ, Châu, Quận, Huyện nằm sâu Nam Văn Lang nghe qua tình hình có người lấy làm hoang mang, có người lo sợ, có người tức giận, tình hình rối ben không hiểu chuyện gì sắp xảy ra.

Bỗng có quân vào báo:

Bẩm Chiêm Chiêm Vương Gia có người cần gặp.

Chiêm Chiêm Vương nói:

Cho người ấy vào. Tuân lịnh.

Không bao lâu người ấy được đưa vào ra mắt Chiêm Vương. Chiêm Vương hỏi:

Ngươi ở đâu gặp ta có chuyện gì?

Người ấy thưa:

Hạ dân quê ở Hồng Châu, huyện Hồng Hải, xả Ninh Quan, lúc vào rừng đi săn gặp một người bị thương rất nặng, hỏi ra mới biết người ấy bị cọp vồ, cuối cùng người ấy cũng hạ được con cọp to lớn, người ấy nói với tôi được bấy nhiêu thời bất tỉnh không biết gì nữa, hơn mười ngày hạ dân thuốc than chạy chữa, người ấy cũng không khỏi, cuối cùng người ấy đã ra đi, trước khi đem chôn người xấu số hạ dân phát hiện ra có một bức mật thư nhưng hạ dân ngu dốt không biết đọc nên không hiểu bức mật thư nói gì, sau khi chôn cất xong hạ dân mới tìm người đọc dùm mới hay người xấu số ấy là khâm sai của triều đình. Đem mật thư đến cho vương gia.

Người ấy nói xong liền dân mật thư lên cho vương gia, Chiêm Chiêm Vương Gia nhận lấy mật thư rồi đọc, nội dung thơ như sau: Chiêm Vương Gia nhận được thơ nầy, thời cấp tốc về Kinh Đô Văn Lang để hộp, bàn những vấn đề cần thiết chống ngoại xâm.

Chiêm Chiêm Vương đọc xong mật thơ thời kinh hãi, linh cảm như có điều chẳng lành sắp xảy ra, nghỉ: Không lẽ đây là ý Trời.

Chiêm Chiêm Vương không dám nghỉ sâu thêm nữa, Chiêm Chiêm Vương liền triệu tập quân lực các Châu, Quận, Huyện do Hồ Chiêm Quân lãnh đạo đứng đầu, chuẩn bị xong lực lượng thời lên đường tiến về Bắc chung tay tiêu diệt giặc Ân. Vương phủ Bình Châu khi ấy có hơn hai vạn quân từ các Châu, Huyện, Quận tụ về chờ đợi các cánh quân khác tới do Hồ Chiêm Quân lãnh đạo.

Bỗng nghe quân reo ngựa hí dậy trời dậy đất, vương phủ Bình Châu bị tấn công: Quân nào thế? Không ai ngờ được Hồ Chiêm Quân làm phản, thống lĩnh 10 vạn quân lật đổ Chiêm Chiêm Vương. Tai hại hơn 1 vạn quân trong thành làm nội ứng nên cuộc nội chiến tàn sát 10 vạn quân ùa vào, hơn 1 vạn quân chống trả sao lại, chỉ trong chốc lát đều bị giết sạch.

Chiêm Chiêm Vương thét lớn:

Thằng phản phúc, Trời sẽ diệt mày, Vua Hùng sẽ băm thịt mày, nòi giống Tiên Rồng sẽ lột da mày.

Thét xong Chiêm Chiêm Vương phi ngựa tới định giết chết Hồ Chiêm Quân nhưng than ôi. Hồ Chiêm Quân ra lệnh bắn. Tức thời hàng trăm mũi tên bắn xối xả vào người Chiêm Chiêm Vương, thế là Chiêm Chiêm Vương về chầu Trời.

Cuộc tàn sát nội chiến xảy ra đẩm máu tàn sát chưa từng có trong các Bộ Tộc Chiêm, giết chết Chiêm Chiêm Vương, Hồ Chiêm Quân nắm quyền sanh sát trong tay, ai theo thời sống ai chống thời chết, xưng Đế xưng Vương biệt lập. Hồ Chiêm Quân lợi dụng Văn Hóa Cội Nguồn không truyền xuống dân nên dân không hiểu gì cả. Có lẽ vì lúc ấy trình độ dân trí còn quá lạc hậu, hơn nữa chữ viết còn quá đơn sơ khó mà diễn tả được ý của Đạo nên ai muốn giản sao thì giản, phần lớn truyền khẩu cho nhau tam sao thất bổn.

Hồ Chiêm Quân giết anh họ của mình chiếm đoạt ngôi vị, tạo ra cái cảnh nồi da nấu thịt, anh em chém giết lẫn nhau mà Hồ Chiêm Quân cho sự chém giết ấy là Chính Nghĩa và đó là lời dạy của các Đấng Thần Linh, nghe theo làm theo thời sống, chống lại Thần Linh thời chết, có lẽ lúc ấy trình độ dân chúng còn quá lạc hậu lại thêm bao trùm bởi bùa phép bá đạo, mê tín dị đoan.

Hồ Chiêm Quân sau khi giết anh họ của mình dẩn 10 vạn quân buộc dân chúng đi theo tiến sâu vào đất lĩnh Nam hàng nghìn dặm, mang theo nền Văn Minh lúa nước, nói chung là Ngũ Cốc được dân chúng mang theo sâu vào Nam. Không những nền Văn Minh lúa nước mà cả nền văn minh sắt thép, đồng, thau, chạm trổ hội họa, chăn tằm dệt cửi, gốm sứ dựng lên nền Văn Minh Chăm. Trong đó có nền Văn Minh gốm sứ Sa Huỳnh.

Hồ Chiêm Quân xưng Đế xưng Vương biệt lập, không theo lệnh của Vua Hùng nữa. Cũng từ đây Văn Hóa Cội Nguồn Tiên Rồng, nền Quốc Đạo Dân Tộc. Hồ Chiêm Quân không cho nhắc tới nữa, tất cả đều bỏ lại sau lưng dần dần, phai mờ quên lãng.

Phải chăng quên mất Đạo Trời

Họa tuông máu đổ đầu rơi khắp cùng

Quên đi lời dạy Vua Hùng

Anh em tàn sát họ hàng máu tuông

Nồi da nấu thịt sớm hôm

Từ đây Bộ Lạc Chiêm Vương khổ sầu

Chia đàn rẽ nghé tan bầu

Lê dân khốn khổ biết đâu Cội Nguồn

Đồng Bào chung một con đường

Đại Đồng bình đẳng náo nương về Trời

Thánh Thần Tiên Phật đây rồi

Do tâm mê ngộ, tạo thời mà nên

Ác thời thành Quỷ thành Tinh

Thiện thời thành Phật, thành Tiên, Thánh Thần

Hồ Chiêm lạc lối đã đành

Kéo theo vô số dân lành khổ sa

Từ đây binh lửa can qua

Đầu rơi máu đổ tai bay họa cùng

Khi nào lời dạy Vua Hùng

Tái sanh trần thế Tiên Rồng nở hoa

Văn Lang sống dậy lời ca

Thái bình Độc Lập nở hoa thái bình

Chiêm Vương trở lại hồi sinh

Hồ Chiêm phải chịu cực hình trước dân

Trước muôn vạn ức Thánh Thần

Trị trừng cái tội ngông cuồng nay xưa.

Đây nói về Tiền Thân kiếp trước của Hồ Chiêm Quân và Chiêm Chiêm Vương. Một hôm Chiêm Chiêm Vương phu nhân đang say ngủ, bỗng thấy một con Chồn có cánh bảy đuôi đấu với con chim Hồng Lạc to lớn, giông bão ầm ầm mờ trời mịt đất, đấu phép dữ dội, cuối cùng bị con chim Hồng Lạc giết chết, bà nghe con Chồn có cánh gào thét trước khi chết: Trả thù, ta phải trả thù. Con Chồn có cánh bảy đuôi chết không bao lâu thời con chim Hồng Lạc cũng chết luôn vì bị thương quá nặng. Chiêm Chiêm phu nhân giựt mình tỉnh giấc, không bao lâu thời bà mang thai.

Khi ấy không xa, vợ người em họ chồng bà cũng mang thai, bà thường thấy con Chồn có cánh bảy đuôi, khi hạ sinh ra bé trai kháu khỉnh thời nghe hơi Chồn nồng nặc, cha bé trai khi ấy là Thống Quân nên đặt tên cho bé trai là Hồ Chiêm Quân. Hồ Chiêm Quân lớn lên thông minh khác thường, mưu mẹo hiểm độc hết chỗ chê, thường theo học tài điều khiển quân binh của Cha, Ông lấy làm vừa lòng, thường khoe với mọi người Hồ Chiêm Quân còn tài hơn ông nữa, không hiểu vì sao ông lại đột ngột chết sớm.

Chiêm Hầu Vương phong Thống Quân cho Hồ Chiêm Quân thay cho cha nó. Hồ Chiêm Quân nhận chức Thống Quân, siêng năng luyện tập binh sĩ hơn cả cha. Chiêm Hầu Vương rất vừa lòng giao hết binh quyền cho y.

Đây nói về Chiêm Chiêm phu nhân hạ sanh một bé trai kháu khỉnh, đặt tên Chiêm Chiêm Linh. Chiêm Chiêm Linh lớn lên thông minh khác thường, nhưng có cái tật là nóng nảy nên ít được lòng người. Điều nầy đã làm cho Chiêm Hầu Vương lo lắng, tuy học hành chăm chỉ nhưng lại thiếu chín chắn, lại có tánh hay khinh người nên không phát hiện ra Hồ Chiêm Quân có dã tâm tạo phản từ lâu, thực hiện mưu đồ khôn khéo, nếu không tinh ý quyết đoán thời khó mà phát hiện được.

Chiêm Hầu Vương sau một cơn bịnh nặng qua đời. Vua Hùng đời thứ 25, tức là đời thứ hai Hậu Hùng Vương, Hùng Yên Lang, Huân Lang sắc phong cho người con lớn là Chiêm Chiêm Linh lên thay thế, trở thành Chiêm Chiêm Vương, Chiêm Chiêm Vương tin tưởng Hồ Chiêm Quân hơn nữa, nên không theo dõi kiểm soát hành động, mỗi ngày mỗi lộ rõ dã tâm của Hồ Chiêm Quân, chỉ cần có cơ hội là hạ gục Chiêm Chiêm Vương tóm thâu quyền lực, thực hiện mưu đồ ngay. Và việc đó xảy ra, chỉ có Chiêm Chiêm Vương cùng một số quan chức thuộc hạ thân cận là không hay biết gì, cho đó là bất ngờ. Còn phần lớn quan chức là họ đã hiểu nhưng không dám nói vì sợ rước họa vào thân. Hồ Chiêm Quân diệt Chiêm Chiêm Vương là do mối thù truyền kiếp, diệt xong Chiêm Chiêm Vương đoạt lấy quyền lực, thống lãnh quân binh, buộc dân chúng theo mình tiến sâu vào đất Lĩnh Nam, Địa Long Vũ Trụ xây dựng Quốc Vương mới, luôn luôn lo sợ Vua Hùng, mới lên ngôi không lâu, Hùng Tiên Lang, Điển Lang đem quân tiêu diệt quét sạch.

* * *
 
PHẦN 67

Đây nói về hơn 40 vạn quân Văn Lang rầm rầm rộ rộ tiến sâu vào Nam Văn Lang, thấy xác người rải rác khắp nơi, cái cảnh giống như vườn không nhà trống, nếu không còn những người dân thưa thớt. Cũng may những người dân sống sót ở lại kể rõ đầu đuôi sự việc.

Các quan tướng Văn Lang vô cùng tức giận nói:

Hãy tiến quân truy sát bọn chúng.

Cao Lạc Tể Vương nói:

Lãnh Nam núi rừng điệp điệp, biết Hồ Chiêm Quân ở chỗ nào mà bắt, hơn nữa bá tánh muôn dân cũng như ba quân tướng sĩ đều là vô tội, mà kẻ có tội chính là Hồ Chiêm Quân mà thôi, xét cho cùng tất cả đều là con cháu Tiên Rồng, nếu có ý chống lại nhà nước Văn Lang sát hại đồng bào lần nữa thời đưa quân quét sạch cũng không muộn. Điều trước mắt là khôi phục lại các Châu, Quận, Huyện, bổ nhiệm các quan tướng nơi đây.

Vua Hùng sau khi rút quân về Kinh Đô Văn Lang để lại 10 vạn quân trấn giữ Nam Văn Lang, đóng quân tại Bình Châu Nam Hồ. Đại Quân trở về Long Biên rồi lên Phong Châu tiến về Kinh Đô Văn Lang. (Trong các triều đại Vua Hùng, Kinh Đô Văn Lang được xây mới dời chỗ nhiều lần ở Phong Châu và lân cận Phong Châu, tùy theo nền kinh tế phát triển).

Kinh Đô Văn Lang thời Hậu Hùng Vương là Kinh Đô mới, khi đại quân tiến về Kinh Đô thời các Châu, Phủ, Quận, Huyện dân chúng ở hai bên đường đông nghịt kéo dài hơn trăm dặm, ca ngợi chiến công oanh liệt.

Hô vang khẩu hiệu:

Văn Lang muôn năm, muôn năm, muôn năm. Vua Hùng vạn tuế muôn năm, muôn năm, muôn năm. Con cháu Tiên Rồng bách chiến bách thắng, bách chiến bách thắng. Mùa xuân non sông Tổ Quốc lại nở hoa đoàn kết, nở hoa anh hùng, nở hoa Trung Hiếu, kiên cường bất khuất.

Tiếng hò reo nhảy múa dậy nước dậy non.

Thơ rằng:

Kìa xuân nước xuân non ửng hồng xuất hiện

Tiếng hò reo lên tận chốn trời xanh

Rền Chiêng Trống rền ca hát ngợi khen

Ôi người thân ôi bạn bè hòa quyện

Tình dân cao ôi tràn đầy hứa hẹn

Đất Trời xuân đưa cuộc sống lên cao.

Một năm sau:

Én về én dệt mùa xuân

Còn ta, ta dệt yêu thương cùng chàng

Một năm dạ héo lệ mòn

Sao Chàng biền biệt để nàng tương tư.

Tiểu thơ, tiểu thơ đến rồi, đến rồi. Gì đến thế hở Xuân Mai. Tiểu thơ biết rồi mà còn hỏi. Nở nụ cười tươi.

Ngọc Thiên Hương hỏi Xuân Mai:

Ta thế nầy coi được không?

Xuân Mai nói:

Ở đây ai cũng nói Tiểu Thơ là Cung Chủ thiên giới xuống trần, đẹp hơn quí phái hơn Tiên Nữ giáng trần nữa là khác.

Thiên Hương nói:

Ngươi khéo ăn nói quá.

Ngọc Thiên Hương tuy đã biết trước mọi việc nhưng lòng vẫn có gì đó rất khó nói.

Tiểu Thơ Diệp Lang Vương Tử có đến không?

Ngọc Thiên Hương nói:

Không đến.

Sao thế? Xuân Mai hỏi.

Thiên Hương giải thích:

Vì chàng là Đích Tôn Vương Tử, Vua Hùng đời thứ 27, không phải lần nầy chỉ một mình ta đâu mà còn có cả An Lạc Tiên nữa.

Xuân Mai như chợt hiểu:

Vua mà mấy vợ mà không được.

Thiên Hương quở khéo:

Thôi đừng nghĩ bậy nữa.

Đây nói về Trung Đại Nhân, Trung Hoài Nghĩa, Trung Ngọc Thiên Hương đưa tiễn Vua Hùng về Nam một đoạn đường. Thời tức tốc về Châu phủ Kinh Giao Châu. Mẹ Ngọc Thiên Hương nhìn thấy Thiên Hương ôm khóc oài:

Con thời trở về còn chị con Ngọc Linh Châu thời ra đi vĩnh viễn.

Tình mẫu tử là thứ tình thiêng liêng cao cả, tình mẹ thương con vô bờ bến, hi sinh tất cả vì con. (Nên trong Văn Hóa Cội Nguồn Đức Cha Trời dạy, trong muôn ngàn thứ tội, bất hiếu với Cha Mẹ là thứ tội đứng đầu trong các tội, ngược lại có hiếu với Cha Mẹ là thứ Đức đứng đầu trong các Đức).

Ngọc Thiên Hương chưa xuất giá, ngày nào cũng chăm sóc cho Mẹ, ai cũng khen Thiên Hương là người con hiếu thảo. Bà Trung Đại Phu Nhân có phúc quá, còn Trung Đại Nhân thời suốt ngày bận rộn say sưa sửa sang đổi mới, từ quan phủ lên vương phủ. Còn Trung Hoài Nghĩa phụ giúp cùng cha cũng bề bộn suốt ngày, cho người đem hài cốt Ngọc Linh Châu về Kinh Giao Châu an tán gần nơi Vương phủ, để cả nhà tới lui thăm viếng. Vương phủ xây xong mà không thấy tin từ Kinh Đô Văn Lang đến, ông bà Trung Đại Nhân lo lắng vô cùng, nhất là Ngọc Thiên Hương mở cửa nhìn về phía Nam mãi.

Và một hôm có quan khâm sai đến báo tin:

Vài hôm nữa kiệu rước dâu sẽ đến, vương gia chuẩn bị thì vừa.

Vị khâm sai thông báo xong, lời qua tiếng lại xong tuần trà thời quan khâm sai cáo từ Trung Vương Gia Đại Nhân, nhắm hướng Tây Giang ra đi. Hai cha con Trung Đại Nhân nhìn vị khâm sai mất hút về hướng Tây. Trung Hoài Nghĩa nổi lên bao cảm xúc: Có lẽ An Lạc Điền nóng ruột chờ đợi tin nầy.

Đây nói về An Lạc Điền, An Lạc Sơn, An Lạc Tiên trở về thành Tây Giang Châu suốt ngày bận rộn sửa sang quan phủ lên vương phủ. Nhất là An Lạc Tiên chờ ngày trông đêm nhưng chờ hoài không thấy tin tức gì từ Kinh Đô Văn Lang cả, lòng hồi hộp không yên, bằng cho người đến Kinh Giao dọ tin thời cũng nhận được tin tức từ Kinh Đô Văn Lang. Lạc Tiên biết được tin nầy hơi yên tâm.

Duyên tình chớm nở từ lâu

Cớ sao mình lại u sầu thế ni

Vần mây buồn nhớ biến đi

Gió ơi hỡi gió lặng đi mây buồn

Cành Mai chờ đợi mùa xuân

Còn em chờ đợi tin chàng ở xa

Mai chờ xuân đến nở hoa

Em chờ Kiệu đến tình ta mặn nồng.

Nói về hai vương phủ, được tin Vua Hùng ban chỉ giao hôn, Diệp Lang cùng Ngọc Thiên Hương, An Lạc Tiên nên duyên chồng vợ, nhận được tin nầy, hai vị Vương phủ vô cùng mừng rỡ, viết thiệp mời bạn bè các Vương phủ Châu phủ đến chia vui.

Ngày lành rước dâu đã đến, hai Vương phủ đàn gái đông nghịt, kẻ ra người vào chúc tụng liên miên, giờ lành đã đến, hai phủ Vương gia tuy cách xa gần 300 dặm nhưng cuộc rước dâu xảy ra cùng một lúc.

Có người vào thông báo cho hai vị vương gia:

Vương gia, vương gia, kiệu rước xe hoa đã đến.

Hai bên đường dân chúng đông nghịt trằm trồ không ngớt, xe rước dâu đẹp quá, sang quá, Chạm Phụng, Trổ Rồng, quân binh hộ tống, có lẽ đây là đội ngự lâm quân mới oai phong như vậy, gươm, đao, giáo, mác chỉnh tề, rước dâu theo kiểu nhà Vương có khác, thành Tây Giang Châu cũng như vương phủ Trung Đại Nhân, đèn hoa rực rỡ, quân binh Vương phủ tiếp đón xe hoa hơn 2 – 3 dặm. Đàn ca kèn sáo du dương, ai nghe thấy như đang lạc vào cảnh giới Thiên Đàng. Ôi vàng bạc, châu báu, sính lễ cả xe, trầu cau rượu nếp, đãi cả làng không thiếu.

Quan khâm sai Đại Thần truyền lệnh:

Vương phủ họ đàn gái tiếp chỉ. Phụng Thiên thừa vận, chiếu theo Hiến Pháp phong tục Văn Lang, Trẩm thay mặt hai họ, đàng trai cũng như đàng gái phúc chỉ kết hôn. Ngọc Thiên Hương con vương phủ Đại Đại Thần, sánh vai cùng Diệp Lang Đức Tôn Vương Tử con của Thượng Vương Đức Thánh Điền Điền Lang. Ngọc Thiên Hương út nữ con Đại Đại Thần vương phủ Trung Đại Nhân sánh duyên kết hôn cùng Diệp Lang Đức Tôn Vương Tử con của Thượng Thượng Vương Đức Thánh Điền Điền Lang, tiếp chỉ.

Cả nhà Trung Đại Nhân lạy tạ tiếp chỉ, sắc chỉ phúc Hôn của Vua Hùng xong, mời khâm sai Đại Nhân vào phòng thượng khách tiếp đãi.

Còn nói về Tây Giang Đại Nhân, An Lạc Tiên nào có khác chi. Kiệu hoa xe hoa vào phủ thời huyên náo cả lên, kẻ lo khuân rượu, bưng trầu bưng cau vào nhà, người lo khuân vàng, vác ngọc, khiêng gấm, đồ sánh lễ nhiều vô kể. Còn phải tiếp chỉ.

Quan khâm sai Đại Thần đọc:

Phụng Thiên thừa vận, chiếu theo Hiến Pháp phong tục Văn Lang, Trẩm thay mặt hai họ, đàng trai cũng như đàng gái phúc chỉ kết hôn. An Lạc Tiên út nữ con Đại Đại Thần vương phủ An Lạc Điền sánh duyên kết hôn cùng Diệp Lang Đức Tôn Vương Tử con của Thượng Thượng Vương Đức Thánh Điền Điền Lang, tiếp chỉ.

Cả nhà An Lạc Điền lạy tạ tiếp chỉ, sắc chỉ phúc Hôn của Vua Hùng xong, liền mời khâm sai Đại Nhân vào phòng thượng khách tiếp đãi.

Có lẽ Tây Giang Châu xa hơn Kinh Giao Châu, xuất phát sớm mới theo kịp đoàn xe hoa Kinh Giao Châu. Gia đình An Lạc Điền đưa An Lạc Tiên lên xe hoa, đưa tiễn một đoạn đường rồi trở về phủ, tiếp tục tiếp đãi các quan khách gần xa. An Lạc Sơn thay mặt cha mẹ đưa em tới tận Kinh Đô Văn Lang.

Còn bên vương phủ Trung Đại Nhân ở Kinh Giao Châu, thời khâm sai Đại Nhân không lấy gì làm vội vã tiếp tục khoan thai ăn uống, cho đến ngày hôm sau mới lên đường về Nam. Cả gia đình họ tộc Trung Đại Nhân đưa tiễn Ngọc Thiên Hương một đoạn khá xa, chờ cho đoàn xe hoa mất hút cả nhà mới trở về Vương phủ.

Nói về Cao Lạc Hải là cháu bốn đời, Hùng Văn Lang Quốc Vương 24, Thượng Hạ Hùng Vương đời thứ nhất, Hạ Hùng Vương lên ngôi Quốc Vương Hoàng Đế thay cho bác ruột là Hùng Dịch Lang cuối dòng trưởng đời thứ 23. 1276 đến 1211 trước công nguyên thọ 132 tuổi đại thọ. 58 tuổi lên ngôi Quốc Vương, 65 năm ở ngôi Quốc Vương, 10 năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. Nên được Vua Hùng ban cho sắc chỉ phúc Hôn.

Đây nói về ông bà Hạ Phúc Thịnh, quê ở Dạ Loan Châu, ba đời tu nhân, tích Đức, nỗi tiếng hiền lành khắp nơi, Quỷ Thần thường theo phù hộ ông bà, tiếng lành bay đến tai Diêu Trì Hoàng Mẫu, Hoàng Mẫu bằng gọi Lôi Tiên đến nói. Ta thấy con duyên trần chưa dứt, tất cả đều do cơ vận ý Trời xoay chuyển. Nước Văn Lang sắp bị yêu quái làm hại, con mau đầu thai xuống thế, hạ sanh vào nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh, đã ba đời tu nhân tích Đức, Hồng Phúc sâu dày, lớn lên theo Quang Âm Thánh Mẫu học Đạo tu Tiên, giúp quân Văn Lang triệt phá yêu Tinh, lập công nơi Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo Vũ Trụ, tăng thêm uy lực về sau.

Ở cung Tiên Vương Mẫu có bốn vị Tiên Cô, Phong, Vân, Lôi, Vũ. Lôi Tiên được lệnh Vương Mẫu đầu thai xuống trần, liền về Cung Lôi Âm, xuất hồn hóa một Đạo hào quang bay xuống hạ giới đầu thai vào nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh, lớn lên theo học Đạo tu Tiên với Quang Âm Thánh Mẫu, gia nhập quân Văn Lang, làm tới chức phó thống soái, thống lãnh ba quân tướng sĩ cùng với Cao Lạc Hải thống soái, đánh bại quân Ân chiến đấu với yêu Tinh, Bạch Cốt Ma Tổ, Bạch Cốt Ma Bà. Được Vua Hùng phong là Đệ Nhất Nhi Nữ anh hùng kiên trung hào kiệt.

Ông bà Hạ Phúc Thịnh vừa gặp Hạ Tiên trở về, vui chưa được bao lâu thời Hạ Tiên lại lên đường đánh giặc. Ông bà Hạ Phúc Thịnh lòng buồn nao nao, nhưng cảnh nước nhà đang bị ngoại xâm đánh phá, dân chúng cơ cực lầm than, ông bà Hạ Phúc Thịnh đành phải gạt nước mắt, chia tay với người con yêu dấu độc nhất mới trở về.

Tin thắng trận giòn giã dồn dập vọng về, ông bà Hạ Phúc Thịnh cảm thấy sung sướng tự hào, ông bà cảm ơn Trời Đất ban cho ông bà một Hạ Tiên vừa hiếu thảo, vừa xinh đẹp, nhất là về tài năng làm rạng danh dòng họ. Từ khi Hạ Tiên thống lãnh ba quân tướng sĩ đi đánh giặc, thời cả làng ai nấy cũng tự hào về làng mình. Nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh hồi nào cũng có kẻ ra người vào, kẻ tới người lui liên miên không dứt, ca ngợi không hết lời.

Thôn Dạ Quang hôm nay vui như ngày hội, đèn hoa rực rỡ, nhất là nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh, người đông nhưng ai nấy cũng bận rộn, nét mặt đầy vẻ hân hoan tràn đầy sức sống. Ông bà Hạ Phúc Thịnh trong bộ đồ sang trọng, đi tới đi lui tiếp đón niềm nở.

Có người nói:

Sao chưa thấy xe hoa, kiệu hoa đến.

Có người nói:

Tới phải có giờ có khắc chứ.

Có người nói:

Chị thấy Cao Lạc Tướng Quân chưa? tôi thì thấy rồi, đẹp trai oai phong lẫm lẫm, nghe đâu lên cấp Vương Gia rồi.

Người kia nói:

Không phải Vương Gia thôi đâu mà là Đại Vương Gia.

Người bé con hơn nói:

Vậy là Hạ Tiên làng ta trở thành Vương Đại Nương Vương Gia rồi.

Người cao hơn nói:

Đó là lẽ hiển nhiên rồi, còn phải nói.

Có người hỏi:

Đông Hải Châu, Bộ Lạc Hải giàu lắm phải không?

Bà chị kế bên nói:

Đúng rồi Bộ Lạc Hải có tới 7 – 8 Châu, Dạ Loan Châu chúng ta cũng nằm trong Bộ Lạc Hải. Nghe nói Cao Lạc Hải là con cháu của Cao Lạc Hầu Tể Vương, hoàng thân quốc thích với Vua Hùng, quyền uy giàu sang hết nói. Ông bà Hạ Phúc Thịnh có phước quá.

Người kia nói:

Chúng ta bì sao được. Ba đời nhà Phúc Thịnh làm phước làm Đức, đổ của đổ công giúp đỡ người nghèo, người tàn tật, người không nơi nương tựa, tu tạo nơi thờ phụng các vị Thần Tiên nhất là hết lòng thờ Trời, không dám làm điều sai quấy. Nỗi tiếng nhân Đức khắp vùng đó sao, nếu chúng ta muốn có cái phúc lớn thời phải tu luyện như gia đình của bà, có gieo thời có gặt, có nhân thời có quả, gieo giống nào trổ ra giống nấy.

Nghe qua lời nói nầy ai cũng nghĩ là đúng như vậy. Kìa đoàn xe hoa đã đến, tiếng kèn sáo văng vẳng vọng lại. Đến rồi đẹp quá, sang quá, một đoàn xe hoa rực rỡ. Đi trước kiệu hoa là một trang anh tuấn, nét mặt rạng rỡ như buổi bình minh, ai thế. Còn ai nữa đó chính là Cao Lạc Hải thống soái tướng quân.

Hôm nay Cao Lạc Hải không bận theo sắc phục theo kiểu Quân Đội mà ăn mặt theo kiểu chú rể lại càng làm thêm vẻ khôi ngô tuấn tú. Cao Lạc Hải cỡi con ngựa ô thật đẹp, dẫn đầu đoàn xe hoa. Quân binh tùy tùng đến nhà ông bà Phúc Thịnh rước dâu. Đoàn xe hoa tiến vào nhà ông bà Hạ Phúc Thịnh trước sự hâm mộ của làng xốm, nức lòng trầm trồ khen ngợi. Nhìn đồ lễ cưới. Nào là vàng bạc Châu Báu, gấm vóc lụa là. Rượu ngon cả xe, Trầu Cau cả gánh. Đãi cả làng cũng không hết. Đúng là ngày vui cả làng, mặt sức mà thưởng thức. Rượu ngon, cao lương mỹ vị. Cái vui của ngày hội mừng cho đôi lứa nên duyên vợ chồng. Và cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc. Hạ Tiên trong y phục Cô Dâu lộng lẫy. Chẳng khác nào Tiên Nữ giáng trần. Lạy tạ từ giã ông bà Phúc Thịnh bước lên xe Hoa. Đoàn xe xa dần rồi mất hút đưa Hạ Tiên Về Đông Hải Châu. Sống hạnh phúc.

Năm năm sau. Nơi Dinh Thự Vương Phủ Đông Hải Châu. Tiếng vui đùa của trẻ con. Hình như là một trai một gái. Nơi vườn cây cảnh chạy tung tăng đùa hoa, đuổi bướm.

Bỗng nghe tiếng ông bà Phúc Thịnh gọi:

Phúc Tấn, Phúc Duyên coi chừng chạy gấp té.

Phúc Tấn, Phúc Duyên nghe ông bà Ngoại gọi. Liền chạy tới đứa vuốt râu, đứa thoát vào lòng bà Ngoại. Vậy mới biết cái quả hưởng phúc hôm nay không phải tự nhiên mà có. Mà đã có cái giá dày công tu nhân tích Đức, không chỉ một đời mà thậm chí nhiều đời. Gieo giống nào trổ ra giống ấy.

Đây nói về đoàn rước dâu về tới Kinh Đô Văn Lang hơn ba ngày mới tới. Hai đoàn xe Hoa nối đuôi nhau vào thành. Dân hai bên đường đông nghẹt. Đội kỵ quân 10 mét một người. Đứng hai bên đường, kéo dài 30 dặm, không cho dân chúng tới gần đoàn xe Hoa rước dâu, chỉ đứng ở xa mà nhìn. Không nói chúng ta cũng hiểu. Buổi lễ kết hôn long trọng đến mức độ nào. Nơi Vương Phủ nguy nga tráng lệ thuộc hàng bật nhất trong các Vương Phủ nơi Kinh Đô Văn Lang. Vương Phủ Đức Thánh Vương Điền Điền Lang Các vị cao cấp Vương Gia đều có mặt. Cũng may là hai Lão sui gia phi ngựa ngày đêm đến kịp.

Diệp Lang vô cùng hạnh phúc. Sống chung cùng hai người vợ xinh đẹp tuyệt trần. Ra sức chăm lo việc nước. Ngọc Thiên Hương. An Lạc Tiên giúp chồng những lúc khó khăn. Nên công việc luôn luôn trôi chảy. Về điểm nầy Vua Hùng khen ngợi không hết lời. Lại sinh ra con đàn cháu đống, làm nứt lòng ông bà, cha mẹ.

Ba mươi lăm năm sau: Diệp Lang lên ngôi Quốc Vương Hoàng Đế. Hùng Vương đời thứ 27 Thượng Hạ Hùng Vương. Đời thứ bốn Hạ Hùng Vương. Niên hiệu: Hùng Diệp Vương: Pháp hiệu Bảo Lang. Thay cho ông nội là Hùng Tiên Lang: Pháp hiệu Điển Lang. Điền Điền Lang. Cha của Diệp Lang, trở thành Thái Thượng Hoàng. Còn Hùng Tiên Lang: Điển Lang: Lên ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. Thánh Tổ.

Như chúng ta đã biết Vũ Trụ có ba ngôi: Thiên Hoàng. Nhơn Hoàng. Địa Hoàng. Còn thời đại Vua Hùng thường nói đến ba đời. Ông, Cha. Và Đức Tôn: Là ba ngôi đặc biệt. Vì vậy sự lập ngôi kế vị. Ở thời Thượng Hùng Vương. Lập Đức Tôn kế vị là chính. Lớp già thay cho lớp trẻ.

Ở thời Hạ Hùng Vương, từ Hùng Vương thứ sáu trở về sau thường là truyền ngôi cho con, nhiều hơn là truyền ngôi cho cháu.

Nói đến trị quốc cũng khác thường. Ở vào thời đó không có một đất nước nào trị quốc như nước Văn Lang.

Thượng trị Quốc Hội thi hành Luật Pháp ngôi vị cao thượng nhất Thượng trị Quốc Hội. Đứng đầu các quan chức nhà nước Văn Lang chính là Quốc Vương Bệ Hạ, thi hành Quốc Pháp, Luật Pháp tối cao.

Còn ban hành Hiến Pháp: Độc Nhất vô nhị: Bản Hiến Pháp Quốc Tổ ban hành, lúc dựng nước giữ nước mà thôi, chính là nền Quốc Đạo dân tộc. Còn ban hành Luật Pháp là do Hạ trị Quốc Hội quyết định qua các thời kỳ rồi thông lên Quốc Vương phê duyệt chứng nhận mới được thi hành.

Đức Tôn Vương Tử Diệp Lang lên ngôi Quốc Vương trị vì Thiên Hạ. 1077 đến 1020 trước công nguyên. Thọ 128 tuổi. 62 tuổi lên ngôi Quốc Vương. 57 năm ở ngôi Quốc Vương. 9 Năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo Thánh Tổ.

* * *

HẾT

XEM TIẾP ĐOẠN KINH VĂN SAU


Nói về Văn Hóa Cội Nguồn, lịch sử nền Quốc Đạo Văn Lang. Là sự đúc kết Tinh Hoa vũ trụ, một thứ Tinh Hoa văn minh mà chỉ Phật Thánh Tiên mới hiểu nổi. Còn ở lãnh vực phàm tục, dù thông minh cho mấy cũng chỉ khám phá phần lớp vỏ mà thôi, phần thô. Còn phần vi tế thời khó mà với tới cho được. Và đã thất truyền từ lâu, nguyên do dẫn đến thất truyền thời nhiều nhưng tóm tắc 10 nguyên do chính sau đây.

1 - Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc là do truyền miệng kéo dài quá lâu nên dẫn tới sai lệch, càng về sau càng sai lệch lớn, dẫn đến mất gốc mờ mịt về Văn Hóa Cội Nguồn.

2 - Là thêm bớt trong lúc truyền khẩu, làm lệch đi những ý chính nguyên văn của Văn Hóa Cội Nguồn, có thể nói Văn Hóa của loài Rồng biến thành Văn Hóa của loài Rắn nước.

3 - Là Văn Hóa Cội Nguồn không được truyền rộng rãi, chỉ truyền cho những người được lựa chọn, cũng vì thế mà dẫn đến sự thất truyền càng về sau càng lớn.

4 - Là do không để lại Kinh Luân, có lẽ vì lúc ấy chữ viết, giấy mực còn quá sơ sài, thậm chí giấy còn chưa ra đời, chỉ dùng da thú.

5 - Là do ngoại bang xâm lược thống trị đập phá hết di tích, liên quan đến Văn Hóa Cội Nguồn, sai lệch còn sót lại.

6 - Là do ách thống trị quá khắc nghiệt của quân xâm lược đối với truyền thống khơi dậy của nhân dân ta, chỗ nào khơi dậy chỗ đó liền bị triệt phá.

7 - Là do ách thống trị ngoại xâm, bóp méo lịch sử Văn Hóa Cội Nguồn chúng ta, chúng thêm bớt vài chi tiết, độc hại hơn nữa những chi tiết thêm bớt của chúng lại được các nhà tri thức của ta nghe theo chúng viết ra, để lại cho thế hệ con cháu tiếp nối học, càng học càng mờ mịt, không còn biết đâu là thật, là giả, để chúng dễ bề cai trị.

8 - Là do nô lệ kéo dài hàng nghìn năm, không những nô lệ về thể xác mà còn nô lệ cả về mặt tinh thần, bị nền văn minh, văn hóa của ngoại bang ngự trị, chia rẽ tinh thần đoàn kết dân tộc, dẫn đến cảnh nồi da nấu thịt.

9 - Một Dân Tộc đã mất Văn Hóa Cội Nguồn thời coi như tinh thần dân tộc đó không còn chỗ đứng, dẫn đến sai phạm nghe theo chúng làm hại non sông Tổ Quốc làm hại hạt giống Tiên Rồng còn sót lại trong tâm hồn người dân Đại Việt.

10 - Là do sự mê hoặc của ngoại bang, chúng dẩn dắt Dân Tộc ta đến con đường mất tự Chủ, đi trên con đường lệ thuộc mà chúng đã sắp đặt an bày.

Thường thường trong Văn Hóa Tiên Rồng hiểu được mưu đồ của địch, chúng ta mới có kế thắng địch, thắng ở tương kế tựu kế, thắng ở cương không được thời thắng nhu vậy, thắng ở nhu không được thời thắng ở chí, ý chí của mỗi dân tộc hùng anh, mang dòng máu Tiên Rồng.

* * *



LỜI TÂM HUYẾT CỦA NGƯỜI HỘ PHÁP

GIỮ GIÁO, TRUYỀN GIÁO

HAI CHỮ “TỰ HÀO”


Chúng ta sinh ra và lớn lên dù ở nước ngoài hay trong nước đều mang trong mình dòng máu Tiên Rồng, chung nền Truyền Thống lâu đời nhất là Truyền Thống chống ngoại xâm, hào hùng bất khuất, anh dũng kiên cường sáng chóa. Một nền Văn Hóa lâu đời có một không hai, nền văn minh đột phá thời cổ đại, nền văn minh tinh thần lẫn vật chất làm chấn động Địa Cầu thời đó, thời Đại Hùng Vương. Kéo dài Độc Lập 2622 năm, sự Độc Lập kéo dài ấy không phải tự nhiên mà có, chính là nhờ nền văn minh cao tột, Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo Dân Tộc. Nền văn minh đỉnh cao của nhân loại, lấy Hiến Pháp làm vua, lấy luật pháp làm thầy, tôn thờ Chính Đáng, đó là tôn thờ Tổ Tiên, ông bà, cha mẹ.

Tôn Thờ Tổ Tiên là tôn thờ bản thể Cội Nguồn, vô thỉ, vô chung như không thay đổi bản thể khai lập tạo ra con người và Vũ Trụ, hay còn gọi là Đấng Tạo Hóa, Tạo Hóa đã sinh ra nhân loại, cũng ban cho nhân loại nhiều thứ quyền. Trong đó quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền Độc Lập tự Chủ, những quyền cốt yếu nói trên không ai có quyền xâm phạm, khi họ sử dụng cái quyền của họ đúng theo Thiên Luật chính đáng, không ai hủy diệt được nó, nếu có hủy diệt thời không bao giờ hủy diệt được, thứ quyền thiêng liêng mà Tạo Hóa Tổ Tiên đã ban tặng cho mỗi con người.

Hãy tôn trọng quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền Độc Lập tự chủ. Những kẻ tự cho mình có quyền. Ban cho Thiên Hạ quyền tự do, quyền sống, quyền Độc Lập tự Chủ là những chú Hề trên sân khấu tuồng đời.

HIẾN PHÁP VĂN LANG có đoạn nói: Hỡi Đồng Bào trăm họ chúng ta sống trên một sân chơi bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, bảo vệ, tôn trọng quyền tự do, tôn trọng quyền mưu cầu hạnh phúc, tôn trọng Độc Lập chủ quyền của nhau, đó là chân lí, đó là lẽ phải. Đằng nầy nhà Ân không những không tôn trọng chủ quyền Độc Lập của nhau, đưa quân xâm lược đàn áp quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, biến bình đẳng thành nô lệ. Nói chung là chúng biến dân Văn Lang thành dân nô lệ của chúng và chúng đã thất bại. Khi quyền Độc Lập, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc bị đe dọa. Thời nhất tề đồng loạt đứng lên đánh đuổi kẻ thù ấy. Thời nay cũng thế mà thôi, quyền Độc Lập, quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự Chủ bị đe dọa nghiêm trọng. Hay chế độ cửa quyền áp bức. Thời khó tránh khỏi tai họa chiến tranh. Hãy sống theo lối sống văn minh hiện đại. Sống theo Văn Hóa Cội Nguồn, tôn thờ Hiến Pháp, Luật Pháp, tôn trọng truyền thống Nền Quốc Đạo Dân Tộc.

* * *



LINH THIÊN


Phải nói là tối Đại Linh Thiên.

Theo tôi được biết những người xúc phạm đến Văn Hóa Cội Nguồn thời tai họa giáng xuống liền như, tự nhiên hộc máu mà chết, tự treo cổ mà chết, xe cán chết, nhảy lầu chết, rắn cắn chết, bò xốc chết, té cấm khẩu không chữa được, đột quỵ không chữa được, mất chức, mất quyền, tan nhà nát cửa, gia đạo bất hòa, điên cuồng khó chữa, con cháu nổi lên làm hại gia phong, từ giàu sang dẫn đến phá sản sạt nghiệp. Nói chung tai họa giáng xuống nhiều vô số đối với những người bất kính đối với Văn Hóa Cội Nguồn. Còn những người thành kính thì sao, người điên trở thành hết điên, tự nhiên thông minh kỳ lạ, học hành thường đến nơi đến chốn, tai họa ít xảy đến, những bệnh nan y thường gặp may chữa khỏi, lên chức, lên quyền, từ nghèo khó chuyển lên giàu, của ăn của để không hết, con cháu hiếu thảo làm rạng rỡ gia phong. Nói chung tùy lòng thành kính cầu chi đặng nấy, công Đức đối với Văn Hóa Cội Nguồn càng dày thời phước Đức càng cao. Sự linh Thiên ấy do đâu mà có.

1 - Là do Hồn Thiên Dân Tộc phò trì tạo ra.

2 - Là do Thánh Thần Phật Tiên gia hộ tạo ra.

3 - Là do Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu, Lạc Long Quân, Âu Cơ tạo ra.

4 - Là do các Long Thần Hộ Pháp tạo ra.

5 - Là do sự hiển linh của ông bà nhiều đời nhiều kiếp tạo ra, khiến cho con cháu gặp nhiều may mắn. Lập công với Văn Hóa Cội Nguồn. Rạng danh tổ tông dòng Họ.

Đây là những điều tai nghe mắt thấy, không phải những lời bịa đặt mà là sự thật không thể tưởng tượng nổi.

Báu vật Trời cho khá giữ gìn

Anh Linh truyền thống đã hồi sinh

Con đường hạnh phúc giờ đã đến

Truyền bá cho đời rạng danh nên

* * *

Kinh sử Cha Ông mãi sáng ngời

Soi đường dẫn lối mãi vạn đời

Gươm thiên trấn quốc truyền hậu thế

Ngoại xâm khiếp vía khiếp tả tơi

* * *

Văn Lang kinh sử đã ra đời

Long, Lân, Quy, Phụng, đã chầu trời

Sấm dậy ầm ầm rền đất Bắc

Khiếp kinh hồn vía khiếp ôi ôi

* * *

Việt Nam chữ S trổ oai linh

Rồng Tiên chuyển hóa diệt yêu tinh

Đại Cáo Đông Tây Thiên Quyền Nhân Chủ

Đại Đồng Bình Đẳng Đại Anh Linh

* * *

Dân Tộc Việt Nam đã sẵn sàng

Chung nhau xây dựng ánh đạo vàng

Truyền thống anh linh thời dựng nước

Truyền thống anh hùng vẻ vẻ vang

* * *

Văn Kinh sử lược đã trao tay

Lo gì chẳng được đắp xây hòa bình

Lo gì chẳng được sang giàu

Lo gì chẳng được về Trời an vui

Nếu như biên chép ấn in

Hồn thiên che chở Cha Ông phù trì

Huống chi truyền bá cho đời

Cầu chi đặng nấy gia đình bình an

Chuyển đời đổi số giàu sang

Cháu con vinh hiển vượt qua khốn cùng

Văn Kinh sử lược oai hùng

Chỉ cần ca ngợi cũng thành hiền nhân

Huống chi theo bước Cha Ông

Hiếu Trung, Trung Hiếu ra công đáp đền

Chung nhau xây dựng nước mình

Rạng danh dân tộc rạng ngời Việt Nam

* * *

Thành tâm lễ lạy kính tin

Những gì để lại Cha Ông cho đời

Văn kinh tỏa sáng ngời ngời

Chung nhau gìn giữ để rồi ấm no

Con đường Độc Lập Tự Do

Con đường truyền thống Ông Cha con đường

Kinh văn đã ở trong lòng

Về trời sống mãi phước phần trời cho

Nhớ câu Nguồn Cội Ấm No

Nhớ câu mất gốc héo khô ngọn cành

Việt Nam con cháu Tiên Rồng

Trở về Nguồn Cội xây đời vạn xuân

* * *
 
VĂN MINH NHẬN THỨC HIỂU BIẾT VỀ CÀN KHÔN VŨ TRỤ THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC VĂN LANG

Càn Khôn Vũ Trụ
Chia làm ba phần


1 - Thiên giới.

2 - Trần gian.

3 - Âm phủ địa ngục.



Thiên giới chia làm 3 phần

a: Thượng Thiên vũ trụ, có 4 tầng Trời.

b: Trung Thiên vũ trụ, có 18 tầng Trời.

c: Hạ Thiên vũ trụ, có 6 tầng Trời.

- Thượng Thiên vũ trụ, có bốn tầng Trời Vô Sắc Giới.

- Trung Thiên vũ trụ, có 18 tầng Trời Sắc Giới.

- Hạ Thiên vũ trụ, có 6 tầng Trời gọi chung là Dục Giới.



Trần gian nhân loại cũng chia làm 3 hạng người

a: Thượng căn.

b: Trung căn.

c: Hạ căn.

- Thượng căn: Không học cũng thông

- Trung căn: Có học mới biết, không học không biết.

- Hạ căn: Đầu óc u tối, học mười chỉ hiểu được một. Có khi học Tây nghỉ Đông, học một đường hiểu một nẻo.



Âm phủ có ba đường khổ

a: Địa ngục tù đày.

b: Luân hồi Ngạ Quỷ.

c: Luân hồi súc sanh.



Nói về Thiên giới

Từ Cung Trời Đao Lợi Thiên trở lên gọi là Không cư Thiên Thiên Tiên.

Cõi Trời, Cung Trời, dưới Cung Trời là Cung Điện rồi đến Cung Động.

Như vậy từ tầng Trời Đao Lợi Thiên trở xuống. Chư Thiên ở Cung Trời, rồi đến Cung Điện, Cung Động. Tổng cộng là 36 Cung Trời, 72 Cung Động Cung Điện. Trên núi, dưới núi, trong lòng núi. Cùng khắp hạ hạ thiên vũ trụ. Có 7 núi chính lớn nhỏ cao to xa gần. Núi Tu Di Sơn nằm ở giữa.

1: Là núi Trì Địa Sơn.

2: Là núi Chướng Ngại Sơn.

3: Là núi Mã Nhĩ Sơn.

4: Là núi Thiện Kiến Sơn.

5: Là núi Đảm Mộc Sơn.

6: Là núi Trì Trục Sơn.

7: Là núi Song Trì Sơn.

Bảy núi nầy xa gần ở giáp vòng núi Tu Di Sơn.



Lại nữa núi Tu Di Sơn không những to, cao, lớn, mà xung quanh còn có 7 Kim Sơn bao bọc đó là:

1: Là núi Du Kiện Đà La.

2: Là núi Y Sa Đà La.

3: Là núi Kiệt Địa Lạc Ca.

4: Là núi Tô Đạt Lê Xá Na.

5: Là núi Án Thấp Phược Yết Noa.

6: Là núi Tỳ Na Đát Ca.

7: Là núi Ni Dân Đạt La.

36 Cung Trời 72 Cung Động Cung Điện.



Hạ hạ Thiên vũ trụ. Thánh – Thần – Phật – Tiên – Tà Giáo – Chánh Giáo phân nhau để ở. (Xem Kinh Long Hoa Pháp Tạng Sẽ Nói Rõ Hơn)

Sống ở Hạ hạ Thiên vũ trụ. Từ Cung Trời Đạo Lợi Thiên trở xuống. Nhân loại chư Thiên được phân làm hai loại người.

* – Một loài người là con cháu nhà Trời do hai Đấng Tiên Rồng sanh ra lưu truyền nòi giống xuống gọi là Con Rồng Cháu Tiên. Đồng Bào Thiên Hạ.

* – Hai là do các loài Bò Sát, Cầm-Thú, Thảo Mộc tu luyện thành người.

Xét cho cùng Nguồn gốc con người có ra là do hai Nguồn:

1 - Là do Tổ Tiên Khai Hóa, sau khi thành lập vũ trụ xong. Hiện ra Đức Cha Trời Long Hoa Cửu Huyền cùng Tiên Cơ Địa Mẫu. Sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống cho đến tận bây giờ. Gọi là Con Rồng Cháu Tiên.

2 - Là do các loài Bò Sát, Cầm-Thú, Thảo Mộc tu luyện thành người. Con người bằng pháp thuật. Không phải do Tinh Cha Huyết Mẹ loài người truyền xuống. Nên không thể lưu truyền nòi giống con người được. Khi hết Thần Lực thời cốt nào trở về cốt nấy. Cốt Khỉ hoàn Khỉ. Cốt Chồn-Cáo, sẽ trở về cốt Chồn Cáo.

Vì vậy Nhân Loại Chư Thiên ở hạ Thiên vũ trụ. Chia làm hai giới Phi Nhân và Thánh Nhân, Phi Tiên và Thánh Tiên, Xiển Giáo cùng Triệt Giáo.

Nói tóm lại: Các loài bò sát, Cầm-Thú, Thảo Mộc tu luyện thành người. Tu theo Chánh Đạo gọi là phi Tiên-giả Nhân. Không tu theo Chánh Đạo. Sống theo ác tánh gọi là Yêu-Tinh hay còn gọi là Quỷ dữ.

Hạ Thiên vũ trụ có 6 tầng Trời cõi Dục là:

Tính từ cao xuống thấp

Tầng 6: Trời Ma La Thiên.

Tầng 5: Trời Tha Hóa Thiên.

Tầng 4: Trời Hóa Lạc Thiên.

Tầng 3: Trời Đâu Suất Thiên.

Tầng 2: Trời Dạ Ma Thiên.

Tầng 1: Trời Đao Lợi Thiên.

Dưới nữa là Tứ Đại Thiên Vương trấn giữ Đông – Tây – Nam – Bắc. Bốn phương lưng chừng núi Tu Di Sơn rồi đến Cung Điện, Cung Động, trên núi, dưới núi, trong lòng núi.

Nơi hạ Thiên vũ trụ 6 tầng trời cõi Dục. Ở tầng Trời Đâu Suất Thiên. Có vị Phật Tổ Di Lặc Thiên Tôn làm giáo chủ, giáo hóa Thiên chúng làm theo lời dạy của Đức Cha Trời. Long Hoa Cửu Huyền Lạc Long Quân.

Lại nữa ở tầng Trời Đao Lợi Thiên, trên đỉnh núi Tu Di. Có vị Ngọc Hoàng. Huyền Khung Cao Thượng Đế Đại Thiên Tôn ngự trị tại Cung Linh Tiêu. Trên cai quản 6 tầng Trời. Dưới cai quản 18 tầng Địa Ngục. Làm theo Thiên ý lời dạy của Đức Cha Trời duy trì Luật Tạng Công Đạo vũ trụ. Nói chung Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa tất cả đều là con cháu của hai Đấng Tiên Rồng. Lên ngôi Chủ Quản các tầng Trời, các cõi Trời, các Cung Trời, cho đến Cung Động, Cung Điện toàn vũ trụ. Điều hướng về Cội Nguồn truyền lời dạy của Đức Cha Trời. Di trì Luật Tạng, Thiên Tạng, Pháp Tạng Công Đạo vũ trụ. Giữ vững cán cân Công Lý, Đại Đồng bình đẳng, không thiên vị một ai hễ phạm tội thời bị Thiên Luật Công Đạo xoay chuyển phán xử như nhau.

VĂN MINH NỀN QUỐC ĐẠO VĂN LANG, LÀ SỰ VĂN MINH PHÁT NGUỒN TỪ CỘI NGUỒN VŨ TRỤ CŨNG NHƯ HÀNH SỰ THEO THIÊN Ý CHA TRỜI THIÊN LUẬT VŨ TRỤ. ĐỈNH CAO TỐI CAO THIÊN Ý HÓA CÔNG. RỐT RÁO CÔNG BẰNG BÌNH ĐẲNG. QUỐC ĐẠO VĂN LANG LÀ ĐẠO LUẬT TỐI CAO NHÂN LOẠI CON NGƯỜI. ĐẠO LUẬT THIÊN CÔNG ĐỨC CHÍ TÔN THEO THIÊN Ý CHA TRỜI TRUYỀN XUỐNG CHỐN NHÂN GIAN. TRỞ THÀNH HIẾN PHÁP NỀN VĂN HIẾN VĂN LANG.

Ở miền trung Thiên vũ trụ nơi tần Trời thứ mười một của trung Thiên giới, tính từ địa phận trung thiên giới trở lên. Tầng thứ 18 tính từ tầng trời Tứ Thiên Vương hạ thiên vũ trụ tính lên.

Tiền Thân Quốc Tổ Hùng Vương ở đây sanh xuống chốn nhân gian làm con Kinh Dương Vương (xem Long Hoa Mật Tạng sẽ nói rõ hơn). Nơi Cõi Trời phước sanh hàng năm vào mùa Thất sen nở rộ. Từ các ao thất bảo hào quang chóa lại đủ màu sắc, hương sen ngào ngạt. Là mùa lễ hội Long Vân. Phật – Thánh – Tiên – Thành – Chúa. Từ khắp thập phương vũ trụ cõi Trời, đều đến dự Đại Hội Long Vân, là những vị Đức cao Đạo trọng. Thần thông quảng đại, pháp thuật, trí tuệ, vô tận, vô biên, uy Quyền vạn cõi.

Các Ngài là những vị đương nhiệm điều hành vũ trụ. Theo bộ máy huyền cơ của Tạo Hóa. Di trì Công Đạo, cán cân công lý của luật bình đẳng nhân quả vũ trụ.

Lúc bấy giờ nơi tần trời thứ 18 của vũ trụ, Cõi Trời Long Vân bỗng nhiên to lớn dị thường, gấp hàng nghìn hàng vạn lần so với lúc bình thường. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, mỗi người mỗi vẻ. Hào quang muôn màu, muôn sắc vô cùng đẹp mắt, vô biên rực rỡ sinh động kỳ ảo vô cùng. Các Ngài đến dự hội Long Vân, đông vô số, vô biên. Không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn. Dù cho tính đến cả trăm vạn năm cũng không hết. Thấy các Ngài đã yên vị chỗ ngồi.

Biết đã đến lúc Khai Hội Long Vân. Đức Chí Tôn, chính là tiền thân Quốc Tổ Hùng Vương ngự trên tòa Kim Long Bá Bảo. To lớn như ngọn núi Tu Di. Từ tòa Kim Long Bá Bảo tám muôn bốn nghìn con Rồng Châu Báu, bỗng chuyển động. Mỗi con phát ra một đạo hào quang, xuyên suốt hư không làm chấn động vũ trụ. Từ nơi Đỉnh Đầu Đức Chí Tôn phát ra 8 muôn 4 nghìn đạo hào quang xuyên suốt hư không làm chấn động vũ trụ thưa thỉnh với Cha Trời là chúng Con Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa muốn được nghe lời Cha Trời Truyền Dạy. Tức thời nơi vũ trụ hư không vang ra tiếng sấm lớn. Tiếng sấm uy quyền tối cao của Đức Cha Trời. Tiếng sấm Đại Đồng bình đẳng. Tiếng sấm quang minh Chính Đại. Tiếng sấm luân hồi Nhân quả. Tiếng sấm an Lạc tự do. Tiếng sấm của Địa Ngục đau khổ. Tiếng sấm Đại Nguyện cứu khổ ban vui. Tiếng sấm Đại từ. Đại Bi. Đại Hỷ. Đại Xả. Đại Hạnh. Đại Trung Hiếu. Tiếng sấm khen ngợi Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa vì nhân loại vì Tổ Tiên, vì Cội Nguồn, thay thế Cha Trời chuyển đại pháp luân. và cứ thế Như Lai tạng tánh vang lên, 8 muôn 4 nghìn chủng tánh đà la ni. Mật Tạng của Đức Cha Trời. Pháp tạng huyền vi vũ trụ.

Mà Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa mãi mãi nghe theo và làm theo, giữ gìn truyền đạt lại cho người sau, làm lợi ích cho toàn nhân loại. Tùy theo sức lực. Hạnh Nguyện lớn nhỏ, lập công với Trời. Đức Cha Trời sẽ ban thưởng cõi nước lớn nhỏ tùy theo công Đức của mỗi người tạo ra.

Tiếng sấm Tạng Tánh Mật Tạng vũ trụ. Đức tánh của Đức Cha Trời vừa dứt. Tức thời nơi hội Long Vân năm màu da anh em bỗng nghe thấy mùi hương kỳ lạ. Chưa từng thấy từng nghe. Trỗi dậy từ chân không mỗi lúc một thêm ngào ngạt. Chỉ cần hít được là Tinh Lực: Công Lực: Thần Lực tăng lên gấp trăm gấp nghìn lần sức tu luyện hàng triệu triệu năm. Một chuyện hi hữu chưa từng xảy ra ở những lần Đại Hội. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa Đồng nghĩ. Có lẽ chúng ta là những người con, người cháu, chăm chỉ nghe lời dạy bảo của Đức Cha Trời nên Đức Cha Trời ban thưởng Tinh Hoa Tiên Thiên vũ trụ. Công Lực, Tinh Lực, Thần Lực, quí hiếm như vậy. Bỗng nơi hư không vũ trụ vang lên tiếng nói. Đúng thế đúng thế, các con là những người con chí hiếu đáng yêu đáng quí của ta. Đã có các con duy trì Công Đạo vũ trụ, thời ta không còn lo lắng chi nữa.

Bây giờ Đức Chí Tôn thấy Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa năm màu da anh em người nào người nấy hào quang rực rỡ liền chấp tay thi lễ hướng về Đại Hội. Đức Chí Tôn nói Thưa Đại Hội anh em. Chúng ta là anh em con một Cha, Chung một Cội Nguồn sống trong ngôi nhà chung vũ trụ. Anh em chúng ta từ xưa đến nay. Thay thế Đức Cha Trời điều hành vũ trụ. Luôn luôn phát Đại hạnh, Đại Nguyện dắt dẫn nhân loại con người sau xa lìa tội lỗi. Trở về Cội Nguồn. Trở về thật tướng thật tánh của mình. Nhổ sạch cội ác, thoát khỏi luân hồi sanh tử. Địa Ngục ngạ quỷ súc sanh, khốn khổ vô cùng.

Xét cho cùng cái gốc ác là do mê muội tạo ra mà thôi. Ác hay thiện đều do tâm mình tạo ra cả. Bản nguyên linh giác chân tánh nguyên thủy vốn không thiện, không ác. Trong sạch thanh tịnh vì thế mà ta đã đầu thai xuống trần gian. Truyền dạy lời dạy của Đức Cha Trời mở đường làm gương đi trước mở ra Văn Hóa Cội Nguồn nơi trần thế. Lập lên nhà Nước Văn Lang đồng thời cũng thành lập lên Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang. Chủ quảng Hồn Thiên Dân Tộc toàn cầu. Theo Thiên Ý Cha Trời Thiên Luật Vũ trụ chuyển xây bộ máy huyền vi không cho những Linh Hồn dấy loạn cõi tâm linh trần thế cũng như phạm Thiên Luật, Thiên Ý Cha Trời.

Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang nơi trần thế. Thống trị Linh Hồn toàn cầu cho hết tiểu kiếp thứ 9 sau 10 nghìn năm ở chốn nhân gian. Ta đã dựng lên nước Văn Lang. Mở ra văn hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Tiên Rồng dân tộc Hiến Pháp đầu tiên của nước Văn Lang. Mật Tạng Tánh Đức Cha Trời. Cũng là Hiến Pháp độc nhất vô nhị Hiến Pháp Đa Nguyên Thiên Quyền Nhân Chủ, cao hơn Hiến Pháp Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ mấy bậc. (Xem Kinh Long Hoa Pháp Tạng sẽ nói rõ hơn)

Lời dạy của Đức Cha Trời cao thâm huyền diệu. tối đại Linh Thiên, tin theo làm theo thời phước đức uy lực trí huệ vô cùng, vô tận, vô biên. Bằng ngược lại chỉ cần không tin, hay hủy bán hoặc lợi dụng lời dạy của Trời làm lợi cho cá nhân. Thiệt hại cho bá tánh muôn dân. Thời tội ấy không biết đâu mà lường. Đại họa sẽ giáng xuống liên miên. Khi chết đi khó mà đầu thai trở lại làm người được nữa.

Khi Ta khai dựng lên nước Văn Lang Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo Tiên Rồng chỉ truyền xuống vị vua kế tiếp mà thôi. Vì lúc ấy trình độ dân trí còn quá thấp, mê tín dị đoan. Thờ tà giáo, các loài cầm thú. Hơn nữa Thiên cơ vũ trụ chưa chuyển đến giai đoạn văn minh vật chất. Các nhà khoa học vũ trụ, Thiên Tiên, Địa Tiên, chưa luân chuyển xuống trần. Nên giấy bút còn tạm bợ thô sơ lạc hậu chưa hoàn hảo chữ viết cũng vậy. Nên không để lại kinh giáo, chỉ truyền miệng, Cũng chỉ vì truyền miệng tam sao thất bổn không bao lâu nền Văn Hiến Quốc Đạo sai lệch mất gốc. Dân tộc Văn Lang dần dần rơi vào khốn khổ vì Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo chân chính không còn.

Khi ta về Trời các thế hệ Vua Hùng nối tiếp nhau duy trì Chánh Đạo Văn Hóa Cội Nguồn. Nhưng vì không có kinh, chỉ truyền miệng nên đã dẫn đến lệch lạc tam sao thất bổn, ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn mặt trời trí tuệ dần dần biến mất. U minh phủ khắp nhân gian thiên hạ đồng bào rơi vào ác Đạo. Thiện ác lẫn lộn đi vào binh đao máu lửa vô cùng thê thảm. Địa ngục âm phủ càng thêm mở rộng, khổ thay khổ thay.

Thấy Đức Chí Tôn lo lắng như thế. Nơi Pháp Hội Long Vân, có Đức Phật Tổ vô lượng quang Như Lai. Ngự trên tòa Sen Báu 8 muôn 4 nghìn cánh to như núi Kim Sơn, hào quang chói lọi uy lực, thần thông, trí huệ vô biên. Liền chấp tay thi lễ nói với Đức Chí Tôn rằng.

Thưa Đức Chí Tôn. Chí Tôn hãy an tâm. Tuy nơi chốn nhân gian là nơi vô cùng nguy hiểm. Đối với Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, khi lâm phàm liền rơi vào cảnh tối tăm. Lôi cuốn theo dòng đời trần thế Xuống trần nhiều, nhưng trở lại Thiên Giới thời rất ít.

Chỉ trừ các vị Tổ thời mới mong trở về ngôi vị cũ của mình. Nơi chốn nhân gian mạng lưới u minh dày đặt, gió bát phong thổi mạnh. Sáu trần đánh phá biến ảo khôn lường. Sáu căn đầy dẫy bệnh tật. Sáu thức không an trụ chân tánh được, thường luân chuyển vào cảnh tối tăm mù mịt sa vào ác Đạo.

Nếu không nhờ Thần Lực của Đức Cha Trời gia hộ thời Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, khi lâm phàm khó trở về ngôi vị cũ. Nói gì đến chuyện chuyển Đại Pháp Luân cứu thế. Vì thế Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa lâm phàm phải khế hiệp theo huyền cơ vũ trụ, mới bảo đảm linh căn trở về Thượng giới. Hiện giờ ở chốn nhân gian, huyền cơ vũ trụ đã chuyển đến giai đoạn phong Thần.

Các vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa ở hạ hạ Thiên vũ trụ. Địa Tiên vào cuộc, 36 cung Trời, 72 cung Động cung Điện lần lược lâm phàm luân chuyển tiến hóa, thanh lọc Linh căn. Từ địa vị Địa La Thần lên địa vị Thiên La Thần. Các vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, vị nào trụ tâm không vững sẽ rơi vào kiếp Phong Thần, uổng công hàng nghìn kiếp tu luyện.

Nước Văn Lang cũng không tránh khỏi Đại họa, vì chúa tể của các loài Hồ tinh ra đời thời không bao giờ bỏ qua món hận con Trời đã hại chúng. Lại nữa sau phong Thần 600 năm, Huyền cơ chuyển sang giai đoạn tam giáo. Phật giáo, Thánh giáo, Tiên giáo ra đời. Sau tam giáo 500 năm. Huyền cơ vũ trụ chuyển đến giai đoạn mở màn văn minh vật chất. Nhân loại chư Thiên ở hạ Thiên vũ trụ, lần lược thi nhau lâm phàm. Liền bị chuyển vào dòng xoáy, của màng danh lợi, rơi vào cảnh giới u minh. May nhờ ánh sáng Tam giáo soi đường, nên ít sa vào Địa ngục. Nếu không trở về thiên đàng được, thời cũng đầu thai trở lại làm người tiếp tục hưởng phước, tiếp tục tu luyện lập công tiến hóa linh hồn, chờ Hội Long Hoa Rồng Tiên ra đời. Ở vào giai đoạn nầy huyền cơ bắt đầu chuyển đến Trung Thiên vũ trụ tần Trời thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Tức là tần Trời 8, 9, 10 tính từ tầng trời Tứ Thiên Vương trở lên. Các chư Thiên ở ba tầng Trời nầy lần lượt lâm phàm. Trong số chư Thiên lâm phàm có Đức giáo chủ A MEN, 1 trong 100 người con của Đức Cha Trời. Hành Kim. Đem ánh sáng quyền năng Cha Trời xuống chốn nhân gian. Nhưng đó mới chỉ là ánh sáng hừng đông mở màng. Cho đến sau công nguyên 2000 năm, đầu thế kỷ 21, mặt Trời chân lý vũ trụ mới xuất hiện. Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ mới thật sự ra đời. Đây là giai đoạn vô cùng quan trọng, giai đoạn phong Thánh, Đại Thánh.

Từ thế kỷ 21 đến thế kỷ 30 một nghìn năm nhân loại Trần Gian đi theo Văn Hóa Cội Nguồn thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa vô lượng vô biên không thể tính đếm, không thể luận bàn cho hết được. Mặt Trời chân lý vũ trụ sẽ sáng mãi đến tiểu kiếp thứ 15 qua 84 triệu năm thời Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ mới lặng. Thay vào đó là ánh sáng Liên Hoa Hãi Tạng ra đời kéo dài cho đến tiểu kiếp 20 hết kiếp trụ. Ở kiếp hoại không có ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời, kéo dài 336 triệu năm cho đến khi trái đất nổ trở về chân không.

Lại nữa cuối tiểu kiếp tăng đầu tiểu kiếp giảm của tiểu kiếp thứ 10 Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ. Đã trải qua 8 triệu 4 trăm nhìn năm. Lúc ấy tuổi thọ của nhân loại trần gian đã tăng lên tới đỉnh, 8 muôn 4 nghìn tuổi. Thời Đại Hội Long Hoa vũ trụ mở ra ở khoảng chân không Hạ Thiên vũ trụ. Huyền cơ chuyển đến giai đoạn phong địa vị tối cao. Những chủ nhân tương lai Tổng Đà La Ni kế thừa Di Chí Tổ Tiên Như Lai, Cha Trời Mẹ Trời, chuyển đại pháp luân giai đoạn tối cao của nhân loại. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa. Nơi Hội Long Vân Nhờ nương theo thần lực của Phật Tổ Tổ Tổ nơi Pháp Hội ai cũng điều thấy rõ những sự việc xảy ra trong tương lai như vậy. Theo sự huyền vi Tạo Hóa sắp xếp của Cha Trời.

Bỗng thấy vũ trụ rung chuyển. Từ nơi tòa Kim Cang bá bảo to lớn như ngọn núi Thiên Sơn. Muôn Đạo Hồng Quang phóng lên dữ dội. Có vị Hồng Quang Lão Thánh Thánh Tổ Tổ Tổ. Chắp tay thưa với Đức Chí Tôn rằng. Chúng ta là con cái nhà Trời, thừa kế di Chí Cha Ông, cũng như thừa kế giang sang vũ trụ. Những Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa phải có nhiệm vụ. Kiến tạo xây dựng mỗi ngày một thêm xinh đẹp, vật chất lẫn tinh thần. Nhất là đạo đức con người mỗi ngày thêm phong phú rực rỡ hơn lên.

Từ khi Tổ Tiên lập lên vũ trụ. Hiện thân ra Cha Trời, Mẹ Trời khai tạo ra giống người dìu dắt Linh Hồn anh em chúng ta lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Vận hành bộ máy huyền vi vũ trụ, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời. giữ gìn Công Đạo Thiên Ý luật nhân quả vũ trụ.

Những linh hồn đã gieo được hạt giống tốt lời dạy của Đức Cha Trời tiến hoá lên ngôi vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, thời tùy theo Công Đức, và sự chứng ngộ hội nhập Cội Nguồn. Mà làm chủ các tầng Trời, cõi Trời, cung Trời, cung Điện, cung Động khắp tam giới.

Lại nữa các vị Tổ đại nguyện viên mãn. Hội nhập Cội Nguồn trở về bản thể Linh giác thật tướng thật tánh tối cao Tạo Hóa. Ví như bọt nước tan biến trở lại là nước. trở về ý thức thanh tịnh, bình đẳng Đại Đồng, Cội Nguồn vũ trụ ngôi vị Tổ Tiên Khai Hóa. Thành lập vũ trụ mới, thay thế vũ trụ cũ, già cỗi đi vào hủy diệt. Nơi pháp Hội Long Vân Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa nương theo ánh sáng hồng quang ai nấy cũng nhìn thấy rõ quá trình diễn biến. Quá khứ hiện tại vị lai không sót một chi tiết nhỏ.

Tức thời nơi pháp Hội Long Vân. Chúng hội ở địa vị Thần chuyển lên địa vị Thánh còn Phật Thánh Tiên chuyển lên ngôi Tổ Tổ vô lượng vô biên không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn. Chờ đến pháp Hội Long Hoa giữa tiểu kiếp thứ 10, các ngài Đồng phóng quang, tuyên thuyết, diễn thuyết bản thể chân tướng chân tánh. Đồng Cội đồng nguồn vũ trụ Đại Đồng bình đẳng có một không hai thật tánh, thật tướng vũ trụ.

Lại nữa nơi pháp Hội Long Vân, bỗng thấy hào quang ngũ sắc phóng lên dữ dội từ tòa châu báu Thái Cực lưỡng nghi to như ngọn núi Mộc Sơn. Có vị Không Không Lão Tổ Tổ Tổ, chắp tay thưa với Đức Chí Tôn rằng. Thưa Đức Chí Tôn từ đây đến cuối tiểu kiếp thứ 9 chỉ còn 8 nghìn năm nữa theo chốn nhân gian và nhân loại chỉ trụ được hơn 6 nghìn năm mà thôi. Tức là sau công nguyên chỉ hơn 5 nghìn năm. Còn trên nữa 2 nghìn năm tiếp theo thời con người khó mà sống, vì 2 nghìn năm cuối cùng của tiểu kiếp thứ 9, Tứ Đại, Đất Nước, gió lửa đi vào thái chuyển quá mạnh. Động Đất, Nước Biển dâng, Mưa to, Bão lớn Thời tiết khắc nghiệt. Nhiệt Độ tăng quá cao, cũng như hạ quá thấp. Con người sống sót tồn tại còn lại là không bao nhiêu ở những giai đoạn cuối tiểu kiếp thứ chín. Mở màn người nguyên thủy Thời Hồng Hoang lặp lại đầu tiểu kiếp thứ 10. Sau Công Nguyên 5 nghìn năm thời cơn bão bình thường cũng lên tới 200 cây số giờ. Nước biển dâng ngập hầu như gần hết các lục địa những đồng bằng nhiệt độ trung bình gần 100 độ C, động đất cực mạnh luôn luôn xảy ra khắp các châu lục và cuối cùng là chuyển đổi lục địa, năm châu bốn biển thay dạng đổi hình. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa ở Hạ Thiên, Trung Thiên lâm phàm xuống trần phò trì văn hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ làm lợi ích cho toàn nhân loại tiến hóa linh hồn lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Biến Địa Ngục trần gian thành thiên đàng Cực Lạc giả tạm, trước khi nhân loại trở về Thiên đàng Cực Lạc chính thức. Các vị Thiên Tiên Địa Tiên lâm phàm cứu nhân độ thế mở ra khoa học văn minh vật chất, khai thác tài nguyên vũ trụ, tạo ra phương tiện máy móc phục vụ con người, giảm bớt thiệt hại thiên tai đang thái chuyển thay đổi sanh tiểu kiếp mới.

Nơi pháp Hội Thiên chúng Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, nương theo hào quang của Đức Không Không Lão Tổ Tổ Tổ thấy nhân loại trần gian sắp đi vào hiểm họa vì những nghìn năm đi lần về cuối tiểu khiếp. Chuyển sang tiểu kiếp mới theo luật tuần hoàn vũ trụ, các ngài đồng nghĩ ta phải cứu nhân loại phàm trần, thoát khỏi ba đường ác đưa nhân loại trở về Thiên Đàng Cực Lạc theo lời dạy của Đức Cha Trời, lập đại công dâng lên Đức Cha Trời, ý nghĩ tốt đẹp của các Ngài đã làm chuyển động cả vũ trụ. Những chỗ u tối xưa nay nơi vũ trụ bỗng tự nhiên sáng trở lên, các vị Thần, Thánh, Phật, Tiên toàn vũ trụ ca ngợi công Đức, phát tâm cúng dường, đồng loạt bay lên tầng Trời thứ 18 cõi Long Vân. Cúng dường đồ ăn, thức uống hiếm quí, hương Hoa Kỳ Hương dị bảo, kim cương ngọc ngà trân châu báu lạ. Thành trận mưa cúng dường mưa báu kéo dài, làm chấn động toàn vũ trụ tam Thiên Đại Thiên thế giới. Khắp nơi địa ngục lúc bấy giờ, người đại tội biến thành nhẹ tội, người nhẹ tội liền siêu sanh lên cõi nhân gian, sống trong sự giàu có.

Lúc ấy bỗng nơi hư không vang ra tiếng nói lớn. Hi hữu thay đáng khen thay, lòng Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xã đã phát huy tác dụng đến tận cùng vũ trụ, nơi tối tăm nhất cũng được tỏa sáng, nơi đau khổ nhất cũng được nhẹ đi, hi hữu thay đáng khen thay. Đáng khen thay đó là lời khen của Đức Cha Trời từ nơi hư không vũ trụ.

Nơi pháp Hội Long Vân, có một tòa kim cang bát Quái Châu báu to như núi song trì luôn luôn phát ra ánh sáng kì lạ, từ trắng thành đen, từ đen thành vàng, từ vàng thành đỏ, từ đỏ sang chàm. Ngũ hành luân phiên chuyển hóa, thì ra tòa kim cang bát quái ấy là của Thiên Cơ Lão Tổ Tổ Tổ đang chuyển đại pháp luân. Thiên Cơ Lão Tổ Tổ Tổ liền chắp tay thưa Đức Chí Tôn rằng. Thưa Đức Chí Tôn từ khi Tổ Tiên Khai Hóa, khai lập vũ trụ đến giờ, bộ máy huyền vi vũ trụ không có gì thay đổi, luật trước luật sau cũng chỉ là một luật, hể có sinh là có diệt, không sinh là không diệt. Vật chất luân chuyển theo tuần hoàn. Sanh trụ Dị Diệt, còn linh căn linh hồn thời luân chuyển theo nghiệp lực, Thiện Ác mê chấp, nhân quả. Tất cả linh hồn sanh ra đều bình đẳng. Thuận theo Thiên Ý hành Thiện thời thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời gọi là ác, vì ác nên thành yêu tinh quỷ dữ ác đạo. Đã gieo ác đạo, thời gặt ác báo. Mê tín dị đoan, Trời không thờ, mà thờ quỉ thờ yêu thờ tinh. Thờ Thần cầm, Thần thú, theo tà thuyết, gieo nhân bất chính, nên kết quả bất lành, rơi vào tà Đạo. Nên sa vào ba đường khổ, Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, cũng như sa đọa thành yêu tinh quỉ quái. Làm theo lời dạy của Đức Cha Trời gọi là Ngộ là Thiện, vì Thiện gọi là Chánh, vì Chánh nên thành tựu vô lượng công Đức. Vì có vô lượng công Đức, nên thành Vua, thành Chúa, thành Phật, thành Thánh, thành Tiên.

Thật ra tất cả Linh Hồn chung một Nguồn gốc Cha Trời. Cha Trời. Đại Linh Hồn ví như nước, còn tất cả tiểu Linh Hồn nhân loại ví như bọt nước. Bọt Nước do Nước sanh ra mà thôi. Tất cả tiểu Linh Hồn Bình Đẳng, đều là con cái của Đại Linh Hồn Cha Trời. Cũng bởi gì Tâm Hồn mê muội, khởi sanh ra tánh ác, làm hại mình hại người. Làm cho cõi âm phủ Địa Ngục mỗi ngày mỗi thêm rộng lớn, vì hành Ác đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời. Nên bị bộ máy huyền vi vũ trụ xoay chuyển, theo luật nhân duyên cũng như luật nhân quả, gieo giống nào thời gặt giống nấy. đọa lạc luân hồi mãi mãi khốn khổ vô cùng. Dù trải qua vô lượng kiếp cái Ác cứ mãi đeo bám, kết quả đi đến tù đày, sát phạt, ăn nuốt lẫn nhau, khó mà giải thoát. Xin Đức Chí Tôn mở lượng từ bi, đem ánh sáng trí huệ Đức Cha Trời xuống nhân gian. Chuyển Đại Pháp Luân lần nữa làm lợi ích cho toàn nhân loại, thiện ác đều được giải thoát. Trở về bản giác Chân Tánh, ngôi vị Chí Tôn vô thượng.

Thưa Đức Chí Tôn, giai đoạn cuối tiểu kiếp là giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. Có thể nói giai đoạn cực ác biết lợi dụng Phật Pháp, Thánh Pháp, Tiên Pháp phục vụ lợi ích riêng cho mình. Làm lợi cho bè phái, đảng phái phục vụ chiến tranh. Các vị Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa xưa nay đều hiểu. Khi đầu thai xuống trần trở thành người phàm tục. Thời quên mất tiền thân kiếp trước của mình. Bị dòng đời xoay chuyển theo trào lưu xã hội, nên Làm lành lánh dữ đã khó, huống chi là chuyển Đại Pháp Luân. Trên biển lữa hận thù, tranh đấu chém giết lẫn nhau thủ đoạn cùng hung, cực ác chồng chất như núi như non. Trong hoàng cảnh trần gian xã hội như thế, thời Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đầu thai xuống trần không những không làm được gì mà còn bị lôi kéo theo dòng đời lạc vào Tà Ma Ác Đạo. Trở thành anh hùng lạc đạo hết mong về trời. Có khi còn sa đọa xuống Địa Phủ.

Thưa Đúc Chí Tôn. Nếu không phải bật thượng căn Trí Huệ vô tận, Đại Nguyện vô tận thời khó mà chuyển Đại Pháp Luân. Làm cho ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác tỏa sáng khắp Trời đất được. Nhất là ở vào tình thế nơi chốn trần gian đang trên đà hưng thịnh Mạc Kiếp Mạc Pháp gần cuối tiểu kiếp đầy khó khăn nguy hiểm nầy.

Nơi Pháp Hội Long Vân, Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa đồng nghĩ như vậy. Chỉ có Đức Chí Tôn anh cả con Trời xuống trần mới chuyển xây được tình thế ở giai đoạn đầy khó khăn nguy hiểm nầy. Liền thỉnh cầu Chí Tôn chuyển Đại Pháp Luân, đem ánh sáng Đa Nguyên Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ xuống trần mở màng đời Thánh Đức. Lấp con đường địa ngục mở cửa Thiên Đàng đưa nhân loại trần gian về trời. Đức Chí Tôn nhận lời thỉnh cầu pháp hội Long Vân. Chờ đúng huyền cơ vũ trụ tái sanh xuống chốn nhân gian Thiên Ấn Thiên Bút ra đời.

Tự hào truyền thống Cha Ông

Tự hào đất nước con Rồng Cháu Tiên

Tự hào Văn Hóa văn minh

Tự hào Quốc Tổ uy linh oai hùng

Tự hào hai chữ Đồng Bào

Tự hào Nam Việt đất trời Địa Long.



Trung Thiên vũ trụ có 18 tầng Trời, tính từ cao xuống thấp:

18: Tầng Trời sắc cứu cánh.

17: Tầng Trời Thiện Hiện.

16: Tầng Trời Thiện Kiến.

15: Tầng Trời Vô Nhiệt.

14: Tầng Trời Vô Phiền.

13: Tầng Trời Vô Tưởng.

12: Tầng Trời Quảng Quả.

11: Tầng Trời Phước Sanh.

10: Tầng Trời Thiên Vân, Chỗ Đức Chí Tôn Ngự.

9: Tầng Trời Biến Tịnh.

8: Tầng Trời Vô Lượng Tịnh.

7: Tầng Trời Thiểu Tịnh.

6: Tầng Trời Quang Âm.

5: Tầng Trời Vô Lượng quang.

4: Tầng Trời Thiểu Quang.

3: Tầng Trời Đại Phạm.

2: Tầng Trời Phạm Phụ.

1: Tầng Trời Phạm Chúng.



Mười tám tầng Trời nầy gọi chung là: Sắc giới.

Tam giới là:


1: Dục giới.

2: Sắc giới.

3: Vô Sắc giới.



BỘ VĂN LANG CHIẾN SỰ 1
ĐẾN ĐÂY ĐÃ HẾT


CHỦ BÚT: ĐINH HÙNG CHUNG​
 
QUỐC BẢO
CHÂN KINH

VĂN LANG
CHIẾN SỰ

II


THIÊN ẤN THIÊN BÚT

GÒ HỘI

ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI



2013

Nguyễn Đức Thông















PHẦN 1: MỞ ĐẦU

Văn Lang trù phú, cảnh sang giàu.

Vàng, ngọc, trân châu, sắt, đồng, thau.

Gạo trắng, cá tươi, người đông đúc.

Lụa là gấm vóc, ngọc trắng phau.

Quê, thị, gần, xa, luôn nô nức.

Hội đình, chợ, quán, cảnh chen nhau.

Phương Bắc ngày đêm, lòng thèm khác.

Xâm lăng cướp lấy, trước nối sau.

Nói đến nước Xích Quỷ, thời Kinh Dương Vương, thời phải nói đến sự giàu có, không những giàu có về vàng, bạc, châu, báu, sơn hào hải vị, món ngon vật lạ, nhất là văn minh về lúa nước, nhất là lúa hổ Rằng, lúa Hổ Chưởng, lúa Chiêm, lúa Thần Nông, lúa Xích Khoán, lúa Thiền Minh, lúa An Cựu, lúa Hạ Bạch, lúa Thanh Vu, lúa Bạch Kê, lúa Tẻ, lúa Thuần, lúa Mạch, lúa Kim Ô, lúa Hoàng Đế, lúa Xích Kê, lúa Thượng, lúa Hạ, lúa Phì, lúa Lùn, lúa Thơm, lúa Nếp Tẻ, lúa Đuôi Phụng, lúa Bạch Mạc, và còn nhiều giống lúa quý hiếm khác nữa, dân Bắc Văn Lang lúa thóc đầy bồ, phải nói cuộc sống dân nước Xích Quỷ, không những thái bình thịnh trị hàng nghìn nghìn năm, trong cuộc sống no cơm, ấm áo. Mà còn béo bở về thu nhập qua đường trao đổi buôn bán, Một đất nước béo bở như thế, luôn luôn khơi dậy lòng tham lam thèm muốn, những nước lân cận nhất là những nước lân cận Phương Bắc, chúng thèm khát đến nỗi ăn không ngon ngủ không yên, lúc nào cũng mơ tưởng chiếm cho được Bắc Văn Lang, coi như làm chủ sở hữu nền văn minh lúa nước, cơm no áo ấm thời còn gì bằng. Cho nên nước Xích Quỷ lúc nào cũng rình rập mối nguy mất nước, bởi quân xâm lược Phương Bắc rình rập ngày đêm.

Cùng thời lúc ấy, một vị cứu tinh đất nước ra đời, chính là Quốc Tổ Hùng Vương, người con độc nhất của Kinh Dương Vương, Quốc Tổ Hùng Vương ra đời chuyển xây tình thế, không những đánh tan mộng xâm lược Phương Bắc, mà còn mở rộng nước Xích Quỷ vào Nam, trở thành nước Văn Lang rộng lớn, gấp ba lần nước Xích Quỷ, sự mở rộng bờ cõi về Nam làm cho nước Văn Lang trở nên hùng mạnh, không có một đất nước nào hùng mạnh hơn.

Đất nước Văn Lang chia ra làm ba miền, Bắc Văn Lang, hầu hết là toàn bộ Nước Xích Quỷ, rồi tới Trung Văn Lang, kế đến là Nam Văn Lang.

Khai dựng lập lên nước Văn Lang, Quốc Tổ không ở Bắc Văn Lang, mà ở Nam Văn Lang, đây là một điều bí mật của Quốc Tổ, vì Quốc Tổ biết trước Bắc Văn Lang, Trung Văn Lang, một khi văn hóa Cội Nguồn đã mất, nền Quốc Đạo không còn, trở nên độc quyền, độc tài, độc trị, theo xu hướng Phương Bắc, sẽ bị Bắc Phương chiếm lấy, đồng hóa dân chúng theo văn hóa Phương Bắc. Nhưng giặc Phương Bắc không bao giờ chiếm lấy được Nam Văn Lang, vì Nam Văn Lang là Địa Long Vũ Trụ. Thánh địa linh thiên nhất địa cầu, nên văn hóa Phương Bắc không thể đồng hóa nổi dân tộc Nam Văn Lang, dù trải qua hàng nghìn năm xâm lược đồng hóa, theo ý đồ Phương Bắc, những gì biết trước của Quốc Tổ không gì là sai cả.

Bắc Văn Lang nước Xích Quỷ, phần lớn đất đai Giao Chỉ, Tới thời Hùng Vương, được mở rộng gấp đôi, Bắc Văn Lang Nước Xích Quỷ, Giao Chỉ, vì thế mà trở nên vô cùng hưng thịnh, lại phân chia thêm ra nhiều Bộ, Châu, Quận, Huyện. Bắc Văn Lang đất đai phì nhiêu, nhờ có nhiều con sông lớn bồi đắp, như sông Dương, sông Trường, sông Lạc, sông Âu, chia ra nhiều sông nhánh khác nữa, bồi lấp thành đất đen và bốc hơi rất mạnh, rất phù hợp cho nền nông nghiệp lúa nước. Những cánh đồng lớn, cò bay thẳng cánh, sông ngòi kinh rạch chằng chịt, thuận tiện cho việc trồng lúa nước, đem lại sự hùng mạnh cho quân lực, nếu có được Bắc Văn Lang thời không lo gì sự đói nghèo nữa, không lo thiếu lương thực nuôi quân, nên không có thế lực mạnh nào mà không muốn chiếm lấy, phải nói là chiếm lấy cho bằng được. Do sự trù phú đất đai, nhiều giống lúa tốt, sông ngòi kinh rạch, khí hậu ôn hòa thiên nhiên ưu đãi nầy, luôn luôn khơi dậy lòng thèm khát những tay háo chiến, mộng bá Vương, nên Bắc Văn Lang càng về cuối thời Hùng Vương càng chiến tranh xâm lược dữ dội từ Phương Bắc, xâm lược về Phương Nam, đất nước Văn Lang.

Những trận xâm lược kinh thiên động địa chưa từng có trong lịch sử, nhất là sự xâm lược của Nhà Ân, Ân Thọ Trụ Vương, ở vào thời hạ Hùng Vương, thời thứ 3 Hùng Tiên Lang (Điển Lang) trong 18 thời hạ Hùng Vương, 1141 đến 1139 trước công nguyên, quân Nhà Ân bị quân Văn Lang đánh tả tơi, thây phơi chật đất, làm phân cho đất Văn Lang, quân thù kinh hồn bạt vía, không còn dám mơ mộng xâm lược nữa, dân Văn Lang sau khi thắng quân xâm lược, thời không còn coi Phương Bắc ra gì, nên mất đi đề cao cảnh giác, sự yên bình ấy kéo dài gần 200 năm, cho đến thời Hùng Huy Vương (Pháp Hải Lang), Hùng Vương đời thứ 6. Thời Phương Bắc lại một lần nữa xâm lược, 961 đến 930 trước công nguyên, do con cháu của Trụ Vương Đắc Kỷ, còn sống sót lập lên nước Man Du cách Tây Bắc Văn Lang hơn 100 dặm, liên thông với nước Hồ, nước Hung Nô, ba nước Phiên Ngung nầy chiếm một lãnh địa vô cùng rộng lớn, không chịu lệ thuộc Nhà Chu, nên xưng Vương, ngang tầm các Vương Nhà Chu, các Vương Nhà Chu giận lắm nhưng không làm gì được, ba nước Phiên Ngung, vì nhờ địa thế hiểm trở đồi rừng núi non trùng điệp, nên rất khó mà hạ được ba nước Tam Vương nầy. Ba nước Phiên Ngung nầy mỗi ngày mỗi mạnh, nhưng không dòm ngó đến Phương Bắc, vì Phương Bắc không hưng thịnh như Phương Nam, nhất là về đất đai cũng như nền văn minh lúa nước, nhất là ngành Luyện Thép vô cùng bí mật của nước Văn Lang, không dễ gì lọt bí quyết ra bên ngoài, trong Dòng Dõi Vua Hùng cũng ít người được biết, vì thế nếu chiếm được Văn Lang thời sự quý hiếm nào cũng có, ba nước Phiên Ngung nầy thèm khát ngày đêm, hợp lực cùng nhau đánh chiếm Bắc Văn Lang.

Quân Ân, Quân Hồ, Quân Hung Nô, vượt qua Tây Bắc Văn Lang đánh xuống Bắc Văn Lang, nhà Tây Chu, Di Vương biết thế nhưng giả đò như không biết, ở thế ngư ông đắc lợi, Ân Mao Vương, là cháu chắt Võ Cảnh.

Võ Cảnh là con của Vua Trụ, Đắc Kỷ, Chu Di Vương nghĩ nếu Ân Mao Vương thắng thời ta cũng có phần, nới rộng thêm trấn chư hầu, Nước Ngô, Nước Sở, Nước Tề, được mở rộng về Phương Nam qua đất Bắc Văn Lang, nếu thua thời Vua Di Vương, cũng trừ đi được mối hậu họa lớn mạnh của con cháu Nhà Ân, kẻ thù không đội trời chung với Nhà Chu.

Đây nói về Chu Võ Vương, diệt được Đắc Kỷ, Trụ Vương xong, thời cũng bắt được hai đứa con của Đắc Kỷ, là Vũ Canh và Võ Cảnh, trốn sau hậu cung, Vũ Canh chống cự nên đã bị giết, chỉ còn lại Võ Cảnh. Võ Cảnh là con trai Đắc Kỷ mới sanh sau, là con út sau cùng của Trụ Vương.

Võ Cảnh tuy còn nhỏ nhưng khôn lanh vô cùng, vừa thấy Chu Võ Vương liền sụp lạy. Các chư hầu thấy vậy nổi giận quát:

Cha ngươi là hôn quân vô đạo, tội ác dẫy đầy, cũng nên chém Võ Cảnh đi đền tội với thiên hạ, lại trừ hậu họa mai sau.

Có lẽ số Trời chưa cho giết, nên khiến cho Võ Vương can, Võ Vương nói:

Trụ Vương vô đạo hung tàn bạo ác là do Đắc Kỷ, cùng với nịnh thần, bày mưu hiến kế, Võ Cảnh chỉ là một đứa bé, làm gì có tội, hơn nữa Vũ Canh đã chết, thói thường tội của cha không luận đến con, chúng ta phong cho Võ Cảnh một vùng đất, hầu nối kiếp lửa hương Nhà Thương, như vậy chúng ta đã đền ơn Nhà Thương.

Các chư hầu không dám cải, nhưng trong bụng thời không ưng lắm, vì nhổ cỏ phải nhổ cho tận gốc, bằng không hậu họa sẽ không sao lường được.

Một hôm Tử Nha nói với Võ Vương rằng:

Bệ hạ đã không giết Võ Cảnh, thời cũng nên ra ơn cho Võ Cảnh, lo phần hương khói, nhưng phải dùng người giám sát mà kèm kẹp, nếu phát hiện mưu đồ bất chính thời giết đi để trừ hậu họa.

Võ Vương y lời giao Võ Cảnh cho hai vị Ngự Đệ, trông coi giám sát. Võ Cảnh càng lớn càng khôn ngoan, ý tứ kín đáo vô cùng, khó ai đoán được ý đồ của Cảnh, sự nhẫn nhịn, nhẫn nhục, nhẫn nại của Võ Cảnh phải nói là hết sức thâm sâu. Khi Võ Vương băng hà qua đời, Võ Cảnh khóc lóc thê thảm ra vẽ thương yêu lắm, Võ Cảnh biết chỉ cần lộ một cử chỉ bất mãn là coi như là toi mạng nhất là khi tuổi đã trưởng thành.

Một hôm Võ Cảnh nằm ngủ thời thấy hồn Đắc Kỷ hiện về kêu Võ Cảnh:

Cảnh con đây là cơ hội tốt nhất cho con thoát khỏi sự kèm kẹp, của Nhà Chu, để lập lên nghiệp lớn. Con hãy xin với Thành Vương, cho con đến một mảnh đất xa xôi tận miền Tây Nam gần đất Hung Nô, Phiên Ngung đã di cư từ Tây Bắc đến ở rất thân quen với quân Hồ, quân Hung Nô, với quân Hồ vô cùng hùng mạnh, lại ở nơi hẻo lánh khó mà tận diệt được, Nhà Chu tuy mạnh nhưng cũng không diệt được họ đâu.

Đắc Kỷ dạy bảo xong liền biến mất, Võ Cảnh gọi mẹ một tiếng thật lớn, giật mình tỉnh dậy. Nghe tiếng gọi mẹ thật lớn của Võ Cảnh có người chạy vào hỏi:

Công tử gọi ai thế?

Võ Cảnh vô cùng khiếp sợ nói:

Tôi thấy chiêm bao sợ quá la lên.

Người nầy chính là người hầu được cài theo dõi ngày đêm, mỗi hành động cử chỉ, dù chỉ là cử chỉ nhỏ nhặt cũng phải báo cáo lên bề trên.

Người hầu nói:

Công tử thấy mẹ phải không?

Nghe người hầu hỏi thế Võ Cảnh sợ đến tái cả mặt. Không sao đâu đó chỉ là giấc mơ. Võ Cảnh nghe người hầu nói thế mới yên tâm.

Hôm sau Võ Cảnh vào chầu Thành Vương cúi đầu lạy tạ tâu rằng:

Muôn tâu bệ hạ, Võ Cảnh trộm nghĩ thân đầy tội lỗi, đáng lý đã chết từ lâu, nhưng nhờ Đức cao của Bệ Hạ nên Cảnh dân mới được sống sót, Cảnh dân nhớ mãi muôn đời, không lúc nào dám quên, ơn trên chưa báo đáp thời dám mong được gì, hạ dân cũng có chút bẩm báo nhưng không dám, nếu bệ hạ cho phép thời hạ dân mới dám dâng tấu sớ.

Thành Vương hỏi:

Ngươi muốn tấu gì thời đưa đây cho Trẫm cùng các quan xem.

Võ Cảnh làm như ra vẻ sợ hãi, lấy phong thư ra dâng lên cho Thành Vương xem. Thành Vương xem xong rồi đưa cho các quan xem. Nội dung tấu thư như sau: Võ Cảnh sống đến ngày nay đều nhờ ơn Bệ Hạ, lại được ăn no mặc ấm, ơn Đức của Bệ Hạ không sao đền đáp được, nay Cảnh hạ dân cũng đã lớn, muốn cầu xin Bệ Hạ một việc, nếu bệ hạ cho phép thời hạ dân mới dám tâu.

Các quan xem xong liền tâu rằng:

Muôn tâu bệ hạ đã ra ơn thời ra ơn cho trót xem Võ Cảnh có ý nguyện gì.

Thành Vương nói:

Trẫm cho phép ngươi cứ nói.

Nghe nói đến tiếng ngươi Võ Cảnh hơi sợ, lấy hết lòng can đảm tâu rằng:

Muôn tâu Bệ Hạ, Cảnh dân nguyện xin Bệ Hạ phong cho một ít đất tận nơi biên giới Tây Nam, giáp ranh với quân Hung Nô, quân Hồ, ở nơi ấy hạ dân chí thú làm ăn thờ phụng Tổ Tiên.

Nghe Võ Cảnh tâu ai nấy lấy làm kinh ngạc: Đây không phải là xin mà là đày đến nơi đất chết, rừng thiên nước độc, không ai có thể dám tới gần nơi đó nói gì là đến để ở.

Các quan nghĩ: Võ Cảnh đã quá sợ chết trở thành điên loạn, nên mới có lời thỉnh cầu điên dại như thế, riêng chỉ có.

Chu Công Đán là không nghĩ như vậy. Chu Công Đán nghĩ: Dù cho Võ Cảnh hàng phục được quân Hung Nô, quân Hồ, cũng không làm gì được Nhà Chu.

Thành Vương từ lâu muốn diệt đi mối hiểm họa nầy. Nhưng chưa có cơ hội, đây chính là cơ hội để tiêu diệt mầm họa về sau. Bằng nói:

Trẫm chấp nhận cho lời thỉnh của Khanh.

Bằng phê chiếu chỉ phong cho đất Man Vu, rừng thiên nước độc, muốn bao nhiêu cũng được, bằng cho người cấp lương thực vài xe, vàng bạc hơn trăm lượng, cho vài chục tên binh lính hộ tống đến biên giới Hung Nô, hoang vu. Võ Cảnh mừng quá lạy tạ Thành Vương, rồi qua hôm sau là lên đường tiến về Tây Nam đến Đất Hồ đi được hơn mười ngày thời lấy vàng bạc, bán xe mua ngựa, chở lương thực hàng hóa tiến lần về rừng núi, vượt qua nhiều sông suối dốc đèo, những quân lính đi theo lần lượt bỏ trốn, không còn lại mấy người. Càng đi thời rừng núi trùng điệp, chim kêu vượn hú, đêm về thời hơi lạnh thấu xương, đi đến đây có trốn cũng không biết đường về, ai cũng nghĩ đi theo Võ Cảnh là đi vào đất chết.

Đoàn ngựa chở hàng hóa đang đi, thời bỗng nghe thấy tiếng ngựa hí vang trời, những người theo hộ tống Võ Cảnh sợ hết hồn hết vía. Đất Man Vu là đất chết chóc nổi tiếng, bọn cướp rừng nổi tiếng là ăn thịt cả người sống, không mấy ai đến đây mà toàn mạng trở về.

Võ Cảnh nhìn mấy mươi người người nào người nấy hung tàn bạo ác vô cùng, đao, kiếm sáng ngời lao tới bao vây quát:

Các ngươi là ai mà dám đi qua khu vực nầy. Mau để lại ngựa hàng hóa hết lại cho ta bằng không các ngươi không còn một mạng.

Các binh lính sợ quá run lập cập, Võ Cảnh bình tỉnh hỏi:

Nơi đây là nơi nào?

Tên ăn cướp quát:

Chết đến nơi mà còn hỏi.

Tên mặt hổ nói:

Thôi nói cho nó biết đi, để chúng xuống âm phủ biết nơi đây là đâu.

Tên mặt trắng quát:

Đây là đất Man Du hay còn gọi là đất hoang vu, đất vô chủ không thuộc quyền của ai cả, chúng ta là kỵ binh còn sống sót của nhà Ân, trở thành Chúa tể sơn lâm, Chúa tể của núi rừng. Hãy báo danh rồi về chầu âm phủ.

Võ Cảnh nghe bọn ăn cướp nói đây là đất Man Du thời mừng vô cùng nói:

Tới rồi, tới rồi cuối cùng ta cũng tới được nơi đây. Trời đã giúp ta, Trời đã giúp ta.

Võ Cảnh cười lên sản khoái. Tên thủ lĩnh mặt hổ nghe Võ Cảnh nói không hiểu gì cả, liền quát lớn:

Các ngươi là ai mau nói ra.

Tên béo mập nói:

Giết chúng đi cho rồi cần gì hỏi lôi thôi.

Thế là chúng ra tay. Lúc ấy bỗng một trận cuồng phong nổi lên, tức thời xuất hiện hai vị Đạo Sĩ. Hai vị Đạo Sĩ quát:

Các ngươi sao không ra mắt lễ lạy Chúa Công.

Mấy mươi tên ăn cướp quát:

Hai đạo sĩ kia ngươi nói ai là Chúa Công của ta.

Hai Đạo Sĩ chỉ Võ Cảnh nói:

Người nầy chính là Chúa Công của các ngươi.

Mấy tên ăn cướp quát:

Hai Đạo Sĩ kia, hai ngươi từ đâu tới?

Có người nói:

Chúng là đồng bọn với nhau, chúng ta đông sợ gì hai lão Đạo Sĩ, xông lên giết hết tất cả cho ta.

Hai Đạo Sĩ quát:

Đồ hỗn láo không dạy cho các ngươi bài học thời các ngươi không biết trời cao đất rộng là gì.

Tên mặt hổ quát:

Anh em đâu mau giết hai Đạo Sĩ đó cho ta.

Tức thời cả bọn ăn cướp lao nhanh vào chém giết hai Đạo Sĩ. Hai Đạo Sĩ quát:

Quả thật các ngươi đáng tội chết.

Tức thời hóa phép làm cho bọn cướp xây xẩm mặt mày, ngã lăn xuống ngựa. Liền ra lệnh cho những tên lính theo Võ Cảnh:

Trói hết chúng lại, chờ lệnh xét xử.

Bọn ăn cướp vô cùng kinh hãi không ngờ hai Đạo Sĩ thần thông quản đại như vậy. Hai Đạo Sĩ tới trước mặc Võ Cảnh quỳ xuống tâu rằng:

Chúng Thần đến cứu giá trễ, xin Chúa Công tha cho tội chết, chúng Thần tu ở Hồ Động, Nương Nương về báo cho chúng thần biết là Chúa Công sẽ đến nơi đây, quả là đúng như vậy. Xin Chúa Công hãy xử những tên phản nghịch nầy, những tên nầy từng là quân lính của Nhà Ân, bị quân Chu truy nã nên ẩn sâu vào rừng núi trốn tránh, không chỉ bấy nhiêu mà cả hàng mấy nghìn tên, trong đó có những vị tướng lĩnh, không chịu ra đầu hàng, ẩn trong rừng sâu làm cướp, nghe nói Thành Vương đã phong đất cho Chúa Công, đất Man Vu, hay còn gọi là đất hoang vu, hàng mấy trăm dặm chính là nơi đây. Và nơi đây sẽ trở thành đất Ân của Chúa Công, chúng Thần nguyện theo Chúa Công khai dựng cơ nghiệp, xin Chúa Công thu nhận cho.

Võ Cảnh thấy sự việc xảy ra như trong giấc mơ, Võ Cảnh liền đở hai Đạo Sĩ dậy. Hai Đạo Sĩ thi lễ nói:

Chúng Thần cảm ơn Chúa Công.

Hai Đạo Sĩ quay sang những tên ăn cướp:

Các ngươi nghe đây, người trước mặt các ngươi chính là Võ Cảnh Chúa Công, con của Thiên Tử, Ân Thọ Trụ Vương và Nương Nương Đắc Kỷ.

Các tên ăn cướp nghe hai Đạo Sĩ nói thế thời kinh hãi, bò tới cúi đầu lạy tạ:

Chúng Thần xin ra mắt Chúa Công.

Cũng từ đây Võ Cảnh, chiêu mộ những binh lính không chịu đầu hàng Nhà Chu, ra phò Võ Cảnh lập lên nước Man Du hùng mạnh, nhờ kết giao với quân Hồ và quân Hung Nô làm cho Nhà Chu cũng phải e dè đề phòng.

Võ Cảnh nhanh chóng xây dựng đất nước hùng mạnh thu nạp những người có tội đến ở, trở hành đội quân hung bạo vô cùng, các nước nhỏ ở gần đấy đều đến quy phục. Võ Cảnh nhiều vợ nên cũng nhiều con, làm thông gia với quân Hồ và quân Hung Nô, nên thế lực càng hùng mạnh, với chính sách ngoại giao khôn khéo với Nhà Chu địa thế khó đánh Võ Cảnh xưng Vương, Cảnh Ân Vương. Nhà Chu muốn diệt cũng diệt không được.

Có người thở dài nói rằng:

Nhà Chu thả cọp về rừng, nhổ cỏ chừa gốc, nuôi mầm họa về sau.

Thành Vương qua đời Chu Mục Vương lên thay, Tạo Thụ được Mục Vương Nhà Chu yêu mến. Ông cha của Tạo Thụ là Ác Lai, Ác Lai thờ Vua Trụ, nên Võ Cảnh được sự giúp đỡ của Tạo Thụ rất nhiều, vì thế Cảnh Ân Vương càng thêm hùng mạnh. Cảnh Ân Vương nhiều con nên cũng sanh ra nhiều Cháu, toàn là những anh hùng hảo hán, học được nhiều pháp thuật cao siêu, lại có Yêu Hồ giúp sức nên khó ai chống lại được. Ở đời người ta thường nói, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, mộng bành trướng, tham lam không dứt. Đến thời Cháu Chắt của Võ Cảnh, Cảnh Ân Vương theo chí nguyện của tổ tiên là Ân Trụ Vương, giặc Ân xâm lược Nước Văn Lang lần nữa, 961 đến 930 trước công nguyên.

Đây nói về Phương Bắc, không giống như Phương Nam, chỉ có một nước Văn Lang thống nhất rộng lớn, chỉ cần một Quận, một Huyện, cũng bằng một nước nhỏ ở Phương Bắc, một Châu ở Văn Lang, bằng một nước lớn ở Phương Bắc, vì thế ở Phương Bắc có đến hàng nghìn Vua, luôn tranh bá với nhau, cho thấy Phương Bắc vào thời đó chưa đi vào thống nhất trật tự như Phương Nam Văn Lang. Phương Nam Văn Lang chỉ có một vì Vua đó là VUA HÙNG, được nối truyền nhau đời nầy sang đời khác 41 đời Vua Hùng, kéo dài độc lập 2701 năm. Chia đất nước ra làm nhiều Bộ, một Bộ chia ra làm nhiều Châu, một Châu chia ra làm nhiều Quận, Huyện, một Huyện chia ra làm nhiều Xã, một xã chia ra làm nhiều Thôn. Chỉ cần một Xã Văn Lang cũng bằng một nước nhỏ ở Phương Bắc gọi là các trấn chư hầu của Nhà Chu, cũng như các trấn Chư Hầu thời Nhà Ân, Nhà Thương. Như nước Lỗ, nước Tề, nước Yên, nước Ngụy, nước Quản, nước Thái, nước Tào, nước Thành, nước Hoắc, nước Vệ, nước Đằng, nước Tấn, nước Ngô, nước Ngu, nước Quách, nước Sở, nước Hứa, nước Tấn, nước Cử, nước Kỷ, nước Trâu, nước Tiết, nước Tống, nước Khởi, nước Kế, nước Cao Ly.

Các nước trấn Chư Hầu lớn, nhỏ nầy, ngang tầm với các Châu, Quận, Huyện Văn Lang mà thôi, không có nước nào bằng Bộ Văn Lang, có nước nhỏ hơn Quận Huyện Văn Lang. Ở vào thời ấy, các nước lớn ở Phương Bắc, không có nước nào bằng Bộ Giao Chỉ, Bộ Việt Thường.

Các nước lớn ở Phương Bắc thường thôn tính các nước nhỏ làm trấn Chư Hầu cho mình, có thể nói là thường thôn tính nhau, diệt lẫn nhau, mất chỗ nầy mọc ra chỗ khác, mất chỗ nọ mọc ra chỗ kia, lúc thì đất Ngô, lúc thì đất Sở, lúc thì đất Tấn lúc thì đất Vệ, lúc thì đất Tào lúc thì đất Ngụy, một chỗ đất mà có nhiều tên Vua chồng lấp lên nhau, theo sự chuyển biến của lịch sử, thời Nhà Thương, Nhà Ân, Nhà Chu cũng vậy, không có sự thống nhất như Phương Nam Văn Lang, không có Vua nầy thôn tính Vua kia, Chúa kia thôn tính Vua nọ, có nghĩa là không có nhiều Vua, chỉ có một vì Vua duy nhất đó là Vua Hùng, hết đời nầy nối sang đời khác, tuy biết rằng đất đai vô cùng rộng lớn, nhưng tất cả đi vào bộ máy thống nhất, từ trên xuống dưới, sống trong một nền Hiến Pháp, Quốc Đạo Văn Minh. Không như ở Phương Bắc hàng nghìn vị Vua, thôn tính nhau, chiếm đoạt nhau, tàn sát lẫn nhau, nay là đất của Sở, mai là đất của Ngô, không cố định, diệt chỗ nầy có điều kiện thời sanh lại chỗ khác, vì thế phương Bắc chiến tranh cướp đoạt đất đai thôn tính nhau triền miên. Đúng như câu đất đai không của riêng ai, người nào mạnh thời người đó được, được xưng Vua thua cho là Giặc, xem đi xét lại Giặc với Vua chẳng khác gì nhau.

Không như Phương Nam chỉ duy nhất một Nước Văn Lang rộng lớn, một đất nước cố định mãi mãi, trước sau cũng chỉ là nước Văn Lang, chỉ chuyển đổi niên đại mà thôi. Niên Đại Hồng Hoang, Niên Đại Hồng Bàng, Niên Đại Hồng Đế, Niên Đại Viêm Đế Thần Nông, Niên Đại Kinh Dương Vương, Niên Đại Hùng Vương, chuyển sang thời Âu Lạc.

Nếu đem so sánh, Bắc – Nam, thời nước Văn Lang là một đất nước duy nhất cố định, luôn luôn thống nhất không có cảnh chia đất nước ra làm nhiều nước, mà chỉ phân chia đất nước ra làm nhiều Bộ, nhiều Châu, nhiều Quận, nhiều Huyện, thống nhất trong một Nhà Nước Văn Lang, chỉ có một Vua, không có cảnh nhiều Vua tàn sát lẫn nhau như Phương Bắc. Vì thế nước Văn Lang hể mất là mất luôn, không bao giờ mọc ra chỗ khác được, như ở Phương Bắc, như nước Dịch, nước Cao mất đất chỗ nầy, mọc ra chỗ đất khác, Vệ mất đất nầy Vệ mọc ra nơi đất khác, các nước khác cũng thế.

Trong lịch sử kéo dài hàng nghìn nghìn năm, Phương Nam nước Văn Lang nằm trên đất Văn Lang, mãi mãi như thế hể mất là mất, hể còn là còn, không thể mất ở đất nầy mọc ra nơi đất khác được. Có thể nói Phương Bắc ở vào thời đó chưa có nền Văn Hiến thống nhất, luôn luôn hỗn độn chia nhỏ nhiều nước ăn nuốt lẫn nhau, tiêu diệt nhau, xâm lấn nhau, hết nghìn năm nầy đến nghìn năm khác, lúc nào cũng nghe chiến tranh nước Lỗ, nước Tề, nước Yên, nước Ngụy, nước Tống, nước Tấn, nước Trần, thôn tính lẫn nhau, diệt rồi sanh, sanh rồi diệt, lớn mạnh ở đất nầy, lại bị thu nhỏ lại ở đất khác, bởi tham vọng chiếm đoạt, triệt hạ, giành giật thôn tính lẫn nhau.

Không như nước Văn Lang, chia ra làm nhiều Bộ, mỗi Bộ chia ra làm nhiều Châu, mỗi Châu chia ra làm nhiều Quận Huyện, tuy rộng lớn vô cùng, nhưng không có chiến tranh tranh giành thuộc địa giữa bộ nầy, với bộ khác, các châu nầy với châu khác, nên không có sự xưng Vua, xưng Chúa nhiều như đất Phương Bắc, thống nhất về một mối một Nhà Nước Văn Lang, thống nhất chỉ có một Quốc Tổ Vua Hùng.

Và chỉ có một Niên Hiệu Vua Hùng trên Đất Nước Văn Lang, kéo dài sự độc lập 2701 năm kể cả thời dựng nước, thời dựng nước là 79 năm, thời Quốc Tổ, sau thời Quốc Tổ là thời giữ nước, 2622 năm, và cho đến thời hạ Hùng Vương đời thứ 6 Hùng Huy Vương trong 18 đời hạ Hùng Vương 961 đến 893 trước công nguyên, dân bắc Văn Lang bị đồng hóa bởi nền Văn Hóa Phương Bắc, bằng con đường ngoại giao buôn bán hội nhập, cọng với sự di cư bất hợp pháp dân các nước Phương Bắc lánh nạn chiến tranh qua bắc Văn Lang, hàng vạn, vạn người trong vòng mấy mươi năm, những Bộ, những Châu, những Quận, những Huyện, dân chúng tăng lên chóng mặt, dân chúng Phương Bắc di cư qua Bắc Văn Lang mang theo cả nền Văn Hóa Phương Bắc, làm cho dân chúng Bắc Văn Lang bị mê hoặc, từ đó Bắc Văn Lang dần dần đi vào đại loạn, phần đông từ Vương Quan cho đến dân Chúng đều mê hoặc bởi thứ văn hóa bói toán, nhập đồng, nhập bóng, xin xăm, bói quẻ, tiên tri độc hại nầy, không dè chừng Văn Hóa Phương Bắc, vì nghĩ Văn Hóa Phương Bắc không có gì độc hại, nên không kiểm soát về văn hóa, dẫn đến tai hại biến Bắc Văn Lang đồng hóa Văn Hóa phương Bắc, ngã lần về phương Bắc rồi trở thành lệ thuộc dần phương Bắc, cũng từ đó Bắc Văn Lang nhiều nội loạn nổi lên đòi tự trị, làm biến động tình hình Bắc Văn Lang.

Hàng vạn vạn người dân các nước Phương Bắc di cư sang ở Bắc Văn Lang, họ mang theo nền văn hóa Phương Bắc, nền văn hóa bói toán, xin xăm, bói quẻ, nhập đồng, nhập bóng cầu cạnh thần linh, những nhân vật được tôn thờ từ phương Bắc du nhập vào Bắc Văn Lang, làm mê hoặc dân Văn Lang. Vì lúc ấy dân tộc Văn Lang, đã lạc Nguồn lạc Cội, nên ngã theo tôn thờ thần linh ở phương Bắc, và dần dần dân tộc Bắc Văn Lang đi vào mất gốc, không những mất gốc về Văn Hóa Cội Nguồn, mà còn mất luôn cái gốc Truyền Thống dựng nước giữ nước Văn Lang.

Vì hấp thụ Văn Hóa phương Bắc, nên Bắc Văn Lang nhiều anh hùng nổi lên, đòi tự trị lập nước riêng, xưng Vua nầy Vua nọ như phương Bắc. Sự nổi lên đòi tự trị ấy, được hậu thuẫn từ các nước lân cận trấn chư hầu Nhà Chu, Bắc Văn Lang trở thành bãi chiến trường cho sự bùng nổ lên nhiều phe phái hình thành lên nhiều Vua, Chúa tự trị riêng mỗi vùng, rồi thôn tính nhau theo kiểu phương Bắc.

Lúc ấy nhà nước Văn Lang cũng đã bắc đầu suy yếu, là do mất đi những điều cơ bản của nền Văn Hiến. Văn Hóa Cội Nguồn truyền thống dân tộc, dẫn đến độc quyền độc tài, độc trị, sa vào con đường lìa xa dần dân chúng, làm mất lòng tin dân chúng. Dân chúng lại nghe theo sự xúi dục của các thế tham vọng bành trướng phương Bắc, nhất là những nước lân cận Bắc Văn Lang. Dẫn đến nội loạn chia bè rẽ phái ở Bắc Văn Lang nổi lên đòi tự trị từng vùng xưng Vua xưng Chúa, có sự hậu thuẫn từ phương Bắc, nên các Vua Hùng từ đời 11, 12, 13, ra sức dẹp nội loạn Bắc Văn Lang nhưng không dẹp nổi, vì người dân đã ngã theo Văn Hóa phương Bắc, Văn Hóa của sự xưng hùng xưng bá, Văn Hóa chia bè rẽ phái, hình thành lên quá nhiều khu tự trị hùng mạnh, những ông Vua Việt nổi lên, như Vua Điền Việt, Vua Mân Việt, Vua Dương Việt, Vua Đông Việt, Vua Nam Việt, Vua Lạc Việt, và nhiều vị Vua Việt khác nữa. Sau nầy bị Doãn Thường Việt nổi lên diệt sạch chiếm lĩnh Bắc Văn Lang, xưng hùng xưng bá.

Tổ Tiên của Doãn Thường Việt, là dòng dõi Vua Vũ, con thứ hai của Vua Thiếu Khang, đời Nhà Hạ, qua nhiều triều đại thôn tính lật đổ nhau, con cháu Vua Vũ lánh nạn di cư đến đất Cối Kê, cắt tóc xăm mình như dân Văn Lang, trải qua hai mươi đời trở thành dân Văn Lang, đến đời Doãn Thường thời nổi lên như một vị anh hùng, dân chúng theo về rất đông, tiêu diệt nhiều thế lực tự trị, như thế lực Việt Hoa, thế lực Kinh Việt, thế lực Mân Việt, thế lực Âu Việt, thế lực Lạc Việt, thế lực Điền Việt, thế lực Kiều Việt, nói chung là nhiều thế lực Bách Việt nổi lên tự trị, bị Doãn Thường thôn tính, xưng là Vua Việt. Doãn Thường chết con là Câu Tiễn được lập làm Việt Vương, Việt Vương Câu Tiễn Thế Gia.
 
Cùng vào thời kỳ ấy Bắc Văn Lang đã nổi lên nhiều thế lực từ những nước láng giềng xâm lược qua, như Ngô, Tề, Sở, vân vân… Bắc Văn Lang ở vào thời kỳ nầy không khác gì phương Bắc các thế lực tự trị, luôn luôn thôn tính lẫn nhau, Vua Điền Việt mất chỗ nầy thời mọc lên chỗ đất khác, Vua Mân Việt mất chỗ đất nầy thời mọc lên chỗ đất khác, Vua Dương Việt cũng vậy mất chỗ đất này mọc lên chỗ đất khác, cứ như thế mà tranh bá tranh hùng, thôn tính lẫn nhau. Theo khẩu hiệu Phương Bắc (thiện hạ đất đai không của riêng ai, người nào mạnh người đó được).

Bắc Văn Lang trở thành nồi da nấu thịt, những cuộc chiến xâu xé lẫn nhau, của nhiều thế lực tự trị xưng Vua, xưng Chúa, thôn tính lẫn nhau hủy diệt lẫn nhau, mạnh được yếu thua, đất đai thuộc về người khác, cứ thế mà chiếm qua chiếm lại. Nay thuộc đất Dương, mai thuộc đất Mân, mốt thuộc đất Lạc, vị trí đất đai, theo nhân vật con người, cùng một chỗ đất, ba hồi là đất Dương, ba hồi là đất Mân, ba hồi là đất Lạc, không khác gì phương Bắc. Dân bắc Văn Lang đã bị đồng hóa Văn Hóa phương Bắc, chính là một trong những nguyên do dẫn đến mất Bắc Văn Lang, đồng hóa với phương Bắc.

Khi Bắc Văn Lang đã bị đồng hóa Văn Hóa phương Bắc tạo ra cảnh nồi da nấu thịt, dân tộc Văn Lang tàn sát dân tộc Văn Lang, những khu tự trị nổi lên, đất Văn Lang mất lần mất lần, chiến tranh càng lớn đất Văn Lang càng mất về tay Phương Bắc, nhất là những cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt, đây chính là cơ hội các thế lực Phương Bắc chiếm lần đất đai Văn Lang, bằng con đường đưa quân sang giúp cho những thế lực tự trị yếu hơn, nhân cơ hội đó chiếm luôn đất đai.

Hoặc buộc những thế lực chiến thắng cắt đất giao cho họ, thế là Bắc Văn Lang lần lần mất đất về tay phương Bắc. Cứ mỗi lần chiến tranh nội bộ nồi da nấu thịt xảy ra, là mỗi lần mất đất về tay phương Bắc, và cứ thế phương Bắc nuốt lần đất phương Nam, hết nghìn năm nầy sang nghìn năm khác, và nuốt mãi cho đến tận ngày nay.

Nói về thời hạ Hùng Vương, đời thứ 3 Hùng Tiên Lang, đánh bại quân xâm lược Nhà Ân, cắt đứt quan hệ với phương Bắc, cho đến khi Nhà Ân bị hủy diệt, Nhà Chu lên thay thế, Võ Vương chết, Thành Vương lên thay, thời nước Văn Lang nối lại quan hệ ngoại giao với phương Bắc Vào năm (1063 trước công nguyên) đây không phải là lần đầu quan hệ ngoại giao sang thăm Phương Bắc.

Khi ấy nước Văn Lang đời thứ tư hạ Hùng Vương, Hùng Diệp Vương (Bảo Lang) trị vì thiên hạ, Hùng Diệp Vương chỉ thị cho Lạc Vương, Bộ Việt Thường, đại diện cho nước Văn Lang, sang thăm Phương Bắc, Thành Vương Nhà Chu thị hiến chim Trĩ Trắng, nối lại quan hệ ngoại giao, hai phương Nam – Bắc láng giềng.

Ở vào thời đó Bộ Việt Thường ở Nam, Bộ Giao Chỉ ở Bắc hai bộ lớn nhất nước Văn Lang thời đó. Lạc Vương, đứng đầu (bộ Việt Thường) được chọn đại diện cho nước Văn Lang nối lại quan hệ ban giao Nam – Bắc.

Nói về Chu Thành Vương hỏi các quan:

Nghe nói có sứ giả Văn Lang phương Nam đến thăm phương Bắc chúng ta việc đó có thiệt không?

Triệu Công Thích tâu:

Bẩm Chúa công Bệ Hạ, quả có sứ giả Văn Lang đã đến triều ca đang ở ngoài thành, nhưng chỉ là Lạc Vương, Bộ Việt Thường, đem phẩm vật chim trĩ trắng dâng lên Bệ Hạ quan hệ ban giao Nam – Bắc, xin bệ hạ định đoạt.

Thành Vương nói:

Còn ai có ý kiến gì nữa không?

Chu Công Đán nói:

Tâu Chúa Công Bệ Hạ, Văn Lang là một đất nước lớn, không thua kém gì Phương Bắc chúng ta, nước Văn Lang có hai bộ lớn nhất, đó là Bộ Việt Thường, Bộ Giao Chỉ, là hai bộ lớn nhất của nước Văn Lang, hơn nữa Bộ Việt Thường là nơi Vua Hùng đang ở. Lạc Vương đứng đầu Bộ Việt Thường, quan hệ ban giao thời không khác gì Vua Hùng, xin Bệ Hạ cân nhắc.

Thành Vương nói:

Nếu Vua Hùng sang sứ ban giao thời Trẫm đích thân trải thảm tiếp đón. Còn Lạc Vương thời giao cho Chu Công tiếp đón nghị luận ban giao vậy.

Đây nói về Lạc Vương, cùng các Quan đang đợi người đến tiếp dẫn vào triều ca ra mắt Thành Vương. Đang lúc đang đợi bỗng thấy quân lính chỉnh tề cờ xe kiệu rước vô cùng trang nghiêm long trọng. Lạc Vương là người rất thông minh thấy cảnh đón rước thời biết ngay là vừa tôn trọng vừa thị huy. Lạc Vương được tiếp đón vào một ngôi dinh thự thật lớn, tiếp đãi tử tế. Qua lời chào hỏi giới thiệu Lạc Vương biết người tiếp đón mình chính là Chu Công, dưới Thành Vương mà thôi, nên lấy làm hài lòng, và Chu Công cũng hiểu rõ điều đó, hai bên nói qua nói lại rất thâm tình.

Đến lúc nầy Chu Công mới nói:

Chính lệnh không ban đến, thời người quân tử không coi nhau như là bề tôi của mình, thẳng thắng công bằng mà nghị sự.

Ở được mười hôm Chu Công cho người làm xe mới, ngựa mới, cho người đưa tiễn sứ giả về nước. Phương Bắc bao giờ cũng mang lòng dạ đen tối, trăm phương nghìn kế chiếm cho được đất phương Nam, nhất là những nước lận với Văn Lang. Được sự ban giao giữa Văn Lang và Tây Chu cho phép giao thương Nam Bắc thông thương quan hệ láng giềng đây là cơ hội mộng bành trướng phương Bắc, mà không có một chút trở ngại nào. Những nước gần Bắc Văn Lang, như nước Tề, nước Ngô, nước Sở.

Đây nói về Tề Thái Công. Thái Công Vọng tức là Lữ Thượng người Đông Hải, Tổ Tiên ông ta am hiểu về thuật phong thủy, làm tứ nhạc giúp Vua Vũ rất có công, đời Ngu và đời Hạ, được phong ở đất Lữ bao gồm cả đất Thân, họ Khương. Đến đời Thương thời Tề Thái Công được sanh ra, ông ta vốn họ Khương, nhưng lấy họ theo tên đất, cho nên gọi là Lữ Thượng. Lữ Thượng thường bị nghèo khổ, tuổi đã già nhờ câu cá mà gặp Tây Bá nhà Chu, ở vào thời kỳ nầy thuật bói toán, thuật xin xăm đón quẻ phải nói là vô cùng hưng thịnh, cầu tài cầu lợi, cầu quỉ, cầu ma, cầu Thần, cầu Thánh. (Khi đó phương Nam Văn Lang không có thứ văn hóa nầy, mà chỉ có một nền văn hóa duy nhất là văn hóa Cội Nguồn. Nhưng đã bị thất truyền, vì do sự thất truyền nên người dân Văn Lang mất phương hướng, nên bị văn hóa phương Bắc bói toán, thuật số, xin xăm, bói quẻ, cầu thần, cầu quỉ, cầu ma, truyền sang làm cho mê hoặc, nhất là Bắc Văn Lang).

Lữ Thượng nghèo khổ sống nhờ câu cá. Một hôm Tây Bá sắp đi săn, sai bói quẻ, quẻ ứng cho biết: “Cái bắt được không phải là Rồng, không phải là Ly, không phải là Hổ, không phải là Gấu, vật bắt được là con người sẽ giúp đỡ cho mộng Bá Vương làm nên nghiệp lớn’’.

Tây Bá Chu đi săn quả nhiên gặp được Thái Công, ở phía Bắc sông Vị. Thái Công là người hiểu biết rộng, đã có lần thờ Vua Trụ, nhưng Vua Trụ vô đạo, không phải là bậc Thiên Tử chánh chân, nên Thái Công bỏ đi. Đi du thuyết các nước chư hầu, không được ai nghe, cuối cùng trở về phía Tây về với Tây Bá nhà Chu, làm thầy Văn Vương, Võ Vương. Sau khi Văn Vương chết, Võ Vương lên ngôi năm thứ chín, Võ Vương đem quân đi về phía Đông để xem các nước chư hầu có đến họp không.

Thái Công tay trái cầm búa Hoàng Việt, tay phải cầm cờ Bạch Mao tuyên thệ: “Hỡi những con Tê Giác xanh! các ngươi hãy tập họp lại, ta trao thuyền và mái chèo cho các ngươi, kẻ nào đến sau thì bị chém đầu”.

Lời tuyên thệ ấy đến tai các nước. Khi đến bến Mạnh Tân, các nước chư hầu đến họp tám trăm nước. (Để hiểu rõ đoạn Kinh trên chúng ta có thể hiểu các nước ở phương Bắc, chỉ bằng những Châu, Huyện, Quận, ở nước Văn Lang mà thôi). Chỉ nội ở phía Đông nhà Ân mà có đến 800 nước, thời chúng ta cũng hiểu rõ những nước ở phương Bắc phải nói là như Nấm, Vua nhiều như Giá, tự xưng tự trị khắp nơi, không có sự đoàn kết thống nhất. Đó chính là văn hóa tự trị, nói cho rõ hơn nữa đó chính là văn hóa độc quyền, độc tài, độc trị, văn hóa cạnh tranh hủy diệt nhau, không phải văn hóa cạnh tranh của sự phát triển, văn hóa độc quyền, độc tài, độc trị, là văn hóa không có sự công bằng, bình đẳng, mà chỉ có mạnh được yếu thua. Tất cả các nước phương Bắc thời đó, mỗi nước đều có mỗi thể chế giáo điều riêng, không dựa trên một nguyên tắc nào cả, ai mưu mô xảo quyệt hơn thời nước đó mạnh. Chia bè, chia nhốm, tự xưng mình là Vua, biết rằng mình chỉ làm chủ một khu đất nhỏ, vài trăm nóc nhà, vài nghìn nóc nhà. (So ra chỉ bằng Châu, Phủ, Quận, Huyện, nước Văn Lang mà thôi).

Sau khi Võ Vương bình định xong nhà Ân, cơ nghiệp nhà Thương không còn, Võ Vương phong cho Lữ Thượng, (tên tộc là Vọng) chức Thái Công làm chủ đất Tề, Thái Công là người giỏi về chính sự, nên dân chúng theo về rất đông, làm cho nước Tề càng thêm lớn mạnh.

Đến thời Thành Vương, nhà Chu còn nhỏ. Quản Thúc, Thái Thúc làm loạn, những người di cư ở đất Hoài phản lại nhà Chu. Nhà Chu sai Thiệu Khang Công, ra lệnh cho Thái Công. Từ phía Đông cho đến biển, phía Tây cho đến sông Hoàng Hà, phía Nam cho đến Mục Lăng, phía Bắc cho đến Vô Lệ, năm hầu chín bá đều được phép chinh phục.

Do đó nước Tề trở thành một nước lớn, tiếp giáp với Bắc Văn Lang, đóng đô ở Dinh Khâu. Thái Công là người am hiểu về thuật số toán số biết rõ Văn Lang khí số mạc dần, Bắc Văn Lang sẽ mất về tay phương Bắc, vì dân Bắc Văn Lang không hiểu gì về văn hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo dân tộc đã bị mất, tinh thần người dân như ruộng bỏ hoang, rất dễ đầu độc, nên dạy cho Lữ Cấp tức là Định Công với những âm mưu lớn.

Thái Công thường dạy Lữ Cấp rằng: Nếu chúng ta có được Bắc Văn Lang thời coi như chúng ta sẽ có tất cả, muốn có được đất Văn Lang không có con đường nào khác hơn là hàng phục dân Văn Lang bằng con đường văn hóa, đầu độc văn hóa, bằng con đường bói toán, thuật số, xin xăm, bói quẻ, cầu cạnh thần linh, sẽ làm mê hoặc dân Văn Lang. Cộng thêm mở mang nghề buôn, nghề thợ với Văn Lang, giao dịch với Bắc Văn Lang nghề trồng lúa, nghề cá, nghề muối, nhất là tìm hiểu về nghề luyện thép, bí mật của nước Văn Lang. Điều bí mật thành công là phải làm cho Bắc Văn Lang nổi lên từng vùng đòi tự trị, như phương Bắc chúng ta, khi đó họ đánh nhau họ cầu cứu ta, ta giúp cho họ thế là ta nuốt trọn họ, họ không theo ta thì họ còn theo ai, vì họ đã phản lại nhà nước Văn Lang, thời họ không còn con đường để mà lựa chọn, họ chống lại nhà nước Văn Lang, tức là họ đã ngã về ta, và ta lần đồng hóa họ, trở thành dân phương Bắc, mà hể dân phương Bắc tới đâu thời đất Văn Lang mất tới đó. Phương kế nuốt lần đất Văn Lang, không phải một đời mà nhiều đời, như tằm ăn dâu, như mối mọt ăn cây, đất Văn Lang mất lần, mất lần, nhà nước Văn Lang tuy có biết nhưng không sao ngăn chặn được. Cướp đất Văn Lang theo kiểu nầy, thời hiệu quả không chê vào đâu được. Cứ mỗi lần làm cho họ nồi da nấu thịt, dân Văn Lang tự tàn sát lẫn nhau, là mỗi lần chúng ta được lợi lớn, chúng ta không những lấy được đất Văn Lang mà còn gồm thâu được dân Văn Lang, sự thành công nầy không phải một đời mà nhiều đời.

Thái Công chết người con là Lữ Cấp, Định Công kế vị đi theo con đường của cha, quả là hiệu quả vô cùng, không những được mặc lợi về giao thương buôn bán, mà còn được lợi về mặc chính trị, quả thật dân Văn Lang mê say về thuật bói toán, xin xăm bói quẻ, cầu cạnh thần linh, nghiện đến nổi thiếu thứ gì thời được, nhưng thiếu về thuật số, bói toán, xin xăm, bói quẻ, cầu cạnh thần linh thời chịu không nổi, quẻ ứng ông nầy làm Vua, bà nọ làm Chúa thời tin răm rắp, không những dân chúng mà ngay cả Vương Quan cũng bị mê hoặc và từ đó hình lên mộng tự trị, chia bè chia nhóm ra, thôn tính lẫn nhau, xưng Vua, xưng Chúa, và được sự giúp đỡ của những nước lân cận Bắc Văn Lang, như Ngô, Sở, Tề, thậm chí các nước ở xa như Triệu, Tấn.

Sự mở cửa giao thương hợp tác toàn diện, Nam – Bắc ở vào thời kỳ nầy, thời kỳ văn hóa Cội Nguồn không còn, là một điều bất lợi cho nước Văn Lang. Không như thời Hùng Vương dựng nước, văn hóa Cội Nguồn hưng thịnh, càng giao thương hợp tác toàn diện càng có lợi.

Nói về nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang thường có tục lệ vẽ mình làm cho thủy quái, ác thú không dám đến gần, nhất là dân tộc Nam Việt, Âu Việt, Lạc Việt.

Ngô Thái Bá cùng với em Thái Bá là Trọng Ung, đều là con của Thái Vương nhà Chu, hai người đều có mộng lớn làm Vua, và là anh của Quý Lịch. Quý Lịch hiền, nên Thái Vương lập Quý Lịch làm Vua, bị cú sốc nặng biết tình thế không xong, không lẽ tranh ngôi với em mình, hai người bằng trốn đến đất Kinh, người Nam Bắc di cư đến ở giáp ranh với Tây Bắc Văn Lang. Ngô Thái Bá, Ngô Trọng Ung bắt chước cắt tóc vẽ mình giống như người Nam Việt, Âu Việt, Lạc Việt, tự gọi mình là Câu Ngô.

Những người Nam Bắc, thuộc đất Kinh cho hai ông là người có nghĩa khí, họ theo hai ông hơn nghìn nóc nhà tôn hai ông làm Vua, Vua Ngô Thái Bá, Ngô Thái Bá không con, người em là Trọng Ung, lên kế vị ngôi Vua, Vua Ngô. “Lịch sử đã cho ta thấy, văn hóa cách sống tự trị của người phương Bắc, chỉ cần nghìn gia đình, hoặc vài trăm gia đình thời đã có Vua rồi, không như nước Văn Lang cả hàng triệu gia đình mới có Vua”. Nói đến đất Kinh dễ lầm đất Kinh Bắc Văn Lang, nhưng thật ra bên kia biên giới cũng có đất Kinh, đó là đất Kinh Bắc, không phải đất Kinh Nam. Ngô Thái Gia và Ngô Trọng Ung hai người đều có tham vọng lớn không chịu một nước Ngô nhỏ bé, theo kiểu tự trị của mình, nên lúc nào cũng dòm ngó Bắc Văn Lang bằng lập ra kế sách lâu dài, chiếm lấy cho được Bắc Văn Lang. Ngô Thái Gia, Ngô Trọng Ung đều có kế sách giống nhau, (Muốn chiếm được đất Văn Lang, chỉ có một con đường duy nhất, là đồng hóa dân Văn Lang theo văn hóa phương Bắc, văn hóa tự trị, Vua nổi lên mọc khắp vùng, thôn tính lẫn nhau, tranh giành lẫn nhau, mạnh được yếu thua, được là Vua thua là giặc, đó chính là cơ hội cho ta thôn tính Bắc Văn Lang, nhờ sự hậu thuẫn của nhà Chu).

Lúc bấy giờ Võ Vương nhà Chu đã lật đổ thôn tính nhà Ân, bằng cho người tìm con cháu của Thái Bá và Trọng Ung, tìm được Chu Chương. Khi đó Chu Chương đã làm Vua ở nước Ngô, cho nên nhân đó mà phong chính thức Vua Ngô, sự thừa nhận của nhà Chu, lại phong cho Ngu Trọng em của Chu Chương ở phía Bắc đất Chu là đất Hạ. Chu Chương chính thức được thừa nhận Võ Vương, nhà Chu, phong chính thức Vua Ngô. Nên nước Ngô càng thêm lớn mạnh, nhờ gồm thâu một số nước nhỏ. Chu Chương lòng đầy tham vọng, lúc nào cũng dòm ngó Văn Lang, khi Chu Chương còn nhỏ thường chu du Bắc Văn Lang nên hiểu rõ Bắc Văn Lang như trong lòng bàn tay. Nay cơ hội ban giao hai nước láng giềng Nam Bắc hợp tác toàn diện, đây chính là cơ hội mộng bá đồ bành trướng nước Ngô chiếm lấy Bắc Văn Lang.

Chu Chương cho người qua ban giao hợp tác với các Châu phủ Văn Lang, láng giềng, lúc bấy giờ một số Châu Phủ, Quan, Vương, tha hóa, bê tha, tham nhũng, tửu sắc, bị Chu Chương câu miếng nào miếng nấy chắc mẩm, cho người sang qua đầu độc văn hóa, làm cho dân Văn Lang quên đi Nguồn Cội truyền thống anh Linh của mình, chạy theo bói toán, cầu cạnh, xin xăm, bói quẻ, mê tín, dị đoan. Quẻ ứng nói con ông nầy là Vua, con bà kia là Chúa, kích động nổi lên tự trị nhiều vùng, Bắc Văn Lang dần dần đi đến hỗn loạn, nguy cơ Bắc Văn Lang mỗi ngày mỗi hiện rõ.

Kể từ khi Thái Bá và Trọng Ung, lập nước Ngô, được năm đời, thời Võ Vương tiêu diệt được nhà Ân, phong con cháu của Thái Bá ở hai nơi. Một nơi là nước Ngô ở Man Di, một nơi Bắc đất Chu là đất Hạ, truyền xuống được mười hai đời, thời nước Tấn tiêu diệt nước Ngô ở đất Kinh, chỉ còn nước Ngô hưng thịnh ở Nam Man Di, tức là ở Tây Bắc Văn Lang, như vậy mộng xâm lược chiếm đất Văn Lang đã thành công.

Nước Sở, Sở Tử họ Mỹ, dòng giống Vua Chuyên Húc, Mỹ Tử là Dực Hùng, làm thầy Vua Văn Vương, bởi có công lao, nay Võ Vương phong nước Sở. Đến thời Sở Linh Công thời mở mang nghiệp bá quan hệ với Bắc Văn Lang, Sở Linh Công thấy Bắc Văn Lang quả thật đất đai trù phú, đất đen bốc hơi mạnh, đồng ruộng xanh rì bao la bát ngát, cá tôm đầy ắp, buôn bán tấp nập thời thèm khác vô cùng, Quý Nhân có tài toán số biết phương Nam khí thế mạc dần, đất Bắc Văn Lang sẽ mất dần về tay Phương Bắc, bằng bày mưu hiến kế cho Sở Linh Công, chiếm đoạt đất đai Văn Lang.

Sở Linh Công hỏi:

Chiếm đoạt bằng cách nào?

Quý Nhân nói:

Không phải chiếm liền được đâu, mà phải có kế sách lâu dài, như tằm ăn dâu, như mối mọt ăn cây, phải giao thương văn hóa với Bắc Văn Lang, làm cho dân Bắc Văn Lang tôn thờ văn hóa phương Bắc, thời mộng xâm lược chiếm đất Văn Lang mới thành.

Linh Công hỏi:

Giao thương văn hóa theo cách nào?

Quý Nhân nói:

Giao thương qua con đường buôn bán, xuất khẩu lao động, qua làm thê cho các Lạc Điền, Hùng Điền. Mua chuộc các Quan, Châu Phủ, Bố Chính, Hữu Tư từng bước từng bước khi nào thấy Bắc Văn Lang hỗn loạn, nhiều nhân vật nổi lên đòi tự trị, chúng thôn tính lẫn nhau đó là thời cơ cho ta chiếm đất Văn Lang. Hơn nữa chúng đã đòi tự trị chống lại nhà nước Văn Lang, thời chúng không còn con đường nào khác hơn là theo về với chúng ta mà thôi, vì thế nước Sở chúng ta không phải chỉ ở đất Bắc còn có ở đất Nam nữa.

Linh Công nghe phải bằng thực hiện theo kế sách đó. Đến đời, Sở Bình Vương, thời đã chiếm được một phần đất Bắc Văn Lang, Quân Việt đòi lại nhưng không làm gì được, vào năm 548 trước công nguyên.

Tóm lại; Ở vào thời kỳ Văn Lang suy tàn vì mất đi văn hóa Cội Nguồn chính sách ban giao Nam Bắc, hợp tác toàn diện, dẫn đến bất lợi cho Văn Lang, với bao thủ đoạn mánh khóe, hiểm độc, thủ đoạn, xé Bắc Văn Lang ra từng mảnh nhỏ, tạo ra cơ hội thuận thời cơ thôn tính, một cách dễ dàng, với thủ đoạn ăn mòn, như tằm ăn dâu, như mối, mọt, ăn cây, nuốt lần đất Văn Lang, các Vua Hùng ở thời cuối đành bó tay, dẫn đến không những mất Bắc Văn Lang, mà ngay cả Trung Văn Lang cũng mất luôn, đây là một thảm kịch vì đã mất đi văn hóa Cội Nguồn, bị văn hóa Bắc phương xâm hại, thôn tính tinh thần dân tộc Văn Lang, luôn theo chiều hướng có lợi cho chúng, thảm thay thảm thay.

Vận thế vần xoay cuộc cơ trời

Họa phúc đối đầu mãi ai ơi

Thiện ác gieo ra rồi phải gặt

Tránh đâu cho khỏi đạo luật trời.

Đây nói về Võ Cảnh, thoát khỏi họng cọp rời khỏi triều ca như con chim thoát ra khỏi lồng, băng suối lội rừng, cuối cùng cũng đến nơi mình muốn đến, được hai Đạo sĩ tả Tiên và hữu Tiên, phò trì. Kêu gọi tàn quân Ân những người không chịu ra hàng nhà Chu, ẩn vào rừng sâu làm cướp, số người lên đến hàng nghìn nghìn người, toàn là những tay dũng sĩ tài ba, lập lên nước Nam Du, Tây Du, xưng là Cảnh Ân Vương. Mỗi ngày một thêm lớn mạnh, những tên cướp theo về càng đông.

Võ Cảnh lấy vợ người Hồ, sanh ra Hồ Tôn Vương. Hồ Tôn Vương lấy con gái Chúa Hung Nô là Man Man sanh ra Ân Mao Vương, đây nói về Man Man, Vương Hậu. Man Man một hôm nằm ngủ thấy một trận cuồng phong thấy toàn là yêu tinh quỉ dữ dưới sự chỉ huy con Hồ tinh to lớn đánh về phương Nam khói lửa đậy trời, lại thấy một con Rồng Vàng xuất hiện, đánh nhau với con Hồ Tinh to lớn long trời lở đất, Man Man khiếp hồn tỉnh dậy. Không bao lâu thời biết mình đã mang thai, đến ngày khai hoa nở nhị Man Man sanh ra một em bé kháu khỉnh, lúc ấy các loài chim dữ bay đến, khi chúng bay đi rơi xuống một chiếc lông Võ Cảnh liền đặt tên cho con là Ân Mao. Ân Mao càng lớn càng thông minh kỳ lạ, khôn ngoan đáo để, túc trí đa mưu, mà còn có mộng bành trướng, có ý gồm thâu thiên hạ. Võ Cảnh thấy vậy rất vừa lòng.

Một hôm Ân Mao đang chơi thời bỗng thấy ba Đạo Sĩ xuất hiện nói:

Con theo ta về động để tu Tiên học Đạo.

Nói xong ba Đạo Sĩ cùng Ân Mao biến mất, những người hầu Ân Mao hoảng kinh, báo cho Tôn Vương cùng Man Hậu. Man Nương nghe xong lấy làm kinh hải, Hồ Tôn Vương nói:

Không sao đâu. Mao Nhi theo thầy học Đạo không có gì phải lo.

Đây nói về Ân Mao được ba Đạo Sĩ đưa đến một nơi rất xa xôi, đến một ngọn núi đá gần một cái hồ rộng lớn, phong cảnh vô cùng xinh đẹp.

Đạo Sĩ mặt trắng dễ coi hơn nói với Ân Mao:

Thầy là Hồ Nhất Tinh, còn đây là Hồ Nhị Yêu.

Ân Mao bước tới quỳ lạy Nhị Yêu mặt xám, Nhị Yêu mặt xám khen:

Thằng bé nầy thông minh lắm.

Nhị Yêu chỉ Tam Quỹ nói:

Đây là Hồ Tam Quỹ con đến chào hỏi đi.

Ân Mao đến quỳ lạy ra mắt nói:

Con là Ân Mao kính lạy tam sư phụ.

Tam Quỹ thấy Ân Mao không những khôn ngoan mà còn đầy lòng xảo quyệt, thời thích lắm.

Cùng thời với Ân Mao bên đất hung nô em của Man Man là Mạo Mạo sanh ra một em bé sát khí đầy trời, nên đặt tên cho em bé là Sát Sát.

Cũng cùng thời lúc ấy, bên đất Hồ, Hồ Nương Nương cũng hạ sanh một bé gái, lúc hạ sanh bé gái thời một trận gió nổi lên làm cát bay đá chạy, nên đặt tên cho em bé là Nghịch Phong. Nghịch Phong lớn lên không những xinh đẹp mà thường làm những điều không ai tưởng tượng nổi, như treo ngược mình lên cây, chơi với loài hung dữ như cọp, beo, sói. Một hôm Nghịch Phong đang chơi, bỗng một luồng cuồng phong xuất hiện cuốn phen Nghịch Phong đi mất.

Đây nói về Sát Sát càng lớn càng xinh đẹp lại ưa chơi với loài hung độc như rắn, rít, bò cạp, tính tình tàn độc vô cùng, tuổi còn nhỏ mà đã giết chết Nữ Tỳ. Tỳ Nữ không ai là không khiếp sợ. Một hôm Sát Sát đang chơi thời một Đạo Cô xuất hiện thu nhận Sát Sát làm đệ tử, bay lên mây rồi biến mất.

Đây nói về thời hạ Hùng Huy Vương, đời thứ 6 (Pháp Hải Lang) nước Văn Lang đã bắc đầu suy vong, vì nền văn hóa Cội Nguồn đã mất lần hết những điều cơ bản dẫn đến độc tài độc trị, dân chúng mỗi ngày mỗi mất lòng tin, cuộc sống lần lần không còn bình đẳng, quyền con người cũng dần dần biến mất, thay vào đó là chế độ độc trị, độc tài, không khác gì phương Bắc, Vua là trên hết.

Không như thời dựng nước tối cao của nước Văn Lang không phải là Vua, mà là nền Quốc Đạo dân tộc, Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng xã hội. QUỐC TỔ VUA HÙNG, là vị vua tối cao, tôn thờ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, nắm giữ cán cân Công lý xã hội, lập ra tam quyền phân lập. LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP, ĐẠO PHÁP ĐỘC LẬP. Lãnh đạo và điều hành đất nước.

Ở thời kỳ hạ Hùng Vương đời thứ 6, thời bộ máy nhà nước Văn Lang chỉ là nhà nước độc quyền, độc trị, theo kiểu độc quyền, độc trị ở phương Bắc, tất cả quyền hành đều dồn hết cho một quyền lực đó là Vua. Không còn Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng xã hội trên hết nữa, Vua muốn làm gì thì làm, không cần thông qua bộ máy nhà nước. Mà sống theo chế độ thể chế độc trị, độc tài. Cái độc trị, độc tài ấy lần lần ăn sâu vào các cấp Lãnh đạo nhà nước Văn Lang, từ Vua, Quan, các cấp, cho đến chí dân. Lần lần ai nấy cũng chỉ biết nghĩ đến cái lợi của mình, dân lần trở thành vô cảm, tính đoàn kết không còn như thời ông cha nữa, còn Vương Quan thời vơ vét tôm thâu bao cái lợi về mình. Sự khởi đầu, dân chúng bất bình chính là độc tài, độc trị nầy, càng về sau các Vua Hùng càng nặng, cũng như Vương Quan các đời về sau càng nặng, dẫn đến xa rời dân chúng, ai cũng vì túi riêng của mình, hà khắc sách nhiễu dân chúng. Mở đường cho bao mối họa sanh ra nội loạn, cơ hội cho ngoại xâm, xâm chiếm đất đai.

Hùng Huy Vương lâm triều lúc nào cũng nghe tấu sớ báo cáo Bắc Văn Lang dân chúng nổi lên dấy loạn khắp nơi đòi tự trị.

Vua Hùng nổi giận nói:

Con cháu Tiên Rồng mà bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất hiếu, đến thế sao. Các Bộ, các Châu, các Quận, các Huyện, sao để xảy ra những ch.uyện ấy.

Bằng ra cáo văn chỉ thị: Những Bộ, những Châu, những Huyện, những Quận, có nội loạn về kinh đô hội kiến.

Không bao lâu thời các Bộ, các Châu, các Quận, các Huyện, có nội loạn dân chúng nổi lên đòi tự trị, về kinh đô báo cáo thật tế tình hình.

Nhìn Kinh Đô thật yên bình, nay đã là tháng ba thế mà trời đất vẫn chưa được trong xanh sáng tỏ, lúc nào cũng u ám như có điều chi buồn bã, buôn tiếng thở dài ông cụ nói:

Lòng tham con người không kìm chế được thời chuyện gì cũng xảy ra, hôm nay là ngày hộp trọng đại nơi triều nội, tí nữa là ta quên mất.

Người đó là ai thế? Người đó không ai khác hơn là Lạc Vương, Hữu Thừa Tướng, đứng đầu trăm quan. Các Quan đầy đủ, Vua Hùng lâm triều, tấu sớ dâng lên nhiều hơn mọi lần. Hùng Vương xem cáo văn báo cáo, các Bộ, Châu, biên giới Bắc Văn Lang như sau: Thần là Lạc Hầu Vương cũng như các Châu, các Bộ hết lòng vì dân vì nước, nhưng không hiểu vì sao dân chúng lại dấy loạn đòi tự trị, nổi dậy chiếm lấy Tây Bắc biên giới Văn Lang biên giới Bắc Văn Lang, Đông bắt Văn Lang, Bách Việt Bắc Văn Lang không còn đoàn kết như xưa, mà nổi lên đòi tự trị nhiều vùng, tệ hại hơn nữa. Bộ Bắc Đái, các Châu, Quận, Huyện chỉ cần tập họp vài trăm nóc nhà cũng tự xưng là Vua, Thần đem quân dẹp loạn. Nhưng dẹp yên chỗ nầy, thời chỗ khác lại mọc lên, máu dân Văn Lang đã bắt đầu đổ, không cách gì vổ yên dân chúng cho được. Càng dẹp loạn thời các thế lực tự trị chúng liên kết lại với nhau. Tạo lên một sức mạnh chống trả, chống trả không lại chúng cầu viện phương Bắc. Cảnh nồi da nấu thịt vô cùng thê thảm. Trận chiến ở Huyện Tây Bắc Châu, Huyện Tây Trung Châu, Huyện Hạ Tây Châu, dân Văn Lang cả hai bên thiệt mạng hơn nữa vạn người. Bố chính Tây Châu bỏ mạng, bố chính Trung Châu bỏ mạng, bố chính Hạ Châu bỏ mạng, chúng cầu viện quân Ngô đành phải thất thủ Tây Châu. Châu Phủ bị chúng bắt không còn biết sống chết ra sao.

Các Quan nghe báo cáo tình hình như vậy ai nấy đều thất kinh. Các Quan nghe tấu sớ bộ Lục Hải, lại càng kinh hải hơn nữa, nguyên văn như thế thế nầy: Bẩm Quốc Vương, hạ thần là Lạc Công Hầu, ở bộ Lục Hải tình hình Đông Hải Châu, Đông Bắc Hải Châu, Hạ Giang Châu dân chúng đòi nổi lên tự trị, vì cho rằng Thần Thánh nói Bắc Văn Lang sẽ mất, cơ vận Hùng Vương đã hết đất Văn Lang chia ra nhiều nước, như bên Bắc nhà Hạ, nhà Thương, nhà Ân, nhà Chu. Trời chỉ định ai được thiên hạ thời người đó được, đất đai không thuộc của người nào. Vì thế Bách Việt Văn Lang dân tộc nào Trời chỉ định dân tộc đó là Vua. Vì có sự tiên đoán của Thần Linh, và cũng như sự ứng quẻ của Đất Trời. Dân chúng những Châu Phủ trên, đã trở nên cuồng tín chỉ biết nghe theo Thần Thánh, nhất là Thần Thánh ở đất Bắc. Dân chúng đã dựng miếu thờ khắp nơi, nhập đồng nhập xác hiển Linh lắm, thời thế hiện nay dân chúng chỉ biết nghe theo bói toán, ứng quẻ, nhập đồng, nhập xác, cầu cạnh thần linh, thần linh nói sao dân chúng nghe theo vậy, quẻ ứng. Nói cậu nầy làm Vua, ông kia làm Chúa, thời dân chúng nghe theo răm rắp, vì thế mà nhiều khu tự trị đã nổi lên, hơn trăm nóc nhà cũng xưng Vua, xưng Chúa. Hạ Thần ra lệnh gôm thu quân binh các Châu hơn 10 vạn, rồi giao cho Lạc Tướng thống lãnh hơn vạn quân binh dẹp loạn, dẹp được chỗ nầy, thời Vua chỗ khác đã mọc lên, sự phản loạn đòi tự trị ấy, phải nói là có bàn tay phương Bắc tham gia, diệt tự trị chỗ nầy, tự trị chỗ khác lại mọc lên. Chúng liên kết với nhau chống trả lại quân Văn Lang mỗi ngày mỗi quyết liệt, chúng thua chúng chạy sang qua Bắc cấu kết với nước Hải Nam, nước Mục Lăng, hiện nay đã theo về với nước Tề, nhờ sự trợ giúp của nước Tề quân ta đã đại bại, thiệt hại hơn phân nửa binh lính, quân nổi dậy nhờ sự yểm trợ của quân Tề nên đã thất thủ Đông Hải Châu, Đông Bắc Hải Châu, Hạ Giang Châu, cũng không thể giữ nổi trong nay mai, nếu tình hình nầy kéo dài e rằng mất luôn Bắc Văn Lang, nguy cơ mất Bắc Văn Lang là điều không sao tránh khỏi, nếu không có quân chủ lực dẹp yên chúng.

Vua Hùng lại xem tấu sớ của Bộ Giao Chỉ thời thất sắc, nội dung tấu sớ thế nầy: Bẩm Quốc Vương hạ Thần, Lạc Vương, phụng báo như sau. Tình hình Bắc Giang Giao Châu, Lạc Giang Giao Châu, Giao Giao Minh Châu, Dương Giang Giao Châu, là những Châu lân cận với đất Bắc, thuộc bộ Giao Chỉ, không hiểu vì sao Bách Việt Văn Lang lại nổi lên đòi tự trị, nổi lên Vua Chúa khắp nơi, không khác gì ở phương Bắc, chỉ cần hơn vài ba trăm nóc nhà thời có Vua nổi lên, Vua nầy thôn tính Vua kia làm rối loạn khắp nơi, những trận giao tranh tiêu diệt lẫn nhau dữ dội, gươm đao giáo mác, cung tên, nhập từ phương Bắc, vũ khí binh lính không kém gì Văn Lang chúng ta, với tình hình như thế quân ta không biết đánh ai bỏ ai, cuối cùng họp bàn đi đến thống nhất, là quét sạch những quân nổi dậy đòi tự trị, do Lạc Tướng, Hầu Tướng chỉ huy một cuộc ra quân rầm rộ chúng biết đánh không lại liền chạy qua đất Bắc liên kết thành một sức mạnh dưới sự trợ giúp của quân Sở, chúng trở lại phản công thế là một trận giao tranh quyết liệt giữa quân ta với quân phiến loạn đòi tự trị. Lạc Tướng tử trận, Hầu Tướng bỏ mạng, chúng Bắc sống hơn mười vị Quan Tướng Bố Chánh. Chúng đã chiếm cứ, Bắc Giang Giao Châu, Lạc Giang Giao Châu, Dương Giang Giao Châu, chỉ còn Giao Giao Châu đang cầm cự, không biết thất thủ lúc nào, nói chung là đã mất hơn 25 Quận Huyện.

Đọc xong tấu sớ ai nấy cũng kinh hoàng, còn một điều vô cùng khẩn cấp hơn nữa, là quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô đã khởi động sắp tràn qua đánh chiếm Bắc Văn Lang, chiếm lấy toàn bộ vựa lúa lớn nhất của chúng ta, nếu mất Bắc Văn Lang, thời nguy cơ thiếu ăn trầm trọng, dân chúng Văn Lang chúng ta sẽ chết những đói, những năm thời tiết không thuận.

Nghe tin quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô xâm lược, thời Vương Quan ai nấy cũng kinh hoàng. Việc nội loạn chưa giải quyết xong, thời quân ngoại xâm đã kéo đến.

Hùng Huy Vương nói:

Các Quan văn võ có kế sách gì không?

Khi ấy có vị Quan Vương nổi tiếng là học nhiều hiểu rộng, Lạc Vương Thừa Tướng là con của Lạc Vương Công, thời Hùng Vương đời thứ 4, Hùng Diệp Vương, có công ban giao hợp tác toàn diện Nam Bắc Văn Lang với nhà Chu tâu rằng:

Bẩm Quốc Vương bệ hạ, chúng ta nên cho người đưa thư của bệ hạ đến nhà Chu trình lên Chu Mục Vương Thiên Tử, giúp đở không cho Tề, Ngô, Sở giúp sức cho quân phiến loạn Văn Lang, bớt đi một sức mạnh, hầu mong chống trả lại quân xâm lược.

Thế là Hùng Huy Vương sai Việt Thường Lạc Hầu Thị đi sứ dâng thư lên Thiên Tử Chu Mục Vương, Nhà Chu. Đi sứ dâng thư ba lần nhưng không kết quả, Mục Vương nhận thư nhưng lờ đi. Hùng Huy Vương vô cùng tức giận nhưng biết phải làm sao, không còn giải pháp nào cao hơn nữa là cầu Hiền Tài ra giúp nước.

Ở vào thời kỳ ấy, ở Bộ Ninh Hải, Châu Đông Hải, Huyện Đông Châu có hai anh em sinh đôi tên là Nguyên Dực và Nguyên Minh là cháu nhiều đời của Quan Lạc Tướng Nguyên Đô có tài hay phép lạ, võ nghệ cao cường, tinh thông binh pháp, tiếng tăm đồn xa. Hùng Huy Vương cho người mời hai anh em về triều phong cho làm Lạc Tướng thống lãnh 40 vạn quân đến Bắc Văn Lang kết hợp với quân binh các Châu, các Bộ, trừ quân phiến loạn, cũng như chống trả lại quân xâm lược.
 

PHẦN 2: ÂM MƯU XÂM LƯỢC

Lòng tham quả thật kinh người.

Ngày đêm toan tính nuốt thời Văn Lang.

Ngoại xâm bè lũ sói lang.

Cáo, chồn, múa vuốt, ăn gan hại người.

Mưu mô quỉ quyệt hại đời.

Văn Lang binh lửa khắp cùng thương đau.

Đây nói về Ân Mao theo học với ba sư phụ, võ nghệ cao cường, thần thông pháp thuật vô biên, mới đó mà đã trên hai mươi tuổi, lấy được hai người vợ không những xinh đẹp mà còn võ nghệ cao cường, tài hay phép lạ, ít người địch lại. Hồ Tôn Vương mất, Ân Mao lên thay gọi là Ân Mao Vương. Ân Mao Vương là tay khôn ngoan xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế, liên kết Hung Nô, liên kết Hồ Vương, tạo lên thế lực Tam Vương hùng mạnh, nhà Chu cũng không làm gì nổi. Với mộng bành trướng, Ân Mao Vương lúc nào cũng muốn gồm thâu thiên hạ, nhìn thấy Bắc Văn Lang dân chúng chia năm xẻ bảy lại hiểu rõ Tề, Sở, Ngô, muốn nuốt Bắc Văn Lang, đây là cơ hội làm nên nghiệp bá chiếm lấy Bắc Văn Lang trước Tề, Ngô, Sở, nhưng còn ngại nhà Chu ngồi chờ hai hổ đánh nhau thợ săn đắc lợi, không những lấy được Bắc Văn Lang mà còn tận diệt mình. Ân Mao Vương bằng nghĩ ra một kế sách, muốn nuốt được Bắc Văn Lang, một mình quân Ân không làm nổi, mà còn gặp nhiều nguy hiểm. Chi bằng liên kết với quân Hồ, quân Hung Nô, hợp lực chiếm lấy Bắc Văn Lang, Ân Mao Vương hiểu rõ quân Hung Nô, quân Hồ, không những tàn bạo, mà còn lấy sự chém giết cướp bóc làm sở thích.

Trên khắp Thế Giới hiện nay không nơi nào giàu có như nước Văn Lang, không thứ gì là không có. Chỉ cần nói lên sự giàu sang, không thứ gì là không có nảy khơi động lòng tham, đánh thức lòng háo chiến, đánh thức lòng cướp bóc, thời nhất định quân Hung Nô, quân Hồ sẽ tham gia. Bằng mở ra cuộc hội Tam Vương vô cùng long trọng, đàn ca múa hát, rượu thịt đầy bàn, toàn là những món ngon.

Hung Nô Vương khen:

Quả thật đây mới đúng là sơn hào hải vị, không mấy dễ mà có được.

Hồ Nghi Vương cũng nói:

Có những món tôi chưa bao giờ được thấy, chớ đừng nói là được ăn.

Trong lúc vui vẻ, Ân Mao Vương nói với Hồ Nghi Vương, Hung Nô Vương rằng:

Những sơn hào hải vị nầy, chỉ là những sơn hào, hải vị tầm thường Bắc Văn Lang, Bắc Văn Lang nổi tiếng là giàu có không những sơn hào hải vị thuộc bật nhất Thế Giới, mà còn châu báu cũng bật nhất thế giới.

Ân Mao Vương bằng lấy ra hai viên Dạ Minh Châu tặng cho Hung Nô Vương một viên, Hồ Nghi Vương một viên, hào quang tỏa lên rực rỡ.

Hung Nô Vương khen:

Tôi chưa hề thấy viên Dạ Minh Châu nào quý hiếm như viên Dạ Minh Châu nầy.

Hồ Nghi Vương cũng nói:

Quả là hiếm quý không dễ gì có được.

Mao Ân Vương nói:

Đây là những viên Dạ Minh Châu hạng thường của Bắc Văn Lang.

Hung Nô Vương tỏ vẽ thèm thuồng nói:

Sao ta không hiệp lực lại đánh chiếm Bắc Văn Lang, làm bá chủ sự giàu sang, ăn chơi sung sướng.

Hồ nghi vương nói:

Ba ta mà hiệp lực lại với nhau nói gì Bắc Văn Lang, đánh chiếm nước Văn Lang còn được.

Mao Ân Vương vô cùng mừng rỡ nói:

Thế lực của ba chúng ta hiện nay nhà Chu cũng phải kính nể, không dám đụng đến, biết rằng ba chúng ta xưng Vương ngang hàng với nhà Chu, thế mà nhà Chu không làm gì được chúng ta.

Ân Mao Vương nói:

Phương Bắc nhà Chu không có đất nào là béo bở như Bắc Văn Lang mà toàn là những nước nhỏ, đã dày dạn chiến tranh, khó thôn tính hơn Bắc Văn Lang. Bắc Văn Lang hiện nay đang trong thời kỳ hỗn loạn, tuy nhiều bộ lạc nổi lên xưng Vua Việt, nhưng chỉ là những Vua Việt không dày dạn chiến tranh như những vị Vua ở phương Bắc, những con cừu con xưng Vua mà thôi, chỉ cần quân ta tràn tới, thời chúng chỉ là con mồi cho chúng ta xơi.

Mao Ân Vương nói:

Phương Bắc luôn dòm ngó mãi phương Nam, chỉ cần có cơ hội là chiếm lấy, vì Bắc Văn Lang giàu có trù phú vô cùng, vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu, nhiều vô số kể. Những thứ hiếm quý Bắc phương không bao giờ có. Hiện nay nước Văn Lang đến hồi suy vong, Bắc Văn Lang chia năm, xẻ bảy, nhiều Vua đã nổi lên, đây là cơ hội cho ta chiếm lấy Bắc Văn Lang, trước nước Tề, nước Sở, nước Ngô.

Hung Vương là tay đệ nhất háo chiến nói:

Quân Hung Nô nhận lãnh đánh tiên phong.

Hồ Vương cũng là tay háo chiến không kém gì nói:

Bắc Văn Lang rộng lớn vô cùng tha hồ mà tung hoành cướp bóc, chiếm lấy, cả ba chúng ta không ai nhường ai, hễ ai chiếm được bao nhiêu thời là của người đó.

Thế là Tam Vương đánh chiếm Bắc Văn Lang. Quân Hồ, quân Hung Nô, quân Ân đều mạnh về thiết kỵ binh, vó ngựa vang rền biên giới Tây Bắc Văn Lang. Đã nhuốm màu binh đao máu lửa, quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân, tràng qua như nước lũ.



PHẦN 3: XÂM LƯỢC

Cội nguồn văn hóa đã mất đi

Vận nước Văn Lang khổ li bì

Binh đao máu lửa ôi cùng khắp

Nồi da nấu thịt mạng còn chi

Cơ hội nghìn năm giặc tràn đến

Chúng xơi chúng nuốt béo phi phi

Tan nhà nát cửa xưa nay thế

Đồng bào tàn hại nước lâm nguy.

Đây nói về Bắc Văn Lang, tình hình càng về sau càng trầm trọng, các Bộ Lạc Bách Việt nổi lên đòi tự trị, tranh giành quyền lực, xưng Vua, xưng Chúa, thôn tính tiêu diệt lẫn nhau, không khác gì phương Bắc vài ba trăm nóc nhà cũng xưng Vua, nồi da nấu thịt, thắng là Vua thua là giặc, xem đi xét lại giặc với Vua chẳng khác gì nhau.

Bỗng quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân, từ phía Tây Nam nhà Chu tràng qua Tây Bắc Văn Lang như kiến. Chúng chia làm ba mũi thọc sâu vào đất Bắc Văn Lang trước sức mạnh quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân những Vua Việt nổi lên tự trị chống trả không lại đành phải bỏ mạng. Quân Ngô, quân Sở, quân Tề chiếm đóng trên đất Văn Lang biết chống trả không lại đành phải rút lui về đất Bắc. Quân Hung Nô, quân Hồ, quân Ân thế mạnh như chẻ tre, như trận hồng thủy tràn tới đâu là cuốn sạch tới đó. Chúng như ba con quỉ dữ nuốt nhanh chóng Châu Phủ, Quận, Huyện, Văn Lang. Huyện Tây Bắc, Huyện Tây Trung, Huyện Hạ Tây, nuốt luôn Châu Phủ Tây Châu, Tây Bắc Châu, giết chết Vua Di Việt, Vua Phiên Việt, nhanh chóng tràn xuống Bắc Văn Lang, chiếm lấy các Châu Phủ như lấy đồ trong túi, chiếm lĩnh Dương Giang Châu, Giao Giao Châu, Bắc Giang Châu. Giết chết Vua Dương Việt, Vua Giao Việt, Vua Trung Việt. Tam quân như ba con quỉ dữ hung tàn bạo ác vô cùng quy hàng thời sống, chống lại thời chết, ba con quỉ dữ nhanh chóng nuốt luôn Kinh Giao Châu, giết chết Vua Kinh Việt thọc sâu xuống sang bằng Đông Bắc Hải Châu, giết chết Vua Kiều Việt, tiến thẳng về phía Nam thôn tính Đông Hải Châu, giết chết Vua Đông Việt, tỏa rộng bao vây tóm gọn Hạ Giang Châu, giết chết Vua Điền Việt, chưa đầy một năm ba con quỉ nuốt trọn tất cả các Châu như thế, làm chủ gần một nửa Bắc Văn Lang. (Những vị Vua việt bị giết chết nói trên là những vị Vua lớn ngang hàng với nước Sở, nước Ngô, nước Tống, nước Tấn, nước Ngụy, nước Yên, ở phương Bắc).

Thê thảm nào hơn thảm cảnh nầy

Quan hệ sói lang nạn là đây

Bất trung bất hiếu lìa cội gốc

Tôn thờ lũ giặc, giặc chuyển xây

Theo giặc, giặc hại luôn là thế

Làm giặc, thời giặc đến bủa vây

Chia năm, xẻ bảy, xưng hùng bá

Nắm đũa rã rời, giặc bẻ từng cây.



PHẦN 4: KHỐN KHỔ

Nước loạn cơ nguy vốn xưa nay

Nồi da nấu thịt cảnh đọa đày

Đến khi thức tỉnh thời đã muộn

Cơ nghiệp còn đâu trắng trắng tay

Gông cùm xiềng xích thân nô lệ

Tự do mất hết họa tai bay

Sa vào cạm bẫy mưu phương Bắc

Nước mất nhà tan ngục thế thay.

Đây nói về Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, Bắc Văn Lang, cố thủ chống trả quân Ân, đã hơn một trăm ngày chờ mãi viện binh không thấy đến, lương thực đã bắt đầu cạn lần, nguy khốn mỗi ngày một thêm chồng chất.

Hùng Lang Công vô cùng nóng lòng đi tới đi lui, lo lắng không yên lẩm bẩm: Quân Xích Linh sao không thấy tới cứu viện, còn quân Giao Châu nữa sao mà chậm trễ thế, hay có chuyện gì xảy ra không. Còn Lạc Hầu Công vào Kinh Đô Văn Lang cầu viện hơn tháng sao chưa thấy về, hay là bị giặc bắt rồi.

Hùng Lang Công càng nghĩ càng lo. Đang trong lúc lo lắng không yên, thời có quân vào báo:

Bẩm Vương Công, quân Ân lại tới khiêu chiến.

Hùng Lang Công, cùng các Quan lên thành xem thấy từ doanh trại của giặc Ân ước lượng hơn năm nghìn quân chúng rầm rộ kéo tới kinh thành khiêu chiến. Tướng giặc quả là oai phong lẫm liệt, đầu đội kim khôi, mặc giáp đồng, cầm thanh đại đao sáng loáng có ngời, cỡi con ngựa trắng giọng nói vang như sấm, chỉ nhìn sự uy dũng của tướng giặc, cũng đã uy hiếp tinh thần đối thủ hết mấy phần rồi.

Tướng giặc đến trước cổng thành lớn giọng chửi rủa:

Con cháu Tiên Rồng mà nhác như thế sao? Oai phong ông cha các ngươi đâu hết rồi, chỉ là một lũ bị thịt, thôi thì mở cửa đầu hàng, thời ta cho các ngươi con đường sống, trở thành dân nô lệ, còn nếu sợ quá cố thủ thời ta chờ các ngươi sạch ruột, làm thịt mới ngon.

Hùng Điền con của Hùng Lang công nghe tướng giặc chửi rủa tức giận chịu không nổi, bằng nói với Hùng Lang Công rằng:

Chúng ta đánh một trận với chúng có chết cũng cam, nỗi nhục nầy không thể nào nhịn được.

Các tướng ai nấy cũng đồng tình lời nói của Hùng Điền: Thà chết nhất định không chịu nhục.

Hùng Lang Công nghĩ: Đã là con cháu Tiên Rồng thời còn sợ ai mà co đầu rụt cổ, có chết thời chết cho anh hùng. Bằng trao ấn lịnh cho Hùng Điền. Hùng Điền vô cùng mừng rỡ, bằng điểm hơn năm nghìn binh, mở cổng thành ra xông ra nghinh chiến với giặc.

Tướng giặc thấy người ra trận là một trung niên mặt trắng, đầu đội kim khôi, mình mang giáp đồng, tay cầm trường thương, cỡi con ngựa hắc long, oai phong lẫm lẫm.

Hùng Điền phi ngựa lao tới quát lên như sấm nổ:

Tên giặc ngoại xâm hỗn láo kia mau xưng tên họ rồi nạp mạng.

Tướng giặc ra oai không kém hét lớn:

Loài Rồng thời ta còn ngán, còn loài giun thời ta chẳng coi vào đâu, mau xuống ngựa quỳ xuống ta cho cái chết toàn thây.

Hùng Điền không nói không rằng phi ngựa lao tới, trường thương vun vút nhắm đối thủ tấn công như vũ bão. Tướng giặc cũng không kém hét lên một tiếng phi ngựa lao tới xáp chiến, binh khí chạm nhau đinh tai nhức óc, binh lính hai bên chiêng trống dậy trời.

Nhìn trận địa rền vang chiêng trống

Bụi mịt mù ngựa cuốn vòng xoay

Thương đao chơm chớp trời mây

Ầm ầm trận địa giao tranh ầm ầm.

Đánh hơn năm mươi hiệp mà chưa diệt được kẻ thù Hùng Điền hét lên một tiếng, dùng chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh, cọng với chiêu Âm Dương Sát Thủ như tia chớp đâm đánh tướng giặc, tướng giặc thấy trường thương chớp chớp cuốn tới như một trận lốc, thời thất kinh múa đao lên chống đỡ đùng đùng ầm ầm, tướng giặc sít chút nữa thời bỏ mạng. Tướng giặc không còn dám xem thường nữa, dùng tuyệt kỹ Yêu Đao phi ngựa chém tới ầm ầm, Yêu Đao chơm chớp như mưa sa, người ngựa phóng lên không chém xuống. Hùng Điền bình tỉnh dùng chiêu Ngọa Hổ Tàng Long, chống đỡ, hai bên đánh nhau kẻ tám lạng người nửa cân hơn trăm hiệp vẫn chưa phân thắng bại.

Quả là:

Con cháu Tiên Rồng vốn anh hùng

Trường thương vun vút đảo càn khôn

Mưa tuôn quyền pháp rền sông núi

Vó ngựa réo vang đánh dập dồn.

Hùng Điền quyết giết cho bằng được tướng giặc, nên trường thương càng lúc càng lợi hại, tướng giặc biết đánh không lại, bằng nghĩ ra một kế giả thua bỏ chạy giết chết Hùng Điền, quả là Hùng Điền đã trúng kế rượt đuổi theo tướng giặc, bất thình lình tướng giặc quăng lên không một vật tức thì một luồng khói độc tuông ra. Hùng Điền bất ngờ tránh không kịp bị khói độc tuông trúng xây xẩm mặt mày, tướng giặc quay ngựa trở lại nhanh như chớp chém Hùng Điền một đao bỏ mạng.

Quân Ân thắng thế ào ào lao tới đánh cho quân Văn Lang một trận tơi bời hơn năm nghìn người chỉ còn có mấy trăm. Hùng Lang Công thấy con chết vô cùng đau xót.

Hùng Tướng thấy em chết, vừa đau xót, vừa căm hận quân giặc, quyết tâm trả thù cho em, liền nói với Hùng Lang Công rằng:

Thưa cha, cho con ra trận giết thằng giặc đó trả thù cho em.

Hùng Lang Công cũng vô cùng căm tức, bằng nói:

Con ra trận hết sức cẩn thận, không nên rượt đuổi theo tên giặc.

Hùng Tướng bằng điểm năm nghìn quân tinh nhuệ, mở cổng thành ào ào lao tới hò hét xáp chiến với quân Ân, tướng giặc Ân cũng ra oai không kém, hò hét thúc quân xáp chiến.

Thế là dậy núi dậy non

Quân reo, giáo đổ, kiếm tuôn ầm ầm

Quân ân khiếp vía rụng rời

Thây người gục ngã đất trời rung rinh

Bất ngờ yêu, quỉ, ma, tinh

Đầy trời xuất hiện rung rinh đất trời

Văn Lang quân tướng tàn đời

Phơi thây chiến trận ôi thời thảm thương

Vì dân vì nước hy sinh

Văn Lang Quân, Tướng, anh linh muôn đời.

Nói về Hùng Lang Công, cùng các tướng ở trên thành xem trận địa, thấy quân Văn Lang đánh quân Ân tơi bời, thây phơi chật đất, vui mừng vô kể. Cùng lúc ấy từ doanh trại của giặc Ân, thấy một bóng vụt lên hư không, thì ra đó là một nữ tướng, cỡi con ngựa thiên lý mã, chớp mắt đã tới trận địa.

Hùng Lang Công thất kinh thét lớn:

Con ta nguy mất.

Chỉ thấy nữ tướng tay chỉ lên hư không, tức thời yêu, tinh, ma, quỉ, hiện ra đầy trời, mây đen cuồn cuộn, quân Văn Lang chỉ trong phút chốc chết không còn một mạng, từ đó Kinh Đô cố thủ cầu mong quân tiếp viện đến mà thôi.
 

PHẦN 5: TỬ CHIẾN

Chúng dân lạc Cội nước khốn nguy

Binh đao máu lửa khổ li bì

Chồn, cáo, can qua ăn nuốt sống

Tan nhà nát cửa mạng còn chi.

Đây nói về Kinh Giao Châu, cách Kinh Đô không xa chỉ hơn 30 dặm, nghe Kinh Đô bị bao vây, liền bàn kế đưa quân tiếp ứng.

Lạc Đô Tướng nói với Quan Tổng Chính:

Khi ta đưa quân đến cứu viện Kinh Đô, nếu có giặc đến tấn công thời cố thủ mà thôi.

Dặn dò xong đâu vào đấy. Đô Tướng liền mở cổng thành dẫn hơn một vạn quân nhanh chóng đến Kinh Đô, quân binh vừa đến Huyện Giao Trung, đến đồi Lạc Địa, thời nghe tiếng reo hò dậy trời dậy đất, quân Ân hiện ra lớp lớp, gươm đao giáo mác sáng ngời. Lạc Đô Tướng, thấy người dẫn đầu quân Ân là một nữ tướng trung niên vô cùng xinh đẹp, liền có ý coi thường.

Lạc Đô Tướng giục ngựa tới hét:

Mau xưng tên họ, đàn bà con gái mà cũng ăn cướp xâm lược, gặp ta là coi như đã tới số, mau xuống ngựa chịu trói, thời ta cho cái chết toàn thây, bằng không xương thịt nát nhừ.

Không ngờ nữ tướng không sợ mà còn thét lên lanh lảnh:

Ngươi đã gặp Sát Sát ta, thời ngươi đã hết con đường sống, trời sanh ra đất đai là không phải của riêng ai, người nào có tài thời người đó được. Văn Lang đã đến thời mạc, đất đai sẽ thuộc về người khác, mau quy hàng thời ta cho cái chết toàn thây.

Lạc Đô Tướng quát:

Đồ hỗn láo.

Rồi phi ngựa tới thét lớn:

Nộp mạng đi.

Thanh đại đao chém tới với một sức mạnh kinh hồn, hai bên quân lính tướng tá, reo hò dậy núi dậy non. Không ngờ nữ tướng không cần né tránh đưa đao lên chống đỡ.

Đô Lạc Tướng thấy thế vui mừng quát:

Xong đời nầy.

Không ngờ một tiếng ầm kinh thiên động địa, cả người lẫn ngựa bị dội ngược trở lại, lòng bàn tay đau buốt. Lạc Đô Tướng kinh hoàng như không tin ở mắt mình. Nữ Tướng quát lên lanh lảnh, giục ngựa lao tới đại đao vun vút chém tới, kình phong tuôn ra ù ù. Lạc Đô Tướng không còn xem thường nữa dốc hết sức bình sanh ra chống đỡ, hai ngựa quần thảo với nhau khói bụi mịt mù, binh khí chạm nhau đinh tai nhức óc.

Lạc Đô Tướng càng đánh càng yếu thế, đánh nhau hơn năm mươi hiệp, Lạc Đô Tướng chỉ còn nhờ vào tuyệt chiêu cuối cùng may hạ gục đối thủ, liền hét lên một tiếng vận dụng hết sức bình sanh đánh ra tuyệt chiêu Liên Hoàn Đao Pháp ánh đao chớp chớp, liền biến ra ảo ảnh chín đường đao chém tới, quả là một chiêu vô cùng lợi hại.

Nữ tướng thấy chiêu đao pháp quá lợi hại như vậy, liền tàn hình biến mất. Lạc Đô Tướng thất kinh, chưa biết phải làm sao, thời nghe trên không có tiếng gió lao xuống, thất kinh Lạc Đô Tướng múa lên thiên vạn đao chống đỡ, chỉ biết ầm ầm đinh tai nhức óc, bốn vó ngựa Lạc Đô Tướng lún sâu. Lạc Đô Tướng chưa hết kinh hồn, thời một tia chớp nổi lên Đô Tướng tránh không kịp trúng một đao bỏ mạng, sau có thơ khen rằng:

Sống ở đời, không ai là không chết

Vì non sông Tổ Quốc nguyện hy sinh

Dù có chết, chết vì dân vì nước

Mãi hùng anh trong nòi giống uy linh.

Quân Ân thắng thế reo hò vang dậy, ào ào xông tới tiêu diệt quân Văn Lang, quân Văn Lang như rắn mất đầu, hỗn loạn bị quân Ân tiêu diệt một cách dễ dàng.

Thảm thương con cháu Tiên Rồng

Ngoại xâm tàn sát đau lòng biết bao

Trời u tối một màng đêm đen thẳm

Lạc Cội Nguồn ôi thê thảm, thảm thê

Kìa trước mắt đầy hố thẳm chông gai

Cơ tạo hóa chuyển vần xoay nguy khốn

Giặc lan tràn khó tránh khỏi kiếp tai.

Đây nói về Quan Tổng Chính trong lòng cứ mãi hồi hộp không yên, đang ra sức cùng binh lính cũng cố trấn giữ Kinh Giao Châu.

Thời có quân binh vào thông báo:

Bẩm Tướng Quân, quân ta đã thất trận tại Huyện Giao Trung, quân Ân đang kéo tới, bao vây Kinh Châu Đông như kiến.

Quan Tổng Chính nghe báo cáo rụng rời cả tay chân, liền cùng các quan lên thành xem coi, thời không khỏi thất kinh. Quân Ân kéo tới càng lúc càng đông bao vây Kinh Giao Châu. Quan Tổng Binh cùng các Quan, chỉ còn biết cố thủ tới đâu hay tới đó.

Cùng lúc ấy, Xích Linh Giao Châu đang chống trả với quân Hung Nô. Đây nói về Xích Linh Giao Châu, Lạc Hầu Vương nghe tin giặc Ân bao vây tấn công Kinh Đô, thời trong lòng kinh hãi, đâu mà nhanh đến thế, nếu giặc chiếm được Kinh Đô thời Bắc Văn Lang coi như đã thuộc về chúng.

Tức thời sai con là Lạc Hồng Hầu, thống lãnh một vạn quân nhanh chóng đến giải vây cứu viện Kinh Đô, đi ngay trong đêm. Khi đến đồi Mục Linh đường đi rậm rạp lại có gió lớn, nghe như có quân mai phục, quả đúng như vậy hai bên cây cối rậm rạp quân Ân mai phục, tên bắn ra như mưa, Lạc Hồng Hầu thất kinh vì sa vào ổ phục kích của giặc, lại sợ bị hỏa công bằng cho lui quân trở lại.

Bỗng thấy đuốc lửa sáng ngời, quân reo dậy đất, một tướng đi đầu mình cao sáu thước mặt đen hung dữ râu ria lồm xồm, viên tướng ấy là ai? Còn ai nữa Hắc Quỉ một tướng tài của quân Ân.

Hắc Quỉ quát:

Ta đợi ngươi ở đây đã lâu, mau cúi đầu chịu trói.

Lạc Hồng Hầu quát lên như sấm nổ:

Xông lên tử chiến với quân cướp nước, thế là quân Văn Lang ào ào xông tới xáp chiến gươm, đao dậy trời.

Trong phút chết, còn chi để mất

Chí hùng anh trong phút chốc cũng vui

Nào xông lên nầy hỡi anh em

Đường quyết tử, ta xông lên quyết tử

Kiếm đã gào thời quân thù phải ngả

Nào tiến lên, nào quyết tử xông lên.

Trước khí thế đầy hào hùng của quân Văn Lang, khó mà hạ gục nhanh chóng cho được, hai bên đánh nhau tới sáng, quân Ân tuy chủ động nhưng cũng không tiêu diệt hết nổi quân Văn Lang. Lạc Hồng Hầu dẫn tàn quân lui về Xích Linh Châu, hai vạn quân đã chết hơn phân nửa.

Lạc Hồng Hầu mình mẩy đầy thương tích nói với Lạc Hầu Vương rằng:

Tình hình vô cùng nguy cập quân Ân, phục kích khắp mọi nơi, chúng phục kích khắp các ngả đường chính yếu tiếp viện, khó mà cứu viện cho được.

Lạc Hầu Vương cũng hiểu rõ tình hình vô cùng nghiêm trọng nói:

Con giữ được mạng sống là may rồi.

Lạc Hầu Vương, lúc nào cũng lo lắng không yên chỉ biết nhìn Bắc Văn Lang mất lần về tay giặc, nhất là từ khi Lạc Hồng Hầu thất trận.

Trong lúc bàn bạc cùng các Quan, thời có quân vào báo:

Giặc Hung Nô đã chiếm lấy Quý Linh Giao Châu, khói lửa ngập trời, chúng như những con quỉ dữ đi đến đâu thời chết chóc nhà tan cửa nát đến đó, đàn bà con gái bị chúng hảm hiếp cho đến chết, gà chó cũng không còn, vơ vét vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu, nói chung là không chừa một thứ gì, kể cả lương thực. Quân binh các Quận Huyện, không có sự liên kết, như những đốm lửa nhỏ, nên bị quân Hung Nô dập tắt, quét sạch một cách dễ dàng, tất cả đều thiệt mạng.

Lạc Hầu Vương than:

Mất đi văn hóa Cội Nguồn là mất đi tất cả, tinh thần dân tộc bị suy sụp, dân chúng bị văn hóa phương Bắc làm hại, đầu độc, làm tan rã sự đoàn kết, chia năm xẻ bảy, tranh giành quyền lực thời tránh sao khỏi ngoại xâm thôn tính. Hơn nữa sự giàu có, đất đai trù phú của Bắc Văn Lang luôn luôn khơi dậy lòng tham lam thèm khác của những tên bạo chúa, nhất là những tên tham vọng lớn hung sùng ác sát phương Bắc, chúng dùng hết mưu kế nầy đến mưu kế khác, miễn sao chiếm lấy được Bắc Văn Lang. Sự lơ là mất cảnh giác đã dẫn đến hậu quả sa vào kế sách của chúng, như cá nằm trong lưới, khó mà thoát khỏi kiếp nạn, mong gì bình ổn lại cho được. Quân Ân, quân Hung Nô, quân Hồ vốn quá mạnh lại có yêu tinh phò trì, không dễ đánh bại được chúng. Chỉ còn chút hy vọng là nhờ quân chủ lực Văn Lang đến giải cứu, đẩy lui quân giặc. Nhưng nào có thấy gì đâu?

Lạc Hầu Vương chỉ biết thở dài, chỉ còn biết tới đâu hay tới đó. Đang lúc buồn rầu, thời có quân vào báo:

Bẩm Hầu Vương, quân Hung Nô đang ồ ạt tiến về Xích Linh Giao Châu, tiến đánh chúng ta.

Nghe quân báo tình thế mỗi lúc một nguy cơ dồn dập, Lạc Hầu Vương, cùng các quan lên thành xem nhìn về hướng Bắc thấy khói bụi mịt mù, quân Hung Nô chia nhau thành nhiều mũi tiến về Xích Linh với thần tốc kinh người.

Đây nói về quân Hung Nô như nhiều cơn lốc kéo đến bao vây Xích Linh Giao Châu, chúng không tấn công ngay mà chỉ đóng trại bao vây mà thôi.

Hung Nô Vương tập hợp các tướng lãnh lại nói rằng:

Chúng ta chưa thể tấn công chiếm lấy Xích Linh Châu được đâu, vì Xích Linh Châu không phải như những Châu phiến loạn, mà là những quan quân đầy lòng trung hiếu quyết bảo vệ Văn Lang. Chúng ta sở dĩ chiếm lấy các Châu Thành cũng như hàng loạt Quận, Huyện, tiêu diệt hơn mười Vua Việt là những vị Vua nổi lên đòi tự trị, phản loạn, phản bội lại nhà nước Văn Lang, đánh mất có lòng trung thành đối với Tổ Quốc, tự mình đánh mất sự đoàn kết dân tộc, tôn thờ văn hóa phương Bắc, nên chúng ta mới tiêu diệt chúng dễ dàng như vậy. Còn đây là Xích Linh Châu, những Châu chưa nổi lên đòi tự trị, xưng Vua, xưng Chúa, thời khó mà tiêu diệt nhanh chóng cho được, phải có nhiều kế sách hay mới tiêu diệt được chúng, vì thế càng tiến sâu vào đất Văn Lang chúng ta gặp nhiều khó khăn.

Các Tướng lĩnh Hung Nô tuy nghe Hung Nô Vương nói thế, nhưng trong lòng thời xem thường quân Văn Lang.

Nói về Lạc Hầu Vương cùng các Quan Tướng thấy quân Hung Nô cờ xí rợp trời từ các mũi lao tới bao vây cung thành đông như kiến, chúng không tấn công liền mà chỉ đóng trại bao vây xung quanh cung thành, một ngày rồi đến hai ngày, nỗi lo lắng Lạc Hầu Vương đã hiện rõ trên sắc mặt, gầy đi thấy rõ, chưa tìm ra kế sách gì để chống trả lại quân giặc chỉ biết ra quân cố thủ cung thành được ngày nào hay ngày nấy.

Thấy các Quan cứ im lặng mãi, Lạc Kim Tiên nói:

Theo lời xưa có kể lại rằng, Quốc Tổ Vua Hùng là đấng Chí Tôn Thiên Đế đầu thai, con lớn của Đức Cha Trời, yêu tinh quỉ dữ nhìn thấy uy danh của người đều khiếp sợ, Xích Linh Châu ta có thờ chân dung của người, sao không cho người họa hình ra cũng như viết uy danh của người lên cờ đem cắm lên những chỗ yếu điểm trong cung thành, thời may ra chống đỡ được yêu tinh quỉ dữ.

Đến lúc nầy đâu còn cách nào hơn, là làm theo lời của Lạc Kim Tiên. Lạc Hầu Vương, cho người họa hình Quốc Tổ, cũng như viết lên uy danh Quốc Tổ trên những lá cờ chính, cắm lên những nơi chính yếu quan trọng của cung thành.

Nói về quân Hung Nô đến ngày thứ ba, thời các doanh trại đều chuyển động như có cuộc xáp chiến xảy ra, chúng duyệt binh liên tục, khí thế hừng hực, những đoàn quân thiết kỵ của chúng chuyển động thần tốc như đội quân ma quỉ, thấy mà rùng mình. Biết có biến cố sắp xảy ra, các quan tướng trong thành tập trung cao độ, cho tinh thần quyết tử, vì non sông Tổ Quốc mà hy sinh.

Mặt Trời xuống núi không lâu, thành Xích Linh chìm trong màng đêm u tối, trên bầu trời các vì sao lấp lánh lúc mờ lúc tỏ, bởi những đám mây che khuất, nhưng cũng thấy được giặc Ân, giặc Hung Nô dẫm đạp lên quê hương mang theo mùi máu tanh của lũ ác quỉ.

Chúa Vương Hung Nô đang đọc Thần chú triệu yêu, ma quỉ dữ đến, rồi ra lịnh cho quỉ dữ yêu ma, bay vào thành đánh phá quân Văn Lang, làm cho quân Văn Lang khiếp đảm rối loạn, nhất là những quan binh trấn giữ cổng thành, lũ yêu tinh, ma, quỉ tuân lịnh rồi tức tốc bay vào thành Xích Linh, chúng làm phép trời đất tối tăm mù mịt, cuồng phong nổi dậy ù ù cờ xí gãy sạch chỉ còn một số không hề hấn gì. Vương Quan binh lính kinh hồn bạt vía, bóng ma bóng quỉ chập chờn khắp nơi, quân binh rối loạn.

Lạc Hầu Vương, cùng các quan kinh khiếp thét lớn:

Yêu tinh ma quỉ đã tấn công thành chúng ta, bình tỉnh chống trả lại chúng.

Trong lúc nguy cơ hỗn loạn ấy, từ những cây cờ đề bốn chữ Chí Tôn Thượng Đế cũng như những cây cờ có treo hình Quốc Tổ đồng loạt phát ra tia sáng, làm cho yêu tinh, quỉ ma, tan biến hết thảy. Bỗng bầu trời trở nên trong sáng, muôn vạn vì sao nhấp nháy, như che chở cho thành Xích Linh.

Chúa Vương Hung Nô lấy làm kinh dị nói:

Chuyện gì xảy ra thế! Chuyện gì xảy ra thế!

Đang lúc hoang mang, thời thấy một con quỉ xuất hiện, run sợ nói:

Có Thượng Đế che chở, có Thượng Đế che chở.

Nói xong biến mất. Hung Nô Vương tuyền lệnh không tấn công nữa, trời sáng tỏ, Hung Nô Vương cùng các tướng lĩnh, nhìn lên thành thấy có một số cờ đề bốn chữ Chí Tôn Thượng Đế, cũng như có một số cờ treo hình một người.

Các Tướng lĩnh Hung Nô nói:

Ai mà có quyền lực đến thế?

Hung Nô Vương nói:

Còn ai nữa đó là người khai lập dựng lên nước Văn Lang.

Các Tướng lĩnh nói:

Người chết đã hơn hai nghìn năm mà còn oai linh như thế sao?

Hung Nô Vương nói:

Ta cũng không tin, nhưng yêu tinh quỉ dữ khiếp sợ như vậy không tin cũng không được.

Một số Tướng lĩnh Hung Nô nói:

Chỉ là hình vẽ, với mấy chữ kia thời làm gì được chúng ta.

Chúa Hung Nô như tỉnh ngộ nói:

Các Tướng nói đúng chỉ vài chục hình vẽ, với mấy chữ kia thời làm gì được chúng ta.

Hung Nô Vương ra lệnh:

Bắt tất cả tù binh làm thang dây, gôm hết tất cả dầu trong dân, cũng như dầu trong các Châu Thành lấy được, những dụng cụ công phá thành chiếm được khắp nơi chuyển hết tới đây, lấy vũ khí của địch giết địch.

Lạc Hầu Vương cùng các Quan trên thành thấy quân Hung Nô đang ra sức tạo ra khí cụ công thành thời kinh hãi, quân Hung Nô vốn đã đông, lại biết sử dụng tù binh làm ra khí cụ công thành, thời biết ngày tận cùng thành Xích Linh đã đến.

Cây mất Gốc rũ cành héo ngọn

Người mất Nguồn đại họa hung tin

Nhà tan nước mất tang thương

Thân tàn nô lệ còn chi cuộc đời



PHẦN 6: KIẾP NẠN

Nói về bách tộc Văn Lang có một số bộ lạc Bách Việt, hấp thụ theo văn hóa phương Bắc, nổi lên đòi tự trị xưng Vua, xưng Chúa, không khác gì ở phương Bắc, chỉ cần vài trăm nóc nhà thời xưng Vua, xưng Chúa tự trị một vùng.

Đây chính là cơ hội cho phương Bắc chiếm lấy Bắc Văn Lang, một cách dễ dàng.

Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, tràn qua chiếm lấy Huyện Tây Bắc, Huyện Tây Trung, Huyện Hạ Tây, rồi chia nhau làm ba mũi đánh chiếm Bắc Văn Lang.

Quân Hồ đánh phía Tây Bắc Văn Lang, quân Hung Nô tiến dọc theo biên giới Bắc Văn Lang thọc sâu xuống Đông Bắc Văn Lang, rồi tiếng sâu vào đất Văn Lang. Quân Ân tiến theo trung lộ đánh thẳng vào Kinh Đô Bắc Văn Lang, tức là Nam Kinh Xích Quỷ.

Quân Hồ khi tiến qua Huyện Tây Trung tiến đánh Phủ Tây Châu, giết chết Vua Tây Việt chiếm lấy Hồ Châu, giết chết Vua Man Việt, chiếm lấy Âu Sơn Châu, giết chết Vua Sơn Việt, những bộ lạc hùng mạnh Tây Bắc nổi lên đòi tự trị xưng Vua, làm sao chống lại quân Hồ đành phải thiệt mạng, chết thê chết thảm.

Về sau có thơ rằng:

Cái dại nào hơn cái dại nầy

Chia bè rẽ phái lợi gì đây?

Cấu xé giành nhau tranh quyền bá

Ngoại xâm kéo đến nát tan thây.

Quân Hồ tràn qua Tây Bắc Văn Lang, tàn sát chết chóc tan thương, gào thét làm mưa làm gió, những người yêu nước căm giận vô cùng, đau buồn khôn tả, nhìn cảnh giặc cướp phá, giết chóc, hảm hiếp phụ nữ, tàn hại trẻ con, những người còn sống, chúng bắt làm nô lệ, đánh đập dã man, trước thảm cảnh nước mất nhà tan, đau đớn vô cùng.

Quân phiến loạn ra sức chống cự quân Hồ, nhưng khác nào bầy dê xông vào bầy cọp, làm cho cọp béo mập thêm. Quân Hồ tiến sâu vào Tây Bắc Văn Lang như đi vào chỗ không người, chiếm hết Châu Phủ nầy đến Châu Phủ khác, quân phiến loạn nổi lên đòi tự trị, quỳ mạp sát đất dưới chân quân Hồ.

Sau có thơ rằng:

Con cháu Tiên Rồng đó phải chăng

Hay là lũ chuột, chỉ tranh ăn

Chia năm xẻ bảy quên truyền thống

Hậu quả là đây, giặc nuốt ăn.

Nói đến chiến tranh xâm lược phương Bắc, không chỉ xâm lược bằng binh hùng tướng mạnh, mà còn xâm lược bằng con đường hợp tác ngoại giao, toàn diện, xâm lược bằng con đường văn hóa, làm cho dân tộc Văn Lang mê muội quên đi Nguồn Cội, quên đi truyền thống Anh Linh của cha ông, mắt vào kế sách mưu gian của chúng, đến khi phát hiện thời không còn kịp nữa để mà chống trả.

Về sau có thơ rằng:

Nhân tình thế thái vốn xưa nay

Lầm mưu gian kế, giặc mưu bày

Đến khi hiểu rõ thời đã muộn

Nước mất nhà tan cảnh trắng tay.

Nói về quân Hồ càng lúc càng tàn ác chúng lấy sạch, giết sạch, đốt sạch, chúng như đàn quỉ dữ ăn thịt người, uống máu người, trước tình cảnh nầy ai mà không căm hờn, đau lòng, xót dạ.

Về sau có thơ rằng:

Một lũ yêu tinh quá bạo tàn

Giết người, hút máu, chúng ăn gan

Con gái, đàn bà, ôi thê thảm

Chúng vùi, chúng dập nát nát tan.

Đây nói về Kiến Giao Châu, có vị quan Trung Chính, Châu Phủ. Châu An ngày đêm đốc thúc binh lính cũng cố trấn giữ châu thành.

Đang lúc hợp bàn cùng các Quan các Tướng, thời có quân vào báo:

Bẩm Thượng Quan quân Hồ đang kéo đến bao vây Châu Thành.

Châu An cùng các Quan lên thành thấy hướng Tây Bắc khói bụi mịt mù, chúng chia ra làm nhiều mũi lao tới bao vây thành Kiến Giao, vó ngựa vang rền uy hiếp tinh thần đối thủ, chúng như những đàn kiến mỗi đàn dài hơn mười dặm, uốn lượn, ngoằn ngoèo lúc thời bung ra lúc thời nhỏ lại ai nhìn thấy cũng phải khiếp kinh.

Châu An có người con gái là Châu Tiên có học được pháp thuật, nên Châu An đặc hết niềm tin vào người con gái nầy, may ra chống trả lại quân thù xâm lược.

Châu Tiên nói với cha:

Khi con còn học Đạo với thầy con nếu gặp lúc vô cùng nguy cấp, thời lập đài tế lễ khấn vái Quốc Tổ, thời có thể tai qua nạn khỏi.

Nghe lời con Châu An cho lập đài tế lễ sẵn, khi cần thời lên đài tế lễ ngay. Cùng lúc ấy quân Hồ kéo đến bao vây thành Kiến Châu một lúc một đông, chúng không tấn công liền mà chỉ đóng trại bao vây.

Qua ba ngày sau từ doanh trại lớn của quân Hồ, xuất hiện một tướng lĩnh dẫn theo chừng năm trăm quân tiến đến cổng thành Kiến Châu, mở giọng hách dịch lớn lối nói rằng:

Nầy Quan Hữu Chánh, Châu An mở cửa thành đầu hàng đi thời ta tha cho con đường sống, bằng không con gà con chó cũng không còn, không bao lâu nữa nước Văn Lang sẽ biến mất, ngươi không thấy sao, Bắc Văn Lang mất rồi chỉ còn thành Kiến Châu nhỏ bé, ta chỉ cần ra tay thành Kiến Châu sẽ trở thành bình địa. Đến giờ nầy mà con cháu Tiên Rồng gì nữa, con giun thì có, mau mở cửa thành đầu hàng đi.

Châu An cùng các Tướng tức giận đến muốn vỡ lồng ngực, nhất là Châu Tiên. Châu Tiên nói:

Cha cho con ra trận giết quách thằng khốn nạn kia cho hả cơn tức giận, làm cho quân Hồ khiếp vía mà rút lui.

Châu An biết con gái mình võ nghệ cao cường, pháp thuật cao siêu, nhưng đối thủ là Tướng nam khó mà đối địch. Châu Tiên biết ý cha liền nói:

Cha yên tâm con biết tự lượng sức mình.

Châu An cực chẳng đã mới để Châu Tiên ra trận, cổng thành vừa mở một nữ Tướng mắt Phụng, mày ngài, mặt hoa, da phấn, lưng ong, ngực nở, không cần mặc áo giáp gì cả, xinh đẹp mảnh mai, như Tiên giáng trần, tướng giặc vừa thấy như bị hút hồn, bởi sắc đẹp chim sa cá lặn.

Châu Tiên, thấy Tướng giặc ngơ ngác như bị hút hồn, thời quát lớn:

Quân cướp nước kia đã gặp ta thời hết con đường sống, mau xuống ngựa chịu trói.

Nghe tiếng quát Tướng giặc liền tỉnh hồn. Với con mắt thèm khát, nhìn Châu Tiên chầm chầm như muốn ăn tươi nuốt sống.

Tướng giặc thốt lên:

Đẹp quá, đẹp quá ta chưa từng thấy bao giờ, bắt sống về làm đồ chơi.

Nói xong tướng giặc thúc ngựa lao tới chém một đao, nhanh như tia chớp, chụp bắt Châu Tiên, không ngờ Châu Tiên biến mất, một tia chớp nổi lên. Tướng giặc kinh hoàng nhưng không còn kịp nữa, bị Châu Tiên chém rụng mất cánh tay, khiếp đảm quay ngựa bỏ chạy.

Châu Tiên quát:

Chạy đâu cho thoát, tức thời Tiên Kiếm phóng theo một tiếng rú thê thảm Tướng giặc bỏ mạng.

Kết cuộc xâm lăng mạng đi đời

Bỏ mạng sa trường thảm ghê nơi

Tham tàn bạo ác đời là thế

Trận địa vùi chôn xác thân phơi.

Quân Văn Lang thắng thế ào ào xông lên đánh quân Hồ tơi tả, sợ con sa vào bẫy giặc bằng cho người đánh trống thu quân.

Nói về Hồ Nghi Vương, đứng trên vọng đài thấy con là Hồ Bá Thi chết thê thảm, tức quá hét lên:

Mau bắt tên yêu nữ kia cho ta.

Hồ Mị Hoa nói:

Để con.

Bằng phi thân xuống đài cỡi con Thần mã Bạch Long Câu, phi nhanh ra trận địa, Châu Tiên định tới chặt đầu Tướng giặc, thời nghe tiếng trống thâu quân, liền quay đầu ngựa trở lại.

Bỗng nghe trên không có tiếng quát:

Nạp mạng đi.

Tức thời một luồng kình phong ập xuống, nhanh như chớp Châu Tiên thúc ngựa né tránh, ầm ầm hai luồng chưởng đánh xuống không trúng Châu Tiên tạo hai cái hố. Châu Tiên thấy người đánh mình là một nữ Tướng xinh đẹp, tuổi xấp xỉ nhau không hơn không kém.

Châu Tiên quát:

Ngươi là ai? Sao đánh lén ta.

Tướng nữ xuất hiện quát:

Ta sợ gì ngươi mà đánh lén.

Châu Tiên quát:

Quân xâm lược kia tên họ là chi, mau rút quân về Bắc thời ta tha cho tội chết.

Hồ Mị Hoa nói:

Ngươi không xứng đáng hỏi tên ta.

Nói xong cô ta thúc ngựa lao tới thanh kiếm trên tay như Rồng bay Phụng múa, chém tới nhanh như tia chớp. Châu Tiên nào chịu thua kém, đôi kiếm trên tay như mưa sa bão táp, dồn dập tấn công liên miên, cánh Phụng tung bay phất phới, quần nhau càng lúc càng nhanh, kiếm qua kiếm lại rền vang trận địa.

Đúng là:

Một bên bão táp mưa sa

Một bên giông tố cuồng phong ầm ầm

Đánh nhau cát bụi mịt mù

Đánh nhau núi lở nghiêng đồi khiếp kinh

Châu Tiên hóa phép liên miên

Sấm rền trời đất, gươm Thiên khắp đầy

Mị Hoa càng đánh càng hay

Vung tay trời đất tối thui mịt mùng

Yêu tinh xuất hiện trùng trùng

Thét gào nhức óc đùng đùng tấn công

Châu Tiên biết đánh không xong

Hóa ra một trận cuồng phong chạy dài

Thâu quân trở lại cung thành

Ngày đêm cố thủ chờ thời chuyển xây.

Nói về Châu Tiên thấy yêu nữ quân giặc vô cùng lợi hại, khó mà đánh thắng được, bằng lui quân vào thành cố thủ, quân giặc đến khiêu chiến không ra nữa. Châu An cùng các Tướng lĩnh thấy quân Hồ như có điều chi khác lạ hình như là chuẩn bị cho sự tấn công quy mô.

Tướng lĩnh Cao Khang nói:

Tối nay nhất định quân Hồ tấn công Châu Thành ta.

Châu Tiên cũng nghĩ như thế nói với Châu An:

Cha hãy cho quân binh chủ động biết trước tối nay tử chiến với chúng.

Quả đúng không sai bên vọng đài quân Hồ, đang tế lễ Hồ Nghi Vương làm phép triệu tập yêu tinh, quỉ dữ, hàng trăm hàng nghìn, tối nay bay lên thành gây rối loạn quân binh, thời tức tốc đồng loạt tấn công chiếm lấy Châu Thành, vì đã chuẩn bị trước.

Châu Tiên ngửi có mùi yêu khí liền nói với cha:

Hãy mau lên đài tế lễ cầu nguyện Anh Linh Đức Quốc Tổ, không còn chần chờ gì nữa.

Bỗng thấy trời đất tối mù tối mịt, cuồng phong nổi dậy ầm ầm, quân binh đốt lửa không được, cờ xí gãy đổ, lại nghe rào rào dưới chân thành, quan binh la hoảng quân Hồ leo tường tấn công, đốt lửa lên không được vì cuồng phong quá lớn, tiếng binh khí đã bắt đầu chạm nhau.

Châu An bình tỉnh cầu nguyện Anh Linh Quốc Tổ, chiến trận đã nổ dòn, bỗng trên hư không sấm sét nổi lên đánh xuống ầm ầm mây tan, gió tạnh, yêu tinh quỉ dữ, tan biến không còn. Quan quân đốt lửa sáng rực trời, thấy quân Hồ leo tường lớp lớp bằng ném đá, bắn tên, đổ dầu, phá hỏng các thang dây, quân Văn Lang chiến đấu anh dũng lợi thế có cung thành, một người có thể hạ gục năm mười tên, quân hồ chết thôi là chết, đánh tới sáng quân Hồ thiệt hại vô kể, quân Văn Lang thắng trận vẻ vang.

Từ đó quân Hồ biết khó nuốt thành Kiến Châu, chỉ còn cách là bao vây, cho quân binh trong thành kiệt huệ lương thực rồi mới ra tay, chúng tản ra vơ vét của cải dân chúng, cắt đứt các ngã đường cứu viện tiếp viện.

Cha ông trở lại cõi trần

Cứu con cứu cháu thoát vòng tai ương

Miễn sao con cháu đừng quên

Cội Nguồn nhớ mãi hiển Linh đời đời.

Đây nói về trên tần trời thứ hai, Đông Nam Thiên Cung, có vị Thiên Đế Ngọc Long, đã từng đầu thai xuống trần mở ra thời đại Kinh Dương Vương, lập lên nước Xích Quỷ, Giao Chỉ.

Câu chuyện như sau: Tiểu kiếp thứ 8 kết thúc, những người còn sống sót, trở thành thỉ tổ Hồng Hoang, đầu tiểu kiếp thứ 9, kiếp tăng, tuổi thọ thỉ tổ Hồng Hoang rất ngắn, trung bình chỉ 10 tuổi, thọ 20 tuổi, đại thọ 30 tuổi, yểu 1 tuổi. Cứ 100 năm tăng lên 1 tuổi, và tăng mãi cho đến khi tuổi thọ trung bình là 8 muôn 4 nghìn tuổi. Trải qua 8 triệu 4 trăm nghìn năm, tức là hết kiếp tăng đầu kiếp giảm, chuyển sang giai đoạn Hồng Bàng, và cứ 100 năm giảm xuống 1 tuổi, và giảm mãi xuống nhân loại con người tuổi thọ trung bình chỉ còn 30 nghìn tuổi, thời chuyển sang giai đoạn Hồng Chúa. Nhân loại con người tuổi thọ tiếp tục giảm xuống chỉ còn 10 nghìn tuổi, thời chuyển sang giai đoạn Hồng Đế, và giảm xuống tuổi thọ nhân loại trung bình chỉ còn 1 nghìn tuổi, thời đi vào giai đoạn cuối thời Hồng Đế, (giai đoạn Hồng Chúa, Hồng Đế, đều nằm trong niên đại Hồng Bàng). Giai đoạn cuối thời Hồng Đế kéo dài hàng chục nghìn năm. Đến thời Hồng Đế cuối cùng hạ sanh quí tử, khôi ngô tuấn tú, lớn lên thông minh, tài trí khác phàm, tên là Hồng Viêm, vì lúc Hồng Nương sắp sanh quý tử, liền thấy Thiên Thần đến lễ bái nói, Viêm Đế Thần Nông đầu thai xuống trần, mở ra thời đại mới, các Thiên Thần nói xong rồi biến mất. Hồng Nương sanh ra quý tử, Hồng Chúa liền đặt tên cho con là Hồng Viêm. Hồng Viêm càng lớn càng thông minh kỳ lạ, trở thành Nhà Bác Học nông nghiệp, đầu tiên của niên đại Hồng Bàng, có công tom góp những giống lúa hoang dại (hay còn gọi là cỏ Trời) mọc theo đầm lầy, giống ngô khoai hoang dại mọc nơi đồi rừng. Lai tạo ra nhiều giống lúa thuần chủng, giống ngô khoai thuần chủng, cho năng xuất cao. Mở ra thời đại mới, thời đại văn minh của nền lúa nước, nông nghiệp ngô khoai. Đem lại sự no cơm ấm áo cho con người. Khi lên ngôi thay cha Hồng Viêm đổi niên hiệu, từ niên hiệu Hồng Đế, chuyển sang niên hiệu VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG, Quốc Tổ VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG Truyền xuống được 5 đời, tới đời thứ năm Viêm Đế Thần Nông. Đế Nương, một hôm ngủ say trong giấc chiêm bao, thấy một con Rồng to lớn, bay tới gần bà rồi biến mất, sau đó thời mang thai. Đến ngày khai hoa nở nhị, thời trên bầu trời mây đen cuồn cuộn, hiện ra mây Rồng rồi mưa xuống một trận lớn, làm cho lúa ngô, khoai sắn, tươi tốt. Nên Viêm Đế Thần Nông đời thứ năm, đặt tên cho con là Đế Tôn Long Đế, Đế Tôn Long Đế, càng lớn càng khôi ngô tuấn tú, dũng mãnh phi thường, có sức mạnh dời non lấp biển, khai phá đất đai rộng mở, đem lại sự phồn thịnh no cơm ấm áo cho người dân, dân chúng sùng kính vô cùng, lực lãm không ai bằng, nên dân chúng thường gọi Đế Tôn Long Đế là Đức Sùng Lãm. Đế Tôn Long Đế, Đức Sùng Lãm, lên ngôi thay cha trị vì thiên hạ, liền đổi niên hiệu. Từ niên hiệu Viêm Đế Thần Nông, chuyển sang niên hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG, Quốc Tổ KINH DƯƠNG VƯƠNG, truyền xuống được chín đời. Đến đời Kinh Dương Vương, đời thứ 9. Sau một chuyến tuần du nơi động Đình Hồ Kinh Dương Vương gặp Thần Long Nữ, Bộ Lạc Long Giao. Kết duyên phu phụ, thành vợ thành chồng. Một hôm Thần Long Nữ trong lúc mơ màng thấy chốn nhân gian mây đen cuồn cuộn yêu tinh quỷ dữ đầy trời, nhân loại lầm than khốn đốn, mất đi quyền sống, quyền tự do, quyền công bằng, quyền bình đẳng, ngục tù cùng khắp, cực hình thê thảm vô cùng. Đang trong lúc kinh hoàng sợ hãi, thời thấy một vị Chí Tôn Thiên Đế xuất hiện, tay cầm Thiên Ấn, tay cầm Thiên Bút, Thiên Bút biến mất, Thiên Ấn hóa thành Gươm Thiên Trí Huệ, phát ra ba đạo hào quang. Mỗi lần Gươm Thiên Trí Huệ vung lên, tức thời hàng loạt tiếng sấm nổi lên, vô số mặt trời hiện ra, yêu, tinh, quỉ dữ liền tan biến hết, bóng đêm chẳng còn, trời quang mây tạnh, muôn hoa đua nở, mùa xuân phơi phới, thái bình an lạc. Thần Long Nữ đem việc thấy kỳ lạ đó kể cho Kinh Dương Vương nghe, từ đó Thần Long Nữ mang thai. Đến ngày khai hoa nở nhị, thời hoa lan khắp nơi đều nở rộ, hương thơm khắp cả nước non, cộng thêm với điềm chiêm bao của Thần Long Nữ, một đấng anh hùng cái thế, nên đặt tên cho con là Hùng Lan. Hùng Lan, lớn lên không những khôi ngô tuấn tú, mà Đạo Đức, trí huệ, có một không hai, có bốn Đức tính nổi bật mà ai cũng thấy, bốn Đức tính đó là Hùng – Bi – Trí – Đức, với bốn Đức tính nầy, tuy còn nhỏ nhưng đã vang danh thiên hạ. Khi Hùng Lan, lên ngôi trị vì thiên hạ thay cha, liền chuyển niên hiệu. Từ niên hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG. Chuyển sang niên hiệu HÙNG VƯƠNG, Niên đại HỒNG BÀNG, chuyển sang niên đại ÂU LẠC, đổi tên nước từ nước XÍCH QUỶ, thành nước VĂN LANG. Mở màng văn hóa Cội Nguồn ra đời, trở thành nền Quốc Đạo đầu tiên của nhân loại. Giai đoạn ĐỒNG BÀO, đoàn kết thống nhất, một 100 bộ lạc đều lấy chung một chữ VIỆT, gọi là Bách Việt, dân tộc Siêu Việt Anh Linh, nòi giống Rồng Tiên ra đời, nòi giống con Trời, thừa kế cơ nghiệp tạo hóa cha ông. Sau cuộc giao tranh với quân ÂU LẠC Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh, thua trận rút lui về phương Bắc bên kia sông Trường Giang, con gái của Đế Lai, là Đế Cơ Công Chúa, sắc nước hương trời, lại thêm pháp thuật thần thông cao cường, chăn tằm dệt vải đều thông giỏi, tài Đức, công – dung – ngôn – hạnh, có một không hai chốn nhân gian. Đế Cơ Công Chúa, phi ngựa qua sông Trường Giang thả mình vân du, lạc đến động Lăng Xương, xem hoa dạo cảnh. Tạo hóa xe duyên, gặp lúc Vua Hùng cũng đang vân du chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ, tạo hóa an bày hai người gặp nhau, rồi yêu nhau kết thành phu phụ, nên duyên chồng vợ. Về chung sống ở Phong Châu Nghĩa Lĩnh, Kinh Đô Văn Lang. Từ đó Nam Bắc sông Trường Giang, hai phương giao hòa Âu ca thịnh trị. Quốc Tổ Hùng Vương, cùng Quốc Mẫu ăn ở ít lâu, sanh con đẻ cái, lập trưởng nam kế tục ngôi Vương, truyền xuống được 23 đời, gọi đó là thượng Hùng Vương. Hùng Vương đời thứ 23 không con, nên nhường ngôi cho con của em, là cháu dòng thứ Hùng Cừ, truyền xuống được 18 đời, gọi đó là hạ Hùng Vương. Vua Hùng Vương thứ 18 có con trai nhưng chết yểu lúc còn nhỏ, thành ra không có con trai kế vị. Nên nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn, (tức là Tản Viên). Thục Phán là cháu thứ của Vua Hùng, làm Lạc Tướng ở Bộ Tây Vu Ai Lao, đem quân về tranh ngôi, Vua Hùng sợ máu thịt anh em tương tàn, nên đành nhường ngôi lại cho Thục Phán. Tản Viên, là Chúa của núi rừng, dẫn theo Mị Nương công chúa Ngọc Hoa, về núi sanh sống. Khi Thục Phán lên ngôi Vương, thời niên đại Hùng Vương, kéo dài 2701 năm kết thúc. Thục Phán lên ngôi Vương, chuyển đổi niên hiệu Hùng Vương, thành niên hiệu An Dương Vương. Chuyển đổi tên nước Văn Lang, thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Trị vì thiên hạ trên dưới 50 năm kết thúc thời Âu Lạc 258 trước công nguyên. Kể từ đây con cháu Tiên Rồng, như đi trong đêm, dẫn đến nô lệ phương Bắc, nước Văn Lang chỉ còn có một phần, Nam Văn Lang, còn Trung Văn Lang Bắc Văn Lang, thời đã thuộc về phương Bắc, chỉ còn Nam Văn Lang mà sống cũng không yên, bị phương Bắc đô hộ xâm lược hết thời nầy sang thời khác, hầu nuốt trọn nước Văn Lang, nhưng nuốt mãi không được, vì Nam Văn Lang là đất Địa Linh, Địa Long Vũ Trụ, và kỳ tích xảy ra trên mảnh đất Địa Linh nầy.

Đây nói về trên tầng Trời thứ hai, Đông Nam Thiên Cung, có vị Thiên Đế Ngọc Long, đã từng đầu thai xuống trần, mở ra thời đại Kinh Dương Vương, khai lập lên nước Xích Quỷ. Giao Chỉ, QUỐC TỔ KINH DƯƠNG VƯƠNG. Quốc Tổ Kinh Dương Vương quy Tiên bỏ lại xác phàm về Trời ở Đông Nam Thiên Cung. Vì thương con dân nơi chốn trần gian, nên Quốc Tổ thường hiện về, dân chúng thường thấy trên bầu trời mây đen hình Rồng xuất hiện, thời những trận mưa trái mùa đổ xuống làm cho cây cối xanh tốt, ruộng nương trúng mùa. Những năm mây đen hình Rồng xuất hiện, là dân chúng no cơm ấm áo, chuyện kỳ lạ nầy thường xảy ra trên đất nước Văn Lang. Ở thời hạ Hùng Vương đời thứ 5, Hùng Hy Vương (Viên Lang) dân chúng thấy hồn Quốc Tổ Kinh Dương Vương hiện về, xuất hiện mây ông khổng lồ, dấu chân ông bước tới đâu là in đến đó. Đám mây hiện hình người khổng lồ to lớn đó, thường xuất hiện nhiều nhất trên đất Đổng, nên dân chúng gọi là ông Đổng, hồn Tổ Tiên hiện về. Có lần dân chúng thấy hồn Quốc Tổ Kinh Dương Vương, Long Đế Sùng Lãm, hiện về, hiện thành đám mây ông Đổng cao lớn vô cùng, đầu đội trời, chân đạp đất, cao hơn mười ngọn núi, chỉ trong một đêm mưa to gió lớn, ông cào đất thành ruộng, ông vun đất thành đồi, xẻ đất thành sông, bước chân ông dài từ đỉnh núi nầy sang đỉnh núi khác, dấu chân ông thủng cả đá, thủng cả đất, tiếng nói ông chính là sấm, mắt ông chớp lòa, phóng ra tia lửa, sét, hơi thở ông phun ra mây đen, gió bão và mưa dông. Linh Hồn Quốc Tổ, Long Đế Sùng Lãm thường xuất hiện trong những mùa hè nắng hạn, dân chúng cần nước, tưới cho ngô, khoai, lúa, đậu, ông đi lúc xoáy tròn, lúc đi thẳng, đi hết nơi nầy đến nơi khác, từ Đông sang Tây. Ngày nay vẫn còn thấy dấu chân Long Đế Sùng Lãm, còn in lại khắp nơi.

Nói về Long Đế Sùng Lãm, Quốc Tổ đang ngự tại cung Đông Nam Thiên ở trên Trời. Bỗng có một trận gió lạ, thời biết là Thiên Ý Cha Trời chỉ giáo điều gì, liền co tay bấm ấn, mở con mắt Thiên Nhãn nhìn xuống chốn nhân gian, thời thấy rõ nước Văn Lang đang lâm nạn, nguy cơ đến nơi. Khí số Văn Lang vẫn còn chưa mất, vẫn còn kéo dài hơn mấy trăm năm nữa. Liền triệu tập Thiên Tướng, nói rõ nguy cơ nước Văn Lang.

Long Đế nói:

Khí số Văn Lang còn dài hơn mấy trăm năm nữa, chúng ta hãy đầu thai xuống chốn trần gian, đánh lũ giặc Ân, đi ngược lại Ý Trời, làm hại đất nước Văn Lang.

Các Thiên Tướng mở con mắt Thiên Nhãn đều thấy rõ như thế, nguy cơ nước Văn Lang sắp mất đến nơi. Các Thiên Tướng cùng Long Đế, tức tốc xuất hồn ra khỏi thể xác kim thân, linh hồn bay xuống chốn trần gian đầu thai làm người phàm tục, đánh giặc Ân.
 

PHẦN 7: BÀY MƯU HIẾN KẾ

Đây nói về hai anh em Nguyên Dực và Nguyên Minh, thống lãnh 40 vạn quân, tiến về Bắc Văn Lang dẹp nội loạn nổi lên đòi tự trị làm hỗn loạn Bắc Văn Lang, cũng như chống trả lại quân xâm lược.

Khi 40 vạn quân chủ lực Văn Lang đến Vân Châu, thời chia làm hai lực lượng. Nguyên Dực thống lãnh 20 vạn quân tiến thẳng về Ninh Châu. Còn Nguyên Minh thống lãnh 20 vạn quân tiến thẳng về Hợp Châu.

Nói về Ninh Giao Châu, có Quan Châu Phủ Lạc Đại Vương, cùng các Quan trấn giữ Châu Thành. Ngày nào cũng có tin báo dập dồn khẩn cấp, quân Ân đã tiến đánh Kinh Giao Châu, tiêu diệt hơn một vạn quân Văn Lang ở Huyện Giao Trung, Lạc Đô Tướng bỏ mạng tại sa trường, và đã chiếm được thành Kinh Châu. Lạc Đại Vương cùng các Quan không khỏi kinh hãi, lo lắng cho số phận Ninh Châu, than rằng:

Chỉ lo chạy chọt Quan quyền

Ăn chơi phè phỡn đảo điên nước nhà

Đến khi có giặc can qua

Co đầu rụt cổ còn ra thống gì

Lòng dân đã mất chí nguy

Cơ đồ sự nghiệp khó mong vững bền.

Lạc Đại Vương, cùng các Quan đến bây giờ mới thấm thía. Dân là nước, nước ô nhiễm độc hại văn hóa phương Bắc, thời cá phải chết. Dân là gốc, nhưng gốc đã mục nát, dân tình trở nên loạn lạc, thời thân cành, nhánh lá Vương Quan cũng đi đời, nhưng tất cả đều đã muộn. Chỉ còn trông chờ cứu tinh xuất hiện, thời may ra vận nước mới thoát qua cơn hiểm họa nầy.

Lạc Đại Vương cùng các Quan chưa biết xoay trở bằng cách nào, chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Thời có quân vào báo:

Bẩm Đại Vương, quân chủ lực Văn Lang đã đến.

Lạc Đại Vương cùng các Quan mừng quá thốt lên:

Cứu tinh đã đến rồi.

Lạc Đại Vương hỏi:

Quân chủ lực đến đâu rồi?

Quân binh đáp:

Quân chủ lực còn cách đây vài ba dặm.

Lạc Đại Vương cùng các Quan ra khỏi thành tiếp đón quân chủ lực Văn Lang. Đi được hơn năm dặm thời thấy quân Văn Lang cờ xí rợp trời, gươm đao sáng giới, kỵ binh, xa binh, xạ binh, giáp binh, rầm rầm rộ rộ khói bụi mịt mù, khí thế hừng hực, thời lấy làm vui sướng, như người sắp chết đuối mà gặp Cứu Tinh. Đi đầu có rất nhiều Tướng lĩnh, mỗi người mỗi vẻ oai phong lẫm lẫm, có một Tướng lĩnh nổi trội hơn hết, mặt sáng như sao, vô cùng oai phong, đó là Tướng soái Nguyên Dực. Nguyên Dực thấy Lạc Đại Vương cùng các Quan đến tiếp đón mình, thời lấy làm vừa lòng.

Lạc Đại Vương cùng các Tướng đến ra mắt thi lễ chào hỏi nói rằng:

Hạ Quan nghinh tiếp hơi trễ xin Tướng Soái tha lỗi cho, Nguyên Dực thi lễ nói không sao không sao, miễn có ra đón là được rồi.

Lạc Đại Vương đi đầu dẫn đường gần đến Ninh Thành thời đại quân dừng lại đóng trại gần đó, cách Ninh Thành hơn dặm. Tướng Soái Nguyên Dực cùng các Tướng, được Lạc Đại Vương tiếp đón vào thành, thiết đãi trọng hậu, đàn ca múa hát, món ngon vật lạ, chẳng thiếu thứ chi.

Nguyên Dực thưởng thức các món ngon vật lạ khen:

Tiếng đồn quả không sai Bắc Văn Lang thứ gì cũng có, thảo nào quân giặc thèm khác lúc nào cũng muốn chiếm lấy Bắc Văn Lang.

Lạc Đại Vương nói:

Lời nói của Tướng Soái quả không sai, đây chỉ là đặc sản của vùng Ninh Châu nầy, còn những nơi khác phải nói là vô cùng phong phú, nhất là vùng lân cận Kinh Đô, thời phải nói là trù phú vô cùng, không có món ngon vật lạ hiếm quý nào mà không có, kể cả chim trĩ trắng, gà chín cựa, sâm nghìn năm, chồn hương chín đuôi, còn không biết bao nhiêu là món ngon hiếm quý nữa.

Tiệc đãi xong xuôi qua ngày hôm sau, Nguyên Dực cùng các Tướng nghe báo cáo tình hình Bắc Văn Lang, cũng như tình hình quân xâm lược. Lạc Đại Vương đọc bản báo cáo, trong bản báo cáo nói như sau:

Bẩm Tướng Soái. Tình hình Bắc Văn Lang vô cùng nghiêm trọng, không những nghiêm trọng về nội loạn, các Bộ Lạc Bách Việt nổi lên đòi tự trị, vì thế Bắc Văn Lang chia năm xẻ bảy tranh giành quyền lực dẫn đến thôn tính lẫn nhau, xưng Vua, xưng Chúa, từng vùng tự trị theo kiểu phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà cũng xưng Vua. Có thể nói văn hóa phương Bắc đã làm hại phương Nam chúng ta, tình thế nầy khó mà cứu vãn cho được, nghe nói văn hóa Văn Lang chúng ta đã mất gốc, lại không truyền xuống dân, chỉ truyền trong Vương Quan, thừa kế cơ nghiệp ông cha, nên dân chúng ít người được biết về văn hóa Cội Nguồn, nếu dân biết thời còn tai hại hơn nữa. Vì văn hóa Cội Nguồn không có sự độc tài, độc trị, chỉ lấy Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng trị Quốc mà thôi, phải nói không còn phù hợp với tình hình hiện nay, mà tình hình hiện nay là sống theo chế độ độc quyền, độc tài, độc trị, ý Vua là ý Trời, không ai dám cải, cải lại thời bị tru di tam tộc. Còn phương Bắc tru di cửu tộc. Thể chế độc quyền lần lần ăn sâu vào tâm hồn, không những Vua, Quan, như chúng tôi, mà còn ngay cả những người dân, không còn cách nào khác là thuận theo số phận mà thôi. Phương Nam chúng ta dần dần đi theo chiều hướng phương Bắc, nên mới có cảnh Bách Việt Văn Lang nổi lên đòi tự trị, theo xu thế phương Bắc, còn Nam Văn Lang thời chưa xảy ra điều đó, có lẽ là chưa ảnh hưởng gì văn hóa tự trị phương Bắc, nên chưa có sự nội loạn tình hình dân chúng phương Bắc Văn Lang là như thế. Còn về tình hình cấp bách hiện nay. Trước tình thế quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô, chúng càn qua Bắc Văn Lang như thác đổ, với một thời gian ngắn, chúng nuốt không biết bao nhiêu là Châu, Quận, Huyện, giết chết hơn mười mấy Vua Việt nổi lên đòi tự trị.

Nguyên Dực cắt ngang lời báo cáo nói:

Đây cũng là điều may cho chúng ta, ngoại xâm tiêu diệt nội loạn thay cho chúng ta, chúng ta không cần ra tay, kể như chúng ta đã thành công ở bước một.

Nguyên Dực nói:

Ông đọc tiếp đi.

Lạc Đại Vương với giọng rõ ràng đọc tiếp báo cáo rằng:

Theo tin tức báo cáo. Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, chia làm ba mũi tấn công Bắc Văn Lang, quân Hồ đánh theo Tây Lộ, quân Hung Nô đánh theo Đông Lộ, quân Ân đánh theo Trung Lộ, trong ba thế lực ấy quân Ân là mạnh nhất. Tuy chia làm ba mũi nhưng chúng luôn luôn hỗ trợ cho nhau lúc cần thiết, vì thế chúng đánh chiếm các Châu Phủ một cách dễ dàng. Theo tin báo thời giặc Ân đang bao vây Kinh Đô, giặc Hung Nô đang đánh phá Xích Linh Châu. Quân Hồ đang đánh phá Kiến Châu. Quân Ân phong tỏa cắt đứt những huyết mạch các Châu Thành liên kết với Kinh Đô. Phải nói tình hình hết sức là nguy cấp nếu chúng chiếm được Kinh Đô, chiếm được Xích Linh Giao Châu, chiếm được Kinh Châu, thời coi như chúng chiếm được Bắc Văn Lang.

Đọc xong bản báo cáo. Lạc Đại Vương nói thêm:

Như tin dò thám được thời Kinh Châu đã thất thủ.

Nguyên Dực, cũng như các Tướng chủ lực quân Văn Lang nghe qua bản báo cáo như thế thời không khỏi lấy làm kinh hãi. Trước sức mạnh như vũ bão của quân xâm lược.

Đời sau thơ kể lại rằng:

Sức mạnh quân thù thật gớm ghê

Như cơn Hồng thủy cuộn tràn về

Thành trì sụp đổ trong chốc lát

Sanh Linh vùi dập thật thảm thê.

Đang lúc bàn về quân giặc, thời có quân thám báo về báo nói nhỏ với Lạc Đại Vương. Lạc Đại Vương nghe xong rồi dặn tiếp tục theo dõi động tỉnh của quân Ân.

Nguyên Dực hỏi:

Có chuyện gì thế có thể đem ra bàn được không?

Lạc Vương nói:

Có tin báo là quân Ân tiến đánh thành Ninh Châu chúng ta, tin rất chính xác.

Nguyên Dực hỏi:

Quân Ân chúng sẽ đi theo đường nào tiến đánh Ninh Châu chúng ta.

Lạc Đại Vương nói:

Kinh Châu đến Ninh Châu hơn 100 dặm qua sông, suối, đồi, gò cũng nhiều, đường đi qua nhiều khúc quanh rậm rạp. Theo nhận xét của Đại Vương tôi với khí thế mạnh như vũ bão của giặc thời giặc không sợ gì cả, đường nào gần nhất dễ đi nhất là chúng đi. Tôi tin chắc là quân Ân đi theo đường tắc dễ đi nhất, chỉ có một đoạn đường hiểm yếu, đó là chúng phải băng qua cánh đồng lớn, rồi đến đồi Vạn Lâm, đồi nầy kéo dài hơn 10 dặm cây cối rậm rạp, đồi Vạn Lâm cách đây gần 50 dặm, nếu chúng qua khỏi đồi Vạn Lâm thời không đầy một ngày đại binh chúng sẽ kéo đến, còn kỵ binh thì chỉ cần một ngày là đến nơi.

Nguyên Dực hỏi:

Quân binh trong thành nầy được bao nhiêu?

Lạc Đại Vương thưa:

Bẩm Tướng Soái hiện giờ hơn một vạn quân, phần nhiều do quân binh các Châu Phủ khác thua trận chạy đến đây.

Từ đầu đến cuối cuộc hợp, có một vị quan lúc nào cũng yên lặng đó là Hầu Thái Công tuy tuổi đã lớn nhưng được gọi là bậc mưu Thần bậc nhất ở Ninh Châu.

Đến lúc nầy Hầu Thái Công mới lên tiếng:

Chúng ta có thể tiêu diệt được giặc Ân ở đồi Vạn Lâm nầy. Chúng tiến qua đất Văn Lang, như tiến vào chỗ không người, đánh chiếm các Châu Thành một cách dễ dàng, vì thế chúng sẽ không coi quân lực Văn Lang vào đâu nữa, ung dung mà tiến qua đồi Vạn Lâm. Chúng sẽ cho quân mở đường đi trước, đó chưa phải là quân chủ lực, nếu có quân mai phục chận đánh, thời chúng tỏa ra bao vây đồi Vạn Lâm rồi tìm kế tiêu diệt chúng ta. Theo thời tiết hiện giờ thời ta không sợ hỏa công vì trời hay mưa, cây cối luôn ẩm ước, chúng ta có thể an tâm mà mai phục nơi đồi Vạn Lâm nầy, cứ để cho đội quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực loạt vào vòng vây là tấn công. Quân ta chủ động, quân giặc bị động, chỉ cần ba vạn quân lựa vào những chỗ hiểm yếu phục kích, lợi thế tấn công, cũng đánh tiêu mười vạn quân của chúng.



PHẦN 8: KINH CHÂU THẤT THỦ

Lại nói về quân Ân sau khi đánh bại quân Văn Lang ở Huyện Giao Trung, tiến tới bao vây Kinh Châu, kết hợp với quân Hồ, đánh chiếm Kinh Châu một cách dễ dàng, vì Kinh Châu chỉ còn có hơn năm nghìn quân, không phải là quân chủ lực, quân Ân, quân Hồ, chiếm Kinh Châu như lấy đồ trong túi, chẳng tốn bao nhiêu sức lực, quân Ân làm phép cuồng phong nổi lên, quân binh trong thành kinh hồn bạt vía, quân Ân làm phép yêu tinh quỉ dữ bay lên thành gào thét tấn công, quân binh hỗn loạn, quân Hồ leo tường nhanh như chớp, quân Ân phá cổng thành, chỉ trong chốc lát quân Ân, quân Hồ, tràn ngập vào thành. Kinh Châu thất thủ.

Vị tướng nữ thống lĩnh chỉ huy quân Ân là Sát Sát không những võ nghệ cao cường thần thông pháp thuật ít ai sánh nổi, mà còn đa mưu túc trí, ít ai bì kịp. Sát Sát là vợ chính của Ân Mao Vương, thống lãnh hơn 10 vạn quân tinh nhuệ, quân chủ lực, nhất là đội quân kỵ binh, đội quân xạ binh, di chuyển nhanh chóng lợi hại vô cùng, chiếm được thành Kinh Châu. Sát Sát báo tin thắng trận cho Ân Mao Vương, lên kế sách tiến đánh thành Ninh Châu, Sát Sát đang cùng các Tướng lĩnh bàn bạc lên phương án tiến đánh thành Ninh Châu.

Thời có một con yêu tinh vào báo:

Bẩm Nương Nương. Quân chủ lực Văn Lang đã đến Ninh Châu, quân binh đông như kiến, ước lượng trên dưới 20 vạn quân.

Tướng lĩnh quân Hồ là Hồ Nam Quân nói:

Chúng có 20 vạn quân chủ lực, hai lực lượng chúng ta kết hợp lại cũng trên 15 vạn quân, hơn kém bấy nhiêu thời có đáng gì, chỉ cần quân binh tinh nhuệ, tuy ít nhưng cũng chẳng kém gì nhiều.

Sát Sát trợn mắt nói:

Chúng kéo đến là may cho ta, khỏi mất công tìm chúng thanh toán.

Rồi ra lịnh cho Phong Yêu và Quỉ Yêu, tàn hình đến Ninh Châu xem chúng bàn những gì. Phong Yêu và Quỉ Yêu, bay lên không biến mất. Đây nói về Phong Yêu và Quỉ Yêu, được lệnh Nương Nương bay tốc hành đến Ninh Châu, ẩn mình vào thành nghe lén quân Văn Lang bàn những gì.

Nói về nguyên Dực, cùng các quan Tướng Ninh Châu bàn luận sôi nổi, về kế sách chuyến thuật tiêu diệt quân giặc, nào hay đâu có kẻ tàn hình ẩn núp gần đó nghe lén Hầu Thái Công hiến kế. Quân Ân thế nào cũng đi qua đồi Vạn Lâm. Chúng ta cho ba vạn quân mai phục những chỗ trong yếu nơi đây, để cho quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực tiến sâu vào ổ mai phục thời ra tay. Lại cho năm vạn quân nhanh chóng đi bọc về hướng Đông Bắc qua khỏi đồi Vạn Lâm hơn 10 dặm phục kích ở xa để cho quân giặc tiến sâu vào đồi Vạn Lâm thời mới duy chuyển quân binh chận đường rút lui của chúng mà đánh, còn đại quân của ta đi bọc về hướng Tây chận đứng đường tháo chạy của chúng, rồi tiến nhanh vào thành lấy lại thành Kinh Châu. Về vận chuyển lương thực thời do quân Ninh Châu đảm nhiệm, Tướng Soái Nguyên Dực, cho đây là kế sách hay, bằng thi hành theo kế sách nầy. Hai con quỉ nghe xong liền tức tốc bay trở về Kinh Châu báo cho Sát Sát Nương Nương biết.

Sau có thơ rằng:

Cơ mưu bại lộ nào có hay

Ra sức điều quân bố trận bày

Rồng cọp vô tình sa bẫy lưới

Vận nước còn đen khó đổi thay

Kế sách mưu Thần đánh giặc Ân

Nào hay bại lộ kế mưu hay

Tự mình dẫn xác vào chỗ chết

Trận địa vùi chôn thê thảm thay.

Trong binh pháp hai bên đánh nhau, nếu bên nào bại lộ cơ mưu, thời coi như đã bị thua, nói gì đến chiến thắng. Quân giặc tương kế, tựu kế, mà không hay biết gì cả, đến khi thất bại thời mới hổi ôi, chưa nói đến sự nghi ngờ lẫn nhau trong các Quan Tướng, làm suy giảm sức mạnh của chiến đấu, suy giảm sức mạnh của của thống nhất, hợp lực chống quân thù.

Nói về Sát Sát nắm bắt được thông tin bí mật của quân Văn Lang. Liền tức tốc hành động, đi trước một nước cờ điều khiển quân binh theo ý đồ của mình.

Sát Sát bàn với Hồ Man Quân:

Tướng quân thống lĩnh năm vạn quân Hồ, đến Huyện Ninh Điền chọn nơi hiểm yếu phục kích, chờ cho quân Văn Lang đánh bọc hậu đi tới sa vào ổ phục kích là tấn công ngay.

Võ Vu, Tướng quân nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lãnh ba vạn quân, nhanh chóng đến đồi Vạn Lâm trước quân Văn Lang kéo đến phục kích. Khi quân Văn Lang đi sâu vào đồi Vạn Lâm, chưa kịp tản ra phục kích thời tiêu diệt ngay, làm cho chúng không kịp trở tay.

Hổ Tiên Tướng quân nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân dẫn theo năm nghìn kỵ binh nhanh chóng vượt qua hàng chục dặm đánh bọc hậu từ sau đánh tới, cướp lấy lương thực của chúng, cũng như chận đánh quân hoảng loạn tháo chạy quân Văn Lang.

Còn ta thời thống lãnh 8 vạn quân chận đánh quân chủ lực tại Tây Bắc Sơn Ninh Châu chận đánh quân chủ lực Văn Lang.
 

PHẦN 9: TRIỂN KHAI LỰC LƯỢNG

Đây nói về Nguyên Dực cùng các Tướng họp bàn kế sách chống giặc, thực hiện theo kế sách của. Hầu Thái Công, thông tin cuối cùng về quân giặc, không ngờ bị quân Ân đánh lừa thông tin, là quân Ân còn án binh bất động chưa tiến đánh Ninh Châu, nhưng thật ra quân Ân đã bí mật triển khai điều động quân binh rồi, vì sao quân Văn Lang lại không phát hiện được, vì dân chúng lúc nầy, hỗn loạn, lo tìm đường lánh nạn, tiến về Nam tránh quân xâm lược, nên quân Văn Lang khó phát hiện điều quân bí mật của quân Ân.

Được thông tin quân Ân vẫn án binh bất động, chưa triển khai lực lượng, tiến đánh Ninh Châu, Tướng Soái Nguyên Dực trở về doanh trại, điều khiển quân binh, theo kế sách đã dự định:

Hầu Tướng Quân nghe lịnh, có thuộc hạ, tướng quân thống lĩnh 5 vạn quân tức tốc lên đường trong đêm nay đến đồi Vạn Lâm theo sự chỉ dẫn quân Ninh Châu, trước khi trời sáng, để tránh tai mắt quân Ân phát hiện, phân bổ lực lượng những chỗ trong yếu phục kích kín đáo, để cho quân mở đường đi qua, chờ cho quân chủ lực đi sâu vào ổ phục kích rồi ra hiệu lịnh cho quân binh đồng loạt tấn công, tuân lịnh.

Việt Luân Tướng Quân, nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân thống lãnh 5 vạn quân bọc theo hướng Đông Bắc, đi trong đêm vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm chừng hơn 15 dặm ẩn náu, không cho địch phát hiện, khi địch đi qua khỏi thời đưa quân đến chận đường rút lui, tiêu diệt chúng, tuân lịnh.

Bạch Tướng Quân nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân dẫn theo năm nghìn quân đi theo đoàn quân vận chuyển lương thực khi nghe có trận giao chiến thời thần tốc tiến về đồi Vạn Lâm trợ lực cho quân ta, tuân lịnh:

Chồn cáo thi nhau cướp giang sang

Mưu mô xảo quyệt mấy vạn ngàn

Hung tàn bạo ác ăn uống máu

Chúng dày, chúng xéo nát ruột gan

Dân lành khốn khổ biết bao

Chúng đâm chúng chém thây phơi khắp cùng

Ngoại xâm lũ giặc bạo tàn

Chúng vơ chúng vét xóm làng còn chi.

Đây nói về Tướng Soái Nguyên Minh, thống lãnh 20 vạn quân chủ lực từ Vân Châu tiền về Kinh Đô, Nam Kinh Xích Quỷ, đến Huyện Nam Giao thời thấy dân chúng thi nhau chạy giặc, một cảnh tượng vô cùng thê thảm.

Đời sau có kể lại rằng:

Chết đói đầy đường thê thảm thay

Cái lạnh trùm lên cắt thịt da

Kêu gào thê thảm con tìm mẹ

Đau buồn ức nghẹn con lạc cha.

Trong tình cảnh nầy, Quan Tướng Văn Lang đau xót vô cùng, nhìn cảnh mẹ dắt con mặt mày bơ phờ chạy theo đoàn người tỵ nạn, không biết bao nhiêu chết đói, những cảnh tượng khốn đốn ấy không ai là không căm phẫn quân thù xâm lược.

Vận nước suy do Nguồn Cội mất

Nạn khắp cùng khó thoát tai ương

Nghĩ đời càng nghĩ càng thương

Cũng vì lạc Cội ngoại xâm hoành hành

Gươm Trấn Quốc đâu còn biến mất

Nghĩa đồng bào tan nát loạn li

Truyền thống tốt đẹp quên đi

Làm sao tránh khỏi ngoại xâm quét càn

Lòng mê muội học đòi phương Bắc

Giặc chuyển xây họa khắp nước non

Mắt mưu gian kế Bắc phương

Dã tâm xâm lược còn chi nước nhà

Nền Văn Hiến tôn thờ gìn giữ

Thời lo chi lũ giặc ngoại xâm

Con đường dân chủ trống không

Độc tài phải chịu nát tan cơ đồ

Cây mất gốc héo cành héo ngọn

Sông không nguồn sông cạn sông khô

Mê lầm văn hóa ngoại ban

Hồn linh nô lệ còn chi giống nòi

Dân lạc Cội dân tình xơ xác

Nạn vần xoay chết chóc điêu linh

Chia năm xẻ bảy còn chi

Làm mồi cho giặc nuốt thời béo no

Mất truyền thống tan hoang nghiệp Tổ

Đời lệ nô bể khổ chất chồng

Mất Nguồn, mất Cội cha ông

Nước non, non nước, chất chồng nạn tai.

Nói về Tướng Soái Nguyên Minh cũng hiểu được phần nào tình hình Bắc Văn Lang, vì ảnh hưởng quá nhiều văn hóa, cầu cạnh, xin xăm, bói quẻ, nhập đồng, nhập bóng, đoán nầy, đoán kia, mê hoặc bởi yêu, tinh, ma, quỉ, ứng nhập vào, lung lạc, lòng mê muội của dân chúng, ứng quẻ, lời dạy bảo của thần linh, ông nầy làm Vua, bà kia làm Chúa, tin theo, làm theo, nổi lên đòi tự trị theo phương Bắc, chỉ cần vài trăm nóc nhà cũng xưng Vua, Vua nầy thôn tính Vua kia, Vua kia thôn tính Vua nọ làm rối loạn Bắc Văn Lang. Tạo ra thời cơ xâm lược những tay tham tàn bạo ác phương Bắc, hậu quả là không sao cứu vãn được. Tướng Soái, Nguyên Minh cho quân tạm dừng nghĩ, vì còn cách Kinh Đô không bao xa, cho người thám thính tình hình của giặc.

Không bao lâu thời quân thám thính về báo:

Quân Ân đóng dinh trại cách Kinh Đô không xa, chúng dựng lên một đài quan sát rất cao sáu bảy tần, để quan sát động tỉnh trên 20 dặm, có lẽ chúng đã thấy quân binh chúng ta đã tiến đến đây, nhưng không thấy chúng động tỉnh gì.

Nguyên Minh dừng quân nghỉ không bao lâu thời có quân vào báo:

Các Châu hỗ trợ quân binh tham chiến.

Nguyên Minh mừng rỡ hỏi:

Được bao nhiêu?

Quân binh bẩm báo:

Bẩm Tướng Soái, hơn năm vạn, các Châu Phủ còn hỗ trợ lương thực.

Nguyên Minh hết sức an tâm về cuộc chiến nầy. Nguyên Minh chưa biết phải đóng quân tại đâu, thời có người vào báo:

Có vị Đại Quan muốn gặp Tướng Soái.

Nguyên Minh hỏi:

Ông ta là ai?

Bỗng có người lên tiếng hỏi tiếp:

Có phải ông ta là Đa Kế không?

Vị Quan binh kinh ngạc nói:

Sao ngài biết.

Ông ta vui mừng trả lời:

Được người đó tới giúp thời lo gì không thắng được giặc Ân.

Đa Kế là vị Quan thanh liêm tinh thông Binh Pháp, thích sống ẩn dật, có lẽ không thể ngồi yên khi vận nước sắp rơi vào tay quân giặc. Vị Quan biết Đa Kế đó là ai vậy, còn ai vào đó nữa, chính là Lạc Hầu Công, từ Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỹ, vào Kinh Đô Văn Lang cầu cứu viện binh.

Nguyên Minh nghe Lạc Hầu Công khen ngợi người đó như thế liền cho mời vào. Nguyên Minh thấy Đa Kế là người dị tướng, biết ngay là người có tài hay, liền tiếp đón mời ngồi.

Nguyên Minh hỏi:

Nghe ngài tinh thông lục kinh lời đồn có đúng chăng?

Đa Kế khiêm tốn nói:

May mắn tôi có đọc qua, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Luân, ở vào thời đại đó mà biết nhiều hiểu rộng như vậy.

Quả đúng là dị nhân. Nguyên Minh hỏi:

Có kế sách gì chống trả lại quân Ân không?

Đa Kế bẩm:

Khoang nói đến chuyện đó vội, mà tìm nơi lợi thế để đóng quân, quân địch muốn đánh ta cũng khó. Theo tôi thấy Huyện An Giao, Huyện Long Giao là hai nơi đóng quân tốt nhất, một nơi gần quân Ân, một nơi xa quân Ân, ta chia hai lực lượng, hỗ trợ nhau liên kết bảo vệ nhau, không cho địch biết sức mạnh của ta, chúng ta hoạt động một mặt nổi một mặt chìm, một hành động bí mật, một hành động công khai, có như thế mới đánh thắng chúng được, hiệu quả chiến thắng quân thù, phần lớn là những kế sách bất ngờ, ai chủ động cuộc chiến người đó thắng.

Nguyên Minh bằng nghe theo kế sách của Đa Kế, chia hai lực lượng, một nửa âm thầm đến huyện An Giao, một nửa rầm rộ đến huyện Long Giao.

Nói về hơn 10 vạn quân rầm rộ kéo đến Huyện Long Giao, không xa doanh trại quân Ân là mấy, dựng doanh trại theo ngũ hành trận, Đông – Tây – Nam – Bắc – Trung Ương, lại cho dựng quan sát đài cao năm tần không thua kém gì quân Ân.

Họa nào hơn bằng họa xâm lược

Khổ nào hơn nước mất nhà tan

Buồn nào hơn nỗi buồn nô lệ

Cảnh ngục tù, đánh đập lầm thang.

Đây nói về quân Ân bao vây Kinh Đô hơn ba tháng, trong không thể ra ngoài không không thể vào, cắt đứt mọi thông tin liên lạc, lương thực cạn kiệt lần, theo tình hình nầy giặc không đánh cũng tự thua, đầu hàng cũng chết, không đầu hàng cũng chết, phải nói lúc nào cũng ngồi trên đống lửa, các Tướng không còn giữ bình tỉnh được nữa.

Lạc Cao Giang nói:

Con cháu Tiên Rồng có chết thời chết cho vinh quang, không thể chết đói, hay chết cúi đầu trước quân giặc được, để tôi ra giết chúng một trận cho đã tay rồi chết cũng được.

Hầu Việt Yên cũng nói:

Tôi cũng thế để tôi ra trận quyết một trận sanh tử với chúng, có chết cũng cam.

Trong lúc đắn đo suy nghĩ thời có quân trên thành vào báo:

Có lẽ quân cứu viện chủ lực quân Văn Lang đã đến, cách Kinh Thành không xa, về hướng Nam, đóng trại tại Huyện Long Giao.

Hùng Lang Công, cùng các Quan Tướng Kinh Thành, nghe tin nầy như cây chết héo lâu ngày gặp nước, như người chết đuối gặp phao, tất cả đều kéo lên Thành xem có đúng là sự thật không, quả đúng như vậy xa xa cờ xí quân Văn Lang rợp trời rợp đất. Hùng Lang Công cùng các Tướng như muốn ngặt thở trước tin vui nầy.

Các Tướng hét lên:

Chúng ta có quân cứu viện rồi, chuẩn bị tử chiến với quân xâm lược, vui sướng quá.

Luồng gió hồi sanh đã đến rồi

Lòng đầy vui sướng tận chân trời

Văn Lang chủ lực quân đã đến

Niềm tin chiến thắng dậy trong tôi.

Nói về quân Ân, bao vây Kinh Đô không đánh cũng thắng, đó là điều hiển nhiên không chối cãi vào đâu được, nếu không có quân chủ lực Văn Lang đến cứu. Ân Mao Vương cùng Nương Nương là Nghịch Phong, đang lên kế sách đánh chiếm luôn nước Văn Lang, không phải là Bắc Văn Lang nữa. Với mộng xâm lược, lòng tham vô bờ biến, chúng quá hiểu rõ nước Văn Lang vô cùng rộng lớn, chỉ cần một Châu cũng bằng một nước lớn ở phương Bắc, đất đai trù phú, nông sản, thủy sản, lâm sản, không làm gì cho hết, nhất là ngành đồng, thau, sắt, thép, không có một đất nước nào bằng, chỉ cần chiếm lấy được nước Văn Lang thời coi như đã đến cực đỉnh, của sự xưng hùng xưng bá, chỉ trong vòng mấy trăm năm mà dân số tăng lên đông không kém gì phương Bắc.

Ân Mao Vương, coi nước Văn Lang sắp thuộc về mình, thứ nhất là có quân Hồ, quân Hung Nô, thứ hai nước Văn Lang tình hình dân chúng bất mãn, lòng dân không bằng lòng cách cư xử Vương Quan đối với dân, bất hòa, dân không cùng chung chí hướng, bất ổn, dân tình luôn xáo trộn không yên, bất thường, dân chúng không lập trường, thường nghe lời xúi dục, bất trị không thể dạy dỗ theo ý của mình, dân chúng nổi lên đòi tự trị như đã thấy, bất đồng không cùng chí hướng, chia năm xẻ bảy, bất trắc, không lường trước được sự việc, có thể nói là bất lực trước tình hình của đất nước.

Đây chính là cơ hội cho ta thôn tính nước Văn Lang, đánh bại quân chủ lực Văn Lang. Ân Mao Vương, đang hứng chí với mộng bá Vương Chúa Tể của mình, thời có quân vào báo:

Bẩm Chúa Vương, quân thám báo đưa tin là quân chủ lực Văn Lang, từ Kinh Đô Văn Lang đã đến Huyện Nam Giao.

Ân Mao Vương tức thời triệu tập các Tướng Lĩnh xa gần trấn thủ khắp nơi, về hội họp bàn kế sách tiêu diệt quân Văn Lang, thông tin nhanh chóng được ban ra, không bao lâu thời các tướng lĩnh đến đầy đủ.

Mao Vương nói:

Quân Văn Lang đã tiến đến gần sát chúng ta, chỉ còn hơn bốn mươi dặm, hãy điều động toàn lực lượng bao vây tấn công chúng.

Hồ Ma can:

Chưa cần đánh vội như thế, tuy biết rằng quân chủ lực Văn Lang từ xa xôi hơn một nghìn mấy trăm dặm kéo đến đây, thời quân binh đã mỏi mệt, chận đánh là ưu thế thuộc về ta. Nhưng xét lại thời chưa hợp lẽ, vì quân Văn Lang phát xuất lên đường từ lâu, hơn cả tháng, nay chúng mới tới đây, chúng di chuyển quân đi rất chậm, luôn luôn củng cố sức mạnh của quân binh, như vậy chúng đã chuẩn bị trước sự tấn công của chúng ta, hơn nữa chúng ta chưa nắm bắt được lực lượng quân Văn Lang là bao nhiêu, chúng ta chỉ cần cũng cố lực lượng đối mặc với sự tấn công của quân Văn Lang.

Ân Vương nghe Hồ Ma nói cũng có lý liền theo kế sách của Hồ Ma. Không bao lâu thời có quân vào báo:

Quân Văn Lang duy chuyển rất nhanh, chúng đã kéo đến Huyện Long Giao cách chúng ta chỉ hơn 10 dặm.

Ân Mao Vương nói:

Chúng di chuyển nhanh đến thế sao?

Bằng ra lịnh cho các Tướng:

Chuẩn bị cho chiến đấu, tiếp tục theo dõi xem chúng tiến đánh nơi nào trước.

Đây nói về quân Văn Lang chia hai lực lượng một âm thầm tiến về huyện An Giao, đóng đô hạ trại bí mật, một kéo quân rầm rộ duy chuyển nhanh chóng về Huyện Long Giao, dựng trại đóng quân tại đây, bày binh bố trận đóng quân theo ngũ hành trận, xong đâu vào đấy khí thế dậy trời. Tướng Soái Nguyên Minh cùng các Tướng lên đài quan sát thấy dinh trại quân Ân đồn trú xa gần nhiều nơi, theo xa xa luân trận, chỉ cần tiến đánh một doanh trại, thời các doanh trại khác tiến đánh ngay, phải nói là lợi hại vô cùng, các Tướng lĩnh đứng trên đài quan sát, thấy một doanh trại rộng lớn gần Kinh Đô, có lẽ đây là tổng doanh trại chỉ huy, quân Ân, điều khiển quân binh. Các Tướng lĩnh Văn Lang ai nấy cũng háo hức ra trận, mở màn trận chiến.

Nguyên Minh, hộp bàn với các Tướng nói:

Cuộc chiến chúng ta là cuộc chiến lâu dài, khó mà thắng gấp được, vì quân Ân rất hùng mạnh, tùy thời cơ mà thắng nhanh hay chậm, đã giáp mặt với quân Ân là chúng ta đã đi vào quyết tử, đã vào trận thời một mất một còn, nhất là trận mở màn chỉ có thắng không được thua. Tướng Lĩnh nào ra trận trước đây?

Nguyên Minh hỏi các Tướng Lĩnh ai nấy cũng đều tranh nhau ra trận, không ai chịu nhường cho ai. Đa Kế thấy các Tướng Lĩnh tranh nhau không ai chịu nhường ai, bằng nghĩ ra một kế.

Đa Kế nói:

Lão Thần có một đề nghị, thôi thì bốc xăm vậy, ai bốc trúng người đó đi.

Tất cả Tướng Lĩnh đều nhất trí. Thế là cuộc bốc xăm diễn ra, trong xăm chỉ có một chữ xuất, ai bốc trúng thời người đó ra trận, gần 20 tướng lĩnh ai nấy đều bốc một xăm.

Cự Lân bốc xăm rồi mở ra xem, mừng rỡ reo lên:

Tôi bốc trúng rồi, tôi bốc trúng rồi.

Tướng Soái, Nguyên Minh tức thời ra lệnh:

Cự Lân nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân điểm 5 nghìn quân, khiêu chiến với quân Ân, tuân lịnh.

Trước khi ra quân Đa Kế dặn:

Thắng giặc nhờ cơ trí hơn là ở sức mạnh.

Cự Lân như hiểu ý làm ra vẻ yếu đuối. Đa Kế nói:

Chúng ta thắng trận đầu rồi.

Ai nấy cũng lấy làm kinh ngạc, cho lời nói nầy, chưa đánh mà biết thắng. Nói về Cự Lân điểm 5 nghìn quân binh, rồi truyền khẩu lệnh rằng:

Tử chiến ra trận thời coi như đã chết, lao tới quân thù mà tiêu diệt.

Hào khí Anh Linh đất phương Nam

Ung đúc hùng anh sắt dạ gan

Tung hoành ngang dọc trên sóng dữ

Bắt Cọp rượt Rồng dậy núi non.

Đây nói về Ân Mao Vương cùng các Tướng Lĩnh ở trên đài quan sát, thấy từ doanh trại quân Văn Lang đóng theo vị trí ngũ hành, từ nơi Trung Ương một đội quân kéo ra, dẫn đầu quân binh gồm có ba Tướng, trong đó có một Tướng là đáng chú ý hơn cả.

Hồ Ma nói:

Vị Tướng nầy không phải tầm thường đâu.

Các Tướng Lĩnh không chú ý đến lời nói của Hồ Ma, mà tỏ vẻ xem thường Tướng địch Văn Lang.

Có Tướng nói:

Văn Lang đã hết người rồi sao, chẳng thấy chút gì là oai phong cả.

Trong Tướng giặc Ân, có một Tướng nổi tiếng là vô cùng ngạo mạn không xem ai ra gì, và cũng chưa từng gặp đối thủ bao giờ, đã từng giết chết hơn vài chục Tướng, danh vang như sấm, người đó là ai, chính là Ngụy Đan.

Ngụy Đan thưa với Chúa Ân Vương rằng:

Để thần ra trận giết quách Tướng giặc Văn Lang kia làm giảm uy phong của chúng.

Ân Vương nói:

Phải thắng không được thua.

Ngụy Đan điểm 5 nghìn binh từ trại giặc Ân xông ra quát lớn:

Mau xưng tên họ về chầu âm phủ.

Cự Lân giục ngựa xông lên thét:

Ta là Cự Lân, mau khôn hồn đầu hàng, ta cho chết toàn thây.

Ngụy Đan hét lên như sấm:

Con chuột nhắt khua môi múa mỏ lớn lối xem đây.

Tức thời cây đại giáo nặng đến 80 cân múa lên vù vù thúc ngựa lao tới chém Cự Lân một giáo như trời giáng, Cự Lân không dám chống đỡ thúc ngựa né tránh, Ngụy Đan, chém hụt một đao, bằng hét lên một tiếng thúc nhựa lao tới chém liền mấy giáo như tia chớp. Trước sức mạnh kinh khiếp của địch, Cự Lân chỉ biết né tránh muốn hụt hơi.

Ngụy Đan dừng ngựa quát:

Ngươi chỉ có cái tài né tránh, sao gọi là anh hùng.

Cự Lân quát:

Lại ta sợ gì ngươi mà không chống trả.

Nói xong liền giục ngựa lao tới chém Ngụy Đan một đao. Ngụy Đan đưa giáo lên đỡ choang đinh tai nhức óc. Ngụy Đan thấy địch thủ không có gì là mạnh, thời tỏ vẻ coi thường, xông ngựa tới tấn công tới tấp. Cự Lân ra sức chống đỡ, hai bên đánh nhau hơn sáu mươi hiệp, vẫn chưa phân thắng bại, biết rằng Ngụy Đan luôn áp đảo Cự Lân. Ngụy Đan càng đánh càng tức giận, tưởng chừng như vài hiệp là hạ gục Cự Lân được ngay, nào hay đâu đánh hơn sáu mươi hiệp mà vẫn chưa hạ gục được Cự Lân, thử hỏi không tức sao được. Ngụy Đan vô cùng tức giận, thúc ngựa lao tới chém tới tấp, Cự Lân chống đỡ không nổi sắp bại đến nơi.

Thật là:

Một bên giáo chớp sáng ngời

Một bên đao pháp lạ đời cương nhu

Cự Lân càng đánh càng thua

Ngụy Đan càng đánh càng reo càng hò

Hai bên chiêng trống vang trời

Quyết cùng tiêu diệt tại thời nơi đây

Cự Lân sắp bại đến nơi

Ngụy Đan dồn dập giáo thời nổ vang

Âm ầm đất chuyển trời rung

Giáo, đao chơm chớp bịt bùng bủa vây

Cự Lân ra sức chuyển xây

Đường tơ kẽ tóc mạng vong tức thì

Ngụy Đan tỏ vẻ vui mừng

Con mồi sắp ngã tàn đời nát thây

Nào hay trận thế chuyển xây

Bất ngờ đảo lộn kinh thay bất ngờ.

Trên đài cao Ân Mao Vương kinh hải khi nghe tiếng thét như sấm của Cự Lân, thấy Cự Lân đang thế bại chuyển thành thế thắng, đang thế yếu trở thành thế mạnh. Trường đao chém tới như tia chớp ầm một tiếng đinh tai nhức óc.

Ngụy Đan cả người lẫn ngựa lảo đảo, chưa kịp lấy lại bình tỉnh, thời một tia chớp khác lại chém tới, Ngụy Đan tránh không kịp trúng một đao bỏ mạng. Quân Văn Lang thắng thế ào ào xông lên chém quân Ân tơi tả, thây phơi chật đất, kinh hồn bạt vía.

Trên đài cao Ân Mao Vương cùng các Tướng Lĩnh sửng sốt, không thể tin vào mắt mình. Ân Vương tức tối nói:

Có ai ra trận hạ gục tướng địch đó cho ta.

Một Tướng nữ lên tiếng nói:

Để thần ra trận hạ gục tên Tướng xảo quyệt đó, cho chúng biết thế nào là sức mạnh của quân ta.

Tên nữ Tướng đó là ai mà lớn lối như vậy, còn ai nữa tên là Chiên La nổi tiếng khắp vùng Tây Vu Hồ Ân. Chiên La điểm 3 nghìn quân nhanh chóng xông ra hét lớn:

Xem ta lấy đầu ngươi đây.

Nói xong thời giục ngựa lao tới. Bỗng có tiếng quát lanh lảnh:

Nữ tặc hỗn láo xem đây.

Tức thời một nữ Tướng xông ra chận đầu Chiên La chém tới một kiếm. Chiên La múa kiếm chống đỡ choang đinh tai nhức óc. Chiên La thấy Tướng nữ xông ra chận đánh mình tuổi còn trẻ mặt như trăng rằm, môi đỏ như son, cặp mắt như hồ thu long lanh sáng ngời, tuy là thân hình mảnh khảnh, nhưng không kém phần oai phong.

Tức giận thét:

Nữ tặc ngươi là ai mau xưng tên rồi chịu chết.

Tướng nữ xông ra chận đầu tiên la quát:

Ta là Khơ Lan, đưa ngươi về chầu âm phủ.

Khơ Lan, nhìn nữ Tướng giặc đoán tuổi cũng cở như mình, mặt hoa, da phấn, tuy có vẻ mảnh mai, nhưng không kém phần uy dũng, hai nữ Tướng gườm nhau, như nói với nhau rằng, gặp ta ngươi phải bỏ mạng.

Khơ Lan trợn mắt quát:

Mau xưng tên họ ta không giết kẻ vô danh.

Chiên La lại càng dữ tợn hơn nữa trợn mắt quát:

Ta là Chiên La, nghe cho rõ rồi đi chầu Diêm Vương.

Nói xong Chiên La thúc ngựa lao tới ra đòn, song kiếm chém tới kình phong tuông ra ù ù. Khơ Lan ra oai nào chịu kém quát lên một tiếng, múa kiếm lên chống đỡ. Lời thơ khen rằng.

Khơ Lan, nữ tướng anh hùng

Lên non bắc cọp, cỡi Rồng xưa nay

Đã từng đạp sóng cỡi mây

Ngư kình bỏ mạng nổi danh anh hùng.

Đường kiếm Khơ Lan, như Rồng bay Phụng múa, chém tới ầm ầm. Chiên La nào chịu kém, song kiếm trên tay như bão táp cuồng phong.

Về sau có thơ rằng.

Người đẹp dễ đâu phải tầm thường

Cỡi Rồng cỡi cọp múa đao thương

Tung hoành ngang dọc trên trận chiến

Dễ mấy đàn ông vượt trội hơn

Kia kìa cát bụi tung trời đất

Mưa đao, bão kiếm dậy núi non

Vang rền sấm nổ luôn không dứt

Người ngựa xáp chiến kiếm loáng loang

Chiên La càng đánh càng hay

Khơ Lan, càng đánh càng thêm càng tài

Cát bụi mịt mù rền vang tiếng thép

Chiêng, trống, dậy trời, trận chiến dậy non.

Chiên La, Khơ Lan đánh hơn trăm hiệp kẻ năm lạng, người nửa cân, không ai hơn ai. Ân Mao Vương thấy Tướng Văn Lang tài ba như vậy, không còn dám xem thường nữa, khó nắm chắc phần thắng, Ân Vương cho đánh trống thu quân.

Quân Văn Lang thấy thế cũng đánh trống thu quân, tức thời hai bên ngưng chiến, quân Văn Lang thắng trận, đem lại khí thế cho toàn quân Văn Lang.

Tưởng rằng đánh bại quân Nam

Nào hay thua trận, thở than đứng ngồi

Tướng Nam quả thật Tướng Trời

Khó mà tiêu diệt mộng thời vỡ tan.

Đây nói về quân Ân thua trận Ân Mao Vương vô cùng bực tức quát tháo ầm ĩ:

Chỉ mấy thằng nhóc con mà không tiêu diệt được, thời còn nói gì chiếm lấy nước Văn Lang, tức ôi là tức.

Thấy cha tức giận như vậy, Mao Lợi an ủi nói:

Để mai con ra trận lấy đầu chúng dâng lên Cha hả cơn giận.

Ân Mao Vương biết con mình tài ba hơn người, khó có ai địch lại, bằng ưng thuận gật đầu. Nói về quân Văn Lang thắng trận, rồi im bặt không thấy xuất quân, không hiểu là có chuyện gì, lên đài quan sát thấy doanh trại quân Văn Lang binh lính đi qua đi lại như đang tập luyện binh pháp, chiêng, trống, dậy trời. Đã qua bảy ngày vẫn không thấy quân Văn Lang đến khiêu chiến, cứ ở trong doanh trại đánh trống khua chiêng. Ân Mao Vương, lấy làm lạ chúng sợ gì mà không xuất quân khiêu chiến, khi Bắc Văn Lang quân ta chiếm cứ gần hết, sắp mất Bắc Văn Lang đến nơi.

Hồ Ma nói:

Chúng không tới khiêu chiến đánh chúng ta, thời chúng ta tới khiêu chiến đánh chúng. Đàng nào cũng phải tiêu diệt chúng, càng nhanh càng tốt, đi vào ổn định Bắc Văn Lang, rồi tiến đánh Trung Văn Lang, cuối cùng là thôn tính Nam Văn Lang.

Ân Mao Vương cho lời nói của Hồ Ma là phải, bằng theo kế sách đó mà thi hành. Ân Mao Vương cho mời Mao Lợi tới nói rằng:

Tướng Văn Lang khá lợi hại, con ra quân phải hết sức cẩn thận. Con nên chọn mấy danh Tướng tài giỏi theo con xung trận, dẫn quân tới doanh trại quân Văn Lang khiêu chiến.

Mao Lợi nói:

Con xin tuân lệnh.

Nói về Mao Lợi được lệnh khiêu chiến với quân Văn Lang, mặt hầm hầm đầy sát khí, chọn hai Tướng tài điểm 5 nghìn quân, hùng hùng, hổ hổ kéo đến trước doanh trại quân Văn Lang khiêu chiến, chửi bới om sòm:

Quân Văn Lang co đầu rụt cổ kia, nước Văn Lang sắp về tay ta, các ngươi chạy đâu cho thoát, mau ra quy hàng thời sống, chống lại thời gà chó cũng chẳng còn, thức thời hiểu thế mới là khôn.

Trên đài quan sát Tướng Soái, Nguyên Minh cùng các Tướng Lĩnh, nhìn thấy quân Ân tới khiêu chiến, chửi bới om sòm, nhịn không được nữa đòi xuất quân giao chiến, ở trên khán đài cao bảy tần.

Nguyên Minh quan sát ba Tướng Lĩnh của quân Ân, người nào người nấy uy dũng vô cùng, biết là ba Tướng tài, không dễ gì thắng được. Nguyên Minh chưa biết phải đề cử ai.

Đa Kế hiểu nỗi băn khoăn của Chủ Soái bằng nói:

Trong các Tướng Lĩnh ta không phải có một danh Tướng, con nhà danh gia Võ Tướng nổi tiếng nhiều đời, đời Tổ Tằng Tổ Cố, đã từng đánh bại quân Ân thời nhà Ân đó sao.

Nguyên Minh nói:

Có phải Lão Tướng gia nói đến hai anh em nhà Cao Vương phải không?

Đa Kế nói:

Phải. Cao Hải Đại Đô Tướng thống lãnh 10 vạn quân âm thầm lập doanh trại tại Huyện An Giao, còn Cao Sơn đang thống lãnh đại quân trọng yếu chủ lực ở đây. Cao Sơn ra trận nhất định thắng.

Nguyên Minh liền cho mời Cao Sơn đến nói rằng:

Quân Ân đã đến khiêu chiến, xét thấy khó có người thắng được chúng, nên điều Tướng quân ra trận. Cao Sơn vui vẻ nhận lệnh.

Nguyên Minh nói:

Tướng quân cần bao nhiêu quân binh thời điều động bấy nhiêu.

Cao Sơn điểm 5 nghìn quân binh mở cửa doanh trại xông ra. Cao Sơn là vị Tướng khác thường, luôn ẩn cái tài chỉ hiện cái Đức, nên được lòng quân binh Tướng Sĩ, ít ai nhận ra cái tài vô tận của người nầy. Đa Kế là người tinh tế, thấy Cao Sơn lúc nào cũng khiêm cung, không cho ai biết mình là có tài, ít tham gia góp ý kiến nhưng lại hết lòng tận tụy với quân binh. Có lúc Cao Sơn than rằng:

Nước non khó giữ được rồi

Cội Nguồn văn hóa không còn ngửa nghiêng

Văn Lang khó nổi bình yên

Dân tình loạn lạc còn chi sơn hà

Nhớ thời Quốc Tổ ông cha

Yêu tinh, quỉ dữ, khiếp kinh hãi hùng

Phương Nam hưng thịnh thái bình

No cơm ấm áo nở nhành Thiên hương

Bây giờ nước đổ non nghiêng

Ngoại xâm dày xéo đảo điên cõi bờ

Dân tình đói khổ ngục tù

Thân tàn nô lệ, nghẹn ngào thở than

Quân thù đánh đập dã man

Lê la vạn dặm xác phơi dọc đường

Ôi thôi lũ giặc bạo tàn

Yêu tinh quỉ dữ quét càn hại dân

Cội Nguồn văn hóa nơi đâu

Sao không xuất hiện cứu dân buổi nầy

Hiển Linh Quốc Đạo chuyển xây

Mới mong diệt hết lũ bầy sói lang.

Nói về Cao Sơn nhận ấn lệnh, điểm 5 nghìn quân mở cửa doanh trại xông ra hét lớn:

Lũ quân xâm lược kia, khôn hồn thời ra khỏi đất phương Nam, thời còn mạng sống, bằng không tất cả đều vùi chôn nơi đây.

Tướng giặc Ân phi ngựa tới quát tháo lớn lối nói:

Chúa Vương ta muốn là Trời muốn, không ai cản được, đất Văn Lang sẽ thuộc về Chúa Vương ta. Quy thuận Chúa Vương ta thời sống, chống lại Chúa Vương ta thời chết.

Cao Sơn không nói không rằng phi ngựa tới chém Tướng giặc một đao như trời giáng, bộ mặt dữ tợn của Tướng giặc nào chịu thua, múa giáo chống trả, choang, đinh tai nhức óc. Cao Sơn võ nghệ cao cường bay lên khỏi mình ngựa với thế Chim Điêu Bắt Rắn, từ trên không lao xuống ánh đao chớp chớp kinh hồn, Tướng giặc ra sức múa đao lên đỡ, ầm ầm kinh thiên động địa.

Cao Sơn với pháp Lưu Thủy Hành Vân, lượng mình bay trở về mình ngựa, nhanh như chớp thúc ngựa lao tới đánh chiêu Ngọa Hổ Tiên Du, kình phong ầm ầm cuộn tới. Tướng giặc kinh khiếp chưa từng thấy đao pháp nào lợi hại như vậy. Ánh đao như mưa sa bão táp, hết chiêu nầy tới chiêu khác liên miên bất tận. Tướng giặc đờ muốn hụt hơi, mới có 20 hiệp tướng giặc đã ê ẩm cả tay.

Về sau có thơ khen rằng:

Bản sơ hào khí nhất phương Nam

Đao pháp múa lên sấm nổ vang

Đã từng chém chết yêu, tinh, quỉ

Tung hoành ngang dọc cả Bắc Nam.

Cao Sơn hét lên một tiếng như sấm nổ, đường đao chơm chớp giật lưng trời. Tướng giặc kinh hoàng khiếp vía la lớn:

Tuyệt Thế Ma Đao.

Dở hết sức bình sanh chống trả, đùng đùng ầm ầm, một tiếng rú thê thảm Tướng giặc bỏ mạng tại sa trường. Nói về Tướng giặc đứng gần Mao Lợi thấy Tây Đô sắp mất mạng liền phi ngựa vào cứu Tây Đô, nhưng đã muộn Tây Đô hồn du địa phủ. Tướng giặc mới lao ra cứu Tây Đô chính là Tào Hổ. Tào Hổ gầm lên như quỉ dữ, múa giáo chém tới ầm ầm kình phong tuôn ra ù ù cát bay đá chạy. Cao Sơn múa đao chống đỡ, choang, choang, đinh tai nhức óc. Tào Hổ liền dở tuyệt chiêu Kim Tiền Vượt Thác đường giáo kỳ ảo không biết đâu mà lường. Cao Sơn dùng chiêu Ô Long Cổn Địa chống trả ầm ầm long trời lở đất. Cao Sơn không bỏ lỡ dịp may đánh luôn ba chưởng, Tào Hổ múa giáo chống đỡ, đùng đùng ầm ầm dậy núi dậy non, hai bên đánh nhau trên bốn mươi hiệp.

Cao Sơn hét lớn, thúc ngựa lao tới tay phải ra chiêu Long Hổ Xuất Du, tay trái ra chiêu Xuyên Chỉ Triệt Ma ánh đao chớp chớp, chỉ phong véo véo. Tào Hổ ra sức chống đỡ chiêu đao, liền bị trúng ngay một chỉ, muốn nhào xuống ngựa, nhanh như tia chớp Cao Sơn lao tới chém một đao, chết không kịp ngáp.

Về sau có thơ khen rằng:

Phương Nam nào dễ hết anh hùng

Dời non lấp biển đất trời rung

Đường đao chơm chớp muôn vạn dặm

Khiếp vía kinh hồn giặc cáo chung.

Nói về Mao Lợi thấy Tào Hổ lâm nguy liền phi ngựa ra cứu vãn, nhưng không còn kịp nữa Tào Hổ hồn lìa khỏi xác bỏ mạng sa trường.

Mao Lợi thấy chết liền hai Tướng sôi gan hét lớn:

Nộp mạng đây.

Liền thúc ngựa lao tới chém như mưa trút, Cao Sơn chống đỡ muốn hụt hơi. Đúng là kỳ phùng địch thủ, kẻ năm lạng, người nửa cân, hai bên đánh nhau long trời lở đất, đao qua giáo lại ầm ầm đùng đùng dậy núi dậy non, đá chạy, cát bay, mịt mù trời đất, choang, choang, đinh tai nhức óc. Quả là trận chiến kinh thiên động địa, đánh hơn ba mươi hiệp, Mao Lợi muốn giết ngay địch thủ bằng niệm chú thổi ra một luồng âm phong. Cao Sơn kinh hãi bỏ chạy, Mao Lợi rượt theo, bỗng Cao Sơn biến mất, Mao Lợi kinh hãi, không biết Cao Sơn ở đâu thời liền trúng ngay một chỉ, té nhào xuống ngựa. Cao Sơn lao tới chém một đao chết tốt.

Về sau có thơ khen rằng:

Mấy đời danh Tướng tiếng hùng anh

Tung hoành trận địa đánh giặc Ân

Đường đao tuyệt thế xơi ba Tướng

Rền vang danh tánh rạng trời xanh.

Nói về Cao Sơn chém chết Mao Lợi thời nghe trên không có tiếng quát, kèm theo tia chớp đánh xuống. Cao Sơn thất kinh né tránh, đùng đùng đùng hiện ra ba cái hố lớn. Cao Sơn thấy người đánh mình là một thiếu phụ xinh đẹp, mặt đầy sát khí, người thiếu phụ ấy là ai thế, còn ai nữa vợ hai của Ân Mao Vương, mẹ của Mao Lợi.

Nói về Nghịch Phong mẹ của Mao Lợi thấy con mình lâm nguy liền bay xuống cỡi con thiên lý mã bay tới trận địa nhưng không còn kịp nữa, Mao Lợi đã trúng một đao bỏ mạng. Nghịch Phong quyết giết chết Cao Sơn trả thù cho con không ngờ Cao Sơn tránh được. Nghịch Phong còn ở trên không hóa phép, trời đất tối mù tối mịt, yêu tinh quỉ dữ hiện ra đầy trời, xông tới chém giết quân Văn Lang.

Cao Sơn ra sức chống lại yêu tinh quỉ dữ, trận chiến xảy ra vô cùng ác liệt, cuồng phong càng lúc càng mạnh, quân Văn Lang ngã rạp, yêu tinh chém giết tơi bời. Cao Sơn phóng ngựa thoát thân.

Nhưng tiếng quát lanh lảnh:

Chạy đâu cho thoát.

Tức thời một luồng tia sáng ập đến, Cao Sơn múa đao chống đỡ, ầm ầm khủng khiếp, trước thần lực kinh hồn của nữ Tướng giặc. Cao Sơn chống trả hơn mười chiêu, thời trúng ngay một kiếm bỏ mạng.

Giết chết Cao Sơn, Nghịch Phong thu phép tức thời trời quang mây tạnh, yêu tinh quỉ dữ biến mất, quân Văn Lang chết sạch không còn một người.

Trên quan sát đài Nguyên Minh cùng các Tướng kinh hồn bạt vía. Đa Kế thở dài nói:

Không ngờ giặc Ân có Tướng nữ tài ba như vậy.

Nguyên Minh cùng các Tướng đem xác Cao Sơn về doanh trại, tẩm liệm cho người đưa về quê an táng.

Nói về Nghịch Phong giết chết Cao Sơn, tiêu diệt năm nghìn quân Văn Lang, ôm xác con bay về trại, Ân Mao Vương tức giận râu tóc dựng đứng, ra lệnh cho các Tướng Lĩnh về hộp, quyết một trận với quân Văn Lang. Cùng lúc ấy quân Hung Nô tấn công thành Xích Linh, chúng bắt hơn ba vạn dân Văn Lang, vận chuyển dầu, cây, dây, thang, lá chắn, những dụng cụ công phá thành, ở các Châu Phủ, chúng đã chiếm đóng, vận chuyển hết đến thành Xích Linh, mở ra trận đánh công phá thành quy mô, chiếm được thành Xích Linh coi như chiếm được Đông Bắc Văn Lang.
 

PHẦN 10: ĐẠI PHÁ QUÂN HUNG NÔ

Đây nói về quân Xích Linh, vừa lọt vào tầm ngắm của quân xâm lược. Tức thời hai bên đường cây cối rậm rạp tên bắn ra như mưa.

Lạc Hồng thất kinh la lớn:

Có quân mai phục, có quân mai phục. Lui quân, lui quân, lui quân mau.

Trong tình thế tên giặc bắn ra xối xả. Quân Xích Linh lui ra khỏi đồi Vạn Linh chết chóc thương vong rất lớn. Tàn quân lui về thành Xích Linh trong tình cảnh vô cùng thê thảm, tả tơi chết chóc hơn phân nửa.

Mới hay cuộc sống trên đời

Lầm than khốn khổ bởi gì ngoại xâm.

Họa nầy chưa hết thời họa khác đã kéo đến, quân Hung Nô từ các ngã kéo đến bao vây Xích Linh Giao Châu. Nhìn quân Hung Nô bao vây trùng trùng điệp điệp.

Lạc Hầu Vương than rằng:

Mất đi văn hóa Cội Nguồn là mất đi tất cả, lệ thuộc nô lệ văn hóa phương Bắc, thời đại họa giáng xuống không sao tránh khỏi. Tinh thần dân chúng bị mê hoặc bởi văn hóa phi nghĩa xâm lược của ngoại lai, làm cho Bắc Văn Lang tan rã sự đoàn kết, chia năm, xẻ bảy, nổi lên đòi tự trị, theo văn hóa đấu tranh, tranh giành quyền lực, nồi da nấu thịt ở phương Bắc, thời làm sao tránh khỏi ngoại bang thôn tính.

Nói về quân hung nô từ các ngã kéo đến đông như kiến bao vây thành Xích Linh. Sau ba ngày thời quân Hung Nô tấn công thành Xích Linh, nhờ lực lượng yêu tinh, quỉ dữ hỗ trợ. Nhờ kế sách của Lạc Kim Tiên, quân Hung Nô ý đồ tấn công đã thất bại vì yêu tinh, quỉ dữ chúng khiếp sợ uy linh Quốc Tổ. Hung Nô Vương là tay hung tàn bạo ác chúng không dễ gì chịu thua, bằng trăm phương nghìn kế, chiếm lấy cho được Xích Linh Giao Châu.

Quân Hung Nô là quân hung tàn bạo ác, không có việc ác nào mà chúng không làm, chúng bắt dân chúng Bắc Văn Lang, cũng như tù binh Văn Lang có hơn ba vạn người, đày đọa không khác gì sống trong địa ngục. Chúng bắt dân chúng khuân vác dụng cụ, vận chuyển thang giây, vận chuyển dầu, vận chuyển cây, vận chuyển đá, vận chuyển những vật dễ cháy, từ các Châu, Quận, Huyện, chúng đã chiếm lấy được, vận chuyển cả ngày lẫn đêm, đến Xích Linh để chúng công phá thành.

Lạc Hầu Vương cùng các Quan nhìn thấy quân Hung Nô vận chuyển dụng cụ công phá thành càng lúc càng nhiều, thời vô cùng kinh hãi. Trong lúc lo sợ thời có chim bồ câu đưa thơ từ Huyện An Giao gởi tới. Nội dung thơ như sau: Quân chủ lực đã đến An Giao, cho người đến gặp Đô Tướng, người báo Ngô Việt. Lạc Hầu Vương thấy hai chữ Ngô Việt liền tin tưởng hết sức mừng rỡ, liền cho người theo đường bí mật đến An Giao.

Không thể ngồi yên khi quân thù xâm lược

Không thể ngồi yên khi nước non loạn lạc

Hãy đứng lên, nào hiệp lực chung tay cứu nước

Giành lại quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc

Quyền mưu sanh, quyền độc lập, quyền tự do.

Đây nói về Đô Tướng Cao Hải, theo lịnh Tướng Soái Nguyên Minh, thống lãnh 10 vạn quân âm thầm đến Huyện An Giao, âm thầm dựng trại đóng đô ở đó, tùy cơ ứng biến triệt phá quân giặc. Cao Hải là người không những văn võ song toàn, mà cơ trí cũng hơn hẳn người, luôn luôn cho người nắm bắt thông tin, chính xác thành lập đội quân thám báo thiện nghệ, hoạt động rộng khắp. Nên hiểu rõ cánh quân Long Giao đã thắng trận, lại hiểu rõ quân Hung Nô đang ráo riết chuẩn bị tấn công Xích Linh Châu bằng gọi bố chính Ngô Việt, Huyện An Giao đến, dùng chim bồ câu đặc biệt gởi thư cho Lạc Hầu Vương.

Cao Hải cùng các quan Tướng đang bàn kế sách đánh quân Hung Nô, thời có thám báo vào báo:

Bẩm Đô Tướng quân, có người từ thành Xích Linh tới.

Cao Hải nói:

Cho mời vào.

Cao Hải nhìn người mới đến thời nhận ra ngay, không phải là quân binh bình thường, mà là một Đại Tướng quân cơ trí hơn người, bằng thi lễ mời ngồi. Người làm nhiệm vụ quan trọng bí mật kia là ai thế, còn ai nữa nếu không phải Đinh Hoàng tướng quân thời ai đảm nhiệm trong trách nầy. Đinh Hoàng tướng quân đã từng nghe tiếng hai anh em nhà danh gia Cao Hải, Cao Sơn. Đúng là danh bất hư truyền. Cao Hải tướng người uy nghiêm, hai con mắt sáng ngời, trầm lặng khác thường, đúng là mẫu người có tài cơ trí hơn người.

Đinh Hoàng thi lễ nói:

Đinh Hoàng tôi được lệnh ký thác của Lạc Hầu Gia, đến đây bàn kế sách triệt phá quân Hung Nô.

Hai bên thi lễ khách sáo xong rồi đi ngay vào vấn đề chính. Đinh Hoàng thông báo tình hình quân Hung Nô xong. Rồi nói rằng:

Theo tình hình nhận biết của tôi, thời nội trong ngày mai chúng tấn công phá thành.

Cao Hải hỏi:

Tướng quân từ thành Xích Linh đến đây dọc đường có thấy quân Hung Nô mai phục không? Nếu có chúng phòng bị thế nào?

Đinh Hoàng nói:

Quân Hung Nô chiếm lĩnh các Châu Huyện một cách dễ dàng, sanh ra cao ngạo, xem quân binh Văn Lang không vào đâu. Nên sự đề phòng không cao độ, trên đường từ Xích Linh đến đây không thấy quân Hung Nô mai phục, quân Hung Nô rất mạnh về kỵ binh, chúng duy chuyển rất nhanh, chỉ trong vòng một giờ, chúng duy chuyển hơn mấy mươi dặm, muốn tiêu diệt hết chúng không phải dễ. Hiện giờ chúng tập trung lực lượng cao độ tấn công thành, nên không mấy chú trọng quân Văn Lang tấn công, vì chúng nghĩ quân Văn Lang chỉ là quân nhỏ lẻ, hiện đang trấn giữ các Châu thành, nên không còn cơ hội để tấn công chúng.

Cao Hải hỏi:

Chúng ta có thể chịu đựng được mấy ngày công phá thành của chúng.

Đinh Hoàng nói:

Tuy thành Xích Linh là thành trì kiên cố, có lợi thế phòng thủ cao, nhưng trước sức mạnh của quân Hung Nô, nếu khéo điều binh khiển Tướng, kết hợp toàn lực lượng dân chúng trong thành, có thể cầm cự hơn mười ngày.

Cao Hải nói:

Chỉ cần cầm cự ba ngày là đủ. Quân Hung Nô tính khí hung bạo, chúng tấn công ba ngày hao binh tổn Tướng, mà chưa chiếm được thành, chúng sẽ nổi điên lên tấn công luôn cả đêm, đến đêm thứ ba quân hung nô ráo riết công phá thành khi thấy Nam trại, Tây trại, Đông trại quân Hung Nô bị cháy, quân Hung Nô rối loạn, thời mở cổng thành ùa ra tiêu diệt chúng, chúng ta quyết tử với chúng một trận, còn mất thắng thua nầy.

Hai bên bàn bạc xong đâu vào đấy, màn đêm buông xuống, Đinh Hoàng dùng thuật kinh công đi trong đêm như một bóng ma, với quân binh Hung Nô không có sự cảnh giác cao, nên Đinh Hoàng qua mặt chúng một cách dễ dàng, theo con đường bí mật trở về thành Xích Linh.

Nước non gặp lúc nguy nan

Vẫn còn những kẻ hiếu trung sáng ngời

Kể gì sống chết cuộc đời

Ngày đêm ra sức chống thời ngoại xâm.

Đây nói về Hung Nô Vương, cùng hai người con là Hung Đa Di, Hung Quân Liệt mỗi người con thống lãnh 10 vạn quân. Hung Nô Vương thống lãnh 12 vạn quân ồ ạt xâm chiếm Đông Bắc Văn Lang, thế mạnh như chẻ tre, cuồn cuộn như nước lũ tràn tới, tràn tới đâu cuốn sạch tới đó. Những bộ lạc Bách Việt Văn Lang, ảnh hưởng văn hóa phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà cũng nổi lên xưng Vua Chúa đòi tự trị, làm rối loạn tình hình Bắc Văn Lang, chia năm xẻ bảy, sức mạnh đoàn kết toàn dân không còn nữa, như một bó đũa đã rời từng cây. Chính người dân Bắc Văn Lang đã mở ra trang sử suy tàn, mở đường cho các thế lực ngoại ban, có cơ hội xâm lược Bắc Văn Lang. Quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, thấy thời cơ đã đến chúng làm gì bỏ qua cơ hội, liền kéo quân xâm lược Bắc Văn Lang, thế mạnh như cuồng phong vũ bão. Những bộ lạc, tự mình đánh mất truyền thống Anh Linh, Đại Nam Văn Lang con cháu Tiên Rồng, chạy theo văn hóa phương Bắc, học đòi theo văn hóa phương Bắc, chỉ cần vài trăm, vài nghìn nóc nhà, cũng nổi lên xưng Vua, xưng Chúa, đòi tự trị, bị quân Hung Nô quét sạch, như quét rác, không mấy khó khăn, những Vua Việt nổi lên đòi tự trị chết thê chết thảm.

Sau có thơ rằng:

Ôi những kẻ lầm đường lạc lối

Lạc tâm hồn vào lối yêu ma

Tự mình rước giặc vào tha

Chúng đâm, chúng chém, chúng xơi sạch sành.

Chỉ còn thành Xích Linh, khí thế con Rồng cháu Tiên, luôn vang dội dòng máu hùng anh. Quân Hung Nô hiểu rõ chỉ cần chiếm được thành Xích Linh, thời coi như chiếm lĩnh hầu hết Đông Bắc Văn Lang, còn mấy Châu thành phía Nam Xích Linh là những Châu thành nhỏ, trục lợi giao thương không như thành Xích Linh, phải nói thành Xích Linh là trung tâm giao thương các Châu thành Đông Bắc Văn Lang, dân chúng nơi Xích Linh Giao Châu giàu có vô cùng, không những về ngành thủy sản, hải sản, nông sản, lâm sản, mà ngành giao thương, đa ngành buôn bán cũng vô cùng tấp nập, miếng mồi béo bở thèm muốn của quân Hung Nô, nên chúng quyết tâm chiếm cho được Xích Linh Giao Châu. Quân Hung Nô sau khi quét sạch, những ông Vua Việt nổi lên đòi tự trị, như giết một con chó. Rồi từ Tây Bắc, Bắc, Đông Bắc, địa phận Đông Bắc Văn Lang, chúng chia làm ba mũi chính, như ba con đỉa khổng lồ quơ cái vòi hút máu, từ ba hướng lao nhanh tới thành Xích Linh, bao vây chận nghẹt ba cổng chính trong bất xuất, ngoại bất nhập, hầu cô lập, nếu không đầu hàng thời chết lần chết mòn, cuối cùng cũng phải dâng thành cho chúng. Chúng chận nghẹt ba cổng chính, Nam cổng, Bắc cổng, Tây cổng, chúng quyết chiếm cho được thành Xích Linh, nên đóng đô lập doanh trại cách ba cổng thành không xa. Tây trại do Hung Đa Di, thống lãnh chỉ huy. Nam trại do Hung Nô Vương, thống lãnh chỉ huy. Bắc trại do Hung Quân Liệt, thống lãnh chỉ huy. Chúng bắt dân chúng Văn Lang hơn ba vạn người làm nô lệ vận chuyển dụng cụ công phá thành. Sau những ngày chửng bị đầy đủ, không chần chờ gì thêm nữa chúng ra lịnh tấn công, chúng tấn công ngay trong đêm thứ ba, những kế sách bị thất bại, và chúng chuyển sang tấn công bằng ngày.

Trời thức giấc ôi mây mù trắng xóa

Gió lạnh về như lan tỏa vào tim

Mây lững lờ như buồn bã mông mênh

Một cái chết đang gần kề trước mắt

Những linh hồn âm phủ đã gọi tên.

Quân Hung Nô bắt đầu chuyển động, tiếng tù thúc quân vang dậy cả non sông, chúng ào ào hò hét thi nhau lao tới cung thành.

Nghe tù trận hụ lên vang dội

Như báo rằng chiến trận đến nơi

Kia kìa ác quỉ hò reo

Ào ào nhanh chóng leo lên cung thành

Chúng thét gào rền trời rền đất

Như đòi hồn ăn nuốt kinh Thiên

Nối đuôi chen lấn leo lên

Vạn nghìn con chuột khiếp kinh bạc hồn.

Quân Hung Nô như hàng vạn con chuột ào ào leo lên tường, bên dưới có quân xạ tiễn bắn như mưa yểm trợ.

Đây nói về Lạc Hầu Vương, cùng các Quan nóng lòng chờ đợi, bỗng từ đường hầm bí mật xuất hiện một bóng người. Lạc Hầu Vương cùng các Tướng nhận ra ngay Đinh Hoàng, ai nấy đều vui mừng hớn hở. Đinh Hoàng nhanh chóng thuật lại tất cả những gì mình đã thấy, rồi lấy ra một bức thơ, do Cao Hải gởi nói lên những cơ mật tiêu diệt quân Hung Nô.

Nội dung thơ như sau: Tất cả quân binh trong thành, ra sức chống trả đến ngày thứ ba, theo tính khí hung hãn của quân Hung Nô, thời chúng sẽ tấn công cả ngày lẫn đêm, từ đêm thứ ba trở lên. Khi trên thành thấy ba doanh trại của quân Hung Nô bị bốc lửa, thời mở cổng thành xông ra tử chiến với chúng, thắng hay thua cũng chỉ trong một trận đánh nầy. Lạc Hầu Vương cùng các Quan bàn bạc chiến thuật phòng thủ suốt ngày cả đêm, hầu tìm ra giải pháp tốt nhất. Quân dân thành Xích Linh đồng một lòng chống trả đến cùng, chuẩn bị cho tử chiến lên đến tột đỉnh. Trên thành quân dân nhìn thấy quân Hung Nô chửng bị tấn công, đều đồng loạt cầu nguyện Anh Linh Quốc Tổ phù hộ. Nhờ thế mà tinh thần quân dân bình tĩnh lạ lùng, để cho quân Hung Nô leo lên hơn nữa thành, thời trống chiêng nổi lên quyết tử.

Thế là lao giáo như mưa

Lửa, dầu, đổ xuống khiếp kinh bạc hồn

Cây, đá, ném xuống ầm ầm

Hung Nô bỏ mạng rồi đời lớp lang

Đất trời rung chuyển rền vang

Hung Nô phơi xác chết thôi kể gì

Ba ngày ra sức công thành

Cũng không chiếm được quân thù lộn gan

Hung Nô gào thét dậy non

Đêm về trận chiến càng thêm kinh hoàng

Bỗng đâu lửa dậy đùng đùng

Vang trời ngựa hí khắp cùng thiên la

Hung Nô doanh trại cháy tiêu

Binh trời ập tới bao vây trong ngoài

Hung Nô khiếp vía kinh hồn

Quân binh rối loạn dập dồn đạp nhau

Cổng thành đã mở toan ra

Quân binh lũ lượt xông ra chém nhàu

Hung Nô ngã rạp tơi bời

Mở đường tẩu thoát hãi hùng khiếp kinh.

Đây nói về Hung Nô Vương, Hung Đa Di, Hung Quân Liệt vì xem thường tinh thần chiến đấu quân dân thành Xích Linh. Nên chuẩn bị không chu đáo, ỷ đông chỉ cần tấn công là chiếm được thành, không ngờ quân Văn Lang phòng thủ vững chắc. Quân Hung Nô chết như rạ, tấn công liền ba ngày đi tiêu hơn ba vạn quân, mà vẫn không chiếm được thành, điên tiết dồn quân tấn công luôn cả ngày lẫn đêm. Nhờ sự hỗ trợ của yêu tinh ma quỷ chúng làm cho trời đất tối tăm mù mịt, nhưng chúng không vào được trong thành, nên không gây ra sự rối loạn trong quân binh. Đang lúc hăng say tấn công, bỗng thấy lửa đỏ dậy trời, ba doanh trại Hung Nô bị bốc cháy.

Hung Nô Vương, Hung Đa Di, Hung Quân Liệt kinh hãi la lên:

Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

Bỗng nghe ngựa hí vang trời quân reo dậy đất, Hung Nô Vương hét lớn:

Chúng ta bị quân Văn Lang chiếm lấy doanh trại, cũng như bao vây chúng ta, mau phá vòng vây lui quân.

Cùng trong lúc ấy các cửa thành mở toan, quân binh ùa ra chém giết dữ dội. Hung Nô Vương, Hung Đa Di, Hung Quân Liệt khiếp vía, không biết địch ở nơi nào nhiều hay ít, chỉ nghe ngựa hí vang trời quân reo dậy đất, chiêng trống ầm ầm làm khiếp nhược tinh thần quân Hung Nô. Quân Hung Nô dẫm đạp lên nhau chạy toán loạn.

Nói về Hung Đa Di dẫn bại quân phá vòng vây, ùa nhau chạy về phía Tây Bắc, thời nghe tên bắn xối xả như mưa, đội kỵ binh nhanh chóng vượt lên, thời nghe một tiếng quát long trời lở đất:

Chạy đâu cho thoát.

Tức thời tướng lĩnh quân Văn Lang múa đao chém tới Hung Đa Di, Hung Đa Di múa giáo chống đỡ rồi quày ngựa bỏ chạy, gặp phải quân phục kích, Hung Đa Di không còn tinh thần chiến đấu, thúc ngựa chạy thoát về hướng Bắc, quân Văn Lang không rượt đuổi vì chỉ có hơn năm trăm quân.

Sau có thơ rằng:

Văn lang con cháu Tiên Rồng

Anh hùng gan dạ lẫy lừng muôn thu

Đánh cho khiếp vía ngoại xâm

Đánh cho hổ báo vùi chôn trận tiền

Đánh cho quân giặc đảo điên

Thây phơi rợp đất, xác phơi đầy đồng

Vốn loài ăn cướp non sông

Tàn đời lũ giặc vùi chôn tàn đời.

Đây nói về Hung Quân Liệt kinh hồn bạt vía chưa biết chạy về hướng nào, thời nghe tiếng quát lanh lảnh:

Chạy đâu cho thoát.

Múa kiếm thúc ngựa lao vào chém Hung Quân Liệt, Hung Quân Liệt múa giáo chống trả.

Bỗng có tiếng quát như sấm:

Để thằng giặc nầy cho tôi.

Đinh Hoàng múa thương đâm tới vèo vèo, Hung Quân Liệt ra sức chống trả, bỗng có tiếng nói quân gia chạy theo lối nầy, Hung Quân Liệt còn tinh thần đâu mà chiến đấu, đành thúc ngựa đào tẩu.

Bỗng có tiếng quát:

Chạy đâu cho thoát.

Tức thời một người xuất hiện trường đao chém tới ầm ầm, Hung Quân Liệt kinh hãi:

Tướng Văn Lang ở đâu mà đông thế.

Ráng thúc ngựa chạy dài, quân Văn Lang tha hồ mà chém mà giết.

Đây nói về Hung Nô Vương trong lòng chưa hết kinh hãi:

Không hiểu quân Văn Lang ở đâu tới mà đông đến thế? Không lẽ từ trên trời rơi xuống? Từ dưới đất chui lên?

Hung Nô Vương phá vòng vây chạy về hướng Tây. Bỗng một tiếng quát như sấm nổ:

Ta chờ ngươi đã lâu mau nộp mạng đi.

Tức thời thanh trường đao như sấm sét đánh tới, tướng Hung Nô Vương đưa lao lên chống đỡ ầm ầm đùng đùng, vị Tướng Văn Lang nào để cho Tướng Hung Nô kịp trở tay, thanh trường đao như tia chớp chém tới Tướng Hung Nô tránh không kịp trúng một đao ngã gục. Hung Nô Vương lấy làm kinh khiếp, liền hóa phép nổi lên một trận cuồng phong mù trời mịt đất, phá vòng vây chạy trốn thoát, người Tướng Văn Lang kia là ai làm cho Hung Nô Vương khiếp vía như vậy, người đó chính là Đô Đại Tướng Cao Hải.

Đây nói về Đại Đô Tướng quân Cao Hải, sau khi thảo luận cùng Đinh Hoàng, những khó khăn cùng thuận lợi, những gì cần làm ngay, tất cả đều lên phương án cẩn mật cho trận tiêu diệt quân Hung Nô. Sau khi Đinh Hoàng đi rồi, Cao Hải cùng các Tướng Lĩnh với một quyết tâm cao, quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, không hổ danh là con Rồng cháu Tiên.

Sau có thơ khen rằng:

Từ thuở cha ông thuở Hồng Hoang

Anh Linh truyền xuống nước Văn Lang

Tiên Rồng nòi giống uy Linh ấy

Khí phách hùng anh ngút mây ngàn

Truyền thống Anh Linh rền trời đất

Quân thù cướp nước mộng tiêu tan

Phương Nam rền mãi lòng bất khuất

Trung, hiếu, trải lòng khắp nước non.

Cao Hải nói:

Chúng ta là con cháu Tiên Rồng, luôn luôn thừa kế những gì ông cha để lại. Bổn phận làm con cháu như chúng ta, phải hết lòng bảo vệ non sông Tổ Quốc, không để mất đi một tất đất, dù phải hy sinh tính mạng. Giặc Ân, giặc Hung Nô, giặc Hồ, chúng là loài yêu tinh, quỹ dữ, chuyên hút máu người, và luôn có dã tâm xâm lược đất chúng ta, chúng đã tràn qua, cướp của giết người, bắt dân ta làm nô lệ, ăn thịt trẻ con, hảm hiếp con gái, đàn bà, phụ nữ, vơ vét của cải, con gà con chó chúng chẳng tha, dân chúng khiếp sợ trốn chạy, bệnh tật, đói, rét, chết khắp nẻo đường, cha mất con, vợ mất chồng, mối thù xâm lược nầy chúng ta bắt chúng phải trả, chúng đã dẫm chân lên quê hương tổ quốc chúng ta, thời chúng không còn cơ hội để mà trở về, thân xác của chúng phải đổ xuống làm phân cho đất phương Nam. Chúng ta không thể đứng nhìn mà phải chiến đấu thật anh dũng. Chiến đấu quên mình, chiến đấu vì muôn dân, chiến đấu vì non sông tổ quốc. Đã ra quân thời quyết tử, các tướng nói theo đã ra quân thời quyết tử, đã ra quân thời quyết tử.

Cao Hải ra lịnh:

Bố Chính Ngô Việt, nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân dẫn 5 nghìn quân, tấn công vào Nam doanh trại của quân Hung Nô, đi ngay trong đêm nay, âm thầm lặng lẽ khi trời sáng thời cho quân ẩn núp thật kín đáo, cách xa doanh trại chúng chừng khoảng 20 dặm, không cho chúng phát hiện ra chúng ta, chờ đêm xuống chúng ta duy chuyển quân nhanh chóng, bất ngờ tấn công vào Nam doanh trại của chúng, tiêu diệt sạch, đốt sạch, tiến quân ra bao vây tiêu diệt quân Hung Nô, tuân lịnh.

Phan Thanh Hải, nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân dẫn 5 nghìn quân tấn công vào Tây doanh trại quân Hung Nô, đi ngay trong đêm nay, âm thầm lặng lẽ khi trời sáng thời cho quân ẩn núp thật khéo léo kín đáo, phải đảm bảo an toàn bí mật cách xa doanh trại chừng 20 dặm chờ đêm xuống chúng ta duy chuyển quân nhanh chóng bất ngờ tấn công vào doanh trại tiêu diệt gọn đốt sạch, rồi kéo quân phục kích đường mòn chận đánh đường rút lui của chúng, tuân lịnh.

Trương Việt Hàn, nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân dẫn theo 5 nghìn quân, bí mật đi đường vòng bọc xuống phía Đông, vượt qua địa giới thành Xích Linh, khi trời sáng thời cho quân ẩn núp kín đáo, cách xa doanh trại chừng 20 dặm không cho chúng phát hiện ra chúng ta, đêm xuống thời duy chuyển quân nhanh chóng bất ngờ tấn công vào Bắc doanh trại quân Hung Nô, tiêu diệt sạch, đốt sạch, rồi kéo quân ra phục kích những đường mòn tiêu diệt quân hỗn loạn tháo chạy của chúng, tuân lịnh.

Ngô Việt Tiên nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lãnh 2 vạn quân, từ phía tây đánh xuống phía sau lưng địch, dồn chúng vào chân tường thành Xích Linh, tha hồ mà chém giết, tuân lịnh.

Nguyên Hạo Hạo nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân thống lãnh 2 vạn quân từ phía Đông đánh thọc lên, bao vây tiêu diệt chúng, tuân lịnh.

Còn ta thống lãnh 3 vạn quân từ phía Nam sau lưng chúng đánh tới. Nói về các Tướng Lĩnh sau khi nhận lịnh âm thầm lặng lẽ triển khai lực lượng, di chuyển trong đêm, theo kế hoạch đã dự định, quân Hung Nô không hề hay biết gì cả, chờ đêm xuống là đồng loạt tấn công.

Đây nói về quân Hung Nô chỉ lo tập trung lực lượng công phá thành, vì chưa nắm bắt được thông tin quân chủ lực Văn Lang đã đến, nên không có sự đề phòng, quân Văn Lang lại vô cùng bí mật di chuyển. Quân Hung Nô công phá thành ba ngày mà không chiếm được, lại hao quân tổn tướng rất nhiều, đi tiêu ba vạn, Hung Nô Vương sôi gan, hộp hai con cùng các Tướng lĩnh, bàn kế sách chiếm cho được thành Xích Linh nội trong một đêm một ngày.

Hung Đa Di nói:

Hãy huy động toàn lực lượng thang giây, và nhiều phương tiện công phá thành khác, dồn hết tấn công vào đêm nay, sáng mai là chiếm lấy thành Xích Linh.

Hung Quân Liệt nói:

Hãy triệu yêu tinh, quỉ dữ đến làm phép yểm trợ cho quân ta, làm cho mù trời mù đất chúng không thấy được quân ta, chúng ta mới ồ ạt xông lên chiếm lấy thành nhanh chóng.

Hung Nô Vương khen:

Con nói phải.

Thế là trong đêm hôm đó quân Hung Nô dốc toàn lực lượng, công thành có sự yểm trợ của yêu tinh quỉ dữ. Ánh dương quang đã chìm lần trong đêm tối. Tiếng rỉ rả côn trùng, tiếng rì rào của gió, mãi rì rầm than thở liên miên, giọt sương còn chưa tượng hình thành. Thời bầu trời bỗng nhiên đen ngòm, tối mù tối mịt, đèn đuốc trên thành tắt ngúm hết thảy. Quân Hung Nô ào ào leo lên thành như nước tràn lên đê, trong đêm tối quân Xích Linh chém lớp nầy chúng ào lên lớp khác, không còn cách gì chống trả lại nổi. Trong tình thế nguy cấp cấp ấy.

Thời thấy ba doanh trại quân Hung Nô bốc cháy ngùn ngụt, lửa đỏ rực cả bầu trời, quân reo dậy đất, cùng lúc ấy cuồng phong mây đen cũng tan biến hết, quân Hung Nô khiếp hoảng khi nghe tiếng tù rút quân bỏ chạy, bị quân Xích Linh chém, bắn, xối xả chết la liệt, nằm dày trên mặt thành. Thấy quân Hung Nô rối loạn không leo lên tường thành nữa, theo còi lịnh quân Xích Linh mở cổng thành lao ra chém quân Hung Nô như chém chuối.

Về sau có thơ rằng:

Tiếng quân reo dậy trời dậy đất

Chiêng, trống rền khiếp vía Hung Nô

Đùng đùng đao kiếm như mưa

Ầm ầm trận địa khiếp kinh hãi hùng

Giặc Hung Nô bịt bùng gươm giáo

Đạp lên nhau chạy tháo, chạy chui

Tên bay, lao, giáo, khắp nơi

Hung Nô bỏ mạng ôi thôi khắp cùng

Một trận chiến lẫy lừng sông núi

Quân Hung Nô khiếp vía hồn kinh

Tiên Rồng nào phải dễ xơi

Tàn đời xâm lược ôi thôi tàn đời

Cờ đại nghĩa ngời ngời chiến thắng

Quân Hung Nô phơi xác như non

Đáng đời lũ giặc ngoại xâm

Đáng đời lũ giặc vùi chôn đáng đời.

Nói về quân Hung Nô bại trận chạy sống chạy chết khi không còn thấy quân Văn Lang rượt đuổi nữa, thời mới cho quân dừng nghĩ.

Hung Nô Vương than vắng thở dài:

Quân Văn Lang là quân Trời, mới lợi hại như vậy.

Điểm lại quân binh thời chết hơn phân nửa, Hung Nô Vương cứ than thở mãi. Bỗng thấy quân binh lao tới, Hung Nô Vương kinh hãi, tưởng là quân Văn Lang đuổi theo, chừng khi nhìn kỷ thời không phải, đó là tàn quân của Hung Đa Di, và quân của Hung Quân Liệt, cha con gặp nhau than thở không thôi.

Hung Quân Liệt, nói:

Không hiểu quân Văn Lang ở đâu ra mà đông đến thế, chạy chỗ nào cũng gặp phải quân Văn Lang.

Thật ra quân Văn Lang chỉ có 10 vạn mà thôi, chỉ khéo chủ động, bày binh bố trận, làm cho quân địch hoang mang khiếp sợ, cứ tưởng như hàng mấy mươi vạn quân. Trong chiến tranh, kẻ nào nắm chủ động, về tâm lý, chủ động về bày binh bố trận, chủ động về trận chiến, chủ động đường tiến lui, hiểu rõ về quân địch, mà địch chẳng hiểu rõ gì về mình, chủ động trong mọi tình huống, chủ động trong mọi thời cơ. Thời coi như phần thắng đã thuộc về mình, quân Hung Nô có hơn 30 vạn quân chỉ thua một trận mà đi tiêu hơn phân nửa, giờ chỉ còn, không đầy 15 vạn quân, Hung Nô Vương mất hết ý chí xâm lược.

Hai người con Hung Nô thấy vậy liền khuyên:

Còn nước còn tác củng cố lại lực lượng hợp với quân Ân, tiêu diệt quân Văn Lang.

Hung Nô Vương như có tia sáng liền cho người thám thính quân Ân thắng bại ra sao rồi hể tính.
 

PHẦN 11: BẠI LỘ CƠ MƯU

Đây nói về tình hình chiến sự Ninh Giao Châu, Lạc Đại Vương, Hầu Thái Công, Nguyên Dực, cùng các Tướng Lĩnh, bàn bạc đưa ra nhiều giải pháp ưu việt nhất, hiệu quả nhất, tiêu diệt quân Ân, quân Hồ.

Nào hay trong lúc bàn bạc, có hai con yêu tinh ẩn mình nghe lén, những cơ mật binh pháp, đây là một tổn thất lớn, có thể nói ván cờ đã bại lộ, đưa đến thất bại mà không hay biết gì cả. Sát Sát nương nương là tay xảo quyệt, nắm bắt tất cả cơ mật thông tin của quân Văn Lang, nhưng làm ra như mình không hay biết, quân binh không động đậy gì cả. Nhưng thật ra Sát Sát đã triển khai quân binh hết rồi, Tướng soái Nguyên Dực, nắm bắt được thông tin cuối cùng là quân Ân chưa xuất binh.

Nguyên Dực cùng các Tướng rời khỏi thành Ninh Châu trở về doanh trại, triển khai lực lượng, điều động quân binh, theo kế sách đã thống nhất chung, chia quân làm ba đạo quân Một đạo quân đến đồi Vạn Lâm phục kích. Một đạo quân bọc về hướng Đông vượt qua đồi Vạn Lâm, đánh bọc sau lưng chận đường rút lui của giặc. Một đạo quân chủ lực bọc về hướng Tây vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm, chận đứng đường tháo chạy quân Ân, rồi tiến thẳng chiếm lại thành Kinh Châu, khí thế ra quân với niềm tin chiến thắng.

Nói về Hầu Tướng Quân, theo lịnh của chủ soái Nguyên Dực, thống lãnh 5 vạn quân tức tốc lên đường trong đêm tối, đến đồi Vạn Lâm phục kích, trước khi trời sáng hầu tránh tai mắt quân Ân phát hiện. Khi đạo quân đến gần đồi Vạn Lâm, thời thấy âm khí nặng nề, sương rơi lớp lớp, cơn gió âm u như mang đầy sự chết chóc, hầu Tướng quân bỗng rùng mình như linh cảm có chuyện không may.

Số mệnh huyền cơ Trời đã định

Văn Lang tai nạn bởi nghiệp xưa

Hồn giặc phiêu phiêu trong gió bụi

Che chở giặc Ân hóa gió mưa.

Đồi Vạn Lâm cây cối rậm rạp, sương mù dày đặc, che chắn cả tầm nhìn. Sao mai đã mọc, nhưng màn đêm vẫn còn u tối, đại quân vừa tiến vào đồi Vạn Lâm.

Thời có tiếng nói:

Hầu Tướng Quân sao tôi linh cảm như có điều không may, chúng ta không nên tiến sâu vào đồi Vạn Lâm, hãy cho người thám thính thử xem.

Người vừa lên tiếng đó chính là nữ Tướng quân, Chăm Ly, Nữ Tướng tài năng quân Văn Lang. Hầu Tướng Quân, nghe Chăm Ly nói cũng phải, liền cho người đi sâu vào đồi Vạn Lâm thám thính.

Quân thám thính xong rồi trở ra báo:

Bẩm tướng quân ngoài sương mù dày đặc ra, thời không có động tịnh gì cả.

Hầu Tướng Quân nghe báo cáo như thế thời hơi an tâm. Đạo quân tiến sâu vào đồi Vạn Lâm, cả một khu đồi rộng lớn như thế, mà yên tĩnh lạ lùng.

Chăm Ly nói:

Theo kinh nghiệm của tôi, đáng lý ra giờ nầy thời nhiều loài chim đã thức giấc, chúng ríu ra ríu rít, nhiều loài thú đã đi ăn, nhưng đồi Vạn Lâm nầy cây cối vô cùng rậm rạp thế mà im tiếng lặng hơi.

Hầu Tướng Quân cũng thấy nghi nghi:

Nhưng đã kéo quân vào không lẽ lui quân trở ra, có lẽ chúng ta đa nghi quá cũng nên.

Thế là đạo quân vẫn tiếp tục tiến sâu vào đồi Vạn Lâm, đường sá quanh co rậm rạp, nhưng không có việc gì xảy ra, đồi rừng vẫn im lặng, một sự im lặng kỳ lạ vô cùng, khi đạo quân đã vào hết đồi Vạn Lâm.

Hầu Tướng Quân mới thở phào nhẹ nhõm nói:

Chúng ta đa nghi quá. Nào có thấy gì đâu?

Hầu Tướng Quân ra lệnh:

Hãy tìm nơi ẩn núp.

Lúc bấy giờ sương chưa tan vẫn còn che chắn tầm nhìn, trên vài mươi thước thời không thấy gì cả, huống chi là rừng rậm. Bỗng nghe tiếng tù khai trận nổi lên inh ỏi. Hầu Tướng Quân kinh hồn bạt vía.

Chăm Ly thét lớn:

Có quân mai phục.

Hầu Tướng Quân ra lệnh:

Rút lui, rút lui.

Quân binh tức thời hỗn loạn, dồn ép nhau thậm chí đạp lên nhau mà chạy, hai bên đường tên bắn ra như mưa trút, quân Văn Lang càng thêm hoảng loạn, bị trúng tên chết vô số kể.

Hầu Tướng Quân thét lớn:

Phá vòng vây rút lui.

Nhưng quân Ân đã tràn ra, chém giết quân Văn Lang, biết không còn rút lui được nữa.

Chăm Ly thét lên:

Lấy lại bình tỉnh, xông vào quyết tử với quân thù, tiến lên, tiến lên, tử chiến tử chiến.

Thế là quân binh bình tỉnh xông vào quyết tử với giặc Ân, trận chiến xảy ra long trời lở đất.

Sau có thơ khen rằng:

Tìm cái sống trong đường tơ kẽ tóc

Chí hùng anh lớp lớp xông lên

Dù ngã xuống nhưng linh hồn bất tử

Hãy tiến lên nào ta hãy tiến lên.

Quân Ân không ngờ quân Văn Lang anh dũng như vậy, anh dũng chống trả quyết liệt, lớp nầy ngã xuống lớp khác xông lên. Nữ Tướng Chăm Ly như con Phụng Hoàng tung bay trên đầu bầy sói, đường gươm như mưa sa bão táp, chém xối xả xuống quân thù, quân Ân rơi đầu lớp lớp.

Về sau có thơ khen rằng:

Nữ tướng tài cao được mấy người

Đường gươm vun vút chém quân thù

Thây người ngã gục ôi kinh khiếp

Anh linh hào kiệt rạng muôn thu.

Chăm Ly vừa chém quân thù vừa gào thét:

Tướng quân phá vòng vây thoát đi, để tôi chận đứng chúng.

Tức thời múa gươm chém tới ầm ầm, phá vòng vây cho Hầu Tướng Quân chạy thoát:

Về sau có thơ khen rằng.

Một mình tả đột hữu xông

Mở đường cứu Tướng má hồng máu tuôn

Đường gươm như ánh sao đêm

Chớp lòa vun vút chém bay đầu thù.

Hầu Tướng Quân rơi nước mắt, thét lên một tiếng như sấm nổ, múa đao lao vào chém giết quân Ân.

Về sau có thơ khen rằng:

Cái chết gần kề có sợ chi

Chết vì trung hiếu chết uy nghi

Đường đao trung dũng đầy khí phách

Tung hoành gào thét chết sá chi

Đã chết thời chết một lần

Chết cho non nước thêm phần uy linh

Hy sinh đến lúc hy sinh

Trải lòng trung hiếu còn chi vui bằng.

Tướng lĩnh quân Ân là Võ Vu, thấy Tướng nữ Văn Lang vô cùng xinh đẹp, có ý bắt sống về làm đồ chơi. Bằng sai Tiểu Hổ:

Ngươi xông xa bắt con nhãi đó cho ta.

Tiểu Hổ hiểu ý Chủ Tướng, bằng nói:

Tướng quân xài ớn rồi giao cho thuộc hạ.

Tiểu Hổ, từ nơi ẩn núp phóng ngựa lao ra, múa giáo chém tới Chăm Ly. Chăm Ly đang hăng say chém giết quân Ân, nghe tiếng hét sau lưng, lại nghe có gió giáo chém tới, liền nhanh như chớp lách người cả ngựa né tránh. Tiểu Hổ vốn là tay háo sắc, đánh những đòn chí tử nhưng không nguy hiểm, vì y muốn bắt sống Chăm Ly. Chăm Ly lúc nầy đâu còn nghĩ gì đến cái chết, mỗi đường gươm là mỗi đường thí mạng, lợi hại vô cùng, Tiểu Hổ vì quá háo sắc, Chăm Ly chém rơi đầu.

Về sau có thơ khen rằng:

Ghê thay nữ tướng anh hùng

Trước bầy sói dữ tung hoành xông pha

Đường gươm như ánh sao sa

Quân thù bỏ mạng khiếp kinh quân thù.

Võ Vu nhìn thấy nữ Tướng Văn Lang lợi hại như vậy, không còn mơ tưởng đến làm đồ chơi nữa, bằng ra lệnh:

Bắn chết nữ Tướng kia cho ta.

Tức thời hàng trăm hàng nghìn mũi tên lao tới, găm đầy mình như lông nhím, trước khi chết Chăm Ly hét lên một tiếng, đường gươm vun vút chém vào quân Ân, giết luôn một lúc mười tên nữa, vì sao Chăm Ly găm tên đầy mình mà không chết liền, là nhờ áo giáp đồng Trước cái chết đầy anh dũng của Chăm Ly.

Về sau có thơ khen rằng:

Trước lúc chết đầy hào hùng khí phách

Đầy hiên ngang lòng bất khuất biết bao

Thân ngã xuống, nhưng tâm hồn không ngã

Mãi sáng ngời như muôn vạn vì sao

Sao Mai đẹp mãi vì sao

Chăm Ly, đẹp mãi muôn thu sáng ngời.

Nói về Hầu Tướng Quân thấy Chăm Ly anh dũng hy sinh, liền quát lên một tiếng, múa trường đao chém tới tấp vào quân thù, chém quân Ân như chém chuối. Võ Vu Tướng giặc Ân kinh hãi, hét lớn:

Bắn chết Tướng Văn Lang kia cho ta.

Quân theo lịnh tập trung bắn Hầu Tướng Quân, Hầu Tướng Quân trúng tên đầy mình, trước khi chết trường đao vẫn chém xuống quân thù quân Ân khiếp vía kinh hoàng.

Về sau có thơ khen rằng:

Hầu tướng anh hùng khiếp ngoại xâm

Sá gì cái chết nhẹ hơn lông

Trung hoành ngang dọc xông pha chém

Kinh hồn bạt vía lũ giặc Ân.

Nói về quân Văn Lang như rắn mất đầu, thi nhau phá vòng vây bỏ chạy, năm vạn quân chỉ còn hơn một vạn, chạy trốn thất lạc khắp mọi nơi.

Thắng bại xưa nay quá rõ thì

Cơ mưu bại lộ hết đường đi

Bị động khó mong giành chiến thắng

Sử chép để đời có sai chi.



PHẦN 12: BẠI TRẬN

Cơ mưu bại lộ thật đớn đau

Sa vào cạm bẫy chết thảm sầu

Cơ Trời vận hóa còn đen thẩm

Kiếp nạn truyền miên trước lẫn sau.

Đây nói về Việt Luân Tướng Quân, thống lãnh 5 vạn quân bọc theo hướng Đông theo sự chỉ đường quân Ninh Châu, đạo quân đi đến gần sáng, khi đạo quân đi qua. Huyện Ninh Điền, bỗng có một luồng gió lạ thổi đến, làm gãy cây cờ chủ lực quân Văn Lang, ai nấy đều thất kinh, không hiểu là chuyện gì sắp xảy ra, địa phận Huyện Ninh Điền, không những dân thưa thớt, cây cối um tùm rậm rạp, khó mà phát hiện ra quân ẩn núp, lại thêm sương mù dày đặc, che chắn cả tầm nhìn, vượt qua Huyện Ninh Điền, thời coi như đã vượt qua khỏi đồi Vạn Lâm.

Việt Luân Tướng Quân, định cho đạo quân vượt qua khỏi Huyện Ninh Điền, thời cho quân dừng nghĩ ẩn núp tại đây, mới cho người thám thính động tỉnh của quân Ân. Lúc nầy trời cũng đã hừng hừng sáng, sương mù còn dày đặc chưa tan, đạo quân đang đi qua những chỗ hiểm địa, thời cây cối hai bên đường bỗng rung động, tức thời tiếng tù khai chiến nổi lên.

Việt Luân Tướng Quân thét lớn:

Có quân mai phục, có quân mai phục, mau vượt qua nơi hiểm địa.

Nhưng không còn vượt lên được nữa. Hai bên đường hiểm địa tên bắn ra như mưa, quân Văn Lang vô cùng hỗn loạn. Bỗng thấy một vị Tướng phi ngựa tới chỗ Việt Luân Tướng Quân nói:

Quân địch đã bao vây tất cả, chúng ta đang kẹt trong các chỗ hiểm địa, chỉ còn tử chiến với chúng mà thôi.

Việt Luân Tướng Quân lấy lại bình tĩnh ra lệnh cho toàn quân xông lên tử chiến, quân Văn Lang lấy lại bình tĩnh không còn rối loạn nữa, chiến đấu chống trả quyết liệt, xông lên tấn công quân Hồ.

Về sau có thơ rằng:

Thế cùng đường còn chi để mất

Nào xông lên càng quét quân thù

Đã vào trận kể gì sống chết

Hãy xông lên gào thét xung phong.

Nói về Hồ Man Quân thấy quân Văn Lang lọt vào hiểm địa vòng vây, thời coi như nắm chắc phần thắng, tha hồ mà chém giết quân Văn Lang. Hồ Man Quân khoan khoái vô cùng, Hồ Man Quân ra lệnh tấn công. Quân Văn Lang bất ngờ kinh hoàng khiếp vía, hỗn loạn bị trúng tên chết thôi là chết, không ngờ chiêng trống quân Văn Lang nổi lên, ngựa hí quân reo dậy đất, không còn rối loạn nữa, xông lên tử chiến, không còn biết sợ chết là gì nữa. Quân Hồ bất ngờ trước tinh thần anh dũng của quân Văn Lang, bị quân Văn Lang lao đến chém tơi tả.

Hồ Man Quân kinh hoảng trước dũng khí anh hùng của quân Văn Lang, bằng thúc quân giao đấu. Quân Hồ đã lợi thế mà còn chủ động trận địa, nên dù quân Văn Lang anh dũng mấy cũng khó mà chuyển xây tình thế được. Trận địa kéo dài cho tới giữa trưa, quân Hồ đi tiêu ba vạn, quân Văn Lang không còn một mạng.

Hồ Man Quân tuy thắng trận nhưng vẫn còn khiếp vía, nhìn lên trời than thở:

Quân Văn Lang là quân Thần quân Thánh, thảo nào hai trăm năm về trước quân Ân đã thất bại, không còn gì nghi ngờ nữa.

Hồ Man Quân, như muốn tiêu tan mộng xâm lược Văn Lang. Hồ Man Quân thắng trận những bao nỗi ê chề, đứt tiêu hơn ba vạn quân, thắng mà chẳng khác gì thua, thắng mà khiếp sợ trước quân Thần, quân Thánh, sự anh dũng không một người chạy trốn, không một người đầu hàng, chiến đấu tới hơi thở cuối cùng. Hồ Man Quân đây là lần đầu tiên nhìn thấy tinh thần chiến đấu, tinh thần quyết tử, cho Tổ Quốc quyết sinh của quân binh Văn Lang, đáng nể phục, đáng khiếp sợ. Hồ Man Quân nghĩ không hiểu những gì sẽ xảy ra đối với Địa Linh Sinh Nhân Kiệt nầy.

Đây nói về Bạch Tướng Quân dẫn theo 5 nghìn quân theo bảo vệ đội quân vận chuyển lương thực, hể nghe tin có trận giao chiến ở đồi Vạn Lâm, thời kéo quân tới yểm trợ. Đội quân vận chuyển lương thực đi chậm, sương mù xuống ước cả áo, tiếng gà rừng gáy như báo hiệu trời sắp hừng sáng. Một nỗi buồn như len lỏi vào linh hồn quân binh, không hiểu nổi buồn vì quê hương Tổ Quốc đang bị ngoại xâm dày xéo thảm thê, hay là nỗi buồn vì nhớ nhà khi nghe tiếng gà gáy, gọi cả đàn thức dậy, vui vầy bên nhau một ngày mới. Bạch Tướng Quân đang đi linh cảm như đang có trận giao tranh, ở tận xa xa không lẽ đồi Vạn Lâm đã vào chiến trận, sao không đúng như dự định theo kế sách đã bàn, liền sanh nghi cho quân vận chuyển lương thực dừng lại, liền cho người thúc ngựa nhanh chóng đến đồi Vạn Lâm nắm bắt tình hình.

Không bao lâu người đó trở lại nói:

Đồi Vạn Lâm đánh nhau rồi.

Bạch Tướng Quân linh cảm như là có chuyện không may, liền cho quân tản ra phục kích, chỉ còn một số ít binh lính đang dừng nghĩ bảo vệ đoàn xe lương thực. Bỗng nghe từ phía sau lưng, tiếng vó ngựa dồn dập mỗi lúc một rõ, Bạch Tướng Quân đoán chắc đó là tiếng vó ngựa của giặc từ sau đánh bọc tới cướp lấy tất cả lương thực.

Bạch Tướng Quân ra hiệu lệnh:

Khi nào địch lọt vào lưới mai phục thời mới tấn công.

Nói về Hổ Tiên Tướng giặc Ân dẫn theo 5 nghìn quân, nhanh chóng lên đường đánh bọc hậu cướp lấy lương thực vận chuyển quân Văn Lang. Hổ Tiên nắm bắt được thông tin tình báo là đoàn quân vận chuyển lương thực quân Văn Lang đã đến Huyện Gia Lâm.

Hổ Tiên nói:

Như vậy đoàn vận chuyển lương thực đã vượt qua chúng ta rồi, chúng ta từ phía sau bất ngờ đánh tới.

Do sương mù che chắn tầm nhìn, quân Ân chỉ thấy trước mắt là đoàn quân vận chuyển lương thực đang dừng nghĩ, chớ không thấy được số người, cứ nghĩ đây chính là cơ hội cho chúng bất ngờ tấn công, nếu đoàn quân vận chuyển lương thực có phát hiện thời cho đó là quân Văn Lang mà thôi. Hổ Tiên thúc năm nghìn quân lao vào chém giết, nhưng đến khi phát hiện là không có bao nhiêu người, chỉ toàn là xe lương thực, thời thất kinh. Bỗng thấy pháo lệnh tử chiến, quân Ân chưa kịp trở tay, thời tên giáo lao, bắn phóng ra như mưa, chiêng trống nổi lên rền trời rền đất, quân Ân bất ngờ trúng tên chết lớp lớp, quân Ân rối loạn chạy loạn xạ, bị quân Văn Lang hạ gục dễ dàng, quân Văn Lang thắng thế xông lên gươm, đao, giáo, mác ào ào chém tới như mưa, ngựa người quân Ân dẫm đạp lên nhau phá vòng vây mà chạy.

Hổ Tiên khiếp quá tìm đường tẩu thoát. Bỗng nghe một tiếng quát như sấm:

Chạy đâu cho thoát xem đây.

Hổ Tiên nghe tiếng gió đao chém tới, tức thời múa trường giáo lên chống đỡ, choang đinh tai nhức óc, Hổ Tiên cả người lẫn ngựa muốn ngã quỵ, không hiểu người nào mà thần dũng đến thế. Hổ Tiên thấy người chém mình là một dũng tướng to lớn, mặt vuông, mắt sáng, mình mặt giáp đồng, đầu đội kim khôi, oai phong lẫm liệt, thảo nào mà chẳng có sức mạnh kinh người, người chém Hổ Tiên một đao như trời giáng đó chính là Bạch Tướng Quân. Hổ Tiên biết đánh không lại phóng ngựa chạy tẩu thoát. Nhưng chạy đâu cho thoát hàng loạt mũi tên bắn trúng đầy mình, nhào xuống ngựa mà chết, quân Ân như rắn mất đầu, quân Văn Lang tha hồ mà đâm mà chém.

Về sau có thơ khen rằng:

Một trận chiến đầy mưu mô khôn khéo

Thời lo gì không chiếm được thương phong

Đường chiến thắng phải dựa trên mưu trí

Đạp quân thù như đạp cỏ dưới chân.

Mặt trời lúc nầy đã lên cao, nhưng che khuất bởi thời tiết âm u cái lạnh đã làm cho con người mau đói. Bạch Tướng Quân không còn nghĩ gì đến sự ăn uống nữa, tức tốc điều động năm nghìn quân, tức tốc đến đồi Vạn Lâm, thời lúc nầy trận chiến đã dừng hẳn, thấy xa xa trước mắt quân binh Văn Lang đang chạy thục mạng, mạnh ai nấy chạy không đoàn, không toán gì cả, thời đã biết quân Văn Lang đã thất trận. Bạch Tướng Quân cho bắn pháo hiệu là đã có quân cứu viện đến nơi, quân Văn Lang đang thất lạc chạy trốn thấy pháo cứu viện, liền cùng nhau chạy đến, người nào người nấy thở muốn hụt hơi, lăn đùng ra ngồi dậy hết nổi.

Nói về quân Ân tuy thắng trận, nhưng cũng đi tiêu hơn một vạn quân, nên không đuổi theo quân Văn Lang bỏ chạy, mà chỉ ra khỏi đồi Vạn Lâm chờ lệnh, những tốp quân binh Văn Lang chạy trốn sợ sự truy đuổi quân Ân, bỗng thấy hiệu lịnh cứu viện quân Văn Lang tất cả đều kéo tới hết, tính đi tính lại chỉ còn hơn một vạn quân, đi tiêu bốn vạn quân.

Bạch Tướng Quân liền hiểu rõ tất cả quân ta đã lọt hết vào ổ mai phục của chúng, nên mới thất trận thê thảm như thế nầy, các Tướng đều chết sạch, chỉ còn quân binh không. Bạch Tướng Quân cho người thám thính cánh quân bọc hướng Đông của Việt Luân Tướng Quân.

Không bao lâu thời quân thám báo kinh hãi về báo:

Bẩm Tướng Quân, quân ta đã chết sạch không còn một mạng tại Huyện Ninh Điền hết rồi.

Bạch Tướng Quân kinh hoàng nghĩ: Quân Ân lợi hại đến thế sao? Biết không thể nào đánh lại quân Ân, nên đành rút quân trở về Ninh Giao Châu, củng cố lại lực lượng.
 

PHẦN 13: ĐẠI CHIẾN QUÂN ÂN (1)

Đây nói về chủ soái Nguyên Dực, thống lãnh hơn 10 vạn quân bọc theo hướng Tây đồi Vạn Lâm, chận đánh đường rút lui quân Ân, rồi thẳng xuống Đông Bắc, chiếm lại thành Kinh Châu. Đại quân bọc Tây cách đồi Vạn Lâm hơn 15 dặm thời nghe như có trận chiến, những người có nội công thâm hậu mới có cảm giác nghe được.

Nguyên Dực lấy làm lạ tự hỏi: Không lẽ đồi Vạn Lâm đã xảy ra trận chiến. Nguyên Dực nghĩ không thể như thế được, nếu có trận chiến xảy ra phải đến chiều mai, quân Ân mới đến được đồi Vạn Lâm, không thể sớm như vậy được, lại nữa trời đã hừng sáng. Đại quân cũng sắp qua khỏi địa phận Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, đến Huyện Nam Tây Sơn Kinh Châu, trong lòng Nguyên Dực cứ mãi không yên, liền cho quân dừng nghĩ, cho hai toán quân đi thám thính, một là thám thính địa phận Huyện Tây Sơn Kinh Châu, hai là thám thính Đồi Vạn Lâm xem chuyện gì đã xảy ra.

Chủ soái Nguyên Dực hỏi:

Các tướng có nghe thấy gì không?

Có người nói:

Không nghe thấy gì cả.

Có người nói:

Hình như có trận chiến xảy ra.

Hai toán quân thám báo đi chưa được bao lâu thời liền quây trở lại cấp báo:

Bẩm chủ soái đồi Vạn Lâm đã xảy ra trận chiến, không biết thua thắng thế nào.

Toán quân thứ hai báo:

Bẩm chủ soái quân Ân cờ xí rợp trời đã vượt qua Huyện Tây Sơn tiến đánh chúng ta.

Chủ Soái Nguyên Dực ra lệnh:

Hãy bày binh bố trận.

Hiệu lịnh cờ trận phất lên, tức tốc đại quân duy chuyển chiếng trống nổi lên đại quân nhanh chóng lập thành ngũ hành trận, trung ương trận liền dựng lên một cái đài cao bảy thước, chủ soái Nguyên Dực trực tiếp chỉ huy. Đài vừa dựng xong thời quân Ân cũng vừa kéo đến, cờ xí rợp trời, dẫn đầu là một Tướng nữ trung niên vô cùng xinh đẹp.

Nguyên Dực hỏi:

Biết nữ Tướng đó là ai không?

Tức thời có người đáp:

Nhìn lá cờ lớn có hai chữ Sát Sát, thời cũng biết nữ Tướng trung niên xinh đẹp kia là vợ lớn của Ân Mao Vương, Ân Mao Vương có hai người vợ vô cùng lợi hại, khắc tiếng nước Man Du, đó là Sát Sát Ân Nương Nương, và Nghịch Phong Ân Nương Nương.

Người hiểu rõ về nữ Tướng giặc Ân đó là ai vậy, không ai khác hơn là Hầu Thái Công.

Đây nói về Sát Sát nữ Tướng giặc Ân, rầm rầm rộ rộ kéo quân tới, thấy quân Văn Lang đông như kiến, đã bày binh bố trận xong xui, sát khí trùng trùng.

Sát Sát hỏi:

Đây có phải là ngũ hành trận nổi tiếng mấy nghìn năm của quân Văn Lang không? Đã từng đánh bại nhiều quân xâm lược có phải không?

Có một vị Đạo Sĩ mặt xanh râu dài nói:

Bẩm Nương Nương quả đúng đây là trận ngũ hành, không dễ gì phá được, quân binh chuyển biến khó lường.

Sát Sát nói:

Không phá cũng phải phá, ngươi thử ước lượng phá trận ngũ hành nầy cần bao nhiêu quân.

Đạo Sĩ thưa:

Bẩm Nương Nương phải trên 15 vạn quân, ba vạn quân đánh một cửa, 12 vạn quân đánh bốn cửa, còn ba vạn quân thời đánh vào nơi trọng yếu của ngũ hành trận.

Sát Sát nghĩ mình có hơn 8 vạn quân thời khó mà đánh, liền cho người đến đồi Vạn Lâm, điều động quân binh Võ Vu bổ sung cho đủ quân số chịu trách nhiệm đánh Đông ngũ hành trận. Lại cho người tới Huyện Ninh Điền, điều động quân Hồ đánh vào cánh Nam ngũ hành trận.

Sát Sát ra lệnh:

Hồ Phiên nghe lịnh, có thuộc hạ, Tướng quân thống lĩnh ba vạn quân, chịu trách nhiệm đánh cánh Tây ngũ hành trận, thuộc hạ tuân lịnh. Tào Côn thống lãnh 3 vạn quân chịu trách nhiệm đánh Bắc ngũ hành trận.

Nói về Võ Vu tuy thắng trận ở đồi Vạn Lâm nhưng cũng đi tiêu hơn một vạn quân, vẫn còn đang khiếp vía trước tinh thần chiến đấu anh dũng của quân Văn Lang, còn hai vạn quân rút ra khỏi đồi Vạn Lâm chờ lịnh. Tính tới tính lui chỉ còn một vạn rưởi quân là còn chiến đấu được, còn hơn năm nghìn quân bị thương tơi tả không dùng được, thời thở dài quân Văn Lang quả là quân Thần, quân Thánh, trong lúc đang thở dài, thời có chỉ lệnh đưa đến, mau tức tốc đến Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, bổ sung quân cho đủ ba vạn chịu trách nhiệm đánh cửa Đông ngũ hành trận quân Văn Lang.

Nói về Hồ Man Quân tuy thắng trận nhưng cũng đi tiêu mất hai vạn quân, Hồ Man Quân khi thống lãnh quân binh tràn qua đất Văn Lang, đánh đâu thắng đó một cách dễ dàng, giết hơn mấy Vua Việt, chiếm lấy Châu, Huyện, một cách dễ dàng, sanh ra kiêu ngạo, không coi quân Văn Lang vào đâu. Không ngờ đụng phải quân chủ lực Văn Lang, một loại quân anh dũng kiên cường, chiến đấu không khác gì loài mãnh hổ. Tử chiến không bỏ chạy chiến đấu quyết liệt, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Tuy lọt vào vòng vây hiểm địa nhưng anh dũng đánh bật lại bất ngờ quân Hồ kinh khiếp, bỏ mạng hơn hai vạn quân. Quả là quân Thần, quân Thánh.

Hồ Man Quân được lệnh điều động quân đến Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, chịu trách nhiệm đánh thẳng vào cánh Nam ngũ hành quân Văn Lang, Hồ Man Quân tức thời điều động quân binh lên đường ngay, không bao lâu thời tới Huyện Bắc Sơn, đứng xa xa nhìn thấy Nam trận ngũ hành sát khí trùng trùng, thời nghĩ thầm, phương Nam có trận pháp ngũ hành lợi hại vô cùng, biến hóa khó lường, muốn phá trận ngũ đâu phải dễ không kéo thời bỏ mạng như chơi.

Bằng viết mật thư gởi cho Hồ Nghi Vương. Đại ý mật thư nói rằng: Quân Ân liên kết với quân Hồ ta, đã chiếm lấy thành Kinh Châu, đánh bại 5 vạn quân chủ lực Văn Lang ở đồi Vạn Lâm, quét sạch 5 vạn quân chủ lực Văn Lang ở tại Huyện Ninh Điền, giờ lại tiến đánh phá đại quân chủ lực Văn Lang tại Huyện Bắc Sơn Ninh Châu, thời coi như chiếm lĩnh toàn bộ Bắc Văn Lang. Chúng ta nhân cơ hội phá trận nầy, chiếm luôn thành Ninh Châu, trước quân Ân.

Nói về Hồ Nghi Vương lòng đầy tham vọng, hầu muốn nuốt nhanh chóng Tây Bắc Văn Lang, chỉ cần nuốt được Kiến Châu, thời coi như đã nuốt trọn Tây Văn Lang, nhưng chưa tìm ra cách chiếm lấy thành Kiến Châu, vì thành Kiến châu kiên cố, lại có cha con Châu Phủ Châu An, tài giỏi nhất là Châu Tiên. Có pháp thuật thần thông cao cường, lại thêm quân binh quyết lòng chống trả. Nên không dễ gì chiếm thành trong ngày một ngày hai được. Hồ Nghi Vương cũng không dại gì công phá thành, khi chưa nắm được phần thắng. Chỉ cần bao vây thành Kiến Châu, thời thành Kiến Châu sớm muộn gì cũng vào tay mình. Đang lúc cho người tom góp ngọc ngà châu báu đã vơ vét từ các Quận Huyện, Châu Phủ, mười mấy xe, lúa gạo, trâu bò, dê lợn, gà vịt, nhiều vô số kể, nhất là trẻ con thời không gì bằng, chúng nấu hầm mà tẩm bổ, quân Hồ, quân hung Nô, uống máu ăn thịt người là chuyện bình thường. Trong lúc hai con mắt hau háu nhìn vàng bạc châu báu ớn thời sang qua nhìn những cô gái tơ có vẻ khoang khoái lắm, gái tơ chính là sở thích của yêu Hồ, tính đưa tay chụp một cô nõn nà, thời có người vào báo:

Bẩm Chúa Vương, có người đưa thư đến.

Hồ Nghi Vương cho đòi người đưa thư vào, đó là một quân thám báo thân cận của Hồ Man Quân. Hồ Nghi Vương đọc xong ra chiều suy nghĩ, rồi kêu Hồ Mị Hoa đến nói:

Con thống lãnh 2 vạn quân tới trợ giúp cho chú con Hồ Man Quân, tiêu diệt quân chủ lực Văn Lang đang đóng ở Huyện Bắc Sơn Ninh Châu. Hồ Man Quân là em của Hồ Nghi Vương, phá trận ngũ hành quân Văn Lang xong, nhanh chóng chiếm lấy thành Ninh Châu.

Hồ Mị Hoa liền thống lãnh 5 vạn quân nhanh chóng đến Huyện Bắc Sơn, theo mật thư của Hồ Man Quân.



PHẦN 14: ĐẠI CHIẾN QUÂN ÂN (2)

Đây nói về chủ soái Nguyên Dực, ở trên đài quan sát thấy quân Ân đang chuyển động quân binh, từ bốn hướng kéo đến bốn cửa trùng trùng điệp điệp. Có lẽ chuẩn bị phá trận. Tức thời phân bổ các Tướng thống lĩnh quân binh trấn giữ ngũ hành trận, chuẩn bị cho trận chiến quyết tử cao độ nhất.

Chủ Soái Nguyên Dực ra lệnh:

In Đô Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó nữ Tướng là La Ha, Tiên Ngung. Thống lãnh hai vạn quân, chia làm chia làm năm đạo quân. Bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh. Trấn thủ tại trung ương hành kim, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

Lô Gô Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng là Phô Rô, Cam Bô, thống lãnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ tại trung ương hành mộc, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

Lê Anh Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là Đoàn Minh, Hoàng Thi, thống lĩnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành thủy, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

Dương Điền Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là La Đôn, Kinh Hạ, thống lĩnh hai vạn quân, chia làm năm đạo quân, bộ binh, xa binh, kỵ binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành hỏa, lập đài quan sát phất cờ chỉ huy, tuân lịnh.

Lý Hiển Tướng quân nghe lịnh, có thuộc hạ. Tướng quân cùng hai phó Tướng quân là Trịnh Đức, Mai Phi, thống lĩnh hai vạn quân, chia là năm đạo quân, bộ binh, kỵ binh, xa binh, xạ binh, giáp binh, trấn thủ Trung ương hành thổ, chuyển hóa bổ sung, hỗ trợ, những đạo quân, kim – mộc – thủy – hỏa, khi yếu hơn thế lực của địch, theo hiệu lịnh của trung ương tổng đài, tuân lịnh.

Từ thế trận ngũ hành, chuyển sang biến hóa thế trận ngũ hành, tức thời sát khí trùng trùng, mây đen ngùn ngụt, cuồng phong chuyển động, kỳ ảo lạ kỳ.

Đây nói về Sát Sát thống lĩnh quân Ân ở trên đài quan sát thấy ngũ hành trận trong phút chốc biến hóa kỳ ảo như vậy, cũng phải kinh hãi. Liền hỏi Đạo Sĩ mặt xanh râu dài:

Đạo Sĩ có biết phá trận ngũ hành nầy không?

Đạo Sĩ mặt xanh râu dài chính là thanh sư, không những có pháp thuật mà còn biết nhiều hiểu rộng. Thanh Sư nói:

Thưa Nương Nương, trận ngũ hành lợi hại là do năm ngọn cờ chính điều khiển chỉ huy, tùy theo trình độ của người chi huy mà lợi hại, nên khó mà đoán được.

Sát Sát nói:

Ta đã quan sát thấy mỗi chi ngũ hành ước lượng chỉ có hai vạn quân. Còn ta có tới ba vạn quân, số lượng hơn chúng quá lớn ta ra lịnh đồng tấn công một lượt, chỉ cần phá vỡ một chi ngũ hành, thời nhất định trận ngũ hành trận sẽ bị phá vỡ ngay.

Sát Sát lấy làm đắc ý cho cách phá trận của mình, liền ra lịnh đồng loạt tấn công.

Đây nói về Trung tâm hành kim, tín hiệu pháo lịnh đã bắn lên báo hiệu quân Ân bắt đầu tấn công. Tức thời Trung ương hành kim trên đài quan sát năm màu cờ bắc đầu chuyển động.

Nói về Hồ Phiên, thống lãnh ba vạn quân, thấy quân binh Văn Lang thưa thớt, chẳng có gì là lợi hại cả, ta chỉ cần năm nghìn kỵ binh, năm nghìn xạ binh, năm nghìn bộ binh là đánh thủng vào Trung ương ngay. Liền sai Tướng Ung Beo chỉ huy năm nghìn bộ binh ào ào xông vào trận. Khí thế tràn vào như nước lũ, bộ binh xông đến đâu thời quân Văn Lang dạt ra đến đó, tiến sâu vào hơn dặm, hò hét dậy trời. Tướng giặc Hồ Phiên cười ngất, ta cứ nghĩ ngũ hành trận lợi hại lắm, chẳng qua cũng thế thôi. Bỗng nghe chiêng trống nổi lên dạy trời, quân reo dậy đất, mây đen cuồn cuộn, phủ tới, năm nghìn quân Ân không thấy đâu nữa, chỉ nghe đao kiếm đinh tai nhức óc.

Hồ Phiên ra lịnh tức thời năm nghìn quân xạ tiễn do Hốt Ma điều khiển ào ào xông trận, quân binh lao vào như thác đổ, tìm quân địch tấn công, nhưng không thấy chi cả như lạc vào chốn hoang vu. Hốt Ma kinh hãi, đây là đâu sao kỳ lạ thế nầy, trong lúc hoang mang thời bỗng nghe chiêng trống dậy trời, thời thấy đội quân thiết giáp trong mây đen xuất hiện cắt đôi năm nghìn quân xạ tiễn. Hốt Ma kinh hãi chưa biết phải làm sao thời thấy xuất hiện hai Tướng cỡi ngựa thiết kỵ giáp lao nhanh tới chém Hốt Ma. Hốt Ma vì quá hoang mang sợ hãi hơn nữa một Tướng khó địch lại hai Tướng, trúng liền hai đao đứt làm hai đoạn, quân Ân như rắn không đầu, chỉ trong vòng chốc lát không còn một mạng.

Hồ Phiên thấy tình thế không xong, liền ra lệnh kỵ binh xung trận. Phiêu Liêu, điều khiển năm nghìn kỵ binh nhanh chóng lao vào nhập cuộc, không ngờ bị xa quân những chiếc xe đầy chông sắt lao tới tấn công, làm cho đội kỵ binh hỗn loạn, xạ binh quân Văn Lang bắn tên ra như mưa, đội kỵ binh quân Ân chết thôi là chết, thi nhau chạy thục mạng, thoát ra khỏi trận ngũ hành, chết hơn phân nửa. Hồ Phiên tái mặt than trời khóc đất, không dám đưa quân vào trận nữa, coi như đi tiêu hơn một vạn quân. Hồ Phiên bây giờ mới biết lời đồn quả không sai, nước Văn Lang có ngũ hành trận vô cùng lợi hại.

Nói về In Đô, Tiên Ngung, La Ha. Trấn thủ Tây ngũ hành, In Đô Tướng quân ở trên đài quan sát ở Trung ương hành kim, chỉ huy năm đội quân ngũ kỳ, năm màu, trắng, xanh, đen, đỏ, vàng. Tiên Ngung thống lĩnh hai đạo quân cờ trắng, cờ xanh. La Ha, thống lĩnh hai đạo quân cờ đen, cờ đỏ, ở trên đài quan sát. In Đô Tướng quân nhìn thấy quân Ân triển khai ba đạo quân, đạo bộ binh, đạo xạ binh, đạo kỵ binh, mỗi đạo ước lượng năm nghìn người. In Đô nhìn thấy đội quân bộ binh tấn công trước, liền phất cờ vàng, ra hiệu. Tiên Ngung, La Ha, thấy cờ hiệu trên quan sát đài, liền tức tốc thu quân ẩn mình trong mây trận.

Đạo quân bộ binh do Ung Beo thống lĩnh điều khiển, ào ào như nước lũ tiến vào trận, không gặp trở ngại nào cả thấy toàn là mây đen cuồn cuộn, Đạo quân cứ tiến sâu vào vùng đất hoang vu. Ung Beo vô cùng kinh hãi, liền ra lệnh cho Đạo quân lui trở ra. Khi ấy trên quan sát đài, đội kỳ cờ trắng, cờ xanh, xuất hiện theo thế bao vây. Tức thời La Ha nhanh chóng phất cờ ra lịnh hai Đạo quân, nhanh chóng lao ra bao vây, quân Ân vô cùng kinh hãi ra sức chống trả, cùng lúc ấy trên đài quan sát In Đô tự tay phất cờ vàng, tức thời hai nghìn binh thiết giáp, từ Trung ương hành kim nhanh chóng ào ào lao ra chém giết quân Ân như chém chuối loáng cái là chết sạch. Cờ trắng, cờ xanh, trên đài quan sát biến mất, thay vào đó là cờ đỏ, giáp binh, hành hỏa bao vây, cờ vàng thiết giáp kỵ binh hành thổ tấn công.

Nói về Hốt Ma nghe trận chiến rền trời rền đất nhưng không thấy vì mây đen cuồn cuộn che chắn tầm nhìn, liền điều động năm nghìn quân xạ tiễn xông vào hiệp lực tấn công. Đội quân xạ tiên tiến sâu vào không thấy Đạo quân bộ binh đâu cả, vô cùng kinh hãi chưa biết phải tiến vào đâu, thời nghe chiêng trống dậy trời. Đội quân áo giáp ào ào hiện ra bao vây, lao tới chém Đạo quân xạ tiễn quân Ân tới tấp. Hốt Ma kinh hãi ra lệnh lập trận xạ tiễn chống trả lại, nhưng không còn kịp nữa, Đạo quân thiết giáp từ sau đánh tới vó ngựa rền trời, lao vào chém quân Ân như chém chuối, chỉ trong chốc lát quân Ân chết sạch, Hốt Ma bỏ mạng sa trường.

Nói về Phiêu Liêu, Tướng giặc được lịnh tức thời điều động năm nghìn kỵ binh, tức tốc lao vào trận, xáp chiến, kỵ binh quân Ân như cuồng phong ào ào bay vào trận. Khi ấy trên đài quan sát cờ đen xa quân Đạo quân xe đầy chông sắt, xích sắt, theo thế cắt đôi quân địch, cùng lúc, cờ trắng, cờ xanh, cờ đỏ, cờ đen, đồng loạt xuất hiện tấn công. Nói về Phiêu Liêu, thống lãnh kỵ binh xông vào trận, thời không thấy Đạo quân bộ binh, Đạo quân xạ binh đâu nữa, mà chỉ thấy quân Văn Lang trùng trùng điệp điệp ẩn hiện trong mây đen, di chuyển ẩn hiện một cách kỳ lạ, chưa biết tấn công vào đâu, thời nghe xe cộ duy chuyển đùng đùng, lao ra cắt đôi kỵ binh quân Ân, tức thời bốn phương tám hướng đồng loạt tấn công. Đạo quân kỵ binh Ân chống trả không nổi, bỏ mạng vô số kể. Phiêu Liêu kinh hãi cùng kỵ binh sống sót lao ra khỏi trận, kinh hồn bạt vía.

Về sau có thơ rằng:

Tưởng rằng phá trận dễ như không

Nào hay bỏ mạng lấp vùi chôn

Ngũ hành trận pháp ôi huyền bí

Biến ảo vô cùng giặc khiếp kinh

Hơn vạn giặc Ân trong nháy mắt

Vùi chôn thân xác chẳng còn tên

Kinh hồn bạt vía quân ăn cướp

Bỏ mạng tàn đời lũ yêu tinh

Nghe chiến trận gươm đao gào thét

Cõi trời Nam đau xót muôn dân

Hỡi giặc Ân nầy hỡi giặc Ân

Cớ sao mi lại chiếm xâm cõi bờ

Giờ đến lúc từ già đến trẻ

Hãy đứng lên chống trả quân thù

Đã chung dòng máu đồng bào

Tay gươm tay giáo quyết nào tử sanh.



PHẦN 15: TỬ CHIẾN

Nói về Lô Gô, Phô Rô, Cam Bô. điều khiển hai vạn quân binh, trấn giữ hành mộc, nơi Trung ương hành mộc. Phô Rô, thống lĩnh hao Đạo quân, cờ trắng, cờ xanh, Cam Bô, thống lĩnh hai Đạo quân, cờ đen, cờ đỏ, trên đài quan sát, Lô Gô thấy từ xa từ nơi đại quân Ân ba Đạo quân cùng một lúc xuất phát, Đạo quân bộ binh, Đạo quân xạ binh, đạo quân kỵ binh, mỗi Đạo quân năm nghìn quân, đồng loạt tấn công Đông ngũ hành, với khí thế như cuồng phong vũ bão, quân Ân ào ào lao vào trận.

Ỷ mình cậy thế quân đông

Ào ào lao tới phá tan ngũ hành

Ba đạo quân cuồn cuộn xông vào

Gươm, đao, giáo, mác, sáng ngời khiếp kinh.

Lô Gô nhìn thấy quân giặc tấn công một lúc ba Đạo quân như vậy, liền phất cờ cho bốn Đạo quân ẩn sâu vào trận, phất cờ phong trận lên hư không, tức thời từ nơi đài cao Trung ương ngũ hành mây đen, mây trắng cuồn cuộn bay ra phủ kín bốn Đạo quân Văn Lang.

Đây nói Võ Vu, đã từng nghe tiếng ngũ hành trận vô cùng lợi hại, nếu không đưa quân đánh tốc chiến, tốc thắng, liên kết ba Đạo quân với nhau, thời khó mà phá được, liền ra lệnh cho ba Đạo quân cùng một lúc tiến vào, Lỗ Đại Đạo quân kỵ binh, Tấn Beo đạo quân xạ binh, Ngụy Hàn Đạo quân bộ binh. Ba Đạo quân ào ào xông vào trận, thời như lạc vào vùng đất mênh mông mây đen, mây trắng, cuồn cuộn, không thấy một bóng người, quân Ân vô cùng sợ hãi không biết quân địch ở phương nào mà tấn công, ba Đạo quân Ân bỗng thấy một Đạo quân xuất hiện, tấn công chúng, chúng liền hiệp lực lao tới tấn công, hai bên giao tranh giữ dội, quân Văn Lang chống trả không lại liền bỏ chạy, quân Ân liền đuổi theo, bỗng quân Văn Lang biến mất. Quân Ân vô cùng kinh hãi, chưa kịp biết phải làm sao, thời nghe chiêng trống dậy trời, tên bắn ra như mưa.

Lỗ Đại, Tấn Beo, Ngụy Hàn, la lớn, rút lui, rút lui, chúng ta đã lọt vào ổ phục kích, quân Ân rối loạn, quân Văn Lang dốc toàn lực lượng phản công, chớp nhoáng, sấm sét, từ bốn phương tám hướng đánh tới tấp, quân Ân đạp lên nhau mà chạy. Lỗ Đại, Tấn Beo, Ngụy Hàn, ra sức thoát ra khỏi trận nhưng không biết cửa ra ở đâu, bằng phóng ngựa hầu tìm đường tẩu thoát, Lỗ Đại bỗng nghe một tiếng quát to như sấm, ta chờ ngươi ở đây đã lâu, nộp mạng đây, tức thời từ trong mây trắng một người xuất hiện, oai phong lẫm liệt, múa trường thương người ngựa lao tới đâm Lỗ Đại một nhác. Lỗ Đại múa giáo chống đỡ, hai bên đánh nhau mấy hiệp, Lỗ Đại quày ngựa bỏ chạy. Tướng Văn Lang quát, chạy đâu cho thoát, tức thời bắn một phát, Lỗ Đại trúng tên độc nhào xuống ngựa bỏ mạng, người bắn chết Lỗ Đại chính là Phô Rô.

Nói về Tấn Beo không ngờ ngũ hành trận lợi hại như vậy, vào trận thời được nhưng ra thời không biết đường, đang phi ngựa tìm đường tẩu thoát, thời thấy đội quân thiết giáp chận đường, liền quày ngựa chạy ngược trở lại, nào ngờ hai bên tên bắn ra như mưa, Tấn Beo trúng tên khắp mình bỏ mạng.

Nói về Ngụy Hàn, đằng sau kỵ binh rượt đuổi, trước mắt là xạ binh bao vây, Ngụy Hàn không còn đường nào khác là thúc ngựa lao vào xạ binh, không ngờ thoát ra khỏi trận, quân Ân ào ào xông tới chận đứng quân Văn Lang không cho truy sát Ngụy Hàn. Ngụy Hàn trúng tên khắp mình nhưng chưa chết hẳn, nói với Võ Vu rằng, quân ta chết hết rồi. Ngụy Hàn nói xong thời tắc thở, hồn chầu âm phủ. Võ Vu kinh hãi, không dám đưa quân vào phá trận nữa.

Nói về Lô Gô ở trên đài quan sát, thấy quân Ân đã lọt hết vào trận, tức thời phất cờ trận dụ quân Ân sa vào bẫy lưới phục kích, quân Ân không hiểu sự biến ảo của ngũ hành, rượt đuổi quân Văn Lang, thế là quân Ân bị tấn công tới tấp, dẫn đến rối loạn. Lô Gô liền phất cờ hiệu vàng, tức thời đội quân thiết giáp từ Trung ương hành mộc kéo ra chận đứng cửa ra, quân Ân kinh khiếp rối loạn tháo chạy trở ra, liền bị Đạo quân thiết giáp Văn Lang đánh bật trở vào, không biết nơi nào là đường trở ra nữa, chạy toán loạn bị quân Văn Lang hốt sạch không còn một mạng.

Về sau có thơ rằng:

Ngũ hành trận pháp của Ông Cha

Đã từng vùi dập giặc can qua

Lẫy lừng trận pháp rền sông núi

Khiếp vía hồn kinh lũ yêu ma.

Đây nói về Hồ Man Quân, cùng Hồ Mị Hoa, thấy ngũ hành trận sát khí trùng trùng, nhất là nơi trung tâm ngũ hành trận mây đen, mây trắng, cuồn cuộn, như có một quyền lực vô tận, làm cho ngũ hành trận biến hóa khó lường.

Hồ Mị Hoa bằng nói với Hồ Man Quân rằng:

Khi con học Đạo với thầy con, thầy con có nói nước Văn Lang có ngũ hành trận vô cùng lợi hại. Nhưng lợi hại hơn nữa là còn tùy thuộc vào cơ trí của người điều khiển, không nên xem thường, phải hết sức bình tỉnh mới phá được, chỉ cần phá được một phương ngũ hành, thời bốn phương ngũ hành kia tức thời yếu đi, nhờ đó quân ta mới phá tan ngũ hành nhanh chóng.

Hồ Cổn Quân nói:

Để con tiên phong phá trận cho, bằng điểm một vạn binh mã, bộ binh, kỵ binh, xạ binh.

Hồ Mị Hoa nói:

Cháu thống lĩnh hai vạn quân theo sau yểm trợ.

Hồ Man Quân lấy làm yên lòng vì hiểu rõ tài phép của Hồ Mị Hoa.

Nói về Dương Điền, La Đôn, Kinh Hạ, thống lĩnh quân binh trấn giữ phương Nam hành hỏa. Trên đài quan sát, Dương Điền thấy quân Hồ đông như kiến, từ đại quân tách ra một đạo quân ước lượng một vạn quân, bộ binh, xạ binh, kỵ binh, nhanh chóng xông vào trận. Tức thời trên đài quan sát xuất cờ trắng, cờ xanh hiệu lịnh tấn công, chậm đứng thế mạnh ồ ạt tấn công quân địch. Thế là gươm đao giáo mác, quân reo ngựa hí dậy trời, hai bên xáp chiến long trời lở đất.

Thế là trận chiến long trời

Ngựa người lao tới ầm ầm kinh thiên

Giáo gươm dậy núi dậy non

Chiêng rền, trống dội bụi bay mịt mù

Quân Ân ỷ mạnh tràn vào

Sóng người cuồn cuộn khác nào thác tuôn

Trên đài cờ phất rút lui

Văn Lang quân tướng thi nhau ẩn mình

Quân Hồ rượt đuổi ầm ầm

Nào hay chẳng thấy quân thù nơi đâu

Quân Hồ kinh hãi, hãi kinh

Lạc vào ổ phục quân binh dậy trời.

Đây nói về quân Văn Lang, chiến đấu quyết liệt với quân Ân giả đò thua bỏ chạy, quân Ân rượt đuổi theo ầm ầm, chỉ trong vòng chớp mắt quân Văn Lang biến mất, mây đen mây trắng cuồn cuộn bao phủ. Quân Hồ lạc mất phương hướng không biết quân địch ở chỗ nào, đang hoang mang kinh hãi. Thời nghe chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất, tên từ bốn phương tám hướng bắn như mưa. Quân Hồ trúng tên chết la liệt, hỗn loạn đạp lên nhau mà chạy, chạy chỗ nào cũng bị quân Văn Lang nhưng đội quân ma quỷ, bám theo chém giết ầm ầm.

Nói về Hồ Cổn, thấy quân Văn Lang chống trả không lại bỏ chạy, liền thúc quân lao theo chém giết hò hét dậy trời. Bỗng thấy mây đen, mây trắng, cuồn cuộn kéo tới tức thời quân Văn Lang biến mất. Hồ Cổn kinh hãi không biết địch ở nơi nào, lại lạc mất phương hướng không biết đâu là Đông Tây Nam Bắc, liền ra lịnh thối lui, nhưng không còn kịp nữa, bốn phương tám hướng chiêng trống dậy trời quân reo dậy đất tên bắn ra như mưa, chết thôi là chết.

Hồ Cổn tìm đường tẩu thoát nhưng nơi nào cũng toàn là quân Văn Lang tên bắn xối xả. Hồ Cổn cùng tốp kỵ binh phá vòng vây thoát ra, chạy một hơi nhưng không thấy lối ra đâu cả kinh hoàng khiếp vía, bỗng nghe tiếng quát chạy đâu cho thoát tức thời kỵ binh thiết giáp xuất hiện bao vây. Kỵ binh quân Hồ liều mình chống trả, nhưng chống trả làm sao nổi bỏ mạng lớp lớp. Hồ Cổn liều mình phá vòng vây bỏ chạy thục mạng, không biết là mình chạy đến nơi nào. Bỗng nghe tiếng quát chạy đâu cho thoát, tức thời ba người xuất hiện chận đầu. Hồ Cổn càng thêm khiếp vía, người ở bên phải nói để thuộc hạ đưa tên nầy về chầu âm phủ. Tức thời múa đao thúc ngựa lao tới chém Hồ Cổn một đao như trời giáng. Hồ Cổn múa giáo chống đỡ, choang đinh tai nhức óc. Hồ Cổn mạnh vô cùng, không dễ gì một đao mà hạ gục được. Người bên trái thấy thế nói, tên Tướng giặc nầy quả là lợi hại để thuộc hạ lao ra hợp sức hạ gục cho rồi. Tức thời múa đao thúc ngựa lao ra chém tới tấp vào Hồ Cổn. Hồn Cổn võ nghệ cao cường khó mà hạ gục được. Vị Tướng Văn Lang thấy thế liền phi ngựa lao vào xáp chiến Hồ Cổn đánh không lại ba người đành bỏ mạng.

Nói về Hồ Mị Hoa, chỉ huy hai vạn quân theo sau yểm trợ, vừa lao vào trận chiến thời không còn nhìn ra phương hướng nữa, mây đen, mây trắng, cuồn cuộn. Bỗng thấy quân binh hỗn loạn, Hồ Mị Hoa thét lớn tất cả đều không được hỗn loạn. Hồ Mị Hoa giật cả mình, khi thấy đạo quân thiết giáp không biết từ đâu kéo ra cắt đôi đạo quân của mình, làm cho đạo quân rối loạn. Hồ Mị Hoa thúc quân quay ngược trở lại chống trả. Không ngờ từ phía sau quân Hồ, quân Văn Lang như cuồng phong vũ bão từ phía sau đánh tới. Trước mặt quân địch, sau lưng quân địch, đánh như mưa trút, quân Hồ tá hỏa, thi nhau ngã gục.

Nói về quân Hồ bị cắt đôi không còn tiếp ứng với nhau được nữa, bị đạo quân thiết giáp đánh bật lui ra khỏi trận địa, còn một nửa trong trận địa hỗn loạn, bị quân Văn Lang chém giết tơi bời. Hồ Mị Hoa không biết đâu là đường ra mây đen, mây trắng cuồn cuộn che chắn hết cả tầm nhìn, chiêng trống dậy trời, quân reo dậy đất chỗ nào cũng có quân Văn Lang. Hồ Mị Hoa giờ đây mới biết ngũ hành trận pháp vô cùng lợi hại, phải phá tan mây đen, mây trắng, mới thấy được phương hướng thoát ra, liền hóa phép. Không ngờ càng hóa phép thời mây đen, mây trắng, cuồn cuộn phủ tới càng nhiều. Hồ Mị Hoa khiếp quá hóa ra trận cuồng phong thúc con Thiên Lý Mã vượt qua đầu quân binh lao ra khỏi trận.

Đây nói về Hồ Man Quân, trong lòng hồi hộp không biết có phá được trận ngũ hành không, lúc nào cũng nghe đao kiếm dậy trời, bỗng thấy một bóng ngựa từ trong trận bay ra, thời nhận ra ngay là Hồ Mị Hoa.

Hồ Man Quân thúc ngựa lao tới hỏi:

Quân ta thế nào?

Hồ Mị Hoa chưa hết kinh hãi nói:

E chết hết trong trận rồi.

Hồ Man Quân nghe Hồ Mị Hoa nói thế, điến cả người không biết Hồ Côn chết sống ra làm sao.

Đây nói về Dương Điền ở trên đài quan sát thấy quân Hồ xông vào trận đông như kiến, nào là bộ binh, nào là xạ binh, nào là kỵ binh, sức mạnh dời non lấp biển, khí thế hừng hực. Dương Điền tức thời ra hiệu lịnh phất cờ trắng, cờ xanh theo thế xáp chiến. La Bôn liền điều khiển đạo quân bộ binh, xạ binh, cùng đội quân kỵ binh lao ra chận đánh quân hồ, dậy trời dậy đất, xáp trận một hồi quân hồ mạnh quá. Quân Văn Lang được lệnh rút lui. Quân Hồ thừa thắng xông lên ào ào rượt đuổi quân Văn Lang như cuồn phong vũ bão. Quân Văn Lang được lệnh tẻ ra làm hai theo thế bao vây ẩn mình trong mây trận. Quân Hồ thấy quân Văn Lang biến mất trong mây trắng, mây đen, vô cùng kinh hãi.

Trên quan sát đài, cờ hiệu lịnh trắng, đen, xanh, đỏ, bốn phương tám hướng tấn công. Tức thời La Đôn, Kinh Hạ, điều khiển bốn đạo quân, chia ra làm hai, thành tám đạo quân đồng loạt tấn công, từ bốn phương tám hướng, tên bắn ra như mưa, quân Hồ rối loạn chạy chỗ nào cũng bị quân Văn Lang như thiên la địa võng phủ đánh.

Trên quan sát đài, Dương Điền thấy quân Ân lớp trước lớp sau xông vào trận càng lúc càng đông như kiến, liền phất cờ vàng hiệu lịnh, theo thế cắt đôi quân địch, chận đứng không cho quân giặc rút lui, chận đứng không cho quân giặc xông vào trận. Tức thời đạo quân chủ lực thiết giáp từ trung ương hành hỏa do tướng Đổ Trung Pha, nhanh chóng bọc hậu cắt đứt quân Hồ trong không cho ra, ngoài không tiến vào được, đội quân thiết giáp chủ lực, là đội quân phá sức mạnh của địch, quân Hồ lùi ra không được, tiến vào không xong bị quân Văn Lang xơi sạch.

Sau có thơ rằng:

Hơn nhau chỉ một nước cờ

Chuyển xây thế trận diệt loài ngoại xâm

Hơn nhau chủ động điều quân

Làm cho quân giặc hết mong sống còn

Ngũ hành khiếp vía quân thù

Xác phơi như núi hãi hùng ngoại xâm.
 
Quay lại
Top Bottom