Rồng Tiên lược truyện

74. CÂU CHUYỆN NGOẠI GIAO

Ngày xửa ngày xưa nơi địa cầu gần cuối tiểu kiếp thứ 7 nền văn minh khoa học vật chất đi đến đỉnh cao, thế giới địa cầu nhân loại hình thành hai xu thế.

Một xu thế tiến lần đến Hiến Pháp Trị, Luật Pháp Trị đi vào công bằng bình đẳng loại bỏ độc tài độc trị Phong Kiến Vua Chúa.

Một xu thế khác đi ngay vào độc tài Đảng Trị, loại bỏ độc tài độc trị Phong Kiến Vua, Chúa. Khi ấy nơi Phương Đông có một đất nước Dương Việt, đến thời kỳ Hạ Ngươn Mạt Pháp sự hưng thịnh của các Đảng Phái ra đời càng nhiều loại trừ nền Phong Kiến độc tài Vua Chúa lạc hậu, tiến lên độc tài Đảng Trị theo Thể Chế một mức cao hơn.

Đảng nào thủ nhiều thủ đoạn, lắm chiêu bài độc ác thời chiếm nhiều ưu thế loại trừ các đảng phái khác chiếm lĩnh ngôi vị thống lãnh đất nước trở thành Độc Tài Đảng Trị thay cho độc tài độc trị Phong Kiến Vua, Chúa.

Với Thể Chế Độc Tài Toàn Trị Đảng Lãnh Đạo đưa đất nước tiến tới quốc hữu hóa, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng cải cách đổi mới đất nước lên một tầm cao mới hơn hẳn bao triều đại Độc Tài Phong Kiến Vua Chúa đã qua. Nhất là tài quản lý con người theo thể chế Độc Tài Toàn Trị chặt cứng không cựa quậy được vận hành xã hội đi vào quốc hữu hóa.

Với Thể Chế Độc Tài Toàn Trị cái gì cũng của Nhà Nước sự chỉ đạo sâu sát, đến nỗi quản lý cả ăn, ngủ, đái, ỉa không để phí bỏ. Nói gì đến chuyện làm ăn, thời càng quản lý chặt chẽ cây kim sợi chỉ cũng không lọt, làm gì cũng phải đi vào khuôn khổ cúi xin, còn cho hay không là quyền của lãnh đạo. Với thế thời, thời thế vương quan lắm nhiều tật bệnh nhất là bệnh tham nhũng, quan liêu hách dịch tham quyền cố vị vơ vét của dân lan tràn thành dịch không còn thuốc chữa. Muốn được việc làm ăn chạy bửa thời ra sức van xin nài nỉ đút lót.

Người dân nào có chút hiểu biết thời hiểu bệnh của quan đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, thời nói nho nhỏ quan cũng nghe, không đồng tiền đi trước dù cho lời nói to như sấm nổ mình nói mình nghe, lộc quan không có cái dè luống công.

Độc Tài Đảng Trị. Đảng Cải Cách lãnh đạo toàn diện, cao hơn Độc Tài Phong Kiến Vua, Chúa là ở chỗ quản lý sạch bách cái gì cũng của nhà nước, con chim trên trời cũng khó mà được tự do bay nhảy, con cá dưới sông con cua dưới biển, rong rêu, bọt, bèo trôi nổi cũng phải nằm trong sự quản lý. Thuận Đảng thời sống chống Đảng thời chết, nhiều kiểu chết, không sao kể hết đại khái tiêu biểu mà thôi. Chết vì tù, chết không việc làm, chết đói, chết vì sợ hãi, chết vì sa thải, chét bị cô lập, chết sinh bệnh tật mà chết, v.v… Với tài lãnh đạo tạo ra nhiều cái chết như thế, ai mà không sợ nhứt hô bá ứng dân chúng răm rắp nghe theo phát triển kinh tế theo mô hình lấy sức dân là chính.

Với sự ra quân ồ ạt dân chúng ra đồng đông nghịt như đàn quạ, đàn ông kẻ cuốc người cày, đàn bà phụ nữ thi nhau trồng ngô cấy lúa, dưới bầu trời nắng chang chang, hơi nóng hừng hực, những giọt mồ hôi nhỏ giọt chảy ròng ngó thấy, lúc mưa dầm cũng phải hăng hái thi đua, với phương châm lao động là vinh quan, trong ba ngày tết cũng xén bớt một ngày mùng một ra quân, không có thời nào đề cao lao động cao ngút trời xanh như thế, xưa nay độc tài Vua, Chúa Phong Kiến mấy ai làm được cổ kim giờ đây mới thấy.

Một hôm hàng cấp cao Độc Tài Toàn Trị mở cuộc hội họp quy mô mở rộng phương châm làm ăn đối tác với các nước, đồng chí Chủ Tịch kim Bí Thư tỉnh nói.

Để cho thế giới những nước đi theo con đường Hiến Pháp Trị, mở rộng tầm mắt, với tài lãnh đạo Cải Cách Độc Tài Đảng Trị làm ăn ra phết phát triển kinh tế Dương Việt Ta. Trung Ương lấy tỉnh ta làm nơi đối tác với các nước hôm nay có nhiều nước theo xu thế Hiến Pháp Trị đến tham quan học hỏi trao đổi kinh nghiệm làm ăn, các Đồng Chí chửng bị sự tiếp đón niềm, tiệc tùng mở tiệc tiếp đãi cho thật hoành tráng, những người mẫu, những giọng hát hay phô trương bề thế ca ngợi sự phát triển của đất nước ta.

Đồng Chí Chủ Tịch Kim Bí Thư phô trương lực lượng tiếp đón ăn nói ra phết, nhất là thông dịch viên nhiều khi thiếu sót đang nói gà chuyển sang qua vịt, người nghe không hiểu nếp tẻ gì cả. Những lãnh đạo cao cấp các nước theo con đường Hiến Pháp Trị đến nước Dương Việt tham quan học hỏi, trong những lãnh đạo cao cấp các nước có Tổng Thống Ma Ghi.

Tổng Thống Ma Ghi nghe nước Dương Việt dưới sự dẫn dắt lãnh đạo tài tình của Đảng Cải Cách Độc Tài Toàn Trị làm ăn phát triển tiến nhanh, tiến mạnh, tiến bền vững, tiến lên xã hội quốc hữu hóa khó có nước nào theo kịp, theo những lời ca ngợi quảng bá của nước Dương Việt.

Tổng Thống Ma Ghi dẫn theo các ban ngành chủ lực, các doanh nghiệp hàng đầu trong nước đến nước Dương Việt mở rộng tầm mắt tham quan học hỏi.

Sự tiếp đón bề thế, tiếp đãi toàn cao lương mỹ vị, nhân viên phục vụ toàn gái đẹp làn da trắng nuốt, áo quần bó sát có tài ca hát, phô trương vòng eo đạt chuẩn. Tổng Thống Ma Ghi không khỏi bái phục sự tiếp đãi đầy lãng mạn cũng như sự tốn kém tiền của sức dân.

Tổng Thống Ma Ghi cũng thừa nhận rằng không tài nào làm nổi chắc là dân Dương Việt giàu lắm, nên Đảng mới ăn xài cao chín tầng mây như vậy.

Để được tận mắt chứng kiến sự lãnh đạo tài tình làm ăn kinh tế của Đảng Cải Cách Độc Tài Toàn Trị bằng nói với các ban ngành theo mình các ông phải học hỏi, xem xét cho kỷ, ghi hình cũng như học cách làm ăn.

Đồng Chí Chủ Tịch Kim Bí Thư cùng đội ngũ kỳ tài lãnh đạo dẫn phái đoàn các nước trong đó có phái đoàn nước Ma Ghi đến tham quan cơ sở phát triển làm ăn theo ngành nông nghiệp, bằng dẫn đến một cánh đồng rộng lớn mỗi mùa thu về vài nghìn tấn thóc.

Khi đến nơi các phái đoàn tham quan học hỏi sửng sốt. Tổng Thống Ma Ghi thời quá bất ngờ. Vì thấy dân chúng ra đồng nhiều như đàn quạ không khác gì ngày hội, đàn ông trai trán thi nhau cày cuốc xốc phả, đàn bà phụ nữ thi nhau trồng cấy với số đông dẫn đạp lên bùn lầy tung tóe như những dũng sĩ băng sông vượt núi, không một bóng máy cày, máy bừa, máy cấy nào cả.

Tổng Thống Ma Ghi khen không hết lời, bằng nói sự lãnh đạo tài tình một mô hình làm ăn hiệu quả. Đất nước chúng tôi không bao giờ làm nổi huy động sức dân đông đến dường nầy. Thời cần gì máy cày máy bừa cũng nát bét bùn đất sạch bách cỏ cây, đâu cần chi phí đầu tư tốn dầu tốn xăng cho tốn kém.

Một vị tham mưu cho Đảng nói. Nhờ sự lãnh đạo tài tình của Đảng biến cánh đồng bạc màu trở thành cánh đồng năm tấn trên một héc ta.

Khi ấy có một vị cấp cao nước Ma Ghi tách đàn đến gặp người dân hỏi nhỏ làm ăn theo kiểu tập thể huy động sức người thế nầy thời khẩu phần được bao nhiêu?

Người dân thật thà nói đổ mồ hôi sôi nước mắt cũng chỉ đủ ăn, làm ngày làm đêm tối mày tắc mặt, một năm cũng chỉ mua được hai mét vải không đủ che thân, lấy đâu ra dư dả no cơm ấm áo nói xong thời bỏ đi thở dài lắc đầu ngao ngán.

Vị Chủ Tịch Kim Bí Thư dẫn các phái phái đoàn tham quan các nước đến tham quan các cơ sở công nghiệp nhà máy. Tổng Thống Ma ghi thấy công nhân ở đây hai lỗ mũi tranh nhau mà thở, phần lớn là làm thủ công sức người là chính, sản phẩm làm ra không được bao nhiêu, cung cấp khan hiếm nhỏ giọt không theo kịp nhu cầu xã hội. Xe sắp hàng nối đuôi khác gì toa tàu lửa, chờ cả tháng mà chưa có hàng.

Cán bộ làm giàu không cần tốn sức, quà cáp nườm nượp người nào cung xe hơi nhà lầu ô tô. Chỉ thua ông vua cung phi mỹ nữ hàng tá mà thôi.

Tổng thống Ma Ghi nói, ở đất nước chúng tôi những sản phẩm làm ra khó mà tiêu thụ, vì người dân được quyền lựa chọn, nếu sản phẩm làm ra không đạt tiêu chuẩn liền bị tẩy chay đi đến phá sản. Không như ở đây lúc nào hàng hóa cũng khan hiếm cung không đủ cho sự nhu cầu thời làm gì có chuyện thất nghiệp nếu không có sự lãnh đạo tài tình của Đảng. Thời làm gì có chuyện công nhân hai lỗ mũi tranh nhau mà thở vì làm không kịp cho sự nhu cầu.

Đồng Chí Bí Thư kim Chủ Tịch cùng cùng các ban ngành tham mưu cho Đảng thấy Tổng Thống Ma Ghi lúc nào cũng khen ngợi thời không khỏi tự hào nói, mô hình làm ăn hiệu quả là nhờ sự lãnh đạo tài tình của Đảng, kinh tế phát triển luôn ở mức cao năm sau hơn năm trước. Đi đến chỗ nào Tổng Thống Ma Ghi cũng khen, thời nghĩ rằng sẽ ký hợp đồng giao thương mỏi tay.

Nào hay đâu khi về đến cơ quan Lãnh Sự Ngoại Giao Tổng Thống Ma Ghi nói lần nầy qua đây chỉ là chuyến đi tham quan học hỏi. Việc ký hợp đồng làm ăn trao đổi hai chiều phải chửng bị kỷ hơn, nhất là hai bên cùng có lợi.

Trước khi về nước Tổng Thống Ma Ghi mời các ban ngành thành phần kinh tế chủ lực qua thăm nước Ma Ghi. Chủ Tịch Kim Bí Thư nhận lời, hứa hẹn sẽ sang thăm quan nước Ma Ghi. Chủ Tịch Kim Bí Thư nói chúng tôi nhân tiện qua bên ấy ký hợp đồng đa phương hóa nhiều lĩnh vực giao thương kinh tế giao kết luôn thể.

Nhận lời mời nước bạn, ban lãnh đạo cấp cao nhà nước Dương Việt kết hợp nhiều tỉnh thành, nhiều ban ngành một lực lượng hùng hậu, nhất từ xưa đến nay có cả những thành phần dày kinh nghiệm chăn nuôi gia súc đến nước Ma Ghi.

Chiếc phi cơ vừa đáp xuống sân bay, Tổng Thống Ma Ghi với đoàn xe con đắt giá nhất thế giới tiếp đón phái đoàn Dương Việt làm choáng ngợp phái đoàn cao cấp Dương Việt. Phái đoàn cao cấp Dương Việt được đoàn xe con đắt giá nhất thế giới chở đến nơi lãnh sự quán Ngoại Giao nước Ma Ghi nghỉ ngơi cũng như sự tiếp đãi.

Một cuộc thiết đãi được mở ra, phái đoàn Dương Việt thật bất ngờ chẳng thấy cao lương mỹ vị nào cả, toàn là những món ăn thường dân, ai cũng có thể mua vì giá cả phải chăng không quá đắc.

Qua ngày hôm sau Tổng Thống Ma Ghi cùng các thành phần kinh tế đã từng đến Dương Việt. Dẫn phái đoàn đủ thành phần ban ngành cấp cao hùng hậu Dương Việt đến cánh đồng rộng lớn, rộng gấp ba lần cánh đồng năm tấn của Dương Việt để tham quan.

Các ban ngành hùng hậu nhiều thành phần làm ăn kinh tế Dương Việt đến nơi chứng kiến tận mắt chẳng thấy đôi trâu bò nào cả, cũng không có dân chúng đông như đàn quạ dẫm đạp lầy ruộng. Mà chỉ thấy hơn mười con trâu sắt rìn rịn nghe êm tai xịt khói lên trời mời mây xuống để xem tài cày bừa xốc phả. Mỗi con trâu sắt mang 20 lưỡi cày rượt đuổi xem đã con mắt cỏ xanh bị cày lật vùi lấp, cỏ xanh chưa kịp ngóc đầu xả hơi, thời mấy con trâu sắt theo sau bừa xốc tả tơi, cánh đồng ruộng mới đó chưa lâu màu xanh của cỏ sạch bách thay vào đó là màu đen thẫm bằng phẳng màu mỡ của đất.

Từ nơi cánh đồng lại xuất hiện thêm mười con trâu sắt trông có vẻ mảnh mai càng gọng múa may, có lẽ những con trâu sắt cái rìn rịn thi nhau cấy, chỉ trong chốc lát cánh đồng rộng lớn chó chạy ngay đuôi màu xanh của lúa trải khắp phủ kín cánh đồng.

Phái đoàn Dương Việt tưởng như là đang trong mơ đang lạc đến một thế giới khác, trằm trồ không dứt. Tổng Thống Ma Ghi nói đây là mô hình phát triển Tư Nhân, tự do kinh doanh, tự do phát triển những gì Hiến Pháp cho phép, Luật Pháp bảo vệ. Không có cái gọi là nhà nước lãnh đạo tài tình. Cũng không có sự xin, cho, nào cả.

Tổng Thống Ma Ghi dẫn phái đoàn Dương Việt đến cánh đồng rộng lớn xanh mướt, nhìn thấy những máy bay không người lái phun thuốc trừ sâu. Một người nông dân trông có vẻ thảnh thơi, đứng hứng gió nhấp nháy ngón tay điều khiển. Cánh đồng rộng lớn không đầy tít tắc không bao lâu bướm sâu chẳng còn một con.

Bên kia là cánh đồng lúa chín, phái đoàn Dương Việt vừa đi tới ai nấy cũng trầm trồ kể gì 10 tấn trên hec ta, người gặt không thấy chỉ thấy những con bò sắt vừa gặt vừa gôm rạ, vừa phun lúa. Theo sau kế bên là những con cào cào sắt vừa õng ẹo vừa hứng no nê thời chạy đi, để cho con khác đến hứng ăn, cánh đồng lúa chín rộng lớn trong chốc lát là hết sạch.

– Đến lúc nầy đồng chí Bí Thư Chủ Tịch nhìn Tổng Thống Ma Ghi với vẻ khâm phục hỏi, làm ăn kiểu nầy thời đàn quạ ở không bay đến nơi nào.

Thay cho câu trả lời Tổng Thống Ma Ghi dẫn phái đoàn tham quan Dương Việt đến những khu nhà máy, làm ra những sản phẩm có giá trị. Đồng chí Bí Thư Chủ Tịch thấy người nông dân ở đây đã qua trường lớp làm chủ máy móc, điều khiển máy móc làm ra sản phẩm năng xuất cao ngất ngưỡng, một người làm ra sản phẩm bằng hàng trăm người làm thủ công. Đồng Chí Bí Thư Chủ Tịch không khỏi ngớ ngẩn thì ra là vậy.

Từ nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp đa dạng, đa ngành nghề không phải dùng sức con người mà dùng sức máy móc do con người điều khiển, thảo nào đất nước Ma Ghi giàu mạnh đến thế đúng là các nước theo mô hình tư hữu hóa phát triển tư nhân đi theo con đường Hiến Pháp trị Luật Pháp bảo hộ họ đã biến trần gian thành thiên đàng cực lạc.

Một mô hình làm ăn phát triển kinh tế theo con đường sở hữu hóa phát triển tư nhân là một hướng đi đúng. Chỉ cần một tổng giám đốc điều hành cả hàng vạn công nhân cũng không hề thấy mệt dễ không, bộ máy gọn nhẹ không cồng kềnh, mà hiệu quả cao.

Còn phát triển theo kiểu Cải Cách tập trung lấy sức người làm chính chưa chắc đã hơn kiểu làm ăn Vua, Chúa phong kiến, nói gì theo kịp những nước văn minh không nghị định, không công văn, không cần dài tay chỉ đạo. Chuyên chính một Hiến Pháp nhất quán công bằng bình đẳng ai cũng như ai đi vào cạnh tranh lành mạnh. Của cải làm ra dồi dào cung lúc nào cũng đủ phục vụ cho nhu cầu. Có thể nói là dư thừa xuất khẩu bán qua các nước khác làm giàu cho đất nước mình.

Sự tham quan bấy nhiêu cũng đủ, khi họ ở trên mây còn mình thời ở nơi đất cái, không nói là quá lạc hậu so với họ. Chuyến đi không có sự ký kết giao thương làm ăn hai bên cùng có lợi nào cả. Mà ký kết mở cửa giao thương, mời những giáo sư, tiến sĩ truyền dạy nền khoa học tuyên tuyến cho Dương Việt.

Chuyến đi tưởng đâu làm thầy thiên hạ, té ra mời thiên hạ làm thầy cho mình, như bong bóng xì hơi còn lên mặt gì nữa.

Đồng chí Bí Thư Chủ Tịch dẫn phái đoàn hùng hậu trở về nước như bánh xe xẹp lốp, báo cáo lên trung ương ra sức đổi mới Cải Cách theo hướng làm ăn người ta. Nhưng ngặt nỗi thể chế độc tài độc trị già cỗi xơ cứng.

Càng Cải Cách đổi mới thời tiền của chảy vào túi tham quan, bầy sâu càng phình càng béo. Hô hào sống theo Hiến Pháp, làm theo Hiến Pháp, nhưng thể chế độc tài Đảng Trị không thay đổi biến thể chế chủ trương trở nên quái dị đầu Gà thân Vịt. kẻ kéo xuống nước người lôi lên bờ, kẻ níu người trì làm cho đôi chân béo phì trở thành bộ máy cồng kềnh không lương mà trả. Làm không ra của tranh nhau ăn lại quá nhiều, của núi cũng hết nói gì đến nghèo xác nghèo xơ. Ngân sách tiêu hao thâm hụt hàng năm quá lớn, tám đại nạn theo đó cũng ra đời thi nhau tàn phá chế độ.

1- Quốc nạn tham nhũng xảy ra tàn phá chế độ vô phương cứu chữa.

2- Chủ nghĩa quái thai đầu gà mình vịt hai xu thế khác nhau kẻ níu xuống nước, người trì lên bờ rốt cùng dẫn tới chia bè rẽ phái triệt hạ lẫn nhau, tàn phá chế độ.

3- Nạn Thiên Tai khắc nghiệt, dịch bệnh hoành hành bởi chuyển đổi chu kỳ theo luật tuần hoàn cuối Hạ Ngươn Mạt Pháp chuyển sang Thượng Ngươn Thánh Đức những gì không phù hợp đi dần vào loại bỏ tàn phá thời cuộc dẫn đến làm thay đổi chế độ.

4- Nạn thừa lao động dẫn đến thất nghiệp sinh ra bao chuyện không hay tàn phá chế độ

5- Nạn học thành tài không đất dụng võ, cái tài bị bỏ ngỏ sanh ra bao điềm dở gây tai họa cho đất nước, chế độ theo đó cũng xuống cấp đi đến hấp hối không nói là chờ ngày ra đi

6- Nạn ô nhiễm môi trường sống trong độc hại sinh ra nhiều chứng bệnh đã nghèo đói, càng thêm đói nghèo đủ loại giặc ra đời xã hội khó mà bình yên, chế độ cũng theo đó đi tiêu.

7- Nạn dân quá khổ, sanh ra phỉ báng chế độ, chế độ đàn áp hành dân. Dân ví như nước Chế Độ là Cá nước đã cạn đương nhiên là Cá cũng rồi đời.

8- Nạn cạnh tranh mạnh được yếu thua, kẻ thắng thế là vua, kẻ thua thế bị bắt cho là giặc. Ruột, Gan, Phèo, Phổi trục trặc sống làm sao được thể chế đột quỵ từ giả thế cuộc trở về khói mây.

– May thay Nguồn Cội hồi sinh soi đường dẫn lối cứu nguy nước nhà Dương Việt vì thế kiếp nạn tai qua, thoát khỏi nô lệ ngoại bang, sang trang sử mới hiệp theo chu kỳ tạo hóa. Không còn thể chế độc tài độc trị hội nhập chung cùng các nước văn vinh Gà chơi với Gà, không còn cảnh đầu gà mình Vịt. Không bao lâu thời theo kịp Nước Ma Ghi.
 
75. NHƠN ĐẠO, CÁI GỐC TẤT CẢ ĐẠO

Vào thời dựng nước nơi thượng viện Quốc Đạo Quốc Tổ truyền giáo cho hàng Vương Quan.

Quốc Tổ truyền xong căn bản Nhơn Đạo. Để dễ hiểu dễ nhớ Quốc Tổ tóm lại những điều chính yếu cốt lõi cơ bản trong Nhơn Đạo. 1 là có Nhân, 2 là có Nghĩa, 3 là có lễ, 4 là có Trí, 5 là có Tín, 6 là có Trung, 7 là có Hiếu, 8 là biết Thuận Hòa, 9 là biết Liêm Sỉ, 10 là lòng Quảng Đại Bao Dung. Những ai chỉ cần làm được ba điều trong 10 điều căn bản Nhơn Đạo, thời không còn sa đọa vào ba đường ác Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Những ai không vi phạm 10 điều căn bản Nhơn Đạo, lại sống theo đó mà hành sự đối nhân xử thế thời nhất định trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Vì sao lại nói như thế vì Nhơn Đạo là cái Gốc của tất cả Đạo.

Khi ấy có một vị tên là Cao Tổ.

Chắp tay hướng về Chí Tôn Thiên Đế thưa rằng;

Thưa Chí Tôn Thiên Đế:

Đã là con người con cái nhà Trời, sao còn phải sa đọa vào tam đồ khổ Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh.

Quốc Tổ nói khá khen cho Đạo Sư Cao Tổ, Ông vì Vương Quan, cũng như những thế hệ sau nầy hiểu rõ về sa đọa luân hồi mới hỏi như vậy.

Quốc Tổ thuyết giảng rằng: Con người chỉ là bộ máy xác thân tiểu thiên vũ trụ do Tổ Tiên Tạo Hóa Như Lai. Thâu Tóm Chơn Âm, Chơn Dương, Tinh Hoa Vũ Trụ hiện thân ra Cha Trời Mẹ Trời. Chánh Thân Chánh Mẫu.

Rồi từ Chánh Thân, Chánh Mẫu sanh tạo ra con người, con người chỉ là Bộ Máy Xác Thân Tiểu Thiên Vũ Trụ, nên con người không quyết định sự luân hồi, cũng như thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa hay lên thiên đàng xuống địa phủ, mà chính là Linh Hồn con người quyết định tất cả.

Linh Hồn con người là Tiểu Linh Hồn vũ trụ do Đại Linh Hồn vũ trụ phân hóa pháp thể Linh Giác tạo ra ví như Nước tạo ra Bọt Nước. Bọt Nước cũng chính là nước. Ví như Lực tạo ra Điện. Điện cũng chính là Lực. Ví như bột làm ra Bánh, Bánh cũng chính là Bột. Vì vậy Đại Linh Hồn Tổ Tiên Tạo Hóa Vũ Trụ bất tử, không sanh không diệt. Thời mỗi tiểu Linh Hồn cũng bất tử, không sanh không diệt. Không khác gì Đại Linh Hồn Tổ Tiên Vũ Trụ.

Tiểu Linh Hồn đầu thai vào Bộ Máy Xác Thân Tiểu Thiên vũ trụ con người, tu luyện tiến hóa Linh Hồn, cho đến khi thành Đạo Làm Người, trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Nếu tu luyện tiến hóa chưa thành Đạo Làm Người.

Có nghĩa là: Linh Hồn đầu thai làm người rồi, nhưng chưa tiến hóa thành Đạo Làm người. Linh Hồn tức là Linh Căn còn ở dạng Súc Sanh, Cầm, Thú, Bò Sát. Khi mất thân người rồi, tái sanh đầu thai làm người trở lại tu luyện cho đến khi nào thành Nhơn Đạo làm người, thành tựu 10 điều căn bản như đã nói trên. Thời trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa siêu sanh lên các tầng trời, cõi trời sanh sống trong thế giới Thiên Đàng Cực Lạc an vui hạnh phúc tự tại.

Nói cho dễ hiểu;

Mỗi Tiểu Linh Hồn đầu thai làm người. Tu Luyện chừng nào cho có Lòng Nhân, không còn Bất Nhân.

Cũng như Tu luyện thành tựu Nhân Nghĩa, không còn Bất Nghĩa.

Tu luyện đến khi nào biết đối nhân xử thế lấy Lễ làm đầu không còn Vô Lễ.

Tu luyện đến chừng nào tiến hóa Ý Thức Nhận Thức phân biệt được ác, thiện. đúng sai, phước, họa, sa đọa, siêu thăng, nói chung là đạt đến cảnh giới trí tri việc gì nên làm việc gì không nên làm ra khỏi Ngu Si. Trở thành người có Trí.

Tu luyện cho đến khi nào thành tựu lòng tin nơi Cội Nguồn cũng như làm việc gì cũng phải giữ chữ Tín.

Tu luyện cho đến khi nào đạt đến Lòng Trung Thành, có trách nhiệm đối với Cội Nguồn, non sông, đất nước, dân chúng. Có nghĩa là không phản bội lại Cội Nguồn, Non Sông, Đất Nước, Dân Chúng. Trung thành tuyệt đối với Cội Nguồn, Non Sông Tổ Quốc, Dân Chúng.

Tu luyện cho đến khi nào thành tựu chữ Hiếu không quên ơn sanh thành dưỡng dục. Chánh Thân Chánh Mẫu, Phụ Thân Phụ Mẫu, công ơn dạy bảo các Bậc Tôn Sư.

Tu luyện cho đến khi nào thành tựu Nhân Đức trên Thuận dưới Hòa sống biết Liêm biết Sỉ.

Tu luyện cho đến khi nào thành tựu lòng Quản Đại, cũng như sự Bao Dung sống vì người không vì mình Tánh Khiên Hòa, không Cố Chấp, biết tha thứ tình thương rộng lớn đối với nhân loại anh em.

Thời nhất định trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trở lại Thiên Đàng Cực Lạc an vui tự tại. Vì sự thành tựu Nhơn Đạo khó khăn như thế nên mỗi Tiểu Linh Hồn phải trả qua không biết bao nhiêu số kiếp. Cứ 16 triệu 800 một tiểu kiếp cho một đại khóa tu luyện tiến hóa Linh Hồn.

Mười điều căn bản Nhơn Đạo nói trên chính là Phật Tánh, Thánh Tánh, Thiên Tánh, có trong Lương Tâm chính là Lương Tri của mỗi con người. Không cần tìm cầu đâu xa chỉ cần làm sáng mười điều căn bản Nhơn Đạo trong Lương Tâm. Thời trên đầu liền có hào quang. Thậm chí là Vô Lượng Quang.

Những ai hành động trái ngược lại Lương Tâm thời những người ấy còn ngu si, mê muội. Nói chung là Thiếu Hiểu Biết. Thời coi như chưa đắc đạo Nhơn Luân. Nhơn Đạo chưa thành còn ở tánh Thú, Cầm. Phải chịu luân hồi tùy theo ác, thiện nhận lấy quả báo.

Không có Tánh người đương nhiên phải chịu đầu thai trở lại kiếp thú, cầm. Đã không có tánh người còn làm ác hại người đương nhiên phải sa đọa xuống các tầng Địa Phủ hoặc biến thành Ngạ Quỉ. Luật Trời phân định hai cảnh giới rõ ràng Thiện thời siêu sanh Thiên Đàng Cực Lạc. Ác phải chịu sa đọa xuống các tầng Địa Phủ Cực Khổ. Vì Trong cõi Âm Phủ có hình thành vô số Địa Ngục hành hình tội nhân.

Nói tóm lại: Mười điều cơ bản của Đạo Làm Người thành tựu trọn vẹn thời Linh Hồn đã tiến hóa lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Nếu thành tựu được bảy tám điều thời khi mãn kiếp trần chết đi liền đầu thai trở lại làm người, thường có uy quyền cũng như sự giàu có thông minh sáng láng. Nếu tiếp tục tu hành đạt đến mười điều cơ bản Đạo Làm Người, Thời trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa siêu sanh về các tầng trời, các cõi trời hưởng phước sống trong sự giàu sang sung sướng muốn gì được nấy an vui tự tại.

Lúc bây giờ trong pháp hội có vị Đạo Sư tên là Cao Tông chắp tay hướng về Chí Tôn Thiên Đế thưa rằng, thưa Đức Chí Tôn Thiên Đế:

Những người xưa nay lầm đường lạc lối rời ra Lương Tâm của chính mình trở thành những người Bất Nhân, Bất Nghĩa, Vô Lễ, không có chữ Tín, chẳng Trung chẳng Hiếu, thường gây gỗ, không biết Liêm, Sỉ là gì. Tánh Keo Kiệt lại hung sùng ác sát. Nay nghe được lời dạy bảo của Đức Chí Tôn. Ăn Năng sám hối Tu luyện tiến hóa, biết Phân Biệt Thiện Ác, có Nhân, có Nghĩa, có Lễ, có lòng Khoan Dung Độ Lượng, có Trung có Hiếu, Biết Cội Biết Nguồn, nói giữ lời, biết hòa thuận anh em. Khi mãn trần những người nầy có bị sa đọa xuống các Tầng Địa Phủ cũng như luân hồi trở lại Cầm, Thú không?

Quốc Tổ nói khá khen cho Cao Tông Ông vì Pháp Hội, cũng như hậu thế về sau mà thưa hỏi như vậy.

Chí Tôn Quốc Tổ dạy rằng: Những người biết sai thời sửa tự mình lấp cửa sa đọa, lại biết tu hành tiến hóa Linh Hồn được như vậy thời tội ác trước kia đâu còn ác căn tiêu trừ hết thảy. Trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, coi như vĩnh viễn không còn luân hồi trở lại loài Cầm, Thú. Mãi Mãi sống trên quê hương thiên giới. Nghe xong Vương Quan ai nấy cũng chứng quả Nhân Luân thành Đạo Con Người Trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

Khi ấy trong pháp hội có vị Đạo Sư tên là Cao Tằng chắp tay hướng về Chí Tôn Thiên Đế thưa rằng.

Thưa Đức Chí Tôn Thiên Đế.

Những người thành Đạo Nhân Luân trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa có cần phải tu luyện tiến hóa Linh Hồn nữa không?

Chí Tôn Quốc Tổ nghe xong thời khen rằng. Khá khen cho Cao Tằng ông vì pháp hội, cũng như về hậu thế mai sau mà thưa hỏi như vậy ta sẽ vì Ông mà nói.

Những người đã đắc Đạo Nhân Luân, thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Nhưng muốn gặt hái thành quả Phật, quả Thánh, quả Tiên, quả Thần, quả Chúa. Thời phải ra sức cứu khổ cứu nạn nhân loại con người cũng như dìu dắt nhân loại con người trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa tức thời lên ngôi Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, Thần Tổ, Chúa Tổ thành lập cõi nước Trời, cõi nước Phật, cõi nước Thánh, cõi nước Tiên, cõi nước Thần, cõi nước Chúa thành quả viên mãn an vui tự tại.

Quốc Tổ thuyết giảng xong Vương Quan đều chứng ngộ quả vị Nhơn Đạo cái Gốc thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trên đầu phát tỏa hào quang.

Khi ấy có vị Vương Quan chấp tay hướng về Quốc Tổ thưa rằng. Thưa Đức Quốc Vương: Về sau nếu ai nghe được Kinh Nầy mà không tin có phải là ngu si mê muội đáng tiếc lắm không?

Quốc Tổ khen, Ông quả thật là người có đức muốn khai mở thật trí thật chứng về cơ duyên nên mới hỏi như vậy.

Việc khó được hôm nay đã được.

Việc khó gặp hôm nay đã gặp nhân duyên tốt đẹp như vậy, may mắn được làm người, may mắn gặp Chánh Pháp. Không lo tu luyện tiến hóa Linh Hồn trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, sanh tâm hành ác phải chịu luân hồi trở lại loài Cầm, Thú, sa đọa Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Thời không có gì đáng tiếc cho bằng. Cơ hội hàng vạn ức kiếp đã bỏ qua.

Những người nầy đã đánh mất tất cả, mất cơ hội thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, mất cơ hội làm chủ vũ trụ. Mất cơ hội làm chủ các cõi thiên đàng cực lạc, tiếc thay tiếc thay. Nơi Pháp Hội nghe Quốc Tổ truyền dạy như vậy ai nấy cũng phát tâm tu theo Nhơn Đạo cái gốc các Đạo, nền tảng Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

Lúc bấy giờ có vị Đại Văn Quan từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về Chí Tôn Quốc Tổ thưa rằng:

Thưa Chí Tôn Quốc Vương:

Những người sống theo Đạo Nhơn Luân, vì do nghịch cảnh xảy ra kìm tâm không nổi, gây ra tội lỗi, khi chết đi có bị sa đọa luân hồi Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh không?

Quốc Tổ khen, Ông quả là người có tâm có đức nên mới thưa hỏi như vậy, ta sẽ vì Ông mà nói.

Những người tu theo Nhơn Luân Hiếu Nghĩa Đạo Làm Người dù chỉ là một ngày cũng không sa đọa Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh huống chi tu luyện nhiều tháng nhiều năm. Vì nghịch cảnh nghiệt ngã bối cảnh bức xúc, kìm tâm không được gây ra tội lỗi nếu nặng thời phải vào tù nơi chốn nhân gian, nhưng không bỏ Đạo Nhơn Luân. Khi Mãn kiếp trần cũng được siêu sanh về Hạ Thiên Vũ Trụ Non Tiên Cực Lạc Địa Tiên sống an vui hạnh phúc.

Quốc Tổ thuyết giáo truyền dạy xong trong pháp hội hầu hết đều chứng quả Trí Huệ trên đầu phát tỏa hào quang, trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, nơi chốn trần gian.
 
76. ĐỊNH LUẬT CHU KỲ, LUÂN CHUYỂN TUẦN HOÀN

Ở vào thời Dựng Nước nơi Thượng Viện Quốc Đạo Quốc Tổ truyền dạy Quy Luật chu kỳ Định Luật Tuần Hoàn Huyền Cơ.

Chu Kỳ Định Luật Tuần Hoàn một tiểu kiếp. 16 triệu 8 trăm nghìn năm, được phân chia ra làm ba giai đoạn như sau.

Thượng Ngươn Thượng Kiếp, chia làm hai giai đoạn, cuối kiếp tăng bốn trăm nghìn năm, đầu kiếp giảm bốn trăm nghìn năm.

Trung Ngươn Thượng Kiếp, một triệu năm

Hạ Ngươn Mạt Pháp Thượng Kiếp, một triệu năm.

Thượng Ngươn Trung Kiếp, một triệu năm

Trung Ngươn Trung Kiếp, một triệu năm

Hạ Ngươn Mạt Pháp Trung Kiếp, một triệu năm

Thượng Ngươn Hạ Kiếp, một triệu năm

Trung Ngươn Hạ Kiếp, một triệu năm

Hạ Ngươn Mạt Pháp Hạ Kiếp, một triệu năm

Còn tính theo Chu Kỳ: Trong vòng một nghìn năm.

Thượng Ngươn Thánh Đức, Trung Ngơn Nhơn Đức, Hạ Ngươn Mạt Pháp.

Có nghĩa là:

Cơ Thượng Ngươn Thánh Đức kéo dài 333 năm.

Cơ Trung Ngơn Nhơn Đức kéo dài 333 năm.

Cơ Hạ Ngươn Mạt Pháp kéo dài 333 năm chu kỳ trong vòng một nghìn năm.

Nghìn năm nào cũng như nghìn năm nào tam Ngươn đều y như vậy. Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn.

Khi ấy trong Pháp Hội có vị Tôn Sư Dương Nghệ từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về Chí Tôn Quốc Tổ thưa rằng:

Thưa Đức Chí Tôn Quốc Tổ: Sao gọi là Thượng Ngươn Thánh Đức, ai tạo ra Thượng Ngươn Thánh Đức. Sao gọi là Trung Ngơn Nhơn Đức, ai tạo ra Trung Ngơn Nhơn Đức, Sao gọi là Hạ Ngươn Mạt Pháp ai tạo ra Hạ Ngươn Mạt Pháp, xin Chí Tôn Quốc Tổ chỉ dạy cho.

Quốc Tổ khen rằng Ông quả là Thiện Nhân Trí Đức nên mới hỏi Ta những câu hỏi như vậy. Ta vì Ông mà giảng giải trả lời.

Nói đến Cơ vận Hóa, thời không có Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa nào làm ra cả. Mà do Bộ Máy Huyền Vi Càn Khôn Vũ Trụ luân chuyển theo phương vị ngũ hành luân phiên tạo ra theo Định Luật Thiên Ý.

Ví Dụ: Cơ vận hóa chuyển đến Đông thuộc Hành Thủy thời trời lạnh. Cơ vận hóa chuyển đến Xuân thuộc hành Mộc thời ôn hòa. Cơ vận hóa chuyển đến Hạ thời trời oi bức nóng nực. Cơ vận hóa chuyển đến Thu thời trời mát mẻ.

Cơ vận hóa Thiên Ý chuyển Xuân thời thiên hạ sống theo Xuân.

Cơ vận hóa Thiên Ý chuyển Hạ thời con người sống theo Hạ.

Cơ vận hóa Thiên Ý chuyển Thu thời con người sống theo Thu.

Cơ vận hóa Thiên Ý chuyển Đông thời con người sống theo cách sống mùa Đông.

Không mấy ai sống theo kiểu mùa Hạ.

Nói tóm lại: Chu kỳ của Ngươn, của Ngơn không phải do Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa tạo ra. Mà do Pháp Thân Tổ Tiên Đại Linh Hồn Vũ Trụ. Luân chuyển tạo ra chu kỳ Tuần Hoàn. Chu Kỳ một tiểu kiếp. Chu Kỳ một triệu năm. Chu Kỳ một nghìn năm. Mỗi Chu Kỳ đều theo định kỳ chuyển hóa phân định của Tạo Hóa Tổ Tiên.

Thời Kỳ đầu của mỗi chu kỳ, là chu kỳ Thượng Ngươn, hay Thượng Ngươn, chân khí Thuần Dương Hưng Thịnh. Nên phần đông con người hướng thiện theo Huyền Cơ Tạo Hóa Cha Ông. Những Linh Hồn hướng Thiện, hành Thiện sẽ được Pháp Thân Linh Giác tối cao vũ trụ luân chuyển siêu Sanh về các tầng trời cõi trời sanh sống hưởng phước theo luật tự nhiên, hễ hướng Thiện hành Thiện là tự mình độ cho chính mình, không cần ai đưa mình về trời, cũng được Pháp Thân Linh Giác Tối Cao Vũ Trụ luân chuyển về thiên đàng cực lạc, ai cũng như ai không ai khác ai, theo Định luật Tự Nhiên Vũ Trụ.

Để cho dễ hiểu của mỗi chu kỳ, như chu kỳ một nghìn năm chẳng hạn. Được phân chia làm ba giai đoạn, chu kỳ đầu của một nghìn năm, chu kỳ Thượng Ngươn Thánh Đức kéo dài 333 năm.

Ở vào thời kỳ nầy chân khí Chơn Dương Hưng Thịnh. Nên phần đông con người hướng thiện khế hiệp với chân khí Chơn Dương. Những Linh Hồn hướng Thiện hành Thiện sẽ được Pháp Thân Linh Giác tối cao vũ trụ luân chuyển siêu Sanh về các tầng trời cõi trời sanh sống hưởng phước, hễ hướng Thiện hành Thiện là tự mình độ cho chính mình, không cần ai đưa mình về trời, cũng được Pháp Thân Linh Giác Tối Cao Vũ Trụ luân chuyển về thiên đàng cực lạc, ai cũng như ai không ai khác ai, theo Định luật Tự Nhiên vũ trụ.

Hết chu kỳ Thượng Ngơn Thánh Đức, đến chu kỳ Trung Ngơn Nhơn Đức kéo dài 333 năm thời kỳ khí hóa Âm- Dương bình hòa là thời kỳ kế hiệp Đạo Con Người. Đầu đội Trời chân đạp đất Trung Dung, Trung Hòa Âm Dương, là thời kỳ Trung Ngơn Nhơn Đức. Những thập niên đầu phần đông con người, gần mực thời đen gần đèn thời sáng hễ gần Chính Pháp thời hành thiện siêu sanh về trời. hễ gần mực thời đen sa vào Ác Đạo con người hành ác sa đọa xuống các Tần Địa Phủ. Nói cho dễ hiểu, hễ hướng tâm theo ác hành ác thời Pháp Thân Linh Giác tối cao vũ trụ luân chuyển sa đọa xuống các Tần Địa Phủ chịu nhiều sự khốn khổ theo Định Luật Tự Nhiên Vũ Trụ.

Hễ hành Thiện thời Pháp Thân Linh Giác tối cao vũ trụ luân chuyển siêu Sanh về các tầng trời cõi trời sanh sống hưởng phước, không cần ai đưa mình về trời, cũng không ai có quyền đọa mình xuống các tầng Địa Phủ. Mà chính do mình hành ác bị Pháp Thân Linh Giác Thiên Ý Tối Cao Vũ Trụ luân chuyển về các tầng Địa Phủ, cũng như luân chuyển các Linh Hồn hành thiện siêu lên thiên đàng cực lạc, ai cũng như ai không ai khác ai, theo Định luật Tự Nhiên, Thiện Siêu, Ác Đọa.

Nhưng thập niên cuối Trung Ngơn Nhơn Đức con người phần đông ngả hẳn về ác, đi vào Hạ Ngươn Mạt Pháp.

Chu kỳ Hạ Ngươn Mạt Pháp kéo dài 333 năm, chân khí Âm Khí Hưng Thịnh. Nên phần đông con người xu thế hành ác hiệp với Âm Phí những chủ thuyết ác Đạo vì thế mà ra đời dẫn dắt con người đi vào ác đạo tàn sát lẫn nhau. Những Linh Hồn theo ác hành ác sẽ bị Pháp Thân Linh Giác tối cao vũ trụ luân chuyển sa đọa xuống các tầng Địa Phủ theo Định Luật Tự Nhiên khốn khổ vô biên. Hễ hướng ác hành ác là tự mình đọa mình chứ không phải nào ai khác. Bị Thiên Luật hành xử sa đọa theo Định Luật Tự Nhiên Vũ Trụ. Ai hành ác làm ác đều phải chịu chung số phận như nhau, không ai khác ai đều bị Thiên Luật Huyền Cơ xoay chuyển sa đọa xuống các Tầng Địa Phủ nhận lấy sự khốn khổ vô cùng.

Như vậy chu kỳ các Ngươn, các Ngơn, không phải là do ai đặc ra mà do Định Luật Thiên Ý luân chuyển theo chu kỳ Tuần Hoàn theo Luật Tự Nhiên, Định Luật Vũ Trụ. Trời Chuyển Xuân thiên hạ sống theo Xuân. Trời chuyển hạ thiên hạ sống theo Hạ. Trời chuyển đông thiên hạ sống theo Đông. Không ai ngăn cản hay làm chi khác được. Cũng như không ai có quyền đày Linh Hồn xuống Địa Phủ, cũng không ai có quyền đưa người lên Thiên Đàng. Tất cả đều do họ chính họ. Ai muốn sa đọa xuống các tần Địa Phủ. Thời phải làm ác hành ác. Ai muốn lên Thiên Đàng thời phải hướng thiện hành Thiện.

Không ai thoát khỏi Thiên Ý Định Luật Vũ Trụ Nhân nào Quả nấy. Không có kiểu làm ác hành ác rồi nhờ Ông nầy Bà nọ đưa Linh Hồn về trời. Họ muốn về Trời thời phải biết nghe lời Trời dạy lìa bỏ cái Ác đi vào cái Thiện. Nhất là quy hướng Cội Nguồn thời Pháp Thân Tối Cao Vũ Trụ Thiên Ý Định Luật luân chuyển những Linh Hồn hành Thiện ấy siêu sanh về Trời sống trên Thiên Đàng Cực Lạc.

Nơi Pháp Hội Thượng Viện Quốc Đạo ai nấy lắng nghe Quốc Tổ thuyết giảng cũng đều chứng ngộ Chu Kỳ Huyền Cơ Thượng Ngươn Thượng Kiếp. Trung Ngươn Thượng Kiếp. Hạ Ngươn Thượng Kiếp kéo hàng triệu năm. Thượng Ngươn Trung Kiếp. Trung Ngươn Trung Kiếp. Hạ Ngươn Trung Kiếp kéo dài hàng triệu năm. Thượng Ngươn Hạ Kiếp. Trung Ngươn Hạ Kiếp. Hạ Ngươn Mạt Pháp Hạ Kiếp kéo dài hàng triệu năm.

Chu Kỳ Huyền Cơ Thượng Ngươn Thánh Đức kéo dài 333 năm. Chu Kỳ Huyền Cơ Trung Ngơn Nhơn Đức kéo dài 333 năm. Chu Kỳ Hạ Ngươn Mạt Pháp kéo dài 333 năm, sự chuyển vận là do Định Luật Thiên Ý. Không phải do Phật, Thánh, Tiên, Thần Chúa. Cũng không ai có thể thoát khỏi Thiên Ý Định Luật Vũ Trụ. Làm Ác Hành Ác nhất định sa đọa xuống các Tầng Địa Phủ. Làm Thiện Hành Thiện nhất định siêu lên Thiên Đàng Cực Lạc hưởng phước sống an vui tự tại. Tự Mình Độ Cho Chính Mình Theo Lời Trời Dạy.
 
77. AI MỚI LÀ ĐẤNG TỐI CAO

Ở vào thời dựng nước nơi Thượng Viện Quốc Đạo, Quốc Tổ truyền dạy rằng. Văn Hóa Cội Nguồn. Văn, Kinh, Thơ, Triết, Truyện, không thể ra đời, chỉ truyền khẩu tự ngôn từ Ngôn Ngữ Văn Lang mà thôi. Chữ viết còn quá thô sơ nên không lưu chép lại được.

Các Vương, Quan, Tôn Sư, Đạo Sư, Pháp Sư, chú ý lắng nghe, nhớ nhiều chừng nào hay chừng đó, các Vương, Quan, Tôn Sư, Đạo Sư, Pháp Sư được quyền thưa hỏi những gì chưa rõ trong lòng. Ta vì Pháp Hội các Ông mà giảng giải.

Khi ấy nơi Pháp Hội có vị Đạo Sư Tịnh Giác từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về Chí Tôn Quốc Tổ thưa hỏi rằng.

Thưa Đức Chí Tôn Thiên Đế;

Nơi vũ trụ ai là Đấng Tối Cao?

Quốc Tổ khen rằng: Ông Thật là người khéo hỏi, làm sáng tỏ ai là Đấng Tối Cao. Với câu hỏi nầy Ông thành tựu vô lượng vô biên phước đức, Ta sẽ vì Ông mà nói.

Chí Tôn Quốc Tổ nói có một Đấng Tối Cao mà ai ai cũng phải đội trên đầu. Kể cả Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, khắp mười phương cũng như tam thiên đại thiên thế giới khắp. Các ông có biết Đấng ấy là ai Không?

Cả Pháp Hội đồng nói; Chúng con không biết xin Chí Tôn Quốc Tổ chỉ dạy cho.

Quốc Tổ truyền dạy rằng; Đấng Tối Cao Ấy không xa lạ gì với chúng ta cả vì lúc nào chúng ta cũng đội Đấng ấy trên đầu. Đó chính là Pháp Thân Linh Giác Khai Hóa Tổ Tiên, Đại Linh Hồn Vũ Trụ Cội Nguồn của tất cả muôn loài vạn vật trong đó có Nhân Loại con người.

Pháp Thân Khai Hóa Tổ Tiên, Đại Linh Hồn Vũ Trụ rộng lớn như hư không chỗ nào cũng có. Khai Tạo lập lên Tam thiên đại thiên thế giới, năm non bảy núi, nhật, nguyệt, tinh tú, thiên hà, ngân hà 28 tần trời 18 tần địa phủ, bảy biển hương thủy, bốn cõi trần gian, biển khí nước mặn, đều nằm trong lòng pháp thân Linh Giác Khai Hóa Tổ Tiên Đại Linh Hồn Vũ Trụ. Ví như các lớn cá nhỏ đều sống trong lòng nước. Cá nghĩ gì nước cũng biết, cá làm gì nước cũng hay, một niệm chưa khởi tưởng nói ra nước đều nghe, thấy, hay biết rõ.

Như vậy chúng Ta đã biết ai là Đấng Tối Cao Vũ Trụ. Chính là Khai Hóa Tổ Tiên hiện thân ra Cha Trời Mẹ Trời, Chánh Thân, Chánh Mẫu của nhân loại con người kể cả Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa khắp cả mười phương tam thiên đại thiên thế giới.

Cha Trời cai quản thế giới Linh Hồn chuyển hóa Linh Hồn, Tận Độ Linh Hồn, Cứu Khổ Linh Hồn những ai biết nương tựa Cội Nguồn. Không xa rời Cội Nguồn thường là những người gặp nhiều điều may mắn. Thường làm đâu được đó tai họa ít xảy ra, vì lúc nào cũng được bản thể Linh Giác Tổ Tiên, cũng chính là Bản Thể Linh Giác của Cha Trời chỗ nào cũng có che chở, và ban cho nhiều sự may mắn.

Những ai lạc Cội lạc Nguồn thường là những Linh Hồn lạc lõng bơ vơ không có sự che chở của Cha Trời. Thường là sa đọa vào Ác Đạo chịu nhiều sự khốn khổ vô biên.

Mẹ Trời cai quản thế giới Vật Chất, những ai ca ngợi Mẹ Trời Cha Trời thường là những người có uy quyền giàu sang bậc nhất, vinh hoa phú quý tột cùng. Ở đời ai cũng biết Mưu Sự Tại Nhơn, Thành Sự Do Thiên. Những mưu sự trái ngược lại Thiên Ý thường là dẫn đến thất bại làm nhiều mà chẳng được là bao. Mưu Sự Hợp Thiên, thường làm đâu được đó, bỏ công sức ít mà thành tựu nhiều.

Quốc Tổ nói: Như vậy các Ông cũng đã rõ nơi vũ trụ ai là người có quyền năng nhất.

Cả Pháp Hội đồng nói người có quyền năng nhất vũ trụ chính là Cha Trời Mẹ Trời.

Quốc Tổ nói: Đúng Vậy đúng vậy không ai có quyền năng hơn Cha Trời Mẹ Trời. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa phải nương tựa vào Cội Nguồn Cha Trời Mẹ Trời mới thanh tựu được phước báo vô tận, quyền lực vô biên.

Quốc Tổ nói: Nơi vũ trụ ai là người giàu nhất?

Cả Pháp Hội đồng nói, không ai giàu hơn Cha Trời Mẹ Trời Đấng Tạo lập lên tất cả cũng như cai quản toàn vũ trụ.

Quốc Tổ nói: Đúng vậy đúng vậy vì thế Cha Mẹ giàu thời con cái thừa hưởng. Những ai trở về Cội Nguồn Tôn thờ Tổ Tiên, Cha Trời, Mẹ Trời, chính thức trở thành con Trời. Sẽ được ba ngôi tối cao vũ trụ Tổ Tiên, Cha Trời, Mẹ Trời bảo bọc chở che Đại Phú do Thiên.

Trời sẽ ban cho những gì mà Trời đã tạo ra. Như làm chủ tam thiên đại thiên thế giới, làm chủ 28 tầng trời, làm chủ hạ thiên vũ trụ năm non bảy núi, Thất Sơn Châu Báu, làm chủ Nhật, Nguyệt, Tinh, Tú, Thiên Hà, Ngân Hà, làm chủ bảy biển Hương Thủy, làm chủ bốn cõi Trần Gian, làm chủ Ngũ Đại Chuyên Luân, làm chủ vàng, bạc kim cương, ngọc ngà châu báu, sắt, thép, kẽm, chì, nhôm, nhựa, đồng, thau, làm chủ cai quản 18 tầng Địa Phủ.

Ban cho những ai biết Tôn Thờ Nguồn Cội cõi nước ngọc ngà châu báu làm Vua làm Chúa các cõi nước trời. Trường sanh bất tử an vui tự tại vân.v.. Trời muốn cho ai thời người ấy hưởng.

Quốc Tổ nói: Những ai rời bỏ Cội Nguồn không tôn thờ ba ngôi tối cao vũ trụ, thường hay nghịch Thiên Ý làm nhiều điều ác trái ngược Lương Tâm. Phải chịu sa đọa vào tam đồ khổ Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Nếu may mắn đầu thai trở lại làm người, thời phải chịu sự tật nguyền, nếu không tật nguyền thời chịu sự thấp hèn nghèo khổ, cũng như tai họa triền miên.

Cả pháp hội nghe Quốc Tổ giảng dạy như vậy liền giác ngộ cây còn Gốc nở cành xanh ngọn, người không mất Cội Nguồn, người tốt đẹp biết bao đồng niệm Tổ Tiên, Cha Trời, Mẹ Trời. Hướng về Cội Nguồn Nam Mô – A Men thành tựu vô lượng vô biên công đức, chính thức con Trời, thừa kế những gì Tổ Tiên, Cha Trời, Mẹ Trời để lại tạo ra. Nói chung là làm chủ Vũ Trụ. Nhất là làm chủ Thiên Đàng Cực Lạc, muốn gì được nấy an vui tự tại.
 
78. LINH VỊ THỜ TRỜI

Ngày xửa ngày xưa ở vào thời Thượng Hùng Vương, đến đời Hùng Cao Lang Quốc Vương đời thứ 6 trị vì thiên hạ.

Ở vùng Giao Châu có một chàng trai tên là Đơn Côi. Cha mất sớm Mẹ có chồng khác, không còn ai thân thích bên nội Đơn Côi phải đành theo Mẹ về ở với Bố Ghẻ tên là Tàn Bạo. Tàn Bạo tánh tình hung dữ coi mẹ con Đơn Côi như tôi tớ thẳng tay mà đánh.

Ngoài làm mấy sào ruộng ra Tàn Bạo thường bắt Đơn Côi lên rừng đốn củi, còn Tàn Bạo thời ở nhà đem củi ra chợ bán. Cha ghẻ thời no cơm ấm áo còn mẹ con Đơn Côi thời bửa đói bửa no.

Không may gặp năm trời làm mất mùa, cuộc sống gặp lúc khó khăn cho cái ăn cái mặc. Tàn Bạo nhìn Đơn Côi như nhìn một gánh nặng, đôi lúc muốn vứt đi cho rồi nhưng vứt đi bằng cách nào Tàn Bạo chưa nghĩ ra.

Cho đến một hôm Tàn Bạo dẫn Đơn Côi lên rừng đốn củi, viện lý do rừng núi ở đây nhà nước quản lý cấm đốn củi nên dẫn Đơn Côi đi rất xa. Tàn Bạo nói đốn củi xong ngồi đây đợi ta đến rồi cùng về.

Đơn Côi chặt xong hai bó củi ngồi đợi Cha Ghẻ đến rồi về chờ chờ mãi không thấy người Cha Ghẻ đến, mặt trời sắp lặn non tây. Đơn Côi kinh hãi không biết chuyện gì xảy ra bằng đi tìm người Cha Ghẻ Tàn Bạo, tìm khắp nơi nhưng không thấy người Cha Ghẻ đâu cả. Chỉ thấy một ngôi miếu đá trong đó không có ai, chỉ có một Linh Vị hình quả tim có họa hình thập tự giá. Đơn Côi không biết là Linh Vị thờ ai.

Mặt trời đã lặn màn đêm buông xuống nhìn nơi đâu cũng thấy chập chờn sự rình mò ăn nuốt, tiếng hổ gầm rung chuyển núi non, tiếng sói, beo, tru lên nghe thấy mà rởn óc. Đơn Côi sợ quá bằng chui vào Am Đá để trốn. Nào ngờ bầy hổ đánh hơi tìm tới chúng nhe nanh, múa vuốt thấy mà phát khiếp, một con hổ định vồ Đơn Côi. Nhưng con hổ hốt hoảng khiếp sợ bỏ đi con nào nhìn thấy Linh Vị cũng vậy đều sợ hãi bỏ đi.

Đơn Côi sợ quá ngất đi hồi nào không biết đến khi tỉnh dậy thời Ông Mặt Trời đã lên cao.

Đơn Côi thấy mình còn sống mừng quá la lên ta còn sống, Đơn Côi nghĩ đàn cọp tha cho mình sao, chuyện gì đã xảy ra, Đơn Côi hồi tưởng lại tất cả như chợt nhớ ra linh vị quả tim trong lúc mình không biết gì nữa thời thấy Linh Vị Quả Tim Thập Tự Giá phát tỏa hào quang có lẽ đàn cọp sợ Linh Vị nầy.

Đơn Côi không biết ý nghĩa thờ Linh Vị Quả Tim Thập Tự Giá là thờ ai mà Linh Hiển như thế. Bằng cầm lấy Linh Vị Quả Tim Thập Tự Giá làm bùa hộ mạng không sợ đàn hổ ăn thịt nữa. Đơn Côi đi đi mãi nơi đâu cũng là rừng núi khác thời uống nước suối, đói thời ăn lá cây hoa quả, tối thời ngủ trên cây cứ như thế mười ngày đã trôi qua mà cũng chưa tìm được đường về.

Nói về người bố ghẻ ác độc dẫn Đơn Côi vào núi sâu rừng thẳm làm mồi cho cọp, còn mình thời trở về nhà không may trên đường đi gần đến nhà thời bị rắn cắn, nhưng hắn ráng chịu đau lê lết cái chân sưng tím vừa về đến sân thời hắn gào thê thảm ngã quỵ xuống sân lăn đùng ra chết.

Sau khi chôn cất người chồng sau Mẹ Đơn Côi khóc lóc kể lể cả tháng, đôi lúc ngồi một mình nhớ đến Đơn Côi có lẽ bị hổ báo ăn thịt rồi, trời ơi là trời sao đời tôi khốn khổ thế nầy. Người chồng trước chết bỏ tôi ở lại một mình, tuổi còn trẻ đường đời còn dài nỗi cô đơn không nơi nương tựa, đi thêm bước nữa nương nhờ cây tùng cây bách, nào hay đâu không khác gì đầy tớ. Tuy thế không trách gì ông chồng an phận chí thú làm ăn, tuy đời sống khó khăn nhưng thuyền có lái, nhà có nóc, nay Ông ấy đã chết thời tôi biết trông cậy vào ai. Còn đứa con thời biệt tăm vô âm tín không biết chết sống ra sao.

Lại nói về Đơn Côi cuối cùng cũng tìm được về nhà nhìn thấy mẹ ngồi ngoài xó hè gầy ốm trông có vẻ hốc hác ôm mặt than khóc kể lể mới hay người Cha ác độc đã chết.

Đơn Côi cũng không cầm được giọt nước mắt, dù sao cũng là người Cha kế của mình. Mẹ Đơn Côi đang ngồi than thở cho số phận của mình chợt nhìn thấy Đơn Côi trở về lao nhanh tới ôm Đơn Côi như sợ Đơn Côi biến mất, miệng thời nói con của Mẹ con sống cảm ơn Ông Trời. Bà nhìn Đơn Côi tuy hơi ốm nhưng thần khí vẫn tươi tốt. Hai mẹ con đi vào nhà, bà như muốn biết chuyện gì đã xảy ra với Đơn Côi liền hỏi.

Con đi đâu hơn cả tháng mới trở về. Đơn Côi liền kể lại tất cả đầu đuôi, Đơn Côi thở dài nói người Cha Ghẻ muốn giết con cho đở tốn cơm nên dẫn con đến một nơi rất xa núi non trùng điệp rừng rậm bạt ngàn, nơi có cọp, beo, sói, bỏ con ở lại đó một mình làm mồi cho cọp, sói, báo. Cũng may con nhờ Linh Vị nầy cứu mạng. Bà mẹ Đơn Côi nghe xong không cầm được nước mắt nói mẹ đã hại con. Mẹ thề không đi bước nữa dù cho khổ đến đâu cũng ở vậy cùng con. Bà nhìn Linh Vị cứu Đơn Côi là một miếng gỗ hình Quả Tim có chạm khắc hình Thập Tự Giá, có những nốt tròn, nhất là nốt tròn ở dưới chót quả tim, có hình vuông. Bà thường nghe Cha Mẹ Ông Bà kể Trời Tròn, Đất Vuông. Bà chỉ hiểu có vậy thôi còn không hiểu gì nữa.

Từ khi Đơn Côi lập bàn thờ để thờ Linh Vị thời Đơn Côi trở nên thông minh khác thường khỏe mạnh hẳn ra, làm đâu được đó tính gì được nấy không bao lâu thời dư ăn dư để không nói là giàu. Xóm làng ai cũng khen là tài giỏi tiếng đồn xa đến tai Quan Phủ. Phong cho chức Lạc Điền quyền thế một vùng Giao Châu.

Một hôm Đơn Côi gặp một Đạo Sĩ thời vô cùng mừng rỡ mời về nhà. Đạo Sĩ nhìn khu vườn rộng nhưng địa cuộc thời không được tốt ai ở khu vườn nầy thời phải chịu cảnh nghèo đói. Thế mà Đơn Côi giàu có nhà cửa bề thế lấy làm lạ hỏi Ông Bà Cha Mẹ có tu phước thiện gì không? Đơn Côi nói không có chỉ là người bình thường không nói là không mấy thiện. Vị Đạo Sĩ làm thinh không nói gì. Đơn Côi nói tôi mời Đạo Sĩ là nhờ Đạo Sĩ xem cho tôi một quẻ không hiểu vì sao công chuyện làm ăn thời trôi chảy nhưng đường vợ con thời trắc trở liên miên.

Đạo Sĩ nghe xong nói dẫn tôi đến nơi bàn thờ Ông Bà Cha Mẹ để tôi làm phép thời quẻ mới ứng linh, Đơn Côi liền dẫn Đạo Sĩ đến bàn thờ, thờ Linh Vị. Đạo Sĩ vừa nhìn thấy Linh Vị Hình Quả Tim có chạm khắc Thập Tự Giá, có nhiều nốt tròn cũng như hình chữ S cốt lõi Âm Dương. Trời tròn Đất vuông thời giật cả mình, Linh Vị nầy không phải Linh Vị thờ Trời sao? Đạo Sĩ hỏi quan Lạc Điền làm sao có được Linh Vị nầy. Không lẽ Ông Bà để lại, Đơn Côi kể lại tất cả Linh Vị nầy là tôi thỉnh ở nơi miếu đá trên núi, cũng như những sự Linh Thiên đã xảy ra.

Đạo Sĩ nghe xong ngẫm nghĩ thảo nào ở khu vườn tử địa mà vẫn bình yên lại giàu có, là do Linh Vị thờ Trời nầy. Đạo Sĩ nói Linh Vị nầy là Linh Vị thờ Trời. Có lẽ các vị Tu Tiên lập lên để thờ, người trần phàm không ai có thể hiểu được.

Đạo Sĩ hỏi quan có biết ý nghĩa của Linh Vị kia không? Đơn Côi nói tôi không rõ.

Đạo Sĩ nói Linh Vị nầy chính là biểu tượng Nam Mô- A Men Linh Ấn Vũ Trụ Uy Danh Của Đức Cha Trời. Linh vị nầy không những linh thiêng mà còn làm cho gia chủ thông minh, muốn gì được nấy. Nhưng Gia Chủ ở khu vườn không được tốt có thể nói là khu vườn tuyệt hậu. Muốn có vợ con suông sẻ thời phải tìm mua một khu vườn khác. Mẹ đơn Côi nói tôi có một khu vườn cũ nhỏ hơn khu vườn nầy, khu vườn đời chồng trước của tôi.

Mẹ Đơn Côi dẫn vị Đạo Sĩ đến xem. Đạo Sĩ nhìn khu vườn bỏ hoang nhưng lại là khu vườn đắc địa phong thủy rất tốt. Không nơi nào tốt bằng nơi nầy hãy về đây mà ở thời con cháu đầy nhà.

Trước khi từ giả Đơn Côi Đạo Sĩ để lại bài thơ

Thờ Trời phước đức, chuyện bình thường

Nghịch Trời, tai họa khó nghĩ lường

Chỉ cần thất kính bằng sợi tóc

Chúa Vua cũng phải, chịu tang thương

Thành tâm quy kính, nương Cội Gốc

Còn hơn châu báu, chất đầy rương

Linh Vị thờ Trời, Linh đệ nhất

Vạn kiếp nghìn đời trổ hoa hương

Đơn Côi nhìn theo Đạo Sĩ khuất dần khuất dần trên đường đi lòng cảm thấy bâng khuâng như rời xa người thân. Đơn Côi dời nhà đến nơi chôn nhau cắt rốn quê Cha nơi sanh ra mình. Từ đó Đơn Côi cưới được một cô vợ xinh đẹp con đàn cháu đống sống cuộc đời an vui hạnh phúc.
 
79. SO TÀI – ĐẤU PHÉP

Ngày xửa ngày xưa có một đất nước tên là Vạn Xuân, nhưng thật ra chẳng có chút xuân nào. Bởi một tên Vua độc tài độc trị tôn thờ ngoại bang, coi dân như cỏ rác thi hành nhiều chính sách bạo ngược làm cho dân căm hận đến tận xương.

Nơi vùng Tô Châu có một gia đình không may Ông Bà mất sớm chỉ còn lại người con duy nhất tên là Kỳ Nhân vì miếng ăn Kỳ Nhân quần quật suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời không có được một ngày rảnh thế mà sự khốn khó mãi đeo bám, bao nỗi bất công cứ mãi đeo theo. Với chính sách hà khắc không có việc ác nào mà không làm. Nhất là quan các cấp cơ sở địa phương không những vừa ngu vừa tàn bạo.

Kỳ Nhân từ nhỏ vốn đã thông minh, càng lớn càng thông minh một cách kỳ lạ phải nói ít ai sánh bằng. Nhất là đối đáp tài tình hóa giải tất cả những lời buộc tội của đối phương.

Kỳ Nhân thấy nước Vạn Xuân cứ mãi lao đao khốn khó nguyên nhân là chạy theo ngoại bang tôn thờ ngoại bang, dẫn đến cây mất Gốc héo cành rũ ngọn, Kỳ Nhân không thể lặng im chịu cảnh mất nước nhà tan, bằng thức tỉnh dân chúng Vạn Xuân yêu Cội mến Nguồn tôn thờ truyền thống. Dân Vạn Xuân thấy Kỳ Nhân nói phải nên theo nghe mỗi ngày mỗi đông.

Nói về các cấp địa phương thấy dân chúng càng ngày càng mến mộ Kỳ Nhân, tức thời mời lên cơ quan h.ãm hại nhổ phứt cây gai trong mắt, với giáo điều chính sách độc tài độc trị chỉ tôn thờ duy nhất một thể chế dù đó là thể chế tôn thờ ngoại bang không được tôn thờ bất cứ ai.

Vào hôm ấy trời đang trong xanh bỗng mây đen hiện ra che kín bầu trời, báo hiệu điềm chẳng lành sắp xảy ra

Kỳ Nhân nhận được giấy triệu tập mời lên cơ quan, bạn bè Kỳ Nhân lấy làm kinh sợ, Kỳ Nhân nói có gì phải sợ khi mình hướng về Nguồn Cội tôn thờ Ông Cha.

Ở địa phương xưa nay ai cũng biết quan bây giờ không phải là quan vì nước vì dân mà vì tiền vì lợi vì bè đảng, đầy thủ đoạn gian manh.

Kỳ Nhân được giấy triệu tập tâm hồn định tĩnh như không có chuyện gì xảy ra nghĩ thầm không ngờ mình có giá béo bở như thế, có lẽ mình đã tu vô lượng kiếp chúng tranh nhau mà táp. Nếu có chết cũng phải ăn một bữa thật no, tội gì chết đói.

Nói về những tay chuyên nghiệp xét hỏi tên nào tên nấy nanh vuốt dài thoàng súng ống đao kiếm sáng ngời. Nhất là mưu mô xảo quyệt đạt đến cảnh siêu đẳng thậm thâm, chỉ cần phun ra một lời, nhẹ thời cũng phải đi tù, nặng thời bỏ mạng, nhất là Tên Cáo quan địa phương nổi tiếng xưa nay là tay sát thủ chưa ai thoát khỏi nanh vuột của tên Cáo quan địa phương nầy.

Vừa đến cơ quan thật bất ngờ Kỳ Nhân thấy dân chúng có mặt rất đông, cũng như đủ các phần ngành trong huyện, trước khi chúng muốn hại một ai đó thường là đi đến đóng tuồng đấu tố h.ãm hại, hoặc buộc tội trước công chúng làm gương thị chúng làm cho dân chúng khiếp sợ. Chúng tin tưởng là chúng ghép tội cho Kỳ Nhân một cách dễ dàng trước dân chúng. Chúng ung dung Kỳ Nhân là con mồi chỉ biết cúi đầu nhận tội, như bao người khác, nồi nước sôi đã sôi sùng sục chúng chỉ cần ném con gà vào nồi là xong.

Với bộ mặt ác quỷ xảo trá lão luyện khi ra đòn của Cáo quan, xưa nay khi Cáo quan ra đòn thời con chim bay trên trời cũng phải rớt xuống. con cá lặng dưới sâu cũng phải toi mạng đi đời.

Cáo quan nhìn Kỳ Nhân với bộ mặt ăn tươi nuốt sống nói với dân chúng xưa nay không một tội phạm nào có thể lọt lưới. Cáo quan ra chiều đắc ý xưa nay mọi chuyện, trắng Cáo hóa thành đen, không tội Cáo biến thành có tội như trở bàn tay. Chúng nào ngờ mọi chuyện ngoài sự dự định của chúng.

Hắn làm ra vẻ kính trọng nhìn con heo trước khi bị thọc cổ. Hắn nói mời Ông Kỳ Nhân ngồi. Kỳ nhân vừa ngồi hắn liền ra chiêu phóng chưởng ra đòn.

Nầy Ông Kỳ Nhân Ông biết tội chưa Ông Kỳ Nhân, với chiêu chưởng buộc tội nầy nhất định con cừu non bị trúng chưởng đi tiêu. Kỳ Nhân nói thưa quan trên cái tội quên Cội quên Nguồn thật đáng ăn đòn, tôi rất ăn năn hối hận vì tôn thờ Cha Ông có công dựng nước cũng như tôn thờ những người có công giữ nước quá muộn. Đáng lý ra tôi phải tôn thờ sớm hơn nữa.

Tên Cáo quan bất ngờ với lối trả lời Kỳ Nhân hóa giải độc chưởng của y như vậy. Tên Cáo quan không còn trầm tĩnh hùng hổ quát lớn ta đang hỏi chuyện khác sao ngươi lại nói chuyện nầy.

Kỳ Nhân bình tỉnh trả lời chuyện khác là chuyện nào tôi không rõ. Tôi chỉ biết tôi đang tôn thờ Cội Nguồn Ông Cha mà thôi. Cáo quan bị một đòn giáng trả cứng họng.

Thấy Cáo quan thua lý. Báo quan nhảy vào ra đòn những cú đấm hắn cho là tuyệt vời. Ai khiến ông làm điều nầy?

Kỳ Nhân nói, chuyện tôn thờ Nguồn Cội Cha Ông, nhớ ơn những tiền nhân giữ gìn đất nước ai khiến mới làm hay sao, phải tự Lương Tâm của mình có bổn phận trách nhiệm tôn thờ gìn giữ truyền lại cho con cháu. Quan hỏi như thế thời quan là người ngoại quốc không phải là người Vạn Xuân mới hỏi tôi câu hỏi vừa kém hiểu biết vừa ngớ ngẩn chẳng hiểu gì về bổn phận và trách nhiệm của mỗi ngời dân Vạn Xuân đối với Ông Cha đối với non sông đất nước.

Báo quan bị Kỳ Nhân phản đòn tới tấp đòn nào đòn nấy trúng phốc không sai một ly, Báo Quan đỏ mặt hét lớn định chém cho Kỳ Nhân một đao gở gạt chút đỉnh vì mất mặt trước dân chúng.

Beo quan cản lại nói để tôi. Beo quan nhìn Kỳ Nhân như nhìn một đối thủ đáng gườm, múa chân múa tay đi tới đi lui rồi tung ra một đòn chí tử ai cho phép ông tuyên truyền lôi kéo dân chúng làm mất trật tự an ninh xã hội? Với chiêu quỷ trảo nầy đối thủ khó mà chống đỡ chỉ còn chờ chết mà thôi.

Kỳ Nhân nhờ tu luyện chiêu Trung Can Hiếu Nghĩa cao trở thành mình đồng da sắt, nói thờ cội thờ Nguồn thời ai có quyền ngăn cấm cần chi cho phép ai cũng có bổn phận trách nhiệm đối với Cha Ông đối với những người có công dựng nước, giữ nước. Uống nước nhớ Nguồn ăn quả nhớ người trồng cây. Tôi cũng thế mà quan cũng thế đều là con cháu Vạn Xuân không lẽ làm dân như tôi lại nhớ, còn làm quan như quan lại quên không có bổn phận trách nhiệm gì đối với Cha Ông. Ông Cha ta thường nói với hạng người quên Tổ, quên Tiên, bất nhân, nghĩa, bất trung, bất hiếu, là người không có đức. Cổ nhân thường dạy người không có đức còn thua cục cứt bỏ cho cây. Dân chúng cười ô lên hay quá, lối phản đòn thật là hấp dẫn.

Beo quan định rút súng ra bắn, Heo quan cản lại nói để đó cho tôi. Heo Quan ủn ỉn sờ cái bụng phệ của mình bốc mùi rượu bia thịt quay gà nướng hích hai lỗ mũi lên trời như lấy sức bất ngờ tung đòn sấm sét. Ai cho phép ông cấu kết với những thành phần xấu, cũng như lôi kéo dân chúng đi theo con đường mê tín, chống phá lại nhà nước chính quyền, ông còn gì để nói nữa không. Với lời buộc tội nầy thời Kỳ Nhân coi như con cá đã nằm trên thớt chỉ cần ấn nhẹ con dao là rồi đời hồn du địa phủ.

Kỳ Nhân bình tỉnh trả lời chẳng cần né tránh ăn miếng trả miếng chưởng đối chưởng nhìn Heo Quan rồi nói. Tin theo chủ trương, làm theo chủ trương nhà nước, quan hệ mật thiết với trung ương ủng hộ những người có tâm vì đất nước làm như thế là cấu kết với những thành phần xấu hay sao? Đoàn kết dân tộc giúp đỡ cùng nhau vượt qua gian khổ, lá lành đùm bọc lá rách, nhường cơm xẻ áo trong lúc gặp khó khăn, tắt lửa tối đèn tình làng nghĩa xóm, bầu thương lấy bí sự quan hệ như thế có tội gì?

Đồng cùng một dân tộc Vạn Xuân đồng hướng về Cội Nguồn tôn thờ Cha Ông nhắc nhở nhau phải có trách nhiệm bổn phận gìn giữ những gì tốt đẹp nhất của Dân Tộc Vạn Xuân, làm như thế mà lôi kéo chúng dân vào con đường mê tín sao?

Không có cán bộ nào trả lời Kỳ Nhân nói tiếp đã là người dân sống theo Hiến Pháp, Pháp Luật, những gì Hiến Pháp, Pháp Luật không cấm thời người dân có quyền làm, Huống chi là Hiến Pháp, Pháp Luật cho phép. Người dân có quyền tham gia phản biện những gì đúng sai cũng như cống hiến những gì tốt đẹp cho nhà nước, làm như vậy là chống phá nhà nước hay sao?

Làm theo Trung Ương mà là xấu, theo chủ trương nhà nước mà là sai.

Người phạm tội không phải là tôi mà chính là các Ông, không coi chủ trương ra gì, xem thường Hiến Pháp, coi thường Luật Pháp hành sự ngược lại chính sách của Nhà nước. Theo kiểu phép Vua thua lệ làng, muốn làm gì thời làm. Độc tài theo kiểu thời Phong Kiến, muốn ai sống thời sống, muốn ai chết thời chết, cậy chức cậy quyền quan là trên hết muốn hại ai thời hại.

Đã là người dân Vạn Xuân thời mỗi người dân có bổn phận tôn thờ Nguồn Cội cũng như có trách nhiệm đối với quê hương đất nước, người dân có tôn thờ gì tôi đâu chẳng qua họ đến với tôi là vì họ muốn nghe những gì tốt đẹp của Ông Cha Họ. Tôi thấy họ có Nhân, có Nghĩa, có Trung, có Hiếu đâu như những thứ tôn thờ ngoại bang, bất Nhân, bất Nghĩa, bất Trung, Bất Hiếu. đối vối Cội Nguồn Cha Ông của mình.

Những kẻ có tội không phải là tôi, mà là những kẻ phản bội Ông Cha ngăn cản không cho người dân hướng về Cội Nguồn. Trù dập tấm lòng tốt của người dân có bổn phận và trách nhiệm đối với quê hương non sông đất nước kẻ có tội chính là các Ông, không phải là Tôi. Tôi cũng như bao nhiêu người dân luôn hướng về Cội Nguồn tôn thờ Cội Nguồn những người có công dựng nước giữ nước, đó là bổn phận và trách nhiệm của người dân Vạn Xuân, kế thừa những gì tốt đẹp của Cha Ông để lại, phát huy và gìn giữ. Tôi thừa nhận là dân chúng có mến mộ đức độ của tôi, ca ngợi sự hiểu biết của tôi. Nhưng họ không đi theo tôi, mà đi theo chủ trương của nhà nước hướng về Nguồn Cội ca ngợi Truyền Thống Anh Linh dựng nước giữ nước.

Dân tôn thờ Nguồn Cội dân có tội gì, dân mến mộ người có tài có đức không lẽ là dân làm sai. Tóm lại người có tội là người vi phạm Hiến Pháp, Luật Pháp, đi ngược lại chủ trương của nhà nước, cậy chức ỷ quyền muốn làm gì thời làm không phải là tôi. Kỳ Nhân với những tuyệt chiêu ra đòn hùng hồn cú nào cú nấy lả lướt.

Mẻ lưới của tên Heo quan lão luyện bủa ra đã bị Kỳ Nhân xét nát còn ghép chúng vào tội phản bội lại Cha Ông, đi ngược lại chủ trương tội chồng lên tội, hơn mười tên quan ngơ ngác. Dân Chúng thời vui mừng tài quá như mở cờ trong bụng nhưng chẳng ai dám hở môi.

Với tài nghiệp vụ mấy mươi năm không lẽ thua Kỳ Nhân nhất là mất mặt trước dân chúng, Cáo quan, Báo quan, Beo quan, Heo Quan, nhìn Sói quan. Sói quan như hiểu ý bằng ra nói để đó cho cấp trên bằng ra đòn tung mẻ lưới ngón nghề điêu luyện hơn mấy mươi năm luyện tập trong nghề chưa có lần nào là con mồi thoát khỏi.

Nầy Ông Kỳ Nhân ông nói dân mến mộ đức độ của Ông, đức độ của Ông là cái gì mà dân mến mộ, Ông nên thành khẩn khai thật ra đây. Dân chúng nín thở không biết Kỳ Nhân trả lời thế nào, thoát khỏi mẻ lưới của bọn tà quan ác bá, lắm thủ đoạn nhiều mưu kế. Cọng với nanh vuốt dài thoàng nhọn hoắt thấy mà khiếp vía.

Kỳ Nhân trả lời Ông Cha ta thường dạy uống nước nhớ Nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, nên tôi lúc nào cũng tôn thờ Ông Cha, ca ngợi Ông Cha, nên dân cảm mến tôi. Ông Cha ta thường dạy sức yếu thời làm việc nhỏ miễn là có ích cho đời cho xã hội. Trước kia tôi thấy mẻ chai giữa đường tôi không bao giờ lượm, nhưng nay thời lại khác tôi không những lượm mẻ chai bỏ đi mà con khuyên những người khác lượm bỏ đi. Trước đây tôi không biết kính trọng người già nhưng từ khi tìm hiểu qua lịch sử Ông Cha học theo gương sáng Ông Cha, tôn kính người già, nhường đường cho người già đi nếu đó là con đường nhỏ. Trước đây tôi ít đóng góp ngày công cho xã hội, nay thời tôi hăng hái xung phong đi đầu. Xưa kia tôi hay nói láo đâm thọc thêu diệt, nhưng nay tôi nói cái gì cũng thật, nói lời có ích cho xã hội, Kỳ Nhân kể hết chuyện làm lành nầy đến chuyện làm lành khác. Bầy ác quan nghe như sấm sét đánh xuống đầu.

Có lẽ Sói quan chịu không nổi vỗ xuống bàn cái rầm thịnh nộ quát Ông khai kiểu gì lạ vậy khai như thế làm sao xét xử. Kỳ Nhân trầm tỉnh trả lời quan biểu tôi thành thật khai ra đức độ của tôi, tôi đã khai đúng những gì tôi đã làm cũng như quan đã hỏi.

Sói quan tức điên lên rút súng ra định bắn. Kỳ Nhân nhìn khẩu súng nói tôi cũng muốn chết từ lâu. Không lẽ nhảy xuống sông tự tử thời bị thiên hạ cho là ngu, còn uống thuốc độc tự tử thiên hạ cho là dại, tự mình đập đầu chết thiên hạ cho là điên. Nên tôi luôn nghĩ đến cái chết như thế nào là chết xứng đáng, chết tuyệt vời nhất. Chính là cái chết vì Cha Ông, chết vì làm lành, chết để rồi được hiển Thánh, người tu ai chẳng mơ ước như thế. Bây giờ không chết thời già cũng chết, quan cứ ra tay. Quan cứ nổ súng.

Mười mấy tên quan ai nấy cũng lấy làm kinh dị. Những tên ác quan xầm xì bàn tán với nhau rồi đi đến kết luận chưa kết tội được thời tạm tha, khi nào có kế mới thời mời đến làm việc. Dân chúng thở phào nhẹ nhỏm qua khỏi kiếp nạn rồi thật tội nghiệp cho Kỳ Nhân sanh ra nhằm thời Mạc Pháp bè phái tranh nhau cai trị đất nước theo ngoại bang không mấy ai vì dân vì nước mới sản sanh bọn ác quan. Cáo quan, Báo quan, Beo quan, Heo quan, Sói quan.

Nói về Kỳ Nhân trở về nhà bạn bè đến thăm hỏi nói, Nhân thoát khỏi nanh vuốt của chúng là phước ba đời xưa nay chưa có ai thoát được đâu.

Kỳ Nhân nói chế độ nào đi theo ngoại bang, thường hay nói đến chuyện yêu nước thương dân, ca ngợi truyền thống ông cha, che đậy sự phi nghĩa của mình.

Những gì Chế Độ nói, Chế Độ không làm thời mình làm. Ví Dụ Chế Độ Nhà Nước ca ngợi Cha Ông nhưng không tôn thờ Cha Ông. Còn Mình thời tôn thờ Ông Cha bọn ác quan chống phá mình có nghĩa là chống lại Nhà Nước chống lại chủ trương. Bất lợi thuộc về bọn ác quan không phải là tớ. Nên tớ mới thoát được nanh vuốt của chúng.

Bạn bè nói ai bày cho Nhân những đối kháng hay như vậy. Kỳ Nhân nói không ai bày cả mình là người Vạn Xuân, phải có bổn phận và trách nhiệm tôn thờ Nguồn Cội Cha Ông, yêu mến truyền thống anh linh dựng nước giữ nước.

Chỉ có Nguồn Cội Cha Ông là muôn năm, truyền thống anh linh dựng nước giữ nước muôn năm, còn những Chế Độ Thể Chế chỉ là nhất thời. Nhất là Chế Độ Thể Chế tôn thờ ngoại bang chỉ là chế độ thời vụ theo mùa nhanh chóng sẽ đi qua, hết đông, rồi sang xuân. Cách mạng mùa chỉ là sân khấu trường đời, khói mây rồi cũng trở về khói mây. Lời nói của Kỳ Nhân làm cho một số bạn thức tỉnh nguyện đi theo con đường của kỳ Nhân trở thành người Công Dân tốt của đất nước Vạn Xuân.
 
80. CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU VÀ HẠNH PHÚC

Cô Giáo Đào cái tên thật thân quen cũng như sự kính mến những em học lớp 12 thị xã Tịnh Hà.

Cô Giáo Đào thường ngồi trầm lặng không hiểu cô đang nghĩ gì, chỉ thấy Cô chăm chú nhìn những em học sinh với lứa tuổi đi vào trưởng thành đang cặm cụi viết bài. Cô cảm thấy lòng mình hạnh phúc vì đã làm một nghề có ích cho đời, nhất là truyền cho các em những kiến thức tinh hoa xã hội. Những gì có lợi cho cuộc sống cũng như đem lại hạnh phúc cho chính bản thân mình. Cô Giáo nhìn các em hầu như các em đã viết xong bài Cô liền nói, để làm rõ thêm nội dung trong bài học hôm nay Cô sẽ kể về mẩu chuyện tình yêu và hạnh phúc cho các em nghe, cả lớp reo lên chúng em rất thích nghe Cô kể chuyện.

Cô Giáo Đào kể rằng:

Câu chuyện cách đây không lâu nơi đền thờ Mẫu Mẹ Âu Cơ có vị Tôn Sư tên là Nhân Duyên, nhiều cặp vợ chồng đến dâng hương cúng Mẹ cũng như nhờ Tôn Sư Nhân Duyên làm lễ thành hôn.

Tôn Sư Nhân Duyên nhìn mười cặp kết hôn cặp nào cũng xinh đẹp gái thời như hoa mùa xuân, trai thời như các chàng dũng sĩ phi ngựa trên đồng cỏ mênh mông thảo nguyên xanh rì, thật là xứng đôi vừa lứa áo quần lộng lẫy như tiên đồng ngọc nữ ai cũng muốn nhìn.

Tôn Sư Nhân Duyên làm lễ kết hôn xong rồi nói. Các con đã đến với nhau yêu thương nhau thề non hẹn biển trăm năm hạnh phúc trọn đời. Nhưng thời nay nhiều cặp vợ chồng nửa đường gảy gánh không phải vì kẻ mất người còn mà là ly hôn với nhau, gia đình tan nát, con cái nheo nhóc vô cùng bất hạnh thương đau.

Ai là kẻ gây ra, xưa nay không mấy ai hiểu rõ nay Thầy chỉ cho các con biết mà đề phòng. Những tên hung thần phá nát hạnh phúc đôi lứa chính là thói hư tật xấu trong tâm hồn các con, nói ra thời rất nhiều khó mà kể cho hết Thầy chỉ nêu ra vài tên hung thần tiêu biểu mà thôi.

Những cặp vợ chồng ít thói hư tật xấu, hoặc kìm h.ãm được thói hư tật xấu thường là đi hết đoạn đường đời trăm năm hạnh phúc. Những cặp không rõ những thói hư tật xấu ẩn núp trong tâm hồn mình không làm chủ được Lương Tâm thường hành động theo nó thời sự chia tay không sớm thời muộn mà thôi.

Có cặp vợ chồng hỏi, thưa Tôn Sư những thói hư tật xấu ấy là gì? Mà ghê gớm vậy phá nát sự yêu thương thề non hẹn biển của chúng con.

Tôn Sư Nhân Duyên nhìn mười cặp vợ chồng nói các con hãy lắng nghe thầy chỉ rõ những tên hung thần ấy ở trong mỗi tâm linh các con.

Đã là con người trần tục thời ai ai cũng có tánh Tự Cao Tự Tự Đại, Tự Phụ thường dẫn đến cái Ta quá lớn, trái ý Ta là sanh chuyện, ai nói gì cũng không nghe, chính là hung thần trong tâm hồn các con. Khi các con không làm chủ được những hung thần nầy, thời các con sẽ bị những hung thần nầy làm hại các con dẫn đến tan nát gia đình phá tan hạnh phúc. Đã là Đạo vợ chồng Nghĩa Phu Thê thời tuyệt đối không được Tự Cao, Tự Đại, Tự Phụ ương bướng không lắng nghe nhau, thậm chí xem thường nhau. Vợ cũng thế mà chồng cũng thế, dẫn đến không còn nhường nhịn nhau, nhẹ thời bất hòa nặng thời đi đến ly hôn. Tánh Tự Cao, Tự Đại, Tự Phụ ương bướng không lắng nghe nhau, thậm chí xem thường nhau chính là những Hung Thần phá nát Đạo Vợ Chồng, Nghĩa Phu Thê. Trong Đạo Vợ Chồng Nghĩa Phu Thê. Những Hung Thần nầy nổi lên cái lợi chẳng được bao nhiêu mà cái hại thời nhiều các con phải đề phòng chúng.

Chồng Tự Cao, Tự Đại, Tự Phụ ương bướn không lắng nghe, thậm chí còn xem thường Vợ. Vợ cũng thế Tự Cao, Tự Đại, Tự Phụ, ương bướn không lắng nghe Chồng, thậm chí xem thường Chồng. Ở đời với nhau làm sao lâu bền cho được thường đụng độ không lỗ đầu thời cũng mẻ tráng, nhẹ thời còn giữ được êm thấm nặng thời dẫn đến ly thân, nặng hơn nữa là li dị tan vỡ hạnh phúc chẳng còn.

Những tên hung thần thứ hai là tánh không Bằng Lòng lại hay Tự Ái. Những tên hung thần nầy phá nát sự Hòa Hiệp không còn gắn chặt vào nhau. Trong Đạo Nghĩa vợ chồng luôn luôn cởi mở tháo gỡ những khó khăn cho nhau, chén trong sóng còn động huống chi là con người. Sự sống ở đời chuyện hợp với người nầy không hợp với người kia là chuyện bình thường. Tôn trọng sự cá biệt nhau thông cảm cho nhau. Không vì sự Khiếm Khuyết thiếu sót không làm vừa lòng nhau dẫn đến đoạn tiệt lẫn nhau, Khiếm Khuyết về lời ăn tiếng nói cũng là chuyện bình thường vì Nhân vô thập toàn. Khiếm Khuyết về cư xử, ứng xử là chuyện Hiển Nhiên vì còn Phàm Tánh. Khiếm Khuyết về Phẩm Hạnh Đạo Đức là chuyện thường xảy ra nên mới nói tu nữa tu mãi. Trong công ăn việc làm. Thường là dẫn đến không vừa lòng nhau, nói qua nói lại chạm lòng tự ái, chê bai bất cần nhau, nhẹ thời còn giữ được ấm êm nặng thời ly thân dẫn đến li dị đường tơ duyên gãy gánh tan vỡ hạnh phúc gia đình. Phải đề phòng những Hung Thần trong tâm hồn của mình những Tánh Bất Lợi trong Đạo Vợ Chồng mà phải thông cảm cho nhau, sự Khiếm Khuyết ai cũng có, ít với nhiều mà thôi.

Tánh Không Bằng Lòng, lại hay Tự Ái Chê Bai bất cần nhau là đều cấm kị trong Đạo vợ chồng, lòng Tự Ái luôn trôi dậy cái ta quá lớn thời dù có trói buộc nhau mười lớp xiềng xích cũng bứt đứt mà rời ra. Vậy nên trong Đạo Nghĩa vợ chồng tuyệt đối không được Chê Bai, Bất Cần Tự Ái chuyện nhỏ sẽ biến thành chuyện to dẫn đến phát nát hạnh phúc lứa đôi. Trăm năm hạnh phúc chẳng thấy đâu mà chỉ thấy tương lai một màu đen thẳm.

Những tên hung thần nhóm thứ ba là tánh Nghi Ngờ. Ganh Ghét, Đố Kị, tánh Nghi Ngờ càng lớn thời niềm tin vợ chồng càng rạn nứt, Ganh Ghét càng cao thời giết chết tình yêu, Đố Kị bao nhiêu, thời bấy nhiêu đổ vỡ. Vậy nên trong Đạo Nghĩa vợ chồng tuyệt đối không được Nghi Ngờ, không được Ganh Ghét, không được Đố Kị. vì sử dụng sự Nghi Ngờ, tánh Ganh Ghét, hay Đố Kị. Mà phải Tin nhau mới đến với nhau còn Nghi Ngờ làm gì nữa. Thương yêu nhau mới đến với nhau Ganh Ghét để làm chi. Nào ai khác Đố Kị làm gì, chồng của mình, vợ của mình trông cho chồng vui, trông cho vợ sướng. Đằng nầy Ganh Ghét, Đố Kị nhau sao ông thế nầy, sao bà thế kia, thời không đi đến chia ly sao được. Tánh Ganh Ghét, Đố Kị Nghi Ngờ nhau đối với người ngoài còn không ổn huống chi là trong Đạo Nghĩa vợ chồng.

Nhóm hung thần thứ tư, là Thất Tín, Lừa Dối không Thật Lòng. Nói một đường hành động một nẻo, đánh mất dần lòng tin với nhau đào sâu lần hố ngăn cách dẫn đến tan vỡ hạnh phúc. Vậy nên trong Đạo Nghĩa vợ chồng tuyệt đối không được Thất Tín, không được Lừa Dối mà phải Thật Lòng, Trung Trực đối với nhau. Thất Tín, Lừa Dối không Thật Lòng đối với người ngoài còn không đem lại kết quả tốt huống chi trong Đạo Nghĩa vợ chồng.

Để giảm bớt về sự đổ vỡ hạnh phúc, vợ chồng cần phải nắm rõ những hung thần ác tánh trong tâm linh của chính mình. Để kìm h.ãm bớt những hung thần nầy vợ chồng phải đi trên một con đường. Chẳng hạn như con đường anh linh truyền thống Cha Ông, con đường Văn Hóa Cội Nguồn, sẽ được Cha Ông phù hộ, Cha Mẹ Trời che chở. Thời các con mới an vui hạnh phúc trăm năm được.

Vừa giảng giải vừa quan sát Tôn Sư Nhân Duyên thấy có ba cặp vợ chồng là không lắng nghe. Còn lại không ít nhiều lắng nghe. Tôn Sư nói tương lai hạnh phúc các con tự mình quyết định rồi 70 phần trăm là trăm năm hạnh phúc, còn 30 phần trăm còn chờ phần phước bản thân Ông Cha thời mới vượt qua.

Cả lớp lắng nghe câu chuyện Tình Yêu và Hạnh Phúc càng làm sáng tỏ thêm cho nội dung bài học, sự nhận thức các em vụt lớn lên trưởng thành về con đường Tình Yêu và Hạnh Phúc.

Cô Giáo Đào nhìn sắc mặt các em sáng lên một cách kỳ lạ, thời cũng hiểu được phần nào cốt lõi cơ bản nội dung của bài học. Sau nầy đóng góp cho đời những bông hoa trong Tình Yêu và Hạnh Phúc.
 
81. TRẦN GIAN CÕI TẠM, THIÊN ĐÀNG CHÍNH QUÊ

Thưa các bạn nói đến trần gian cõi tạm, cũng không ít người biết được điều nầy. Họ còn biết khi Linh Hồn đến cõi trần gian không mang gì đến, thời khi mãn kiếp trần gian Linh Hồn cũng chẳng mang gì theo. Dù cho vàng chất đầy kho, tiền chất như núi. Công danh địa vị cũng không còn. Tất cả đều bỏ lại nơi chốn trần gian.

Họ còn biết chỉ có ác nghiệp, thiện nghiệp là mang theo mình để rồi nhận lấy vui, hay khổ, siêu hay đọa. Lên Thiên Đàng, hay xuống Địa Phủ. Đó là những người có trí huệ cao không còn sa đắm trong dục vọng danh lợi, thường hay làm lành tu nhân tích đức về sau. Mà còn thấy rõ trần gian không chỉ là cõi tạm, mà con là trường thi Tạo Hóa sàng lọc những Linh Hồn, tiến hóa đến chân thiện không còn cái ác trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, siêu sanh về các cõi thiên đàng cực lạc quê hương của con người sống an vui hạnh phúc.

Còn phần đông tâm trí u tối không rõ được trần gian là nơi cõi tạm, họ ra sức thi nhau tranh Tài đoạt lợi, không mấy ai thi nhau tranh Đức. Vì tranh tài đoạt lợi mới có cảnh chém giết lẫn nhau, không có thủ đoạn độc ác nào mà không làm, tai họa vì thế thi nhau kéo đến, làm cho cuộc sống không yên. Cửa Địa Phủ mở ra cửa Thiên Đàng khép lại, nào phải Ông Trời làm hại chính mình lạm hại cho chính mình. Mãn kiếp trần Linh Hồn liền sa đọa xuống các tầng Địa Phủ.

Ngày xửa ngày xưa có một thương nhân vô cùng giàu có không thua kém gì Vua Chúa, Vua có tam cung, lục điện. Thời vị thương gia cũng có đến vài chục bà lớn trăm bà nhỏ.

Một hôm biết mình sắp chết liền cho người kêu hết mấy trăm người con hơn trăm bà vợ lại. Rồi nói rằng đến giờ phút nầy ta mới hiểu trần gian là cõi tạm, Khi Linh Hồn đến cõi trần gian ta không mang gì đến, sắp ra đi ta cũng chẳng mang gì theo, tất cả sự nghiệp công danh, người thân Ta đều bỏ lại, đúng là nơi trần gian tất cả chỉ là giả tạm trong sự vay mượn cả thân xác của ta.

Những gì vay mượn đều phải trả lâu hay mau chỉ là thời gian mà thôi. Linh Hồn ra đi rồi vay mượn xác thân mới, đi vào kiếp sống mới. Dù ở Thiên Đàng, Trần Gian Âm Cảnh, hay sa đọa xuống các Tầng Địa Phủ. Để có thân hình mới dù là vay mượn bằng cách nào cũng là vay mượn, vay mượn bằng Thai Sanh, vay mượn bằng Thấp Sanh, vay mượn bằng Hóa Sanh, vay mượn bằng Noãn Sanh. Đã vay mượn thời phải trả dù cho thọ triệu năm hoặc vài triệu năm cũng phải trả. Chỉ có Linh Hồn và sự chân thiện thuộc về Ta mới đi vào vĩnh viễn.

Gờ ta mới hiểu những thứ quý nhất của Linh Hồn không phải là danh lợi tiền tài, nhà cao cửa rộng, vàng bạc châu báu của cải vật chất. Mà là sự chân thiện của con người. Mỗi đức tánh chân thiện còn quý hơn cả châu báu ngọc ngà kim cương. Cũng may là ta đã tích góp thiện lành, cũng như chửng bị hành trang Văn Hóa Kinh Giáo mang theo cái giàu vĩnh viễn theo Linh Hồn.

Các Bà, các Con nên nhớ của cải vật chất chỉ là ngoại thân, cho đến cái thân còn phải vay mượn của Tạo Hóa, thời đâu có cái gì là của ta đâu. Nay ta mới hiểu bố thí Pháp mới là bố thí cao nhất, vì thế sự làm lành không gì hơn là truyền kinh giáo Thiên Ý Cha Trời sẽ được phước báo vô tận vô biên.

Ta sắp ra đi và bỏ lại tất cả, dù cho đó là người thân nhất của ta. Quên hương con người không phải là nơi trần gian cõi tạm. mà là Thiên Đàng Cực Lạc quê hương. Kìa ánh sáng vàng hồng đã xuất hiện Ta trở lại Thiên Bang, nói xong vị thương gia liền nhắm mắt lìa trần, để lại bao thương tiếc cho người ở lại cũng như sự thức tỉnh cho người đời hiểu Trần Gian cõi tạm Thiên Đàng Chính Quê.
 
82. SỰ NGHIỆP ĐẠO ĐỨC

Nói đến vợ chồng Hai Quận ở làng Tân Tạo, Xã Mỹ Đức thời nhiều người biết đến. Ông Quận là người làm ăn kinh doanh rất giỏi tuổi chưa đầy năm mươi giàu kếch xù trở thành tỉ phú.

Bỗng một hôm Ông ngồi thở dài, Bà Quận thấy vậy hỏi đang làm ăn phơi phới tiền vô như nước, ngày nào tôi cũng đếm tiền muốn hụt hơi, tuy có mệt nhưng khối người mơ cũng không được. Ông Quận nói giàu như chúng ta bây giờ ngày cơm cũng ba bữa, khi chúng ta còn nghèo ngày đỏ lửa cũng ba lần. Đâu phải giàu thời muốn ăn gì thời ăn nếu không biết kiêng cữ, ăn cho đã miệng thừa chất dinh dưỡng thời lắm bệnh xảy ra.

Nào là bệnh béo phì, nào là bệnh gút, gan nhiễm mỡ, máu nhiễm mỡ, tăng huyết áp, bệnh khớp, đái tháo đường. kinh mạch tắc nghẽn dẫn đến mệt mỏi hoa mắt đau đầu, căn bệnh nhà giàu là như vậy nào có sướng gì, nếu không biết kiêng cữ thường tập thể dục thể thao. Như Tôi và Bà tháng nào cũng phải đi hầu Bác Sĩ.

Giàu cho lắm cũng nằm một chiếc gi.ường, đi một chiếc xe con, sáng lên máy bay chiều nơi khách sạn, bề bộn giàu có cho lắm cũng chỉ nuôi cái xác càng ngày càng già nầy mà thôi.

Khi chết đi có mấy ai đem theo dù chỉ là mảy lông sợi tóc. Nào phải lâu xa gì đâu chỉ vài mươi năm nữa là đến, đó là nói tuổi thọ lên hàng chín. Nhưng ở đời hên xui, may rủi họa, phúc, nào ai biết trước. Với lứa tuổi tui với bà cũng chẳng thiếu gì người đã ra đi. Bà Quận nghe xong nói Ông hôm nay làm sao vậy thần kinh Ông đã có vấn đề, đi bệnh viện kiểm tra lại xem. Ông Quận nói với lứa tuổi nầy là lứa tuổi minh mẫn nhất, ôn lại tất cả những gì đã qua, nghiền ngẫm những gì sắp đến, suốt ngày lo cho sự sống, mà quên đi lo cho sự chết khi mãn kiếp trần Linh Hồn sẽ về đâu.

Ở đời ít ai nghĩ rằng ngoài con đường làm ăn theo sự nghiệp vật chất, còn có một con đường khác hơn hẳn con đường sự nghiệp vật chất, đó là sự nghiệp Đạo Đức. Sự Nghiệp Đạo Đức còn hơn cả sự nghiệp Vua, Chúa, nói gì sự đến sự nghiệp giàu có như chúng ta, chỉ là hạt cát trong sự nghiệp Đạo Đức mà thôi.

Chúng ta có thể thấy rằng, Phật, Chúa, đâu cần kinh doanh vật chất, chỉ truyền Đạo Đức thế mà sự nghiệp của Phật, Chúa to lớn biết dường nào, tồn tại hàng nghìn năm, giàu có vô kể uy lực vô biên. Phật, Chúa tạo ra những món ăn tinh thần khai sáng trí tuệ đưa con người đến tột đỉnh vinh hoa, thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Với câu nói để đời còn quý hơn cả kim cương, ngọc ngà châu báu. Ta là Phật đã thành các ông là Phật sẽ thành, tạo niềm tin cho những ai muốn vượt qua cảnh phàm trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

Sự giàu có của chúng ta cũng chỉ là tiền, là của cải vật chất. Tiền chỉ là phương tiện trong cuộc sống nó có thể thay đổi vứt đi bất cứ lúc nào, khi thế thời biến đổi, bằng chứng bao triều đại trôi qua thời mỗi loại đồng tiền đồng bạc có khác.

Của cải vật chất sắm đằng trước lỗi thời đằng sau, cứ mãi chạy đua không biết bao giờ đến đích. Trước đây tôi sắm cái gì cũng thuộc hàng xịn, nhưng giờ thời sao lỗi thời mất giá không theo kịp thời thế, công sức con người đổ xuống trở thành trở thành những phế liệu đi vào tái chế. Sự thật mà nói bởi trào lưu vận động không ngừng, cuộc sống không có điểm dừng chạy theo thời cuộc, xu thế trước bị xu thế sau đào thải, luân chuyển mãi nếu không thức tỉnh thời bị nó cuốn theo luôn, đến khi nhắm mắt xuôi tay dù có ăn năng cũng không còn kịp nữa. Bỏ lại tất cả Linh Hồn ra đi một mình, tối tăm mịt mù không biết là lên Thiên Đàng hay xuống các Tần Địa Phủ.

Thời gian cho một đời người là có hạng. Mới đó đầu đã bạc nhìn lại tất cả chỉ là ảo mộng, cứ mãi lo kinh doanh làm giàu không đem lại sự giải thoát cho Linh Hồn. Sự ngu si là ở chỗ nầy biết trước sự sống con người là có hạng cái chết phải đến trả lại xác trần thời Linh Hồn sẽ đi về đâu. Mang theo những gì?

Chỉ có người đại trí tuệ mới nhận thức được điều nầy họ sẵn sàng bỏ sự nghiệp vật chất chuyển sang sự nghiệp Đạo Đức. Sự nghiệp Đạo Đức khác xa với sự nghiệp vật chất sự nghiệp Đạo Đức là sự nghiệp truyền bá Văn Hóa chánh giác chánh đẳng đưa con người đến cảnh an vui tự tại, ra khỏi dục lạc thấp hèn, không còn sa đọa trong sanh tử, luân hồi, mà trở thành làm chủ sanh tử hiểu rõ Linh Hồn thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trở lại thiên đàng cực lạc sống trên quê hương châu báu muốn gì được nấy an vui tự tại.

Những người căn cơ thấp, trí huệ kém thời chỉ biết vật chất tiền tài danh lợi, vì thế sự nghiệp Đạo Đức không bao giờ những người trí huệ thấp kém với tới, đôi khi phản bác lại nữa là khác.

Lịch sử tiến hóa nhân loại con người đã đúc kết cho ta thấy, những người xây dựng sự nghiệp Đạo Đức thời họ trở thành những bậc Tôn Sư, những bậc thầy đỉnh cao. Nhân loại luôn mãi tôn thờ Họ. Thậm chí những người xây dựng sự nghiệp Đạo Đức trở thành Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, Thần Tổ, Chúa Tổ. làm vua làm chúa các tầng trời. Quê hương của họ chính là thiên đàng cực lạc.

Những người xây dựng sự nghiệp vật chất họ trở thành con người nhiều tiền nhiều bạc nhiều vàng nổi tiếng giàu có, nhưng không bao giờ trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa được, quê hương của họ tỳ theo nghiệp ác, thiện mà luân hồi có người phải sa đọa xuống các tần Địa Phủ vì làm bao việc ác. Cái giàu nơi chốn trần gian chỉ là cái giàu giả tạm, khi mãn kiếp trần Linh Hồn cũng trắng tay vì chẳng mang theo được gì, không hơn gì người nghèo khổ. Giàu có ăn sung mặc sướng nuôi thể xác cho lắm kết cuộc cũng là nấm mồ ngoài gò hoang. Ngu si dại dột anh hùng, giàu sang nghèo khổ cũng chung một gò, kết quả cuối cùng của thân xác là như vậy.

Còn Linh Hồn ác thời sa đọa xuống các tầng Địa Phủ chịu sự đọa đày khốn khổ vô biên, thiện thời siêu lên các tầng trời hưởng phước an vui tự tại.

Nếu đem so sánh, người theo sự nghiệp Đạo Đức, người theo sự nghiệp vật chất kết quả là hai cảnh giới khác nhau xa. Người theo sự nghiệp Đạo Đức tâm hồn thanh cao thoát tục, trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, không những siêu sanh trở lại thiên đàng cực lạc, mà con cái cháu chắt nhiều đời nhờ hồng phúc thiện lành của Cha Mẹ phát quan phát tướng, sang giàu, bao may mắn thường đem đến. Ở đời người ta thường nói có đức không sức mà hưởng, dầu rằng để của bằng non không bằng để đức cho con ở đời.

Còn những người theo sự nghiệp vật chất, làm giàu chân chính thời không sao, làm giàu bất chính thời khó mà tồn tại, như bọt nước thấy đó nhưng cũng dễ biến tan, ở đời người ta thường nói, đời Cha ăn mặn đời con khát nước, con cái cháu chắt thường nhận lãnh nhiều tai họa bao xui rủi thường kéo đến.

Ông Bà Cha Mẹ nhiều đời cũng chẳng lấy gì hưởng được chút phúc lành từ con cái, nên chẳng đặng siêu sanh.

Ông Quận nhìn bà Quận rồi nói. Tôi có quen hai người bạn một người tên Được, một người tên Thất, chứng minh cho sự thành công thất bại của họ.

Ông Được vốn sanh ra trong một gia đình Ông Cha là nhà kinh doanh vật chất làm ăn rất giỏi giàu kếch xù thuộc hàng tỉ phú. Ông Được thừa kế gia tài Ông Cha để lại phải nói là rất giàu, đáng lý ra Ông theo sự nghiệp của Ông Cha, đằng nầy Ông chuyển sang một hướng khác. Ông Được chuyển sự giàu có của mình sang sự nghiệp Đạo Đức. Theo những người đã thành công trên con đường sự nghiệp Đạo Đức, như Khổng, Lão, Phật, Chúa.

Sự chuyển đổi hướng đi của Ông Được chẳng thiếu gì người cho rằng thằng điên. Cũng khối người thấy tiếc cho Ông Được vì Ông Được là người có học thức cao đã từng thay Cha làm Tổng Giám Đốc. Tiền vô như nước khối người mơ ước mà không bao giờ được, đáng lý ra Ông Được mở rộng công ty như Cha Ông càng giàu hơn nữa.

Đằng nầy Ông Được không làm thế mà chuyển sang con đường sự nghiệp Đạo Đức Tôn Thờ Quốc Tổ, tôn thờ Cha Trời Lạc Long Quân, Mẹ Trời Địa Mẫu Âu Cơ. Tận độ nhân loại con người.

Cùng thời ấy nói về Thất gia thế cũng không thua gì Được phải nói là giàu sang thuộc nhất nhì thành phố. Thất kế thừa sự nghiệp của Ông Cha mở rộng kinh doanh làm đâu được đó tiền vô nước. Nhiều người cho rằng Thất mới là người khôn, còn Được thời khờ dại. Riêng tôi thời không nghĩ như thế, thời gian sẽ trả lời ai khôn hơn ai, ai là người thành công, ai là kẻ thất bại.

Ở đời người ta thường nói mưu sự tại nhơn thành sự tại thiên, có nghĩa là tất cả đều phải theo định luật của Tạo Hóa. Còn phước thời còn hưởng bao nhiêu sự may mắn đem đến làm đâu được đó, hết phước thời phải chịu bao sự rủi ro tai bay họa gởi.

Sự làm ăn kinh doanh của cải vật chất phần lớn đều phụ thuộc vào thể chế đương thời. Nhưng sự ở đời theo Định Luật Tuần Hoàn hết đông rồi lại tới xuân, thế cuộc thay đổi sự làm ăn coi như đi vào đảo lộn. Trong khi phước đức đã cạn, sự rủi ro là rất lớn. Thất đi đến phá sản nợ nần ngân hàng chồng chất trả không nổi. Chỉ còn bán sạch cơ nghiệp may ra trả mới nổi. Còn tiền còn bạc còn đệ tử, thời dù ở nơi thâm sơn cùng cốc họ cũng tìm đến ca tụng lên tận mây. Hết tiền hết ông tôi. Khi sạt nghiệp chẳng còn gì dù đứng ngay ngõ chợ cũng không ai nhìn thấy. Thế sự là thế tất cả đều là sự giả dối không mấy ai thật lòng với nhau, tất cả cũng chỉ vì tiền.

Còn Được đi theo con đường sự nghiệp Đạo Đức, trở thành Tôn Sư làm chủ một ngôi đền thờ lớn, phải nói là nhất nhì trong nước. Được đi đến đâu dân chúng cũng đều yêu mến đến đó, thậm chí nhiều lúc không có một đồng trong túi Được cũng đi khắp đó đây dân chúng thi nhau mà cung phụng cúng dường tài trợ. Cái giàu sự nghiệp là cái giàu cùng khắp thiên hạ. Cái giàu khắp thiên hạ mới thật sự là giàu cái giàu đi vào vĩnh viễn.

Còn Thất thì sao phải có tiền thời mới đi đây đi đó được không mấy người biết đến.

Nếu đem so sánh, đến hồi kết cuộc dù cho Thất không sạt nghiệp giàu có, thời cũng không bằng Được. Khi mãn trần Được lên Thiên Đàng Cực Lạc. Còn Thất thời sa đọa xuống các tầng Địa Phủ. Được trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, còn Thất thời làm Ma làm Quỷ. Con cái cháu chắt của Được nhờ hồng Đức của Được giàu sang phú quý. Con cái cháu chắt của Thất vì hết phước làm đâu trật đó xui rủi khắp cùng làm mười mà chẳng đặng một trở thành khốn khó đâu như con cháu của Được may mắn khắp nơi nhờ hồng phúc Cha Ông để lại.

Ông Quận nhìn Bà Quận rồi nói sự nghiệp Đạo Đức không phải ai cũng nhìn ra. Chỉ người có thiện duyên với Cội Nguồn mới thấy rõ con đường Đạo Đức hơn hẳn con đường vật chất. Có thể nói gấp hàng vạn lần

Bà Quận nghe xong liền giác ngộ tôi ủng hộ khi Ông chuyển sang con đường sự nghiệp Đạo Đức.

Thế là Ông Quận chuyển sang con đường Đạo Đức, không bao lâu thời Ông Bà hiển Thánh. Ông Quận trở thành Vua Trời. Bà Quận trở thành Thánh Mẫu cai quản một cung trời rộng lớn an vui tự tại. Con Ông Bà Quận đứa nào cũng giàu sang phú quý. Cháu chắt đứa nào cũng thông minh làm quan hết thảy.
 
83. SỰ TÍCH TRẦU CAU

Ngày xưa ở xã Thọ Sơn

Ý Trời đã định nên câu tục truyền

Mở màn câu chuyện Cau Trầu

Nên duyên chồng vợ mặn nồng trăm năm

Đó là câu chuyện Họ Cao

Đi vào huyền sử biết bao đẹp lành

Thủy chung, chung thủy một lòng

Anh em trọn đạo nghĩa tình chung đôi

Trầu, Cau, cùng với Đá Vôi

Thuần phong mỹ tục đẹp đôi châu trần

Gương soi để lại cho đời

Bài học vô giá sáng ngời muôn thu

Ngày xửa ngày xưa ở vào thời Hạ Hùng Vương đời thứ nhất Hùng Vân Lang, ở Châu Huyện Phú Vang, Xã Thọ Sơn. Có hai anh em họ Cao sanh đôi cùng họ với các Vua Hùng. Một người tên Tân, một người tên Lang, không may cha mẹ chết sớm hai anh em tựa vào nhau mà sống, cũng vì cùng mang họ Trời cùng họ Vua Hùng, Vua Hùng cho người mời về ban cho vàng bạc giúp đở, hai anh em họ Cao từ đấy không còn khốn khổ cực nhọc chăm lo học hành.

Ở lối xóm dân làng thường nhầm lẫn không biết người nào là anh người nào là em vì giống nhau như hai giọt nước, điều làm cho dân làng kính mến là hai anh em họ Cao thương yêu nhau hết mực chia bùi sẻ ngọt làm gì cũng có nhau.

Cha Tân và Lang trước khi chết có gởi gắm cho một người bạn thân Đạo Sĩ họ Lưu.

Đạo sĩ Họ Lưu nhớ lời người bạn gởi gắm bằng tìm đến nhà hai anh em họ Cao, nhưng chỉ chấp nhận một Tân làm đệ tử, nhưng anh em Tân và Lang không muốn chia lìa nhau, nhưng lời dặn của Cha là phải theo thầy học Đạo. Nhưng Đạo Sĩ họ Lưu chỉ thu nhận có một người. Tân đành phải chia tay với em, nhưng Lang quyết không rời xa anh đòi đi theo cho bằng được. Đạo Sĩ họ Lưu thấy tình nghĩa anh em họ Cao như vậy không biết làm sao đành phải nhận luôn hai người.

Đạo Sĩ họ Lưu có một cô con gái khá xinh đẹp, nói về Đức Hạnh thời ít ai bằng, cùng lứa tuổi với hai anh em họ Cao.

Tân học đâu nhớ đó rất thông minh. Lang không thể nào bì kịp. Đạo Sĩ họ Lưu nhờ tu luyện nên con mắt khác thường nhìn thời biết người nào anh người nào em.

Con gái Đạo Sĩ tên Duyên không có con mắt tu luyện như Cha nên thường nhầm lẫn Tân và Lang điều nầy làm cho cô hết sức bực mình, cô thường phàn nàn giống chi mà giống như in, khó mà biết được người nào anh người nào em. đôi lúc cô ngâm thơ.

Muốn chọn một người kết trăm năm

Phân biệt khác nhau, thật khó khăn

Trời sanh xuống thế, hai giọt nước

Biết chọn người nào, mãi băn khoăn

Để tìm hiểu người nào là anh người nào là em, một hôm Duyên bày ra một mẹo nhỏ mời hai anh em dùng bữa. Nhưng cô chỉ dọn một bát cháo với một đôi đũa, đứng sau khe vách Duyên nghe người tên Tân nói em ăn đi anh không đói, người tên Lang nói anh ăn đi lấy sức để học cũng gần đến ngày thi rồi đấy, hai anh em nhường qua nhường lại không ai chịu ăn bát cháo. Lúc nầy cô đã biết Tân là anh Lang là em. Cô thấy hai anh em không ai chịu ăn bằng bưng thêm một bát nữa. Từ đó cô thường gọi tên để tránh đi sự nhầm lẫn.

Ở đời sống gần nhau lâu ngày sanh tình cảm và Cô đã chọn Tân làm đối tượng để gần gũi Tân vốn rất thông minh và có tài làm thơ Tân cũng đã có cảm tình với Duyên.

Trời đã khuya nhưng Tân vẫn chăm chú học khi nhìn ra cửa sổ khung cảnh thật là yên tỉnh ánh trăng vằng vặc sáng linh linh Tân liền ngâm bài thơ.

Trăng tròn trăng sáng lung linh

Người tròn người cũng đẹp xinh lạ lùng

Trăng tròn hạ thấp xuống trần

Người tròn người cũng âm thầm nhả tơ

Làm cho người mãi ước mơ

Ngày đêm trông đợi bên kia con thuyền

Trăng tròn mười sáu trăng thề

Trăng soi đỉnh núi trăng đùa gió mây

Nhìn trăng lòng đã đắm say

Mơ con chim mộng về bay đầu gi.ường

Khi đó Duyên chưa ngủ nghe Tân làm thơ hay quá, lời thơ có ý tỏ tình với mình, liền làm thơ đáp trả

Gió đưa mây, thời mây theo gió

Trăng đã tròn trăng sáng chờ duyên

Chờ người thi sĩ ngắm trăng

Cho mai với trúc chung nhau đường đời

Cần chi kẻ đợi người chờ

Thương nhau thời đến ngại gì mà lo

Lời thơ qua lại càng ngày càng khắn khít, đúng là đôi trai tài gái sắc hai người như nam châm luôn hút lấy nhau.

Đạo sĩ họ Lưu thấy mình tuổi cũng đã lớn, lại thấy Tân thông minh khác thường con đường tương lai rộng mở nên an lòng gả Duyên cho Tân.

Tân và Duyên nên nghĩa vợ chồng hai người thường quấn quít bên nhau không bao lâu Đạo Sĩ làm nhà cho vợ chồng Tân ở cách đó không xa chỉ độ vài trăm mét, còn Lang thời ở với thầy.

Nói về Đạo Sĩ họ Lưu thấy vợ chồng Tân thường quấn quít bên nhau thương yêu nhau hết mực thời cảm thấy hài lòng, nghĩ mình tuổi cũng đã xế chiều muốn đi đó đi đây luận bàn học đạo mở rộng kiến thức, bằng kêu hai vợ chồng Tân đến dạy bảo rằng hai con ở nhà chăm lo cho nhau Cha muốn đi vân du một chuyến có thể nói vài tháng đến vài năm Đạo Sĩ họ Lưu dặn dò xong thời lên đường vân du.

Nói về Tân từ ngày lấy vợ Tân tuy thương em nhưng không chăm sóc như trước nữa. Lang không biết vì sao trong lòng nổi lên bao nỗi buồn đôi lúc đầy chán nản.

Nói về Lang thấy thầy đi vân du không biết chừng nào trở về bằng qua nhà Tân chung sống với anh.

Một hôm Tân và Lang lên kinh đô xem rõ ngày ứng thí đến tối mịt mới về. Lang về trước còn Tân bận chút việc mới về sau. Lang vừa về tới nhà thời Duyên vợ Tân từ trong nhà chạy ra ôm chầm lấy Lang nói anh thay đồ đi cho em giặt. Thấy chị dâu nhầm lẫn bằng xô chị dâu ra nói chị nhầm rồi em là Lang không phải anh Tân. Đến lúc nầy Duyên vợ Tân mới phát hiện là không phải chồng mình cả hai người ngượng nghịu vô cùng xấu hổ.

Xui rủi làm sao lúc ấy thời Tân cũng đã về chứng kiến từ đầu đến cuối.

Từ đó Tân không còn chăm sóc đến Lang nữa và cố ý tránh né không muốn gặp mặt Lang. Lang biết anh mình buồn vì chuyện hôm rồi, để cho chị dâu phải lầm. Lang không muốn ch.uyện ấy xảy ra như thế nữa bằng bỏ nhà ra đi, để lại những dòng thơ.

Thương anh thương biết là bao

Nhưng vì giống quá chị dâu nhận lầm

Làm cho anh phải u buồn

Lòng em đau đớn vô cùng đớn đau

Thôi thì em phải ra đi

Để cho anh chị an vui cuộc đời

Chim trời các nước chim trời

Tìm Cha tìm Mẹ cõi bờ bên kia

Lang đi mãi đi mãi mấy ngày đường thời tới một con sông lớn nước chảy xiết không thể lội qua, xung quanh không có nhà dân, chỉ nghe tiếng sóng vỗ lao xao không ngừng. Lang ngồi cúi gục trên bờ tủi buồn số phận con người cô đơn. Lang ôm mặt khóc, khóc mãi, khóc mãi đến nỗi dân làng từ xa vẫn nghe. Sáng hôm sau Lang chỉ là một cái xác không hồn lần lần hóa đá.

Nói về Tân thấy Lang vắng bóng mấy ngày nay trong lòng cảm thấy bất an bằng vào phòng Lang nhìn thấy phong thơ để trên gi.ường. Đọc xong bài thơ Tân nghĩ phận làm anh mà không lo cho em được để bao chuyện đáng tiếc xảy ra. Nỗi lòng ray rứt cuối cùng Tân nói với vợ em ở nhà tự lo cho bản thân, anh phải đi tìm Lang.

Thế là Tân rời khỏi nhà, để vợ ở lại một mình lên đường đi tìm Lang. Đi được mấy ngày thời đến một con sông lớn nước chảy xiết không có cách gì qua được. Tân bằng đi dọc theo bờ sông mục đích gặp người nào thời hỏi thăm có thấy người nào giống mình đi qua đây không. Tân mệt lã hai chân đã mỏi đến bên hòn đá ngồi đấy chờ có thuyền qua sông.

Trong lúc đang ngồi chờ thời gặp một người dân đi qua Tân hỏi thăm có người nào giống mình đi qua sông không?

Người dân trả lời cách đây mấy hôm có một người đến đây không biết có chuyện gì ngồi khóc, khóc mãi khóc mãi hóa thành tảng đá, tảng đá cạnh ông đang ngồi đấy. Tân nghe xong ôm mặt khóc ròng thì ra tản đá chính là em của mình.

Tân ôm tảng đá khóc mãi khóc mãi người nông dân bỏ đi không muốn nhìn cảnh ấy, Tân khóc mãi cho đến lúc tắt thở chết lúc nào mà Tân cũng không biết, chỉ còn con sóng nhấp nhô tiếng nước chảy cuồn cuộn dưới lòng sông.

Tân chết hóa thành một cây thân mọc thẳng lên trời bên cạnh tản đá.

Nói về vợ Tân ở nhà chờ mãi ngày qua tháng lại không thấy chồng về, nhớ chồng lại sống cô đơn. Vợ Tân quyết đi tìm chồng nên cũng bỏ nhà ra đi. Theo người ta chỉ Duyên đi mãi đi mãi cho đến một hôm trước mặt Duyên là con sông rộng lớn, Duyên vợ của Tân cũng mệt lã người. Duyên nhìn thấy một cây mọc thẳng lên trời bên cạnh tảng đá, cơ may gặp người dân đi tới Duyên mừng quá hỏi thăm có thấy người nào đi tìm em không? Người dân nói không biết vì sao cách đây không lâu có một người trai trẻ ôm tảng đá ngồi khóc khóc mãi rồi hóa thành cây mọc thẳng lên trời chính là cây kia nói xong người ấy bỏ đi.

Duyên nghe xong thời bật khóc chạy tới ôm cây không nhánh chỉ có lá như đuôi phụng mọc thẳng lên trời như tìm Cha tìm Mẹ họ của chàng là họ Cao họ của Trời, chàng đã dẫn em đi tìm Cha Trời Mẹ Trời. Duyên ôm cây có lá như đuôi phụng mọc thẳng lên trời khóc khô cả nước mắt, khóc cho đến kiệt sức rồi chết hóa thành loại cây dây bám vào ôm chặt lấy thân cây như không muốn tách rời.

Dân Làng ngậm ngùi bằng lập miếu để thờ giọi là Miếu Thảm Sầu tiếng đồn từ đó lan xa. Ai cũng muốn đến thắp nén hương. Miếu Thảm Sầu rất linh tiếng đồn xa hơn nữa.

Nói về Đạo Sĩ họ Lưu một thời gian vân du luận bàn học đạo trở về nhà vô cùng kinh ngạc vì không còn ai nhà cửa vắng tanh tụi nó đi đâu kìa. Đạo Sĩ bằng tìm tòi trong nhà chợt nhìn thấy bài thơ Lang ra đi để lại cho anh, bằng hình dung hiểu ra tất cả thì ra là thế chúng nó đã bỏ nhà ra đi. Đạo Sĩ nhờ mọi người tìm kiếm nhưng không thấy, chỉ nghe thấy tiếng đồn về Miếu Thảm Sầu bằng thưa lại với Đạo Sĩ.

Đạo Sĩ họ Lưu bằng lên đường tìm đến Miếu Thảm Sầu thấy một Tảng Đá, cạnh Tảng Đá có một cây không nhánh, lá như đuôi phụng mọc thẳng đứng lên trời Đạo Sĩ biết đó là con rể của mình. Ông nhìn cây dây bám chặt vào thân cây như muốn không rời nhau Đạo Sĩ không cầm được giọt nước mắt đúng là cặp đôi Chung Tình. Đạo Sĩ bằng kể lại tất cả cho người dân nghe về câu chuyện hai anh em họ Cao cùng con gái của ông. Dân làng nghe xong vô cùng cảm động bằng đổi tên Miếu Thảm Sầu thành Miếu Chung Tình ở gần ven sông.

Một năm sau trời hạng rất dữ, sông, suối, cạn kiệt cây cỏ đều cháy khô duy cây và dây quấn quít ôm chặt bám lấy nhau bên cạnh tản đá vẫn xanh mượt tình yêu thủy chung chiến thắng sự khắc nghiệt, dù cho hoàn cảnh nào. Mọi người đến dâng hương cho đây là điềm lạ.

Một hôm Hùng Vân Lang ngự giá đi ngang qua xứ đó nhìn thấy dân chúng khá đông vái lạy một cây không nhánh mọc thẳng lên trời xanh tốt thời lấy làm lạ trong khi trời nắng hạn chang chang cây cỏ bị cháy khô bằng nói với quan tướng đưa Trẩm đến đó xem. Đến nơi Vua nhìn thấy một ngôi Miếu hỏi dân thời được biết đây là Miếu Chung Tình. Vua nghe xong lấy làm kinh ngạc.

Lạc tướng bằng kêu một người dân đến hỏi dân kể cho Lạc Tướng cùng Vua Hùng nghe. Nghe xong Vua Hùng lấy làm cảm động. Vua Hùng liền bước đến Tảng Đá, nhìn cây mọc thẳng lên trời, vạch lá nhìn xem dây lạ khắp mọi chỗ đúng là dây lạ cây lạ nói với quan Lạc Tướng rằng Trẫm chưa nhìn thấy bao giờ. Khanh cho người trèo lên hái quả Vua cho bổ ra và ném thử thấy vị chát không có gì lạ. Nhưng khi nhai với lá cây dây thời liền biến ra một vị là lạ ở đầu lưỡi vừa ngon vừa ngọt vừa thơm cay.

Vua lại lấy cả ba thứ nhai với nhau thật bất ngờ cảm thấy trong người nóng bừng lên, như có hơi men, môi đỏ tươi như máu, mọi người thấy thế đều kinh ngạc. Vua bảo đúng là họ rồi, anh em nhà họ Cao cùng với Trẫm có sự liên quan mật thiết. Với câu chuyện Thắm Tình anh em, trọn nghĩa vợ chồng, thật đáng để cho đời suy tôn học hỏi.

Từ đó Vua Hùng ra lệnh trồng ra cho nhiều trước là chữa được nhiều thứ bệnh, sau là nêu gương cho hậu thế, anh em thương yêu như thể tay chân. Cũng như nói lên tình yêu chung thủy. Từ đó Bách Việt Văn Lang đi vào cúng kiến nghi lễ phải có Trầu, Cau, Vôi. Nhất là tục lệ kết duyên cưới hỏi. Phải có đủ ba món Trầu, Cau, và Vôi. Nói lên tình yêu thủy chung gắn bó sống chết có nhau. Về sau có người trong lễ cưới hỏi chỉ dùng có Trầu, Cau không có Vôi. Vì người ta cho rằng bạc như Vôi. Làm cho mối tình Tân và Duyên đầy cảm động và cũng đầy nước mắt. Câu chuyện sự tích Trầu, Cau, đến đây là hết.
 
84. CẢNH NON TIÊN

Ở vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Diệp Vương đời thứ tư lên ngôi Quốc Vương trị vì thiên hạ, thay Cha là Hùng Tiên Lang.

Khi ấy ở xã Quảng Điền, Huyện Tam Giao, Lô Châu. Có một gia đình sanh đẻ muộn được một cô con gái tên là Đỗ Quyên.

Đỗ Quyên lên mười sáu tuổi thời một cơn bịnh lạ nổi lên. Cô tê liệt nửa người, Cha Mẹ Đỗ Quyên vô cùng đau khổ tìm thầy chữa bệnh cho con, chạy hết tiền mà bệnh cũng không khỏi. Đỗ Quyên chỉ biết lê lết trong nhà.

Một hôm Đỗ Quyên nằm mơ thấy một vị thần đến mách bảo. Cô hãy kiên trì niệm Địa Mẫu Âu Cơ, thời Cô sẽ được Mẹ Âu Cơ cứu cho nói xong vị Thần biến mất. Cô liền kẻ với Cha Mẹ, nhờ người viết bài vị Địa Mẫu Âu Cơ, để Cô thắp hương cầu khẩn ngày đêm. Sự thành tâm của Cô ngày đêm luôn thắp hương cầu khẩn được ba tháng thời một chuyện diệu kỳ xảy ra. Đỗ Quyên vừa thắp hương cầu nguyện xong thời hai mắt Cô nặng trĩu Cô lên gi.ường nằm ngủ thiếp đi Cô thấy một người xinh đẹp hiện ra, đưa Cô đến cõi Non Tiên.

Khi đến nơi Cô không khỏi kinh ngạc vì Non Tiên cảnh đẹp như tranh, đất đai toàn là vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu, nhà cửa nguy nga tráng lệ, bảo tháp cung điện vàng son rực rỡ, không như chốn nhân gian vạn vật tầm thường. Nơi Non Tiên vật gì cũng tỏa hào quang, từ cây cối đến chim muôn.

Người ở đây sao mà to lớn khác hẳn người dương thế xinh đẹp lạ lùng. Người Phụ Nữ xinh đẹp cười nói với Đỗ Quyên. Đây là dãy núi Trì Địa, một trong bảy dãy núi báu hạ thiên vũ trụ. Thần, Tiên sống ở đây tuổi thọ rất cao. Các vị Thần, Tiên sống ở đây đói thời ăn hoa quả, cũng như hít thở tu thiền luyện khí. Nền khoa học Địa Tiên đạt đến đỉnh cao chế tạo ra nhiều bảo bối phục vụ cho con người.

Các Thần, Tiên, sống ở đây thường chu du ngoạn cảnh thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên kỳ bí, cũng như thưởng thức bao vẻ đẹp do bàn tay con người tạo lên. Như con nhìn thấy đó kỳ quang bảo tháp khắp nơi, đường sá dọc ngang như bàn cờ, cung vàng điện ngọc lầu đài nguy nga tráng lệ không kể xiết. Vật liệu xây dựng toàn là vàng, bạc, ngọc ngà, trân châu, kim cương, pha lê, xà cừ, mã não trâm quý vô cùng.

Ở Non Tiên Cực Lạc sung sướng gấp vạn lần chốn nhân gian. Muốn gì được nấy, lại không phải lo đói nghèo, cũng không ốm đau bệnh tật. Non Tiên Cực Lạc Trì Địa rộng lớn gấp hàng vạn tỉ lần địa cầu chốn nhân gian. Đất đai châu báu rộng lớn như thế người ở không bao giờ hết, nên không có sự tranh giành về đất đai như chốn nhân gian. Sống trên Non Tiên Cực Lạc luôn được bình yên vì không có chiến tranh, cũng như nắng hạn, bão lụt thời tiết ôn hòa. Cũng như không có người giàu kẻ nghèo về vật chất. Mà chi hơn nhau về hiểu biết giác Ngộ, cũng như Đạo Đức mà thôi. Cảnh Non Tiên Cực Lạc là cảnh mùa xuân, muôn hoa đua nở, hoa quả sum sê. Chỉ cần ăn một quả Nhân Sâm thời bệnh gì cũng khỏi.

Nơi tòa lâu đài kia, là nơi Ông Bà cao đời con ở đó, và đã biết con lên đây nên chuẩn bị cho người ra đón. Người phụ nữ xinh đẹp nói xong, Đỗ Quyên nhìn thấy từ trong tòa lâu đài một người phụ nữ xinh đẹp bay ra, nháy mắt thời đến chỗ Đỗ Quyên. Chắp tay lễ phép nói rằng đội ơn Phụng Thiên Thánh Mẫu đã dẫn con cháu của Thần đến đây.

Phụng Thiên Thánh Mẫu nói Ta vân lệnh Địa Mẫu Âu Cơ dẫn Đỗ Quyên đến đây gặp Ông Bà Cao Đời Cao Tổ chữa bệnh cho nó, nói xong Phụng Thiên Thánh Mẫu hiện thân trở lại nguyên hình thành người phụ nữ to lớn, còn to lớn hơn người phụ nữ từ trong tòa lâu đài bay ra xinh đẹp không bút mục nào tả nổi bay về trời. Người phụ nữ xinh đẹp nhìn theo Phụng Thiên Thánh Mẫu nói Ta còn phải tu luyện nhiều mới được như Phụng Thiên Thánh Mẫu. Nói xong người phụ nữ xinh đẹp nhìn Đổ Quyên nói Ta là Nội Tằng Tổ Tổ của con, Linh Hồn của con không được bình thường vì ảnh hưởng đến thân xác bại liệt của con, người phụ nữ xinh đẹp phất tay một cái tức thời Linh Hồn Đỗ Quyên trở lại bình thường,

Người phụ nữ xinh đẹp nắm lấy tay Đỗ Quyên bay thẳng về tòa lâu đài nguy nga tráng lệ. Đỗ Quyên nhìn sững tòa lâu đài kiến trúc cổ kính đẹp lộng lẫy không bút mực nào tả xiết vật liệu xây dựng toàn là châu báu. Vàng, bạc, trâu châu, kim cương, pha lê, xà cừ, mã não. Hào quang muôn sắc nghìn màu đẹp lạ lùng hoa văn sống động như thật không sao diễn tả nổi.

Người phụ nữ xinh đẹp nắm lấy tay dẫn Đỗ Quyên đi vào cung điện Đỗ Quyên thấy người nào cũng to lớn xinh đẹp vô cùng. Người phụ nữ biểu Đỗ Quyên lạy những người ấy đây là những Ông Bà Cao Đời Cao Tổ của con. Đỗ Quyên lạy hết người nầy đến người kia không biết bao người. Người phụ nữ dẫn Đỗ Quyên vào một căn thờ lớn, thờ người phụ nữ vô cùng xinh đẹp. Người phụ nữ ấy nói con lạy Mẹ Âu Cơ đi. Đỗ Quyên nghe nói tới Mẹ Âu Cơ thời không khỏi giật mình vì ngày đêm mình thường niệm danh hiệu của Mẹ. Đỗ Quyên thấy được dung nhang qua bức tượng Mẹ Âu Cơ, liền thành tâm lễ lạy niệm rằng con lạy Mẹ Âu Cơ.

Tức thời trong người Đỗ Quyên thấy khác lạ Linh Hồn khỏe hẳn ra, trên đầu phát tỏa hào quang. Người phụ nữ dẫn Đỗ Quyên khen rằng con giỏi lắm. Mẹ Âu Cơ đã chứng tấm lòng của con, nên đã ban cho con Thần Lực, Điển Lực, Điển Quang. Chỉ cần con hoàn hồn trở lại thời thân xác nơi phàm tục của con tức thời khỏi bệnh kinh mạch lưu thông khỏe mạnh.

Không những thế mà con có tài chữa bệnh xoa bóp tới đâu thời bớt bệnh tới đó, khi con trở về trần gian ra sức cứu người, con sẽ trở lại Non Tiên Cực Lạc, hoặc các cõi Non Tiên Cực Lạc cao hơn.

Non Tiên Cực Lạc nầy chỉ là Non Tiên Cực Lạc Trì Địa thấp nhất trong bảy Non Tiên. Trên Non Tiên là cảnh giới các Tần Trời. Đỗ Quyên nghe xong lấy làm kinh hãi Non Tiên ở đây cảnh giới xinh đẹp như thế nầy hơn trần gian gấp vạn lần. Thế mà chỉ là Non Tiên Cực Lạc thấp nhất ôi vũ trụ bao la không thể nghĩ bàn. Người phụ nữ xinh đẹp nói ở đây một ngày bằng trần gian một năm. Con đến đây cũng đã khá lâu, mau nhắm mắt lại Ta đưa con về trần thế.

Đỗ Quyên vừa nhắm mắt thời không biết gì nữa, khi tỉnh dậy nghe Cha Mẹ khóc lóc kể lể, con ơi là con, sao con bỏ Cha Mẹ mà đi. Đã hơn bảy ngày rồi mà con chưa tỉnh dậy. Tim con dần dần hết đập hơi thở của con lúc có lúc không, con ơi đừng bỏ Cha bỏ Mẹ mà đi.

Đỗ Quyên nghe Cha, Mẹ vừa khóc vừa kể lể cảm động nói con không chết đâu. Thấy con mở mắt nói, Cha Mẹ Đỗ Quyên vô cùng mừng rỡ nói Mẹ Âu Cơ đã cứu con sống dậy.

Đỗ Quyên kể lại tất cả những gì Cô đã trải qua cũng như chứng kiến cảnh giới Non Tiên Cực Lạc. Cô gặp những ai nói cho Cha Mẹ nghe. Cha Mẹ cô nghe đến đâu thời kinh ngạc đến đó. Nơi Non Tiên Cực Lạc mà còn phải thờ Mẹ Âu Cơ vậy mới biết Mẹ Âu Cơ là người Mẹ như thế nào.

Đúng là người Mẹ Trời trên cả Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa quyền năng tột thế không thể nghĩ bàn. Cũng như Thiên Đàng Địa Phủ là có thật, chết đâu phải là hết mà là mang theo nghiệp ác nghiệp thiện bên mình, Cha Mẹ Đổ Quyên phát tâm làm lành, lánh dữ tôn thờ Mẹ Âu Cơ, cầu mong được siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc theo Ông Bà Cha Mẹ.

Nói về Đỗ Quyên từ khi tỉnh dậy khỏe mạnh không còn đau yếu gì nữa, tiếng đồn vang xa nhiều người đến thăm hỏi, Đỗ Quyên đều kể lại cho mọi người nghe trần gian chỉ là cõi tạm thiên đàng mới thật chính quê. Nhưng muốn lên Thiên Đàng thời phải tôn thờ Cội Nguồn đi đôi hành thiện. Không những để đức cho con cái lại được Mẫu Mẹ độ trì, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa che chở. Trên đời nầy không có cái lợi nào hơn là tôn thờ Nguồn Cội đi đôi với hành Thiện, ít gặp tai họa thường gặp may mắn có thể nói là muốn gì được nấy trong cuộc sống đời thường. Đỗ Quyên độ không biết bao nhiêu người trở về con đường thiện lành tôn thờ Nguồn Cội.

Trong số người đến thăm hỏi Đỗ Quyên có một người phải nói là đau đủ thứ chứng bệnh, không thầy nào chữa được uống thuốc gì cũng không khỏi, có thể nói là sắp chết đến nơi tên là Bà Nhung. Nghe Đỗ Quyên kể về Mẹ Âu Cơ rất linh thiên cũng muốn tôn thờ, nhưng sắp chết đến nơi, lại vô cùng mệt mỏi. Đỗ Quyên thấy vậy nói bà đến đây tôi xem thử. Đỗ Quyên được Mẹ Âu Cơ ban cho Thần Lực, Điển Lực, Điển Quang khác với người thường Đỗ Quyên xoa bóp cho Bà Nhung thời nhiệm mầu thay Bà Nhung cảm thấy khác lạ trong người, Đỗ Quyên xoa bóp đến đâu thời bệnh tình thiên giảm đến đó nhất là đau đầu chóng mặt cũng như bại xụi là hết hẳn. Không thể tin được Bà Nhưng thấy đôi tay Đỗ Quyên như có cái gì đó không thể nào diễn tả được đôi bàn tay nhiệm mầu. Bà Nhung nào có biết sự nhiệm mầu ấy là do Thần Lực, Điển Lực, Điển Quang Mẹ Âu Cơ đã ban cho Đỗ Quyên.

Bà Nhung khỏi bệnh từ đó ca ngợi Đỗ Quyên không hết lời, Bà Nhung có quen biết một người phải nói là giàu có tên là là Bà Thoa. Bà Thoa có bốn người con duy nhất có một người con trai tên là Hậu, như Hậu mang chứng bệnh điên điên khùng khùng không biết bao nhiêu đạo sư phù thủy ra sức cứu chữa nhưng không khỏi. Bà Thoa mẹ của Hậu nghe Bà Nhung ca ngợi Đỗ Quyên không hết lời bằng nói nếu Đỗ Quyên chữa khá bệnh cho con tôi thời tốn kém bao nhiêu tôi cũng chịu. Bà Nhung cùng gia đình Hậu đến gặp Đỗ Quyên nói lên nguyện vọng của gia đình.

Đỗ Quyên nhìn sơ qua cậu con trai, con mắt Cô khác thường nhìn thấy các huyệt đạo bế tắc, là do uống nhiều dược liệu có Âm Hàn. Lại thêm có những âm hồn quấy phá. Đỗ Quyên liền niệm danh hiệu Mẹ Âu Cơ đôi bàn tay Cô xoa bóp tới đâu Âm Hàn liền tiêu tan đến đó, các huyệt đạo khai thông trở lại. Những Âm Hồn lâu nay xâm nhập vào Hậu bị Điển Lực Điển Quang đánh cho tiêu tan, chơn dương hưng tịnh trở lại thần kinh liền ổn định. Hậu đã trở thành một người khác từ sắc mặt đến lời ăn tiếng nói. Không còn điên điên khùng khùng như trước đây. Gia đình Hậu lấy làm mừng rỡ mừng rơi lệ nói con tôi đã khỏi bệnh rồi. Cha Mẹ của Hậu lấy ra hơn năm mươi lượng vàng đưa cho Đổ Quyên nói gia đình tôi quá bất ngờ nên không chửng bị nhiều vàng hơn nữa tạm thời chỉ có bấy nhiêu, nếu chưa đủ mai vợ chồng tôi sẽ đem đến.

Đỗ Quyên nói tài chữa bệnh của tôi là do Mẹ Âu Cơ ban cho nên tôi không nhận lấy vàng bạc của ai, chỉ là làm phước thiện tùy lòng hảo tâm của người bệnh mà thôi. Cha Mẹ của Hậu nghe Đỗ Quyên nói như vậy liền nói từ nay vợ chồng tôi nguyện tài trợ tất cả chi phí ăn uống chi tiêu của Cô. Để Cô an tâm không lo thiếu thốn chuyên tâm cứu người. Không những gia đình của Hậu mà con nhiều gia đình khác cũng đóng góp công sức tạo mọi điều kiện thuận lợi để Đỗ Quyên cứu người.

Đỗ Quyên đêm ra sức làm lành Đỗ Quyên chữa bệnh cứu người đông vô số kể, nổi tiếng là người chữa bệnh giỏi nhất Lô Châu.

Hơn sáu mươi tuổi Đỗ Quyên mãn kiếp trần siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc ở dãy núi Tu Di cao hơn Ông Bà nhiều đời nhiều kiếp của Đỗ Quyên trở thành Dược Vương Thánh Mẫu sống an tự tại trên Non Tiên Cực Lạc.
 
85. TẠ VÀ TẤN

Ngày xưa ở làng Cây Gạo, Xã Hòa Ân, Huyện Đầm Lầy,

Có hai người chuyên hành nghề không mấy lương thiện không nói là bất chính, một người tên là Tấn, một người tên là Tạ.

Tạ mở sở hụi, sau nầy thêm cái nghề cho vay nặng lãi, còn Tấn thời mở sòng bài bạc, còn làm thêm nghề phục vụ gái tơ, kể cả xì ke ma tuý.

Hai người chuyên làm nghề phi pháp thế mà chính quyền địa phương không đá động gì đến, có lẽ ăn tiền đút lót trám họng rồi.

Tạ và Tấn làm cho không biết bao nhiêu gia đình phải tan gia bại sản nhà cửa tan nát.

Một hôm Tạ chủ sở hụi thấy tiền sở hụi lên đến bạc tỉ, liền cướp sạch những sở hụi đóng góp của bà con, rồi dẫn gia đình tới một nơi khác để ở thế là Tạ giàu to. Tạ lấy tên khác mở ra sở hụi mới với mưu mô xảo trá bước đầu Tạ làm cho bà con tin, khi thấy số tiền lên đến bạc tỉ Tạ cướp sạch chuyển đến nơi khác ở đổi tên thay họ, cứ thế Tạ đã thành công ba bốn lần. Tạ nghĩ cứ mỗi lần dời đi là mỗi lần khó khăn nhất là Cha Mẹ già cùng ba con nhỏ. Tạ tìm đến một nơi có thể nói là lý tưởng dân cư đông đúc, buôn bán sầm uất với cái nghề cho vay nặng lãi cũng đã giàu rồi. Tuy hành nghề bất chính nhưng Tạ có hiếu có nghĩa đối với Cha Mẹ ở đời ít người được như vậy.

Ba người con của Tạ mỗi ngày mỗi lớn học hành không ra gì cả, nhưng tài ăn chơi thời rất giỏi thuộc tầm cở đàn anh, sự ăn xài tiêu pha, nhưng chỉ một người làm ra, ba người chơi bời tiêu pha của kho cũng hết. Ta nói mãi với ba người con không được vô cùng chán nản, đúng với câu của phi nghĩa khó giàu lâu, làm ăn chân chính giàu lên mới bền. Tạ liền đi chùa sám hối, nghe thầy giảng luật Nhân Quả gieo gì gặt nấy, không mấy ai thoát khỏi dù cho là phật, Thánh, Tiên. Tạ không dám làm ác nữa quay sang làm phúc làm lành, không bao lâu thời qua đời sau một cơn tai nạn giao thông.

Lại nói về Tấn, làm ăn giàu như thổi sòng bài sòng bạc càng ngày càng hưng thịnh, có đàn em giang hồ xiết nợ, nhiều người cũng đã bỏ mạng vì không trả nổi. Quan quyền địa phương vì đã ăn tiền đút lót nên bỏ mặt làm ngơ.

Cọng với nghề mại dâm ông trùm gái tơ, xì ke ma tý Tấn đi sâu vào con đường tội lỗi chất chồng như núi, Xưa nay Tấn làm gì được nấy là nhờ hồng phúc Ông Cha để lại, phúc đức đâu phải tự nhiên mà có, có gieo ra thời mới gặt vào. Tấn chưa gieo phúc đức ngày nào chỉ làm toàn là chuyện ác. Phúc hết thời họa cũng tới, bọn đàn em lai rai làm phản thường đụng độ nhau.

Cho đến một hôm bị một tên đàn em tên là Quả tạo phản bắn chết Tấn cướp lấy gia tài của Tấn, kể cả những người vợ còn trẻ xinh đẹp cũng thuộc về Quả. Kết quả của Tấn chỉ là con số không, lại nhận lãnh mấy viên đạn quằn quại trên vũng máu chết thảm thê.

Tấn mang theo nghiệp ác đầy mình liền sa đọa xuống tần Địa Phủ thứ 7 Linh Hồn Tấn nhìn đâu cũng thấy ghê sợ cảnh chém giết xảy ra không lúc nào dừng, tiếng gào thét đau đớn bị phanh thây xẻ thịt. Tấn sợ quá nhưng làm sao tránh khỏi, bầy quỉ đánh hơi ra Tấn liền lao tới xé xác ăn tươi nuốt sống, Tấn ra sức chống trả nhưng nào có lại bị lũ quỉ xé xác ăn thịt. Linh Hồn của Tấn liền tan biến, đến khi hoàn hồn tỉnh dậy thấy mình bị quỉ trói chân trói tay mổ bụng moi gan rút gân đau đớn kêu la thảm thiết đau đớn quá chết đi linh hồn tan biến không còn, đến khi hoàn hồn tỉnh dậy thời thấy mình đang bị lửa bao vây. Tấn vô cùng kinh hãi kêu la cầu cứu, nhưng nào có thấy ai biển lửa từ từ siết lại hơi nóng ngùn ngụt lửa phủ tới đốt cháy Tấn. Tấn đau đớn chịu không nổi rồi chết đi Linh Hồn lại tan biến, đến khi hoàn hồn tỉnh lại thấy mình đang lặng hụp dưới nước đen ngòm, bầy rắn lao tới chúng thi nhau cắn xé thịt da của Tấn, Tấn đau đớn quá thét gào rồi chết đi Linh Hồn Tấn liền tan biến. Đến khi hoàn hồn trở lại thời thấy mình đang nằm trong băng tuyết hơi lạnh thấu xương. Lạnh nứt thịt da đau đớn quá rên la, hai con quỉ nghe tiếng rên la bằng lao tới trói chặt Tấn lại chặt mổ bụng lấy gan. Lấy tim, lấy phèo, lấy phổi Tấn đau đớn thét lên rồi không biết gì nữa, đến khi tỉnh dậy thời thấy mình bị trói vào một trụ đồng. Hai con quỉ cưa xẻ từ trên đầu cưa xuống tới chân máu chảy lênh láng. Tấn đau đớn tột cùng rồi ngất đi không biết gì nữa, đến khi tỉnh dậy thời thấy mình bị quỉ liệng vào cối xay, xay nát nhừ Tấn đau đớn gào thét thê thảm rồi không biết gì nữa. Đến khi hoàn hồn tỉnh dậy thấy cảnh tượng hãi hùng chưa kịp chạy trốn thời thấy hai con quỉ cầm đao chạy tới nói thằng nầy khi còn ở dương gian ác lắm bằng chém xối xả vào Linh Hồn của Tấn thịt nát xương tan cứ như thế chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần. Có lẽ ác nghiệp quá sâu dày hết cảnh hành hình nầy đến cảnh hành hình khác. Tấn vừa hoàn hồn trở lại sợ quỉ hành hình bằng chạy trốn vào một hố đen. Linh Hồn Tấn vừa lao vào hố đen thời không biết gì nữa bị huyền cơ luân chuyển đến tầng Địa Phủ thứ 8, khi tỉnh lại thời thấy mình đang ở gần hốc đá nghe tiếng đâm chém khắp cùng Tấn sợ quá định chun vào hốc đá nhưng nào có kịp một con quỉ lao tới tóm cổ đâm cho một nhát đem Tấn đến chảo dầu đang sôi sùng sục Tấn thấy thế gào thét kinh hãi nhưng con quỉ nào có tha ném Tấn vào chảo dầu Tấn đau quá thét lên rồi không biết gì nữa tan biến trong chảo dầu. Khi tỉnh lại Tấn thấy mình đang ở một nơi hoang vu nghe tiếng chim ưng cùng khắp Tấn vô cùng kinh hãi không biết mình đang ở đâu thời thấy bầy chim ưng bay đến con nào con nấy to lớn chúng thi nhau mổ vào Tấn rứt từng miếng thịt đau đớn quá Tấn ngất đi rồi không biết gì nữa. Cứ như thế chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, hết chim ưng xé xác ăn thịt, thời tới rắn, sói ăn thịt, Linh Hồn Tấn vừa Hoàn Hồn tỉnh lại thấy mình trên bãi đất trống, sợ chim ưng, rắn, sói ăn thịt, bằng lao mình đến hóc đá tối đen trốn kỳ lạ thay Linh Hồn Tấn vừa lao vào hốc đá tối đen thời không còn biết gì nữa, Linh Hồn Tấn đã luân chuyển đến tần Địa Phủ thứ 9 đến khi tỉnh dậy thấy mình đang ở một nơi âm u lạnh lẽo. Tấn nghe tiếng đao, kiếm rít lên rợn người chưa hiểu là chuyện gì thời thấy đao, kiếm từ xa bay đến đâm chém xối xả vào Linh Hồn Tấn, Tấn sợ quá gào thét thê thảm. Tấm bị đao kiếm hành hình bằm nát như tương Tấn liền chết đi Linh Hồn tan biến vào hư không, khi hoàn hồn sống dạy nghe tiếng tên bay rợn người Tấn vô cùng kinh hãi Tấn nhìn quanh bốn phía nhưng không có nơi nào ẩn núp còn đang hoang man sợ hãi thời hàng trăm mũi tên bay tới thi nhau cắm phặp vào Linh Hồn của Tấn. Tấn gào thét đau đớn thời không còn biết gì nữa, khi tỉnh dậy thấy mình không còn là Tấn mà hóa thành Ngạ Quỉ bụng to như núi cổ nhỏ như kim, ăn không được đói khạc ra lửa, đau đớn vô biên chết đi sống lại không biết là bao nhiêu lần, ác nghiệp tự hiện ra rồi tự xử lấy. Cứ như thế chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần Tấn đau đớn vô cùng nhất là thân Ngạ Quỉ đói quá bốc lửa đốt thân mình ra tro, trước khi chết Ngạ Quỉ Tấn thấy màu xanh mờ nhạc hiện ra liền ẩn mình vào đó. Tức thời Linh Hồn luân chuyển đầu thai. Khi tỉnh dậy thấy mình là một heo người ta nuôi cho mau lớn rồi đem xẻ thịt. Cứ như thế mỗi lần chết đi luân chuyển đầu thai thành thập súc. Chó, Mèo, Heo, Bò, Trâu, Dê, Lừa, Ngựa, Gà, vịt, trả nợ cho con người. Làm ma Heo, ma Mèo, ma Chó, ma Bò, ma Trâu, ma Gà ma Vịt, ma ngựa, ma Dê, trải qua hàng trăm nghìn kiếp.

Nói về Tạ bị tai nạn giao thông chết đi Linh Hồn không bị sa đọa xuống các tầng Địa Phủ, ở lại nhân gian làm Ma. Sống nơi Âm Cảnh dưới sự cai quản Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang.

Một hôm Ma Tạ nghe nói hôm nay có vị quan cấp cao trong Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang, về Bổn Xứ giảng đạo cho các vong hồn Ma hiểu về Đạo Làm người cho các Ma nghe.

Các vị Thần Bổn Xứ dẫn các vong hồn ở nhiều Bổn Xứ đến nghe. Vị Quan Văn thuộc hàng cấp cao trung ương nhìn các vong hồn nói. Sở dĩ các vong hồn chưa đầu thai làm người được. Là vì chưa đủ đức tánh để được làm người. Đức tánh làm người rất nhiều nhưng căn bản thời có mười đức tánh.

1, là có Nhân, 2- là có Nghĩa, 3- là biết Lễ, 4- là có Trí, 5- là có Tín, 6- là có Trung, 7- là có Hiếu, 8- là biết Hòa Thuận, 9- là biết Liêm Sỉ, 10- là lòng Quảng Đại, Bao Dung. trong mười đức tánh nầy chỉ cần được năm thời đủ nhân duyên đầu thai làm người trở lại làm người. Không cần theo thứ tự. Còn như chỉ được một hai Đức Tánh làm người phải chịu làm Ma đến hàng nghìn năm cũng chưa được đầu thai làm người trở lại.

Nếu làm ác đánh mất tánh làm người phải chịu luân hồi đầu thai trở lại loài Cầm Thú. Nếu đi vào đại ác phải chịu sa đọa xuống các tầng Địa Phủ chịu nhiều sự hành hình đau đớn. Vì vậy làm Ma Âm Cảnh cũng phải biết tu hành. Tự giải thoát Linh Hồn của mình ra khỏi tam đồ khổ luân hồi Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh.

Linh Hồn Ma Tạ liền quỳ xuống thưa đại nhân kẻ Dương Gian, người Âm Cảnh không nói chuyện với nhau được làm sao mà khuyên người Dương Gian làm lành tu hành theo Đạo Làm Người. Nhân Luân Hiếu Nghĩa, còn ở nơi Âm Cảnh rất khó tu hành vì chỉ là Hồn Ma. Không có thân xác tiểu thiên vũ trụ nên Linh Hồn tiến hóa rất chậm, không như người ở Dương Gian. Có thể nói ở trần gian Linh Hồn mang xác thân tiểu thiên vũ trụ tu một ngày bằng dưới Âm Cảnh tu cả năm. Thật khó cho những Linh Hồn Ma tu giải thoát.

Vị Quan cấp cao trong Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang nói. Linh Hồn Ông đã có tấm lòng quản đại, vì những Linh Hồn Ma mà hỏi ta như vậy. Ta sẽ vì Ông mà nói. Linh Hồn Ma có thể mượn xác trần ở những Linh Hồn khờ khạo mang nhiều Âm Chất Nặng Về Âm Khí. Nhập vào xác nầy mà dạy đạo con người. Như ta thấy nhiều Hồn Ma nhập xác con người mượn danh Ông nầy Bà nọ, người trần tục nào có biết nên nghe theo làm theo. Nhờ người trần tục nghe theo làm theo tu nhân tích đức, người trần hưởng bảy Hồn Ma nhập vào người dạy dạo hưởng được ba, nên mau đầu thai làm người trở lại. Hoặc siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc sống an vui hạnh phúc.

Vị Quan nói Ta thấy ngươi đã thành tựu năm đức tánh cơ bản Đạo Làm người, không bao lâu ngươi sẽ đầu thai trở lại làm người, nhưng phải chịu sự nghèo khổ vì kiếp trước khi còn sống nơi Dương Gian ngươi đã làm nhiều chuyện thất đức.

Vị Quan Cao Cấp Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang giảng Đạo xong thời trở về Trung Ương Nhà Nước Tâm Linh văn Lang. Những vị Ma nghe lời dạy Vị Quan Cao Cấp Nhà Nước Tâm Linh Văn Lang. Tu hành làm lành mau thành chính quả nên thường hay xuống điển, cũng như nhập xác người truyền dạy Đạo đức cho con người.

Đã có mặt phải, thời cũng có mặt trái. Có những Hồn Ma vì ham sự cúng dường đồ ăn thức uống, nên nhập xác người trần giả ra Ông nầy Bà nọ, không truyền dạy Đạo Đức Chân Chính mười đại Đức Tánh chủ lực của Lương Tâm, lôi kéo người trần đi vào ác đạo làm chuyện phản ngược lại Đạo Đức Lương Tâm, tức là đi vào Bất Nhân, Bất Nghĩa, Bất Trung, Bất Hiếu, Bất Trí, Bất Tín, Vô Lễ với Cội Nguồn. Chia bè rẽ phái, không có Lòng Bao Dung Độ Lượng. Xúi dục cúng dường cho nhiều để hưởng thụ. Những Hồn Ma nầy khó mà thành chính quả không còn tính người tức là đánh mất Lương Tâm phải bị sa đọa xuống các Tầng Địa Phủ.

Nói Tóm Lại: Làm người mà mất đi tánh người, những Đức Tánh Lương Tâm căn bản. Khi mãn kiếp người thời phải chịu luân hồi trở lại súc sanh, hoặc làm Ma, hoặc làm quỉ, hoặc sa đọa xuống các tầng Địa Phủ.

Còn những người đã thành Nhơn Đạo, Đạo Làm Người thành tựu, mười Đại Đức Tánh của Lương Tâm. 1- là có Nhân, 2- là có Nghĩa, 3- là có Lễ, 4- là có Trí, 5- là có Tín, 6- là có Trung, 7- là có Hiếu, 8- là có Hòa có Thuận, 9- là biết Liêm biết Sĩ, 10- là có tấm lòng Quảng Đại Bao Dung. Nhơn Đạo đã thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng chính là đây. Nếu biết hướng dẫn nhân loại con người trở về Cội Nguồn tôn thờ Tổ Tiên, Cha Trời, Mẹ Trời, ba ngôi tối cao vũ trụ, cũng như tu theo Đạo Làm Người, Nhơn Luân Hiếu Nghĩa, thời trở thành Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, Thần Tổ, Chúa Tổ, cũng như làm Vua làm Chúa các cõi nước Trời, gần Trời an vui tự tại.
 
86. QUAN VIÊN NGOẠI

PHẦN 1

Ngày xửa ngày xưa có một cậu con trai nhà nghèo họ Võ tên là Kim Khôi, cha mất sớm chỉ còn người mẹ. Vì nhà nghèo Kim Khôi không có điều kiện để học hành.

Cách nhà Kim Khôi không xa có thầy Tô Sinh nổi tiếng văn võ song toàn nhất là võ nghệ cao cường. Nguyên thầy Tô Sinh là một vị quan võ triều đình về hưu về quê mở trường dạy văn lẫn võ. Tô Sinh quê ở Diễm Châu, cảnh làng quê nơi đây trù phú đất đai màu mỡ, sông rạch chằng chịt, nguồn nước lúc nào cũng thừa tưới cho những cánh đồng, ngô, lúa, sắn, khoai tốt xanh bát ngát, Lũy tre đường làng quanh co uốn khúc, những hàng cau thẳng tắp trước nhà, làm tăng thêm sự êm ả thanh bình khói lam lan tỏa sớm chiều, những cây dừa dang tay đánh nhịp như gọi mời những đám mây lan thang bay về những ngọn núi xa xa. Bức tranh quê đẹp như mơ ai đến đây một lần thời không thể nào quên được.

Kim Khôi vốn tánh ham học nhưng vì nhà nghèo, Kim Khôi đành phải lén lút đến trường nhìn xem những môn sinh học văn học võ được hơn năm.

Cho đến một hôm Kim Khôi ngồi ngoài bờ rào lùm bụi cách xa cửa sổ lén nhìn vào trong lớp ráng nhớ từng chữ, từng câu, cũng như len lén nhìn các môn sinh tập võ. Không may cho Kim Khôi một chiếc xe ngựa từ xa vừa đến cổng ngõ, phát hiện Kim Khôi núp trong bụi vạch lá chăm chú nhìn vào trong trường. Từ trên xe ngựa một cậu con trai ăn mặc sang trọng bước xuống xe nói với tên đánh xe, ngươi đến bắt thằng nhìn lén học võ, học văn đến đây cho Ta.

Tức thời tên đánh xe chạy tới bụi rậm lôi cổ Kim Khôi đến trước mặt cậu con trai sang trọng. Nói thưa cậu chủ xử lý thế nào. Bỗng nghe chát chát mấy cái té lửa, Kim Khôi sợ quá xin cậu chủ tha mạng. Cậu con trai giàu sang cũng cùng trang lứa với Kim Khôi 13 tuổi. Nghe tiếng la hét ngoài cổng ngõ bọn môn sinh đệ tử học trò từ trong sân trường ùa ra xem.

Thấy Kim Khôi quỳ xin tha thứ, bằng hỏi chuyện gì vậy Cậu Chủ. Cậu Chủ của đám học trò nầy chính là Tô Khảo con của thầy Tô Sinh.

Tô Khảo nói thằng nầy lén học văn, học võ. Kim Khôi sợ quá nói xin tha mạng tôi không dám nữa, trong đám học trò có tay Đại Nháo là công tử nhà giàu nhất Diễm Châu không nói không rằng đá lia đá lịa vào Kim Khôi rồi nói đó mới là mở đầu, sau đó hắn lấy hơi ra sức đá tới tấp vào Kim Khôi.

Kim Khôi bị đá lăn cù cù cả bọn môn sinh học trò cười lên thích thú. Tô Khảo nói thôi tha cho nó đi.

Kim Khôi trở về nhà mình mẩy đau nhức ê ẩm ôm mặt khóc nghĩ buồn cho số phận của mình.

Một hôm Kim Khôi ra đồng bắt ốc thấy một người thương tật đầy mình nằm bất động. Kim Khôi bước đến xem người ấy còn sống hay chết, thời nghe người ấy nói ta khác nước quá. Kim Khôi liền lấy bầu nước đeo bên mình cho Ông Ta uống, không bao lâu thời người ấy tỉnh lại nhìn Kim Khôi không nói gì, người bị thương đầy mình nhìn thấy không xa trên sườn đồi có cái chòi liền đứng lên gượng đi đến đó. Kim Khôi cũng đi theo.

Vào trong cái chòi người bị thương đầy mình lấy trong minh ra một chiếc lọ nhỏ, lấy ra hai viên thuốc nuốt vào bụng, ngồi vận công dần dần hồi phục trở lại.

Người bị thương nhìn Kim Khôi một hồi phát hiện ra căn cốt thượng thừa thời không khỏi kinh ngạc, hàng triệu người may chỉ được một, bằng nghĩ thầm trong bụng âu đây cũng là cơ duyên ông trời sắp xếp cho Ta gặp được cậu bé nầy. Ta chỉ sống được một tháng nữa thôi, để thăm dò Kim Khôi người bị thương hỏi.

Cậu bé tên gì nhà con ở đâu, sao trông con có vẻ nghèo khổ vậy. Kim Khôi liền kể lại gia cảnh của mình cho người bị thương nghe. Kim Khôi nói con tuy nghèo nhưng cảm thấy vui, vì hàng ngày ra đồng bắt cua bắt ốc về cho Mẹ ăn, người bị thương nghe Kim Khôi nói thế lấy làm cảm động nói con quả là người có hiếu.

Người bị thương nhìn Kim Khôi rồi hỏi hình như con có học võ thầy của con là ai vậy. Kim Khôi nghe người bị thương hỏi thế liền kể lại câu chuyện đi học lén võ công bị người ta bắt được đánh cho một trận, con không dám đến đó học lén nữa. Người bị thương nói con hãy biểu diễn những gì con học được cho ta xem. Kim Khôi liền biểu diễn những đường quyền, những thế võ bài bản như người điêu luyện vài năm, người bị thương không khỏi kinh ngạc nói con chỉ xem lén mà học được như thế nầy sao? Kim Khôi nói con chỉ nhìn sơ qua là nhớ ngay. Duy có nội công tâm pháp thời con không biết. Người bị thương khen con quả là người kỳ tài có trí nhớ khác thường chỉ nhìn người ta tập luyện mà cũng học ra trò như vậy.

Bằng nói với Kim Khôi tiểu tử kia con có muốn học võ không? Nghe đến học võ Kim Khôi vô cùng mừng rỡ nói con rất muốn học, người bị thương nói Ta sẽ nhận con làm đồ đệ. Kim Khôi là người rất thông minh bằng quỳ lạy bái sư. Người bị thương không khỏi khen thầm, đúng là con rồng trong loài người. Người bị thương phất tay một luồng kình lực tuôn ra đỡ Kim Khôi dậy. Kim Khôi vô cùng kinh hãi tưởng đâu là yêu quái. Người bị thương thấy vậy nói con đừng sợ. Sư Phụ không phải là yêu quái đâu mà là Võ Lâm Nhất Quái.

Sư Phụ bị hai thằng học trò làm phản bỏ chất độc vào thức ăn đầu độc giết sư phụ định cướp lấy võ lâm tuyệt học mà Sư Phụ vô tình tìm thấy nơi thạch động.

Sư Phụ vì trúng độc nên không đánh lại hai tên nghiệt súc ấy may nhờ Sư Phụ có kinh công tuyệt học, không truyền dạy cho chúng vì biết chúng sau nầy sẽ tạo phản, nên Sư Phụ mới thoát chết, để tránh khỏi sự truy sát Sư Phụ đã vượt qua hàng trăm dặm mới đến được nơi đây. Kim Khôi nghe Sư Phụ nói thế lấy làm kinh ngạc bằng nói trên đời nầy lại có những học trò phản thầy đã là có tội, còn hại cả thầy thời thế nào cũng bị trời tru đất diệt. Võ Lâm Nhất Quái nói khi con học thành tài thay thế Sư Phụ trừ khử chúng bớt đi mối họa cho võ lâm. Kim Khôi nghe Sư Phụ nói thế liền vân dạ.

Nhất Quái sai Kim Khôi vào thị trấn mua lương thực, cũng như loại thuốc cầm cự với chất độc sống được ngày nào hay ngày nấy.

Nói về Mẹ của Khôi là Bà Khôi thấy trời sắp lặn mà Khôi chưa về lấy làm lo lắng đứng ngồi không yên hay bị người ta đánh bà không dám nghĩ nữa.

Mẹ của Khôi định đi tìm Khôi thời thấy Khôi trở về bằng nói cái thằng nầy mầy làm tao phải lo lắng. Khôi nói hôm nay con không bắt ốc bắt cua mà đi chăn dê cho một ông chủ, ông chủ trả công cho con cũng khá với số bạc nầy Mẹ ở nhà mua gạo để ăn. Cứ một tháng con trở lại nhà một lần. Bà Khôi nhìn thấy số bạc liền nói với số bạc nầy Mẹ chi tiêu ba tháng cũng chưa hết.

Mới mờ sáng Kim Khôi đã có mặt nơi chòi tranh, có lẽ vì không còn thời gian Nhất Quái liền dạy nội công tâm pháp cho Khôi. Khôi học tới đâu nhớ tới đó. Với nội công tâm pháp dù cho học cả tuần cũng không nhớ hết, thế mà Kim Khôi chỉ học có một giờ là thuộc làu không sót một câu một chữ. Có thể nói Nhất Quái truyền tới đâu Kim Khôi nhớ tới đó Nhất Quái khen thầm đúng là bậc kỳ tài. Nhất Quái dốc sức truyền dạy cho Khôi chưa đầy một tháng mà Khôi đã học xong nội công tâm pháp, bộ pháp, kiếm thuật, kinh công. Những võ công cả đời Nhất Quái nghiên cứu cũng như tìm tòi học hỏi sáng chế ra thế mà Kim Khôi chỉ trong vòng thời gian ngắn tiếp thu tất cả.

Nhất Quái hiểu rõ chỉ còn ít thời gian nữa là chất độc tái phát bằng đêm cuốn Bí Kiếp Võ Lâm Tuyệt Học ra truyền dạy cho Kim Khôi. Nhờ sự chỉ dạy của Nhất Quái Kim Khôi mau lãnh hội những võ công tuyệt thế trên đời. Võ Lâm Nhất Quái nói Thầy chưa có cơ hội tập luyện tuyệt học trong võ lâm bí kiếp. Nhưng Thầy đã nghiên cứu thấu đáo trong võ lâm bí kiếp đã truyền dạy hết cho con. Chỉ còn con chịu khó tu luyện thời không mấy người trên võ lâm là đối thủ của con.

Sau khi thầy mất con đem xác thầy đến một nơi ít người lai vãng chôn thầy nơi đó. Con hãy mau ngồi xuống để Thầy khai thông kinh mạch huyệt đạo cho con. Con theo tâm pháp thượng thừa trong bí kíp vận hành chân khí.

Nhất Quái ngồi sau lưng Kim Khôi vận thần công truyền vào người Khôi đã thông huyệt đạo kinh mạch. Còn Khôi theo tâm pháp bí quyết vận hành chân khí, không biết là bao lâu đốc kinh, nhâm kinh thông suốt toàn thân Kim Khôi cảm thấy nhẹ như bay.

Thấy bàn tay Sư Phụ không còn trên lưng mình nữa Kim Khôi quay đầu nhìn lại thời Sư Phụ đã về trời. Kim Khôi vô cùng đau xót ôm Sư Phụ mà khóc một hồi lâu. Khôi nhớ lời Sư Phụ dạy là đem thân xác Sư Phụ đến thâm sơn cùng cốc an tán.

Kim Khôi tháo cái túi Sư Phụ thường mang trong mình ngoài cuốn bí kíp ra còn có vàng bạc khá nhiều nhất là ba viên minh châu sáng lấp lánh trông đẹp mắt vô cùng. Kim Khôi nghĩ hãy đem số vàng bạc nầy về cho Mẹ rồi trở về đây mang xác Sư Phụ đi an tán. Kim Khôi trở về nhà thấy Mẹ dường như khỏe hẳn lên nhờ vào số bạc Khôi để lại.

Bà Khôi thấy con về thời mừng rỡ nói Mẹ biết con hôm nay sẽ về vì hết tháng. Mẹ đã mua áo quần cũng như mấy con gà làm thịt cho con ăn. Ăn cơm xong Khôi ở lại với Mẹ một lát rồi nói. Ông chủ sắp đi xa con phải có mặt đi với Ông Chủ. Ông chủ trả cho con số tiền thật lớn, con phải đi xa không biết chừng nào sẽ về Kim Khôi trao cái túi cho Mẹ nói đây là số vàng bạc ông chủ đưa cho con. Bà Khôi nhận lấy cái túi mở ra xem thời không khỏi kinh ngạc la lên, có cả vàng ít lắm cũng vài chục lượng, bà mừng quá nói cả đời Mẹ chưa bao giờ có một chỉ nói gì đến một lượng, với số vàng bạc nầy Mẹ con ta sanh sống đầy đủ cả đời, còn dư thừa sau nầy cưới vợ cho con. Kim Khôi nói. Chuyện tương lai còn dài con đi chuyến nầy hơi lâu. Nhà mình ở đây lẻ loi đói rách thời không ai để ý, chỉ hơi thong thả một tí là có người dòm ngó. Mẹ có thể mua nhà trên thị trấn để ở kiếm việc nhẹ làm, như mua bán chạy chợ, đợi con trở về sẽ có tiền bạc nhiều hơn.

Kim Khôi lấy cái rựa trong nhà mang theo từ giả Mẹ trở lại túp lều cũ kỷ cỏng Sư Phụ phi thân vùn vụt lao đi. Kim Khôi vô cùng kinh hãi mỗi lần nhích chân là mỗi lần thân hình Kim Khôi lao đi như tên bắn có lẽ nhờ mấy mươi năm công lực Sư Phụ truyền sang, Kim Khôi vượt qua hố sâu rừng thẳm đi cả ngày lẫn đêm tìm nơi không có chân người đi đến. Tiếng chim kêu vượn hú, sói tru, hổ gầm, Kim Khôi không gì sợ hãi trước mắt Khôi là rừng núi bạt ngàn, có một khu thung lũng hoa quả sum sê, cảnh quang xinh đẹp vô cùng đúng là nơi yên nghĩ muôn thu. Kim Khôi bằng an tán Sư Phụ tại đó.

An Tán Sư Phụ xong đâu vào đấy chặt cây dựng lều ở bên cạnh mộ sư phụ, canh giữ không cho thú rừng đào xới. Kim Khôi đói thời ăn trái cây, khác thời uống nước suối ba năm trôi qua Kim Khôi luôn ở cạnh Sư Phụ, ngày đêm tập luyện võ công. Khôi đã luyện đến chiêu cuối cùng trong Bí Kiếp Võ Lâm Tuyệt Học. Để thử sức mạnh Võ Lâm Tuyệt Học Thái Cực Thần Công Kim Khôi vận bảy thần công lực với chiêu Phá Thạch Khai Thiên đánh vào tản đá ầm một tiếng kinh thiên động địa tản đá bể nát. Kim Khôi cũng phải kinh hãi thảo nào hai tên học trò muốn chiếm đoạt cho được.

Để thử kiếm thuật đạt đến đâu Kim Khôi chặt một cành cây thay kiếm thi tuyển chiêu Lôi Âm Phong Vũ trong võ lâm tuyệt học chỉ thấy cành cây rít gió nghe đến rợn người biến hóa khôn lường lúc thời như sấm sét, lúc thời như mưa sa bão táp, lúc thời cuồn nộ như sóng gào, Lúc thời êm như dòng nước chảy, đúng là Võ Lâm Tuyệt Học, ai cũng muốn thuộc về mình. Võ Lâm Nhất Quái nổi tiếng với môm tuyệt học Ưng Trảo Công Kim Khôi muốn thử môn võ công tuyệt học nầy liền vận thần công chụp vào tản đá năm luồn chỉ phong xé gió bay ra những tiếng như sét đánh vang lên tản đá liền thủng năm lỗ lớn. Kim Khôi lại một lần nữa kinh hãi, với võ công nầy Sư Phụ đã làm khiếp đảm giới võ lâm nổi tiếng là Võ Lâm Nhất Quái.

Ba năm rồi còn gì ba năm không trở về nhà Kim Khôi liền đến mộ thầy khấn rằng con sẽ trả thù cho Sư Phụ thanh trừ hai tên phản phúc tạo phản trừ hậu họa cho đời. Khôi liền từ biệt Sư Phụ vượt qua bao đèo dốc hố sâu núi rừng trở về Diễm Châu. Khôi giờ đây đã trở thành chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú, khôi về đến nhà thấy cây cỏ um tùm thời cũng đã biết Mẹ đã bỏ đi mấy năm. Khôi nhớ lại năm xưa Mẹ lên thị trấn Diễm Châu mua nhà để ở, thị trấn Diễm Châu không thua gì thị xã. Khôi liền lên thị trấn tìm mẹ tìm suốt mấy ngày đi khắp thị trấn nhưng tìm hoài không thấy.

Khôi chợt thấy một người phụ nữ giống Mẹ đi vào một con hẻm Khôi liền chạy theo thời ra người đó là Mẹ của mình. Hai mẹ con gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Bà khôi nhìn Kim Khôi không phải là Khôi nhỏ bé ngày xưa mà là chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú Bà lấy làm vui sướng. Bà nắm tay Khôi dắt vào một căn nhà nhỏ, trong nhà chẳng có gì ngoài gường chiếu của Bà Khôi.

Khôi nói sao Mẹ không mua nhà ngoài đường lớn để ở, mua chi căn nhà chật chội trong hẻm rất khó tìm. Bà Khôi nói Mẹ để dành tiền cưới vợ cho con nên không dám tiêu xài, hàng ngày xuống chợ mua rau cũ bán lại kiếm sống qua ngày.

Thấy mẹ quá cực khổ Khôi nói con sẽ tìm mua căn nhà ngoài đường phố Mẹ muốn buôn bán gì thời mở ra buôn bán làm ăn có đồng ra đồng vào cho vui vì tánh Mẹ không chịu ở không. Bà Khôi nói mua căn nhà ngoài đường không phải là ít tiền đâu nghe đâu phải mấy chục cây vàng. Khôi nói Mẹ có biết chỗ nào mua bán châu ngọc lớn không. Bà khôi nói Mẹ có biết một chỗ mua bán vàng bạc châu ngọc rất lớn Bà liền dẫn Khôi đến chỗ đó. Ông chủ nhìn mẹ con Khôi trông có vẻ nghèo khổ bằng nói hai mẹ con tới lộn chỗ rồi.

Khôi liền nói không tới lộn chỗ đâu mà là tới bán viên minh châu. Ông chủ cửa hàng vô cùng kinh ngạc hỏi lại đến bán minh châu, thay cho câu trả lời Khôi liền lấy ra một viên minh châu to lớn phát tỏa hào quang. Ông chủ quán đứng nhìn sửng viên minh châu tỏa ánh sáng màu hồng, cả đời ông cũng chưa bao giờ nhìn thấy. Ông nhìn một hồi lâu rồi nói cậu bán với giá bao nhiêu. Khôi hỏi lại ông chủ mua với giá bao nhiêu? được giá thời tôi bán không được giá thời tôi đi chỗ khác. Ông chủ nhìn Khôi ngẫm nghĩ trông có vẻ nhà quê nhưng không phải tay vừa.

Như sợ Khôi đi chỗ khác Ông Chủ tiệm vàng nói năm mươi lượng vàng ấy là tôi đã mua giá cao, không còn chỗ nào mua cao hơn tôi đâu. Khôi giật cả mình viên minh châu hồng ngọc có giá đến như vậy sao. Khôi làm bộ nói tôi cứ tưởng ông chủ trả giá sáu bảy chục lượng vàng lá ít đằng nầy ông chủ chỉ nói có năm mươi lượng làm sao tôi bán được. Khôi làm bộ định bỏ đi ông chủ bằng kêu lại nói thôi sáu chục lượng vậy. Bà khôi trố mắt đứng nhìn sự mua bán giữa hai bên. Khôi nhận sáu mươi cây vàng bước ra khỏi tiệm, nghe ông chủ lẩm bẩm nói với viên minh châu, quả là hiếm quý chắc gì Vua có.

Mẹ con Khôi vừa ra khỏi tiệm một đổi khá xa thời có hai tên lạ mặt theo sau, khi đến chỗ vắng người hai tên lạ mặt lao lên phía trước chận đầu hai mẹ con Khôi lại nói đưa hết số vàng ra đây thời còn mạng. Khôi nhìn hai tên lạ mặt nói ăn cướp giữa ban ngày không sợ người ta bắt sao. Hai tên lạ mặt rút dao ra nói đưa vàng đây. Khôi nói ai sai hai ngươi làm việc nầy hai tên lạ mặt lao tới đâm vào Khôi nói ta định không giết người, nhưng số ngươi đã hết, Mẹ Khôi kinh hoảng la lên cướp cướp, hai tên lạ mặt đâm vào Khôi không trúng, đâm mười mấy lần cũng không chạm được chéo áo của Khôi. Lúc nầy người ta đã chạy tới hai tên cướp đã tẩu thoát bỏ đi. Có người hỏi có phải hai mẹ con từ tiệm vàng đi ra không? Bà Khôi trả lời đúng vậy một người đàn ông nói thảo nào mà bọn cướp chẳng đánh hơi theo hai mẹ con bà, hai mẹ con bà hết sức cẩn thận đề phòng bọn cướp khi về đến nhà cũng vậy không khéo thời toi mạng như chơi. Bà Khôi nghe người đàn ông nói thế lấy làm sợ hãi.

Quả không sai giữa đêm khuya bọn chúng đến gõ cửa Bà khôi vô cùng sợ hãi, Khôi bằng nói để đó cho con Khôi bằng mở cửa thời thấy ba người trong đó có hai người chận đường cướp vàng của mình. Khôi nói các ngươi nhầm nhà rồi tôi không hề quen biết các ngươi. Người to con mặt hơi đen nói đưa vàng đây cho ta thời ta để yên cho hai mẹ con ngươi sống bằng không thời chết cả hai. Khôi nói vàng trong người ta ngươi đến đây mà lấy. Tên to con mặt hơi đen nói ta biết ngươi cũng có chút ít võ nghệ những gặp Hắc Beo ta thời ngươi chẳng ra gì cả bằng cầm dao lao tới đâm cho Kim Khôi một dao.

Kim Khôi không cần né tránh gì cả vận Thái Cực Thần Công hất văng tên to con mặt đen bảy tám mét trầy tróc mặt mày khiếp hoảng la lên ma ma cong giò chạy thục mạng Kim Khôi nhìn theo bụm miệng cười. Mẹ của Khôi nảy giờ núp trong xó cửa thấy Kim Khôi tài giỏi như vậy mừng thầm.

Khôi mua căn nhà ngoài đường lộ đông đúc dân cư qua lại thuận tiện cho việc buôn bán làm ăn chỉ mất 40 lượng vàng. Khôi sợ Mẹ cực khổ bằng thuê người ở. Mẹ Khôi buôn bán nhỏ có đồng tiền ra đồng tiền vào đời sống ổn định không lo miếng ăn cái mặc nữa.

Một hôm Khôi nhìn thấy một xe ngựa sang trọng chạy qua nhà, Khôi hỏi xe ngựa kia là của ai vậy, Mẹ Khôi nói xe ngựa ấy là của con trai thương gia Tấn Lợi tên là Đại Nháo, ở Diễm Châu nầy ai mà không biết. Không những giàu có mà võ công cao cường đánh bại hơn mười võ sĩ, danh tiếng lừng lẫy. Bao cô gái chết mê chết mệch bộ vó hào hoa của hắn, Khôi nói té ra là hắn, Mẹ Khôi nói con quen biết hắn sao? Khôi làm thinh không trả lời.

Một hôm Khôi đi trên đường phố thấy một tốp thanh niên khá đông trạc tuổi của Khôi, lời qua tiếng lại của tốp thanh niên, Khôi liền ồ lên một tiếng thì ra đây thầy dạy văn khá giỏi có nhiều học trò đỗ đạt cao ra làm quan đến chức quan Tri Phủ, Tri Huyện. Tiền học không phải là rẻ mỗi tháng mỗi lượng vàng, chỉ có con nhà giàu có tầm cỡ mới học nổi Khôi nghe có người tài liền xin vào đó để học. Cũng may là lớp học khóa mới. Khôi học được hai năm đến năm thứ ba cũng là năm cuối của niên khóa. Ở vào năm cuối nhiều nhân tài xin vào để học. Trong số người xin vào học có Tô Khảo, Đại Nháo, Ba Nhí, Bốn Giò, đều là học trò của thầy Tô Sinh. Thầy Tô Sinh cũng có dạy văn nhưng muốn thi đổ trạng thời phải tìm thầy cao hơn nữa.

Kim Khôi giờ đây đã khác không như hồi còn nhỏ trông khôi ngô tuấn tú khác thường, vì có tiền Mẹ Khôi sắm cho Khôi những bộ quần áo đắc giá không thua kém gì con nhà giàu nên không ai dám xem thường Khôi.

Học được mấy tháng Khôi lúc nào cũng tránh né bọn Tô Khảo, Đại Nháo, Ba Nhí, Bốn Giò. Một hôm Khảo nghe chúng bàn tán sao tao thấy tên kia quen quen quá không biết là gặp ở đâu. Bốn Giò nói tên thằng ấy là Khôi. Tô Khảo nhớ lại năm xưa nói không lẽ là hắn. Đại Nháo hỏi hắn nào Tô Khảo nói thằng học lén năm xưa bị tụi mình bắt được đánh cho một trận, Đại Nháo nói không phải đâu tên Khôi trước kia nghèo xơ nghèo xác làm gì đủ tiền vào học ở đây. Một hôm tan lớp Khôi lật đật ra về thời bị một bàn tay nắm lại nói hình như bạn muốn né tránh chúng tôi.

Không thể né tránh được Khôi liền cúi đầu nói xin các huynh tha lỗi cho vì gia đình có việc Đại Nháo bóp mạnh một cái Khôi la lên đau quá gãy tay mất xin các huynh tha cho. Đại Nháo nói thằng nầy không biết võ công. Khi ấy có một người đi đến thôi đừng làm khó dễ người ta nữa, người lên tiếng ấy là một người trung niên.

Tô Khảo nói thì ra là Thúc Thúc. Khôi thoát khỏi nanh vuốt của kẻ háo thắng chắp tay thi lễ nói cảm ơn đại hiệp. Người ấy nhìn sửng Kim Khôi nói quả là một nhân tài hiếm thấy nói xong người ấy bỏ đi. Đại Nháo nhìn theo Khôi nói thằng ấy mà làm nên trò trống gì.

Học xong niên khóa Khôi không đi thi mà còn nói với Mẹ con phải đi xa một chuyến xong con về sống với Mẹ không đi đâu nữa. Bà Khôi hỏi con trở lại làm cho ông chủ nữa phải không Khôi làm thinh không trả lời.

Kim Khôi từ giả gia đình nhắm hướng Đài sơn cởi ngựa đi cả ngày lẫn đêm chẳng bao lâu thời tới. Cảnh đài sơn núi rừng trùng điệp hai tên phản phúc biết ở nơi nào mà tìm kiếm. Kim Khôi thả ngựa xuống núi còn mình thời băng rừng lội suối đến đi sâu vào Đài Sơn thời bỗng nghe tiếng quát chói tai tức thời thấy hai người đầu tóc rối bù bốn con mắt sáng quắc trông ghê rợn thằng nhóc kia ngươi là ai mà dám đến đây. Có lẽ ngươi đã chán sống, thôi thì ta đưa ngươi về âm phủ vậy. Kim Khôi quát có phải hai người là hai tên Ác Lai Ác Báo không? Hai người nghe xong cười lên ghê rợn thì ra lão già ấy đã chết ngươi có phải là đệ tử của lão già ấy không? Kim Khôi nói phải thời sao không phải thời sao. Nếu phải thời đưa bí kiếp ra đây ta tha cho toàn thây. Bằng không hừ hừ nát như tương, Kim Khôi thò tay trong mình lấy ra quyển bí kiếp Võ Lâm Tuyệt Học nói hai ngươi tới đây mà lấy.

Ác Lai Ác Báo nhìn thấy quyển bí kiếp Võ Lâm Tuyệt Học không ai bảo ai lao tới nhanh như chớp chụp vào quyển bí kiếp. Kim Khôi nào để cho hai tên Ác Quỉ lấy dễ dàng như vậy với bộ pháp ảo ma né tránh. Ác Lai Ác Báo chụp hụt nói ngươi cũng khá nhưng so với ông già ấy thời ngươi thua xa. Ác Lai Ác Báo võ công không phải tầm thường lại nhiều năm chiến đấu kinh nghiệm có thừa, né đòn tấn công của Kim Khôi dễ dàng. Ác Lai Ác Báo đánh ra mỗi người mỗi chưởng chiêu thức vô cùng hiểm hóc. Kim Khôi vận thần công chống trả ầm ầm đùng đùng vang dội núi rừng, Ác Lai không để cho Kim Khôi phản đòn nhanh như chớp trảo công chụp tới Kim Khôi chưa kịp né tránh thời Ác Báo nhanh như tia chớp đánh ra một chưởng Kim Khôi bị trúng đòn liểng xiểng Ác Lai Ác Báo bồi tiếp mấy chiêu nữa Kim Khôi lúc nầy mới biết hai tên Ác Lai Ác Báo vô cùng lợi bằng dở võ học tuyệt chiêu ra đối phó. Ác Lai Ác Báo la lên thằng nhãi nầy đã học được võ công trong Võ Lâm Tuyệt Học mau nhanh chóng hạ gục nó. Thế là trận đấu khủng khiếp xảy ra chỉ phong chưởng phong gào thét dữ dội cát bay đá chạy ầm ầm đùng đùng đinh tai nhức óc. Kim Khôi liên tiếp bị trúng chưởng miệng trào máu Ác Lai cũng bị trảo công của Kim Khôi đánh trúng thủng ngực hồn du địa phủ chỉ còn Ác Báo mới bị thương nhẹ thấy Kim Khôi đứng dậy không nổi liền lao đến kết liễu sanh mạng của Kim Khôi, Kim Khôi cũng ráng hết sức bình sanh đánh ra một chiêu trong Tuyệt Học Võ Lâm chỉ nghe một tiếng rú hãi hùng nổi lên Ác Báo ngực thủng liền năm lỗ chết không kịp ngáp. Kim Khôi cũng trúng một chưởng thân hình văng xuống vực thẳm.

* * *

Hết phần 1 mời xem tiếp phần 2 Quan Viên Ngoại

* * *
 
PHẦN 2

QUAN VIÊN NGOẠI


Nói về Kim Khôi cũng trúng một chưởng thân hình văng xuống vực thẳm.

Đến khi tỉnh dậy mới biết mình còn sống là nhờ những dây leo chằng chịt cản lại tốc độ rơi nếu không có dây leo chằng chịt kia thời kể như tan xương nát thịt rồi. Kim Khôi bị thương quá nặng không ngồi dậy nổi. Trong lúc ấy chợt nhớ đến mẹ già ta không thể chết được bằng moi óc suy nghĩ có phương pháp nào giữ được mạng sống. Liền nhớ trong trong quyển Bí Kíp Tuyệt Học Võ Lâm có một phương pháp trị thương rất hữu hiệu. Kim Khôi tức thời vận hành chân khí trị thương, trải qua mấy ngày đêm thần công hồi phục trở lại vết thương cũng khá đi nhiều. Kim Khôi nhìn thấy những quả chín mọng bụng đói cồn cào liền hái ăn mùi thơm dìu dịu ngọt lịm thấy trong đan điền một luồng khí nóng bốc lên Kim Khôi kinh hãi tưởng là trái độc liền vận hành chân khí chống độc nào hay càng vận hành càng khỏe hẳn ra. Vết thương cũng mau chóng khá lành. Kim Khôi vô cùng mừng rỡ đói thời ăn quả chín mọng, vận công trị thương hơn nữa tháng thời khỏi hẳn nội công tăng lên gấp đôi đây là cơ hội nghìn năm Kim Khôi ở dưới tuyệt cốc tu luyện thần công được ba tháng Kim Khôi như một người khác da dẻ hồng hào đẹp không thua gì da con gái thần công cái thế hơn xưa gấp năm sáu lần quả chín quả sống cũng đã ăn hết không còn lấy gì nữa để mà ăn, bằng dở kinh công tuyệt học phi thân lên khỏi tuyệt cốc nhìn thấy hai cái xác chính là Ác Lai Ác Báo.

Kim Khôi quỳ xuống khấn vái con đã thanh trừ hai tên Ác Lai Ác Báo trả thù cho Sư Phụ. Kim Khôi cảm thấy lòng thanh thản nhẹ nhàng như đã trút được gánh nặng phi thân xuống núi tìm mua một con ngựa khác nhắm hướng Diễm Châu trở về.

Mẹ của Khôi thấy Khôi trở về thời mừng lắm nói con còn đi nữa hay thôi. Kim Khôi nói con ở nhà với Mẹ không đi đâu nữa.

Nói về Diễm Châu có quan Viên Ngoại là anh ruột của Tri Phủ Đại Nhân, một hôm từ Tri Phủ Đại Nhân trở về Diễm Châu. Đi ngang qua đầm lầy có hồ Thủy Quái rộng lớn dân chúng thường hay đánh cá nơi đây nhưng không có chuyện gì xảy ra. Quan Viên Ngoại chuyến đi ngang qua không có gì khi trở về cũng đi ngang qua Hồ Thủy Quái thời mặt hồ Thủy Quái bỗng nhiên nổi sóng tức thời một con Thuồng Luồng bay lên nuốt chửng gia nhân, quan Viện Ngoại rút gươm chiến đấu, nhưng Thuồng Luồng sức mạnh vô biên những nanh vuốt chụp tới kình lực tuôn ra ào ào cát bay đá chạy, quan Viện Ngoại đánh nhau với Thuồng Luồng một hồi. Bỗng Thuồng Luồng phun ra một luồng hung khí quan Viện Ngoại choáng váng cả mặt mày gia nhân khiếp quá la lên cái chết chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc.

Trong lúc thập tử nhất sinh, quan Viện Ngoại thấy một bóng người phi nhanh tới quát lên một tiếng long trời lở đất. Với chiêu Ưng Trảo quái chiêu năm luồng chỉ phong xé gió trúng vào Thuồng Luồng. Con Thuồng Luồng bị thương nặng định lặng xuống nước chàng thanh niên với ảo ma bộ pháp nhanh như tia chớp chận đầu Thuồng Luồng đánh cho một chưởng ầm một tiếng long trời lở đất Thuồng Luồng rú lên một tiếng rồi ngã nhào.

Không bỏ lỡ cơ hội nghìn năm sợ kim đan tan biến mất khi Thuồng Luồng chết quan Viện Ngoại lao tới mổ bụng Thuồng Luồng lấy kim đan. Khi nhìn lại thời không thấy chàng trai thanh niên đâu nữa. Bọn gia nhân nói người ấy đã đi rồi, quan Viện Ngoại nói có hỏi danh tánh không? Thưa chủ nhân có ạ người ấy tên là Kim Khôi.

Nói về quan Viện Ngoại có cô con gái sắc nước hương trời tên là Quỳnh Nga hoa dung nguyệt thẹn, cá lặn, nhạn sa, đổ nước nghiêng thành, đức hạnh vẹn toàn cầm kỳ, thi, họa ít ai hơn. Quan Viện Ngoại ra sức truyền dạy võ công nhờ tánh thông minh hơn người Quỳnh Nga học đâu nhớ đó, lại chịu khó luyện tập tuy tuổi 17 nhưng khó người đánh bại.

Quỳnh Nga đang luyện tập võ công nghe Cha gọi liền đến gặp Cha nói Cha gọi con có chuyện gì.

Quan Viện Ngoại nói trong cái họa có cái phúc, trong cái rủi có cái may. Cha đã lấy được kim đơn nghìn năm tu luyện của con Thuồng Luồng một loại kim đơn vô cùng quý hiến, chỉ nghe kể chứ chưa nhìn thấy bao giờ. Không ngờ hôm nay nó lại ở trong tay của Cha, nếu để lâu quá nó sẽ tan biến mất. Viên Ngoại nói người uống được kim đơn nầy cho đến già vẫn còn xinh đẹp, nội công tăng lên gấp mười lần. Tuy hiện giờ võ công của con cũng khó có người đối thủ. Nhưng nếu con uống được kim đơn thuồng luồng thời như Cha cũng không phải là đối thủ của con. Duy chỉ một người Cha không dám nói là con có hơn được hay không đó là ân nhân đã cứu mạng Cha, người nầy tuy còn trẻ nhưng võ công cái thế.

Quỳnh Nga chăm chú lắng nghe nhưng không rõ Kim Khôi là ai. Quỳnh Nga cầm viên kim đơn nuốt ngay vào bụng, quan Viện Ngoại nói con mau về phòng ngồi vận công điều hòa chân khí.

Quỳnh Nga nghe theo lời Cha trở về phòng thấy trong người nóng rang một luồng chân khí nóng như lửa đốt từ đan điền tỏa lên khắp châu thân. Quỳnh Nga theo bí quyết vận hành chân khí không bao lâu thời luồng khí nóng không còn nữa vươn vai đứng dậy thấy thân hình nhẹ bổng như muốn bay lên khỏi mặt đất. Quỳnh Nga lấy làm kinh hãi cho sự diệu dụng của kim đơn. Quỳnh Nga liền chạy ra sau vườn hét lên một tiếng múa Long Vân chưởng pháp kình lực tuôn ra kinh khiếp đánh bật gốc cây ngã đổ cái ầm. Quỳnh Nga rút kiếm với tuyệt chiêu Long Vân Kiếm Pháp chém vào thân cây ba nhác thân cây bằng cái mình đứt làm ba khúc. Thân hình Quỳnh Nga bay vút lên không lượn một vòng rồi đáp xuống không tiếng động. Quan Viện Ngoại vô cùng mừng rỡ nói con đã trở thành đại cạo thủ ít người địch nổi. Quỳnh Nga mỉm cười nói bằng chàng thanh niên ấy chưa, Quan Viện Ngoại làm thinh không nói.

Quỳnh Nga là người năng động không chịu ở không hết chuyện nầy đến chuyện kia, nhất là truyền võ công cho hai tùy nữ. Quỳnh Nga nhìn hai tỳ nữ một người tên Đào, một người tên Mận người nào cũng võ công cao cường Quỳnh Nga lấy làm mừng không phụ công mình truyền dạy.

Một hôm Quỳnh Nga nghĩ đến người học võ cần có vũ khí phòng thân Quỳnh Nga, Mận và Đào chưa có nếu có cũng chỉ là kiếm thường nghe đồn ngoài phố chủ tiệm Thanh Hoàng có hai thanh cổ kiến cùng hai tỳ nữ cùng đi ra phố đến đó để mua.

Nói về Kim Khôi trở về nhà trong lòng cảm thấy vui vẻ vì đã làm được một chuyện lành. Nghĩ mình không có kiếm bằng đi ra phố tìm cửa hàng bán kiếm để mua, vô tình thấy một xe ngựa sang trọng dừng trước cửa hàng bán kiếm. Sự trùng hợp Kim Khôi cũng đến mua kiếm. Từ trên chiếc xe ngựa một người con gái xinh đẹp tuyệt trần phải nói không khác gì hằng nga giáng thế, hai người con gái theo sau cũng khá xinh đẹp. Kim Khôi đứng nhìn sững sốt quên cả đi mua kiếm. Người con gái ấy nhìn Kim Khôi nở nụ cười, nụ cười xinh đẹp làm sao Kim Khôi như kẻ mất hồn say sưa đứng nhìn, thấy Kim Khôi như kẻ mất hồn người con gái lịch sự hỏi công tử cũng đến đây mua kiếm phải không.

Hình như chủ cửa hàng cũng nhận ra người con gái xinh đẹp ấy chấp tay nói cửa hàng tôi hân hạnh được tiểu thơ Quan Viện Ngoại ghé thăm. Kim Khôi nghe bà chủ cửa hàng gọi người con gái xinh đẹp là Tiểu Thơ Quan Viện Ngoại thời trầm tỉnh trở lại. Người con gái xinh đẹp ấy nói nghe nói chủ cửa hàng có thanh cổ kiếm không biết là có thật không. Chủ cửa hàng nói đó là hàng hiếm không chỉ có một cây mà đến hai cây. Kim Khôi như lấy lại bình tỉnh nhanh miệng nói cho tôi xem thử. Chủ tiệm nói hai cổ kiếm ấy là một thanh kiếm rồng, một thanh kiếm phụng. Hai thanh kiếm đều có giá như nhau. Kim Khôi nhanh miệng nói giá một thanh kiếm là bao nhiêu? Chủ tiệm kiếm nói bảy chục lượng vàng một cây. Kim Khôi nói vàng thời tôi không mang theo chỉ mang theo hai viên bảo châu. Kim Khôi liền lấy hai viên bảo châu một viên tỏa ánh sáng màu đỏ, còn viên kia tỏa ánh sáng màu xanh lấp lánh. Không những bà chủ tiệm, mà cả người con gái xinh đẹp cũng kinh ngạc. Người con gái xinh đẹp nhìn hai viên bảo châu tỏa ánh sáng nói một viên là Huyết Long bảo Châu, một viên là Bích Linh Lục Châu, còn một viên nữa là Hồng Quang Minh Châu. Công Tử đã sở hữu được hai viên đã là hi hữu lắm rồi, chỉ cần sở hữu được một viên trong ba viên cũng đã giàu to rồi. Giá trị một viên cũng đến hai trăm lượng vàng, Kim Khôi nghe nói lấy làm kinh dị không ngờ viên minh châu có giá kinh khủng như vậy bằng nói chỉ cần một viên mua được hai thanh kiếm. Người con gái xinh đẹp nói không chỉ mua được hai thanh kiếm cổ mà còn phải đưa thêm sáu mươi lượng vàng nữa kìa. Chủ tiệm nói nếu công tử chịu đổi một viên minh châu hai thanh kiếm cổ thời tôi đổi còn đưa thêm vàng thời tôi không đổi. Kim Khôi bằng đưa viên minh châu cho chủ tiệm. Người con gái xinh đẹp nói khoang đã chủ tiệm cho coi hai thanh kiếm cổ.

Bà chủ nói không ai qua mặt được tiểu thơ đâu bằng lấy hai thanh kiếm cổ trao cho Kim Khôi. Kim Khôi chưa kịp lấy người con gái xinh đẹp nói để tôi xem cái đã, bà chủ tiệm liền trao cho người con gái xinh đẹp mời tiểu thư xem. Người con gái xinh đẹp xem xong liền gật đầu quả là kiếm tốt nhưng với cái giá bảy mươi lượng vàng thời hơi đắt. Kim Khôi trao viên minh châu cho chủ tiệm lễ phép nói nhờ tiểu thơ tôi mua được kiếm, với tôi một người một thanh kiếm cũng đủ rồi tôi xin biếu tiểu thơ thanh phụng kiếm. Người con gái xinh đẹp không khách sáo gì cả liền nhận ngay, nhìn Kim Khôi rồi nói danh tánh công tử là chi tiện bề xưng hô cho khỏi thất lễ. Kim Khôi nói tại hạ tên là Kim Khôi. Người con gái nghe hai chữ Kim Khôi thời không khỏi kinh ngạc sao lại có sự trùng hợp đến thế. Cha thường nhắc đến cái tên Kim Khôi. Sự ở đời tên trùng tên là chuyện bình thường. Kim Khôi cái tên Cha thường nhắc đến là người có võ công tuyệt thế, chắc không phải là Kim Khôi trông nho sinh như người mình gặp đây. Người con gái xinh đẹp như muốn hỏi Kim Khôi gì đó, nhưng rồi không hỏi nữa chỉ giới thiệu về mình. Thiếp tên là Quỳnh Nga còn hai người nầy một người là Mận, một người là Đào, cảm ơn Khôi Huynh đã tặng kiếm nói xong người con gái xinh đẹp lên xe đi mất Kim Khôi nhìn theo cho đến khi mất hút mới trở về nhà.

Kim Khôi trở về nhà bóng hình Quỳnh Nga cứ hiện mãi trong đầu nói rồi quên rồi tâm hồn như để ở đâu. Mẹ Khôi thấy thế liền hỏi con có tâm sự gì lúc nào cũng ngẩn ngơ, ngơ ngẩn vậy không lẽ vừa lòng cô ả nào rồi. Kim Khôi nói Mẹ có biết Quỳnh Nga không. Bà Khôi kinh ngạc Quỳnh Nga nào ý con muốn nói Quỳnh Nga con Quan Viên Ngoại. Gia thế ấy không ai với tới đâu. Hơn nữa Mẹ nghe nói Quỳnh Nga tiểu thơ xinh đẹp tuyệt trần khối người quỳ lạy được làm rể Quan Viện Ngoại. Bà Khôi hỏi con gặp Quỳnh Nga rồi sao làm sao con gặp được, người ta là cành vàng lá ngọc thôi đừng mơ tưởng nữa con. Nhà mình cũng có của thiếu gì con gái đẹp Mẹ sẽ lựa cho một cô làm vợ.

Nói về Quan Viện Ngoại muốn tìm một con rễ xứng đáng bằng ra thông báo thi tài kén rể ai là người thắng được Công Tử Quỳnh Nga thời người đó sẽ thành con rể không những được vợ đẹp còn hưởng cả gia tài giàu có nhất Diễm Châu. Cáo thị được dáng ra khắp nơi, khối chàng thanh niên trai trẻ đến khuôn viên Viện Ngoại hầu mong làm được vợ đẹp lại giàu có. Không những các chàng trai trẻ có võ công cao ở Diễm Châu mà còn các Phủ Thành tỉnh châu khác cũng đến phải nói là rất đông. Với nội dung thi kinh công, chưởng pháp, và kiếm thuật.

Nơi Khuôn Viên Viện Ngoại đã dựng lên một khán đài, trên khán đài có một tảng đá khá lớn, cách khán đài vài chục mét trồng năm trụ cột cao mỗi trụ cao 15 mét trên đầu trụ cột có treo một quả cầu, người ta cũng đón được rằng ai nhặt lấy được quả cầu thời người ấy thắng chỉ trông nhờ vào kinh công mà thôi. Còn tản đá khá lớn kia không biết để làm gì. Trước khi vào thi ba môn chính thời phải đánh thắng Mận và Đào. Đã mười ngày trôi qua không ai đánh thắng được Mận, Đào, nói gì đến thi ba môn chính thức.

Đến ngày thứ 11 từ dưới khán đài phi thân lên một chàng trai hơi béo mập người ấy không ai khác hơn chính là Đại Nháo. Đại Nháo có một lần trông thấy Quỳnh Nga thời như mất hồn mất vía quyết đến đây để thi tài hầu mong làm con rễ nhà Viện Ngoại.

Mận và Đào nhìn Đại Nháo thầm nghĩ trong bụng đây có phải là Đại Nháo hạ gục mười võ sĩ nổi tiếng Diễm Châu không tiếng tăm lừng lẫy, bằng hỏi công tử là Đại Nháo. Đại Nháo nói chính là tại hạ. Mận và Đào nói hai tôi nghe tiếng đã lâu. Đại Nháo với bản tính háu gái hai con mắt chăm chăm nhìn Mận và Đào trong lòng thầm nghĩ hai cô nầy cũng khá đẹp ta nhẹ tay một tí kẻo làm bị thương.

Mận và Đào thấy hai con mắt hau háu của Đại Nháo chăm chăm nhìn mình thời muốn cho mấy bạt tai. Không cần đợi lâu Mận và Đào liền tấn công Đại Nháo. Đại Nháo tỏ vẻ xem thường xa chiêu chống đỡ không ngờ Mận và Đào biến chiêu nhanh chóng đánh vào chỗ khác Đại Nháo tránh không kịp trúng liền mấy chiêu. Đại Nháo quá xấu hổ tánh hung dữ nổi lên quát tháo ầm ỉ xem nầy những cú đấm mạnh như trời giáng đánh vào Mận, Đào, Mận, Đào né tránh tài tình ra đòn đánh Đại Nháo không kịp thở. Chưa đầy ba mươi chiêu bị Đào, Mận hạ gục. Ở dưới khán đài nhiều người la lớn nói xuống đi xuống đi cho người khác lên. Đại Nháo bị đánh ê chề lủi thủi xuống khán đài.

Cùng lúc ấy dưới khán đài một người phi thân nhảy lên, người ấy không ai khác hơn chính là Tô Khảo con trai của thầy Tô Sinh. Mận và Đào cũng đã nghe tiếng Tô Sinh từ lâu. Thấy thân thủ Tô Sinh khá lanh lẹ biết đã gặp đối thủ, không dám coi thường Tô Sinh. Tô Sinh võ nghệ cao cường một mình đấu với Mận Đào vẫn ung dung nhiều khi có phần thắng thế Tô Sinh quát lên một tiếng trúng nầy. Đào trúng một chiêu Mận trúng một đòn may là không bị thương. Thế là Tô Sinh thắng cuộc. Từ dưới khán đài một người phi thân nhảy lên tuổi trạc hai bốn hai lăm vai đeo trường kiếm không khác gì đại cao thủ võ lâm, chấp tay nói tại hạ tên là Vũ Kiếm ở dưới khán đài nhiều người ồ lên thì ra là Vũ Kiếm ở Tuyên Châu lừng danh thiên hạ không ngờ lại còn trẻ như thế.

Quả là danh bất hư truyền qua mười chiêu Vũ Kiếm đánh bại Mận và Đào. Thế là hai người được vào vòng hai thi đấu với Công Tử Quỳnh Châu. Dưới khán đài lại một người độ tuổi hai bốn hai lăm phi thân lên khán đài thân pháp nhẹ tựa lông hồng chấp tay nói tại hạ là Tiêu Phong. Dưới khán đài nhiều tiếng ồ lên thì ra là Tiêu Phong đại hiệp lừng danh. Tiểu Đào, Tiểu Mận không phải là đối thủ chỉ trong vòng năm chiêu là bị Tiêu Phong đánh bại. Thế là ba người lọt vào vòng hai. Dưới khán đài có cả mấy mươi chàng trai cùng khán giả đến xem có đến hàng trăm nhưng không ai lên thi đấu nữa.

Nói về Kim Khôi đang lưỡng lự không biết có lên thi đấu hay không thời có một người đứng sau lưng nói Khôi Huynh không lên thi đấu sao? Kim Khôi quay lại nhìn người nói ấy thời không khỏi kinh ngạc vì người đứng sau lưng mình là chàng thanh niên mảnh mai đẹp trai còn hơn cả con gái, Kim Khôi nói không phải là tôi không thi đấu mà chờ xem còn ai thi đấu không. Chàng thanh niên ấy nói không còn người nào nữa đâu lên đi. Kim Khôi liền đi đến khán đài người thanh niên mảnh mai nhìn theo nở nụ cười tươi có thế chứ, nói xong thời đi đâu mất.

Nói về Kim Khôi phi thân nhảy lên khán đài Tiểu Đào Tiểu Mận nở nụ cười người mà tiểu thơ chờ đợi cũng đã đến. Nhất là Tô Sinh thời quá bất ngờ nhìn Kim Khôi không chớp mắt miệng lẩm bẩm té ra là mầy thằng học lén võ công.

Khi ấy ngồi bên Viên Ngoại là một chàng thanh niên mảnh mai người đã hối thúc Kim Khôi lên khán đài nói những gì với Viện Ngoại không ai nghe rõ chỉ thấy Viện Ngoại gật đầu.

Tiểu Đào Tiểu Mận nói hai tiểu nữ tôi không phải là đối thủ công tử đáng lý không cần thi đấu, nhưng vì điều lệ bắt buộc Tiểu Đào Tiễu Mận phải thi đấu với Công Tử, ra tay đi Kim khôi liền ra tay với những thế võ nhập môn Tô Sinh nhìn thấy cười nhạc chỉ có thế mà cũng lên thi đấu. Tiểu Đào Tiểu Mận ra chiêu chống đỡ Kim Khôi đánh ra toàn là những thế võ học lén nhưng kỳ ảo khôn lườn biến hóa vô biên Tiểu Đào Tiểu Mận chống đỡ muốn hụt hơi Tô sinh càng nhìn Kim Khôi ra chiêu không khỏi biến sắc còn tài giỏi hơn cả cha mình. Hình như Kim Khôi không muốn hạ gục Tiểu Đào Tiểu Mận mà cố ý truyền thụ kinh nghiệm trong giao chiến Tiểu Đào Tiểu Mận càng đánh càng hay hai bên kéo dài cả trăm hiệp Tiểu Đào Tiểu Mận dừng tay nói hai tiểu nữ chịu thua. Thế là thêm một người nữa lọt vào vòng hai. Quan Viện Ngoại đứng lên nói vòng hai là vòng thi tiển kinh công. Trên năm đầu trụ có năm quả cầu ba tiếng trống nổi lên thời cùng nhau xuất phát người nào lấy xuống trước coi như người đó thắng.

Nếu công tử Quỳnh Châu thắng thời tự chọn người vào thi đấu vòng ba tức là thi chưởng lực nội công. Dưới khán giả nghe nói đến công tử Quỳnh Châu thời ai cũng muốn nhìn cho biết mặt, người ngồi bên Viện Ngoại bằng nhảy sang khán đài tự giới thiệu về mình nói mình là anh của Quỳnh Nga. Muốn kết duyên với Quỳnh Nga thời phải thắng được Quỳnh Châu nầy. Kim Khôi nhìn Công Tử Quỳnh Châu thời không khỏi giật mình té ra người thúc mình lên khán đài là anh của Quỳnh Nga.

Dưới khán đài khán giả nhìn những quả cầu cao chót vót 15 met không phải dễ phi thân tới chỉ có cách trèo lên mà thôi. Ba tiếng trống vừa dứt năm người đồng loạt xuất phát Tô Khảo nhanh chóng lao tới phi thân lên trụ cột nhanh chóng trèo lên, Vũ Kiếm, Tiêu Phong còn nhanh hơn nữa lao tới phi thân lên mười mét nhanh chóng lao lên đầu trụ cột lấy quả cầu. Trong khi ấy người ta thấy bóng hồng, bóng xanh với kinh công kỳ diệu từ khán đài như hai con chim đại bàng bay thẳng lên ngọn đầu trụ nhặt lấy quả cầu. Nói về Kim Khôi thấy Quỳnh Châu phi thân thẳng đến đỉnh đầu trụ, thời kinh ngạc không chịu thua kém Vô Lâm Nhất Quái từng là nổi tiếng với môn kinh công tuy Kim Khôi phát xuất sau nhưng lao nhanh tới trước chụp lấy quả cầu thời bị một luồn kình phong đánh bật quả cầu lên cao Kim Khôi bằng quát lên một tiếng bay theo bắt lấy, khán giả ai nấy cũng trầm trồ khen ngợi hảo kinh công hảo kinh công. Kim Khôi lấy được quả cầu bay trở lại khán đài không cần phải hạ chân xuống đất Tiểu Đào Tiểu Mận vui mừng nói chúc mừng Khôi công tử. Quan Viên Ngoại không khỏi thốt lên thượng đẳng kinh công. Tô Khảo lấy quả cầu sau nhất, trở về nơi xuất phát cũng sau nhất. Người lấy quả cầu đứng thứ nhì, trở về vạch xuất phát chính là công tử Quỳnh Châu, người thứ ba là Tiêu Phong, người thứ tư là Vũ Kiếm, người sau cùng là Tô Khảo. Đến lúc nầy Tô Khảo mới biết câu nói của người xưa cao nhơn tất hữu cao nhơn trị, núi nầy cao núi khác còn cao hơn. Điều bất ngờ hơn hết người có kinh công cao nhất là người mà ngày xưa đã từng quỳ dưới chân mình. Tô Khảo âm thầm lặng lẽ trở xuống khán đài nghe những tiếng xầm xì ca tụng Kim Khôi.

Vũ Kiếm, Tiêu Phong chắp tay hướng về Kim Khôi nói hành tẩu giang hồ cũng lâu nhưng chưa bao giờ nghe thấy loại kinh công thượng đẳng nầy phải nói trên đời không có người thứ hai. Kim Khôi thi lể nói hai huynh quá khen.

Viện ngoại nói Kim Khôi đã lọt vào vòng ba thi chưởng pháp thần công, mỗi người đánh vào tảng đá một chưởng để xem kết quả ai thắng ai thua.

Quỳnh Châu nói với Kim Khôi đừng xem đệ mảnh mai mà xem thường hãy dùng hết sức bình sanh mà thi đấu công tử Quỳnh Châu nói xong vận 12 thần công lực hét lên một tiếng đôi bàn tay thon nhỏ như con gái múa lên múa xuống giống như rồng bay, có người thốt lên Long Vân Thần Chưởng nổi tiếng Quan Viên ngoại. Quỳnh Châu đánh vào tản đá một chưởng chỉ nghe một tiếng chát đinh tai tản đá liền in sâu bàn tay của Quỳnh Nga ai nhìn thấy cũng phải kinh hồn bạc vía. Quỳnh Nga nghĩ thầm lần nầy Khôi Huynh có lẽ phải chịu thua vì ngay cả Viện Ngoại cũng không thành tựu võ công được như thế, dưới khán đài ai cũng nghĩ như vậy cả Tiêu Phong cũng như Vũ Kiếm còn ở trên khán đài cũng lấy làm kinh khiếp cho thần công cái thế của Quỳnh Châu.

Ai nấy cũng hồi hộp xem trận đấu có một không hai nầy. Kim Khôi lùi ra xa tảng đá vận Thái Cực Thần Công đánh ra chiêu khai thiên phá thạch chưởng phong vừa đánh ra cuồng phong gào thét đến rợn người Tiêu Phong, Vũ Kiếm vô cùng kinh hãi Tiểu Mận Tiểu Đào khiếp vía một tiếng Ầm rung chuyển đất trời tản đá nát ra thành nhiều mảnh. Quan Viện Ngoại cũng phải đứng dậy trố mắt ra nhìn như không tin vào đôi mắt của mình tuy biết rằng mình đã nhìn thấy Kim Khôi hạ gục Thuồng Luồng.

Quỳnh Châu biến sắc nhìn Kim Khôi khủng khiếp thật, không còn sự tán thưởng ca ngợi mà là kinh hồn khiếp sợ. Quan Viện Ngoại tiên bố Kim Khôi đã lọt vào vòng tư, nếu có thua cũng trở thành con rễ vì đã thắng hai. Công Tử Quỳnh Châu nói với Kim Khôi Long Vân Kiếm Pháp gia truyền nổi tiếng mấy đời chưa có người đánh bại, Khôi Huynh đã thắng hai có cần thi đấu nữa không?

Dưới khán đài nhiều người nói sao lại không đấu để mở rộng tầm mắt xem Long Vân Kiếm pháp tuyệt đỉnh như thế nào cơ hội nghìn năm bỏ qua sao được. Kim Khôi nói đã đặc ra những chặn đường thời phải đi cho hết. Quỳnh Châu nói với Tiểu Đào vào lấy thanh Phụng Kiếm đem đây cho Ta. Nghe nói đến thanh Phụng Kiếm Kim Khôi liền nhớ đến Quỳnh Nga. Tiểu Đào trao kiếm cho Quỳnh Châu, Quỳnh Châu nhìn Kim Khôi nói Huynh hết sức cẩn thận. Quỳnh Châu liền ra chiêu thân hình yển chuyển kiếm và người như rồng bay phụng múa khán giả như nín thở với chiêu rồng giởn trong mây, ánh kiếm lé lên chém tới kình phong xé gió kinh hồn. Kim Khôi không dám xem thường liền ra đòn chống đỡ với chiêu sấm sét Tuyệt Kỷ vang lên nhiều tiếng nổ hóa giải chiêu Rồng Giởn Trong Mây, khán giả như muốn đứng tim thấy Quỳnh Châu kiếm người như con chim phụng với chiêu tuyệt học Phụng Hoàng Tung Cánh ánh kiếm từ dưới bay lên từ trên chém xuống vô cùng lợi hại. Kim Khôi với bộ pháp kỳ lạ thân hình Kim Khôi biến đi đâu mất chỉ nghe cuồng phong gào thét cát bay đá chạy kinh người Viện Ngoại không ngồi được nữa đứng dậy nói đây là chiêu Lôi Âm tuyệt học võ lâm chỉ nghe nói mà chưa bao giờ nhìn thấy. Quỳnh Châu kinh hãi chuyển biến chiêu pháp ánh kiếm biến hóa thành thiên kiến vạn đao bao bọc quanh người như tường đồng vách sắt chống trả lại chiêu Lôi Âm Tuyệt Học. Từ trong cuồng phong bão lốc, kiếm quang như dòng nước chảy xiết, như sóng dậy ba đào cuốn phen Quỳnh Châu, Quỳnh Châu khiếp quá mồ hôi chảy ra như tắm không còn biết đâu mà chống đỡ Tiêu Phong, Vũ Kiếm cũng bạc vía kinh hồn. Bỗng kiếm quang dừng lại chiếc mủ đội trên đầu cải nam trang đã bị kiếm phong của Kim Khôi cuốn phen đâu mất làng tóc mây óng ả bay theo gió thì ra Quỳnh Châu chính là Quỳnh Nga cải nam trang. Kim Khôi đứng ngớ người ra Quỳnh Nga nguýt một cái phi thân trở vào nhà đâu mất. Viễn cảnh xảy ra trước mắt như một giấc mơ.

Nói về Quỳnh Nga trở vào nhà sau đó thời trở ra ai nấy cũng nhìn say sưa một dung nhan tuyệt trần tạo hóa khéo vầy nên vóc. Quan Viện Ngoại nắm lấy tay con gái gởi lời cảm ơn đến những người tham dự, quan Viện Ngoại gả Quỳnh Nga cho Kim Khôi, vợ chồng Kim Khôi chung sống với nhau thật hạnh phúc. Quỳnh Nga sanh được bốn người con hai trai hai gái có gả đi có rước về, sau nầy sinh con đàn cháu đống. Vậy mới biết vận mệnh con người đều có phần số, nhất là không gì qua Cha Mẹ có đức con cháu không sức mà hưởng.
 
Long Hoa Lược Truyện là tấm gương phản ảnh hiện thực cuộc sống ca ngợi Đạo Đức, phê phán gian ác, loại bỏ phi nghĩa, tôn vinh chính nghĩa.
 
87. CON SÁO VÀ NGƯỜI THẦY TU

Ngày xửa ngày xưa có một con Sáo nói tiếng người rất giỏi cũng như hiểu được ý người. Từ lâu con Sáo quen thân với một thầy tu tên là Sáng. Thầy Sáng thường tụng kinh hết chỗ nầy đến chỗ khác, cho rằng mình đã đạo cao đức trọng. Vì thế ai rước Thầy thường là phải trả giá cao.

Có một hôm Thầy Sáng đi tụng kinh thấy một người tai nạn nằm bên lề đường, Thầy Sáng nhìn rồi bỏ đi luôn không màn ngó gì tới, sau có người biết được nói Thầy Sáng là người tu hành mà còn thua người thường thấy người ta lâm nạn, nhìn rồi bỏ đi. Thầy Sáng nghe người ta nói thế thường biện luận rằng theo luật nhân quả kiếp nạn không phải tự nhiên mà có do kiếp trước người ấy gieo ra, dây dưa làm gì không khéo thời mang họa.

Những người kém hiểu biết cho là Thầy Sáng nói có lý, còn những người có lương tâm thời cho rằng Thầy Sáng đã đánh mất lòng Nhân Thiện. không có lòng thương người, nhìn thấy người lâm nạn bỏ đi không cứu. Nếu không cứu được thời cũng gọi người đến cứu. Đạo Làm Người mà còn chưa tu được lấy đâu ra thành Phật, thành Thánh, thành Tiên.

Một hôm Thầy Sáng nói với con Sáo đạo giải thoát là tai không nghe, mắt không thấy, ý không dính mắc chuyện trần. Con Sáo nói vì thế Thầy mới bỏ mặt người lâm nạn không cứu, Thầy Sáng nói đạo giải thoát là như thế.

Con Sáo nói nếu ai cũng như Thầy thấy người lâm nạn nhìn rồi bỏ đi thời cuộc sống con người khác gì loài cầm, thú. Nếu người lâm nạn kia là Thầy. Ai nhìn qua rồi cũng bỏ đi, thời Thầy nghĩ thế nào những người không cứu Thầy mà bỏ đi đó.

Thầy Sáng nói không nên ví dụ như thế, làm gì có chuyện đó tôi đã đi tụng kinh cho người ta mấy mươi năm đã lên hàng đại đức, phải nói là tới cảnh giới đạo cao đức trọng, làm gì có chuyện lâm nạn.

Sáo nghe xong liền nói nếu Thầy thông luật nhân quả thời hay biết mấy. Thầy Sáng nói tưởng gì chớ luật Nhân Quả thời Thầy đây quá rành.

Sáo nói Thầy tu mấy chục năm, nhưng theo Luật Nhân Quả thời Thầy chẳng có chút phước đức nào cả làm gì có chuyện Đạo Cao Đức Trọng. Thầy Sáng Tự Ái nổi giận nói ngươi chỉ là loài chim Sáo thời biết cái gì ngươi sẽ đọa xuống Địa Ngục vì phỉ báng Thầy Tu.

Sáo nói theo Luật Nhân Quả Thầy đi tụng kinh cho người đương nhiên là Thầy có phước có đức. Nhưng thầy đòi hỏi trả giá cao cho Thầy. Cái Nhân công sức tụng kinh Thầy gieo ra cái Quả đòi giá cao thầy cũng đã gặt rồi lấy đâu ra công đức. Ví như người mua cá tiền đưa ra cá trao lại người bán cũng như người mua chẳng ai nợ ai, cũng chẳng ơn nghĩa gì cả, Thầy Tụng kinh cho người, Thầy đã đòi tiền giá cao rồi, thời còn cái đức đâu nữa mà gặt.

Mấy mươi năm Thầy tụng kinh đâu thời gặt đó, cái công tụng kinh Thầy gieo ra cái quả nhận tiền giá cao coi như là hết lấy đâu ra Đạo Cao Đức Trọng. Theo Thiên Ý Luật Tạng Vũ Trụ Đức không có thời cầu Trời, cầu Phật, cầu Thánh, cầu Tiên, cầu Thần, cầu Chúa, không linh. Cũng như cuộc sống ở đời thường có tiền thời mua gì cũng được. Không lấy gì mua. Cũng như có Đức thời cầu chi cũng ứng linh, Đức càng cao thời cầu càng ứng linh có thể nói cầu chi đặng nấy.

Nên mới có câu thế gian trọng tiền, Thánh Hiền trọng Đức, người có Đức không sức mà hưởng, người có tiền thời dễ mua sắm, quy luật tự nhiên ở đời là vậy. Thầy có tiền thời Thầy mua gì cũng được, nhưng đối với bề trên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa Thầy không có đức dù cầu lạy sói đầu cũng không ứng linh. Cũng như mua cá không có tiền làm sao mua được. Cầu Trời, cầu Phật đức không có, có nghĩa là ác đức dù cho cầu hoài hết ngày nầy đến ngày khác, căn số không đổi thay, mà cũng chẳng ứng linh đó cũng là Định Luật không có gì lạ cả.

Theo Định Luật Nhân Quả Cảm Ứng, Đức càng nhiều thời cầu chi cũng linh cầu gì đặng nấy. Tiền càng nhiều thời mua sắm như ý. Cũng là chuyện bình thường trong cuộc sống hữu vi cũng như vô vi, đâu có gì cao siêu mà khó hiểu.

Thầy tụng kinh mấy mươi năm đáng lý ra phước đức nhiều vô kể. Nhưng vì Thầy tụng đâu thời lấy tiền đó công bỏ ra thời quả cũng đã nhận rồi. Coi như không có đức mấy, Mấy mươi năm làm đâu ăn đó lấy đâu ra giàu đạo đức. Đức đã nghèo mà tâm cũng thiếu lòng nhân thiện. Chỉ mang hư danh đạo cao đức trọng. Có tiếng mà không có miếng, chỉ có lớp vỏ không ruột lấy đâu ra quả vị để thành Ông nầy Bà kia.

Sáo lại nói đạo giải thoát không phải là Tai không nghe, mắt không thấy, ý không dính mắc chuyện trần. Nếu đó là Thầy đang ngồi thiền, hoặc tịnh tâm thời không nói. Vì ngồi thiền Tai nghe như không nghe, Mắt thấy như không thấy, Ý không không, không dính mắc chuyện trần thời coi như Thầy đã đạt đến Đạo Cao.

Còn Thầy đang trong cảnh giới vận động tiếp xúc với xã hội thời tai Thầy phải thính nghe rõ những điều hay, lẽ trái, nghe rõ sự khổ nạn của con người, ra tay giúp đỡ đi vào cảnh giới tích đức tu nhân. Mắt Thầy phải thấy bao hoàng cảnh nỗi khổ con người mở lòng từ bi cứu khổ cứu nạn thời cái đức của thầy mới cao đi vào Đức Trọng ai cũng kính Trọng cái Đức của Thầy. Việc nên làm Thầy không làm, việc không nên làm Thầy lại làm trí không sáng, trí không sáng thời vẫn còn u minh hay vô minh cũng thế. Tâm còn Vô Minh thời khó mà trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

Thầy đi vào thiền định, thầy phải hiểu cái lý đạt đến cảnh giới thiền định.

Có nghĩa là Lục Căn trong sạch bất động.

Lục Thức thanh tịnh vắng lặng không dính mắc cảnh trần. Tai nghe như không nghe, mắt thấy như không thấy, ý thanh tịnh không không. Đó là nói lúc Thầy Thiền Định. Nhưng khi thân, tâm, hành động thời người chân tu phải sống theo Lương Tâm tức là hành thiện, không hại đời mà hay cứu người tích góp phước thiện Đây mới chính là đạo giải thoát. Cả Động lẫn Tịnh đạt đến cảnh giới Viên Dung không còn sa đọa vào ba đường ác Đạo, Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Đằng nầy lúc tu thiền tai Thầy nghe điều nầy điều nọ, mắt Thầy thấy điều nọ điều kia, ý Thầy nghĩ mông lung, nào là thấy thiên đàng địa phủ, nào là nghe tiếng nói của ma quỉ sai quy luật thiền định. Thế mà Thầy cho đó là chứng đắc, nên mới cho mình là Đạo Cao, Đức Trọng. Ai cầu đến Thầy tụng kinh, Thầy đều lấy giá cao.

Thật ra mà nói Thầy tịnh không ra tịnh vì đi sai quy luật thiền định. Động không ra động. Có nghĩa Thầy không nắm vững khi hành động thời sanh nghiệp quả, nếu đó là nghiệp quả ác thời Thầy phải nhận lấy quả báo tai ương. Đã Thiền Định Tịnh Tâm thời tất cả đi vào vắng lặng thoát ly tất cả, thế mà Thầy để Lục Thức vọng động như con Khỉ Ý như con Ngựa không cương vướng mắc lung tung. Lấy đâu ra đắc pháp thành quả. Sự tu hành của Thầy sai đường lạc lối hành động không theo quy luật thành Đạo, dù tu đến nghìn kiếp nữa cũng không thành.

Đã đi vào tu Tâm tích đức thời không đòi hỏi giá cao như vậy, mà tạo duyên lành khắp mọi nơi, không cầu phúc lành thời phúc lành cũng tự đến.

Nếu được sanh làm người trở lại nhờ gieo phúc thiện khắp nơi, Thầy sẽ được thiên hạ hướng về, không thành Vua cũng thành giàu cái giàu tự đến.

Nay Thầy nhờ vào lời dạy của Phật mà hưởng lộc. Nhờ khí trời nuôi dưỡng sanh mạng Thầy mới được bình yên. Trả ơn cho Trời là cứu nhân độ thế. Trả ơn cho Phật là giúp người trong lúc hoạn nạn khó khăn.

Thầy tụng kinh cho người thời đòi giá cao, thấy người lâm nạn thời không cứu. Đúng là ăn lộc Trời nuôi tánh Ma, hưởng lộc Phật nuôi tánh quỉ. Tánh Ma là tánh ham danh háo lợi. Tánh quỉ là tánh vô tâm thấy người lâm nạn không cứu. Tu như thế thời làm sao giải thoát. Nếu không ăn năng sám hối cửa Trời cửa Phật khép kín, cửa Ma cửa Quỉ mở ra, người xuống Địa Ngục không phải là con Sáo tôi mà là thầy. Thầy có cái tên là Sáng nhưng thật ra tối tăm không Sáng chút nào

Chim Sáo nói xong liền bay đi mất Thầy Sáng ngơ ngác chỉ là con chim mà còn hiểu được đạo lý. Còn mình là con người chẳng hiểu gì cả lầm đường lạc lối tâm liền tỉnh ngộ.

Thầy Sáng từ đó tụng kinh không màng đòi hỏi ai cúng dường bao nhiêu cũng được. Lại hay giúp người không cầu trả ơn phi ân bất cầu báo. Không bao lâu nổi danh như sấm dân chúng ca ngợi không hết lời, Thầy mơ ước gặp lại con Sáo.

Một hôm Thầy Sáng đi tụng kinh Thầy thấy con Sáo bị thương nằm trong xó bụi bằng đưa về chăm sóc hết sức tận tình mỗi khi có miếng ăn ngon đều dành phần cho Sáo.

Một hôm Sáo nói Thầy đã thành chánh quả rồi, Thầy Sáng khiêm nhường nói làm gì có chuyện đó, biết rằng Thầy Sáng trước kia không phải là Thầy Sáng hôm nay, việc thành chánh quả là do người thế tôn vinh, tự xưng chỉ là hư danh mà thôi.

Sáo nói Thầy đã thành Phật, thành Thánh, thành Tiên, thành Thần, thành Chúa, gọi Phật cũng được, gọi Thánh cũng xong. Giờ đây Thầy không cầu về trời Thầy cũng được về trời. Thầy sống theo Lương Tâm của Thầy, Phật chính là Lương Tâm, Lương Tâm chính là Phật. Phật ở trong lòng Phật, Phật ở đâu nữa mà tìm. Thầy đã hiểu những Định Luật Thiên Ý Tạo Hóa. Tâm Thầy là Tiên nên ai cũng nhìn thấy được vẻ đẹp Linh Hồn của thầy. Sáo tôi cũng đã mãn kiếp trần Sáo tôi đi trước Thầy một bước. Nói xong Sáo liền ngã lăng ra chết.

Thầy Sáng rơi nước mắt tẩm liệm con Sáo rồi đem chôn.

Đêm hôm ấy Thầy Sáng vừa nhắm mắt thời thấy một vị Đại Thánh hào quang sáng chóa, nói với Thầy Sáng rằng. Ta chính là con Sáo.

Ta vốn là Đại Thiên Vương vì phạm luật thiên, nên bị huyền cơ xoay chuyển đày Ta xuống chốn nhân gian làm thân con Sáo.

Ta nhờ nghe Văn Hóa Cội Nguồn trí huệ khai sáng, thường tìm đến Thầy để bầu bạn. Thấy Thầy đi sai đường lạc lối, Ta mới cảnh tỉnh Thầy mà thôi. Nói xong vị Thiên Vương Đại Thánh biến mất.

– Thầy Sáng từ đó tìm đọc kinh thơ Văn Hóa Cội Nguồn trí tuệ tỏa sáng bừng bừng hội ngộ chân lý Chánh Đẳng Chánh Giác. Ra sức độ người mãn trần về trời trở thành vị Thiên Vương, làm vua một cõi nước trời.
 
88. CÂU CHUYỆN SOI CĂN

Ngày xửa ngày xưa có một Phú Thương tên là Trưởng Quản giàu có nức tiếng cả vùng, nhưng lại sanh ra ba người con mang một chứng bệnh phải nói là không chữa được một người tên là Nong, một người tên là Nia, một người tên là Cót. Nong, Nia, Cót cả ba người con đều ngu si đần độn học đâu quên đó, chỉ đằng trước quên đằng sau. Ông Trưởng Quản lấy làm rầu rĩ nhưng bệnh đần độn thời đâu có thuốc chữa, Ông chỉ biết thở dài nhìn ba người con mà lòng đau như cắt. Có người bày Ông cầu Thần cầu Thánh chỉ bảo may ra Thần, Thánh chỉ cho Ông cách chữa bệnh Ông liền nghe theo cứ đến ngày rằm ngày mùng một Ông dâng hương hoa trà quả cúng bái cầu Thần Linh chỉ cách cứu chữa cho ba người con Ông.

Ông kiên trì cúng bái cầu Thần, cầu Thánh được ba năm. Cho đến một hôm Trưởng Quản trong lúc ngủ thời thấy một vị Thần hiện đến mách bảo rằng, muốn cứu chữa được ba người con thời phải tìm gặp Đạo Sĩ soi hồn. Nhưng muốn gặp được vị Đạo Sĩ soi hồn thời rất khó. Nói xong vị Thần biến mất.

Vào thời ấy có một Đạo Sĩ có nhiều phép lạ, nhất là phép soi hồn hiểu rõ tiền kiếp của mỗi người ở dưới chân núi Đà Sơn. Nhưng để gặp được vị Đạo Sĩ soi hồn thời rất khó. Không biết bao nhiêu người đi đều không gặp, có người chờ đợi hàng tháng cũng không gặp đành trở về. Trưởng Quản lặn lội đường xa tìm đến nhiều lần nhưng không cách nào gặp được liền nhớ đến vị Thần mách bảo.

Ông lập bàn thờ cầu khẩn thường đêm hầu mong vị Thần mách bảo chỉ cho cách để gặp. Trưởng Quản thành tâm cầu khẩn được ba tháng vị Thần lại hiện đến mách bảo ngày mai Ông dẫn ba người con đến gặp vị Đạo Sĩ soi hồn được rồi.

Qua ngày hôm sau Trưởng Quản nói với vợ hôm nay Ông dẫn ba người con đi gặp Đạo Sĩ. Có khi hai ba ngày mới về ông dặn dò bà ở nhà phải luôn thắp hương cầu Thần cầu Thánh. Ông dẫn ba người con ra đi không quên mang theo một số vàng, bạc, ngọc ngà châu báu.

Ông dẫn theo ba người con lặn lội đường xa cuối cùng ông cùng ba người con cũng đến được nơi ở của vị Đạo Sĩ mà trước đây Ông cũng mấy lần tìm đến nhưng không gặp được Đạo Sĩ, trong lòng Ông vô cùng hồi hộp không biết có gặp được hay không. Nhưng Ông rất tin vị Thần mách bảo. Cũng may cho Ông nếu trễ một ngày thời không thể gặp được Đạo Sĩ, vì vị Đạo Sĩ thường chu du không có ở nhà.

Vị Đạo Sĩ là người tu hành đắc Đạo có thể biết trước những gì xảy ra, nên chuẩn bị năm cái ly uống nước để mời khách. Khi bốn cha con Trưởng Quản đến Đạo Sĩ ra đón tận ngoài ngõ, nói tôi đã biết trước là cha bốn con ông sẽ đến, nên tôi đã chuẩn bị năm cái ly để mời khách. Ông Quản nghe vị Đạo Sĩ nói thế thời kinh hãi biết là đã gặp được Thần Tiên. Trưởng Quản thầm nghĩ quả là lời đồn không sai. Đạo Sĩ không những có tài biết trước, mà còn biết cả tương lai.

Trưởng Quản vì nóng lòng chữa bệnh cho con bằng dâng lễ vật lễ vật cúng dường nào là vàng, bạc, ngọc ngà châu báu, cầu Đạo Sĩ soi căn cho ba đứa con tôi, xem chúng nó vì sao lại mang bệnh như vậy.

Đạo Sĩ nói ba đứa con Ông trông khỏe mạnh nào có bệnh tật gì mà phải soi căn.

Trưởng Quản nói bệnh ba con tôi không có thuốc chữa, không có cái khổ nào hơn là bệnh ngu si đần độn, chỉ được cái ăn còn những chuyện khác thời không ra cái gì. Học đằng trước quên đằng sau, làm đâu quên đó, nói rồi không nhớ ngông ngông nghênh nghênh như người mất trí, khùng chẳng ra khùng mà dại cũng chẳng ra dại. Không hiểu nguyên căn gì mà ra thế. Ông chỉ người con lớn nói nó tên là Nong, Ông chỉ người con kế nói nó tên là Nia, Ông chỉ người con út nói nó tên là Cót.

Để dễ tiện soi hồn Đạo Sĩ dẫn Nong vào thiền phòng, trong thiền phòng có một tấm kính rất kỳ lạ không phải bằng gương. Đạo Sĩ biểu Nong nhìn vào tấm kính, còn Đạo Sĩ thời nhập thiền soi căn. Đạo Sĩ xả thiền đứng dậy dẫn Nong ra phòng khách, Trưởng Quản nóng lòng muốn được nghe bằng nói thưa Đạo Sĩ nó vì sao lại như thế. Đạo Sĩ nói người con lớn của Ông kiếp trước có tu hành đáng lý phải được thông minh khi tái sanh trở lại làm người, Nhưng vì thường hay nói rằng Trời nhỏ hơn Phật, xem thường Trời cũng không khối người nghe theo xem thường Trời, nhiều người còn chửi Trời. Bị Huyền Cơ Thiên Ý xoay chuyển tiêu tan trí lực nên trở thành ngông ngông nghênh nghênh thường như người mất trí. Mãn kiếp trần, tiếp tục tái sanh ra làm người nghèo khổ. Cũng Ngông Ngông nghênh nghênh ăn bậy nói bạ bị người ta la rầy xem thường, không may mắn như kiếp nầy sanh ra trong cảnh giàu sang hưởng phước là nhờ kiếp trước có tu vậy.

Trưởng Quản nghe xong sợ quá nói, ngạo mạn với Trời, xem thường Trời, cho Trời nhỏ hơn Phật ỷ mình theo Phật xem Trời không ra gì thời coi như hết cách cứu rồi phải không Đạo Sĩ. Đạo Sĩ nói không phải là hết cách mà là phải thành tâm sám hối đọc tụng kinh luân. Trưởng Quản nói tôi đã rước không biết bao nhiêu thầy chùa, thầy pháp phải nói là rất cao tay ấn tụng kinh làm đàn mỗi lần như vậy là bảy ngày tốn kém biết bao nhiêu là của, nhưng nào có thấy bớt gì đâu.

Đạo Sĩ nói không phải là đọc kinh của Phật của Chúa mà là đọc kinh thơ Văn Hóa Cội Nguồn Văn Hóa Cội Nguồn. chính là Văn Hóa Thiên Ý, nhờ đọc tụng Văn Hóa Thiên Ý căn bệnh đần độn ngu si dần dần sẽ hết. Đạo Sĩ nói bệnh nào thời thuốc nấy mới bớt được. Phạm Thiên Ý phải tụng kinh Thiên Ý mới khỏi.

Lại nữa tất cả Tiểu Linh Hồn Vũ Trụ là do Cha Trời cai quản. Đã ngạo bán Cha Trời, thời chỉ có Cha Trời mới cứu nổi, không có Phật, Chúa nào cứu nổi đâu.

không cần rước thầy đến đọc tụng, người nhà đọc tụng cũng được. Hiệu quả nhất là Nong đọc tụng Văn Hóa Cội Nguồn thời mau hết bệnh đần độn, không còn ngu si ngông ngông nghênh nghênh trở lại thông minh học đâu nhớ đó, không còn cảnh làm đằng trước quên đằng sau.

Đạo sĩ lại dẫn Nia vào thiền phòng cũng làm y như trước biểu Nia chú tâm nhìn vào tấm kính Đạo Sĩ nhập thiền một lát rồi xả thiền đứng dậy dẫn Nia ra phòng khách. Trưởng Quản đứng dậy nói thưa Đạo Sĩ căn bệnh của Nia giống như anh nó không?

Đạo Sĩ nói kiếp trước của Nia là một người thầy tu, Phỉ báng Văn Hóa Cội Nguồn, nhất là đốt kinh Văn Hóa Cội Nguồn, đáng lý thọ 80 tuổi mới mãn kiếp trần nhưng vì đốt kinh Văn Hóa Cội Nguồn tai họa ập đến chưa đầy 40 tuổi bỏ mạng vì tai nạn giao thông. Linh Hồn bị giam vào ngục bốn mươi năm chịu nhiều sự hành hình khốn khổ nơi Địa Phủ, nhờ kiếp trước có tu nên được đầu thai được làm người trở lại, nhưng Linh Hồn phải chịu cảnh ngu si, tàn tàn mách mách hay sừng sộ gây gổ, lúc nào cũng sợ hãi nhất là nhìn thấy xe. Cũng chỉ có Trời mới cứu nổi Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng bó tay. Chỉ có Văn Hóa Thiên Ý Cội Nguồn mới chữa khỏi. Bằng cách biên chép, đọc tụng ấn in ca ngợi lời dạy của Cha Trời thời dần dần hết bệnh trở lại thông minh.

Đạo Sĩ lại dẫn Cót vào thiền phòng cũng như hai người trước chú tâm nhìn vào tấm kính Đạo Sĩ thời nhập thiền tìm nguyên nhân căn bệnh. Đạo Sĩ dẫn Cót ra phòng khách Đạo Sĩ nói kiếp trước của Cót cũng là một thầy tu khuyên bổn đạo không nên đọc Văn Hóa Cội Nguồn, vì Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa Tà Đạo. Trời liền thâu mất trí khôn, để lại trí ngu ăn bậy nói bạ bị người ta đánh chết. Cơ may chuyển kiếp đầu thai làm người, nhưng trí khôn không còn thành ra trở thành ngu si đần độn.

Nói tóm lại: Ba người con của Ông kiếp trước phỉ báng Thiên Ý nên kiếp nầy phải chịu căn bệnh ngu si đần độn, làm đằng trước quên đằng sau, ngông ngông nghênh nghênh tàn tàn mách mách điên không ra điên, khùng không ra khùng. Bệnh nào thuốc nấy. Phạm Thiên Ý, thời có Thiên Ý mới chữa khỏi. Ba người con của Ông phải luôn đọc tụng Văn Hóa Cội Nguồn dần dần sẽ khỏi bệnh trở lại thành người bình thường, có khi còn khai mở trí huệ nữa là khác.

Trưởng Quản dẫn ba người con trở về nhà kẻ lại cho vợ nghe. Vợ Chồng Trưởng Quản lập bàn thờ Thiên, đọc tụng kinh thơ Văn Hóa Cội Nguồn cho ba người con nghe. Lại khuyên ba người con đọc tụng, dần dần ba người con hết bệnh trở lại người bình thường nhứt là Nong thông minh khác thường hiểu rõ kinh ý lời Trời dạy. Gia Đình Trưởng Quản thấy Kinh Văn Hóa Cội Nguồn thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn nên lúc nào cũng khuyên mọi người đọc tụng kinh thơ Văn Hóa Cội Nguồn để được lợi ích, nhất là gặt hái bao điều may mắn đem đến.
 
Quay lại
Top Bottom