Rồng Tiên lược truyện

PHẦN 24

Đây nói về Hạp Lư Vua Ngô Phương Bắc lúc nào cũng dòm ngó Việt Trung Nguyên. Mấy lần xua quân xâm lược Việt Trung Nguyên đều bị Việt Vương Doãn Thường đánh bại. Hạp Lư củng cố lại binh hùng tướng mạnh hầu quyết tâm chiếm cho được Việt Trung Nguyên. Không ngờ Sở Chiêu Vương thấy nước Ngô Suy yếu liền đem quân thôn tính nước Ngô. Hạp Lư vô cùng tức giận quyết diệt cho bằng được nước Sở.

Một hôm Ngũ Viên nghe báo:

Có người Nước Đường và Nước Sái đến sai sứ sang thông hiếu. Hiện đã tới ở ngoài chờ đợi.

Ngũ Viên mừng rỡ nói rằng:

Ý trời giúp Ta. Nước Đường, Nước Sái đều là thuộc quốc của Nước Sở. Nay tự nhiên sai sứ sang thông hiếu với Nước Ngô. Tất có lòng oán Sở ấy chính là cơ hội trời xui khiến cho Ta phá tan quân Sở tiến vào Sính Đô thời cơ đã tới.

Mối hận Sở Bình Vương giết Cha, giết Anh, giết cả gia đình Ngũ Viên không lúc nào quên và đây chính là cơ hội cho Ngũ Viên tiêu diệt Nước Sở trả mối hận trong lòng.

Đây nói về các nước thuộc quốc xưa nay tùng phục Nước Sở. Nghe nói Sở Chiêu Vương bắt được thanh kiếm (Trạm Lư) đều đến chúc mừng. Nước Đường là Đường Thành Công. Nước Sái là Sái Chiêu Công cũng đến chúc mừng.

Sái Chiêu Công có một đôi ngọc bích quý hiếm màu mỡ dê và hai chiếc áo cừu bằng lông Điêu Bạch vô cùng hiếm quý. Bằng đem mỗi thứ mỗi cái dâng cho Sở Chiêu Vương để làm lễ chúc mừng Sở Chiêu Vương bắt được kiếm quý. Còn lại mỗi thứ một cái để đeo và mặc. Nang Ngõa vừa trông thấy thời thích lắm lòng tham nổi lên muốn chiếm lấy cho bằng được.

Bằng sai người đến gặp Sái Chiêu Công nói:

Muốn Nước Sở quan tâm đến Nước Sái thời phải dâng nạp Bích Ngọc và áo Cừu Lông Điêu Bạch cho Nang Ngõa.

Sái Chiêu Công lấy làm tức lắm nhưng nhẫn nhịn nói rằng:

Chuyện gì thời được chứ chuyện nầy thời không được.

Từ chối không chịu đưa Ngọc Bích, Áo Quý cho Nang Ngõa.

Đường Thành Công có một đôi ngựa rất quý tên gọi là Túc Sương. Thành Công có ý muốn khoe đôi ngựa quý của mình. Bằng cho đôi ngựa ấy kéo xe đi đến Nước Sở xe ngựa đi nhanh và êm lắm. Nang Ngõa nhìn thấy thời lòng tham nổi lên muốn chiếm về mình.

Nang Ngõa sai người đến nói với Đường Thành Công rằng:

Quan Lệnh Doãn tôi muốn có đôi ngựa của Ngài. Nếu Ngài đem dâng thời Nước Đường sẽ được bình yên.

Đường Thành Công nghe xong vô cùng tức giận nói rằng:

Đường Thành Công ta không thể theo ý của lệnh Doãn được.

Nang Ngõa lấy làm tức lắm lập mưu hại Đường Thành Công và Sái Chiêu Công. Bằng vào triều tâu với Sở Chiêu Vương rằng:

Đường Thành Công và Sái Chiêu Công tư thông với Nước Ngô. Nếu tha cho về thời tất dẫn Ngô sang đánh Sở, chi bằng bắt giữ lại.

Sở Chiêu Vương nghe lời Nang Ngõa bằng truyền bắt Đường Thành Công và Sở Chiêu Công.

Nói về Đường Thành Công và Sái Chiêu Công chưa kịp về nước thời thấy quân binh ập tới bắt đem giam ở quán xá cho một nghìn quân canh giữ. Đường Thành Công và Sái Chiêu Công ngậm đắng nuốt cay. Ở vào thời điểm nầy Sở Chiêu Vương còn ít tuổi. Quyền chính đều ở trong tay Nang Ngõa. Nang Ngõa muốn làm gì thì làm. Không ai là không sợ. Đường Thành Công và Sái Chiêu Công bị giam tại Sở đã ba năm trời. Không biết chừng nào trở về không chừng bỏ mạng tại nơi đây.

Của quí khoe ra họa biết bao

Gặp phải ác quan mạng âm tào

Thế sự xưa nay phường ăn cướp

Vua quan đầy rẫy bụng gươm đao

Giết người cướp của xưa nay thế

Vỏ bọc nghĩa nhân bán chào rao

Miếng mồi danh lợi luôn câu nhắp

Chém giết tranh giành khổ biết bao.

Nói về Thế Tử Nước Đường không thấy Đường Thành Công trở về liền sai Quan Đại Phu là Công Tôn Triết đến Nước Sở dọ tin, mới biết là Đường Thành Công bị giam.

Công Tôn Triết nói với các thị vệ rằng:

Chúa Công Ta tiếc đôi ngựa quý, để chịu giam mãi ở Nước Sở. Chúa Công sao lại trọng súc vật mà xem thường mạng sống coi thường nước nhà như thế. Chi bằng chúng Ta lấy trộm đôi ngựa quý ấy, đem dâng cho Quan Lệnh Doãn nước Sở để Chúa Công được về. Khi Chúa Công về nước rồi có trị chúng ta về tội lấy trộm ngựa đem dâng cho Quan Lệnh Doãn thời chúng ta cũng cam lòng.

Các thị vệ theo lời liền đem rượu ngon mạnh cho kẻ giữ ngựa uống. Những người giữ ngựa liền uống say, các thị vệ liền trộm ngựa đem giao cho Công Tôn Triết.

Công Tôn Triết liền đem đôi ngựa quý đến giao nạp cho Nang Ngõa nói rằng:

Chúa Công tôi có lòng kính mến Quan Lệnh Doãn. Sai chúng Tôi đem đôi ngựa quý đến đây dâng lên Ngài.

Nang Ngõa trong lòng khoang khoái vô cùng nói:

Có thế chứ. Thức thời sớm phải có hay hơn không.

Nang Ngõa liền nhận lấy đôi ngựa. Sáng hôm sau vào chầu Nang Ngõa tâu với Sở Chiêu Vương rằng:

Đường Thành Công bị giam ba năm như thế cũng đủ biết sợ không dám phản lại sở Ta. Dẫu Ta có tha cho về cũng chẳng làm gì Ta nổi. Nước Đường đất nhỏ quân ít nếu Đường Thành Công manh tâm tạo phản. Thời đêm quân thảo trừ cũng không muộn.

Sở Chiêu Vương nghe lời Nang Ngõa tha cho Đường Thành Công. Đường Thành Công về đến Nước Đường. Công Tôn Triết cùng đám thị vệ đều sụp lạy trước sân rồng xin chịu tội.

Đường Thành Công nói:

Các ngươi không đem ngựa mà dâng lên cho đứa tham phu ấy, thời dễ gì chúng tha cho ta về nước. Đó là lỗi của Ta vì quá tiếc của quý.

Đường Thành Công liền trọng thưởng cho Công Tôn Triết cùng đám thị vệ.

Nói về Sái Chiêu Công nghe nói Đường Thành Công dâng ngựa được thả về. Cũng đem áo cừu lông Bạch Điêu quý hiếm cùng ngọc bội cho người đem dâng cho Nang Ngõa.

Nang Ngõa nhận áo cùng ngọc bội lấy làm đắc ý nói:

Ta muốn là Trời muốn. Ai không dám tuân.

Sáng hôm sau Nang Ngõa lại vào chầu tâu với Sở Chiêu Vương rằng:

Sái Chiêu Công cũng như Đường Thành Công. Ta đã tha cho Đường Thành Công, thời còn giữ Sái Chiêu Công để mà làm gì nữa.

Sở Chiêu Vương nghe theo lời Nang Ngõa thả Sái Chiêu Công. Sái Chiêu Công trên đường trở về nước trong lòng căm hận Vua Sở vô cùng.

Khi đến sông Hán Thủy bằng cầm lấy viên Bích Ngọc ném xuống sông Hán Thủy mà thề rằng:

Nếu Ta không đánh được Sở mà lại qua sông nầy lần nữa thời xin chết như thế nầy.

Khi về đến Nước Sái. Tức khắc Sái Chiêu Công cho Thế Tử Nguyên sang làm con tin tại Nước Tấn. Để mượn quân Tấn đánh Sở. Hơn nữa Tấn Định Công khi ấy quyền uy rất lớn. Tấn Định Công đem việc Nang Ngõa nước Sở tham lam tố cáo lên Nhà Chu, Chu Kính Vương.

Chu Kính Vương Nhà Chu nghe xong ra vẻ giận dữ, cũng như tỏ rõ sự uy quyền của mình. Liền sai quan Khanh Sĩ là Lưu Quyền đem quân đến giúp Sái Chiêu Công.

Từ khi Nang Ngõa lên nắm Quyền Lệnh Doãn Nước Sở. Thời xem thường các nước thuộc quốc. Như Tống – Tề – Lỗ – Vệ – Trần – Trịnh – Hứa – Tào – Cử – Châu – Đốc – Hồ – Đằng – Tiết – Kỷ – Tiêu – Châu – Tử – Đường – Sái. Cả thảy 20 nước đều oán Nang Ngõa là người tham lam thấy ai có của quý thời kiếm cớ lấy cho bằng được.

Nói về quan Khanh Sĩ là Lưu Quyền thừa lệnh Chu Kính Vương đem quân đến nước Tấn. Lúc bấy giờ Sĩ Ưởng nước Tần làm đại Tướng. Tuân Di làm phó Tướng đem quân các trấn chư hầu hội ở đất Thiệu Lăng. Tuân Di nghĩ mình vì nước Sái mà đánh Sở. Là có công với Nước Sái nên muốn đòi ăn tiền.

Bằng đến gặp Sái Chiêu Công rằng:

Tôi nghe nói nhà Vua có áo Cừu lông điêu bạch, và ngọc bội đêm dâng cho Vua Nước Sở, sao Tôi lại không có gì cả. Chúng Tôi vì nhà Vua mà cất quân đi đường xa nghìn dặm, chẳng hay nhà Vua lấy gì, lấy gì mà khao thưởng quân sĩ nước Tôi?

Sái Chiêu Công nghe Tuân Di đòi ăn tiền trước thời ngán ngẩm chán nản vô cùng. Nang Ngõa kia chưa diệt thời Nang Ngõa khác mọc ra. Tất cả chỉ vì sự tham lam mà gây ra bao chiến tranh loạn lạc bất hòa chém giết triền miên.

Sái Chiêu Công nói:

Tôi thấy Quan Lệnh Doãn Nước Sở là người tham lam không kể gì đến phải trái. Tôi mới bỏ Sở mà đi theo Tấn coi nước Tấn là Minh Chủ của nước Tôi. Nếu Ngài nghĩ đến cái nghĩa của Minh Chủ giúp đỡ các thuộc quốc mà đem quân đánh Sở. Thời năm trăm dặm ở đất Sở kia mặt sức tha hồ mà khao thưởng quân sĩ, còn gì lợi hơn nữa.

Tuân Di nghe Sái Chiêu Công nói thế có ý hổ thẹn không muốn giúp Sái Chiêu Công đánh Sở nữa.

Lúc bấy giờ Phương Nam Văn Lang đến thời mạc pháp Văn Hóa Cội Nguồn không còn. Nước Văn Lang ngày càng rơi vào cảnh tối tăm tình hình chính trị bất ổn Bắc Văn Lang rơi vào tay cha Con Việt Vương Doãn Thường Nước Văn Lang bị chia cắt làm hai. Nam Bắc phân tranh Doãn Thường và Hùng Vương đánh nhau kịch liệt.

Phương Bắc Nhà Chu các trấn chư hầu tham lam chém giết nhau dữ dội vô cùng thảm khốc. Lúc bấy giờ trời mưa dầm dề muỗi sanh ra hoành hành dữ dội dân chúng bị bệnh dịch sốt rét nhiều vô số kể. Quan Khanh Sĩ Nhà Chu bị bệnh cũng không tránh khỏi bị bệnh sốt rét nằm liệt gi.ường chưa ngồi dậy nổi.

Tuân Di nói với Sĩ Ưỡng rằng:

Ngày xưa Tề Hoàng Công cường thịnh hùng mạnh như thế mà còn phải đóng quân ở Thiệu Lăng để giảng hòa với Sở. Tiên Quân nước Tấn ta là Văn Công tài trí vô song mà chỉ đánh thắng được Sở có một trận. Mà chiến tranh lan tràn mãi không thôi. Nước Tấn Ta từ khi cùng Sở giảng hòa hai bên vẫn chưa hiềm khích gì với nhau. Nước Sở vô cùng hùng mạnh không thể đánh là thắng liền được đâu, hơn nữa độ nầy mưa nhiều nước lụt. Bệnh dịch sốt rét đang phát. Tôi e rằng tiến quân đánh Sở vị tất đã đánh được Sở, khi hai bên giao tranh tiến không được mà lui về thời bị quân Sở đuổi theo tổn hại quân binh không sao lường trước, Ta nên lo tính trước mới được.

Sĩ Ưởng không khác gì Tuân Di cũng là tay tham phu chỉ biết tiền tài vàng bạc. Muốn ăn tiền của Nước Sái nhưng chưa được mãn nguyện. Hai tay tham phu nầy mới viện cớ mưa nhiều nước lụt, bệnh dịch, tiến binh bất lợi. Nước Sở hùng mạnh khó mà đánh.

Tuân Di, Sĩ Ưỡng cho Thế Tử trở về Nước Sái rồi hạ lệnh lui quân. Hơn 18 nước thuộc quốc trấn chư hầu thấy nước Tấn là con chim đầu đàn lui quân không đánh Sở. Thời cũng đều lui quân về cả.

Sái Chiêu Công thấy các nước rút quân về không ai chịu giúp mình nữa hết còn hy vọng đánh Sở để trả thù rửa hận, trong lòng vô cùng chán ngán. Sái Chiêu Công đành rút quân từ Thiệu Lăng trở về khi đi qua Nước Thẩm. Sái Chiêu Công nổi giận vì Vua Thẩm không theo Sái đánh Sở. Sái Chiêu Công liền sai quan đại phu là Công Tôn Tính, đem quân đánh Thẩm. Vua Thẩm đánh không lại bị Sái Chiêu Công bắt được giết đi để cho hả lòng oán Sở.

Nhìn thế cuộc đảo điên, điên đảo

Tham, với Sân, vì của vì tiền

Tranh nhau chém giết giựt giành

Khác gì cầm thú chẳng còn người ta.

Nang Ngõa quan lệnh Doãn nước Sở nghe Sái Chiêu Công giết Vua Thẩm với cái tội không chịu giúp Sái đánh Sở. Nang Ngõa giận lắm đem quân kéo đến vây h.ãm thành Sái Chiêu Công.

Công Tôn Tính nói với Sái Chiêu Công rằng:

Chúa Công không thể trông cậy ở Nước Tấn được nữa. Chi bằng sang cầu viện nước Ngô. Các quan nước Ngô như Ngũ Viên, Bá Hi đều là cừu địch với Nước Sở tất thế nào cũng giúp Ta.

Sái Chiêu Công nghe lời sai Công Tôn Tính sang hội ước với Đường Thành Công để cùng đi mượn quân Nước Ngô đánh Sở. Lại cho người con thứ là Công Tử Kiền sang ở làm con tin. Ngũ Viên đưa sứ giả Nước Đường và Nước Sái vào yết kiến Hạp Lư.

Và nói với Hạp Lư rằng:

Nước Đường và Nước Sái oán hận Nước Sở. Xin làm tiên phong đem quân đánh Sở. Đây là một cơ hội hiếm có. Đem quân đến cứu Nước Sái gây tiếng vang tốt. Nhân cơ hội nầy đánh Sở là một lợi to. Đại Vương muốn tiêu diệt Nước Sở tiến vào Sính Đô lên ngôi bá chủ chính là cơ hội nầy.

Hạp Lư mừng trong bụng liền nhận lời hợp tác cùng Nước Đường Nước Sái tiêu diệt Nước Sở. Bằng nói với Công Tử Tính về trước nói với Sái Chiêu Công và Đường Thành Công biết.

Hạp Lư đang bàn việc tiến binh cùng Ngũ Viên thời Quân Sư Tôn Vũ cũng vừa tới. Hạp Lư hỏi Tôn Vũ:

Thời cơ thuận lợi đã đến Quân Sư liệu kế ra sao?

Tôn Vũ nói:

Tâu Đại Vương. Nước Sở khó đánh là vì có nhiều thuộc quốc trấn chư hầu. Nên chưa thể tiến quân tiêu diệt Sở, Nay các thuộc quốc trấn chư hầu phần đông là oán Sở. Cụ thể như Vua Tấn chỉ cần xướng lên một câu mà có tới 20 nước hợp sức đánh Sở. Trong 20 nước ấy. Thời Nước Trần, Nước Hứa, Nước Hồ, Nước Đốn, Nước Sái, Nước Đường. Đều là thuộc quốc trấn chư hầu của Sở. Mà nay bỏ Sở theo Tấn. Xem thế thời biết các nước đều oán Sở. Chẳng những Nước Đường, Nước Sái mà còn nhiều nước khác nữa. Phen nầy Nước Sở cô thế chính là cơ hội cho Đại Vương tiến binh diệt Sở.

Hạp Lư là tay tham tàn bạo ác đời nào bỏ lỡ cơ hội nầy nghe theo lời nhận định của Ngũ Viên cũng như Tôn Vũ. Bằng sai Bị Ly cùng Chuyên Nghị giúp Thế Tử Ba giữ Nước. Còn mình thời thống lĩnh quân binh tiến đánh tiêu diệt Nước Sở.

Hạp Lư phong cho Tôn Vũ làm Đại Tướng. Ngũ Viên, Bá Hi làm phó Tướng. Công Tử Phu Khái làm tiên phong. Công Tử Sơn đốc vận lương thực. Rồi thống lĩnh 15 vạn quân Ngô chia làm hai đạo quân một đạo quân theo đường thủy. Một đạo quân theo đường bộ tiến thẳng đến giải vây cho Nước Sái.

Nói về Nang Ngõa thống lĩnh hơn 5 vạn quân Sở bao vây kinh thành Nước Sái tìm cách phá thành giết chết Sái Chiêu Công với cái tội phản Sở. Thời nghe nói quân Ngô chia làm hai đạo quân. Một đạo quân vượt sông Hoài tràn tới. Một đạo quân theo đường bộ tràn tới. Hai đạo quân như nước vỡ bờ tiến tới bao vây quân Sở.

Nang Ngõa biết đánh không lại vì trong thành quân Sái đánh ra, bên ngoài quân Ngô đánh vào. Bằng bỏ Sái Thành rút về nước. Lại sợ quân Ngô vượt qua Sông Hán tiến đánh Sính Đô. Mới cho đóng quân canh giữ nơi đây. Và sai người về Sính Đô cấp báo.

Nói về Sái Chiêu Công ở trên thành thấy quân Sở rút lui không bao vây Sái thành nữa. Xa xa nhìn thấy quân Ngô từ hai hướng Tây Nam kéo tới đông như kiến thời không khỏi kinh hoàng: Không ngờ quân Ngô lại hùng mạnh như vậy. Thảo nào quân Sở không dám chống trả kéo quân rút lui bỏ đi.

Sái Chiêu Công nghinh tiếp Hạp Lư. Rồi vừa khóc vừa kể những tội ác của Vua tôi Nước Sở. Sái Chiêu Công tiếp đãi Hạp Lư một lúc thời Đường Thành Công cũng tới. Đường Thành Công và Sái Chiêu Công tình nguyện cùng theo Ngô đánh sở. Lúc sắp khởi hành tiến đánh Sở. Tôn Vũ truyền cho quân sĩ lên cả đường bộ, còn bao nhiêu thuyền bè cứ để ở khúc sông Hoài.

Ngũ Viên thấy vậy hỏi riêng Tôn Vũ:

Kế sách dụng binh như thế nào?

Tôn Vũ nói:

Đi đường thủy ngược dòng nước rất chậm lại tốn nhiều sức lực Sở lại phòng bị trước khó mà phá nổi. Chi bằng ta tiến quân bằng đường bộ gây sự chú ý bất ngờ cho quân địch, chúng không đoán ra kế sách của Ta, nên chúng sa vào bẩy kế sách của Ta, và Ta cho chúng một trận nên thân.

Ngũ Viên nghe xong lấy làm bội phục. Đại binh nước Ngô tiến qua đường Dự Chương, tiến thẳng đến phía Bắc Sông Hán. Khi ấy quân Sở đóng ở phía Nam sông Hán Thủy ngày đêm phòng bị quân Ngô dọc theo sông Hán tiến đánh. Chừng Nang Ngõa nghe lại thuyền quân Ngô đều đóng ở cả Sông Hoài, Nang Ngõa lấy làm yên lòng không hiểu nổi kế sách điều quân khiển tướng của Tôn Vũ.

Nói về Sở Chiêu Vương nghe tin quân Ngô tiến đánh Sở liền hợp các quan lại hỏi kế sách. Công Tử Thâm nói:

Muốn đánh bại quân Ngô. Đại Vương nên sai quan Tư Mã là Thẩm Doãn Thú trấn giữ không cho quân Ngô tiến qua sông Hán. Quân Ngô đi đường xa xôi lại không có tiếp ứng tất lui quân trở lại, không làm gì được nước Sở ta đâu.

Sở Chiêu Vương cho là chí phải liền sai Thẩm Doãn Thú đem một vạn rưỡi quân hợp cùng quân Nang Ngõa để chống lại quân Ngô không cho quân Ngô tiến qua sông Hán.

Thẩm Doãn Thú được quân cấp báo là:

Quân Ngô bỏ thuyền bè ở sông Hoài theo đường bộ qua Dự Chương tìm đường vượt qua sông Hán.

Thẩm Doãn Thú nghe xong cười ngất rồi nói rằng:

Tiếng đồn Tôn Vũ dụng binh như thần, nhưng dưới mắt của Ta, Tôn Vũ chỉ là hữu danh vô thực dụng binh như lũ trẻ con.

Nang Ngõa không tin tài phán đoán của Doãn Thú bằng hỏi:

Lấy cơ sở nào nói Tôn Vũ dụng binh như trẻ con?

Thẩm Doãn Thú nói:

Người nước Ngô quen thạo về thuyền bè, lợi thế về việc đánh thủy, nay lại bỏ thuyền bè ở khúc sông Hoài để đi cho chóng, vạn nhất thua trận thì lấy đường nào mà chạy về? Ta nghĩ cũng nực cười cho Tôn Vũ quá.

Nang Ngõa nói:

Quân Ngô hiện đang đóng ở phía Bắc sông Hán ta dùng kế sách gì mà phá được?

Thẩm Doãn Thú nói:

Tôi chia thêm cho Ngài năm nghìn quân. Ngài cứ dọc theo bờ sông Hán gôm hết thuyền bè của dân lại ở bên nầy sông lại cho sai quân đi tuần khắp mặt sông khiến cho quân Ngô không thể nào qua sông được. Tôi đêm đại binh qua đường Tân đến sông Hoài, đốt sạch thuyền bè của quân Ngô. Làm cho quân Ngô sợ hãi hoang mang. Khi ấy Ngài đem quân sang sông Hán đánh vào mặt trước quân Ngô. Tôi đem quân đánh vào mặt sau quân Ngô. Quân Ngô hết đường mà chạy chắc hẳn bắt sống được Vua Tôi nước Ngô.

Nang Ngõa nghe xong mừng lắm nói:

Tôi chịu kém tài không bằng quan Tư Mã rồi.

Thẩm Doãn Thú cho quan đại tướng là Vũ Thành Hắc thống lĩnh năm nghìn quân ở lại trợ giúp Nang Ngõa còn mình thời đem đại binh theo đường Tân đến sông Hoài đốt thuyền bè quân Ngô. Nhưng kế hoạch Thẩm Doãn Thú không thực hiện được bị Tôn Vũ, Ngũ Viên xây chuyển tình thế đánh bại Nang Ngõa, cũng như Thẩm Doãn Thú.

Hạp Lư Vua Ngô tiến về Sính Đô không có một thế lực nào ngăn nổi, không những thế Tôn Vũ còn biết vận dụng cả nước sông Chương Giang, tháo nước sông Chương Giang chảy vào kỷ Nam Thành, rồi tràn vào Sính Đô ngập trắng xóa như biển cả.

Sở Chiêu Vương phải bỏ Sính Đô cùng em gái là Quý Vu xuống thuyền chạy trốn khỏi nước Sở. Hạp Lư không những lấy sạch của cải châu báu nước Sở, mà xài cả vợ của Sở Chiêu Vương. Tâm ý hung bạo tận diệt nước Sở bằng cho người đập phá tôn miếu của nước Sở, phá hủy sự anh linh của nước Sở.

Ngũ Viên trả thù Cha, Anh cũng đào mồ mả Sở Bình Vương. Lôi xác Sở Bình Vương ra lấy roi đồng đánh ba trăm roi, giẫm chân lên bụng Sở Bình Vương, móc mắt Sở Bình Vương, cắt lấy đầu Sở Bình Vương đem xác Sở Bình Vương quăng ở giữa cánh đồng. Văn Hóa phương Bắc là như thế hung dữ hơn sói, lang, hổ, báo. Độc hơn rắn, rít là do thể chế độc tài độc trị cường hào ác bá tạo ra. Văn Hóa cường hào ác bá nầy xâm nhập vào Bắc Văn Lang. Phá hoại nền Văn Minh đoàn kết hưng thịnh nước Văn Lang.

* * *
 

PHẦN 25

Nói về phương Bắc nhà Chu các nước tranh bá tranh hùng thôn tính với nhau vô cùng khốc liệt. Các nước Phương Bắc những nước lớn nhất cũng chỉ bằng một bộ Văn Lang mà thôi, phần đông các nước Phương Bắc chỉ bằng một Châu, nhiều nước chỉ bằng Quận, Huyện Văn Lang. Ở điểm nầy cũng đủ biết Văn Hóa Văn Lang là Văn Hóa thống nhất từ Trung Ương đến Bộ, Châu, Quận, Huyện, không phải là Văn Hóa phân chia thành các trấn chư hầu nhiều nước như phương Bắc. Dẫn đến thôn tính lẫn nhau tranh bá tranh hùng.

Chỉ có một nước Văn Lang rộng lớn duy nhất nhiều Bộ, nhiều Châu, nhiều Quận, Huyện thống nhật từ trên xuống dưới. Không có cảnh tranh giành thôn tính lẫn nhau. Trừ khi các Bộ, Châu, Quận, Huyện nổi lên đòi tự trị xưng là Vua nầy Vua nọ theo xu thế Văn Hóa Phương Bắc nhà Chu tranh bá tranh hùng thôn tính lẫn nhau, phương Bắc thời nhà Chu có cả đến hàng trăm nước. Nước nầy thôn tính nước kia, nước kia thôn tính nước nọ chiến tranh triền miên lúc thì dữ dội lúc thời thâm trầm bao cái độc được đem ra sử dụng đến đỉnh cao độc quyền, độc tài, độc trị, độc tâm, độc tánh, độc ác, bao cái độc đem ra dùng hết không chừa món chi cũng chỉ vì thâu tóm quyền lực danh với lợi cũng cố độc tài độc trị cho cá nhân mình. Không kẻ gì đạo lý con người, không ít Vương, Quan, Vua, Chúa hung tàn bạo ác tàn sát cả người thân ruột thịt, mất hết lương tri.

Ở vào thời kỳ đen tối ấy xuất hiện kỳ nhân ra đời hiệu là Khổng Tử. 555 trước công nguyên, Khổng Tử sinh ở Ấp Trâu, thuộc làng Xương Bình người nước Lỗ. Tên là Khâu. Tự là Trọng Ni. Cha là Thúc Lương Ngột.

Thúc Lương Ngột lấy con gái họ Thi nước Lỗ không có con, người thiếp sanh được một con, tên là Mạnh Bì, nhưng lại có tật ở chân. Thúc Lương Ngột mới sai người đến nhà họ Nhan để cầu hôn. Họ Nhan có năm người con gái đều chưa gả chồng, có ý chê Thúc Lương Ngột đã già.

Nhan Ông mới bảo các con rằng:

Các con có đứa nào thuận kết duyên với quan đại phu ở Trâu Ấp không?

Các con các cô chị không ai trả lời cả, chỉ riêng người con gái út tên là Nhan Thị đứng dậy thưa rằng:

Phận làm con thời phải theo lời Cha. Cha đặt đâu thời con ngồi đó còn phải hỏi gì.

Nhan Ông nghe con gái út nói thế lấy làm lạ, bằng gả Nhan Thị cho Thúc Lương Ngột. Vợ chồng Thúc Lương ngột sợ tuổi già hiếm con nên thường đến cầu tự ở Ni Sơn.

Một hôm Nhan Thị nằm mộng thấy Thần Hắc Đế triệu đến mà bảo rằng:

Sau nầy nàng sẽ sanh được con Thánh.

Một hôm Nhan Thị mơ mơ màng màng, trông thấy năm ông cụ già đứng dưới sân, tự xưng là năm vì sao, dắt một con thú như con trâu con có một sừng, mình lại có vằn. Con Thú ấy trông thấy Nhan Thị thời nằm phục ngay xuống nhả cái thước ngọc trong miệng ra. Trên cái thước ngọc có câu văn rằng: “Con nhà Thủy Tinh, nối đời Chu suy mà làm Tố Vương”. Nhan Thị lấy dải lụa buộc vào sừng con thú dắt đi khi tỉnh dậy thời biết mình đã có thai.

Nhan Thị đem chuyện thấy trong mơ cũng như sự mang thai của mình kể lại cho Thúc Lương Ngột nghe. Thúc Lương Ngột nói:

Con thú ấy chính là con Kỳ Lân.

Nhan Thị sanh ra đứa bé có nhiều tướng lạ trên đầu gồ giữa lõm cho nên đặt tên là Khâu, tức là trên đầu nhô lên cái gò, môi như môi Trâu, tay như tay Hổ, vai như vai Chim Uyên, lưng như lưng con Rùa. Miệng rộng, hầu lộ, trán phẳng mà cao.

Thúc Lương Ngột nói:

Vì hai ta cầu Tự ở Ni Sơn mà được đứa bé nầy, vậy thì ta đặt tên cho con là Khâu tự là Trọng Ni.

Khổng Tử sanh ra thời Thúc Lương Ngột qua đời, chôn ở núi Phòng Sơn. Núi Phòng Sơn ở phía đông nước Lỗ. Khổng Tử không biết mộ Cha ở đâu. Vì Mẹ Ông kiêng kỵ không nói cho Ông biết mồ Cha ở đâu. Đến khi Mẹ chết Khổng Tử chôn tạm Mẹ ở con đường Ngũ Phụ. Vì Ông cẩn thận. Mẹ của Văn Phụ người đất Trâu, nói cho Khổng Tử biết nơi mộ của Cha. Cho nên về sau Khổng Tử hợp tán cả Cha và Mẹ ở núi Phòng Sơn.

Khổng Tử nghèo hèn lớn lên làm công cho họ Quý nhờ sự thông minh hơn người tính toán đo lường minh bạch, nên được làm chức coi súc vật. Được ít lâu thời được Lỗ Định Công trọng dụng.

Khổng Tử trưởng thành mình dài chín thước sáu tất, có Thánh Đức, ham học. Một hôm Họ Quý trọng đãi những kẻ sĩ. Khổng Tử cũng đến để tham dự.

Dương Hổ mắng Khổng Tử:

Họ Quý trọng đãi kẻ sĩ không phải trọng đãi nhà ngươi đâu.

Khổng Tử nghe xong bèn rút lui. Từ đó Khổng Tử chỉnh đốn tu Thân hàng ngày diệt Tà Ý bất chính trong lòng bằng phương pháp túi hạt đậu đen đậu trắng, nếu nói câu trái lương Tâm chẳng lành thời bỏ hạt đậu đen vào cái túi. Nói được một lời thiện thời bỏ hạt đậu trắng vào cái túi. Và cứ thế Khổng Tử ngày nào cũng tự mình phân xử lấy thiện ác của mình đến năm thứ 3 thời hạt đậu trắng nhiều hơn hạt đậu đen. Khổng Tử biết mình sắp thành chính nhân quân tử và nhiều tháng liền Khổng Tử thấy trong bao đựng ngày nào cũng toàn là hạt đậu trắng thời biết mình đã trở thành Thánh Thiện.

Từ đó Khổng Tử thường đi chu các nước, khắp thiên hạ chỗ nào cũng có học trò. Khi còn nhỏ Khổng Tử thích chơi trò Tế Lễ Cúng Bái. Lớn lên Khổng Tử thông thạo các Lễ nhạc, cũng như hiểu rõ sự lợi ích của Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín. Nên Vua các nước đều muốn trọng dụng Khổng Tử. Nhưng lại bị các nhà quyền quý đem lòng ganh ghét, thành ra không nước nào dùng được. Khổng Tử người nước Lỗ.

Năm thứ 19 đời Chu Kính Vương. Khổng Tử thấy Lỗ Định Công ngày đêm ham mê tử sắc lời ca tiếng hát, chẳng nghĩ gì đến chính sự chán ngán thở dài.

Học trò Khổng Tử là Trọng Do đứng hầu bên cạnh nói rằng:

Chúa Công chẳng nghĩ gì đến chính sự Thầy nên đi nước khác.

Khổng Tử liền bỏ nước Lỗ sang nước Vệ. Một hôm Vệ Linh Công ngồi cùng xe với nàng Nam Tử, để Khổng Tử đi xe sau.

Khổng Tử thở dài mà than rằng:

Vua Vệ yêu đức không bằng yêu sắc.

Khổng Tử liền bỏ Vệ sang Tống cùng học trò giảng Lễ ở dưới một gốc cây lớn. Quan Tư Mã nước Tống là Hoàn Khôi được Tống Cảnh Công trọng dụng nên có quyền thế y rất ghét Khổng Tử sai quân binh chặt cây đi rồi tìm cách giết Khổng Tử.

Khổng Tử phải cải trang bỏ trốn sang Trịnh. Trịnh có ý muốn h.ãm hại Khổng Tử.

Khổng Tử lại trốn sanh Tấn. Tấn không dùng Khổng Tử. Khổng Tử trở về nước Vệ. Không bao lâu thời Vệ Linh Công mất. Con Khoái Quý lên ngôi thay cha trở thành Vệ Xuất Công.

Khổng Tử nhìn thấy cảnh hai cha con Khoái Quý tranh giành quyền lợi lẫn nhau, không kể gì Đạo Cha Con. Tấn giúp Khoái Quý. Tề giúp Công Tử Triếp. Hai cha con tương tàn chém giết lẫn nhau không còn nhân tính.

Khổng Tử thấy vậy bỏ Vệ sang Trần, nước Trần không trọng dụng Khổng Tử.

Khổng Tử sang nước Sái. Nhưng nước Sái cũng không mấy mặn mà với Khổng Tử.

Sở Chiêu Vương nghe tin Khổng Tử không ở nước Trần cũng như nước Sái thời cho người đi đón. Các Quan đại phu nước Trần nước Sái sợ nước Sở dùng Khổng Tử thì nguy cho nước mình, bằng đem quân vây Khổng Tử.

Khổng Tử phải nhịn đói liền trong ba ngày. Nước Sở đem quân đón Khổng Tử. Khổng Tử đến nước Sở. Sở Chiêu Vương mừng lắm, toan đem đất lý xa phong cho Khổng Tử.

Quan Lệnh Doãn là Công Tử Thân can rằng:

Ngày xưa Văn Vương ở phong, Vũ Vương ở kiểu, chỉ độ một trăm dặm đất mà biết tu thân tích đức. Thành ra thay quyền Nhà Ân lên làm vua. Nay đức tính của Khổng Khâu chẳng kém gì Văn Vương và Vũ Vương mà học trò đều là bậc nhân sĩ hiểu đạo lễ nghĩa bậc hiền. Nếu phong đất cho Khổng Khâu thời sau nầy tất là thay quyền nước Sở ta mất.

Sở Chiêu Vương nghe Công Tử Thân khuyên can như thế nên thôi không phong đất cho Khổng Tử. Khổng Tử biết là Sở Chiêu Vương không thể dùng mình được. Khổng Tử lại bỏ Sở trở về nước Vệ.

Cuộc đời Khổng Tử là như thế Vua các nước đều muốn trọng dụng Khổng Tử. Nhưng lại bị các nhà quyền quý ganh ghét h.ãm hại Vua phải nghe theo các triều Thần. Vì phương Bắc ở vào thời đó là thời đại đỉnh cao của Phong Kiến Thần Giáo. Vua thường làm theo nghe các Triều Thần. Đạo Khổng Tử là Thánh Giáo luôn bị Thần Giáo bác bỏ vì sợ Thánh Giáo của Không Tử chuyên xây làm hại.

Những học trò ưu tú Khổng Tử như Tử Lộ, Trọng Do, Tử Cống, Nhan Hồi, Nhiễm Cầu thường nghe Khổng Tử than:

Thiên hạ mất Đạo làm người từ lâu rồi. Chỉ biết chạy theo cái tài tranh hùng tranh bá, nên không mấy ai biết theo ta, để trở thành Đạo Quân Tử đích thực.

Ở vào thời đại Phong Kiến Thần Giáo tôn thờ cái Tài là chính, cái Đức chỉ là phụ tranh bá tranh hùng tôn tính lẫn nhau bất chấp thủ đoạn tàn độc vô cùng. Khổng Tử đi đến đâu thường gặp bất lợi đến đó.

Một hôm Khổng Tử hỏi Nhan Hồi:

Nho Đạo của Ta phải chăng là sai? Tại sao Ta mãi gặp cảnh thế nầy?

Nhan Hồi nói:

Đạo Quân Tử Phu Tử hết sức lớn lao, nên cả Thiên Hạ không ai dung nạp được. Nhưng Phu Tử cứ theo đó mà làm, người ta không dung nạp thời có hại gì? Người ta sau nầy sẽ thấy Đạo Phu Tử là Đạo người quân tử. Cái Đạo làm sáng cái Đức con người. Cái Đạo an ban tế thế. Kẻ làm Vua, Chúa mà không dung nạp cái Đạo của Phu Tử thời khó mà giữ yên ngôi vị độc tôn của mình.

Và đúng vậy. Hai trăm năm sau đến thời Nhà Hán. Khi ấy Bắc Việt Trung Nguyên đã xác nhập về Phương Bắc ở vào thời Chu Nguyên Vương. Nhà Hán ra đời Đạo Khổng được phát huy tác dụng tôn vinh lên đến đỉnh cao của Nho học Khổng Giáo. Phương Bắc chuyển sang giai đoạn mới, Giai đoạn Phong Kiến Vua Chúa theo Nho Giáo, lấy Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín làm sáng cái Đức của người quân tử. Và Lễ luôn đặc lên hàng đầu. Những điều cơ bản của Lễ, trong nghi lễ. Lễ nghi, Lễ Nhạc vô cùng quan trọng làm hưng thịnh của Nho Giáo.

Lại nói về Vua Ngô là Hạp Lư thôn tính nước Sở uy danh lừng lẫy. Sanh ra chơi bời sửa sang cung thất, lập cung thường lạc ở giữa kinh thành. Lại cho người xây đắp Cao Đài ở trên núi Cô Tô (Núi ở phía Tây Nam thành nước Ngô cũng là núi Cố Tư). Mở một con đường chín khúc đi vòng quanh núi. Mùa xuân và mùa Hạ, Hạp Lư ở ngoài thành. Mùa thu mùa đông thời vào ở trong thành. Ăn chơi trác tán. Tôn Vũ là người thức thời, hiểu rõ tướng sự đời cũng chỉ vì tham vọng tranh hùng tranh bá chém giết lẫn nhau không mấy Vua tôi là người có Đạo chỉ lo cho cái túi tham của mình. Tôn Vũ không muốn làm quan nữa tuy biết rằng mình đã lập nhiều công lớn cho nước Ngô. Tôn Vũ xin về núi tu tiên trở lại. Hạp Lư sai Ngũ Viên lôi kéo Tôn Vũ ở lại.

Tôn Vũ bảo Ngũ Viên rằng:

Ngài còn không biết Đạo Trời hay sao? Nóng lắm thời rét nhiều. Xuân qua thời Thu đến. Nay Đại Vương cậy mình cường thịnh tất sinh lòng kiêu ngạo không coi ai ra gì tất nhiên nhiều biến loạn. Nếu tôi không xin đi ở ẩn thời tránh sao cho khỏi hậu hoạn. Chẳng những Tôi lo cho Tôi mà còn lo cho Ông nữa.

Ngũ Viên nghe Tôn Vũ nói không cho là phải. Tôn Vũ trở về núi tìm nơi ẩn dật tu tiên. Hạp Lư đưa tặng mấy xe vàng, lụa. Lúc đi đường Tôn Vũ đem ban phát vàng lụa cho những dân nghèo khổ về sau không ai biết Tôn Vũ đi đâu.

Thơ rằng:

Tôn Vũ ngộ ra Đạo luật Trời

Nhân nào quả nấy khó an ngơi

Hại người người hại xưa nay thế

Huyền cơ xây chuyển họa đến nơi.

Một hôm Hạp Lư nghĩ đến cái thù Việt Trung Nguyên đánh bại Ngô khi trước, càng nghĩ càng giận. Hạp Lư nghe theo Ngũ Viên lập Phù Sai làm Thế Tôn.

Phù Sai đến nhà Ngũ Viên tạ ơn. Năm thứ 24 đời Chu Kính Vương. Hạp Lư tuổi già. Tính khí càng thêm nóng nảy. Nghe tin Việt Vương Doãn Thường qua đời. Con là Câu Tiễn lên thay thế.

Khi ấy ở Phương Nam Văn Lang Hùng Việt Vương Tuân Lang đã nhường ngôi cho con là Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang. Hùng Vương đời thứ 14 Hạ Hùng Vương. Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang đời thứ 14 lên ngôi đã được 10 năm nhờ thực hiện theo chính sách của Lạc Hầu Vương. Nam – Trung Văn Lang trở nên hùng mạnh nhiều lần đánh bật quân Việt Trung ra khỏi Trung Văn Lang chiếm lại nhiều Châu, Quận, Huyện.

Khi ấy phương Bắc bên kia sông Trường Giang Hạp Lư nước Ngô nghe tin Việt Vương Doãn Thường đã mất. Con là Câu Tiễn lên thay thế, bèn nhân khi nước Việt có tang đem quân sang đánh vì lúc ấy thế lực quân Ngô rất hùng mạnh tiếng tăm lừng lẫy.

Ngũ Viên can rằng:

Việt Trung Nguyên tuy nhiều lần đánh Ngô ta nhưng nay đang có tang chớ nên đánh vội.

Hạp Lư không nghe, giao quốc chính lại cho Ngũ Viên và Phù sai rồi cùng bọn Bá Di, Vương Tôn Lạc và Chuyên Nghị đem 10 vạn tinh binh tiến đánh Việt Trung Nguyên.

* * *



PHẦN 26

Nói về Hạp Lư 496 trước công nguyên thống lĩnh 10 vạn chủ lực tinh binh vượt qua sông Trường Giang tiến đánh Việt Trung Nguyên. Hạp Lư quá rõ Việt Trung đang xuống đà suy yếu vì Quân Văn Lang tấn công ra Bắc dữ dội, bao nhiêu sức lực Việt Trung Nguyên dồn hết lực lượng cho cuộc chiến tranh Nam – Bắc nầy. Với tình hình trong Nam Văn Lang đánh ra. Còn Ngô thời phương Bắc đánh vào Việt Trung Nguyên keo nầy nhất định thất thủ.

Việt Vương Câu Tiễn được tin báo là Hạp Lư Vua Ngô thống lĩnh đại quân vượt Trường Giang đánh chiếm Việt Trung Nguyên, bằng thân hành thống lĩnh quân Việt Trung Nguyên giao chiến.

Việt Vương Câu Tiễn. Phong cho Chư Kế Dĩnh làm đại tướng. Linh Cô Phù làm tiên phong. Trù Vô Dư và Tư Hãn làm tả hữu dực. Đối mặt với quân Ngô ở đất Hề, hai bên đóng dinh cách nhau 10 dặm. Ngày nào cũng cùng nhau giao chiến, chưa phân thắng bại.

Hạp Lư giận lắm mới dồn hết quân lên bày trận ở Ngũ Đài Sơn nghiêm cấm trong quân không được kinh động, chờ quân Việt Trung Nguyên trễ nải sẽ đánh.

Việt Vương Câu Tiễn trông thấy quân Ngô quân lệnh nghiêm chỉnh bèn bảo Chư Kế Dĩnh rằng:

Khí thế quân Ngô đang hăng hái như thế kia, ta chớ nên khinh thường, dùng kế làm cho quân binh Ngô rối loạn ta mới nắm chắc được phần thắng.

Việt Vương Câu Tiễn sai Quan Đại Phu là Trù Vô Dư và Tư Hãn thúc quân binh hai bên tả hữu đánh thẳng vào hai bên tả hữu dinh trại của quân Ngô. Quân Việt Trung Nguyên phất cờ chiêng trống dậy trời gươm đao giáo mác sáng ngời ào ào lao tới.

Hạp Lư không những lúc nào cũng tham lam dòm ngó Việt Trung Nguyên mà còn vô cùng căm giận Doãn Thường Việt Vương lên tới đỉnh vì Doãn Thường đã đánh bại vua Ngô Hạp Lư suýt bỏ mạng nhiều lần. Hạp Lư thấy quân Việt Trung Nguyên ào ào xông tới đánh vào tả hữu đại quân liền ra lệnh giữ nguyên tư thế dùng cung tên, cung nỏ mà chống trả lại. Quân Việt Trung Nguyên không phá nổi quân Ngô lại tổn hao quân binh càng đánh quân Việt Trung Nguyên càng thua thiệt.

Câu Tiễn đành phải rút quân trở lại. Câu Tiễn không làm gì được trước trận của quân Ngô lấy làm lo lắng.

Chư Kế Dĩnh liền mật tâu rằng:

Ta nên dùng lũ tội nhân.

Ngay ngày hôm sau Việt Vương Câu Tiễn liền làm theo kế sách của Chư Kế Dĩnh, mật truyền quân lệnh bắc lũ tội nhân sung vào quân binh, cả thảy hơn năm trăm người, chia làm ba toán quân để trần vai áo dàng thành hàng ba cùng hơn vạn quân binh tiến tới dinh trại quân Ngô.

Nói về Hạp Lư nhìn thấy quân Việt Trung Nguyên từ xa tiến đến có điều khác lạ chỉ có hơn một vạn quân, quân tiên phong là những chiến binh vai lưng trần. Thời nghĩ rằng: Quân Việt Trung Nguyên điên rồi chắc không sợ tên của ta sao? Lại chỉ hơn một vạn quân không sợ ta xơi một phát là hết sạch. Không những Hạp Lư nghĩ như thế mà cả quân Ngô đều nghĩ như vậy nên ai nấy chăm chú mà nhìn.

Tốp quân đi đầu tiến sát đến quân Ngô nói lớn với quân Ngô rằng:

Chúa Công tôi không biết tự lượng sức mình, đắc tội với quý quốc. Nay quý quốc đã đem quân sang đánh chúng tôi không dám tham sống xin tình nguyện chết thay cho Chúa Công chúng tôi.

Người tốp đi đầu nói xong thời cả bọn thi nhau thứ tự đâm vào cổ mà chết. Tốp nầy chết sạch tốp khác tiến lên thi nhau đâm vào cổ mà chết. Chuyện lạ chưa từng thấy xảy ra bao giờ quân Ngô ngơ ngác trước chuyện quái lạ bất ngờ đang xảy ra trước mắt không tập trung đề phòng cảnh giác chú ý quân Việt Trung Nguyên. Quân Ngô cứ ngây mặt ra mà nhìn hết lớp nầy đâm cổ tự sát, tới lớp kia đâm cổ tự sát lần lược thi nhau ngã gục có hơn năm trăm người lao nhao hỏi lẫn nhau.

Bất thình lình nghe thấy quân Việt Trung nguyên những người chưa tự sát nổi trống. Từ xa quân Việt Trung Nguyên Trù Vô Dư và Tư Hãn lãnh đạo duy chuyển quân binh thần tốc từ phía bên phải đánh bọc lên vào bên trái quân Ngô. Chư Kế Dĩnh, cùng Linh Cô Phủ từ phía tả duy chuyển quân thần tốc đành bọc vào cánh hữu quân Ngô. Quân Ngô hốt hoảng quân binh rối loạn.

Việt Vương Câu Tiễn thần tốc duy chuyển quân binh tấn công vào mặt trước. Phía hữu có Trừ Vô Dư, Tư Hãn. Phía tả có Chư Kế Dĩnh, Linh Cô Phù, trước mặt có Việt Vương Câu Tiễn ba mặt tấn công thần tốc.

Tướng quân Ngô là Vương Tôn Lạc cố sức chống trả lại sức mạnh tấn công của Chư Kế Dĩnh, Linh Cô Phù nhìn thấy Vua Ngô là Hạp Lư liền phi ngựa lao tới cầm trường đao chém Hạp Lư như sấm sét. Hạp Lư kinh khiếp bỏ chạy Linh Cô Phù đuổi theo, chém vào chân phải của Hạp Lư rụng hết mấy ngón chân, còn bị trúng tên Hạp Lư ngã lăn xuống đất. May có Chương Nghị đến cứu kịp thời. Chương Nghị cũng bị nhiều vết thương nặng. Bá Di cũng tiếp ứng bảo vệ Hạp Lư. Vương Tôn Lạc thấy Hạp Lư bị thương không còn ham đánh nữa vội rút quân. Quân Ngô thua to ở đất Lý Hề.

Quân Việt Trung Nguyên thắng thế đuổi theo giết chết quân Ngô quá nữa. Hạp Lư bị thương quá nặng dẫn quân tàn quân bại trận trở về nước trong nổi vừa khiếp sợ vừa nhục nhã ê chề. Linh Cô Phù lượm chiếc giày cùng năm ngón chân đầy máu của Hạp Lư dâng lên cho Việt Vương Câu Tiễn. Việt Vương Câu Tiễn mừng lắm thưởng vàng bạc châu báu mấy xe cho Linh Cô Phù.

Bấy giờ Hạp Lư tuổi đã già, không chịu đau không nổi trên đường rút tàn quân về nước, sự nhục nhã còn đau hơn vết thương nặng ức khí thét to lên một tiếng trào máu mà chết. Trước khi chết Hạp Lư thều thào nói với Vương Tôn Lạc, Bá Di, Chuyên Nghị là nói với Phù Sai trả thù mối nhục nầy.

Nói về quân Việt Trung Nguyên đuổi theo quân Ngô chém giết đã đời hơn bảy dặm thời rút quân trở lại. Bá Di, Vương Tôn Lạc, Chuyện Nghị đưa xác Hạp Lư về nước Ngô.

Phù Sai lên nối ngôi thay thế Hạp Lư đưa linh cữu Hạp Lư ra an tán ở Hải Dũng Sơn. Phù Sai cho người đào núi làm huyệt, rồi đem Ngư Trường của Chuyên Chư dùng khi trước đâm chết Vương Liêu chôn theo, cùng rất nhiều vàng ngọc. Khi an táng Hạp Lư xong Phù Sai cho người giết sạch những bọn thợ an tán Hạp Lư. Chương Nghị bị thương khá nặng không bao lâu cũng qua đời chết theo Hạp Lư phụ tán ở sau núi.

Phù Sai an tán Hạp Lư không bao lâu thời lập con trưởng là Hữu lên làm Thế Tử. Để nhắc nhở mối thù không đội trời chung với Việt Vương Câu Tiễn. Phù Sai cho lập một đội nội thị hằng ngày đứng giữa sân.

Mỗi khi Phù Sai đi ra đi vào thời đội quân nội thị quát to lên rằng gọi tên mà bảo:

Phù Sai. Mầy quên cái thù Vua Việt giết chết Ông Cha mầy rồi sao?

Phù Sai liền khóc mà đáp rằng:

Dạ không bao giờ dám quên.

Phù Sai ngày đêm dốc toàn lực sai Ngũ Viên và Bá Hi luyện tập thủy quân ở Thái Hồ, luyện tập trường bắn ở Linh Nham Sơn, đợi khi hết tan ba năm sẽ khởi binh đánh nước Việt Trung Nguyên báo thù.

Việt Vương Câu Tiễn được tin Vua Ngô ngày đêm luyện tập quân binh chuẩn bị đánh Việt. Việt Vương Câu tiễn muốn tiến quân sang Ngô đánh trước không để cho Ngô đủ sức mạnh đánh Việt.

Phạm Lãi can:

Tôi thường nghe nói khi xưa Hùng Vương dựng nước Văn Lang, cực chẳng đã mới đem quân sang đánh nước người ta. Đưa quân xâm lược là điều trái với Đức. Tranh nhau là việc thấp hèn nhất. Lo âm mưu thôn tính nước khác là điềm gở, trái Thiên Ý của Trời. Nếu làm là bất lợi. Tôi nghe đâu Hùng Vương truyền dạy như vậy.

Việt Vương Câu Tiễn không muốn nghe về lời truyền dạy Quốc Tổ Vua Hùng nên không nghe lời khuyên của Phạm Lãi bằng nói:

Ta đã quyết định.

Bèn cất quân sang đánh nước Ngô. Vua Ngô là Phù Sai đem tất cả tinh thần luyện tập cũng như sự quyết tử của mình đánh quân Việt Trung Nguyên thua to ở Phù Liêu đi tiêu hơn 10 vạn quân. Việt Vương Câu Tiễn đem tàn quân trở về Việt Trung Nguyên củng cố lại lực lượng phòng khi Phù Sai cử binh sang tấn công.

Khi ấy ở phía Nam Việt Trung Nguyên quân Văn Lang được lệnh Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang tấn công ra Bắc. Do Hùng Lạc Vương thống lĩnh 20 vạn quân trực tiếp chỉ huy từ Kinh Đô Văn Lang tiến thẳng đến Ninh Hải Châu kết hợp với quân Huỳnh Trung Kỳ, quân Văn Bá tiến đánh lấy lại Quang Hải Châu, Môn Hải Châu. Quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên thua chạy về Lạc Trung Giao Châu ra sức cố thủ chống trả lại quân Văn Lang.

Hùng Lạc Vương thần tốc duy chuyển quân binh nhanh chóng tiến về Tiên Châu kết hợp với quân thống soái Văn Trội con trai lớn Văn Khánh tiến quân đánh Bạch Lang Châu, quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên thua chạy về doanh trại núi Bà Lộc Điền cố thủ ở đấy quyết liệt chống trả lại quân Văn Lang.

Hùng Lạc Vương lại kéo đại binh đến Thạch Vân Châu kết hợp với quân Lê Mạnh Càn tiến đánh lấy lại Âu Tây Châu đánh không được vì có Phù Châu có pháp thuật thần thông làm cho đất trời u ám cuồng phong ù ù quân Văn Lang không cách gì tiến đánh thành Âu Tây Châu được. Hùng Lạc Vương chưa biết phải làm sao thời bỗng xuất hiện một tiểu đồng cầm gậy Rồng chỉ vào thành Âu Tây một cái tức thời trời quang mây tạnh cuồng phong cũng tan biến hết. Hùng Lạc Vương liền tiếng quân đánh chiếm lấy lại thành Âu Tây Châu quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên thua chạy về Uất Lang Việt Châu ra sức chống trả cố thủ ở đấy.

Quân Văn Lang lấy lại Âu Tây Châu, Bạch Lang Châu, Quang Hải Châu, Môn Hải Châu. Đại quân Văn Lang còn thọc sâu ra Bắc Văn lang tức là Việt Trung Nguyên chiếm lĩnh nhiều Châu, Quận, Huyện khác nữa.

Nói về Việt Vương Câu Tiễn không thể điều động quân binh từ trận địa phía Nam về Kinh Đô được củng cố lực lượng được.

Mùa xuân tháng hai năm thứ 26 đời Chu Kính Vương Vua Ngô là Phù Sai đã hết tang Cha mới cáo nhà thái miếu, rồi sai Ngũ Viên làm đại tướng, Bá Hi làm phó tướng, thống lĩnh đại binh theo đường thủy qua Thái Hồ xuôi theo sông Dương bọc theo sông Lạc tiến đánh Việt Trung Nguyên. Vua Việt Vương Câu Tiễn họp triều thần lại bàn kế sách chống lại quân Ngô đang tiến quân theo đường thủy trên đường thọc sâu vào địa phận Việt Trung Nguyên.

Quan đại phu là Phạm Lãi tâu rằng:

Vua Ngô Phù Sai vì trả mối thù Ông, Cha chí báo thù ba năm nay rồi, quyết tiêu diệt Việt Trung Nguyên ta. Lại thêm khí thế hừng hực vì đã đánh bại quân ta ở Phù Liêu ta khó mà lòng địch nổi phải nên nghĩ cách cố thủ mới được.

Quan đại phu là Văn Chủng tâu rằng:

Cứ như tôi thiển nghĩ thời không gì bằng sai người xin lỗi để cầu hòa, để cho Phù Sai rút quân về rồi sau sẽ định liệu.

Việt Vương Câu Tiễn nói:

Hai người một người nói thủ, một người nói hòa, đều không phải là thiện kế. Phù Sai Vua Ngô hiện giờ là kẻ thù của ta, quyết tâm đem quân sang đánh ta, nếu ta không đánh lại thời chẳng hèn lắm ư.

Việt Vương Câu Tiễn liền thống lĩnh bảy vạn quân cùng mấy trăm chuyến thuyền chận đánh quân Ngô ở địa phận Tiêu Sơn. Lúc mới giao chiến thuyền quân Ngô hơi lùi lại Quân Việt Trung Nguyên thừa lấn thế tiêu diệt hơn bảy tám chiến thuyền đi tiêu hơn vài trăm quân Ngô. Việt Vương Câu Tiễn thừa thắng ra sức chống chèo rượt quân Ngô đến mấy dặm. Đến khúc sông lớn từ nơi lùm lách kinh rạch đại binh quân Ngô bất ngờ lao ra chật cả sông hai bên xáp chiến. Quân Ngô lợi thế gió Bắc. Quân Việt Trung Nguyên thất thế ngược gió.

Phù Sai đứng ở mũi thuyền tay cầm dùi đánh trống đốc thúc quân binh tướng sĩ chiến đấu. Gặp lúc gió Bắc nổi lên cấp 8 cấp 9 sóng nổi dữ dội. Ngũ Viên, Bá Hi mỗi người một chuyến thuyền lớn giương bườm thuận gió xuôi dòng mà tiến. Quân Ngô lợi thế về mọi mặt, thi nhau nỏ, cung, bắn ra như mưa, bắn xối xả vào quân Việt Trung nguyên. Quân Việt Trung Nguyên ngược gió không thể đương nổi, thua to bỏ chạy.

Quân Ngô chia làm hai đạo quân đường thủy đường bộ rượt đuổi theo tiêu diệt quân Việt Trung Nguyên. Tướng Việt là Linh Cô Phù đắm thuyền mà chết. Tư Hãn cũng bị tên bắn chết.

Vua Ngô Phù Sai thừa thắng đuổi theo giết quân Việt Trung Nguyên không biết bao nhiêu mà kể. Việt Vương Câu Tiễn thua chạy về cố thành Quân Ngô rượt theo vây kín. Cũng may ở cố thành sông suối có nhiều cá để mà sống. Biết không thể nào trụ vững ở cố thành được. Việt Vương Câu Tiễn liền dẫn tàn quân lẻn chạy về núi Cối Kê quân sĩ chỉ còn hơn năm nghìn quân. Quân Ngô biết được kéo đại binh bao vây Cối Kê con gà con chó cũng khó lọt qua. Phù Sai lại ra lệnh siết chặt vòng vây Cối Kê.

Câu Tiễn thở dài mà nói rằng:

Ta có thể cùng một số người theo đường bí mật trở về Kinh Đô nhưng làm như thế quân binh còn sót lại nơi đây chết hết. Phù Sai Vua Ngô sẽ tiến đánh kinh đô truy sát ta. Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang mà biết kinh đô thất thủ về tay nước Ngô thời sẽ dồn hết lực lượng tấn công ra Bắc xóa sổ Việt Trung Nguyên Ta. Không còn hy vọng lập lại Việt Trung Nguyên nữa. Ta thà quy phục Ngô còn hy vọng có ngày hồi phục lại Việt Trung Nguyên hùng mạnh còn hơn để Hùng Ánh Vương xóa sổ hủy diệt. Từ Ông đến đời Cha Tiên Quân gần năm mươi năm đến giờ chưa hề thua trận nào như thế nầy cũng bởi ta không nghe lời Phạm Lãi và Văn Chủng đến nông nỗi nầy biết phải làm thế nào?

Phạm Lãi nói:

Kẻ nào giữ được trọn vẹn cái cảnh ngộ của mình khi đầy đủ, chờ thời cơ bình định được tình hình nguy cập. Lúc nầy cần phải tuân theo người, dùng lời lẽ khiêm nhượng bao cái lợi đưa cho người ta. Nếu người ta không nghe thời thân hành đến thờ người ta vậy.

Văn Chủng hiến kế thêm rằng:

Nay việc đã nguy cấp quân Ngô vây kín Cối Kê mỗi lúc một nguy cấp quân ta không thể chống trả kéo dài lâu hơn nữa, cho người xin ra cầu hòa còn có thể kịp được.

Việt Vương Câu Tiễn nói:

Phù Sai không chịu hòa thì làm thế nào?

Văn Chủng nói:

Nước Ngô có quan thái Tể là Bá Hi người ấy thấy vàng bạc ngọc ngà châu báu là hiếp cả mắt, thấy gái đẹp thời chuyện gì cũng dám làm, tuy Bá Hi đồng triều với Ngũ Viên nhưng không hợp ý nhau. Vua Ngô sợ Ngũ Viên mà thân với Bá Hi lắm. Ta nên sang quân Ngô tìm gặp Bá Hi, khéo nói với hắn, để hắn chủ việc giảng hòa cho. Bá Hi rất thân với Vua Ngô, Ngũ Viên biết ngăn cản cũng không thể kịp.

Việt Vương Câu Tiễn hỏi:

Nhà ngươi sang yết kiến Bá Hi, nên dùng lễ vật gì?

Văn Chủng nói:

Người như Bá Hi không gì bằng nữ sắc, ta nên tìm mỹ nữ mà đem dâng, cũng như vàng ngọc châu báu quý hiếm. Nếu Trời con thương nước Việt Trung Nguyên ta thời Bá Hi tất nghe lời giúp ta.

Câu Tiễn tức khắc cho người về Kinh Đô nói với Phu Nhân tuyển chọn cung phi mỹ nữ đẹp nhất trong cung cả thảy được tám người. Thêm hai mươi đôi ngọc bích, một nghìn nén hoàng kim, nhanh chóng đến núi Cối Kê, qua ngày hôm sau ngay đêm hôn ấy Việt Vương Câu Tiễn sai Văn Chủng đến dinh trại Ngô sang dinh Bá Hi xin vào yết kiến.

Bá Hi lúc đầu toan từ chối, nhưng lại sai người ra dò thời thấy có nhiều lễ vật, mới thuận cho vào. Bá Hi ngồi vắt chân ở trên gi.ường để đợi.

Văn Chủng vào phòng quỳ xuống mà thưa rằng:

Chúa Công tôi là Câu Tiễn còn trẻ, chưa biết gì, không khéo thờ nước lớn, để đến nổi tai vạ. Nay Chúa Công tôi đã biết hối tội, xin đêm cả nước Việt Trung Nguyên làm tôi Vua Ngô. Nhưng sợ Vua Ngô không nghe. Chúa Công tôi biết ngài là người có công lớn với Ngô. Ngài là bức thành che chắn cho nước Ngô, ngài là tâm phúc của nước Ngô, Chúa Công tôi sai tôi là Văn Chủng sang để van lạy ngài trước nhờ ngài nói giùm cho một câu, gọi là có chút lễ bạc đem dâng ngài. Từ rày về sau trở đi còn nhiều ân nghĩa về sau nữa.

Văn Chủng liền đem cái đơn kê khai các lễ vật dâng trình Bá Hi. Nhưng Bá Hi còn làm ra vẻ giận dữ mà mắng rằng:

Nước Việt Trung Nguyên chẳng qua chỉ sớm tối thời bị phá diệt trở thành nô lệ nước Ngô. Của cải nước Việt cái gì không về tay nước Ngô mà nhà ngươi còn dám đem lễ vật nhỏ mọn nầy sang mua chuộc ta hay sao?

Văn Chủng nói:

Chúa Công tôi dẫu thua, nhưng Chúa Công tôi chưa chịu đầu hàng thời khó mà lấy được Việt Trung Nguyên vì còn hơn mấy mươi vạn quân đang ngày đêm chiến đấu với quân Văn Lang. Tuy Chúa Công tôi bị bao vây ở núi Cối Kê nhưng vẫn còn quân binh tinh nhuệ có thể giao chiến một trận. Nếu giao chiến thua. Bấy giờ Chúa Công tôi chạy về Nam Việt Trung nguyên hợp lực quân binh lại, hoặc chạy sang nước Sở chưa chắc Việt Trung Nguyên tôi về tay nước Ngô được.

Văn Chủng giải bày một hồi lâu làm cho lòng Bá Hi chuyển động, Bá Hi mới gật đầu tủm tỉm cười.

Văn Chủng trỏ lại cái đơn kê khi lễ vật mà nói rằng:

Tám mỹ nữ nầy đều là sắc nước hương trời tuyển chọn trong cung nước Việt, nhưng nếu chọn ở ngoài dân chúng Việt Trung Nguyên còn nhiều người đẹp hơn nữa. Chúa Công tôi trở về được kinh đô tìm tòi mỹ nữ dâng nạp cho ngài.

Bá Hi đứng dậy nói rằng:

Quan đại phu không sang hữu dinh. Mà tới đây hẳn cũng biết là tôi không có ý hại người. Để sáng mai, tôi xin đưa quan đại phu vào yết kiến Vua Ngô, rồi sẽ bàn định.

Cha con Việt Vương Tế Gia. Doãn Thường nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang, biến cuộc thế Văn Lang Nam Bắc phân tranh chiến tranh loạn lạc, Bách Việt tương tàn thê thảm vô cùng. Việt Vương tế Gia, Doãn Thường chiếm lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên, tưởng đâu bình yên muôn năm, nào hay đâu Bắc Việt Trung Nguyên dân chúng càng ngày càng đói khổ. Một mặt do thể chế độc tài độc trị quản lý tất cả bóc lột dân chúng thậm tệ, phục vụ cho thể chế độc tài độc trị, hà khắc còn hơn nhà nước Văn Lang.

Dân chúng tuy bất mãn nhà nước Việt Trung Nguyên nhưng không một ai dám lên tiếng. Vì đã quá nhiều những người lên tiếng không bị thủ tiêu cũng bị tù đày, chết thê chết thảm trong những trại cải tạo. Nước Việt Trung Nguyên dần dần suy yếu. Một phần là do chiến tranh kéo dài, một phần là do dân chúng bất mãn, một phần là do thể chế độc tài độc trị khắc nghiệt.

Đến đời Việt Vương Câu Tiễn những biến cố lịch sử xảy ra. Bị Ngô đánh bại. Ông Cha Câu Tiễn là người phương Bắc tôn thờ Văn Hóa Phương Bắc không tôn thờ Văn Hóa Phương Nam dù biết rằng dòng họ Vũ đã nhập cư thành dân Văn Lang. Tư tưởng Việt Vương Câu Tiễn thừa kế di chí Ông Cha thà Việt Trung Nguyên mất về Phương Bắc còn hơn mất về Phương Nam trả Bắc Văn Lang về cho nước Văn Lang.

Vì Việt Vương Câu Tiễn biết rõ nếu quân Văn Lang chiếm lại được Bắc Văn Lang thời Tổ Tiên thái miếu Việt Vương Câu Tiễn sẽ bị sang bằng hủy diệt với cái tội phản bội lại nước Văn Lang. Với ý nghĩ nầy Việt Vương Câu Tiễn có xu hướng ngã về Phương Bắc sẵn sàng dâng nước Việt Trung Nguyên cho phương Bắc nếu có cơ hội tiến thân và đúng vậy Việt Vương Câu Tiễn dâng nước Việt Trung Nguyên cho Nhà Chu ở vào thời Chu Nguyên Vương.

* * *
 

PHẦN 27

Nói về Bá Hi nhận lễ vật và lưu Văn Chủng ở lại trong dinh trại bày tiệc thiết đãi. Sáng hôm sau, Bá Hi đưa Văn Chủng vào yết kiến Phù Sai.

Bá Hi vào trước đem những tình ý Câu Tiễn sai Văn Chủng sang xin cầu hòa Phù Sai bừng bừng sắc mặt mà bảo rằng:

Nước Việt Trung Nguyên cùng ta có cái thù không đội trời chung khi nào ta lại cho hòa.

Bá Hi nói:

Đại Vương không nhớ lời của Tô Vũ khi xưa hay sao? Việt binh là việc nên dùng tạm, chớ không nên dùng lâu. Nước Việt Trung Nguyên dẫu đắc tội với ta, là do ta đem quân sang đánh Việt mới xảy ra cảnh thù không đội trời chung. Nay Việt Trung Nguyên tùng phục nước Ngô Ta. Vua Việt xin làm Tôi nước Ngô. Vợ Vua Việt xin làm thiếp nước Ngô. Bao nhiêu châu báu nước Việt đem dâng nộp cho nước Ngô ta cả. Nước Trung Nguyên chỉ xin ta một điều là để cho còn chỗ cúng tế mà thôi. Nếu Đại Vương không cho nước Việt Trung Nguyên hòa. Câu Tiễn phá vòng vây trốn chạy về kinh đô điều động quân binh đang trấn giữ phía Nam Việt Trung Nguyên thời càng bất lợi cho chúng ta thôn tính Việt Trung Nguyên. Chi bằng Ta với nước Việt hòa thời lợi biết dường nào. Đại Vương càng nổi tiếng là tha cho nước Việt. Danh tiếng lại càng lừng lẫy hơn nữa. Như vậy nước Ngô ta có cớ làm bá chủ được. Nếu cố sức mà diệt Câu Tiễn, buộc Câu Tiễn tìm cách trốn thoát khỏi Cối Kê trở về Kinh Đô điều động quân binh phía Nam Việt Trung Nguyên chống trả lại ta. Nếu chúng ta tiêu diệt được Câu Tiễn quân Ngô ta cũng phải trả cái giá không nhỏ. Dù cho giết được người ấy sao bằng thu phục nước ấy chả có phần lợi hơn ư.

Phù Sai hỏi:

Bây giờ văn Chủng ở đâu?

Bá Hi nói:

Hiện Đang đứng chờ bên ngoài.

Phù Sai cho triệu vào. Văn Chủng quỳ gối đi bằng đầu gối kéo lê kéo lết đến trước mặt Phù Sai. Lạy một hồi rồi nói những lời nói với Bá Hi hôm trước.

Phù Sai nói:

Vua ngươi xin làm tôi Ngô. Vậy thời Vua ngươi có chịu theo ta về Ngô không?

Văn Chủng sụp lạy tâu rằng:

Đã xin làm tôi Ngô, thời sống chết ở trong tay Vua Ngô, thế nào cũng xin vân lệnh.

Bá Hi nói với Phù Sai rằng:

Vợ Chồng Câu Tiễn đều tình nguyện xin về Ngô. Vậy thời nước Ngô ta dẫu tha cho Việt cũng chẳng khác gì chiếm được nước Việt. Đại Vương còn muốn chi nữa.

Phù Sai liền cho nước Việt Trung Nguyên giảng hòa. Có người sang hửu dinh báo tin cho Ngũ Viên biết. Ngũ Viên vội vàng vào yết kiến Phù Sai. Khi vào đến nơi thấy Bá Hi và Văn Chủng đã đứng ở bên cạnh Phù Sai.

Ngũ Viên hầm hầm nổi giận hỏi Phù Sai rằng:

Đại Vương đã cho nước Việt Trung Nguyên giảng hòa rồi ư?

Phù Sai nói:

Ta đã cho giảng hòa rồi.

Ngũ Viên khuyên can:

Không nên, không nên.

Văn Chủng hoảng sợ đứng lui xuống mấy bước để nghe Ngũ Viên nói hết.

Ngũ Viên can rằng:

Trời đem nước Việt Trung Nguyên cho nước Ngô đây là cơ hội duy nhất mà chúng ta có được. Việt Trung Nguyên tiếp giáp với nước Ngô ta. Hai bên đã có hiềm thù từ lâu trải qua nhiều đời. Nếu Ngô không diệt được Việt. Thời Việt cũng diệt Ngô. Kìa như Tần, Tấn dẫu ta đánh được mà đất của họ ta không thể ở được. Xe của họ ta không thể đi được vì các nước Phương Bắc đều là Trấn chư hầu của Nhà Chu nếu chúng ta lấy đi đất Tấn, đất Tần, thời Nhà Chu sẽ không để yên cho ta. Còn nước Việt Trung Nguyên lại khác, Cha con Việt Vương Doãn Thường là quân nội loạn nổi lên cướp Bắc Văn Lang trở thành nước Việt Trung Nguyên. Không còn quyền quản lý của nhà nước Văn Lang nữa, ai giành lấy được thời thuộc quyền của người đó. Đất Việt Trung Nguyên sẽ là đất của nước Ngô ta đó là cái lợi của xã tắc không thể bỏ. Huống chi Việt Trung Nguyên là kẻ thù lớn với Ngô ta. Ta không diệt Việt chiếm lấy đất Việt thời lời thề trước sân còn có giá trị gì?

Phù Sai nín lặng không biết nói thế nào, chỉ đưa mắt nhìn Bá Hi.

Bá Hi nói:

Quan tướng quốc nói thế là lầm. Nếu bảo Ngô Việt ở về mặt thủy tất phải diệt nhau. Thì Tần – Tấn – Tề – Lỗ cùng ở đất liền mặt bộ. Có lẽ cũng diệt nhau hay sao? Nếu bảo Việt là kẻ thù lớn của Tiên Vương nước Ngô không thể tha được. Vậy thì quan tướng quốc thù Sở biết dường. Mà sao không diệt Sở, lại cho Sở hòa làm gì. Nay vợ chồng Câu Tiễn điều tình nguyện về Ngô. Nếu đem so với Sở chỉ nộp một công tử Thắng, thời lại càng không giống nhau nữa. Tướng quốc làm điều trung hậu mà muốn cho Đại Vương mang tiếng khắc bạc, trung thần có bao giờ như thế.

Phù Sai nghe xong lấy làm mừng mà bảo Ngũ Viên rằng:

Bá Hi nói phải, tướng quốc hãy lui về, đợi khi nước Việt cống tiến, ta sẽ chia tặng cho nhà ngươi.

Ngũ Viên sầm sắc mặt lại thở dài mà than rằng:

Tiếc thay. Ta không nghe lời Bị Ly mà lại cùng với đứa gian thần đồng sự.

Ngũ Viên căm tức không thôi, mồm cứ lẩm bẩm, khi lui ra ngoài, bảo quan đại phu là Vương Tôn Hùng rằng:

Nước Việt nuôi dân trong mười năm, lại dạy dân trong mười năm nữa chẳng qua chỉ chỉ hai mươi năm, thời cung điện nước Ngô sụp đổ tan tành.

Vương Tôn Hùng cũng chưa lấy làm tin lắm. Ngũ Viên nuốt giận mà trở về hữu dinh. Phù Sai cho Văn Chủng về báo với Câu Tiễn những gì vua Ngô đã hứa.

Câu Tiễn tuy nghe vua Ngô Phù Sai cho giảng hòa nhưng mạng mình đều nằm trong tay vua Ngô thở dài mãi không thôi.

Văn Chủng nói:

Vua Thành Thang bị trói ở Hạ Đài. Vua Văn Vương bị tù ở Dữu Lý. Tùng Nhĩ nước Tấn bỏ chạy đến Địch. Tiểu Bạch nước Tề bỏ chạy đến Cử. Nhưng kết cuộc cuối cùng đều làm Vương làm Bá. Cứ xem việc trước mà rút kinh nghiệm việc sau, biết đâu thế nầy chẳng là phúc.

Câu Tiễn nghe xong lời an ủi của Văn Chủng liền tỉnh táo lại. Câu Tiễn lại sai Văn Chủng sang tạ ơn.

Phù Sai hỏi:

Bao giờ thời vợ chồng vua Việt theo ta sang Ngô?

Văn Chủng nói:

Chúa Công tôi đội ơn Đại Vương xá cho, định trở về Kinh Đô thu xếp những ngọc lụa, trai gái để sang cống xin Đại Vương tạm khoan thời hạn cho. Dẫu Chúa công tôi đem lòng bất tín thời cũng chẳng trốn được búa rìu sấm sét của Đại Vương vì Đại Vương đang ở cách Kinh Đô có bao xa chỉ cần hơn ngày đường thời Kinh Đô Việt Trung Nguyên tan tành mây khói.

Phù Sai nghe cũng hữu lý liền thuận cho. Ước định đến trung tuần tháng năm thời vợ chồng vua Việt phải sang Ngô. Lại sai Văn Tôn Hùng theo Văn Chủng thúc vua Việt mau mau khởi trình. Còn quan Thái Tể là Bá Hi thời đóng một vạn quân ở Ngô Sơn để chờ Vua Việt. Nếu Vua Việt sai hẹn không sang thời sẽ khởi binh tiêu diệt nước Việt Trung Nguyên. Phù Sai sau đó mấy ngày thời kéo đại quân về nước.

Câu Tiễn nghe vua Ngô cho người thúc dục mau sang cầu cống làm nô lệ nước Ngô thời hai hàng nước mắt chảy ròng ròng.

Văn Chủng nói:

Kỳ hạn đã gần đến nơi Chúa Công mau mau trở về Kinh Đô để thu xếp việc nước, chứ thương khóc làm gì.

Câu Tiễn gạt nước mắt trở về Kinh Đô trông thấy chợ búa làng xóm vẫn như cũ, mà trai tráng dân chúng thời tiêu điều thời lấy làm hổ thẹn. Việt Vương Câu Tiễn mời Vương Tôn Hùng nghĩ ở Công Quán rồi thu xép vàng ngọc châu báu mười mấy xe. Lại chọn mỹ nữ xinh đẹp trong nước được ba trăm năm mươi người. Định đem ba trăm người nạp cho Phù Sai, còn năm mươi người nạp cho Bá Hi.

Nói về quân Văn Lang do Hùng Lạc Vương tổng chỉ huy ba đạo quân ở ba chuyến tuyến Tây Bắc Trung Văn Lang tiến đánh ra Bắc, Trung Trung Bắc Văn Lang tiến đánh ra Bắc, Đông Bắc Trung Văn Lang tiến đánh ra Bắc.

Đạo quân Tây Bắc Trung Văn Lang từ Âu Tây Châu Lê Mạnh Càn thống lĩnh đại quân tiến đánh Uất Lang Việt Châu.

Đạo quân Đông Bắc Trung Văn Lang từ Quang Hải Châu Văn Bá, Kỳ Duyên thống lĩnh đại quân tiến đánh Lạc Trung Giao Châu.

Đạo quân Trung bắc Văn Lang từ Bạch Lang Châu, Văn Trội thống lĩnh đại quân tiến đánh doanh trại núi Bà Lộc điền Đức Châu.

Nói về Triệu Công qua đời Triệu Côi lên thay thế chức Trung quân Nguyên soái, cùng Triệu Chi thống lĩnh đại quân ra sức chống trả quân Văn Lang tiến ra Bắc đánh chiếm nhiều quận, huyện cũng như tiến đánh Uất Lang Việt Châu.

Cũng cùng lúc ấy. Triệu Quân lên thay thế Triệu Phàn chức Thượng Quân Nguyên soái, cùng Triệu Hàn, Triệu Anh thống lĩnh quân binh chống lại quân Văn Lang trong tình thế vô cùng nguy cập. Phạm Đổ Chinh khi ấy cũng đã già con là Phạm Thụ lên nắm quyền chỉ huy chức Tân quân Nguyên soái cùng Trường Lê, Võ Bị giao chiến với Văn Trội thắng bại chưa phân rõ thuộc về ai.

Được tin báo là Việt Vương Câu Tiễn bị Ngô đánh bại tuy cầu hòa nhưng vợ chồng Việt Vương Câu Tiễn phải sang Ngô làm con tin. Triệu Côi, Triệu Quân, Phạm Thụ vô cùng kinh hãi cấp tốc trở về Kinh Đô Việt Trung Nguyên can gián không nên qua Ngô.

Khi ấy nơi Kinh Đô Vương Tôn Hùng giục giã luôn mãi, triều thần ai nấy đều ứa nước mắt, cùng lúc ấy Triệu Côi, Triệu Quân, Phạm Thụ cũng vừa về tới nơi can gián là Chúa Công không nên qua Ngô.

Việt Vương Câu tiễn khóc ròng nói:

Nếu bổn Vương không qua Ngô thời biết làm sao? Khi quân Văn Lang tấn công dồn dập. Nếu Việt Trung Nguyên bị quân Văn Lang chiếm lại được thời chúng ta cũng hiểu rõ chuyện gì sẽ xảy ra. Có thể nói là chấm hết. Còn Ta sang làm con tin Ngô còn có hy vọng Nước Việt Trung Nguyên ta còn có ngày hưng thịnh trở lại, ta đã quyết định rồi các Khanh không nên khuyên can ta nữa hãy dốc sức mà chiến đấu với quân Văn Lang. Và chờ ta trở về nước rồi sẽ tính.

Triều Thần càng nghe càng khóc.

Văn Chủng nói:

Ngày Xưa vua Thang bị giam ở Hạ Đài, Văn Vương bị giam ở Dữu Lý, mà về sau làm nên được nghiệp Vương. Tề Hoàn Công phải chạy sang nước Cử, Tấn Văn Công phải chạy sang nước Dịch mà sau làm nên nghiệp Bá. Xem thế thời biết cái cảnh khổ sở, chính là trời mở đường cho đấng Vương Bá đó. Chúa Công cứ vững lòng tin mà theo ý trời. Triều Thần tin nơi Chúa Công, nước Việt Trung Nguyên ta có ngày hưng thịnh được, can chi mà lo sợ tổn thương ý chí của mình.

Ngay ngày hôm ấy Câu Tiễn làm lễ tế nhà tôn miếu, Vương Tôn Hùng đi trước một ngày. Câu Tiễn và Phu Nhân đi sau. Triều Thần đưa tiễn đến bến sông Chích Giang. Phạm Lãi sắp thuyền ở Cố Lăng và bày một tiệc rượu đưa tiễn. Văn Chủng cũng dâng chén rượu chúc cho Câu Tiễn. Câu Tiễn ngẩng mặt lên trời mà thở dài cầm lấy chén rượu mà rơi nước mắt, chẳng nói gì cả.

Phạm Lãi nói:

Các bậc Thánh Hiền đời xưa cũng thường gặp những cảnh khổ não, những điều sỉ nhục không thể chịu được, có phải là chỉ một Chúa Công thôi đâu.

Câu Tiễn nói:

Ngày xưa vua Nghiêu dùng hiền thần là Thuấn và Vũ mà thiên hạ được yên bình, dẫu có thủy tai, cũng không hại người lắm. Nay ta phải bỏ Việt sang Ngô, giao vận mệnh đất nước Việt Trung Nguyên cho các quan đại phu, các quan đại phu nghĩ sao cho khỏi phụ lòng ta trông cậy.

Phạm Lãi bảo với triều thần rằng:

Tôi thiết tưởng vua phải lo thời bề tôi nhục. Vua phải nhục thời bề tôi nên chết. Nay Chúa Công phải lo về nỗi bỏ nước, phải nhục về nỗi sang Ngô. Bọn ta đây há lại chẳng không có một kẻ hào kiệt vì Chúa Công chia buồn hay sao?

Các quan đại phu đồng thanh đáp rằng:

Ai cũng là tôi con tùy ý Chúa Công sai khiến.

Câu Tiễn nói:

Các quan đại phu còn có lòng thương ta thì xin cứ tự nói chính mình, để xem ai có thể đi theo ta, ai có thể ở nhà mà giữ nước được?

Văn Chủng nói:

Ở nhà để xem xét công việc trong nước thời Phạm Lãi không bằng tôi. Nhưng đi theo Chúa Công mà lâm cơ ứng biến thời tôi không bằng Phạm Lãi.

Phạm Lãi nói:

Văn Chủng xét mình đã rõ lắm. Chúa Công nên đem việc nước mà giao cho Văn Chủng. Còn như việc nhẫn nhục mà theo Chúa Công để nghĩ cách báo thù thời tôi không dám từ chối.

Phạm Lãi nói xong thời lần lượt đến các quan đại phu tỏ bày ý kiến.

Quan Thái Tể là Khổ Thành nói:

Tuyên bố mệnh lệnh để tỏ đức tính của nhà vua, và quyết đoán những việc khó khăn, khiến cho dân biết yên phận, đó là việc của tôi.

Quan Hành Nhân là Duệ Dung nói:

Đi sứ các nước chư hầu, ứng đối không đến nổi chịu nhục đó là việc của tôi.

Quan Tư Trực là Hạc Tiến nói:

Vua có điều gì trái lẽ, xin hết can ngăn, dẫu kẻ thân thích nhà vua cũng không vị nể đó là việc của tôi.

Quan Tư Mã là chư Kế Dĩnh nói:

Bày trận đánh giặc dẫu tên, đao, giáo, mác trùng trùng cũng không bao giờ chịu lui, vẫn một lòng cố tiến, đó là việc của tôi.

Quan Tư Nông là Cao Như nói:

Dốc lòng khuyên dân cố chăm chỉ làm ăn, nghĩ cách tiết kiệm, đó là việc của tôi.

Quan Thái Sử là Kế Nghê nói:

Xét trên thiên văn, dưới rõ địa lý, để dò biết sự cát, hung, đó là việc của tôi.

Các nguyên soái như Triệu Côi, Triệu Quân, Phạm Thụ nói:

Dẫu cho bỏ mạng ngoài trận địa cũng quyết ngăn chặn quân Văn Lang tiến ra bắc đó là bổn phận của các nguyên soái chúng tôi.

Câu Tiễn nói:

Ta dẫu phải sang làm tù ở nước Ngô, nhưng đã có các quan đại phu, cùng các nguyên soái thống lĩnh quân binh chống trả lại quân Văn Lang, chăm lo dân chúng dốc lòng cố sứ vì nước nhà, thời ta còn lo gì nữa.

Câu Tiễn từ biệt triều thần cùng Phạm Lãi sang Ngô. Vua tôi tiễn biệt nhau ai nấy đều ràn rụa nước mắt. Câu Tiễn ngửa mặt lên trời mà than rằng: Cái chết ai không sợ, nhưng ta đây nghĩ đến cái chết mà trong lòng không sợ chút nào.

Nói xong xuống thuyền đi ngay triều thần sụp lạy ở trên bờ sông. Câu Tiễn cũng không ngoảnh lại. Câu Tiễn cùng Phu Nhân vịn mạn thuyền mà khóc. Vương Phu Nhân chợt trông thấy đàn Ô Thước đang nhặt tôm ở ven sông bay đi lượn lại có ý thỏa thích, làm cảm mà làm bài hát rằng:

Đàn chim ( hề ) bay cao

Vẫy vùng ( hề ) đường mây

Thân thiếp ( hề ) vô tội

Trách trời ( hề ) độc thay

Hây hẩy ( hề ) gió mây

Trở về ( hề ) bao ngày

Lòng đau ( hề ) như cắt

Nước mắt ( hề ) vơi đầy

Câu Tiễn nghe thấy Phu Nhân than vãn như vậy thời trong lòng đau như cắt, nhưng muốn cho Phu Nhân vui lòng cũng gượng cười mà nói rằng:

Lông cánh của ta cũng đã đủ rồi, tất cũng có ngày bay cao, lo gì điều ấy.

* * *
 

PHẦN 28

Câu Tiễn đã đi đến địa giới nước Ngô, sai Phạm Lãi vào yết kiến quan Thái Tuế là nước Ngô là Bá Hi ở Ngô Sơn và dâng vàng lụa, trai, gái.

Bá Hi không thấy Văn Chủng liền hỏi:

Văn Chủng đâu sao không thấy đến?

Phạm Lãi nói:

Văn Chủng còn phải giữ nước cho Chúa Công, nên không đến được.

Bá Hi theo Phạm Lãi đến gặp mặt Câu Tiễn. Câu Tiễn cảm tạ cái ơn giúp cho. Bá Hi hứa với Câu Tiễn thế nào cũng lập mưu cho Câu Tiễn trở về nước Việt Trung Nguyên. Câu Tiễn nghe Bá Hi hứa như vậy cũng thấy hơi yên lòng. Bá Hi cho quân giải Câu Tiễn về Ngô đưa vào nạp Phù Sai. Câu Tiễn trần vai áo. Sụp lạy ở dưới thềm, Câu Tiễn Phu Nhân cũng theo vào. Phạm Lãi đêm cái đơn kê khai các vật quý và mỹ nữ dâng lên Phù Sai.

Câu Tiễn sụp lạy hai lạy mà kêu rằng:

Tôi tới nhà vua Việt Trung Nguyên ở miền Đông Hải là Câu Tiễn vì không tự lượng sức mình để đến nổi đắc tội với Đại Vương. Nay Đại Vương xá tội lại cho được sang đây hầu hạ, nếu Đại Vương thương tình mà tha cho tội chết thời lấy làm đội ơn vô cùng.

Phù Sai nói:

Nếu ta nghĩ đến cái thù Tiên Vương ngày xưa thời không thể nào tha cho nhà ngươi được.

Câu Tiễn lại lạy mà kêu rằng:

Tội tôi thật đáng chết xin Đại Vương thương lại cho.

Bấy giờ Ngũ Viên đứng bên cạnh vua Ngô mắt trợn trừng quắc ra lửa, tiếng vang như sấm nói với Câu Tiễn rằng:

Con chim bay ở trên mây xanh, ta còn giương cung ra bắn huống chi nay nó lại đậu ở trước sân.

Câu Tiễn vốn là người nham hiểm, bây giờ như con cá nằm trong hũ, sống chết ở trong tay kẻ nhà bếp. Vậy nên nịnh hót van lạy để cầu khỏi chết, một mai đắc chí, khác nào như con Hổ về núi, con cá Kình ra biển, còn làm gì được.

Phù Sai nói:

Ta nghe nói người đã hàng phục mà mình còn giết thì họa đến ba đời. Ta không phải vì yêu Vua Việt mà không giết, nhưng sợ trái với Đạo Trời.

Bá Hi nói:

Quan tướng quốc chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt một lúc, mà không hiểu cái lợi yên nước về sau. Đại Vương suy xét nói thế, thật quả là một bậc nhân giả quân Vương.

Ngũ Viên thấy Phù Sai tin lời dụ nịnh của Bá Hi, không theo lời can của mình, thời căm tức mà lui ra. Phù Sai nhận lễ vật của Câu Tiễn, rồi sai Vương Tôn Hùng làm một cái nhà đá ở bên cạnh Hạp Lư, giam vợ chồng Câu Tiễn ở đấy lột áo mão đi mà cho mặt cho mặt quần áo xấu thậm tệ của những dân đen cho ăn cơm hẩm hôi thiêu lúc đói lúc no khốn khổ. Bắt chăng ngựa làm đủ những điều cực nhọc.

Bá Hi vì nhận quá nhiều của đút lót nên cho người bí mật đêm thực phẩm ăn no đến cho vợ chồng Câu Tiễn. Mỗi khi Phù Sai đi chơi lại bắt Câu Tiễn cầm roi ngựa đi chân đất ở trước xe cho quân binh dân chúng xem.

Dân chúng nước Ngô đều trỏ vào Câu Tiễn mà bảo nhau rằng: Người nô lệ kia rách rưới cầm roi chăng ngựa đi trước ngựa Đại Vương chính là vua Việt Trung Nguyên đấy thê thảm quá nhục nhã quá đáng đời cho cái tội không tự lượng sức của mình. Nếu như tôi thà chết quách còn hơn là sống không ra sống, chết không ra chết.

Câu Tiễn chỉ cúi đầu mà đi. Câu Tiễn ở nhà đá được hai năm. Phạm Lãi sớm tối hầu hạ, không rời một bước luôn khuyên Câu Tiễn cố mà luồn cúi nhịn nhục. Một hôm Phù Sai triệu Câu Tiễn vào yết kiến. Câu Tiễn sụp lạy. Phạm Lãi đứng ở phía sau.

Phù Sai bảo Phạm Lãi rằng:

Ta nghe nói gái khôn không lấy chồng ở nơi cửa nhà tan nát, danh hiền không làm quan ở một nước diệt vong. Nay Câu Tiễn vô đạo, nước đã sắp diệt, vua tôi đều làm nô bộc, bị giam cầm ở trong nhà tù chẳng cũng đã nhục lắm rồi. Ta muốn tha tội cho nhà ngươi, nếu nhà ngươi biết đổi lỗi, bỏ Việt theo Ngô thời ta sẽ trọng dụng nhà ngươi đó là bỏ ưu hoạn mà lấy phú quý. Nhà ngươi nghĩ thế nào?

Bấy giờ Câu Tiễn đang quỳ phục dưới đất mà khóc, chỉ sợ Phạm Lãi theo Ngô mất.

Phạm Lãi sụp lạy mà tâu với Phù Sai rằng:

Kẻ đã mất nước, không dám nói hay, tướng đã thua trận không dám nói mạnh. Tôi là kẻ bất trung bất tín ở nước Việt, không biết giúp Chúa Công tôi làm điều thiện, để đến nổi đắc tội với Đại Vương. May mà Đại Vương không giết, cho vua tôi được gần nhau, để vào hầu hạ Đại Vương, thế là tôi đã được mãn nguyện lắm rồi còn đâu dám mong phú quý.

Phù Sai nói:

Nhà ngươi đã không chịu đổi ý thời lại cứ về nhà đá sống trong tù ngục.

Phạm Lãi nói:

Xin vâng mệnh.

Phù Sai đứng dậy trở về cung. Câu Tiễn và Phạm Lãi trở về nhà đá sống trong cảnh ngục tù. Câu Tiễn ăn mặc tồi tàn, làm việc suốt ngày, cắt cỏ nuôi ngựa. Câu Tiễn Phu Nhân cũng ăn mặc tồi tàn rách rưới, đi gánh nước để quét dọn phân ngựa. Còn Phạm Lại thời đi kiếm củi để nấu củ pha lẫn ít gạo mà ăn sống qua ngày. Vợ Chồng Câu Tiễn cũng như Phạm Lãi mặt mũi gầy gò chẳng khá gì những người dân đen đói khổ.

Phù Sai trong suốt thời gian giam giữ Câu Tiễn, Phạm Lãi cho người theo dõi thấy vua tôi nước Việt cực khổ lao động suốt ngày mà không đủ no, áo quần rách rưới cũng không thấy buồn rầu chút nào mới cho là đồ vô chí hằng chi bại dưới tay ta cũng phải, người như thế mà làm nên trò trống gì. Phù Sai không cần bận tâm nghĩ đến nữa.

Một hôm Phù Sai lên Cô Tô đài trông thấy vợ chồng Câu Tiễn ngồi ở cạnh đống phân ngựa chẳng khác gì dân đen tầm thường, Phạm Lãi cầm chổi quét rác đứng hầu một bên.

Mới ngoảnh lại bảo Bá Hi rằng:

Câu Tiễn tuy là vua một nước, nhưng là đồ vô chí không có chí Hùng Bá, cũng là người tầm thường. Phạm Lãi chẳng qua là kẻ học trò. Nhưng không bỏ khi vua hoạn nạn, mà còn giữ được lễ vua tôi ta rất có lòng kính trọng.

Bá Hi nói:

Chẳng những đáng kính phục, thực cũng đáng thương.

Phù Sai nói:

Bắc Văn Lang Việt Trung Nguyên có lòng trung hiếu quật cường là do truyền thống con Rồng cháu Tiên ung đúc tạo nên, nên rất khó đánh chiếm hàn phục được. Nhưng theo ta thấy thời không đúng sự thật. Câu Tiễn là vua một nước đứng đầu dân chúng triều thần, cũng chỉ là kẻ tham sống sợ chết cúi đầu lạy dạ khiếp sợ trước oai linh của nước Ngô Ta. Cũng như lời quan Thái Tế nói. Ta đây nghĩ cũng thương tình nếu hắn biết lỗi thời có nên tha không?

Bá Hi nói:

Đại Vương mở lượng hải hà mà thương kẻ cùng khốn gia ân cho Vua Việt chắc là Vua Việt cũng biết đền ơn. Xin Đại Vương phải tự quyết đoán.

Phù Sai nói:

Ta sẽ chọn ngày tốt để tha cho Vua Việt về nước.

Bá Hi mật cho người báo tin cho Câu Tiễn biết. Câu Tiễn mừng lắm nói với Phạm Lãi.

Phạm Lãi nói:

Để thần bói một quẻ, xem lành dữ thế nào.

Phạm Lãi bói xong nói với Câu Tiễn rằng:

Dẫu có tin như vậy, cũng chưa nên lấy làm mừng.

Câu Tiễn nghe nói có ý làm buồn. Ngũ Viên nghe tin Phù Sai sắp tha Câu Tiễn, vội vàng vào yết kiến Phù Sai mà tâu rằng:

Ngày xưa Vua Kiệt giam vua Thành Thang mà không chết. Vua Trụ giam Văn Vương mà không giết. Đến lúc đạo trời xoay chuyển. Chuyển họa thành phúc, chuyển bại thành thắng, chuyển nhục thành vinh, thời Vua Kiệt bị Vua Thang đuổi. Nhà Thương bị nhà Chu diệt. Nay Đại Vương giam Câu Tiễn mà không giết, tôi e rằng sắp có họa như Nhà Hạ cũng như Nhà Thương.

Phù Sai nghe Ngũ Viên nói cũng có lý vì gương lịch sử vẫn sờ sờ trước mắt. Phù Sai có ý muốn giết Câu Tiễn bèn sai người triệu Câu Tiễn vào. Bá Hi lại báo trước cho Câu Tiễn biết là Phù Sai định giết Câu Tiễn theo lời đề nghị của Ngũ Viên. Câu Tiễn kinh sợ lại nói với Phạm Lãi.

Phạm Lãi nói:

Chúa Công đừng sợ. Vua Ngô đã giam Chúa Công đã ba năm nay. Trong ba năm còn không nỡ xuống tay, huống chi bây giờ, Chúa Công cứ đi không ngại.

Câu Tiễn nói:

Ta chịu ẩn nhẫn bấy lâu nay không đến nỗi chết đều là nhờ mưu kế của quan đại phu cả.

Câu Tiễn lấy lại tự tin vào thành yết kiến Phù Sai. Phải chầu chực quỳ lạy đến ba ngày mà không thấy Phù Sai ra thượng triều. Bá Hi ở trong cung ra phụng mệnh Phù Sai truyền cho Câu Tiễn về nhà đá. Câu Tiễn lấy làm lạ liền hỏi.

Bá Hi nói:

Đại Vương nghe lời Ngũ Viên, định đem giết Ông vậy, nên triệu Ông đến để giết. Cũng may gặp lúc Đại Vương bị cảm không thể dậy được.

Tôi vào thăm bệnh nhân tâu với Đại Vương rằng:

Người bệnh muốn cầu yên thời phải làm phúc nay vua Việt đang chầu chực ở đây, chỉ đợi ngày chịu chết, oán khí xông lên đến Trời. Đại Vương nên tạm tha cho y trở về nhà đá, đợi khi khỏi bệnh rồi sẽ định liệu.

Vì nghe lời tôi mà Đại Vương tạm tha cho ngài về nhà đá quyết định sinh mạng của ngài sau.

Câu Tiễn cảm tạ không xiết, ở nhà đá được ba tháng Câu Tiễn nghe tin Phù Sai vẫn chưa khỏi bệnh, mới bảo Phạm Lãi bói một quẻ.

Phạm Lãi bói xong bảo Câu Tiễn rằng:

Phù Sai không chết ngày Tỵ thời bớt, đến ngày Nhâm thời khỏi. Đây là cơ hội Đại Vương Chúa Công cố xin vào thăm. Khi được vào thăm Đại Vương cố tình nếm phân cho Phù Sai để đoán ra bệnh rồi nói ngày khỏi bệnh, đến kỳ khỏi bệnh đúng như lời nói của Chúa Công Đại Vương thời tất nhiên y cảm ơn mà tha cho Đại Vương.

Câu Tiễn ứa nước mắt mà nói rằng:

Ta đây dẫu chẳng ra gì nhưng cũng là một Ông Vua không nhẽ lại nếm phân cho người chịu nhục đến thế sao?

Phạm Lãi nói:

Ngày xưa Vua Trụ giam Văn Vương ở Dữu Lý. Vua Trụ giết con Văn Vương là Bá Ấp Khảo rồi ướp thịt đưa cho Văn Vương ăn. Thế mà Văn Vương cố nén đau đớn mà ăn thịt con. Chúa Công muốn thành đại sự thời cần chi để ý những điều nhỏ mọn. Vua Ngô lòng thương người như đàn bà, mà không có lòng quả quyết như kẻ trượng phu. Đã toan tha rồi đổi ý. Nếu ta không làm thế thời làm gì qua mặt được Phù Sai, làm sao Vua Ngô rũ lòng thương mà tha cho chúng ta, nhờ sự nhẫn nại, nhẫn nhịn, nhẫn nhục cao chúng ta mới có thể qua khỏi kiếp nạn nầy.

Câu Tiễn tức khắc sai Phạm Lãi đến nói với Bá Hi rằng Chúa Công tôi nghe nói bệnh tình Đại Vương không thiên giảm, Chúa Công tôi lo lắng ăn ngủ không yên nên sai tôi đến cầu xin ngài cho Chúa Công tôi theo ngài vào thăm Đại Vương, để tỏ chút tình thành kính.

Bá Hi suy nghĩ một giây lác cho đó là dịp may có thể cứu sống được Câu Tiễn thời cái lợi lớn về sau một sức mà thừa hưởng.

Bá Hi nói:

Câu Tiễn ngài có lòng tốt, để tôi xin chuyển tấu.

Bá Hi vào yết kiến Phù Sai, bày tỏ cái tình Câu Tiễn nhớ mến, xin vào thăm bệnh. Phù Sai đang khi cơn bệnh trầm trọng, nghĩ thương tình Câu Tiễn mà cho vào. Bá Hi đưa Câu Tiễn vào thăm Phù Sai.

Phù Sai trừng mắt nhìn mà bảo rằng:

Câu Tiễn cũng vào thăm ta đó à?

Câu Tiễn sụp lạy mà tâu rằng:

Kẻ bề tôi ở trong tù nghe nói Đại Vương Long Thể bất hòa, thật là nát gan héo ruột chỉ mong được trông thấy mặt Rồng mà không biết phải làm thế nào.

Câu Tiễn nói chưa dứt lời thời Phù Sai đau bụng muốn đi ngoài, mới lấy tay xua bảo Câu Tiễn ra.

Câu Tiễn nói:

Khi Tôi ở đông hải có học người y sư, học được cách xem phân biết bệnh chính xác, bệnh chóng khỏi hay kéo dài trầm trọng. Nhờ thế mà bốc thuốc chính xác chữa trị khỏi bệnh ngay.

Câu Tiễn nói xong chắp tay đứng ở cửa sổ. Nội thị đưa cái thùng đến cạnh gi.ường nằm, rồi vực Phù Sai dậy đi ngoài. Phù Sai đi ngoài xong rồi nội thị bưng cái tùng đưa ra ngoài cửa. Câu Tiễn mở nắp thùng ra, thò tay bốc phân rồi quỳ xuống mà nếm. Mọi người xung quanh đều bịt cả mũi.

Câu Tiễn lại vào sụp lạy Phù Sai mà tâu rằng:

Kẻ tù nầy xin chúc mừng Đại Vương, bệnh Đại Vương đến ngày Kỷ Tỵ thì bớt, sang tháng ba về ngày Nhâm Thân thời khỏi hẳn không cần thuốc thang gì cả. Đó cũng là nhờ cái đức của Đại Vương trùm bá thiên hạ mà khỏi bệnh.

Phù Sai nghe Câu Tiễn quả quyết về bệnh tình mình như vậy liền hỏi:

Nhà ngươi căn cứ vào đâu mà quyết đoán bệnh tình của ta như vậy?

Câu Tiễn nói:

Tôi thường nghe y sư chỉ dạy phân là gốc của vị, hể thuận thời khí thời vô bệnh mà sống lâu, hể trái thời khí thời phát bệnh có khi dẫn đến cái chết. Nay kẻ tù nầy nếm phân Đại Vương thấy vị đắng và chua, chính hợp cái thời khí Xuân, Hạ phát sinh biến động trong cơ thể chỉ làm tăng tuổi thọ Đại Vương mà thôi. Nên bề tôi mới quả quyết bệnh tình Đại Vương chóng khỏi không cần thuốc thang như vậy.

Phù Sai nghe Câu Tiễn nói vô cùng bùi tai. Phù Sai bằng lòng nói rằng:

Câu Tiễn nhân đức thay. Thần tử đối với quân phụ, ta chưa thấy ai chịu nếm phân đoán bệnh bao giờ.

Bấy giờ nhân Bá Hi đứng cạnh Phù Sai bèn hỏi rằng:

Quan Thái Tế có nếm được không?

Bá Hi lắc đầu nói:

Thần thật rất yêu Đại Vương, nhưng việc ấy Thần không làm nổi.

Phù Sai nói:

Chẳng những quan Thái Tể không làm nổi, dẫu cho Thế Tử của Ta cũng không thể làm được.

Phù Sai truyền tha Câu Tiễn không bắt về nhà đá nữa, được tùy tiện tìm chỗ ở, đợi khi Phù Sai khỏi bệnh sẽ cho về nước. Câu Tiễn lạy tạ lui ra, từ đó về sau Câu Tiễn tìm được chỗ ở trong nhà dân, nhưng vẫn chăm chỉ giữ việc nuôi ngựa như trước, Phù Sai quả nhiên khỏi bệnh đúng như lời Câu Tiễn nói.

* * *
 

PHẦN 29

Lại nói về Phù Sai cho là Câu Tiễn trung thành với mình, nên khi đã khỏi bệnh liền truyền bày tiệc ở trên vân đài, cho Câu Tiễn vào dự yến. Câu Tiễn giả cách không biết, vẫn mặc áo tù mà đến. Phù Sai trông thấy truyền Câu Tiễn tắm gội và ban cho mũ áo. Câu Tiễn hai ba lần từ tạ rồi mới dám nhận. Câu Tiễn thay áo mũ xong lại vào lại vào sụp lạy Phù Sai.

Phù Sai vội vàng đỡ dậy và hạ lệnh rằng:

Vua Việt là người nhân đức không nên làm nhục lâu, ta định tha tội cho về nước nay nên tiếp đãi tử tế.

Các Quan đại phu nước Ngô đều vái nhường Câu Tiễn mời Câu Tiễn ngồi, rồi ngồi cả hai bên cạnh. Ngũ Viên thấy Phù Sai quên hẳn thù xưa, trong lòng căm tức không chịu ngồi vào liền quay trở ra.

Bá Hi nói:

Đại Vương ta lấy cái lòng một người nhân đức. Mà tha cái tội của người nhân đức. Tôi nghe nói “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” ngày nay ai là nhân thời ngồi lại, ai bất nhân thời bỏ đi. Quan tướng quốc là người cương dũng cho nên thẹn không dám ngồi, chớ sao?

Phù Sai cười mà nói:

Quan Thái Tể nói phải lắm.

Rượu đã ba tuần, Phạm Lãi và Câu Tiễn đều đứng dậy dâng chén chúc thọ Phù Sai. Phù Sai bằng lòng lắm ngày hôm ấy uống rượu thật say. Rồi sai Vương Tôn Hùng đưa Câu Tiễn ra công quán, đợi trong ba ngày nữa sẽ đưa về nước.

Sáng hôm sau Ngũ Viên vào tâu với Phù Sai rằng:

Hôm qua Đại Vương lấy khách lễ mà đãi kẻ thù là nghĩa thế nào? Câu Tiễn trong bụng như hổ báo, lang sói mà mặt ngoài giả cách cung kính. Đại Vương thấy y nói những lời xu nịnh, chẳng nghĩ đến tai họa về sau ư? Bỏ lời trung trực mà nghe kẻ gièm pha, nghĩ đều nhân nhỏ mà nuôi kẻ thù lớn, khác nào như buông nắm lông ở trên lò than mà mong khỏi cháy. Ném quả trứng ở dưới cân nặng mà muốn được toàn thời làm sao?

Phù Sai nghe Ngũ Viên nói thời không bằng lòng nói rằng:

Ta ốm trong ba tháng, quan tướng quốc chẳng thấy hỏi thăm được một câu, thế là quan tướng quốc bất trung, lại chẳng thấy quan tướng quốc làm quà cho cái gì, thế là quan tướng quốc bất nhân. Làm bề tôi mà bất trung và bất nhân thời còn dùng được việc gì nữa. Câu Tiễn bỏ nước mà sang đây, đem của cải đến dâng nạp, đem thân làm tôi tớ đó là điều trung khi ta có bệnh. Lại chịu nếm phân ta mà lòng không oán giận, đó là điều nhân. Nếu ta theo ý riêng của quan tướng quốc mà giết kẻ thiện sĩ ấy thời Trời nào còn giúp ta nữa.

Ngũ Viên nói:

Sao Đại Vương lại nghĩ lầm như vậy? Con Hổ thu mình lại thời tất là chực vồ con mồi. Con Cáo mà rụt cổ lại thời tất định cắn một cú chí tử. Vua Việt lâm vào tình thế buộc mới sang tùng phục Ngô ta, dẫu trong lòng oán hận cũng không dám để lộ ra ngoài. Đại Vương nên hiểu người xưa thường nói dò sông dò biển dễ dò, nhưng nào ai lấy thước mà đo lòng người. Bây giờ y cúi xuống mà nếm đống phân của Đại Vương, chắc đâu không có một ngày kia ngẩng lên mà ăn gan ruột của Đại Vương. Vì nước Việt Trung Nguyên tiềm năng con người cũng như kinh tế rất mạnh Đại Vương không suy xét kỷ mà mắc mưu tất có ngày bị hại.

Phù Sai nói:

Quan tướng quốc chớ nói nữa, ý ta đã quyết định rồi.

Ngũ Viên biết không thể can được ấm ức mà lui ra. Đến ngày thứ ba, Phù Sai lại bày tiệc ở ngoài Sà Môn để tiễn Câu Tiễn. Các quan đều dâng chén rượu tiễn chân. Chỉ có Ngũ Viên không đến dự.

Phù Sai bảo Câu Tiễn rằng:

Ta tha cho nhà Vua về nước, nhà Vua nên nhớ ơn nước Ngô mà cống nạp cho phải lễ, chớ đem lòng thù oán.

Câu Tiễn sụp lạy mà nói rằng:

Đại Vương thương tôi là kẻ còn non dại không tự lượng sức mình làm những điều ngu xuẩn lại biết ăn năng, nên mới tha cho được sống mà về nước. Tôi xin đời đời không dám quên ơn. Trời cao thăm thẳm soi xét lòng tôi, nếu tôi phụ Ngô thời Trời sẽ giáng họa.

Phù Sai nói:

Quân Tử không sai lời. Thôi nhà Vua lên đường nên gắng hết lòng hàng năm cống nạp cho nước Ngô.

Câu Tiễn sụp lạy, nước mắt đầm đìa, làm ra vẻ quyến luyến. Phù Sai thân hành vực Câu Tiễn lên xe. Phạm Lãi cầm cương xe. Câu Tiễn Phu Nhân sụp lạy tạ ơn rồi cùng lên xe đi về phía Nam.

Bấy giờ Phương Nam là đời thứ 14 Hạ Hùng Vương Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang. Phương Bắc bấy giờ là năm thứ 23 đời Chu Kính Vương.

Câu Tiễn về đến Chiết Giang, trông thấy phong cảnh khác xưa, thở dài mà nói rằng:

Ta vẫn tưởng phải từ biệt trăm họ Bách Việt Trung Nguyên, bỏ thân nơi cõi khác ngờ đâu nay được trở về nước giữ lấy việc cúng tế.

Câu Tiễn ngoảnh lại Phu Nhân mà khóc. Các người xung quanh cũng đều cảm động mà khóc cả. Văn Chủng đem triều thần và dân trong Kinh Đô ra đón tận ở bến Triết Giang trong tiếng reo hò dậy đất. Câu Tiễn sai Phạm Lãi bói xem ngày nào tốt để vào thành.

Phạm Lãi bấm đốt ngón tay rồi nói với Câu Tiễn rằng:

Ngày mai rất tốt. Chúa Công nên đi mau cho kịp.

Câu Tiễn tức khắc giục ngựa trở về Kinh Đô. Muốn ghi sâu trong cái nhục ở Cối Kê. Câu Tiễn muốn xây đắp thành Thiên Đô ở đó luôn luôn nhớ tới mối thù bằng giao hẳn việc ấy cho Phạm Lãi lo liệu. Phạm Lãi xem thiên văn, xét địa lý, lập ra một cái thành mới bao bọc núi Cối Kê. Phía Tây Bắc Phạm Lãi cho lập lầu Phi Dục ở núi ngọa tang làm nơi Thiên Môn. Đông Nam lập Lâu Thạch Đậu để làm địa bộ. Còn mặt Tây Bắc thời để không. Và nói phao lên rằng đã thần phục nước Ngô, không dám lấp đường cống hiến, cống nạp cho nước Ngô. Nhưng kỳ thực là để tiện đường tiến đánh quân Ngô mai sau. Khi thành đắp xong, bỗng thấy trong thành mọc lên một quả núi chu vi mấy dặm như hình con quỷ, cây cỏ mọc lên rậm rạp. Có người trông quả núi ấy giống như là núi Đông Vũ ở xứ Lang Gia, Nơi con Thuồng Luồng Ngư Tinh thường xuất hiện không biết là vì sao lại bay đến đây được.

Phạm Lãi nói với Câu Tiễn rằng:

Tôi đắp cái thành nầy ứng với Thiên Tượng cho nên quả núi hình con quỷ ấy hiện ra. Đó là điềm phúc nước Việt Trung Nguyên ta có Quỷ thần phù hộ che chở điềm báo trước Chúa Công làm nên nghiệp Bá.

Câu Tiễn nghe xong lấy làm mừng lắm mới đặt tên núi ấy là Quái Sơn cũng gọi là Phi Lai Sơn. Câu Tiễn sang Thiên Đô ở đấy.

Câu Tiễn bảo Phạm Lãi rằng:

Ta thực thực thất đức, để đến nổi nước nhà suy đốn, phải đem thân đi hầu hạ người khác, nếu không có quan tướng quốc và các quan đại phu, cũng như các nguyên soái trấn giữ phía nam bảo vệ nước Việt Trung Nguyên thời nước Việt Trung nguyên là sao trụ vững phát triển hùng mạnh như thế nầy.

Phạm Lãi nói:

Đó là nhờ hồng phúc của Chúa Công, chứ chúng thần có công gì. Nhưng xin Chúa Công chớ lúc nào quên cái nhục ở nhà đá thời mới có cơ báo thù được nước Ngô.

Câu Tiễn nói:

Xin vâng lời dạy bảo.

Lúc bấy giờ nước Việt Trung Nguyên quốc chính giao cho Văn Chủng, quân chính giao cho Phạm Lãi. Câu tiễn luôn tôn trọng hiền tài, kính lão, thương nghèo, trăm họ đều bằng lòng. Câu Tiễn từ khi nếm phân, thành ra bệnh hôi miệng. Phạm Lãi biết có một thứ rau ở một quả núi về phía Bắc thành, tên gọi là rau trấp, rau ấy ăn được nhưng có mùi hôi nên mới sai người đi hái đem về, để cả triều cùng ăn, cho lẫn mùi hôi nhưng có mùi hôi. Sau người ta gọi tên núi ấy là núi Trấp Sơn.

Câu Tiễn muốn gấp báo thù, mới cố chăm chỉ suốt ngày suốt đêm, khi buồn ngủ thời lấy cỏ lục mà đánh vào mắt, chân lạnh muốn rụt lại thời lấy nước vào. Mùa đông thường ngồi gần nước băng, mùa hạ thường ngồi gần đống lửa, xếp củi mà nằm lên trên, chớ không nằm gi.ường nệm. Lại treo một quả mật ở chỗ ngồi, thỉnh thoảng lại nếm một ít.

Câu Tiễn đêm nào cũng khóc sụt sùi, khóc chán rồi thở dài. Lại luôn luôn nhắc hai tiếng “Cối kê”. Câu Tiễn thấy sau khi đất suy bại trai trán chết vô số kể, dân số giảm kém mới hạ lệnh cấm con trai không được lấy vợ già. Ông già không được lấy vợ trẻ. Con gái mười bảy tuổi không lấy chồng, con trai hai mươi tuổi không lấy vợ thời bắc tội cha mẹ, đàn bà sắp chửa đẻ đều phải trình quan. Để quan cho thầy thuốc đến coi sóc. Sinh con trai thời thưởng cho hồ rượu và con chó. Ai sinh con gái thời thưởng cho hồ rượu và con lợn. Ai sinh ba con thời quan nuôi hộ hai, ai sanh hai thời quan nuôi hộ một. Hể có ai chết thời quan thân hành đi đưa đám và thương khóc. Câu Tiễn mỗi khi đi đâu thời cũng đem đồ ăn để ở trong xe hể gặp trẻ con thời cho ăn và hỏi tên họ.

Đến mùa làm ruộng Câu Tiễn cũng vác cày đi cày. Phu Nhân cũng chăm việc dệt cửi, cùng chia sự lao khổ cùng với dân. Trong bảy năm Câu Tiễn không thu thế của dân, ăn mặc rất là tiết kiệm không mặc hai màu, khiêm tốn đối với người hiền, cùng chịu khó với trăm họ. Thế mà chẳng tháng nào Câu Tiễn không sai sứ sang cống hiến cho nước Ngô. Lại người vào núi hái dây cát dệt làm vải nhỏ, đem dâng Phù Sai, nhưng chưa kịp dâng Phù Sai khen lòng trung thành của Câu Tiễn. Bằng sai người trả lại trả lại đất phía đông Câu Dụng phía Tây Hề Lý. Phía Nam Cô Việt. Phía Bắc Bình Quyên. Cả thảy hơn tám trăm dặm mà quân Ngô đã chiếm đóng.

Từ khi Câu Tiễn trở về nước Việt Trung Nguyên, xây dựng Thiên Đô ở Cối Kê, ra sức trong bảy năm cũng cố lực lượng vỗ về binh sĩ, chăm lo dân chúng có thể nói là hùng mạnh, nhân cơ hội Ngô trả đất tiến quân đánh Ngô để rửa mối hận thù.

Đại Phu Phùng Đồng can rằng:

Tuy nước ta phồn thịnh no đủ, nhưng thế lực nước Ngô còn mạnh lắm chỉ cần phát hiện Chúa Công tiến quân chinh phạt Ngô. Thế nào Ngô cũng tức giận đem quân tiến đánh trong khi thế lực của ta chưa nắm chắc phần thắng, thời tai nạn cho nước Việt ta không sao tránh khỏi. Vả lại con Chim Ưng muốn tấn công thời nói phải biết dấu mình không cho con mồi biết thời hiệu quả mới đạt đến đỉnh cao. Nay quân Ngô sắp đánh Tề và Tấn. Ngô tuy nổi danh thiên hạ, nhưng thực chỉ cốt làm tổn hại uy danh Nhà Chu. Hiện nay đối với nước Việt Trung Nguyên ta, không gì bằng biết đợi thời cơ, âm thầm liên kết với nước Tề, thân với nước Sở, khi thời cơ đã đến, ba nước đánh Ngô thời nhất định tiêu diệt được Ngô.

Câu Tiễn cho lời nói Phù Đồng là có lý, cẩn thận ẩn kín ý niệm đánh Ngô, mà tiếp tục làm cho Ngô tin mình. Câu Tiễn sai người đem vải cát mười vạn tấm, cam mật một trăm vò. Áo cầu lông chồn năm đôi, tre nứa mười thuyền sang dân Phù Sai để tạ cái ơn đã trả lại đất đai. Ngũ Viên nghe nói liền cáo ốm không vào triều. Phù Sai thấy Câu Tiễn một lòng thuần phục không những trả đất chiếm đóng cho Câu Tiễn mà còn tin lời Bá Hi.

Một hôm Phù Sai hỏi Bá Hi rằng:

Ngày nay trong nước thái bình ta muốn mở thêm cung thất để lấy chỗ vui chơi, nên làm tại chỗ nào?

Bá Hi nói:

Gần Đô Thành ta, đài cao cảnh đẹp, còn đâu bằng Cô Tô, nhưng cái đài của Vua trước dựng lên chưa được tráng lệ lắm. Đại Vương nên sửa lại cái đài ấy, khiến cho cao có thể trông thấy trăm dặm, rộng có thể dung được nghìn người. Rồi hợp những ca đồng vũ nữ ở đấy, thời thật là một sự kh.oái lạc đệ nhất trần gian.

Phù Sai cho khen phải, liền trao giải, tìm kiếm những cây gỗ quý.

Văn Chủng nghe tin vào nói với Câu Tiễn rằng:

Thần nghe nói “Con chim bay ở trên mây cao, chỉ chết vì miếng ăn tốt. Con cá lặn dưới vực sâu, chỉ chết về miếng mồi thơm” Nay Chúa Công muốn báo thù Ngô thời phải xem Ngô thích cái gì mới có thể trị nổi.

Câu Tiễn nói:

Dẫu tìm được điều họ thích, nhưng làm thế nào mà trị nổi?

Văn Chủng tâu:

Thần có nghĩ cách phá Ngô cả thảy được bảy kế.

1 - Chịu tốn của làm cho nước Ngô bằng lòng.

2 - Lấy giá đắc mua thóc làm cho Ngô thiếu lương thực.

3 - Đem mỹ nữ sang dâng để làm cho vua Ngô mê hoặc.

4 - Đem thợ khéo, gỗ tốt sang đem dâng, để Ngô làm cung thất tốn hại tiền của.

5 - Dùng kẻ mưu thần để làm cho nước loạn.

6 - Làm cho vua Ngô hại trung thần rơi vào cảnh thế cô.

7 - Tích của luyện quân, đợi khi địch suy yếu.

Câu Tiễn nói:

Quan tướng quốc nói phải lắm, nhưng nên dùng kế nào được?

Văn Chủng nói:

Nay Ngô sửa lại đài Cô Tô, ta nên tìm cây lớn gỗ quý đem dâng.

Câu Tiễn liền sai hơn ba nghìn thợ mộc vào rừng tìm gỗ, tìm hơn một năm mà chưa mà chưa được cây nào thật tốt. Thợ mọc đều đêm lòng oán hận, đêm ngày than oán với nhau. Một hôm đang đêm bỗng cuồng phong nổi lên núi rừng rung chuyển một con quỷ Ngư Tinh xuất hiện sau đó thời trời quang mây tạnh xuất hiện hai Thần Mộc to hai người ôm, cao năm mươi tầm, một cây ở phía Nam núi, gọi là cây tử. Một cây ở phía Bắc núi gọi là cây nam. Thợ mộc kinh ngạc cho người vội vàng về báo với Câu Tiễn.

Triều thần chúc mừng Câu Tiễn rằng:

Lòng thành Chúa Công đã cảm động đến lòng trời, cho nên trời sanh gỗ thần để giúp Chúa Công.

Câu Tiễn mừng lắm thân hành đến làm lễ tế trời, cho thợ mộc đốn xuống sai đêm bào láng và dùng thuốc xanh, đỏ vẽ hình rồng rắn, sai Văn Chủng đưa sang Ngô dâng lên cho Phù Sai. Phù Sai thấy gỗ to đẹp lạ thường, xiết bao mừng rỡ.

Ngũ Viên can rằng:

Ngày xưa vua Kiệt làm linh đài, vua Trụ làm lộc đài khổ dân hao của đến đổi mất nước. Câu Tiễn muốn hại ta, nên đem dâng gỗ nầy đó.

Phù Sai nói:

Câu Tiễn được cây gỗ quý nầy, không để mà dùng, lại đem dâng ta, thế là lòng tử tế sao ta lại từ chối.

Nước Văn Lang chia đôi Nam Bắc, Bách Việt tương tàn làm suy kiệt nước Văn Lang, Đồng Bào khốn khổ lầm than. Bắc Văn Lang đã rơi về tay quân loạn tặc phản loạn trở thành nước Việt Trung Nguyên. Việt Trung Nguyên không những giàu có về lúa gạo, mà còn giàu có về mọi mặc. Thủy Sản, sơn hào, hải vị, gái đẹp vàng bạc, ngọc ngà, châu báu chẳng thiếu chi. Là miếng mồi béo bở, không những nước Ngô, mà còn nhiều nước Phương Bắc thời Nhà Chu lúc nào cũng thèm thuồng dòm ngó. Vì thế Việt Trung Nguyên không lúc nào yên, trong thời các Vua Hùng đánh ra đòi lại Bắc Văn Lang. Ngoài thời các nước Phương Bắc dòm ngó thôn tính chẳng hạn như nước Ngô.

* * *



PHẦN 30

Phù Sai thấy gỗ quý thời mừng lắm, Ngũ Viên nói gì cũng không nghe, truyền đem hai cây gỗ quý để sửa đài Cô Tô. Trong năm năm mới làm xong đài cao ba trăm trượng, rộng tám mươi tư trượng, trèo lên thời trông suốt được hai trăm dặm. Nguyên trước đó có con đường chín khúc đi thẳng lên núi, bây giờ làm rộng thêm ra. Trăm họ phải ngày đêm phục dịch, lao lực mà chết rất nhiều.

Câu Tiễn nghe tin báo Văn Chủng rằng:

Kế sách dâng gỗ tốt cho hắn làm cung thất, tốn hại tiền của kế ấy đã thành rồi. Nay trên đài cao tất nhiên phải tuyển ca nhi vũ nữ, nếu ta không tìm được người tuyệt sắc thì làm sao làm cho hắn mê hoặc được.

Câu Tiễn nói:

Quan tướng quốc hãy bàn mưu giúp ta.

Văn Chủng nói:

Việc gì cũng bởi trời cả. Trời đã sanh thần mộc giúp Chúa Công thời lo gì không có mỹ nữ tuyệt sắc. Nhưng nếu ta sục tìm thời dân tình náo động. Thần nghĩ được một kế có thể xem mặt hết con gái trong nước tùy ý Chúa Công kén chọn.

Văn Chủng hiến kế rằng:

Chúa Công phái một trăm nội thị đi lẫn với Thầy Tướng giả cách đi xem tướng số khắp trong đất nước, thấy mỹ nữ thời ghi lấy tên và chỗ ở. Dùng cách ấy chọn thời lo gì không có người.

Câu Tiễn theo kế ấy, mới trong nửa năm mà đã tuyển chọn được hai nghìn mĩ nữ. Câu Tiễn sai chọn lại được hai người đẹp nhất, truyền vẽ tranh đêm dâng Phù Sai. Hai người ấy là Tây Thi và Trịnh Đán.

Tây Thi là con một người kiếm củi ở núi Trữ La. Trữ La có hai thôn, Đông Thôn và Tây Thôn, dân chúng phần đông là họ Thị. Người con gái ở Thôn Tây gọi là Tây Thi. Trịnh Đán cũng ở Tây Thôn làng giềng với Tây Thi. Nhà lại gần sông hai người ngày nào cũng gặp nhau ra đập sợi ở bến sông phải nói là tuyệt sắc giai nhân sắc nước hương trời, mặt hoa da phấn, đúng là trong ngọc trắng ngà, da như tuyết, mắt như hồ thu êm dịu trong suốt, người như hoa xuân đại ngàn, lưng ong, mông nở, ngực đầy, dáng đi uyển chuyển, đúng là hoa nhường nguyệt, chim sa cá lặn khuynh quốc nghiêng thành, ai nhìn thấy cũng mê ngây ngất tâm hồn.

Câu Tiễn sai Phạm Lãi đem một trăm ném vàng đón về đón hai cô gái đẹp như tiên nữ giáng trần. Phạm Lãi vừa nhìn thấy Tây Thi, Trịnh Đán thời tâm hồn xao xuyến càng nhìn càng thấy đẹp đúng là báu vật chốn nhân gian. Phạm Lãi cho ăn mặt đồ the lụa, ngồi xe có màng phủ mỗi khi hai mĩ nữ bước lên xe xuống xe đều bừng lên rực sáng cả một khung trời, tiếng đồn lan nhanh, người trong nước ai cũng muốn xem mặt, tranh nhau đón theo dọc đường không biết bao nhiêu mà kể.

Phạm Lãi để Tây Thi và Trịnh Đán ở hội quán rồi truyền dụ rằng:

Ai muốn xem mặt hai tuyệt đại mỹ nhân, thời phải nộp một đồng tiền.

Chỉ trong một lúc đồng tiền đầy mấy thùng lớn. Hai mỹ nữ đi lên lầu đứng tựa vào bao lơn, ở dưới trông lên chẳng khác nào hai tiên nữ giáng trần đứng trên không. Tây Thi và Trịnh Đán ở lại ngoại thành, tiền thu được không biết bao nhiêu mà kể, đều nộp vào kho cả.

Câu Tiễn cho hai mỹ nữ ở riêng tại Thổ Thành, rồi sai một nhạc sư già dạy cho hát múa, khi nào thành nghề sẽ sang tiến Phù Sai.

Bấy giờ Phương bắc là đời Chu Kính Vương. Phương Nam là thời Hùng ánh Vương, Chân Nhân Lang. Nước Việt Trung Nguyên Việt Vương Câu Tiễn lên làm Vương đã hơn mười năm. Trước đó một năm Phương Bắc Tề Cảnh Công mất. Con nhỏ là Trà lên Ngôi. Năm ấy Sở Chiêu Vương cũng mất, thế tử Chương lên nối ngôi Sở còn đang củng cố xây dựng. Tấn lại suy yếu, Tề thời Án Anh chết. Lỗ thời Khổng Tử đi, những nước hùng mạnh Phương bắc xa gần nước Ngô nước nào cũng suy yếu cả. Chỉ có nước Ngô là cường thịnh nhất. Phù Sai cậy mình binh hùng tướng mạnh, có ý xâm chiếm dần các Sơn Đông các nước trấn chư hầu Nhà Chu đều lấy làm lo sợ. Phù Sai luôn tìm cách thôn tính lần các nước Sơn Đông nhưng chưa có cớ để tiến quân. Gặp lúc Điệu Công nước Tề sai sứ mượn quân nước Ngô, cùng đánh Lỗ.

Phù Sai nói:

Ta vẫn muốn dùng quân sang đánh các nước Sơn Đông nay đã có cớ rồi.

Phù Sai thuận cho nước Tề mượn quân. Lỗ Ai Công nghe Ngô khởi binh kinh sợ, tức khắc tha cho Vua Châu về nước rồi sai sứ sang xin lỗi với nước Tề.

Tề Điệu Công sai quan đại phu là Mạnh Xước sang nói lại với nước Ngô rằng:

Nước Lỗ đã phục tội rồi, không dám phiền đến nước Ngô nữa.

Phù Sai nổi giận, nói:

Nước Ngô ta có phải là thuộc quốc của Tề đâu, mà Ngô ta đánh hay không đánh đều phải vâng lệnh nước Tề. Âu là thân hành đêm quân đến nước Tề, để hỏi cái tội làm sao mỗi lúc nói một khác.

Nói xong bằng đuổi Mạnh Xước ra. Nước Lỗ nghe tin vua Ngô giận Tề liền sai sứ đem lễ vật sang dâng vua Ngô lại ước với vua Ngô cùng đánh nước Tề. Phù Sai vui lòng thuận ngay.

Ngũ Viên can:

Chớ nên. Tôi nghe nói Câu Tiễn ăn không hai món. Cùng vui cùng khổ với trăm họ. Con người nầy chưa chết là còn lo cho nước Ngô ta không lo coi chừng đề phòng Nước Việt là nguy cơ sắp đến nơi. Tề chẳng qua chỉ là ghẻ lở ở ngoài da. Xin Đại Vương bỏ Tề mà kìm h.ãm sức mạnh nước Việt.

Vua Ngô Phù Sai không nghe cứ đánh Tề. Tức khắc cất quân cùng với nước Lỗ đến vây phía nam nước Tề. Người nước Tề ai cũng kinh hoảng, và thầm oán Tề Điệu Công tự nhiên sinh sự chọc giận nước Ngô.

Bấy giờ Trần Khất đã chết rồi, con là Trần Hằng giữ quyền chính. Nhân dịp người trong nước không thuận mới bảo Bão Tức rằng:

Sao nhà ngươi không làm “đại sự” đi. Ngoài thì làm cho quân Ngô khỏi giận. Mà trong thời báo được cái thù cho gia tiên.

Bão Tức từ chối là không làm nổi.

Trần Hằng nói:

Ta xin giúp nhà ngươi.

Nhân khi Điệu Công đi luyện quân Trần Hằng dâng rượu độc cho Điệu Công rồi giết đi, cho quân binh bắt Cao Chiêu Tử và Quốc Huệ rồi sai người dâng nạp cho Phù Sai nói với Vua Ngô Phù Sai rằng:

Chúa Công tôi đắc tội với thuộc quốc đã bị bệnh mà chết, thế là Trời đã thay Đại Vương mà trị tội Chúa Công tôi rồi. Nếu Đại Vương rủ lòng thương xót không phá hủy xã tắc nước tôi, thời nước tôi xin đời đời thần phục thượng quốc.

Phù Sai nghe xong liền rút quân về, quân nước Lỗ cũng kéo về nước.

Bấy giờ Vua Việt Trung Nguyên là Câu Tiễn cho người luyện tập mỹ nữ học múa hát trong ba năm đã được điêu luyện, liền cho đeo ngọc trai, ngồi xe ngọc, hương thơm ngào ngạt, có một số thị nữ rất đẹp theo hầu, rồi sai quan tướng quốc là Phạm Lãi đem sang nước Ngô tiến Phù Sai. Khi Phù Sai ở nước Tề về trong niềm vui chiến thắng.

Ngũ Viên nói:

Đại Vương chớ vội mừng.

Phù Sai nổi giận nói:

Nhà ngươi ỷ mình có công lớn coi thường Bổn Vương lúc nào cũng xàm tấu những lời bất trung, ngươi tưởng rằng Bổn Vương không làm gì được nhà ngươi sao?

Ngũ Viên trở về dinh có ý tự sát. Phù Sai nghe tin đến ngăn lại. Qua ngày hôm sau Phù Sai đang chểnh chệ trên chiếc ngai vàng nghe triều thần chuẩn tấu. Cũng vào thời điểm ấy Phạm Lãi xin vào yết kiến Phù Sai. Phù Sai cho vào.

Phạm Lãi quỳ lạy mà tâu rằng:

Kẻ bề tôi hèn ở bên đông hải là Câu Tiễn, cảm ơn Đại Vương, không thể cùng thê thiếp ở bên cạnh Đại Vương hầu hạ được, nên bề tôi kẻ hèn cố công tìm khắp trong nước được hai người khéo nghề múa hát, sai chúng tôi đem nạp Vương Cung, để giữ việc quét rửa.

Phạm Lãi tâu xong liền cho người đưa kiệu vào từ ngoài sân rồng một chiếc kiệu ngọc cùng các mỹ nữ đẹp xinh đẹp vô cùng đi hai bên kiệu ngọc từ từ đi vào hương thơm ngào ngạt triều thần mê mẩn. Phù Sai vừa trông thấy chiếc ngọc với đàng mỹ nữ thời đã mê rồi. Tiếng sáo du dương nổi lên tức thời trên chiếc kiệu ngọc hai tuyệt sắc mỹ nhân bước xuống cả triều thần như sáng rực lên.

Phù Sai vừa trông thấy Tây Thi và Trịnh Đán thời hồn xiêu phách lạc, cho là Thần Tiên mới giáng hạ. Cả triều thần im phăng phắc quả tim như muốn nhảy ra ngoài. Phù Sai mê mẩn không còn biết gì nữa.

Ngũ Viên thấy thế can rằng:

Bẩm Đại Vương. Tôi nghe nói Nhà Hạ mất vì nàng Muội Hỉ. Nhà Ân mất vì nàng Đắc Kỷ. Nhà Chu khốn đốn vì nàng Bao Tự. Mĩ Nữ là một vật có hại cho quân Vương làm cho mất nước Chúa Công Đại Vương chớ nên nhận.

Phù Sai lúc nầy đã mê mẩn nghe Ngũ Viên Can nổi giận nói:

Người ta ai chẳng có lòng hiếu sắc. Câu Tiễn tìm được mỹ nữ mà chịu đêm dâng tiến ta, điều đó chứng tỏ Câu Tiễn một lòng trung thành với ta, quan tướng quốc chớ nghi.

Rồi không còn nghe Ngũ Viên khuyên can. Phù Sai nhận lễ cống của Nước Việt Trung Nguyên. Nhìn hai người mỹ nữ tuyệt sắc hương thơm ngào ngạt Phù Sai yêu cả hai. Nhưng đẹp lộng lẫy và khéo ăn nói cũng như làm dáng nũng nịu thời Tây Thi có phần hơn. Bởi vậy Tây Thi được ở Đài Cô Tô. Còn Trịnh Đán thời ở Ngô Cung.

Phù Sai đến với Trịnh Đán thấy Trịnh Đán xinh đẹp quá Phù Sai ngây ngất cả tâm hồn quên hết cả cung phi mỹ nữ ở với Trịnh Đán được vài hôn rồi sang Cô Tô. Phù Sai vừa nhìn thấy Tây Thi thời hồn xiêu phách lạc mê mẩn say sưa. Phải nói Tây Thi không những đẹp như tiên giáng trần mà đàn ca múa hát thanh thót du dương mỗi nét rung động trên người Tây Thi như cơn bão cuốn hút tâm hồn Phù Sai bay tận mây xanh.

Nụ cười vừa nở trên môi

Tưởng chừng trời đất rực ngời đầy hoa

Thân hình cá lặn chim sa

Lưng ong, ngực nở nhô cao, mông đầy

Mảnh mai yểu điệu liễu hờn

Hoa nhường nguyệt thẹn lu mờ trăng sao

Tóc nàng như vạn tầng mây

Hồ thu trong suốt đẹp thay mắt nàng

Da nàng trắng ngọc sáng ngần

Tuyết không sánh nổi phải nhường màu da

Phù Sai mê mẩn, mẩn mê

Quên luôn tổ quốc, quên đi triều thần.

Tây Thi đẹp đến nổi, đi cũng đẹp, ngồi cũng đẹp, nằm cũng đẹp, khóc cũng đẹp, đau bụng cũng đẹp. Tây Thi khéo ăn nói, khéo nũng nịu suốt ngày làm cho Phù Sai mê mẩn quên tổ quốc, quên triều thần, quên luôn nàng Trịnh Đán xinh đẹp. Tây Thi đến đâu thời nghi vệ chẳng khác gì Phi Hậu.

Trịnh Đán ở Ngô Cung không thấy Phù Sai đến với mình vô cùng ghen tức với Tây Thi, uất khí không nói ra được, hơn một năm thời qua đời.

Phù Sai thương lắm, đem chôn ở núi Hoàng Mao và cho lập đền thờ cúng tế. Nói về Phù Sai yêu Tây Thi sai Vương Tôn Hùng lập ra cung Quán Khê ở núi Linh Nham, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi. Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp Lang, trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt. Lại có giếng nước trong gọi là giếng Ngô Vương, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt. Phù Sai đứng ở bên cạnh lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi. Lại có động gọi là động Tây Thi. Phù Sai cùng Tây Thi cùng ngồi ở đấy. Trên núi lại có Cầm Đài. Phù Sai Tây Thi thường gảy đàn ở đấy. Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nữ chở thuyền đi hái hoa, lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành Đô, đó là chỗ Tây Thi cùng Phù Sai đi hái sen. Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ Nam sang Bắc, rồi làm cái bườm gấm để chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm Hình. Phía Nam Đô Thành có Tường Châu Uyển, để làm nơi săn bắn. Lại có Ngư Thành để làm nơi nuôi cá. Áp Thành để nuôi vịt, Kê Bi để nuôi gà, Tửu Thành để nấu rượu. Lại thường cùng Tây Thi nghỉ mát tại Nam Loan, hồ Hạ Loan ba mặt đều là núi chỉ có một mặt Nam hướng về quê Tây Thi. Phù Sai đặt tên lại là Động Đình. Mỗi lần Tây Thi nhớ quê thời đến đây cùng Phù Sai. Vì quê Tây Thi ở Việt Trung Nguyên gần Tây Hồ Động Đình. Phù Sai từ khi có được Tây Thi, cứ ở luôn bên Tây Thi thường ở Cô Tô, bốn mùa vui chơi rượu chè đàn địch, chẳng cần thiết đến việc gì cả. Chỉ có quan Thái Tế là Bá Hi và Vương Tôn Hùng thường hay hầu bên cạnh. Mỗi khi Ngũ Viên xin yết kiến, Phù sai từ chối không cho vào.

* * *
 

PHẦN 31

Nói về Việt Vương Câu Tiễn nghe tin Phù Sai say mê Tây Thi xây chỗ chơi hết cái nầy tới cái kia, chiến tranh xâm lược hết hết nước nầy đến nước khác, làm cho dân chúng Ngô than oán quân binh mỏi mệt, lại bày mưu tính kế với Văn Chủng.

Câu Tiễn nói:

Lời Tiên Vương có ghi chép. Quốc Tổ Hùng Vương dựng nước Bách Việt Văn Lang lấy Đạo làm kim chỉ nam đoàn kết dân chúng, vua, tôi. Nhà Nước Văn Lang lấy dân làm gốc. Dân chúng lấy ăn làm đầu. Nay nước Việt Trung Nguyên ta thất mùa, có cái cớ xin vua Ngô cho vay thóc mà chu cấp cho dân. Nếu trời giúp ta thời xui khiến vua Ngô cho ta vay thóc một mũi tên bắn trúng hai mục đích. Một là làm cho nước Ngô suy yếu lương thực, hai là làm cho chúng ta được lòng dân chúng. Hể có dân ủng hộ thời việc gì cũng làm nên sức mạnh nào cũng đánh bại.

Câu Tiễn sai Văn Chủng đem nhiều lễ vật đút cho Bá Hi, để Bá Hi giúp đở yết kiến với Phù Sai. Phù Sai cho Văn Chủng vào yết kiến ở Cô Tô đài.

Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng:

Nước Việt Trung Nguyên tôi năm nay mất mùa thê thảm, trăm họ khốn khổ. Xin Đại Vương cho vay một vạn thạch thóc ở kho Thái Sương, để cứu cho dân khỏi đói, sang năm lúa chín lại đem trả nộp.

Phù Sai nói:

Vua Việt thuần phục nước Ngô ta, dân Việt đói khát, như dân Ngô đói khát, ta có tiếc gì thóc kho mà không đem ra để cứu dân Việt.

Ngũ Viên nghe tin sứ nước việt đến Cô Tô đài cũng theo đến vào yết kiến Phù Sai. Thấy Phù Sai cho nước Việt vay thóc Ngũ Viên lại can rằng:

Không nên. Sự thế ngày nay Ngô thôn tính Việt, tức Việt diệt Ngô. Tôi xem ý vua Việt sai sứ đến vay thóc, không phải thực là vì dân đói mà vay. Chính là định làm cho nước Ngô ta hết thóc đó. Ta có cho vay cũng chẳng thêm tình nhân ái, mà không cho vay cũng chưa đến nỗi oán thù, chi bằng Đại Vương từ chối đi là hơn.

Phù Sai nói:

Câu Tiễn bị giam ở nước ta, phải đi giật lùi mà dắt ngựa cho ta, dân chúng nước Ngô cũng như chư hầu ai cũng biết cả. Nay được ta tha cho về, Câu Tiễn cảm ơn không giết mới còn được mạng sống mà về nước. Nên vẫn một lòng trung thành tháng nào cũng cống hiến cho nước Ngô ta. Khi nào lại còn dám làm phản nghịch mà lo.

Ngũ Viên nói:

Tôi nghe nói vua Việt ngày đêm chăm chỉ, luyện tập quân binh để định báo thù nước Ngô. Nay Đại Vương đem thóc cho vay khác gì hổ báo mọc thêm cánh, tôi e rằng họa sắp đến nơi rồi.

Phù Sai nói:

Câu Tiễn nguyện xin làm bề tôi ta, lại còn thế thốt nếu ăn ở hai lòng phản lại Ngô thời trời tru đất diệt có lẽ nào phản lại lời hứa, làm bề tôi mà dám đánh vua hay sao?

Ngũ Viên nói:

Vua Thang đánh vua Kiệt, vua Vũ đánh vua Trụ, không phải là bề tôi đánh vua là gì?

Bá Hi đứng bên cạnh quát lên rằng:

Quan tướng quốc nói quá, sao lại ví Đại Vương như vua Kiệt, vua Trụ được.

Bá Hi lại tâu với Phù Sai rằng:

Ngày xưa Tề Hoàn Công hội chư hầu ở quỳ khâu, có ước với các nước phải cho nhau vay thóc, là để giữ lấy nghĩa giao lân. Huống chi Việt là một nước luôn cống hiến hàng tháng xưa nay cho Ngô ta. Sang năm lúa chín thời Việt lại đem đủ số thóc sang nộp. Thế thì chẳng thiệt gì cho Ngô, mà lại được ơn với Việt, việc gì mà Đại Vương không thấu hiểu mà quan tướng quốc lại nói quá như thế.

Phù Sai bèn truyền cho nước Việt vay một vạn thạch thóc, sang năm được mùa, phải đêm nộp trả đủ chớ có thất tín.

Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng:

Đại Vương thương nước Việt mà cho vay nước Việt mang ơn không hết, khi nào dám thất tín nhất là lúc nào cũng nhớ đến lòng tôi trung của mình.

Văn Chủng lĩnh một vạn thạch thóc đem về nước Việt. Câu Tiễn mừng lắm. Triều thần hô vạn tuế. Câu Tiễn liền đem cấp phát cho dân nghèo trong nước. Dân chúng Bắc Việt Trung Nguyên ca tụng công đức Câu Tiễn không hết lời. Năm sau nước Việt được mùa to.

Câu Tiễn lại hỏi Văn Chủng rằng:

Ta không trả thóc cho Ngô thời thất tín, nếu trả thời hại Việt mà lợi cho Ngô, biết làm sao?

Văn Chủng nói:

Trả thời ta phải trả, nhưng chúng ta hết sức bí mật nên chọn những hạt thóc tốt luộc đi rồi đem trả, kẻ kia thấy thóc tốt tức nhiên gieo trồng ấy là trúng kế của ta đó. Nước Ngô dân chúng không những bị đói to mà ngân khố kho thóc Ngô cũng thâm hụt vô kể.

Câu Tiễn theo kế ấy đem thóc chín trả cho Ngô không thiếu một đấu nào Phù Sai khen rằng:

Câu Tiễn thật là người biết giữ chữ tín.

Phù Sai lại trông thấy hạt thóc to lớn lạ thường, bèn bảo Bá Hi rằng:

Nước Việt Trung Nguyên nổi tiếng đất tốt xưa nay nhìn hạt thóc cũng đủ biết là đất tốt như thế nào. Thảo nào các đời Tiên Đế luôn muốn chiếm lấy đất Việt Trung Nguyên. Ta nên lấy giống tốt nầy phân phát cho dân để lấy giống.

Năm ấy khắp nước Ngô đều gieo thóc nước Việt. Nhưng gieo xuống chờ đợi mãi không thấy mọc lên cây nào cả hạt thóc đã trở nên thâm đen hủy mục dân Ngô đói to. Phù Sai cho là thổ nghi không giống nhau mới có chuyện kỳ lạ như vậy, ngoài ra không một ai biết vì nguyên do nào. Câu Tiễn nghe nói Ngô bị đói toan đem quân đánh Ngô.

Văn Chủng can rằng:

Chưa đánh vội vì nước Ngô còn nhiều kẻ trung thần nhất là Ngũ Viên là trụ cột vững mạnh của nước Ngô. Sở dĩ nước Ngô trở nên hùng mạnh làm cho các nước khiếp sợ là nhờ có hai nhân vật kỳ tài. Một là Ngũ Viên, hai là Tôn Vũ. Tôn Vũ đã bỏ Ngô đi từ lâu rồi. Chỉ còn Ngũ Viên nhưng hiện nay vua Ngô với Ngũ Viên không hợp lòng nhau, có lần Ngũ Viên muốn tự tử chỉ còn chờ Ngũ Viên bị hại là thời cơ đã đến.

Câu Tiễn hỏi Phạm Lãi:

Chừng nào thời cơ đến?

Phạm Lãi nói:

Cũng chẳng bao lâu nữa đâu, xin Đại Vương gấp rút ngày đêm luyện tập quân binh chuẩn bị cho cuộc đánh Ngô.

Câu Tiễn nói:

Quân binh nước ta còn phải luyện tập nữa sao?

Phạm Lãi nói:

Việc chiến tranh cần phải có quân binh tinh nhuệ, ngoài binh pháp trận pháp ra, quân binh tinh nhuệ cần phải có tài kiếm, kích, đao, thương, gươm, giáo, cung tên phải thật lão luyện. Mà các tài ấy nếu không được minh sư dạy bảo thời không sao tài giỏi được. Thần biết có người Xử Nữ ở Nam Lâm giỏi nghề kiếm, kích, đao, thương lắm. Lại có người nước Sở tên gọi là Trần Am Nguyên, giỏi nghề cung nỏ. Xin Đại Vương cho người đón về mà truyền dạy cho quân binh.

Câu Tiễn liền sai sứ đem lễ vật đi mời Xử Nữ và Trần Anh người Xử Nữ ấy không biết tên họ là gì, nguyên vẫn ở trong rừng, chẳng học ai mà giỏi nghề kiếm, kích, đao, thương. Sứ giả phụng mệnh đến Nam Lâm mời Xử Nữ. Xử Nữ bằng lòng đi ngay.

Nửa đường gặp một ông cụ đầu bạc đứng trước xe mà hỏi rằng:

Nàng có phải là Xử Nữ ở Nam Lâm đó không? Kiếm thuật của nàng thế nào mà nàng dám nhận lời của Vua Việt. Âu là ta hãy thử nhau một phen.

Xử Nữ nói:

Xin tùy ý ông.

Ông lão liền bẻ bụi trúc ở trong rừng như bứt nắm cỏ khô liền đâm Xử Nữ như tia chớp. Ngọn trúc vừa lao tới Xử Nữ còn nhanh hơn nữa bắt luôn ngọn kích rồi đâm lại ông lão. Bỗng thấy ông lão nhảy lên trên cây hóa làm con vượn trắng kêu hú lên rồi phi thân đi mất. Sứ giả lấy làm lạ và thuật lại cho Việt Vương Câu Tiễn nghe. Xử Nữ vào yết kiến Câu Tiễn. Câu Tiễn mời ngồi rồi hỏi nghề kiếm, kích, đao, thương Xử Nữ.

Xứ Nữ nói:

Nghề kiếm, kích, đao, thương trong phải định tâm giữ vững tinh thần. Ngoài phải làm ra vẻ tầm thường trông như mềm yếu như đàn bà vậy, nhưng thật ra dữ như con hổ nhanh như con thỏ, khiến người ta không kịp trở tay chớp mắt hạ gục đối thủ. Ai theo được cái đạo ấy thời là một người địch nổi trăm người. Nếu Đại Vương không tin cho quân binh thử xem.

Câu tiễn sai một trăm dũng tấn công đâm Xử Nữ. Xử Nữ chỉ cần quơ tay lạng lách vài cái các ngọn kích bị Xử Nữ cướp sạch ném xuống đất. Câu Tiễn Vô cùng kinh ngạc khâm phục cho là tài giỏi, mới giao cho luyện tập binh sĩ. Xử Nữ lựa khắp quân binh, chỉ được có ba nghìn quân theo học với Xử Nữ. Dạy hơn một năm Xử Nữ cáo từ trở về Nam Lâm. Lần sau Câu Tiễn đến mời thời không thấy Xử Nữ đâu cả.

Lại nói về Trần Am Nguyên là người nước Sở, vì tội giết người, phải trốn sang nước Việt. Phạm Lãi thấy là người bắn giỏi trăm phát chẳng sai phát nào, liền nói Câu Tiễn đón làm xạ Sư.

Câu Tiễn hỏi Trần Am Nguyên rằng:

Chẳng hay cung nỏ từ đâu mà sinh ra?

Trần Am Nguyên trả lời rằng:

Nỏ sinh ra bởi cung, cung sinh ra bởi ná, ná sinh ra bởi một người Hiếu Tử thời xa xưa. Nguyên thời xưa nhân loại thời còn sơ khai thời ăn lông ở lỗ, đói thời ăn thịt giống vật. khác thời tìm uống nước mưa, người chết thời lấy cỏ bọc lại, đêm ném ra ngoài gò cho chim thú ăn. Sau có một người Hiếu Tử không nở để cho chim thú ăn thịt Cha Mẹ mình mới phát minh cái ná để giữ. Ở vào thời ấy chỉ có hai Phương Nam Bắc. Nam xuất hiện Viêm Đế Thần Nông. Bắc xuất hiện Viên Hiên, Phục Hi. Từ Ná nghiên cứu ra Cung, từ Cung nghiên cứu ra Nỏ để dẹp loạn bốn phương.

Câu Tiễn nghe Trần Am Nguyên nói cung, nỏ xuất xứ làu thông như thế liền giao cho Trần Âm Nguyên luyện tập ba nghìn quân binh truyền dạy nghề bắn nỏ, bắn cung đội quân xạ thủ thiện nghệ.

Trần Am Nguyên dạy phép “liên nỏ, liên cung” bắn luôn ba mũi tên không ai tránh kịp, trong ba tháng thời quân sĩ học được hết phép bắn cung, bắn nỏ. Trần Am Nguyên dạy xong phép xạ tiễn lâm bệnh mà chết. Câu Tiễn làm lễ hậu tán ở núi, mới đặc cái tên núi ấy là núi Trần Am Sơn.

Ngũ Viên cho người dò biết Câu Tiễn ngày đêm luyện tập quân binh không ngừng nghĩ liền vào yết kiến Phù Sai khóc mà tâu rằng:

Đại Vương cứ tin nước Việt một lòng thần phục nước Ngô. Nay nước Việt dùng Phạm Lãi, ngày đêm luyện tập quân binh, các nghề kiếm, nỏ, đao, thương, giáo, cung đều tài giỏi cả. Một mai nhân chuyện gì mà sang đánh nước ta thời nước ta nguy lắm. Nếu Đại Vương không tin sao không cho người dọ thám xét xem.

Phù Sai liền cho người sang dọ thám nước Việt, người ấy biết hết những việc Xử Nữ và Trần Am, về báo với Phù Sai.

Phù Sai bảo Bá Hi rằng:

Việt đã thần phục ta rồi, sao còn luyện tập quân binh làm gì nữa?

Bá Hi nói:

Nước Việt đội ơn Đại Vương trả hết đất lại cho Việt Trung Nguyên, nếu không có quân sĩ thời lấy gì mà giữ là việc thường can chi mà Đại Vương lo ngại.

Phù Sai luôn trong lòng thấy lo muốn khởi binh đánh Việt.

* * *



PHẦN 32

Đây nói về nước Lỗ sắp bị nước Tề thôn tính Khổng Tử liền sai Tử Cống đi gấp sang Ngô vào tâu với vua Ngô Phù Sai rằng:

Khi trước Ngô hợp quân Lỗ đánh Tề. Nước Tề tuy thua nhưng vẫn căm thù lắm. Nay quân Tề tiến quân đã đóng ở Vân Thủy sắp sang đánh Lỗ, rồi cũng sẽ đánh Ngô sao Đại Vương không đánh Tề để cứu Lỗ. Đại Vương mà phá tan Quân Tề thu phục được nước Lỗ thời uy danh lừng lẫy hơn cả Tấn, chắc là nước Ngô nên nghiệp Bá.

Phù Sai nói:

Khi nước Tề đã tình nguyện xin thần phục nước Ngô. Vì thế Ta mới rút quân về. Nhưng từ đó đến nay chẳng thấy triều cống gì cả, ta vẫn định đêm quân hỏi tội. Nhưng nghe nói vua Việt ra sức luyện tập quân sĩ có ý rình ta, nên ta muốn đánh Việt trước, rồi sau sẽ đánh Tề, cũng chưa lấy gì làm muộn.

Tử Cống nói:

Không nên. Việt yếu mà Tề mạnh. Cái lợi đánh Việt nhỏ mà cái hại thả Tề thời to. Vả chăng sợ nước Việt yếu mà tránh đánh Tề mạnh. Thời sao gọi là trí và dũng đều mất cả hai thời tranh thế nào được nghiệp Bá. Nếu Đại Vương có ngại nước Việt thời tôi xin sang báo vua Việt đem quân theo hầu Đại Vương đi đánh Tề Đại Vương nghĩ thế nào?

Phù Sai bằng lòng mà nói rằng:

Nếu như thế thời chính hợp ý ta.

Tử Cống cáo từ Phù Sai rồi sang yết kiến vua Việt là Câu Tiễn. Câu Tiễn nghe nói Tử Cống sắp đến thời lấy làm kinh ngạc âu đây cũng là dịp mau cho mình vì Tử Cống là học trò giỏi của Khổng Tử, liền thân hành ra đón ngoài ba mươi dặm, mời vào công quán, tiếp đãi rất hậu.

Khúm núm hỏi rằng:

Nước tôi hẻo lánh về xứ đông hải, tiên sinh không ngại đường xa mà đến đây chẳng hay có điều chi dạy bảo?

Tử Cống nói:

Tôi đến đây để viếng Đại Vương.

Câu Tiễn nghe Tử Cống nói thế liền sụp lạy mà nói rằng:

Tôi nghe nói Họa với Phúc là láng giềng với nhau. Tiên sinh đến đây viếng tôi là phúc báo cho tôi đó, xin tiên sinh dạy bảo cho biết.

Tử Cống nói:

Mới rồi tôi vào yết kiến vua Ngô, bảo vua Ngô đánh Tề cứu Lỗ. Vua Ngô nghi nước Việt có âm mưu phản, vậy nên muốn đánh Việt trước. Nếu Đại Vương không có chí báo thù mà khiến cho người ta nghi thời vụng lắm. Nếu có chí báo thù mà khiến cho người ta biết thời thật là nguy lắm.

Câu Tiễn ngạc nhiên quì xuống mà nói rằng:

Xin tiên sinh nghĩ cách mưu cứu cho.

Tử Cống nói:

Vua Ngô kiêu ngạo mà ưa nịnh. Bá Hi chuyên quyền mà khéo gièm. Nay Đại Vương dùng đồ lễ hậu và lời nói ngọt, rồi xin đem một toán quân theo Ngô đánh Tề, kẻ kia đánh mà thua thời từ đó suy yếu đi. Nếu đánh mà được tất sinh lòng kiêu ngạo, muốn làm bá chủ chư hầu, chắc phải đem quân đánh Tấn. Như thế thời nước Việt mới có dịp mà thừa thế sang đánh Ngô phần thắng ắt nắm chắc trong lòng tay.

Câu Tiễn nghe xong quỳ lạy hai lạy mà nói rằng:

Tiên Sinh đến đây, thật là trời giúp cho tôi, khác nào như tôi đã chết mà lại được sống lại. Tôi xin vâng lời tiên sinh.

Câu Tiễn bằng đem trăm nén hoàng kim, một thanh bảo kiếm và đôi ngựa tốt đưa tặng Tử Cống. Tử Cống khéo từ chối, trở về báo với vua Ngô rằng:

Vua Việt cảm ơn Đại Vương sinh toàn cho, nghe nói Đại Vương có bụng nghi, lấy làm sợ hãi lắm, nay mai sắp sai sứ đến tạ.

Phù Sai mời Tử Cống ra công quán, ở lại trong năm ngày. Quả nhiên nước Việt sai Văn Chủng đến nước Ngô, tâu với Phù Sai rằng:

Kẻ bề tôi hèn Việt Trung Nguyên đông hải là Câu Tiễn đội ơn Đại Vương không giết, cho được sống để giữ việc cúng tế, dẫu chết cũng chưa đủ đền ơn. Nay nghe nói Đại Vương vì nghĩa lớn mà đánh kẻ mạnh, cứu kẻ yếu. Vậy có sai tôi là Văn Chủng đem hai mươi chiếc tinh giáp, một cái mâu khuất lư, và một thanh kiếm. Bộ quang của Tiên Vương để lại sang dâng Đại Vương. Khi nào Đại Vương cất quân thời Câu Tiễn xin đem ba nghìn quân dốc lòng dốc sức vì Đại Vương xông pha trong chốn gươm, đao, tên, giáo, dẫu chết cũng vui lòng.

Phù Sai nghe xong lấy làm vừa lòng mới triệu Tử Cống vào mà bảo rằng:

Câu Tiễn thật là người tín nghĩa. Hắn định đem ba nghìn quân theo ta đánh Tề, tiên sinh nghĩ thế nào?

Tử Cống nói:

Không nên. Ta đã dùng quân Việt mà lại cho vua Việt đi theo thời cũng quá lắm. Đại Vương nên nhận cho quân Việt theo từ chối không cho Vua Việt đi.

Phù Sai nghe lời. Tử Cống cáo từ nước Ngô lại đi sang nước Tấn, vào nói với Tấn Định Công rằng:

Tôi nghe nói. Hễ không lo xa thời tất có hại gần. Nay Ngô sắp sửa đánh Tề. Ngô mà đánh được Tề, tất cùng Tấn tranh hùng với nhau làm Bá Chủ, nhà vua nên luyện tập quân sĩ để mà đợi sẵn.

Tấn Định Công nói:

Xin vâng lời dạy.

Khi Tử Cống trở về nước Lỗ thời quân Tề đã bị quân Ngô đánh thua rồi.

Lúc bấy giờ Phương Nam là năm thứ 30 đời Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang. Phương Bắc là năm thứ 36 đời Chu Kinh Vương. Vua Việt Vương Câu Tiễn sai quan đại phu là Chư Kế Dĩnh đem ba nghìn quân giúp Ngô đánh Tề. Vua Ngô là Phù Sai thống 20 vạn quân đi đánh Tề. Cho người lập biệt quán ở đất Câu Khúc xung quanh trồng Ngô Đồng, mùa thu gọi là Ngô Cung cho Tây Thi ra nghỉ mát ở đấy đợi khi thắng Tề, thời Phù Sai cũng về nghĩ ở đấy cho qua mùa hạ.

Khi quân Ngô sắp khởi hành, Ngũ Viên lại can rằng:

Nước Việt chính là cái mối lo cho nước Ngô ta, còn nước Tề chẳng qua chỉ là bệnh ghẻ lở bên ngoài da mà thôi. Nay Đại Vương đem 20 vạn quân đi nghìn dặm đường, để chữa cái bệnh ghẻ lở, mà quên cái bệnh trong ruột vua Việt sắp thôn tính nước ta, tôi e rằng chưa thắng được Tề, mà đã phải mất nước Ngô.

Quan Thái Tuế là Bá Hi bằng trách Ngũ Viên, cãi nhau với Ngũ Viên về vấn đề Việt. Nhân đấy Bá Hi gièm pha Ngũ Viên nói:

Ngũ Viên bên ngoài có vẻ trung, nhưng thâm tâm là con người tàn nhẫn. Con người đã chẳng đoái thương gì đến Cha và Anh thì còn thương tiếc gì đến vua? Trước đây nhà Vua muốn đánh nước Tề, Ngũ Viên ra sức can ngăn, kết quả là đánh thành công. Do đó sinh ra oán hận. Nếu nhà Vua không đề phòng thời Ngũ Viên sẽ làm loạn.

Bá Hi mưu với Phùng Đồ ra sức gièm pha Ngũ Viên lúc đầu vua Ngô không nghe, nhưng sau đó vua Ngô thấy Ngũ Viên như cái gai trong mắt muốn nhổ đi.

Nói về vua Ngô chuẩn bị xuất quân đánh Tề. Thời Ngũ Viên lại khuyên can nữa:

Đại Vương nhất định nuôi kẻ thù trong bụng mà đánh kẻ thù ngoài da sao thế thời nước Ngô nguy mất.

Phù Sai nổi giận mà nói rằng:

Ta định ngày xuất quân mà lão tặc dám đem lời quái gở trù mạt nước Ngô cũng như ngăn trở quân ta, nghĩ có đáng tội không?

Lúc bấy giờ Phù Sai đã có ý giết Ngũ Viên. Bá Hi mật tâu với Phù Sai rằng:

Ngũ Viên là bậc lão thần đời trước, ta không nên giết, chi bằng Đại Vương sang ước chiến với Tề, để cho người Tề giết đi, không phải là tốt đẹp hay sao?

Phù Sai nói:

Quan Thái Tể nói phải lắm.

Phù Sai liền viết một bức thư kể tội nước Tề đánh Lỗ là khinh Ngô, sai Ngũ Viên đưa sang vua Tề. Mượn tay vua Tề giết Ngũ Viên. Ngũ Viên biết Phù Sai muốn giết mình cũng như biết nước Ngô sắp mất về tay nước Việt. Bằng đem người con là Ngũ Phong cùng đi. Khi đến Lâm Tri Ngũ Viên đem bức thư của Phù Sai dâng lên Tề Giản Công. Tề Giản Công nổi giận, toan chém Ngũ Viên.

Bảo Tức can rằng:

Ngũ Viên là Trung Thần nước Ngô, đã nhiều lần can ngăn vua Ngô không nên tin nước Việt. Vua ngô không những không nghe mà còn muốn loại bỏ Ngũ Viên. Mục đích vua Ngô sai Ngũ Viên sang đây là mượn dao giết người. Muốn mượn tay Ta giết Ngũ Viên để khỏi mang tiếng là giết Trung Thần. Chi bằng ta tha cho về, khiến cho bọn trung, bọn nịnh công kích lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau mà Phù Sai phải chịu tiếng ác.

Tề Giản Công tiếp đãi Ngũ Viên tử tế, rồi hẹn đến cuối mùa xuân thời khai chiến. Nguyên Ngũ Viên cùng với Bảo Mục quen nhau, cho nên Bảo Tức can Tề Giản Công không giết Ngũ Viên.

Bảo Tức hỏi riêng Ngũ Viên về việc nước Ngô. Ngũ Viên ứa nước mắt mà không nói gì cả, chỉ cho con là Ngũ Phong nhận làm em Bảo Tức, rồi gửi ở đấy cải tên đổi họ thành Vương Tôn Phong không dùng họ Ngũ nữa.

Bảo Tức thở dài mà nói rằng:

Ngũ Viên định về cố can mà chịu chết, cho nên mới để con ở lại nước Tề đây.

Lại nói về vua Ngô là Phù Sai hẹn ngày xuất quân, cùng quân Việt. Đi qua Cô Tô đài ăn cơm trưa ở đấy. Ăn cơm xong thời chợp mắt ngủ đi chiêm bao thấy vào Chương Minh cung. Khi vào đến nơi, thấy hai cái nồi đun chưa chín. Lại có hai con chó đen, một con sủa về phía Nam, một con sủa về phía Bắc. Lại có hai cái cuốc bằng gang, cắm trên tường. Lại thấy nước chảy cuồn cuộn vào chốn điện đường. Còn về hậu phòng thời nghe tiếng ầm ầm chẳng ra chuông, chẳng ra trống. Trông ra phía vườn trước, chẳng thấy cây gì khác cả, chỉ toàn là giống Ngô Đồng, khi giật mình tỉnh dậy.

Phù Sai trong lòng hốt hoảng mới gọi Bá Hi vào kể lại tất cả nói rằng:

Quan Thái Tuế thử đoán hộ ta tốt xấu thế nào?

Bá Hi sụp lạy mà chúc mừng rằng:

Tốt thay. Giấc mộng của Đại Vương ứng vào việc đánh Tề nầy. Hai chữ Chương Minh. Nghĩa là phá giặc thành công tiếng tăm lừng lẫy. Hai cái nồi đun mà chưa chín, nghĩa là khí thế Đại Vương đang hưng thịnh. Hai con chó đen, một con sủa phía Nam. Một con sủa phái Bắc có nghĩa là Phía Nam – Phía Bắc các nước phải thần phục nước ta. Hai cái cuốc cắm ở trên tường nghĩa là dân thợ, dân cày chăm làm ruộng. Nước chảy cuồn cuộn và chốn điện đường nghĩa là các nước Nam Bắc đem đồ triều cống nhiều. Nơi hậu phòng nghe tiếng ầm ầm chẳng ra chuông chẳng ra trống nghĩa là cung nữ vui vẻ. Trông ra phía vườn trước toàn là một giống Ngô Đồng nghĩa là đem thứ gỗ cây Ngô Đồng ấy làm đàn cầm, đàn sắt thời tiếng kêu rất êm ái. Mộng của Đại Vương tốt không biết dường nào mà kể.

Phù Sai dẫu ưa lời nịnh nhưng nghe nhiều chỗ không hợp lý, bằng hỏi Vương Tôn Lạc.

Vương Tôn Lạc nói:

Tôi dốt không biết đoán mộng, nhưng ở núi Dương Sơn về phía Tây thành có một người dị sĩ, tên gọi Công Tôn Thánh. Người ấy học rộng lắm nếu Đại Vương còn hồ nghi, sao không triệu đến mà bảo đoán xem.

Phù Sai nói:

Nhà ngươi triệu đến đây cho ta.

Vương Tôn Lạc liền đi triệu Công Tôn Thánh. Công Tôn Thánh hỏi cớ, nghe Vương Tôn Lạc nói rõ lý do là quan Thái Tể Bá Hi đã đón mộng rồi nhưng vua Ngô chưa tin nên triệu mình đến giải rõ cơn mộng có trùng hợp lời nói Bá Hi không. Công Tôn Thánh phục xuống đất mà khóc.

Người vợ đứng cạnh thấy vậy cười bảo:

Phu Quân dở hơi quá. Được vua triệu đáng lý ra phải mừng sao lại khóc như mưa?

Công Tôn Thánh thở dài mà nói rằng:

Thương thay việc nầy nàng không biết được đâu, ta đã tính số ta đến ngày nay là hết. Bây giờ ta phải vĩnh biệt với nàng cho nên ta thương khóc đó.

Vương Tôn Lạc giục Công Tôn Thánh lên xe, cùng đến Cô Tô đài. Phù Sai triệu Công Tôn Thánh vào, rồi nói chuyện chiêm bao biểu đoán mộng cho nghe.

Công Tôn Thánh nói:

Tôi biết nói thời tất chết, nhưng dẫu chết cũng phải nói giấc mộng của Đại Vương. Ứng vào đánh Tề lần nầy. Chữ “Chương” có nghĩa là thua chạy vất vả. Chữ “Minh” nghĩa là về nơi Âm Ti. Hai cái nồi đun mà chưa chín nghĩa là Đại Vương thua chạy “không kịp nấu ăn”. Hai con chó đen, một con sủa về Nam, một con sủa về Bắc nghĩa là phải chạy về Âm Phương “vì âm thuộc về sắc đen”. Hai chiếc cuốc bằng gang cắm trên tường nghĩa là quân Việt Trung Nguyên vào cày cuốc nền xã tắc nước Ngô. Nước chảy cuồn cuộn vào chốn điện đường nghĩa là chốn điện đường bỏ không, nước trôi sóng vỗ. Nơi hậu cung nghe tiếng ầm ầm chẳng ra chuông chẳng ra trống nghĩa là cung phi mỹ nữ bị bắt, thở vắn than dài. Trông ra phía sau vườn toàn là một giống Ngô nghĩa là đem gỗ cây Ngô Đồng làm đồ tống táng. Xin Đại Vương bãi đánh Tề đi và sai Quan Thái Tể là Bá Hi sang tạ tội với Câu Tiễn thời nước mới yên mà thân mới toàn được.

Bá Hi đứng ở cạnh tâu với Phù Sai rằng:

Đứa thất phu ở nơi thảo dã, lại dám ăn nói càn rỡ, chẳng giết còn để làm gì.

Công Tôn Thánh trừng mắt mà mắng Bá Hi rằng:

Quan Thái Tể quyền cao chức trọng, lộc nước cơm vua mà chẳng hết lòng trung thành, lại cứ giữ lối dua nịnh. Ngày kia quân Việt diệt Ngô, Quan Thái Tể có còn giữ được cái đầu hay không?

Phù Sai nghe hai người cãi lộn nói:

Đứa thất phu không có kiến thức gì, chỉ một mực nói càn, không giết thời lời nói nầy sẽ làm mê hoặc lòng người làm hại nước Ngô ta.

Nói xong truyền cho lực sĩ đem cái dùi sắt đánh Công Tôn Thánh. Công Tôn Thánh kêu to lên rằng:

Trời ơi trời có thấu cho nỗi oan tình nầy cho tôi không? Trung mà bị tội thật là chết oan. Sau khi tôi chết. Xin chớ mai táng quăng thây tôi ở dưới núi Dương Sơn, sau nầy còn làm vang cái bóng để báo Đại Vương.

Phù Sai đánh chết Công Tôn Thánh, mới sai người quăng thây dưới núi Sơn Dương mà kể tội rằng:

Giống sài lang ăn thịt mầy, lửa đốt xương mầy, gió bay tro mầy, hình tiêu ảnh diệt còn đâu là vang bóng để báo được ta.

Bá Hi rót chén rượu dâng lên mà chúc mừng rằng:

Mừng thay Đại Vương đã trừ được giống yêu quái, xin cạn một chén rượu nầy, rồi sẽ phát binh.

Trung quân thời Phù Sai và Bá Hi. Thượng quân thời Tư Môn Sào. Hạ quân thời Tào Cô, thống lĩnh 20 vạn quân cùng ba nghìn quân Việt. Di chuyển thẳng về phía Sơn Đông. Phù Sai sai sứ sang hội ước với Lỗ Ai Công để hợp quân đánh Tề. Ngũ Viên đem lời hẹn của Tề Giản Công báo với Phù Sai ở ngang đường rồi cáo ốm mà về trước, không theo đi đánh Tề.

* * *
 

PHẦN 33

Lại nói về tướng nước Tề là Quốc Thư đóng quân ở bến sông vấn, nghe tin Ngô và Lỗ hợp quân đến đánh, liền hợp các tướng lại để thượng nghị. Bỗng nghe báo quan tướng quốc là Trần Hằng sai em là Trần Nghịch đến. Quốc Thư và các tướng mời vào.

Trần Nghịch nói:

Quân đã kéo sang đất Doanh Bác, việc nguy cấp đến nơi quan tướng quốc sợ các tướng không chịu cố sức, vậy sai tiểu tướng đến đây để đốc chiến. Cứ như việc ngày nay có tiến không thoái, có chết không sống. Trong quân chỉ có đánh trống, cấm không cho đánh chiêng.

Các Tướng đều nói:

Chúng tôi xin liều chết để quyết chiến.

Quốc Thư truyền lệnh cất quân đi đón đánh Ngô. Đi đến Ngải Lăng, gặp toán thượng quân của nước Ngô là tư Mao Sào.

Quốc Thư hỏi:

Ai dám đối địch?

Công Tôn Huy hớn hở xin đi, rồi đem quân đi nghinh chiến. Hai bên đánh nhau hơn ba mươi hiệp, chưa phân được thua. Quốc Thư thống lĩnh quân binh từ cánh tả xông vào. Tiếng trống như sấm. Tư Môn Sào bị hai mũi quân Tề tấn công không thể địch nổi phải bỏ chạy.

Quốc Thư thắng trận, càng thêm hăng hái, truyền cho quân sĩ mỗi khi ra trận, phải đem theo một cái thừng dài mà bảo rằng:

Tục nước Ngô đều húi tóc cả, ta lấy cái thừng để mà xâu đầu.

Quân Tề nhao nhao như điên cuồng cho là sắp phá được quân Ngô. Tư Môn Sào đem bại binh về yết kiến Phù Sai. Phù Sai nổi giận toan chém Tư Môn Sào.

Tư Môn Sào nói:

Tôi mới ra trận chưa biết hư thực thế nào, cho nên bị thua. Nếu đánh một trận nữa mà không thắng, bấy giờ xin chịu tội chết.

Bá Hi cũng cố xin hộ cho. Phù sai đuổi Tư Môn Sào ra, rồi giao đạo quân binh thượng quân cho Đại Tướng là Triển Như. Gặp có tướng Lỗ là Thúc Tôn Châu Cừu đem quân đến giúp. Phù Sai đưa ra một thanh kiếm và một bộ áo giáp, sai làm hướng đạo, đóng quân ở cách Ngãi Lăng năm dặm.

Quốc Thư sai người đưa chiến thư đến. Phù Sai hẹn đến ngày hôm sau. Hôm sau Phù Sai sai Thúc Tôn Châu Cừu bày trận thứ nhất. Triển Như bày trận thứ hai. Tào Cô bày trận thứ ba.

Tư Môn Sào đem ba nghìn quân Việt đi lại để dụ địch. Còn mình cùng Bá Hi thống lĩnh đại binh đóng nơi gò cao mà tùy cơ ứng biến. Lại cho tướng nước Việt là Chư Kế Dĩnh theo ở bên cạnh để cùng xem đánh. Quân Tề đã bày trận xong, Trần Nghịch cùng với các tướng đều ngậm ngọc. Mà bảo cùng nhau rằng ai chết thời đêm liệm ngay.

Công Tôn Hạ và Công Tôn Huy bắt quân sĩ hát bài ca tống tán, và cùng thề với nhau rằng:

Hể ai còn sống mà về thời không phải là liệt sĩ trượng phu.

Quốc Thư nói:

Các Tướng, Sĩ mà quyết đánh thời nhất định phải thắng quân Ngô nhất định tan tác tơi bời.

Hai bên bày trận xong. Tư Môn Sào ra khiêu chiến. Quốc Thư bảo Công Tôn Huy rằng:

Viên bại tướng trong tay ngươi đó, nhà ngươi nên ra mà bắt lập công đầu hạ nhuệ khí quân Ngô xuống.

Công Tôn Huy thúc quân binh phi ngựa lao ra múa kích đâm Tư Môn Sào. Tư Môn Sào đánh trả hai bên đánh nhau dữ dội. Tư Môn Sào bỏ chạy, Công Tôn Huy phi ngựa thúc quân binh đuổi theo chém quân Việt. Thúc Tôn Châu Cừu thúc quân binh ra đón đánh Công Tôn Huy. Tư Môn Sào thúc quân binh quay trở lại khiêu chiến. Quốc Thư lại sai Công Tôn Hạ ra đánh. Hai bên đánh với nhau dậy trời dậy đất. Tư Môn Sào lại bỏ chạy, Công Tôn Hạ phi ngựa thúc quân binh rượt đuổi theo chém giết. Đại Tướng nước Ngô là Triển Như thúc quân binh chận đánh Công Tôn Hạ. Tư Môn Sào thúc quân quay trở lại khiêu chiến. Tướng nước Tề là Cao Vô Bình và Tôn Lâu đem quân ra đánh. Tướng Ngô là Tào Cô một mình đánh nhau với hai tướng nước Tề mà chẳng sợ hãi một chút nào cả. Hai bên xáp chiến, chiến trường thây phơi khắp lối.

Thơ rằng:

Văn hóa phương Bắc là thế đây

Tranh hùng tranh bá chẳng nương tay

Kể chi đồng loại tàn sát giết

Máu đổ đầu rơi thảm thê thay.

Lại nói về Quốc Thư thấy quân Ngô không lui, bèn cầm dùi đánh trống để thúc đại binh tiến vào. Phù Sai đứng trên gò cao, trông thấy quân Tề hăng hái. Quân đã dần dần kém thế. Liền sai Bá Hi đem ba vạn quân xuống tiếp ứng.

Quốc Thư trông thấy quân Ngô lại kéo đến, đã toan chia quân ra đối địch, bỗng nghe tiếng chiêng dậy đất. Quân Tề tưởng là quân Ngô định lui, chẳng ngờ Phù Sai thống lĩnh 10 vạn tinh binh chia làm ba đạo quân chủ lực lấy tiếng chiêng làm tiếng quân, theo lối tắc xông vào trận địa tấn công quân Tề như vũ bão. Làm cho quân Tề đứt ra làm ba ngả. Bọn Triển Như và Tào Cô nghe nói Phù Sai lâm trận càng thêm hăng hái đánh quân Tề thất điên bát đảo. Triển Như bắt sống được Công Tôn Hạ. Tư Môn Sào đâm chết Công Tôn Huy. Phù Sai bắn trúng Tôn Lâu.

Lư Khâu bảo Quốc Thư rằng:

Quân Tề chết gần hết rồi, ngài nên đổi y phục trốn đi rồi sau sẽ liệu kế.

Quốc Thư thở dài mà nói rằng:

Ta cầm gần 20 vạn quân Tề mà bị nước Ngô đánh bại, còn mặt mũi nào mà về triều nữa.

Quốc Thư nói xong, liền cởi bỏ áo giáp xông vào trong đám quân Ngô bị quân Ngô đâm chết. Lư Khâu Minh núp trong đám cỏ cũng bị tướng nước Lỗ là Thúc Tôn Châu Cừu bắt được. Phù Sai phá tan quân Tề, các tướng hiến công, chém được tướng nước Tề là Quốc Thư và Công Tôn Huy. Bắt sống được Công Tôn Hạ và Lư Khâu Minh cũng đem chém nốt. Chỉ có Cao Vô Bình và Trần Nghịch hai người trốn thoát mà thôi, còn người khác hoặc bị chém hoặc bị bắt không biết bao nhiêu mà kể.

Phù Sai hỏi Chư Kế Dĩnh rằng:

Nhà ngươi xem quân Ngô cường dũng so với quân Việt thế nào?

Chư Kế Dĩnh sụp lạy mà tâu rằng:

Quân Ngô cường dũng khắp thiên hạ không nước nào địch nổi, huống chi là nước Việt vốn dĩ yếu hèn xưa nay.

Phù Sai bằng lòng với câu trả lời của Chư Kế Dĩnh. Bằng trọng thưởng cho quân Việt. Sai Chư Kế Dĩnh về trước báo tin thắng trận cho Câu Tiễn biết. Tề Giản Công vô cùng lo sợ cùng với Trần Hằng và Hàm Chỉ thượng nghị đầu hàn nước Ngô. Rồi sai sứ đem thật nhiều lễ vật sang lễ lạy Phù Sai.

Phù Sai bảo nước Tề và nước Lỗ giảng hòa giao hiếu với nhau, không được gây hấn chiến tranh nữa. Nước Tề và nước Lỗ đều vâng mệnh cả. Phù sai rút quân về đến Ngô Cung ở Câu Khúc và nói với Tây Thi rằng:

Ta để Mỹ Nhân ở đây là muốn cho được chóng mặt.

Tây Thi sụp lạy và chúc mừng bấy giờ gió thu mát mẻ Phù Sai và Tây Thi đi lên trên đài uống rượu rất vui, đến đêm khuya xa xa có tiếng lũ trẻ hát.

Lá đồng gặp mùa lạnh

Vua Ngô tỉnh, chưa tỉnh

Lá ngô đang mùa thu

Vua Ngô sầu, lại sầu.

Phù Sai không bằng lòng sai người bắt lũ trẻ đến mà hỏi rằng:

Ai dạy chúng bây hát câu ấy?

Lũ trẻ nói:

Có một đứa trẻ áo đen, không biết ở đâu đến dạy bài hát như thế.

Phù Sai nổi giận nói rằng:

Ta đây tự trời sinh ra, có Thần Thánh ủng hộ, khi nào lại sầu.

Phù Sai toan giết lũ trẻ. Tây Thi cố xin mãi mới thôi.

Bá Hi tâu rằng:

Xuân đến thời muôn vật vui, thu đến thời muôn vật sầu, đó là Đạo Trời. Đại Vương lúc vui lúc sầu cũng là chuyện thường tình hợp lẽ trời còn lo gì nữa.

Phù Sai ở Ngô Cung ba ngày rồi mới về kinh thành. Các quan triều thần đều vào chúc mừng. Ngũ Viên cũng đến không nói gì cả.

Phù Sai trách Ngũ Viên rằng:

Quan tướng quốc can ta không nên đánh Tề, nay ta thắng được Tề trở về, quan tướng quốc không có công gì cả, tưởng cũng nên hổ thẹn.

Ngũ Viện giận lắm, vùng vằng buông thanh kiếm xuống mà tâu rằng:

Trời định làm mất nước cho điều mừng nhỏ, rồi mới giáng họa to lớn. Việc thắng Tề chẳng qua là điều mừng nhỏ tôi e rằng sắp có điều họa lớn đến nơi.

Phù Sai tức giận nói rằng:

Đã lâu không gặp quan tướng quốc, tai ta được im lắng dễ chịu, nay lại đến kể lễ rầy rà hay sao?

Phù Sai nói xong bưng tai nhắm mắt ngồi trên điện một lúc bỗng trừng mắt mà quát to lên rằng:

Quái Lạ.

Các quan tâu rằng:

Đại Vương thấy gì?

Phù Sai nói:

Ta trông thấy bốn người tựa lưng nhau rồi mỗi người chạy về một phía. Lại thấy dưới điện có hai người đứng đối nhau. Người ngoảnh mặt phía Bắc giết người ngoảnh mặt phía Nam. Các ngươi có trông thấy như thế không?

Các quan đều nói:

Chúng thần không nhìn thấy gì cả.

Ngũ Viên tâu rằng:

Bốn người chạy về bốn phía, nghĩa là bốn phương ly tán. Người ngoảnh mặt phía Bắc giết người ngoảnh mặt phía Nam nghĩa là kẻ dưới làm hại người trên, bề tôi giết vua. Nếu Đại Vương không biết tu tỉnh thời tất có ngày hại thân mất nước.

Phù Sai nổi giận nói:

Tướng quốc điềm gở như vậy ta không muốn nghe.

Bá Hi nói:

Bốn phương ly tán, nghĩa là bốn phương chạy đến phục dịch trước sân Ngô. Nước Ngô ta làm Bá Chủ, sắp có cơ thay Nhà Chu, ấy cũng là cái điềm Bề Tôi phạm đến vua đó.

Phù Sai nói:

Quan Thái Tể nói một lời làm cho lòng ta mở rộng. Tướng quốc thời già nua lắm rồi, chẳng nói được câu nào như thế cả.

Mấy hôm sau vua Việt là Câu Tiễn đem bề tôi nước Việt thân hành đến nước Ngô mục đích là nắm rõ tình nước Ngô cũng như đường tiến quân đánh Ngô đội lớp là thân hành đến nước Ngô chúc mừng Phù Sai thắng trận. Đối với các quan nước vua Việt đều có quà biếu cả.

Bá Hi nói:

Thế là bốn phương phải phục dịch trước sân Ngô đó.

Phù Sai bày tiệc ở trên vân đài. Câu Tiễn ngồi hầu. Các quan đại phu đều đứng hầu bên cạnh Phù Sai nói:

Vua không quên người bề tôi có công, Cha không quên người con có công. Nay quan Thái Tể là Bá Hi vì ta luyện tập binh sĩ có công ta dự định thưởng cho làm thượng khanh. Vua Việt thờ ta như Cha, một lòng hiếu thuận. Ta cũng định trả hết đất đã chiếm đóng trước đây lại còn phong thêm cho đất biên giới mở rộng đất đai Nước Việt Trung Nguyên để trả công lao giúp ta, các quan đại phu nghĩ thế nào?

Các quan đại phu đều nói:

Đại Vương thưởng công cho kẻ khó nhọc đó là quyền của Bá Vương.

Ngũ Viên sụp lạy xuống đất khóc mà tâu rằng:

Than ôi, thương thay. Người trung bịt miệng, lũ nịnh nâng tay trái làm cho phải, gian tưởng là ngay. Có một ngày kia diệt nước Ngô nầy miếu tổ tông tàn phá cung điện đầy gai.

Phù Sai nghe xong nổi trận lôi đình:

Lão tặc gian trá, làm tai làm quái, chỉ muốn chuyên quyền để hại nước Ta. Ta nghĩ đến Tiên Vương, mà không nở giết, cho về mà tự xử lấy, đừng trông thấy mặt ta nữa.

Ngũ Viên nói:

Lão thần nầy nếu bất trung bất tín, thời đã chẳng được làm tôi cho Tiên Vương. Nay khác nào như Long Bàng gặp vua Kiệt. Tỉ Can gặp vua Trụ. Tôi dẫu bị giết nhưng Đại Vương cũng khó mà toàn. Tôi xin từ đây vĩnh biệt không trông thấy mặt Đại Vương nữa.

Ngũ Viên nói xong tức khắc lui ra trở về nhà. Phù Sai vẫn chưa nguội cơn giận.

Bá Hi nói:

Tôi nghe nói khi trước Ngũ Viên sang sứ nước Tề, có đem con gửi cho họ Bảo, thế là có ý muốn phản lại Ngô, Đại Vương nên xét kĩ.

Phù Sai nghe xong cả giận nói:

Quả thật Ngũ Viên lừa dối quả nhân, muốn làm phản.

Bèn sai người tới nhà Ngũ Viên trao cho Ngũ Viên thanh kiếm Chúc Lâu để tự sát Ngũ Viên cầm lấy thanh kiếm cười lớn một hồi rồi than rằng:

Đại Vương muốn giết ta đây.

Ngũ Viên nói xong liền chạy ra đứng trước giữa sân mà kêu to lên rằng:

Trời ơi là trời. Ta làm cho nhà ngươi nên nghiệp Bá, ta lại lập nhà ngươi lên ngôi, lúc đầu nhà ngươi muốn chia một nửa nước Ngô cho ta, nhưng ta không nhận. Bây giờ ngươi lại nghe lời gièm pha mà giết ta. Ta vì mầy mà phá Sở, ta vì mầy mà đánh Việt, khiến cho uy danh lừng lẫy khắp chư hầu. Than ôi, con người cô độc một mình không thể nào đứng được. Nay mầy không nghe theo lời can gián của Ta. Lại bắt ta chết. Ta chết ngày nay, thời mai đến lượt ngươi. Quân Việt Trung Nguyên đến đào bới xã tắc nước Ngô ngươi đó.

Ngũ Viên bảo với người nhà rằng:

Khi ta chết rồi, các ngươi phải khoét mắt ta mà treo ở cửa Đông để ta được xem quân Việt kéo vào.

Nói xong Ngũ Viên tự đâm cổ mà chết.

Nội thị đêm thanh kiếm về tâu với Phù Sai và thuật lại những lời nói của Ngũ Viên. Ngũ Viên trong khi gần chết thời Phù Sai thân hành đến xem thi thể rồi nói rằng:

Ngũ Viên mầy đã chết rồi thời có biết gì nữa.

Phù Sai lại truyền cắt thủ cấp Ngũ Viên đem treo ở cửa Bàn Môn, còn thi thể thời bỏ vào cái bao da ngựa, sai người quăng xuống khúc sông tiền đường mà bảo rằng:

Nhật nguyệt cháy xương mầy, thuồng luồng ăn thịt mầy. Hình thể mầy tiêu diệt. Phỏng có còn gì không.

Thi thể Ngũ Viên theo dòng sông trôi đi sóng đánh dạt vào bờ. Dân ở đấy sợ hãi bảo nhau vớt lên, đêm chôn ở núi Ngô Sơn. Phù Sai giết Ngũ Viên rồi, mới phong cho Bá Hi làm tướng quốc. Câu Tiễn trở về Việt Trung Nguyên, càng dốc lòng nghĩ mưu đánh Ngô.

* * *
 

PHẦN 34

Nói về Câu Tiễn dốc lòng mưu nghĩ đánh Ngô. Thế mà Phù Sai chẳng để ý gì đến. Càng ngày càng kiêu căng phóng túng. Ăn chơi trác tán mấy mấy vạn dân đi đắp Hàn Thành đào một cái kênh ở phía Đông Nam xuyên sang Tây Bắc, khiến nước Sông Trường Giang, chảy vào Sông Nghị, rồi thông sang Sông Tề. Thế Tử Hữu biết ý Phù Sai muốn hội thông Nam Bắc Sơn Đông gắng liền với Việt Trung Nguyên trở thành thời đại mới Trung Quốc. Thời đại thay thế Nhà Chu. Thế Tử Hữu muốn can ngăn nhưng lại sợ Phù Sai giận, mới nghĩ ra một kế để làm cho Phù Sai tĩnh ngộ.

Một hôm đang buổi sáng sớm, Thế Tử Hữu đeo cung mang tên ở hậu cung viên đi về, áo giày ướt sạch cả. Phù Sai thấy lạ, liền hỏi.

Thế Tử Hữu nói:

Con ra chơi sau hậu viên, nghe tiếng con Ve kêu ở trên cây chạy lại gần xem. Thấy con Ve tưởng mình yên ổn khoe khoang cái giọng ngân nga của mình. Không ngờ có con Bọ Ngựa giơ hai càng rình bắc con Ve để ăn thịt. Con Bọ Ngựa chỉ biết miếng mồi là con Ve nên không chú ý gì cả. Không ngờ có con chim Sẻ vàng bay lượn ở gần đấy định mổ con Bọ Ngựa. Con chim Sẻ chỉ biết chăm chăm vào con Bọ Ngựa. Nào ngờ có Con đứng ở đấy giương cung định bắn con chim Sẻ chỉ lo chăm chú con chim bước tới bước lui không ngờ sụp xuống cái hố ướt cả áo giày đến nổi làm trò cười cho Phụ Thân.

Phù Sai nói:

Mầy chỉ ham cái lợi trước mắt, mà không nghĩ đến cái hại sau lưng thiên hạ còn ai ngu như thế nữa.

Thế Tử Hữu nói:

Thế mà thiên hạ còn có người ngu hơn con. Nước Lỗ là dòng dõi Chu Công. Lại nhờ công dạy bảo của Khổng Tử. Không xâm phạm gì đến lân quốc thế mà nước Tề tự nhiên đem quân đánh Lỗ. Tề tưởng lấy được Lỗ, chẳng ngờ có Ngô đem quân đi nghìn dặm để đánh Tề. Ngô đánh Tề tưởng lấy được Tề. Chẳng ngờ nước Việt Trung Nguyên đem quân quyết tử vượt qua tam giang, thông ngũ hồ để diệt nước Ngô.

Phù Sai nghe xong nổi giận nói:

Mầy học đâu ra cái giọng lưỡi của Ngũ Viên, ta nghe chán tai lắm, bây giờ mầy lại bắt chước, để làm ngăn trở công việc của ta hay sao?

Thế Tử Hữu sợ hãi lui ra. Phù Sai giao cho Thế Tử Hữu cùng Vương Tử Địa và Vương Tôn Dị Dung giữ nước, còn mình thời đem quân sang hội với Lỗ Ai Công ở đất Thái Cao, với Vệ Xuất Công ở đất Phát Dương, rồi ước với các Chư Hầu đại hội ở Hoàng Trì, muốn cùng với nước Tấn tranh nhau Bá nghiệp.

Câu Tiễn nghe tin Phù sai đem quân đi vắng, tinh binh nước Ngô đều điều động đi theo mới cùng Phạm Lãi thương nghị.

Câu Tiễn hỏi Phạm Lãi:

Đánh Ngô được chưa?

Phạm Lãi nói:

Được rồi đấy.

Việt Vương Câu Tiễn bèn đem hai nghìn người bị đày, cùng bốn vạn quân binh thường được huấn luyện, sáu nghìn kẻ sĩ, sáu nghìn quân tử. Hơn một nghìn tướng lĩnh chỉ huy theo đường thủy vượt qua Sông Trường Giang bất ngờ tiến đánh quân Ngô. Tiền đội là Trù Vô Dư thần tốc đánh thọc sâu vào nước Ngô chiếm lĩnh nhiều quận huyện. Quân sĩ và dân chúng Ngô đã quá mệt mỏi vì chiến tranh. Vì sự ăn chơi trác tán của Phù Sai. Những người mạnh khỏe hăng hái phần lớn đã chết ở trận chiến với Tề, phần thời theo Phù Sai họp chư hầu ở Hoàng Trì. Quân Ngô trấn giữ nơi biên giới cũng như các quận huyện bị quân Việt Trung Nguyên đánh bại nhanh chóng.

Trù Vô Dư di chuyển quân binh thần tốc tiến đánh thẳng vào Kinh Đô nước Ngô. Vương Tôn Dị Dung đem quân ra chống cự, đánh nhau được mấy hiệp. Cùng lúc ấy Vương Tử Địa đem quân ra xáp chiến. Trù Vô Dư đánh không lại ngã ngựa bị bắt. Ngày hôm sau Việt Vương Câu Tiễn thống lĩnh đại quân đến. Thế Tử Hữu định giữ thế thủ.

Vương Tôn Dị Dung nói:

Quân Việt vẫn có lòng sợ nước Ngô Ta. Vả lại từ xa kéo đến đây tức nhiên mệt nhọc. Ta thắng lần nữa, thời họ phải chạy. Nếu không thắng bấy giờ giữ thế thủ cũng chưa lấy gì làm muộn.

Thế Tử Hữu nghe lời. Liền sai Dị Dung ra đánh, Hữu đêm quân theo sau. Câu Tiễn thân hành đốc quân binh đánh nhau với Ngô. Phạm Lãi và Thế Dung ở hai bên tả hữu cũng thúc quân reo hò mà tiến. Khí thế mạnh như chẻ tre. Lúc bấy giờ ở nước Ngô, quân binh tinh dũng đều theo Phù Sai. Ở trong nước toàn là quân sĩ chưa luyện tập. Trong khi quân nước Việt Trung Nguyên toàn là quân tinh dũng đã luyện hơn mười năm. Nhất là đội quân tinh nhuệ đạt đến cảnh giới xuất quỉ nhập thần đã được Xử Nữ cũng như Trần Am Nguyên đã luyện tập. Lại thêm Phạm Lãi và Thế Dung đều là tướng lão luyện nhiều năm ở chiến trường thời quân Ngô làm sao địch lại nổi quân Ngô thua to.

Vương Tôn Dị Dung bị Thế Dung tướng Việt giết chết. Thế Tử Hữu bị vây h.ãm trong vòng vây quân Việt bắt được thời nhục liền tự tử mà chết.

Quân Việt kéo thẳng đến dưới chân thành. Vương Tôn Địa đóng chặt cửa thành lại rồi cố giữ thế thủ và sai người đi cáo gấp với Phù Sai. Câu Tiễn cho thủy quân đóng ở Thái Hồ. Lục quân đóng ở Tư Môn. Câu Tiễn sai Phạm Lãi đốt đài Cô Tô lửa cháy hơn một tháng chưa tắt, bao nhiêu chuyến thuyền của Ngô đều chiếm lấy đem về Thái Hồ cả, quân Ngô thủ thành không dám ra đánh.

Lại nói về chuyện Phù Sai cùng với Lỗ Ai Công và Vệ Xuất Công cùng đến Hoàng Trì, sai người mời Tấn Định Công. Tấn Định Công sợ phải đến hội. Phù Sai sai Vương Tôn Lạc cùng với quan thương khanh nước Tấn là Triệu Ưởng bàn việc để tên trước sau ở trong tờ tái thư.

Triệu Ưởng nói:

Nước Tấn đã mấy đời nay làm Minh Chủ còn phải hỏi gì nữa.

Vương Tôn Lạc nói:

Tổ nước Tấn là Thúc Ngu, là em của vua Thành Vương. Tổ nước Ngô là Thái Hà là bá Tổ vua Vũ Vương. Tôn ti cách nhau mấy tần. Huống chi Tấn dẫu làm Minh Chủ. Mà khi hội ở nước Tấn, ở quắc đều phải đứng dưới Sở. Nay Đại Vương muốn đứng trên Ngô hay sao?

Hai bên tranh nhau, mấy ngày chưa ngã ngũ đi đến dứt khoát. Bỗng có sứ giả của Vương Tử Địa sai đến, mật báo việc quân Việt đánh Ngô, giết Thế Tử Hữu, nay đang vây thành sự thế rất nguy cấp. Phù Sai kinh sợ. Bá Hi rút gươm chém chết sứ giả.

Bá Hi nói:

Việc nầy hư thật chưa rõ, nếu để sứ giả tiết lộ ra thời Tề và Tấn tất thừa cơ sinh sự, Đại Vương tài nào mà về yên được.

Phù Sai nói:

Quan tướng quốc nói phải lắm, nhưng Ngô và Tấn còn đang luận chưa xong, nay lại có tin nầy, vậy ta nên bỏ về ngay, hay ở lại dự hội mà chịu cho Tấn làm trưởng?

Vương Tôn Lạc nói:

Hai đường đều không được cả. Ta bỏ không dự hội mà về ngay thời biết ta có sự nguy cấp. Nếu dự hội mà chịu cho Tấn làm trưởng rồi thời ta làm gì cũng tất phải vâng mệnh nước Tấn. Vậy thời ta quyết tranh cho ngã ngũ mới khỏi lo ngại.

Phù Sai hỏi:

Muốn tranh cho được thời phải làm thế nào?

Vương Tôn Lạc mật tâu rằng:

Nay việc đã nguy cấp lắm, xin Đại Vương nổi hiệu trống mà khiêu chiến để làm cho người nước Tấn phải sợ.

Phù Sai cho là phải, đêm hôm ấy điều động quân binh kéo sang chỗ quân Tấn đóng cách nhau chỉ độ một dặm, rồi bày trận ở đấy. Vua Ngô tự tay cầm dùi đánh trống, hơn một vạn cái trống trong quân đều đánh theo. Tiếng chiêng trống nổi lên inh ỏi. Quân Tấn sợ hãi không biết vì cớ gì, mới sai quan đại phu là Đổng Cát sang hỏi.

Phù Sai rằng:

Ta phụng mệnh thiên tử Nhà Chu làm Minh Chủ các nước, nay vua Tấn trái mệnh tranh Trưởng, để đến nổi dùng dằng mãi không xong. Ta sợ sứ giả đi lại thêm phiền vậy phải thân hành đến đây mà thượng nghị. Nước Tấn theo không theo ngày hôm nay phải quyết.

Đổng Cát về báo với Định Tấn Công. Bấy giờ Lỗ Ai Công và Vệ Xuất Công cũng ngồi ở đấy.

Đổng Cát nói riêng với Triệu Ưởng rằng:

Tôi xem ý vua Ngô, ngoài miệng dẫu nói cứng, nhưng nét mặt buồn rầu, tất là trong bụng như có điều gì lo nghĩ lắm. Hay là quân Việt Trung Nguyên đã sang đánh Ngô rồi nếu quả vậy ta không chịu cho hắn đứng tên trước, thời tất hắn liều mà đánh ta, nhưng ta cũng không nên chịu nhường suông, phải bắt hắn bỏ Vương Hiệu đi mới được.

Triệu Ưởng nghe xong bằng tâu với Tấn Định Công. Định Công lại sai Đổng Cát sang nói Phù Sai rằng:

Đại Vương phụng mệnh thiên tử Nhà Chu hội chư hầu Chúa Công tôi không dám trái, nhưng nước Ngô nguyên là Tước Bá mà lại hiệu Xưng Ngô Vương thời đối với Thiên Tử Nhà Chu ra sao? Đại Vương nên bỏ Vương Hiệu Ngô Vương đi mà xưng là Ngô Công thời Chúa Công tôi xin vâng mệnh.

Phù sai cho là lời nói ấy là phải, liền tự xưng là Ngô Công rồi ra tiếp kiến các vua chư hầu. Ngô Công thề trước, thứ đến nước Tấn, đến Lỗ và Vệ. Phù Sai rút quân theo đường thủy về nước Ngô. Đi đến nửa đường được luôn mấy tin nước nhà lâm nguy cấp báo. Quân sĩ nghe nói ai cũng sợ hãi vả lại đi đường xa mỏi mệt, nên chẳng ai nghĩ gì đến sự giao chiến.

Khi đại quân Ngô kéo về gần đến Ngô Thành thời bị quân Việt Trung Nguyên chận đánh. Phù Sai thấy quân Việt Trung Nguyên anh dũng lạ thường, kiếm, cung, đao, thương, nỏ, giáo kỳ lạ đánh quân Ngô như đàng hổ xông vào đàn dê mà xơi, quân Ngô lớp lớp ngã gục. Phù Sai nhìn thấy kinh hoàng khiếp vía 20 vạn quân Ngô chủ lực tinh nhuệ, bị quân Việt Trung Nguyên đánh tơi bời. Quân Ngô thua to.

Phù sai sợ hãi lắm nói với Bá Hi rằng:

Quan tướng quốc nói vua Việt không bao giờ làm phản cho nên ta nghe mà tha cho về nước. Sự thể ngày nay như thế nầy quan tướng quốc phải sang xin cầu hóa với Việt. Nếu không thời thanh kiếm ta đưa cho Ngũ Viên ngày trước ta lại đưa cho quan tướng quốc đó.

Bá Hi liền sang quân Việt, sụp lạy Câu Tiễn xin tha tội cho nước Ngô còn mang theo lễ tạ tội cầu giảng hòa với nước Việt. Nước Ngô lại xin theo nước Việt.

Phạm Lãi nói với Câu Tiễn rằng:

Nước Ngô, ta cũng chưa nên diệt, ta hãy cho hòa để đền ơn cho Bá Hi. Từ đây Ngô không còn cường thịnh được nữa đâu, vì Việt Ta luôn theo dõi Ngô.

Câu Tiễn cho nước Ngô giảng hòa, rồi rút quân về nước, vào năm đó năm thứ 38 đời Chu Kính Vương phương Bắc, phương nam năm thứ 32 đời Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang đời thứ 14 Hạ Hùng Vương. Lúc bấy giờ phương Bắc phía bên kia sông Trường Giang thấy nước Ngô đã bị nước Việt Trung Nguyên kìm h.ãm không còn lo sợ Ngô thôn tính nữa. Bằng thôn tính lẫn nhau nước nầy đánh nước kia. Nước kia đánh nước nọ tranh bá tranh quyền chém giết lẫn nhau thảm khốc.

* * *
 

PHẦN 35

Nói về Việt Vương Câu Tiễn cho Ngô giảng hòa được bốn năm. Bấy giờ là năm 42 đời Chu Kính Vương phương Bắc năm thứ 36 đời Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang phương Nam. Vua Việt Vương Câu Tiễn cho người dọ thám biết Phù Sai từ khi thua quân Việt. Thời không còn chí khí tranh Bá tranh Hùng. Mà suốt ngày chỉ mê tửu sắc, chẳng thiết gì đến triều chính, vả lại mấy năm mất mùa luôn, lòng dân than oán. Câu Tiễn liền thống lĩnh đại quân đánh Ngô. Quân Việt Trung Nguyên chuẩn bị xuất quân lên đường. Câu Tiễn nhìn thấy ở trên đường cái có một con ễnh ương to lớn dị thường trợn mắt phình bụng, ra ý tức giận, Câu Tiễn đang ngồi xe đứng dậy để to lòng kính.

Những người theo hầu đều hỏi:

Đại Vương thấy gì mà kính vậy?

Câu Tiễn nói:

Ta trông thấy con ễnh ương tức giận, khác nào như quân sĩ đang hăng say chiến đấu xáp chiến đánh giặc, cho nên ta kính.

Quân sĩ đều bảo nhau rằng:

Con ễnh ương tức giận mà Đại Vương còn có lòng kính. Chúng ta cố công luyện tập trong mười năm lại không bằng con ễnh ương hay sao?

Bấy giờ quân sĩ đều khuyên bảo nhau liều chết để đánh giặc. Người trong nước tiễn con em đi đánh Ngô khóc mà từ giả rằng:

Chuyến nầy đi mà không diệt được Ngô thời chớ có mà trở về nước mà gặp nhau nữa.

Câu Tiễn lại hạ lệnh cho quân binh rằng:

Ai mà hai Cha con cùng ở lính thời cho Cha về. Hai anh em cùng ở lính thời cho Anh về. Có Cha Mẹ mà không anh em thời cho về để nuôi Cha Mẹ. Có tật bệnh không thể đi lính được thời quan địa phương chu cấp thuốc men lương thực cho.

Quân sĩ cũng như dân chúng cảm ơn ấy đều reo hò mừng rỡ khi sắp tiến quân qua đất Ngô, những kẻ vi phạm quân lệnh đều bị chém đầu để giữ nghiêm quân pháp. Nên quân binh tuân theo hiệu lệnh răm rắp sức mạnh quân binh tăng lên đáng kể.

Vua Ngô là Phù Sai nghe tin quân Việt tiến đánh, cũng đem hết quân binh ra đối địch. Quân Việt đóng đồn ở bờ sông phía Nam Dương Tử Trường Giang. Quân Ngô đóng đồn ở bờ sông phía Bắc Dương Tử Trường Giang. Câu Tiễn chia ra làm hai đạo quân. Phạm Lãi coi hữu quân, Văn Chủng coi tả quân. Đại quân Câu Tiễn đi giữa có sáu nghìn quân thiện chiến bật nhất của quân Việt Trung Nguyên. Hai bên định sáng hôm sau thời cùng nhau giao chiến ở giữa dòng sông.

Quân ngô là quân giỏi về thủy chiến đã từng đánh bại quân Việt ở Sông Lạc Phù Sai rất tin tưởng ở trận quyết sanh quyết tử nầy.

Tối hôm trước. Câu Tiễn truyền cho trung quân im lặng theo dòng sông cánh tả cách năm dặm ẩn không cho quân Ngô biết đến nửa đêm thời nổi hiệu trống tiến đánh quân Ngô. Lại truyền cho hữu quân im lặng theo dòng sông cánh hữu cách xa mười dặm ẩn không cho quân Ngô biết. Đợi khi tả quân trống hiệu nổi lên, thời tiếng quân nổi trống mà đánh, đều dùng trống lớn để vang động dậy trời.

Nói về quân Ngô nửa đêm bỗng nghe tiếng trống dậy trời, biết là quân Việt đến đánh lén, vội vàng đốt đuốc soi lên chưa trông rõ gì cả. Lại nghe có tiếng xa nổi lên quân Việt hai mặt vây kín quân Ngô. Phù Sai kinh sợ vội vàng chia quân ra để đối địch. Chẳng ngờ Câu Tiễn đem sáu nghìn quân, nhân khi trời tối lẻn vào trong trận quân Ngô. Bấy giờ trời vừa hừng sáng, quân Ngô trông thấy trước sau, tả, hữu, trong trận địa chỗ nào cũng có quân Việt tấn công dữ dội, đao, kiếm, cung, nỏ bắn đâu ngã gục đó, chém đâu ngã gục đó.

Quân Ngô biết mình không thể địch nổi vội vàng bỏ thuyền lên bờ trốn chạy. Câu Tiễn thúc quân binh đuổi theo đến đất Lập Trạch thời đuổi kịp chém quân Ngô xối xả, quân Ngô chống trả hai bên đánh nhau long trời lở đất. Quân việt đao thương cung nỏ đều tài giỏi, lại thêm khí thế quyết tử hào hùng quân Việt ào ào xông tới chém thôi là chém quân bỏ xác khắp nơi thây phơi như rạ, quân Ngô chiến ba trận đều thua cả ba.

Tướng nước Ngô là bọn Tào Cô và Tư Môn Sào đều chết tại trận cả. Phù Sai thua chạy về Đô Thành đóng chặt cửa thành lại. Câu Tiễn bọc lên Hoàng Sơn đánh bọc xuống lại cho quân đắp cái thành ở ngoài cửa Tư Môn gọi là Việt Thành. Câu Tiễn ở đó chỉ huy quân binh Việt bao vây khuấy động binh đao làm cho nước Ngô phải khốn khổ.

Câu Tiễn vây Ngô lâu ngày làm cho dân Ngô cũng như binh sĩ khốn quẫn quá. Bá Hi cáo ốm liên miên không dám ra đối đầu với quân Việt. Phù Sai bằng sai Vương Tôn Lạc sang gặp Việt Vương Câu Tiễn Vương.

Tôn Lạc lột trần vai áo kéo lết đầu gối cả vài trăm mét mà tâu với Câu Tiên rằng:

Kẻ bề tôi cô độc là Phù Sai xin bày gan ruột, ngày trước thần đã đắc tội ở Cối Kê. Đã được Đại Vương tha cho từ đó không dám trái mệnh, nên được Đại Vương cho giảng hòa. Nay Đại Vương lại cất quân sang đánh cô thần, nếu Đại Vương muốn giết cô thần, cô thần cũng xin vâng theo không dám trái ý. Nhưng cô thần cũng muốn Đại Vương tha tội cho cô thần, như việc trước đây ở Cối Kê kẻ bề tôi cô độc một lòng tùng phục, không dám nghĩ tới hai lòng mong được Đại Vương nghĩ đến chút tình ngày trước mà tha tội cho.

Câu Tiễn có ý không nở toan cho hòa. Phạm Lãi can rằng:

Đại Vương ngày đêm lo nghĩ mưu tính kế ra công khó nhọc trong suốt 20 năm thôn tính nước Ngô nay sắp thành công mà lại bỏ đi nghĩa làm sao? Việc xảy ra ở Cối Kê trước kia đó là do trời đem nước Việt Trung Nguyên giao cho nước Ngô, nhưng nước Ngô lấy. Nay trời lại đem nước Ngô trao cho nước Việt. Nước Việt có nên làm trái mệnh trời không? Vả chăng nhà Vua ra triều sớm, bãi triều muộn chẳng phải là để trả thù nước Ngô đó sao? Trời đã cho mà không lấy, trái lại cơ trời từ phước chuyển thành họa. Nhà Vua không nên quên bài học mà vua Ngô đã làm tha cho vua Việt mà ngày nay phải trả giá bằng sinh mạng cũng như sự mất nước.

Câu Tiễn nghe xong tỉnh Ngộ bèn không cho hòa. Sứ giả nước Ngô đi lại bảy lượt nói to nhỏ với vua Việt cũng như Văn Chủng và Phạm Lãi những lời tha thiết nhất, nhưng Phạm Lãi, Văn Chủng nhất định không nghe.

Câu Tiễn có lúc mềm lòng nói:

Ta không nở từ chối lòng sứ giả.

Phạm Lãi, Văn Chủng nói:

Việc nầy để thần giải quyết.

Phạm Lãi, Văn Chủng nói với sứ giả:

Nhà vua đã giao quyền quyết định cho Lãi và Chủng nầy, sứ giả nên về ngay nếu không sẽ trị tội.

Bằng sai đánh trống thúc cho quân binh tiến lên công phá thành. Quân nước Ngô tuy mất đi sức mạnh vốn có. Nhưng muốn phá thành tiến quân vào thời không phải dễ vì kinh thành nước Ngô vô cùng kiên cố không dễ gì một mươi ngày mà phá được đâu. Nếu phá được thời cũng phải trả cái giá tổn thất không nhỏ. Đêm hôm ấy mọi người bỗng thấy trên cửa thành có treo một cái đầu Ngũ Viên, mặt to bằng bánh xe, mắt sáng như tia chớp râu và tóc dựng đứng cả lên, sáng rực trong mười dặm. Tướng sĩ nước Việt ai nấy cũng sợ hãi, phải tạm lui quân. Đến nửa đêm hôm ấy, bỗng mưa to gió lớn, sấm ran chớp giật cát bay đá chạy ù ù quân Việt không chết thời cũng bị thương quả là không sao tưởng tượng được, dây cáp đức hết thuyền chao đảo không kết với nhau được.

Phạm Lãi, Văn Chủng vô cùng lo sợ. Trời đang mưa to gió lớn Phạm Lãi, Văn Chủng nhìn lên cửa thành mà sụp lạy một lúc tạ tội với Ngũ Viên. Tức thời mưa to gió lớn im lặng trở lại. Phạm Lãi, Văn Chủng đang ngồi ngủ gà ngủ gật đợi trời sáng. Bỗng chiêm bao thấy Ngũ Viên ngồi trên một cái xe trắng con ngựa trắng đi đến áo mão chỉnh tề cũng như lúc còn sống bảo với Phạm Lãi và Văn Chủng rằng: Ta biết nổi giông nổi gió làm khiếp đảm quân Việt là phạm ý Trời. Nhưng lòng trung của ta chưa tuyệt, nên mới nổi cơn mưa gió để làm quân Việt phải lui. Nhưng ý trời đã định. Trời cho nước Việt chiếm lấy nước Ngô quỉ thần nào ai dám cải. Bọn ngươi muốn chiếm thành thời phải theo cửa Đông ta sẽ mở đường cho.

Hai người cùng chiêm bao giống nhau, liền nói với Câu Tiễn. Câu Tiễn sai người khai một cái kênh từ phía Nam qua phía Đông, khi khai đến cửa Xa Môn và cửa Tương Môn, thời bỗng thấy nước ở Thái Hồ từ cửa Tư Môn chảy vào, làn sóng dữ dội, làm thành một cái vũng rộng lớn, có nhiều giống cá chuyên cá phù theo nước kéo vào.

Phạm Lãi nói:

Ấy là Ngũ Viên mở đường cho quân ta đi.

Phạm Lãi nói xong liền thúc quân binh tiến vào cửa Đông quả nhiên quân Ngô chống cự không lại cửa Đông bị phá vỡ, quân Việt Tràn vào thành như nước lỡ.

Phù Sai nghe tin quân Việt Trung Nguyên đã phá được cửa Đông tràn vào thành như nước lỡ thời kinh hồn bạt vía. Bá Hi đã xin ra hàng. Phù Sai cùng với Vương Tôn Lạc và ba con chạy sang Dương Sơn, đi suốt ngày suốt đêm, bụng đói miệng khác, hai mắt hoa mờ. Các quan chạy theo bứt được mấy trái Ngô sống, đem bóc ra rồi dâng cho Phù Sai, Phù Sai ăn xong ngồi xuống đất, lấy tay bụm nước ở dưới mương mà uống lại hỏi:

Mới rồi ta ăn thứ gì?

Các quan nói:

Đó là Ngô sống.

Phù Sai nói:

Công Tôn Thánh ngày trước bảo ta, rồi phải chạy vất vả và không kịp nấu cơm ăn, chính là thế nầy.

Vương Tôn Lạc nói:

Ăn no rồi thời hãy đi, phía trước có một cái hang sâu, ta hãy tránh vào đấy.

Phù Sai nói:

Mộng đón đã đúng thời sắp đến ngày chết, ta còn tránh làm gì nữa.

Nói xong cứ ngồi ở Dương Sơn, bảo Vương Tôn Lạc rằng:

Ngày trước ta giết Công Tôn Thánh, ném ở trên đỉnh núi nầy, chẳng hay còn có thiêng hay không?

Vương Tôn Lạc nói:

Đại Vương thử gọi xem.

Phù Sai gọi to lên rằng:

Công Tôn Thánh.

Ba lần gọi đều nghe tiếng dội theo. Phù Sai kinh sợ, lại trốn sang ở Vu Tọa. Câu Tiễn lại đem một nghìn quân kỵ mã đuổi theo vây kín mấy dặm. Phù Sai viết một bức thư, buộc đầu mũi tên, bắn vào trong đám quân Việt. Quân Việt nhặt được đệ trình Phạm Lãi và Văn chủng cùng mở ra xem thư rằng: Tôi nghe giống thỏ đã hết thời chó săn tất bị mỗ địch quốc đã diệt nưu thần tất không còn. Sao quan đại phu không giữ lại cho nước Ngô một sợi tơ mành, để làm chỗ thoát cho mình về sau.

Văn Chủng cũng viết một bức thư buộc vào mũi tên bắn vào rừng rậm mà đáp rằng: Nước Ngô có sáu điều lỗi to. Giết chết trung thần Ngũ Viên. Giết chết Công Tôn Thánh. Bá Hi là người xàm nịnh lại tin dùng. Đó là ba điều lỗi to. Tề, Tấn vô tội thế mà Ngô cứ đêm quân quấy nhiễu. Việt và Ngô là hai nước láng giềng Nam Bắc thế mà Ngô hết xâm lược lần nầy đến lần khác hết đời con, đời cha, đến đời ông. Nước Việt giết tiên vương nước Ngô mà nước Ngô lại không biết báo thù dung túng kẻ địch để hậu quả gây nên tai họa. Có sáu điều lỗi to ấy, thời tài nào mà không mất nước. Ngày xưa trời đem nước Việt cho Ngô. Ngô không chịu nhận: Nay trời lại đem nước Ngô cho Việt, có Việt lại dám trái mệnh trời.

Phù Sai cho người tìm lấy mũi tên do Văn Chủng bắn đi ngồi đọc, đọc đến điều lỗi thứ sáu thời ứa nước mắt mà nói rằng:

Ta quên kẻ thù của Tiên Vương mà không giết Câu Tiễn như thế là bất hiếu. Vì thế mà trời không giúp nước Ngô ta nữa.

Vương Tôn lạc nói:

Tôi xin sang yết kiến vua Việt một lần nữa và cố xin vua Việc tha.

Phù Sai nói:

Ta cũng không phục lại nước Ngô như cũ nữa. Nếu nước Việt cho nước Ngô làm một nước phụ thuộc nhỏ để đời thần phục nước Việt thời ta cũng đành lòng.

Vương Tôn Lạc sang đến quân Việt Phạm, Lãi Văn Chủng không tiếp. Câu Tiễn trông thấy sứ giả nước Ngô khóc lóc thảm thiết mà về, liền động lòng thương sai người bảo Phù Sai đến nói rằng:

Ta nghĩ cái tình nhà vua ngày trước, xin để nhà vua ở đất Dũng Đông cấp cho năm trăm nóc nhà để trọn đời nhà vua sanh sống nơi đó.

Phù Sai sụt sùi mà đáp rằng:

Đại Vương thương tình mà xá cho Ngô, thời Ngô cũng là một nước Đại Vương cai quản thần phục Việt đó. Nếu phá xã tắc bỏ Tôn Miếu thời còn gì nước Ngô. Thời tôi nhận lấy năm trăm nóc nhà để mà làm gì. Nay tôi đã già, không thể theo sau hàng bách tính chỉ còn chết mà thôi.

Câu Tiễn nghe vô cùng tức giận nói:

Nhà ngươi còn muốn nuôi mộng đời sau tiêu diệt ta sao?

Câu Tiễn bảo Phạm Lãi, Văn Chủng rằng:

Sao hai ngươi không giết Phù Sai đi cho rồi?

Phạm Lãi, Văn Chủng nói:

Phù Sai cũng là một ông vua, chúng tôi không dám giết xin Đại Vương phụng mệnh trời mà làm chớ nên chậm trễ.

Câu Tiễn liền chống thanh kiếm “bộ quang” ở trước quân. Sai bảo Phù Sai rằng:

Ở đời chẳng có ông vua nào sống mãi, rốt cuộc cũng chết là xong, việc gì phải đợi quân ta kề gươm lên cổ?

Phù Sai thở dài mấy tiếng. Ngoảnh lại trông bốn phía khóc than mà rằng:

Ta giết trung thần là Ngũ Viên và Công Tôn Thánh, nay ta phải tự tử cũng là muộn lắm rồi.

Phù Sai bảo các người xung quanh rằng:

Giả chết mà linh hồn không chết, thời ta còn mặt mũi nào mà trông thấy Ngũ Viên và Công Tôn Thánh ở dưới suối vàng. Âu là các nhà ngươi lấy ba thước lụa phủ mặt cho ta.

Nói xong rút gươm đâm cổ mà chết. Vương Tôn Lạc cởi áo để phủ lên mặt Phù Sai rồi cũng lấy dây lưng thắt cổ chết ở bên cạnh.

Thơ rằng:

Vua Ngô chăm chuốt cuộc hề

Khói mây rồi cũng trở về khói mây

Bể trần xấu xé lẫn nhau

Chết đi luân chuyển tránh đâu đọa đày

Luật trời há dễ làm càn

Huyền cơ xây chuyển tan tành bụi tro.

Câu Tiễn truyền chôn cất theo lễ vua chư hầu, chôn Phù Sai ở Dương Sơn, lại sai quân sĩ mỗi người một sọt đất mà đắp vào, chỉ trong chốc lát thành ra nấm mồ to lớn. Còn ba con Phù Sai thời đem đày đi ở núi Long Vi.

Câu Tiễn vào thành Cô Tô ngự ở cung vua Ngô. Triều thần vào lạy mừng. Quan Thái Tể là Bá Hi cũng ở trong hàng ấy cậy có ơn giúp đỡ Câu Tiễn ngày trước, ra vẻ đắc ý.

Câu Tiễn bảo Bá Hi rằng:

Nhà ngươi là quan Thái Tể nước Ngô, ta đây không dám xem ngươi là bề tôi. Vua nhà ngươi ở Dương Sơn, sao nhà ngươi không đi theo?

Bá Hi thẹn mà lui ra. Câu Tiễn sai bắt Bá Hi mà giết đi. Nhổ cỏ diệt tận gốc Câu Tiễn lại cho quân binh giết cả gia tộc Bá Hi.

Câu Tiễn nói:

Thế là ta trả thù cho Ngũ Viên.

Thơ rằng:

Ai thâm hiểm cho bằng Câu Tiễn

Giết Bá Hi vì sợ Bá Hi

Rắn độc mà ở kề bên

Có ngày nó cắn nát tan cuộc đời

Nên nói dối an lòng Ngô chúng

Trả hận thù tướng quốc Ngũ Viên

Lương tâm gian trá vô biên

Tránh đâu cho khỏi đảo điên cơ đồ

Đêm đất Việt dâng về phương Bắc

Mua công danh cấu kết ngoại ban

Làm cho nước Việt nát tan

Văn Lang đất Bắc hết mong trở về.

* * *
 

PHẦN 36

Lại nói về Câu Tiễn muốn theo chí khí mộng Bá Vương của Phù Sai, kết hợp Nam Bắc các nước xa gần Dương Tử Trường Giang xây dựng lên một Sơn Đông Trung Quốc hùng mạnh mà Phù Sai làm chưa được. Câu Tiễn phủ dụ quân Ngô theo quân Việt vì thế quân Việt vô cùng hùng mạnh đủ sức để làm Bá Chủ.

Câu Tiễn càng ngày càng Độc Tài Độc Trị không nghe lời ai nữa bằng đem quân về hướng Bắc, vượt qua Sông Bắc Giang, Sông Hoài ở vào thời đó có sông Dương Tử Trường Giang, và Sông Bắc Giang. Cùng các trấn chư hầu Nhà Chu như Tề, Tấn, Tống, Lỗ. Đông Bắc phương Đông hợp ở từ Châu. Các nước biết Câu Tiễn có ý liên minh thống nhất nhiều nước Nam bắc Dương Tử Trường Giang thành một liên minh Trung Quốc.

Chữ Trung có nghĩa là Trung Nguyên. Liên kết Nam – Bắc nhiều nước thành Trung Quốc.

Các nước Tề, Tấn, Tống, Lỗ nhất trí tán thành nhưng phải quy thuận Nhà Chu. Việt Vương Câu tiễn liền nghe theo. Sai người đem lễ vật vào cống Thiên Tử Nhà Chu nói rõ nguyện vọng của mình. Lúc bấy giờ Chu Kính Vương đã mất. Thái Tử Nhân lên ngôi, tức là Chu Nguyên Vương. Triều thần Nhà Chu nghe xong còn gì vui sướng hơn nhất là Chu Nguyên Vương. Việt Trung Nguyên không cần chiếm lấy mà tự có không đổ một giọt máu. Chu Nguyên Vương bằng đem Cổn Niệm, Khê Bích, Đồng Cung, Hồ Thỉ ban cho Câu Tiễn. Phong cho làm mệnh làm Bá Chủ Sơn Đông, Trung Quốc. Câu Tiễn cúi đầu vâng mệnh. Chu Nguyên Vương Nhà Chu sai sứ thần ban nhiều rượu thịt đến Câu tiễn các trấn chư hầu Nhà Chu đến chúc mừng.

Lúc bấy giờ Việt Vương Câu Tiễn là Bá Vương Sơn Đông Trung Quốc có quyền quyết định hòa giải các nước. Câu Tiễn đưa quân vượt qua phía nam sông Hoài cắt đất nước Sở mà trả lại phong cho nước Lỗ đất đai một trăm dặm ở phía đông Sông Tứ. Những đất đai mà nước Ngô chiếm được nước Tống trả lại cho nước Tống. Các trấn chư hầu Nhà Chu đều kính phục. Câu Tiễn về đến nước Ngô. Bằng bày tiệc ở trên Vân đài nước Ngô cùng với các quan tướng uống rượu chúc mừng Việt Vương Câu tiễn lên ngôi Bá Vương Trung Quốc, đứng đầu mấy trăm thuộc quốc. Phải nói Trung Quốc ra đời hùng mạnh nhất thời bấy giờ.

Đây nói về Phạm Lãi là dân Bách Việt Văn Lang. Thấy Việt Vương Câu Tiễn đem dâng nước Việt Trung Nguyên cho Nhà Chu thời vô cùng bất mãn khuyên can mấy lần. Câu Tiễn không nghe cứ làm theo ý mình nhưng trong lòng có ý dè chừng Phạm Lãi.

Phạm Lãi có ý bỏ Việt Vương Câu Tiễn khi còn ở Từ Châu nhưng còn chần chừ chưa dứt khoát. Khi về nước Ngô Phạm Lãi mới dứt khoát biết nếu mình ở lại thời cái chết không biết lúc nào bằng bỏ đi trong lúc Việt Vương Câu Tiễn còn khoe khoang với bá quan văn võ Nhà Chu Phong cho Bá Vương chủ quản Trung Quốc.

Phạm Lãi ngay trong hôm ấy đi một chiếc thuyền nhỏ ra Tề Nữ Môn qua Tam Giang vào Ngũ Hồ. Ngày hôm sau Câu Tiễn sai người triệu Phạm Lãi vào thời Phạm Lãi đã đi rồi.

Câu Tiễn biến sắc bảo Văn Chủng cho quân binh đuổi theo bắt Phạm Lãi lại cho ta.

Văn Chủng nói:

Mưu trí của Phạm Lãi, quỉ thần cũng khó mà lường được, ta không nên đuổi theo.

Nói về Phạm Lãi vượt qua Tam Giang, Ngũ Hồ nhìn lên trời mà than rằng: Ta có tội với Bách Việt Văn Lang. Anh Hùng Lạc Đạo tôn thờ tên ác Bá kẻ bán nước phản bội Ông Cha.

Phạm Lãi nghĩ mình đã theo Việt Vương Câu Tiễn không thể vào Văn Lang để sống được. Bằng cải tên đổi họ thành Chi Di Tử Bì đi theo đường biển sang qua Tề tìm được chỗ sanh sống không trở về nước Việt Trung Nguyên Nữa.

Phạm Lãi trước khi bỏ Việt Vương Câu Tiễn mà đi có một bức thư cho quan đại phu Văn Chủng. Một hôm Văn Chủng vừa ra khỏi cung thời có một người đưa cho Văn Chủng một bức thư nội dung như sau: Chim đã hết thời cung nỏ phải cất. Thỏ khôn đã chết thời chó săn lại bị nấu. Vua Việt là người cổ dài, miệng diều hâu. Con người chỉ vì danh lợi cá nhân. Đem đất Bắc Văn Lang cầu vinh mà dâng cho phương Bắc Nhà Chu. Một con Cáo Già đã lộ cái đuôi chồn lòng dạ hiểm sâu nói một đường làm một nẻo, giả nhân giả nghĩa lừa gạt tấm lòng tốt của người dân Bách Việt khi hiểu ra thời mọi việc đã rồi. Nếu Ngài không bỏ đi tất có tai họa vì Ngài rất yêu Bắc Văn Lang.

Văn Chủng xem xong thời người đưa thư cũng đi đâu mất. Văn Chủng nhận được thư của Phạm Lãi trong lòng lấy làm căm hận cho cuộc đời mình anh hùng lạc đạo tôn thờ một kẻ bán nước. Văn Chủng bật khóc từ đó cáo bệnh không vào chầu nữa. Có người gièm nói Văn Chủng làm phản.

Việt Vương Câu Tiễn đến nhà đưa kiếm cho Văn Chủng rồi nói:

Nhà ngươi thường dạy quả nhân bảy thuật để đánh Ngô. Quả nhân mới dùng có ba mà nước Ngô đã thua. Còn bốn thuật nữa ở nhà ngươi. Nhà ngươi hãy giúp ta mà diệt Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang, thời công ngươi mới to tác hơn nữa.

Văn Chủng nhìn lên trời nói lớn:

Con đã biết sai xin Bách Việt Văn Lang tha tội cho con.

Văn Chủng nói xong liền tự sát. Câu Tiễn ở nước Ngô không bao lâu cho người ở lại cai quản, còn mình thời rút đại quân về Việt. Đem cả Tây Thi về. Câu Tiễn Phu Nhân mật sai người bắt Tây Thi đem ra bờ sông, buộc viên đá lớn vào người rồi đẩy xuống sông mà bảo rằng:

Nó là vật vong quốc, còn để làm gì.

Phạm Lãi nghe Tây Thi bị Tiễn Phu Nhân dìm chết dưới sông thời than rằng:

Nước nhà còn mất bởi cơ trời

Sao cứ Tây Thi đổ lỗi hoài

Tây Thi nếu làm Ngô mất nước

Thời nay Việt mất bởi tay ai.

Nói về Phạm lãi ở đất Tề một thời gian cải dạng thương buôn trở về Việt Trung Nguyên lén dẫn cả gia quyến đi theo qua sống bên nước Tề ra sức khổ thân cày ruộng không bao lâu thời làm giàu nổi tiếng cả vùng. Sau lại dời đến đất Đào để ở. Tiện đường buôn bán đổi chác gia súc, lúa gạo làm giàu hơn nữa. Tự gọi mình là Đào Chu Công.

Câu Tiễn từ Ngô trở về Việt Trung Nguyên sai sứ đàm phán với nhà nước Văn Lang. Nội dung đàm phán như sau:

Kính Gởi

Quốc Vương Thiên Tử Bệ Hạ.

Bá Vương Trung Quốc.

Là Câu Tiễn. Không thể không nghe Thiên Tử Nhà Chu. Thương lượng cùng Quốc Vương Thiên Tử Bệ Hạ.

Việc Bắc – Nam, chinh chiến hơn mấy mươi năm. Hai bên Nam – Bắc đều không có lợi. Không những làm cho bá tánh muôn dân trăm họ khốn khổ điêu linh. Mà còn gây ra cảnh tang thương chết chóc dân chúng lầm than bỡi binh đao máu lửa. Đất nước hai bên càng ngày càng suy kiệt dân không đủ no nói gì đến mặt ấm than oán khắp nơi. Chi bằng hai bên đi đến hiệp ước giao hòa. Đất ai nấy ở nước giếng không phạm nước ao, nước ao không phạm nước giếng. Hai bên Nam – Bắc cùng có lợi. Nhất là dân chúng sống trong cảnh thái bình, bù đắp lại hơn mấy mươi năm chiến tranh.

Bá Vương Câu Tiễn tôi thiết nghĩ.

Chấm dứt chiến tranh cũng là cái đức của bậc Quân Vương làm cho dân chúng được hưởng thái bình.

Vì thế. Bá Vương Câu Tiễn tôi tuy là Bá Chủ Trung Quốc, cũng như thế lực Nhà Chu, phải nói là vô cùng hùng mạnh. Nếu Bá Vương Câu Tiễn tôi là tay háo chiến, thời nhất định diễn ra một cuộc tranh hùng Nam – Bắc chưa biết ai là kẻ thắng người thua. Nhưng chiến tranh xảy ra trên đất nước Văn Lang, là một điều thiệt hại lớn cho đất nước Văn Lang. Quốc Vương Thiên Tử bệ hạ nên suy nghĩ đưa quyết định giao chiến hay nghị hòa là tùy ở Quốc Vương bệ Hạ.

Bá Vương Trung Quốc Câu Tiễn kính thư.

Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang xem xong chỉ biết thở dài. Rồi cho người đọc lớn cho triều Thần nghe. Triều thần không ai là không ngán ngẩm cho cuộc chinh chiến Nam Bắc dai dẳng kéo dài mãi thiệt hại không những về kinh tế, mà còn thiệt hại nhân mạng vô số kể.

Hùng Ánh Vương hỏi triều thần:

Ai có ý kiến gì không?

Lạc Hầu Vương nói:

Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Chỉ một nước Việt Trung Nguyên mà hơn mấy mươi năm chúng ta không đánh thắng nổi. Nay Việt Vương Câu Tiễn đem Việt Trung Nguyên dâng cho Nhà Chu tội bán nước đã rành. Nhưng chúng ta không thể làm gì khác hơn vì thế lực Câu Tiễn quá lớn. Không những Bá Chủ Trung Quốc, mà còn có cả thế lực Nhà Chu. Nếu chúng ta không đi đến nghị hòa, thời nước Văn Lang trở thành bãi chiến trường thiệt hại vô cùng to lớn. Nhưng nếu chúng ta chấp thuận lời yêu cầu của Câu Tiễn. Thời coi như Bắc Văn Lang không còn của chúng ta nữa mà là của Phương Bắc trở thành Trung Nguyên Trung Quốc.

Hầu Tôn Vương nói:

Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Vận hóa Cơ Trời không thể cãi được. Theo như lời Quốc Tổ truyền dạy nước Văn Lang mất dần về phương Bắc hiện nay đã xảy ra. Việc nầy chỉ có Quốc Vương Bệ Hạ mới quyết định được. Các thần chỉ biết nghe theo và làm theo.

Hùng Ánh Vương viết một bức thư nghị hòa phân chia Nam – Bắc không ai xâm phạm đến ai nữa. Việt Vương Câu Tiễn không còn lo chiến tranh nữa. Cao ngạo tàn độc. Trung thần can ngăn đều bị giết sạch ăn chơi trác tán còn hơn cả Vua Ngô.

Câu Tiễn làm vua được 27 năm thời chết, tức là năm thứ 8 đời cuối Chu Nguyên Vương. Chu Trinh Định lên ngôi thay thế 469 trước công nguyên. Ở phương Nam Văn Lang là năm thứ 37 Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang. Sau khi Việt Vương Câu Tiễn qua đời, con cái Việt Vương Câu Tiễn tranh giành quyền lực cấu xé lẫn nhau. Nước Trung Nguyên dần dần dấy loạn Bách Việt nổi lên lật đổ triều đại Việt Vương Câu Tiễn với cái tội. Việt Vương Câu tiễn bán đứng Việt Trung Nguyên cho Nhà Chu. Sự tan rã nhà nước Việt Trung Nguyên bắc đầu từ 468 đến 425 trước công nguyên.

Khi ấy Trung Quốc tan rã mạnh nước nào xưng hùng xưng bá nước nấy. Những nước có thế lực hùng mạnh tranh nhau càng quyết liệt hơn. Như Tần – Sở – Tề – Ngụy – Triệu – Yên – Hàn. Nước Việt Trung Nguyên hỗn loạn tan rã là cơ hội cho Sở – Triệu – Ngụy thôn tính nước Việt Trung Nguyên chia nước Nước Việt Trung Nguyên làm ba Đông – Tây – Nam sau nầy luôn là bãi chiến trường của nhiều nước phương Bắc tranh giành với nhau thôn tính chiếm lấy Việt Trung Nguyên.



VĂN LANG CHIẾN SỰ 3
ĐẾN ĐÂY ĐÃ HẾT


CHỦ BÚT: NGUYỄN ĐỨC THÔNG​
 
QUỐC BẢO CHÂN KINH

----------O----------

LONG HOA

THI TẬP

CA - NHẠC


Quyển 1

______________________________

Trọn Bộ 6 Quyển

THIÊN ẤN - THIÊN BÚT



GÒ HỘI - ĐỨC PHỔ - QUẢNG NGÃI, 2022


Cao Đức Thắng

-------------O-------------


QUYỂN 1

LONG HOA THI TẬP CA - NHẠC

1 - CON CHÁU RỒNG TIÊN


Nước Việt Nam,

Địa Long Thánh Địa

Trung Ương

Đến hồi nở hoa

Rực rỡ

Năm nghìn năm Văn Hiến

Địa Linh tỏa sáng

Cùng khắp năm châu

Con cháu Rồng Tiên

Đồng Bào anh em

Từ bọc Âu Cơ

Trăm con một bọc

Ra đời xa xưa

Lưu truyền đến nay

Nắm lấy tay nhau

Trong tình thương rộng lớn

Cùng Cội cùng Nguồn

Nở hoa vàng

Trong cuộc sống bình yên

Hãy hát lên

Hát cho đời tươi thắm

Nắm tay nhau

Cùng vững bước tiến lên

Xây dựng tự do

Dân Chủ Nhân quyền

Đi vào Công Bằng

An vui tự tại

Đi vào mở hội

Đại Đồng Long Hoa

Tam Giáo Quy Nguyên

Ngũ chi hiệp nhất

Đi vào giải thoát

Đồng sanh về trời

Việt Nam Việt Nam

Thời gian thời gian

Năm nghìn năm

Những bước chân

Khắp năm châu

Mãi thi nhau truyền bá

Truyền lời Thiên Ý

Ánh Cội Nguồn

Sáng tột cùng linh thiên

Khắp thế gian

Đồng Bào con cháu Rồng Tiên

* * *

Nước Việt Nam,

Địa Long Thánh Đại

Trung Ương

Đến hồi nở hoa

Rực rỡ

Năm nghìn năm Văn Hiến

Địa Linh tỏa sáng

Cùng khắp năm châu

Con cháu Rồng Tiên

Đồng Bào anh em

Từ bọc Âu Cơ

Trăm con một bọc

Ra đời xa xưa

Lưu truyền đến nay

Nắm lấy tay nhau

Trong tình thương rộng lớn

Cùng Cội cùng Nguồn

Nở hoa vàng

Trong cuộc sống bình yên

Hãy hát lên

Hát cho đời tươi thắm

Nắm tay nhau

Cùng vững bước tiến lên

Xây dựng tự do

Dân Chủ Nhân quyền

Đi vào Công Bằng

An vui tự tại

Đi vào mở hội

Đại Đồng Long Hoa

Tam Giáo Quy Nguyên

Ngũ chi hiệp nhất

Đi vào giải thoát

Đồng sanh về trời

Việt Nam Việt Nam

Thời gian thời gian

Năm nghìn năm

Những bước chân

Khắp năm châu

Mãi thi nhau truyền bá

Truyền lời Thiên Ý

Ánh Cội Nguồn

Sáng tột cùng linh thiên

Khắp thế gian

Đồng Bào con cháu Rồng Tiên

* * *

Việt Nam Việt Nam

Thời gian thời gian

Năm nghìn năm

Những bước chân

Khắp năm châu

Mãi thi nhau truyền bá

Truyền lời Thiên Ý

Ánh Cội Nguồn

Sáng tột cùng linh thiên

Khắp thế gian

Đồng Bào con cháu Rồng Tiên

Ánh sáng Cội Nguồn

Sáng tột cùng linh thiên

Khắp thế gian

Đồng Bào con cháu Rồng Tiên

* * *

Văn Hóa Cội Nguồn
 
2 - ĐỜI VÀO XUÂN

Càng về Nguồn

Càng đi vào hạnh phúc

Đời vào xuân

Trong cuộc sống Thần Tiên

Đời tự do

Việt Nam cuộc sống ấm no

Ai đâu ngờ

Có ngày cuộc đời nên thơ

Ai đâu ngờ

Việt Nam tỏa sáng mặt trời

Bao gian tà

Đều lặng lẻ ra đi

Nói đi em

Hãy nói đi em

Cống hiến đời trai

Cho ngày mai

Đất trời nở hoa

Rồi từng đêm

Nghe tiếng hát xa xa

Cả nước non

Trong cuộc sống thăng hoa

Khắp năm châu

Bình yên hạnh phúc âu ca

Càng về Nguồn

Đất nước càng vào xuân

Càng vững Gốc

Đất nước càng gấm hoa

Càng về Nguồn

Đất nước càng tự do

Càng vững Gốc

Đất nước càng ấm no

Ai đâu ngờ

Việt Nam

Chuyển hóa đổi đời

Việt Nam tỏa sáng mặt trời

Khắp năm châu

Ngỡ ngàng đất nước Việt Nam

* * *

Càng về Nguồn

Càng đi vào hạnh phúc

Đời vào xuân

Trong cuộc sống Thần Tiên

Đời tự do

Việt Nam cuộc sống ấm no

Ai đâu ngờ

Có ngày cuộc đời nên thơ

Ai đâu ngờ

Việt Nam tỏa sáng mặt trời

Bao gian tà

Đều lặng lẻ ra đi

Nói đi em

Hãy nói đi em

Cống hiến đời trai

Cho ngày mai

Đất trời nở hoa

Rồi từng đêm

Nghe tiếng hát xa xa

Cả nước non

Trong cuộc sống thăng hoa

Khắp năm châu

Bình yên hạnh phúc âu ca

Càng về Nguồn

Đất nước càng vào xuân

Càng vững Gốc

Đất nước càng gấm hoa

Càng về Nguồn

Đất nước càng tự do

Càng vững Gốc

Đất nước càng ấm no

Ai đâu ngờ

Việt Nam

Chuyển hóa đổi đời

Việt Nam tỏa sáng mặt trời

Khắp năm châu

Ngỡ ngàng đất nước Việt Nam

* * *

Ai đâu ngờ

Việt Nam

Chuyển hóa đổi đời

Việt Nam tỏa sáng mặt trời

Khắp năm châu

Ngỡ ngàng đất nước Việt Nam

Ai đâu ngờ

Việt Nam

Chuyển hóa đổi đời

Việt Nam tỏa sáng mặt trời

Khắp năm châu

Ngỡ ngàng đất nước Việt Nam

* * *

Văn Hóa Cội Nguồn
 
441158605_2741358812707081_4830726405041890335_n.jpg

3 - NHẮC MÃI TÊN ANH

Ôi những tâm hồn

Những con người sáng ngời

Vì đời

Luôn cống hiến không ngừng

Làm nên lẫy lừng

Ôi đẹp làm sao

Những nhân cách thanh cao

Như những dòng sông

Luôn đem về màu xanh

Cho quê hương

Cho nước non

Không còn đau thương

Đem lại sự bình yên

Thế gian gọi mãi tên anh

Ôi dòng chảy thời gian

Những tâm hồn lạc loài

Trong dòng chảy thế thời

Đầy khốn khổ thê lương

Không chỗ tựa nương

Ôi trần gian

Ôi đất trời bao la

Những tâm hồn nhỏ bé

Chờ mong cuộc sống đổi thay

Ôi đẹp làm sao

Những tâm hồn thanh cao

Như những dòng sông

Luôn đem về màu xanh

Cho đời mùa xuân

Đem lại sự bình yên

Thế gian nhắc mãi tên anh

* * *

Ôi những tâm hồn

Những con người sáng ngời

Vì đời

Luôn cống hiến không ngừng

Làm nên lẫy lừng

Ôi đẹp làm sao

Những nhân cách thanh cao

Như những dòng sông

Luôn đem về màu xanh

Cho quê hương

Cho nước non

Không còn đau thương

Đem lại sự bình yên

Thế gian gọi mãi tên anh

Ôi dòng chảy thời gian

Những tâm hồn lạc loài

Trong dòng chảy thế thời

Đầy khốn khổ thê lương

Không chỗ tựa nương

Ôi trần gian

Ôi đất trời bao la

Những tâm hồn nhỏ bé

Chờ mong cuộc sống đổi thay

Ôi đẹp làm sao

Những tâm hồn thanh cao

Như những dòng sông

Luôn đem về màu xanh

Cho đời mùa xuân

Đem lại sự bình yên

Thế gian nhắc mãi tên anh

* * *

Ôi đẹp làm sao

Những tâm hồn thanh cao

Như những dòng sông

Luôn đem về màu xanh

Cho đời mùa xuân

Đem lại sự bình yên

Thế gian nhắc mãi tên anh

Ôi đẹp làm sao

Những tâm hồn thanh cao

Như những dòng sông

Luôn đem về màu xanh

Cho đời mùa xuân

Đem lại sự bình yên

Thế gian nhắc mãi tên anh

* * *

Văn Hóa Cội Nguồn
 
4 - TÌM ĐƯỜNG THOÁT HIỂM

Người vì xa bờ giác

Nên cuộc sống chập chờn

Người vì quên Cội Nguồn

Nên luân hồi ức kiếp

Sống cuộc đời mất Gốc

Tự khô héo lá cành

Nên cuộc đời kém xanh

Thuyền bồng bềnh giữa khơi

Chẳng thấy bến là đâu

Bể trần sóng lao xao

Vô thường con sóng dữ

Làm con thuyền chao đảo

Bát phong thường xoay chuyển

Cuộc đời mãi lao đao

Để tìm đường thoát hiểm

Cội Nguồn trở về mau

Lái cuộc đời về Cội

Bến giác thường neo đậu

Giải thoát mọi khổ đau

Đường lành ta mãi đi

Ác nghiệp chúng tự tiêu

Tai họa không còn nữa

Sống cuộc đời an vui

Kiến chấp thường buông bỏ

Phiền não cũng buông xuôi

Niết bàn liền bước đến

An lạc đã đến nơi

Dù còn ở trần gian

Nhưng thiên đàng trước mắt

Mãn trần liền siêu thoát

Sanh lên các tầng trời

Dù còn trong bể trần

Nhưng đã tìm thấy bến

Thường neo đậu Chân Tánh

Nên thuyền vẫn bình yên

Sống cuộc đời vững Gốc

Giông bão càng vượt lên

Sống cuộc đời vững Cội

Nắng mưa càng thêm xanh

Nguồn còn đời sung túc

Dù còn ở trần gian

Nếu như không tỉnh giác

Sống cuộc đời mất Gốc

Thời khốn khổ triền miên

Đó là điều tất yếu

Đó là lẽ tự nhiên

Dù trên trời cũng thế

Rời Cội Nguồn khô héo

Hết phước

Rơi vào sanh tử đảo điên

Tìm đường thoát hiểm

Chính là trở về

Cội Nguồn tượng nương

Dù là trần gian

Hay là thiên đàng

Cũng vậy như nhau

* * *

Để tìm đường thoát hiểm

Cội Nguồn trở về mau

Lái cuộc đời về Cội

Bến giác thường neo đậu

Giải thoát mọi khổ đau

Đường lành ta mãi đi

Ác nghiệp chúng tự tiêu

Tai họa không còn nữa

Sống cuộc đời an vui

Kiến chấp thường buông bỏ

Phiền não cũng buông xuôi

Niết bàn liền bước đến

An lạc đã đến nơi

Dù còn ở trần gian

Nhưng thiên đàng trước mắt

Mãn trần liền siêu thoát

Sanh lên các tầng trời

Dù còn trong bể trần

Nhưng đã tìm thấy bến

Thường neo đậu Chân Tánh

Nên thuyền vẫn bình yên

Sống cuộc đời vững Gốc

Giông bão càng vượt lên

Sống cuộc đời vững Cội

Nắng mưa càng thêm xanh

Nguồn còn đời sung túc

Dù còn ở trần gian

Nếu như không tỉnh giác

Sống cuộc đời mất Gốc

Thời khốn khổ triền miên

Đó là điều tất yếu

Đó là lẽ tự nhiên

Dù trên trời cũng thế

Rời Cội Nguồn khô héo

Hết phước

Rơi vào sanh tử đảo điên

Tìm đường thoát hiểm

Chính là trở về

Cội Nguồn tượng nương

Dù là trần gian

Hay là thiên đàng

Cũng vậy như nhau

* * *

Tìm đường thoát hiểm

Chính là trở về

Cội Nguồn tượng nương

Dù là trần gian

Hay là thiên đàng

Cũng vậy như nhau

Tìm đường thoát hiểm

Chính là trở về

Cội Nguồn tượng nương

Dù là trần gian

Hay là thiên đàng

Cũng vậy như nhau

* * *

Văn Hóa Cội Nguồn
 
5 - THIÊN SỨ CON TRỜI

Những Thiên Sứ con Trời

Ngày đêm, truyền chánh giáo

Các Ngài là Thần Thánh

Từ thiên thượng xuống đây

Tế độ cứu chúng nhân

Xông pha

Dựng xây đời Thánh Đức

Những con người có khác

Đưa nhân loại về trời

Ôi những con người

Làm nên lịch sử

Làm nên tên tuổi

Ngọn đuốc soi

Khắp chốn làng quê

Rực sáng nước non

Khắp cả năm châu

Ôi những cuộc đời

Những con người

Lặn lội xông pha

Luôn gieo ra

Những hạt ngọc Trời Cha

Nẫy mầm xanh

Kết trái đơm hoa

Những người hùng

Từ đất nước sanh ra

Mang dòng máu Ông Cha

Ôi những con người

Thiên Sứ con Trời

Hi sinh cuộc đời

Vì nhân loại anh em

Truyền Thiên Ý lời kinh

Làm cho nhân loại bình yên

Ôi những cuộc đời

Ôi những con người

Lặn lội xông pha

Làm cho cuộc sống

Nở hoa

Dân giàu nước mạnh

Bài ca thanh bình

Thiên Sứ con Trời,

Thiên Sứ con Trời

* * *

Ôi những con người

Làm nên lịch sử

Làm nên tên tuổi

Ngọn đuốc soi

Khắp chốn làng quê

Rực sáng nước non

Khắp cả năm châu

Ôi những cuộc đời

Những con người

Lặn lội xông pha

Luôn gieo ra

Những hạt ngọc Trời Cha

Nẫy mầm xanh

Kết trái đơm hoa

Những người hùng

Từ đất nước sanh ra

Mang dòng máu Ông Cha

Ôi những con người

Thiên Sứ con Trời

Hi sinh cuộc đời

Vì nhân loại anh em

Truyền Thiên Ý lời kinh

Làm cho nhân loại bình yên

Ôi những cuộc đời

Ôi những con người

Lặn lội xông pha

Làm cho cuộc sống

Nở hoa

Dân giàu nước mạnh

Bài ca thanh bình

Thiên Sứ con Trời,

Thiên Sứ con Trời

* * *

Ôi những con người

Lặn lội xông pha

Làm cho cuộc sống

Nở hoa

Dân giàu nước mạnh

Bài ca thanh bình

Thiên Sứ con Trời,

Thiên Sứ con Trời

Ôi những con người

Lặn lội xông pha

Làm cho cuộc sống

Nở hoa

Dân giàu nước mạnh

Bài ca thanh bình

Thiên Sứ con Trời,

Thiên Sứ con Trời

* * *

Văn Hóa Cội Nguồn
 
6 - LẠI NHỚ ĐẾN NGƯỜI

Nhìn kinh

Lại nhớ đến người

Văn, Thơ, Triết, Truyện

Do người viết ra

Sử kinh

Nguồn Cội Ông Cha

Do người viết lại

Công lao biển trời

Nhớ ơn Thầy

Tuổi cũng đã cao

Mấy mươi năm

Gian nan đủ kiểu

Vì nhân sanh

Khốn khổ trăm bề

Cả cuộc đời

Luôn vì con cháu,

Cả cuộc đời

Luôn vì sông núi

Người Cha già

Dựng nước dựng non

Từ cõi trời trở lại

Cứu vớt thế nhân

Mở con đường

Nguồn Cội Tối Cao

Năm nghìn năm

Dậy ánh tự hào

Ôi Việt Nam

Ôi cháu con Rồng Tiên

Dòng sông thương

Dòng sông xuyên suốt

Năm nghìn năm

Lan tỏa bắc nam

Núi vẫn xanh

Biển vẫn rộng bao la nhớ người

Ơi Hò Quốc Tổ Vua Hùng

Rồng Tiên con cháu

Nghiêng mình chầu Cha

Người là ánh thái dương

Bất tử sáng soi

Nước non, non nước

Nhớ ơn công người

* * *

Nhìn kinh

Lại nhớ đến người

Văn, Thơ, Triết, Truyện

Do người viết ra

Sử kinh

Nguồn Cội Ông Cha

Do người viết lại

Công lao biển trời

Nhớ ơn Thầy

Tuổi cũng đã cao

Mấy mươi năm

Gian nan đủ kiểu

Vì nhân sanh

Khốn khổ trăm bề

Cả cuộc đời

Luôn vì con cháu,

Cả cuộc đời

Luôn vì sông núi

Người Cha già

Dưng nước dựng non

Từ cõi trời trở lại

Cứu vớt thế nhân

Mở con đường

Nguồn Cội Tối Cao

Năm nghìn năm

Dậy ánh tự hào

Ôi Việt Nam

Ôi cháu con Rồng Tiên

Dòng sông thương

Dòng sông xuyên suốt

Năm nghìn năm

Lan tỏa bắc nam

Núi vẫn xanh

Biển vẫn rộng bao la nhớ người

Ơi Hò Quốc Tổ Vua Hùng

Rồng Tiên con cháu

Nghiêng mình chầu Cha

Người là ánh thái dương

Bất tử sáng soi

Nước non, non nước

Nhớ ơn công người

* * *

Ơi Hò Quốc Tổ Vua Hùng

Rồng Tiên con cháu

Nghiêng mình chầu Cha

Người là ánh thái dương

Bất tử sáng soi

Nước non, non nước

Nhớ ơn công người

Ơi Hò Quốc Tổ Vua Hùng

Rồng Tiên con cháu

Nghiêng mình chầu Cha

Người là ánh thái dương

Bất tử sáng soi

Nước non, non nước

Nhớ ơn công người

* * *

Văn Hóa Cội Nguồn
 
7 - MỌI BỀ AN KHANG

Quay về

Nguồn Cội quay về

Coi như bước đến

Mọi bề an khang

Dần dần

Qua hết gian nan

Không còn tai họa

Đeo mang khổ sầu

Huệ khai

Trí sáng dồi dào

Đi vào giác ngộ

Không còn đọa sa

Tương lai

Mở rộng bao la

Thênh thang hạnh phúc

Biết bao đẹp lành

Tuy rằng

Còn ở chốn trần

Nhưng mà cuộc sống

Mọi bề bình an

Kiếp người

Dù ở trần gian

Nhưng Tâm giải thoát

An vui tháng ngày

Không còn

Mê đắm hồng trần

Bến bờ chánh giác

Thường hằng nghĩ Chân

Nhất tâm

Nhận Bổn quy Chân

Cội Nguồn trụ vững

Tựa nương Cha Trời

Truyền kinh

Tận độ nhân loài

Làm cho nhân thế

Về trời siêu sanh

Minh Tâm

Kiến Tánh thường chân

Bổn lai điện mục

Rõ thông bến bờ

Trường sanh

Bất tử thường hằng

An vui tự tại

Vĩnh hằng an vui

Quay về

Nguồn Cội Chân Như

Coi như bước đến

An vui niết bàn

Mọi bề

Tự Tại mọi đàng

An vui hạnh phúc

Ngập tràn an vui

* * *

Kiếp người

Dù ở trần gian

Nhưng Tâm giải thoát

An vui tháng ngày

Không còn

Mê đắm hồng trần

Bến bờ chánh giác

Thường hằng nghĩ Chân

Nhất tâm

Nhận Bổn quy Chân

Cội Nguồn trụ vững

Tựa nương Cha Trời

Truyền kinh

Tận độ nhân loài

Làm cho nhân thế

Về trời siêu sanh

Minh Tâm

Kiến Tánh thường chân

Bổn lai điện mục

Rõ thông bến bờ

Trường sanh

Bất tử thường hằng

An vui tự tại

Vĩnh hằng an vui

Quay về

Nguồn Cội Chân Như

Coi như bước đến

An vui niết bàn

Mọi bề

Tự Tại mọi đàng

An vui hạnh phúc

Ngập tràn an vui

* * *

Quay về

Nguồn Cội Chân Như

Coi như bước đến

An vui niết bàn

Mọi bề

Tự Tại mọi đàng

An vui hạnh phúc

Ngập tràn an vui

Quay về

Nguồn Cội Chân Như

Coi như bước đến

An vui niết bàn

Mọi bề

Tự Tại mọi đàng

An vui hạnh phúc

Ngập tràn an vui

* * *

Văn Hóa Cội Nguồn
 
8 - TRẦN GIAN CÕI TẠM

Buồn làm chi em ơi

Trần gian cõi tạm mà thôi

Đừng nghĩ rằng ở lâu

Đời người tựa bóng câu

Sanh là đến, tử là đi

Cảnh trần như mây khói

Vô thường luôn kéo đến

Biết bao là ngan trái

Biết bao là dãi dầu

Nào có được chi đâu

Buồn làm chi em ơi

Cảnh đời lắm trái ngang

Sự đời lắm phủ phàn

Cuộc sống luôn ngỡ ngàng

Hết duyên thời chia ly

Chốn trần luôn là thế

Bao đau thương tan tác

Lắm cảnh đời tan nát

Kiếp trần đời ra chi

Như hoa kia héo tàn

Mấy ai muốn ngắm nhìn

Thức tỉnh đi em ơi

Thuyền Nguồn đã đến nơi

Mau lên thuyền ra khơi

Bên kia là bờ giác

Quê hương tiên tiên giới

Quê hương toàn châu báu

Vĩnh hằng cõi trường sanh

Đâu như trần gian

Chỉ là cõi tạm

Nào có được bền lâu

Buồn làm chi em ơi

Giàu nghèo chỉ tạm thôi

Quan, dân, nào có khác

Vùi sâu vài tất đất

Trở thành nấm mồ hoang

Sống cuộc đời phôi pha

Nắng mưa nào phải do ta

Tất cả là Thiên Ý

Hợp duyên là đến

Mãn trần là đi

Buồn làm chi buồn làm chi

Lên thuyền Nguồn Cội

Quy y Cội Nguồn

* * *

Buồn làm chi em ơi

Cảnh đời lắm trái ngang

Sự đời lắm phủ phàn

Cuộc sống luôn ngỡ ngàng

Hết duyên thời chia ly

Chốn trần luôn là thế

Bao đau thương tan tác

Lắm cảnh đời tan nát

Kiếp trần đời ra chi

Như hoa kia héo tàn

Mấy ai muốn ngắm nhìn

Thức tỉnh đi em ơi

Thuyền Nguồn đã đến nơi

Mau lên thuyền ra khơi

Bên kia là bờ giác

Quê hương tiên tiên giới

Quê hương toàn châu báu

Vĩnh hằng cõi trường sanh

Đâu như trần gian

Chỉ là cõi tạm

Nào có được bền lâu

Buồn làm chi em ơi

Giàu nghèo chỉ tạm thôi

Quan, dân, nào có khác

Vùi sâu vài tất đất

Trở thành nấm mồ hoang

Sống cuộc đời phôi pha

Nắng mưa nào phải do ta

Tất cả là Thiên Ý

Hợp duyên là đến

Mãn trần là đi

Buồn làm chi buồn làm chi

Lên thuyền Nguồn Cội

Quy y Cội Nguồn

* * *

Buồn làm chi em ơi

Giàu nghèo chỉ tạm thôi

Quan, dân, nào có khác

Vùi sâu vài tất đất

Trở thành nấm mồ hoang

Sống cuộc đời phôi pha

Nắng mưa nào phải do ta

Tất cả là Thiên Ý

Hợp duyên là đến

Mãn trần là đi

Buồn làm chi buồn làm chi

Lên thuyền Nguồn Cội

Quy y Cội Nguồn

Buồn làm chi, buồn làm chi

Lên thuyền Nguồn Cội

Quy y Cội Nguồn

* * *

Văn Hóa Cội Nguồn
 
9 - QUỐC ĐẠO VỀ

Quốc Đạo đã về, trên quê hương

Khắp đất trởi, rực ánh mùa xuân

Tiếng reo mừng, khắp đất trời

Tiếng hát lời ca, đàn sáo véo von

Mai đào rực rỡ non sông

Mùa xuân Quốc đạo, nở bông hoa vàng

Chào bển rộng, chào đất trời

Chào nền Văn Hóa Cội Nguồn muôn năm

Mừng non mừng nước đổi thay

Mừng xuân thắng lợi, rồng bay phụng chầu

Nước non, non nước non nhà

Bừng lên phơi phới chang hòa ấm êm

Dâng lên Quốc Đạo uy linh

Bài ca hạnh phúc đặt tên Tiên Rồng

* * *

Nước Việt Nam, Lạc Hồng rực rỡ

Năm nghìn năm, uy vũ đất trời

Quân thù khiếp sợ kinh hồn

Rồng Tiên vẫn mãi, Tiên Rồng vinh hoa

Mai nầy Nước Việt, Nam ta

Năm châu bốn bể, ngợi ca Tiên rồng

Núi sông kể chuyện Vua Hùng

Dựng xây đất nước Lạc Hồng Việt Nam

Quốc Đạo Quốc Giáo vẻ vang

Cờ bay phất phới Địa Long sáng bừng

Toàn dân từ trẻ đến già

Quốc Ca đồng hát nhịp chày dựng non

Nước Ta đất nước vàng son

Bốn mùa rực thắm hoa thơm bốn mùa

Quyết lòng xây dựng nước nhà

Tự do, dân chủ nhân quyền tự do

Đạo về Quốc Đạo bừng lên

Non sông Tổ Quốc toàn dân reo mừng

* * *

Toàn dân từ trẻ đến già

Quốc Ca đồng hát nhịp chày dựng non

Nước Ta đất nước vàng son

Bốn mùa rực thắm hoa thơm bốn mùa

Quyết lòng xây dựng nước nhà

Tự do dân chủ nhân quyền tự do

Đạo về Quốc Đạo bừng lên

Non sông Tổ Quốc toàn dân reo mừng

Đạo về Quốc Đạo lẫy lừng

Non sông Tổ Quốc reo mừng toàn dân

Đạo về Quốc Đạo bừng lên

Non sông Tổ Quốc, toàn dân reo mừng

Đạo về Quốc Đạo lẫy lừng

Non sông Tổ Quốc reo mừng toàn dân

* * *

Văn Hóa Cội Nguồn
 
Quay lại
Top Bottom