- Tham gia
- 3/9/2023
- Bài viết
- 568
THIÊN ẤN THIÊN BÚT
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI
2014
Cao Đức Thắng
QUYỂN 1
LỜI NÓI ĐẦU
Long Hoa Lược Truyện là bộ truyện nhân văn đỉnh cao khai mở trí huệ toàn diện, trên nhiều lãnh vực kinh tế chính trị, quân sự, thương nghiệp, ngoại giao, không thể nghĩ bàn.
Long Hoa Lược Truyện là món ăn bổ ích cho tâm hồn dù bất cứ hoàn cảnh nào Long Hoa Lược Truyện cũng đem lại cho cuộc sống bao tốt đẹp, nhất là về nhân cách, phẩm hạnh đạo đức, trí huệ anh hùng, loại bỏ cái ác vươn tới cái thiện, tạo ra cuộc sống mùa xuân của muôn nghìn sắc hoa sôi động rực rỡ hạnh phúc.
Long Hoa Lược Truyện là tấm gương phản ảnh hiện thực cuộc sống ca ngợi Đạo Đức, phê phán gian ác, loại bỏ phi nghĩa, tôn vinh chính nghĩa.
Đọc qua Long Hoa Lược Truyện chúng ta phân biệt được cái xấu và cái tốt rung động trước mối tình chung thủy cao đẹp nhất của tình yêu.
Ở đâu có Long Hoa Lược Truyện, thời ở đó luôn mở màn cho cuộc sống mới, cuộc sống được chọn lọc tinh tế. Từ xa xưa chưa có chữ viết. Ông Cha ta cũng đã sáng tạo ra dòng văn chương ngôn ngữ truyền miệng lưu truyền mãi cho đến ngày nay, nhờ có chữ viết đa dạng trên toàn thế giới dù cho đó là chữ viết gì, thời dòng văn chương ngôn ngữ truyền miệng được lưu chép phổ rộng tỏa sáng lên.
Có chữ viết giúp con người tiến gần với nhau hơn biết nhau hơn sống hòa hợp vui vẻ trong cuộc sống, mỗi một cốt truyện Cội Nguồn lịch sử, mẫu truyện tình yêu chung thủy, mẩu truyện anh dũng là để cho chúng ta tham quan hoặc tắm mình trong dòng thơ truyện, lau sạch những lớp bụi bám vào làm mờ kiến tánh trí huệ chúng ta, làm cho trí huệ chúng ta tỏa sáng. Nhận thấy chân trời hạnh phúc chân trời của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trên quê hương thiên đàng cực lạc. Quê hương không có sự chết sự chia ly và đau khổ quê hương an vui vĩnh hằng quê hương của những con người có tấm lòng yêu thương rộng lớn, cũng như tôn vinh Nguồn Cội tôn vinh Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu ba ngôi tối cao vũ trụ. Hãy yêu Long Hoa Lược Truyện chúng ta sẽ thấy vui vẻ quên đi tất cả cực nhọc, cũng như bao sự ngang trái trong đời sống chúng ta. Nhất là chửng bị cho chúng ta những hành trang văn hóa, khi mãn kiếp trần thế chúng ta mang theo về trời làm sự giàu có cho chúng ta.
* * *
LƯỢC TRUYỆN
Long Hoa Lược Truyện kinh thư
Tiên Thiên diệu pháp hà như lạc đồ
Huyền thâm cao diệu hư vô
Ứng linh trải khắp hà đồ nước non
Trời cao dìu dắt cháu con
Rồng Tiên mở hội vinh quang Cội Nguồn
Thành tâm nhớ tưởng thường ngày
Thiên cơ ứng hóa mọi đường rõ thông
Đạo Trời là Đạo Cha Ông
Đường mây tỏ rạng con Rồng cháu Tiên
Hà sa ức kiếp vô biên
Lúc nào cũng có con thuyền đón đưa
Nghe lời Trời dạy sớm trưa
Bệnh chi cũng khỏi của thừa dư ăn
Truyền kinh thuyết giáo Trời khen
Muốn chi được nấy lộc hằng ức muôn
Phước vào thời nghịch cũng suôn
Thăng hoa tới đích mọi đường công danh
Trời ban, khô héo cũng xanh
Cuộc đời tỏa sáng đẹp lành biết bao
Hiếu, trung thời được danh thơm
Vì Nguồn vì Cội vinh quang cuộc đời
Cháu con luôn mãi sáng ngời
Thông minh trí tuệ sang giàu bình yên
Về Nguồn thời phải kính tin
Những lời Trời dạy nhớ ghi trong lòng
Lời kinh lược truyện ngọc vàng
Kính tin thoát khỏi địa đàng âm ti
Nghiền ngẫm cho hiểu rõ thông
Mãn thân hồn đặng ung dung về trời
Long Hoa Lược Truyện sáng ngời
Thành tâm tu học sớm thành Phật, Tiên
Lập công trong hội kỳ ba
Vua Hùng Quốc Tổ sắc phong bảng vàng
Thắp lên ngọn đuốc Đạo, Đời
Ra công ra sức bảng vàng ghi tên
Công danh sự nghiệp vẻ vang
Cũng nhờ truyền giáo lập công hội nầy
Long Hoa Lược Truyện diệu kỳ
Truyền cho hậu thế đạt thành ước mơ
* * *
Con cái thấy Cha xách nhiều quà đứa nào đứa nấy hớn hở nói để con xách bớt cho, nhất là con gái út hăm hở đòi xách cái nầy cái kia. Bước vào nhà Ông Tám thở phào nhẹ nhõm như trút hết cơn mệt nhọc đi đường.
Con gái út tên Hạnh đòi quà nhanh hơn các anh chị, quà của con đâu?
Tám Nhị ôm bé Hạnh vào lòng nói quà cục cưng của Ba đây nè. Ông thò tay vào xách lấy ra một món đồ chơi thứ xịn có lẽ rất đắt tiền, trông đẹp mắt vô cùng.
Bé Hạnh vừa nhìn thấy món quà thời mừng rỡ reo lên con thương Cha quá.
Bé Hạnh say sưa nhìn món đồ chơi rồi ngước nhìn Cha hỏi. Người Thái Lan ba đầu sáu tay phải không Cha?
Tám Nhị nghe con hỏi lấy làm ngạc nhiên, nhưng rồi cũng trả lời họ có ba đầu sáu tay gì đâu, họ cũng như mình thôi con à, đôi khi còn thua người Việt nữa là khác.
Bé hạnh nói họ đâu hơn gì người Việt mình, thế sao họ giỏi dữ vậy, cái gì cũng hơn hẳn Việt Nam, thậm chí món đồ chơi Cha mua về cho con, Việt Nam mình cũng chưa làm được, tại sao vậy hả Cha.
Tám Nhị nghe con hỏi thở dài nói, người Thái họ có Nhân Quyền Dân Chủ tự do, còn Việt Nam mình thời không con ạ. Người Thái họ tự do bay nhảy, tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do sáng tạo sáng tác không cần phải xin ai, thi nhau mà phát triển văn minh.
Người Việt Nam mình lại khác như con chim bị nhốt trong lồng.
Bé Hạnh nói con hiểu rồi Người Việt Nam bị trói chân, còn người Thái thời thoải mái mà chạy. Người Việt Nam bị bó tay, nên làm cái gì cũng xấu, người Thái tay chân không bị bó cột. Nên chạy lẹ hơn người Việt Nam, nắn nót tạo ra cái gì cũng xinh cũng đẹp phải không Cha?
Cả nhà nghe bé Hạnh nói thế thời nhịn không được mà cười ồ lên. Bé Hạnh cũng cười theo nói con nói đúng quá phải không? Những người đi đường nghe gia đình Tám Nhị cả nhà cười vui vẻ thời xầm xì, nhà Tám Nhị không biết trúng mánh gì mà vui dữ quá.
Bỗng có tiếng người phụ nữ vang lên, chị Tám siêng nhỉ lúc nào cũng thấy ở ngoài sân vườn, định cắt rau muống hả, cắt bán cho tôi vài lọn đem về luộc ăn cho đỡ tức trong lòng.
Bà Tám nghe xong lấy làm ngạc nhiên nói ai mà dám chọc bà chằn lửa, không sợ bị thiêu đốt ra tro sao. Người phụ nữ mới đến tên là Hạnh, nói ai thời tôi đốt ra tro rồi đằng nầy ông xã mới tức chứ. Bà Tám nhìn người phụ nữ mới đến nghĩ, thôi chuyện người ta hỏi làm gì.
Nhưng người phụ nữ mới đến tên Hạnh trông có vẻ bực tức lắm, hằn học nói, chị Tám nghĩ xem nền Văn Hiến Bách Việt Văn Lang có gì tự hào mà ông xã nhà tôi lúc nào cũng ca ngợi còn hơn pháo nổ. Đúng là mèo khen mèo dài đuôi, các nước phương Tây họ mới thật sự là văn minh.
Bà Tám nhìn người phụ nữ mới đến lắc đầu nói tôi thừa nhận chị rất thông minh, nhưng không phải chuyện gì cũng biết, lần nầy thời chị sai rồi.
Nền Văn Hiến Bách Việt Văn Lang, là nền Văn Hiến khai sinh ra nước Văn Lang, khai sinh ra Dân Tộc Văn Lang, nền Văn Hiến Văn Hóa Cội Nguồn độc nhất vô nhị trên thế giới, ngay cả thời đại bây giờ cũng không có nước nào có nền Văn Hiến tối cao như thế.
Trên thế giới, mỗi Dân Tộc ra đời đều có niềm tự hào nền Văn Hiến của Dân Tộc đó, chồng chị Anh Lân là người Việt tự hào về Nguồn Cội của Dân Tộc mình cũng là sự đương nhiên, xét về diện văn minh ở vào thời ấy không có một Dân Tộc nào trên trái đất văn minh hơn Dân Tộc Bách Việt Văn Lang, không tự hào sao được. Chị Hạnh nghe Bà Tám nói thế liền bỉm môi nói: té ra chị cũng chẳng khác gì ông nhà tôi, được cái là nổ cho cố, mèo khen mèo dài đuôi.
Mỗi lần thấy ông nhà ca ngợi nền Văn Hiến Cội Nguồn quá tôi cảm thấy ngượng không rõ thực hư thế nào.
Tôi hỏi thật chị Tám, chị lấy cơ sở nào nói rằng nền Văn Hiến Bách Việt Văn Lang văn minh nhất thời đó, chị nói cho tôi nghe thử nào?
Bà Tám nhìn Bà Hạnh như thông cảm cho sự lạc Cội lạc Nguồn, lúc nào cũng hướng ngoại, chạy theo xu thế ngoại bang, xem thường Nguồn Cội Dân Tộc mình, vô tình trở thành trọng tội không đáng có. Bà Tám nghĩ thương cho Bà Hạnh; liền nói câu chuyện cũng hơi dài để tôi cắt xong mấy lọn rau muống tôi sẽ kể cho chị nghe. Bà Tám cắt xong rau muống vừa bó vừa kể.
* Cách đây năm nghìn năm, Quốc Tổ Vua Hùng dùng Văn Hóa Cội Nguồn gồm thâu Bách Tộc khai sinh ra nước Văn Lang, Bách Tộc trở thành Bách Việt Văn Lang không cần động đến gươm đao giáo mác Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Trên thế giới ở vào thời đó không có nước nào khai sinh ra đời tốt đẹp như vậy, chỉ riêng có nước Văn Lang. Anh Lân nhà chị tự hào về Nguồn Cội Dân Tộc mình cũng đúng, thể hiện lòng trung, hiếu, nhân, nghĩa đối với Cha Ông. Không những tự hào về truyền thống dựng nước giữ nước, mà còn tự hào về Ông Quốc Tổ có một không hai trên địa cầu từ ngàn xưa cho đến thời nay. Chị Hạnh biết không, ở vào thời đó chỉ riêng Bách Việt Văn Lang có nền Văn Minh lúa nước đem lại no cơm ấm áo cho người dân. Đã là Văn Minh lúa nước thời Dân Tộc Văn Lang nắm rõ quy luật bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Tạo ra niên lịch vụ mùa nắm rõ quy trình trồng ngô cấy lúa cho năng xuất cao. Và lấy đầu năm sự khởi đầu mùa xuân, mở đầu cho việc đi vào mùa vụ, các lễ hội từ đó cũng ra đời, lễ hội gieo trồng, lễ hội tạ ơn trời đất, lễ hội uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây. Thành lễ hội tết Nguyên Đán, lễ hội nhân văn lớn nhất trong năm, mùng một tết Cha, mùng hai tết Mẹ, mùng ba tết Thầy. Nói chung là tạ ơn công sanh thành Ông Bà Cha Mẹ, công ơn dạy bảo của những bậc thầy. Trên thế giới ở vào thời ấy không có đất nước nào văn minh như thế, không tự hào sao được.
* Lại nữa ngoài Văn Minh lúa nước, văn minh niên lịch, còn có Văn Minh hội họa biết dùng tượng hình làm sơ khai chữ viết đi vào giao tiếp cuộc sống, không có đất nước nào Văn Minh như vậy, chưa kể đến Văn Minh sắt, thép, đồng, thau, vàng, bạc, dùng vào công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, khai thác. Khai hoang vỡ hóa, gươm đao giáo mác cung tên tạo lên sức mạnh quân lực Bách Việt Văn Lang kéo dài độc lập mấy nghìn năm không có nước nào dám động đến.
* Nhưng theo cơ Tạo Hóa việc suy thịnh là chuyện bình thường, quy luật tuần hoàn luôn xoay chuyển, thịnh mấy nghìn năm thời phải đi vào suy mấy nghìn năm, không phải do con người mà do Ý Trời.
Sự truyền khẩu lâu dài dẫn đến tam sao thất bổn. Đi vào thất truyền Hiến Pháp Đạo Pháp nền Văn Hiến Văn Minh Văn Lang dần dần biến mất. Dẫn đến suy yếu đi vào đại loạn chia bè rẽ phái mở ra cơ hội cho ngoại bang xâm lược, bị Phương Bắc đô hộ đi vào nô lệ. Dân Tộc Việt Nam con cháu Tiên Rồng vùng lên quật khởi chiến tranh triền miên giành lại độc lập đánh bại ngoại xâm trên mười bốn lần, nhưng đâu lại vào đấy tiếp tục lệ thuộc Phương Bắc. Nguyên nhân dẫn đến lệ thuộc giặc Tàu là do lạc Cội lạc Nguồn mà ra.
Bà Hạnh nhìn Bà Tám vừa bó rau vừa kể thao thao bất tuyệt sắc mặt hiện lên vẻ tự hào không thua kém gì sắc mặt tự hào của ông xã khi nhắc về truyền thống anh linh dựng nước giữ nước của các thế hệ Ông Cha. Bà như tỉnh ngộ té ra sự thông minh của mình xưa nay cãi vã với chồng chỉ là sự ngu dốt của sự lạc Cội lạc Nguồn. Bà cảm thấy hổ thẹn mình không xứng đáng là con Rồng cháu Tiên nếu ai cũng như mình thời đi vào nô lệ, dẫn đến mất nước tiêu tan giống nòi.
Bà nhìn Bà Tám với lòng đầy kính phục liền nói: Tôi bữa nay như đã sáng mắt ra, cái ngu dốt bấy lâu nay tự cho mình thông minh của tôi cũng biến mất không còn từ đây, cảm ơn Cô Tám rất nhiều.
Bà Tám nhìn Bà Hạnh đầy vẻ ngạc nhiên nhưng sau đó nhìn ra vẻ chân thật của Bà Hạnh, Bà Tám trong lòng cảm thấy vui vì làm cho một người giác ngộ coi như đã xây cho mình một ngôi chùa. Bà Tám cầm mấy lọn rau muống đưa cho Bà Hạnh nói: tôi biếu chị.
Bà Hạnh nhận lấy mấy bó rau muống như nhận lấy cái gì đó trân quý từ Bà Tám. Bà Hạnh cảm ơn rồi ra về. Từ đó Bà Hạnh luôn tôn trọng sự ca ngợi cũng như lòng tự hào của chồng về truyền thống dựng nước giữ nước của Dân Tộc mình.
Đến chương trình thời sự. Bà Hai Kèo không chú ý đến chuyện gì khác, mà chỉ để ý đến các phu nhân Tổng Thống.
Bà hỏi nầy Hai Kèo; phu nhân Tổng Thống các nước họ xách gì vậy? Hai Kèo nói, mấy bà phu nhân Tổng Thống các nước họ xách danh dự, xách nhân cách, xách tài năng của đất nước họ, phô trương với thế giới, để thế giới hâm mộ đất nước họ.
Bà Hai Kèo lại hỏi; Còn phu nhân cấp cao của đất nước mình thì sao? Có xách theo những thứ ấy không?
Hai Kèo nói; Bà không nhìn thấy sao, các phu nhân của nước mình đâu cần xách theo danh dự, nhân cách, tài năng. Nếu muốn xách cũng không có những thứ ấy lấy đâu mà xách để phô trương với thế giới.
Mà chỉ xách vàng xách bạc, xách đô la, xách kim cương châu báu. Bà thấy có khôn không?
Bà Hai Kèo nói Ông nói rất đúng, phu nhân cấp cao nước ta khôn đấy chứ, có đô la vàng bạc, thời mặc sức mà xây cung son biệt thự, chỗ nào cũng có, muốn gì được nấy nhờ học thuyết mác lê đó Hai Kèo. Tư Bản làm gì mà hiểu thuyết Mác Lê.
Hai Kèo phụ họa thêm, Bà là con sâu trong bụng chủ nghĩa vô thần nên Bà hiểu còn sâu sắc hơn tôi. Thế giới các nước văn minh, họ nhìn thấy Mác, Lê là khiếp vía kinh hồn, tránh xa nghìn dặm làm gì học được cái tài của Mác, Lê là tóm sạch sự giàu sang của thiên hạ về túi riêng của mình, tôi cố học, học mãi mà không vô. Thời thế bây giờ mà rớ vào mấy ông tư bản đỏ kết xù, chỉ cần đụng vào của để ngoài bờ rào cũng đã ở tù mục xương không có ngày về. Tôi không dám học theo cái tài Mác Lê. Của người ta không cho mà lấy phạm luật thiên, tôi sợ quả báo, sợ tù quá.
Mấy đứa con của Hai Kèo thấy Cha Mẹ nói móc nói méo hay quá xúm nhau bịt miệng mà cười.
Hai Kèo thấy các con bụm miệng cười nhìn các con rồi nói, các con có biết không giàu chân chính, phú quý sanh lễ nghĩa đi ngõ trước.
Giàu bất chính phú quý sanh lễ nghĩa đi cửa sau, hai bên mà đụng nhau thời sứt đầu mẻ trán. Lễ nghĩa thành tang lễ. Cầu siêu hơn 40 mươi năm không biết có siêu thoát được không. Kẻ chân chính thời lên thiên đàng, người bất chính thời nơi địa ngục, rốt cuộc gieo nhân nào gặt quả nấy. Hai Kèo nói xong thời cười, lắc nghiêng lắc ngửa, con cái cũng cười theo làm dậy rạp cả nhà.
Mèo nghe xong mừng rỡ nói. A Lô anh Chó đó hả anh tài quá tôi không theo kịp anh đâu. Tài chống phá Tổ Tiên của anh đã đến đỉnh. Tài đã thái quá là tài liền với chữ tai một vòng. Tôi sợ mang họa cho bản thân cũng như con cái ra ăn mày cả đám, nên không dám theo lời dạy bảo của anh đâu.
A lô a lô Anh Chó anh không sợ Tổ Tiên, anh chả cần Cội Nguồn, anh chống phá Cha Ông, có lẽ vì anh quá tài nên anh làm đảo lộn luân thường đạo lý. Đảo lộn cả càn khôn, đảo ngược truyền thống Ông Cha. Nghịch lại Thiên Ý tự nhiên. Con ngồi lên đầu Cha, cháu ngồi lên đầu Ông. Tài như vậy,ai mà theo kịp Anh Chó anh đã trở thành vô địch tội lỗi rồi. Chống phá Tổ Tiên quá xuất sắc. Chúc anh mau nhận bằng khen quả báo tai ương họa kiếp.
A lô a lô Anh Chó còn ở đầu giây không. Mèo tôi thời sợ xúc phạm đến Cội Nguồn Tổ Tiên Cha Ông, không dám nói những lời thất kính như thế. Tôi sợ nhất là đại nghịch vô đạo.
A lô a lô. Tôi nhắc cho anh một điều. Tổ Tiên ở trên đầu anh, hồn thiên sông núi ở sát bên anh. Thần linh có mặt khắp nơi chỗ nào cũng có. Tài hủy bán Cội Nguồn Tổ Tiên của anh là tài kéo theo vô số tai họa, tài quá hóa ra làm hại mình chữ tài liền với chữ tai một vòng. Gieo ác khẩu hành ác nghiệp, đương nhiên sẽ gặt họa không sớm thời chầy. Chúc anh Chó sớm gặt những gì mình đã gieo ra.
A lô a lô, Mèo đây còn Chó đâu rồi
Mới khoe khoang đó, cút rồi hay sao
Cây mất gốc, đổ nhào khô héo
Người lạc Nguồn, cuộc sống bơ vơ
Chữ tài liền với chữ tai
Phản Nguồn phản Cội vùi chôn cuộc đời
A lô anh Chó đâu rồi
Tài mà như thế về chầu Diêm Vương
Nghĩ đi nghĩ lại mà thương
Tài như anh Chó hết phương cứu rồi
Chờ ngày kiếp nạn phản hồi
Tiêu tan hết thảy dập vùi hồn linh
A lô anh Chó lâm nạn rồi sao
Sao không bắt máy để tôi gọi hoài
A lô a lô
Ông Ba Cảnh vừa ngã bệnh, thời cả nhà lo lắng có người khóc lóc. Ông thấy thế nói rằng chết là lẽ công bằng của Tạo Hóa. Cha đã làm lành mấy mươi năm nếu sống mãi, cũng chỉ là Ông Ba cảnh nghèo lại còn mang thân xác bệnh tật già nua vầy sao? Lẽ công bằng Tạo Hóa ở đâu? Cái xác thân già nua nầy là Cha tạm mượn của Tinh Cha Huyết Mẹ nào phải cái thân của Cha. Khi Cha đến cõi trần nầy chỉ mỗi một linh hồn với hai bàn tay trắng. Khi Cha ra đi thời cũng phải trả lại hết cho trần những gì Cha đã tạm mượn.
Sự tạm mượn cũng có thời gian nhất định, sống bao nhiêu? có chừng đã được định sẵn rồi. 60- 70- 80 những gì vay mượn của trần phải trả lại cho trần. Các con nên hiểu mượn thời phải trả, không trả chẳng lẽ muốn lấy luôn. Tạo Hóa không cho phép điều đó đâu các con. Trả lại xác thân cho trần cũng là lúc Linh Hồn của Cha thấy nhẹ nhõm.
Để thay đổi vận mệnh số kiếp con người đi vào cuộc sống mới. Cha sẽ không còn nghèo khổ, đó là nói tái sanh lại kiếp người trần gian. Với sự tu hành của Cha lúc nào cũng nghĩ đến Cội Nguồn tôn vinh ba ngôi tối cao vũ trụ. Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu thời Cha sẽ siêu sanh về thiên giới sống an vui hạnh phúc trên cõi trời.
Các con nên biết kiếp sống con người trần gian chỉ là kiếp tạm, cõi tạm, trần gian chỉ là trường thi Tạo Hóa mà thôi, thời hạn kiếp tạm con người cũng đã định số rồi, thân xác con người sẽ chết đi, Linh hồn chuyển sang kiếp mới. Thay đổi hoàn toàn số phận của Linh Hồn ở kiếp tới theo luật nhân quả gieo gì thời gặt nấy.
Những người làm ác nếu họ sống mãi, thời luật công bằng Tạo Hóa để đâu? Tạo hóa không cho phép con người trần gian sống mãi mà phải chết đi khi hết thời gian kiếp người.
Linh Hồn phải chuyển đổi số kiếp. Gieo ác sẽ gặt họa ở kiếp tới, gieo thiện sẽ gặt lành ở kiếp tiếp theo. Những người hành ác dù giàu có đến đâu, quyền lực đến đâu, khi Linh Hồn rời khỏi xác, không thể mang theo sự giàu có. Cũng như quyền lực cõi tạm nơi chốn trần gian ấy được. Mà phải trả lại tất cả cho chốn trần gian.
Chỉ hai bàn tay trắng những thứ họ mang theo chính là nghiệp ác. Và chính nghiệp ác ấy đã hại họ đưa họ xuống Địa Ngục âm phủ chịu đủ thứ cực hình vô cùng đau đớn và khốn khổ chết đi sống lại hàng vạn vạn lần
Tóm lại: Những Linh Hồn đầu thai làm kiếp người nơi chốn trần gian không mang theo gì cả, mượn tinh Cha huyết Mẹ Âm- Dương giao hợp chuyển hóa thành thai người. Tinh Cha Huyết Mẹ được vay mượn từ Tạo Hóa tứ đại Đất, Nước, Gió, Lửa. Đã là sự vay mượn bao giờ cũng phải trả lại. Theo định số hết thời hạn của sự vay mượn. Không ai có thể làm chi khác được.
Chết có nghĩa là sự vay mượn đã hết, thời gian vay mượn không còn, mà huyền cơ tạo hóa đã ấn định cho số mạng con người. Phải trả lại tất cả những gì mình đã vay mượn nơi chốn trần. Công danh, sự nghiệp, giàu có, quyền lực.
Chỉ còn lại Linh Hồn với hai bàn tay trắng trước khi rời khỏi trần gian. Tiếp tục cuộc hành trình đi vào cuộc sống mới. Khổ vui, họa phúc, siêu đọa. Do nghiệp ác hay nghiệp thiện của mỗi linh hồn. Ông Ba cảnh giảng giải xong liền ngâm bài thơ mà Ông đã chuẩn bị từ lâu.
Nếu mai Cha chết, các con sẽ vui lên
Vì Cha đã, chuẩn bị hành trang
Mang đi theo, vào kiếp sống mới
Chết là mang đến niềm vui cho người tu phước
Là khốn khổ, cho kẻ làm ác hại người
Ông Ba Cảnh nói xong, thời cười ha hả
Nhắm mắt xuôi tay, Hồn thong thả ra đi
Cõi trần chỉ là trường thi
Dù đậu, không đậu cũng ra khỏi trường
Một là lên thiên đàng
Hai là sa Địa Phủ
Chết là chuyển kiếp sợ chi
Nếu mà sống mãi còn chi công bằng
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI
2014
Cao Đức Thắng
QUYỂN 1
LỜI NÓI ĐẦU
Long Hoa Lược Truyện là bộ truyện nhân văn đỉnh cao khai mở trí huệ toàn diện, trên nhiều lãnh vực kinh tế chính trị, quân sự, thương nghiệp, ngoại giao, không thể nghĩ bàn.
Long Hoa Lược Truyện là món ăn bổ ích cho tâm hồn dù bất cứ hoàn cảnh nào Long Hoa Lược Truyện cũng đem lại cho cuộc sống bao tốt đẹp, nhất là về nhân cách, phẩm hạnh đạo đức, trí huệ anh hùng, loại bỏ cái ác vươn tới cái thiện, tạo ra cuộc sống mùa xuân của muôn nghìn sắc hoa sôi động rực rỡ hạnh phúc.
Long Hoa Lược Truyện là tấm gương phản ảnh hiện thực cuộc sống ca ngợi Đạo Đức, phê phán gian ác, loại bỏ phi nghĩa, tôn vinh chính nghĩa.
Đọc qua Long Hoa Lược Truyện chúng ta phân biệt được cái xấu và cái tốt rung động trước mối tình chung thủy cao đẹp nhất của tình yêu.
Ở đâu có Long Hoa Lược Truyện, thời ở đó luôn mở màn cho cuộc sống mới, cuộc sống được chọn lọc tinh tế. Từ xa xưa chưa có chữ viết. Ông Cha ta cũng đã sáng tạo ra dòng văn chương ngôn ngữ truyền miệng lưu truyền mãi cho đến ngày nay, nhờ có chữ viết đa dạng trên toàn thế giới dù cho đó là chữ viết gì, thời dòng văn chương ngôn ngữ truyền miệng được lưu chép phổ rộng tỏa sáng lên.
Có chữ viết giúp con người tiến gần với nhau hơn biết nhau hơn sống hòa hợp vui vẻ trong cuộc sống, mỗi một cốt truyện Cội Nguồn lịch sử, mẫu truyện tình yêu chung thủy, mẩu truyện anh dũng là để cho chúng ta tham quan hoặc tắm mình trong dòng thơ truyện, lau sạch những lớp bụi bám vào làm mờ kiến tánh trí huệ chúng ta, làm cho trí huệ chúng ta tỏa sáng. Nhận thấy chân trời hạnh phúc chân trời của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trên quê hương thiên đàng cực lạc. Quê hương không có sự chết sự chia ly và đau khổ quê hương an vui vĩnh hằng quê hương của những con người có tấm lòng yêu thương rộng lớn, cũng như tôn vinh Nguồn Cội tôn vinh Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu ba ngôi tối cao vũ trụ. Hãy yêu Long Hoa Lược Truyện chúng ta sẽ thấy vui vẻ quên đi tất cả cực nhọc, cũng như bao sự ngang trái trong đời sống chúng ta. Nhất là chửng bị cho chúng ta những hành trang văn hóa, khi mãn kiếp trần thế chúng ta mang theo về trời làm sự giàu có cho chúng ta.
* * *
LƯỢC TRUYỆN
Long Hoa Lược Truyện kinh thư
Tiên Thiên diệu pháp hà như lạc đồ
Huyền thâm cao diệu hư vô
Ứng linh trải khắp hà đồ nước non
Trời cao dìu dắt cháu con
Rồng Tiên mở hội vinh quang Cội Nguồn
Thành tâm nhớ tưởng thường ngày
Thiên cơ ứng hóa mọi đường rõ thông
Đạo Trời là Đạo Cha Ông
Đường mây tỏ rạng con Rồng cháu Tiên
Hà sa ức kiếp vô biên
Lúc nào cũng có con thuyền đón đưa
Nghe lời Trời dạy sớm trưa
Bệnh chi cũng khỏi của thừa dư ăn
Truyền kinh thuyết giáo Trời khen
Muốn chi được nấy lộc hằng ức muôn
Phước vào thời nghịch cũng suôn
Thăng hoa tới đích mọi đường công danh
Trời ban, khô héo cũng xanh
Cuộc đời tỏa sáng đẹp lành biết bao
Hiếu, trung thời được danh thơm
Vì Nguồn vì Cội vinh quang cuộc đời
Cháu con luôn mãi sáng ngời
Thông minh trí tuệ sang giàu bình yên
Về Nguồn thời phải kính tin
Những lời Trời dạy nhớ ghi trong lòng
Lời kinh lược truyện ngọc vàng
Kính tin thoát khỏi địa đàng âm ti
Nghiền ngẫm cho hiểu rõ thông
Mãn thân hồn đặng ung dung về trời
Long Hoa Lược Truyện sáng ngời
Thành tâm tu học sớm thành Phật, Tiên
Lập công trong hội kỳ ba
Vua Hùng Quốc Tổ sắc phong bảng vàng
Thắp lên ngọn đuốc Đạo, Đời
Ra công ra sức bảng vàng ghi tên
Công danh sự nghiệp vẻ vang
Cũng nhờ truyền giáo lập công hội nầy
Long Hoa Lược Truyện diệu kỳ
Truyền cho hậu thế đạt thành ước mơ
* * *
1. NỤ CƯỜI THỎA MÁI
Ông Tám Nhị, đi Thái Lan vừa về tới nhà con cái đứa lớn đứa nhỏ mừng rỡ chạy ra đón. Tám Nhị cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Bước xuống xe trên tay Tám Nhị vừa xách vừa cầm trông có vẻ nhiều quà hơi nặng.Con cái thấy Cha xách nhiều quà đứa nào đứa nấy hớn hở nói để con xách bớt cho, nhất là con gái út hăm hở đòi xách cái nầy cái kia. Bước vào nhà Ông Tám thở phào nhẹ nhõm như trút hết cơn mệt nhọc đi đường.
Con gái út tên Hạnh đòi quà nhanh hơn các anh chị, quà của con đâu?
Tám Nhị ôm bé Hạnh vào lòng nói quà cục cưng của Ba đây nè. Ông thò tay vào xách lấy ra một món đồ chơi thứ xịn có lẽ rất đắt tiền, trông đẹp mắt vô cùng.
Bé Hạnh vừa nhìn thấy món quà thời mừng rỡ reo lên con thương Cha quá.
Bé Hạnh say sưa nhìn món đồ chơi rồi ngước nhìn Cha hỏi. Người Thái Lan ba đầu sáu tay phải không Cha?
Tám Nhị nghe con hỏi lấy làm ngạc nhiên, nhưng rồi cũng trả lời họ có ba đầu sáu tay gì đâu, họ cũng như mình thôi con à, đôi khi còn thua người Việt nữa là khác.
Bé hạnh nói họ đâu hơn gì người Việt mình, thế sao họ giỏi dữ vậy, cái gì cũng hơn hẳn Việt Nam, thậm chí món đồ chơi Cha mua về cho con, Việt Nam mình cũng chưa làm được, tại sao vậy hả Cha.
Tám Nhị nghe con hỏi thở dài nói, người Thái họ có Nhân Quyền Dân Chủ tự do, còn Việt Nam mình thời không con ạ. Người Thái họ tự do bay nhảy, tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do sáng tạo sáng tác không cần phải xin ai, thi nhau mà phát triển văn minh.
Người Việt Nam mình lại khác như con chim bị nhốt trong lồng.
Bé Hạnh nói con hiểu rồi Người Việt Nam bị trói chân, còn người Thái thời thoải mái mà chạy. Người Việt Nam bị bó tay, nên làm cái gì cũng xấu, người Thái tay chân không bị bó cột. Nên chạy lẹ hơn người Việt Nam, nắn nót tạo ra cái gì cũng xinh cũng đẹp phải không Cha?
Cả nhà nghe bé Hạnh nói thế thời nhịn không được mà cười ồ lên. Bé Hạnh cũng cười theo nói con nói đúng quá phải không? Những người đi đường nghe gia đình Tám Nhị cả nhà cười vui vẻ thời xầm xì, nhà Tám Nhị không biết trúng mánh gì mà vui dữ quá.
2. CÂU CHUYỆN TỰ HÀO
Bà Tám đang chăm sóc luống rau trước sân nhà, bà nhìn những cọng rau muống xanh mướt trông phát thèm, định cắt vài bó đem kho luộc cho bữa ăn tối ngon miệng.Bỗng có tiếng người phụ nữ vang lên, chị Tám siêng nhỉ lúc nào cũng thấy ở ngoài sân vườn, định cắt rau muống hả, cắt bán cho tôi vài lọn đem về luộc ăn cho đỡ tức trong lòng.
Bà Tám nghe xong lấy làm ngạc nhiên nói ai mà dám chọc bà chằn lửa, không sợ bị thiêu đốt ra tro sao. Người phụ nữ mới đến tên là Hạnh, nói ai thời tôi đốt ra tro rồi đằng nầy ông xã mới tức chứ. Bà Tám nhìn người phụ nữ mới đến nghĩ, thôi chuyện người ta hỏi làm gì.
Nhưng người phụ nữ mới đến tên Hạnh trông có vẻ bực tức lắm, hằn học nói, chị Tám nghĩ xem nền Văn Hiến Bách Việt Văn Lang có gì tự hào mà ông xã nhà tôi lúc nào cũng ca ngợi còn hơn pháo nổ. Đúng là mèo khen mèo dài đuôi, các nước phương Tây họ mới thật sự là văn minh.
Bà Tám nhìn người phụ nữ mới đến lắc đầu nói tôi thừa nhận chị rất thông minh, nhưng không phải chuyện gì cũng biết, lần nầy thời chị sai rồi.
Nền Văn Hiến Bách Việt Văn Lang, là nền Văn Hiến khai sinh ra nước Văn Lang, khai sinh ra Dân Tộc Văn Lang, nền Văn Hiến Văn Hóa Cội Nguồn độc nhất vô nhị trên thế giới, ngay cả thời đại bây giờ cũng không có nước nào có nền Văn Hiến tối cao như thế.
Trên thế giới, mỗi Dân Tộc ra đời đều có niềm tự hào nền Văn Hiến của Dân Tộc đó, chồng chị Anh Lân là người Việt tự hào về Nguồn Cội của Dân Tộc mình cũng là sự đương nhiên, xét về diện văn minh ở vào thời ấy không có một Dân Tộc nào trên trái đất văn minh hơn Dân Tộc Bách Việt Văn Lang, không tự hào sao được. Chị Hạnh nghe Bà Tám nói thế liền bỉm môi nói: té ra chị cũng chẳng khác gì ông nhà tôi, được cái là nổ cho cố, mèo khen mèo dài đuôi.
Mỗi lần thấy ông nhà ca ngợi nền Văn Hiến Cội Nguồn quá tôi cảm thấy ngượng không rõ thực hư thế nào.
Tôi hỏi thật chị Tám, chị lấy cơ sở nào nói rằng nền Văn Hiến Bách Việt Văn Lang văn minh nhất thời đó, chị nói cho tôi nghe thử nào?
Bà Tám nhìn Bà Hạnh như thông cảm cho sự lạc Cội lạc Nguồn, lúc nào cũng hướng ngoại, chạy theo xu thế ngoại bang, xem thường Nguồn Cội Dân Tộc mình, vô tình trở thành trọng tội không đáng có. Bà Tám nghĩ thương cho Bà Hạnh; liền nói câu chuyện cũng hơi dài để tôi cắt xong mấy lọn rau muống tôi sẽ kể cho chị nghe. Bà Tám cắt xong rau muống vừa bó vừa kể.
* Cách đây năm nghìn năm, Quốc Tổ Vua Hùng dùng Văn Hóa Cội Nguồn gồm thâu Bách Tộc khai sinh ra nước Văn Lang, Bách Tộc trở thành Bách Việt Văn Lang không cần động đến gươm đao giáo mác Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Trên thế giới ở vào thời đó không có nước nào khai sinh ra đời tốt đẹp như vậy, chỉ riêng có nước Văn Lang. Anh Lân nhà chị tự hào về Nguồn Cội Dân Tộc mình cũng đúng, thể hiện lòng trung, hiếu, nhân, nghĩa đối với Cha Ông. Không những tự hào về truyền thống dựng nước giữ nước, mà còn tự hào về Ông Quốc Tổ có một không hai trên địa cầu từ ngàn xưa cho đến thời nay. Chị Hạnh biết không, ở vào thời đó chỉ riêng Bách Việt Văn Lang có nền Văn Minh lúa nước đem lại no cơm ấm áo cho người dân. Đã là Văn Minh lúa nước thời Dân Tộc Văn Lang nắm rõ quy luật bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Tạo ra niên lịch vụ mùa nắm rõ quy trình trồng ngô cấy lúa cho năng xuất cao. Và lấy đầu năm sự khởi đầu mùa xuân, mở đầu cho việc đi vào mùa vụ, các lễ hội từ đó cũng ra đời, lễ hội gieo trồng, lễ hội tạ ơn trời đất, lễ hội uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây. Thành lễ hội tết Nguyên Đán, lễ hội nhân văn lớn nhất trong năm, mùng một tết Cha, mùng hai tết Mẹ, mùng ba tết Thầy. Nói chung là tạ ơn công sanh thành Ông Bà Cha Mẹ, công ơn dạy bảo của những bậc thầy. Trên thế giới ở vào thời ấy không có đất nước nào văn minh như thế, không tự hào sao được.
* Lại nữa ngoài Văn Minh lúa nước, văn minh niên lịch, còn có Văn Minh hội họa biết dùng tượng hình làm sơ khai chữ viết đi vào giao tiếp cuộc sống, không có đất nước nào Văn Minh như vậy, chưa kể đến Văn Minh sắt, thép, đồng, thau, vàng, bạc, dùng vào công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, khai thác. Khai hoang vỡ hóa, gươm đao giáo mác cung tên tạo lên sức mạnh quân lực Bách Việt Văn Lang kéo dài độc lập mấy nghìn năm không có nước nào dám động đến.
* Nhưng theo cơ Tạo Hóa việc suy thịnh là chuyện bình thường, quy luật tuần hoàn luôn xoay chuyển, thịnh mấy nghìn năm thời phải đi vào suy mấy nghìn năm, không phải do con người mà do Ý Trời.
Sự truyền khẩu lâu dài dẫn đến tam sao thất bổn. Đi vào thất truyền Hiến Pháp Đạo Pháp nền Văn Hiến Văn Minh Văn Lang dần dần biến mất. Dẫn đến suy yếu đi vào đại loạn chia bè rẽ phái mở ra cơ hội cho ngoại bang xâm lược, bị Phương Bắc đô hộ đi vào nô lệ. Dân Tộc Việt Nam con cháu Tiên Rồng vùng lên quật khởi chiến tranh triền miên giành lại độc lập đánh bại ngoại xâm trên mười bốn lần, nhưng đâu lại vào đấy tiếp tục lệ thuộc Phương Bắc. Nguyên nhân dẫn đến lệ thuộc giặc Tàu là do lạc Cội lạc Nguồn mà ra.
Bà Hạnh nhìn Bà Tám vừa bó rau vừa kể thao thao bất tuyệt sắc mặt hiện lên vẻ tự hào không thua kém gì sắc mặt tự hào của ông xã khi nhắc về truyền thống anh linh dựng nước giữ nước của các thế hệ Ông Cha. Bà như tỉnh ngộ té ra sự thông minh của mình xưa nay cãi vã với chồng chỉ là sự ngu dốt của sự lạc Cội lạc Nguồn. Bà cảm thấy hổ thẹn mình không xứng đáng là con Rồng cháu Tiên nếu ai cũng như mình thời đi vào nô lệ, dẫn đến mất nước tiêu tan giống nòi.
Bà nhìn Bà Tám với lòng đầy kính phục liền nói: Tôi bữa nay như đã sáng mắt ra, cái ngu dốt bấy lâu nay tự cho mình thông minh của tôi cũng biến mất không còn từ đây, cảm ơn Cô Tám rất nhiều.
Bà Tám nhìn Bà Hạnh đầy vẻ ngạc nhiên nhưng sau đó nhìn ra vẻ chân thật của Bà Hạnh, Bà Tám trong lòng cảm thấy vui vì làm cho một người giác ngộ coi như đã xây cho mình một ngôi chùa. Bà Tám cầm mấy lọn rau muống đưa cho Bà Hạnh nói: tôi biếu chị.
Bà Hạnh nhận lấy mấy bó rau muống như nhận lấy cái gì đó trân quý từ Bà Tám. Bà Hạnh cảm ơn rồi ra về. Từ đó Bà Hạnh luôn tôn trọng sự ca ngợi cũng như lòng tự hào của chồng về truyền thống dựng nước giữ nước của Dân Tộc mình.
3. VỢ CHỒNG HAI KÈO
Nhà hai Kèo vừa mua ti vi mặt phẳng loại mỏng thứ xịn hình ảnh trông rõ nét. Cả nhà Hai Kèo đêm nào cũng xúm xít để coi.Đến chương trình thời sự. Bà Hai Kèo không chú ý đến chuyện gì khác, mà chỉ để ý đến các phu nhân Tổng Thống.
Bà hỏi nầy Hai Kèo; phu nhân Tổng Thống các nước họ xách gì vậy? Hai Kèo nói, mấy bà phu nhân Tổng Thống các nước họ xách danh dự, xách nhân cách, xách tài năng của đất nước họ, phô trương với thế giới, để thế giới hâm mộ đất nước họ.
Bà Hai Kèo lại hỏi; Còn phu nhân cấp cao của đất nước mình thì sao? Có xách theo những thứ ấy không?
Hai Kèo nói; Bà không nhìn thấy sao, các phu nhân của nước mình đâu cần xách theo danh dự, nhân cách, tài năng. Nếu muốn xách cũng không có những thứ ấy lấy đâu mà xách để phô trương với thế giới.
Mà chỉ xách vàng xách bạc, xách đô la, xách kim cương châu báu. Bà thấy có khôn không?
Bà Hai Kèo nói Ông nói rất đúng, phu nhân cấp cao nước ta khôn đấy chứ, có đô la vàng bạc, thời mặc sức mà xây cung son biệt thự, chỗ nào cũng có, muốn gì được nấy nhờ học thuyết mác lê đó Hai Kèo. Tư Bản làm gì mà hiểu thuyết Mác Lê.
Hai Kèo phụ họa thêm, Bà là con sâu trong bụng chủ nghĩa vô thần nên Bà hiểu còn sâu sắc hơn tôi. Thế giới các nước văn minh, họ nhìn thấy Mác, Lê là khiếp vía kinh hồn, tránh xa nghìn dặm làm gì học được cái tài của Mác, Lê là tóm sạch sự giàu sang của thiên hạ về túi riêng của mình, tôi cố học, học mãi mà không vô. Thời thế bây giờ mà rớ vào mấy ông tư bản đỏ kết xù, chỉ cần đụng vào của để ngoài bờ rào cũng đã ở tù mục xương không có ngày về. Tôi không dám học theo cái tài Mác Lê. Của người ta không cho mà lấy phạm luật thiên, tôi sợ quả báo, sợ tù quá.
Mấy đứa con của Hai Kèo thấy Cha Mẹ nói móc nói méo hay quá xúm nhau bịt miệng mà cười.
Hai Kèo thấy các con bụm miệng cười nhìn các con rồi nói, các con có biết không giàu chân chính, phú quý sanh lễ nghĩa đi ngõ trước.
Giàu bất chính phú quý sanh lễ nghĩa đi cửa sau, hai bên mà đụng nhau thời sứt đầu mẻ trán. Lễ nghĩa thành tang lễ. Cầu siêu hơn 40 mươi năm không biết có siêu thoát được không. Kẻ chân chính thời lên thiên đàng, người bất chính thời nơi địa ngục, rốt cuộc gieo nhân nào gặt quả nấy. Hai Kèo nói xong thời cười, lắc nghiêng lắc ngửa, con cái cũng cười theo làm dậy rạp cả nhà.
4. CUỘC ĐIỆN THOẠI
A lô a lô Chó đây Mèo đó hả. Mèo suốt ngày ca ngợi Ông Cha, Ông Cha có gì mà ca ngợi dẹp bỏ đi.Mèo nghe xong mừng rỡ nói. A Lô anh Chó đó hả anh tài quá tôi không theo kịp anh đâu. Tài chống phá Tổ Tiên của anh đã đến đỉnh. Tài đã thái quá là tài liền với chữ tai một vòng. Tôi sợ mang họa cho bản thân cũng như con cái ra ăn mày cả đám, nên không dám theo lời dạy bảo của anh đâu.
A lô a lô Anh Chó anh không sợ Tổ Tiên, anh chả cần Cội Nguồn, anh chống phá Cha Ông, có lẽ vì anh quá tài nên anh làm đảo lộn luân thường đạo lý. Đảo lộn cả càn khôn, đảo ngược truyền thống Ông Cha. Nghịch lại Thiên Ý tự nhiên. Con ngồi lên đầu Cha, cháu ngồi lên đầu Ông. Tài như vậy,ai mà theo kịp Anh Chó anh đã trở thành vô địch tội lỗi rồi. Chống phá Tổ Tiên quá xuất sắc. Chúc anh mau nhận bằng khen quả báo tai ương họa kiếp.
A lô a lô Anh Chó còn ở đầu giây không. Mèo tôi thời sợ xúc phạm đến Cội Nguồn Tổ Tiên Cha Ông, không dám nói những lời thất kính như thế. Tôi sợ nhất là đại nghịch vô đạo.
A lô a lô. Tôi nhắc cho anh một điều. Tổ Tiên ở trên đầu anh, hồn thiên sông núi ở sát bên anh. Thần linh có mặt khắp nơi chỗ nào cũng có. Tài hủy bán Cội Nguồn Tổ Tiên của anh là tài kéo theo vô số tai họa, tài quá hóa ra làm hại mình chữ tài liền với chữ tai một vòng. Gieo ác khẩu hành ác nghiệp, đương nhiên sẽ gặt họa không sớm thời chầy. Chúc anh Chó sớm gặt những gì mình đã gieo ra.
A lô a lô, Mèo đây còn Chó đâu rồi
Mới khoe khoang đó, cút rồi hay sao
Cây mất gốc, đổ nhào khô héo
Người lạc Nguồn, cuộc sống bơ vơ
Chữ tài liền với chữ tai
Phản Nguồn phản Cội vùi chôn cuộc đời
A lô anh Chó đâu rồi
Tài mà như thế về chầu Diêm Vương
Nghĩ đi nghĩ lại mà thương
Tài như anh Chó hết phương cứu rồi
Chờ ngày kiếp nạn phản hồi
Tiêu tan hết thảy dập vùi hồn linh
A lô anh Chó lâm nạn rồi sao
Sao không bắt máy để tôi gọi hoài
A lô a lô
5. CHẾT LÀ NIỀM VUI CỦA NGƯỜI HÀNH THIỆN; LÀ SỢ HÃI CỦA NGƯỜI HÀNH ÁC
Nói đến thôn Lộc An thời ai cũng biết Ông Ba Cảnh. Vì Ông là người mộ Đạo nhất là tôn thờ Nguồn Cội.Ông Ba Cảnh vừa ngã bệnh, thời cả nhà lo lắng có người khóc lóc. Ông thấy thế nói rằng chết là lẽ công bằng của Tạo Hóa. Cha đã làm lành mấy mươi năm nếu sống mãi, cũng chỉ là Ông Ba cảnh nghèo lại còn mang thân xác bệnh tật già nua vầy sao? Lẽ công bằng Tạo Hóa ở đâu? Cái xác thân già nua nầy là Cha tạm mượn của Tinh Cha Huyết Mẹ nào phải cái thân của Cha. Khi Cha đến cõi trần nầy chỉ mỗi một linh hồn với hai bàn tay trắng. Khi Cha ra đi thời cũng phải trả lại hết cho trần những gì Cha đã tạm mượn.
Sự tạm mượn cũng có thời gian nhất định, sống bao nhiêu? có chừng đã được định sẵn rồi. 60- 70- 80 những gì vay mượn của trần phải trả lại cho trần. Các con nên hiểu mượn thời phải trả, không trả chẳng lẽ muốn lấy luôn. Tạo Hóa không cho phép điều đó đâu các con. Trả lại xác thân cho trần cũng là lúc Linh Hồn của Cha thấy nhẹ nhõm.
Để thay đổi vận mệnh số kiếp con người đi vào cuộc sống mới. Cha sẽ không còn nghèo khổ, đó là nói tái sanh lại kiếp người trần gian. Với sự tu hành của Cha lúc nào cũng nghĩ đến Cội Nguồn tôn vinh ba ngôi tối cao vũ trụ. Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu thời Cha sẽ siêu sanh về thiên giới sống an vui hạnh phúc trên cõi trời.
Các con nên biết kiếp sống con người trần gian chỉ là kiếp tạm, cõi tạm, trần gian chỉ là trường thi Tạo Hóa mà thôi, thời hạn kiếp tạm con người cũng đã định số rồi, thân xác con người sẽ chết đi, Linh hồn chuyển sang kiếp mới. Thay đổi hoàn toàn số phận của Linh Hồn ở kiếp tới theo luật nhân quả gieo gì thời gặt nấy.
Những người làm ác nếu họ sống mãi, thời luật công bằng Tạo Hóa để đâu? Tạo hóa không cho phép con người trần gian sống mãi mà phải chết đi khi hết thời gian kiếp người.
Linh Hồn phải chuyển đổi số kiếp. Gieo ác sẽ gặt họa ở kiếp tới, gieo thiện sẽ gặt lành ở kiếp tiếp theo. Những người hành ác dù giàu có đến đâu, quyền lực đến đâu, khi Linh Hồn rời khỏi xác, không thể mang theo sự giàu có. Cũng như quyền lực cõi tạm nơi chốn trần gian ấy được. Mà phải trả lại tất cả cho chốn trần gian.
Chỉ hai bàn tay trắng những thứ họ mang theo chính là nghiệp ác. Và chính nghiệp ác ấy đã hại họ đưa họ xuống Địa Ngục âm phủ chịu đủ thứ cực hình vô cùng đau đớn và khốn khổ chết đi sống lại hàng vạn vạn lần
Tóm lại: Những Linh Hồn đầu thai làm kiếp người nơi chốn trần gian không mang theo gì cả, mượn tinh Cha huyết Mẹ Âm- Dương giao hợp chuyển hóa thành thai người. Tinh Cha Huyết Mẹ được vay mượn từ Tạo Hóa tứ đại Đất, Nước, Gió, Lửa. Đã là sự vay mượn bao giờ cũng phải trả lại. Theo định số hết thời hạn của sự vay mượn. Không ai có thể làm chi khác được.
Chết có nghĩa là sự vay mượn đã hết, thời gian vay mượn không còn, mà huyền cơ tạo hóa đã ấn định cho số mạng con người. Phải trả lại tất cả những gì mình đã vay mượn nơi chốn trần. Công danh, sự nghiệp, giàu có, quyền lực.
Chỉ còn lại Linh Hồn với hai bàn tay trắng trước khi rời khỏi trần gian. Tiếp tục cuộc hành trình đi vào cuộc sống mới. Khổ vui, họa phúc, siêu đọa. Do nghiệp ác hay nghiệp thiện của mỗi linh hồn. Ông Ba cảnh giảng giải xong liền ngâm bài thơ mà Ông đã chuẩn bị từ lâu.
Nếu mai Cha chết, các con sẽ vui lên
Vì Cha đã, chuẩn bị hành trang
Mang đi theo, vào kiếp sống mới
Chết là mang đến niềm vui cho người tu phước
Là khốn khổ, cho kẻ làm ác hại người
Ông Ba Cảnh nói xong, thời cười ha hả
Nhắm mắt xuôi tay, Hồn thong thả ra đi
Cõi trần chỉ là trường thi
Dù đậu, không đậu cũng ra khỏi trường
Một là lên thiên đàng
Hai là sa Địa Phủ
Chết là chuyển kiếp sợ chi
Nếu mà sống mãi còn chi công bằng