[Longfic] Đại Việt du ký

Bạn thấy fic này như thế nảo

  • Rất hay và muốn đọc lại sau khi đã đọc xong

    Số phiếu: 121 63,0%
  • Hay và muốn đọc lại

    Số phiếu: 32 16,7%
  • Hay và không muốn đọc lại, chỉ đọc một lần

    Số phiếu: 20 10,4%
  • Bình thường

    Số phiếu: 14 7,3%
  • Chán

    Số phiếu: 0 0,0%
  • Quá chán

    Số phiếu: 2 1,0%
  • Chán đến mức không thể đọc hết

    Số phiếu: 1 0,5%
  • Chán thậm tệ, tốt nhất bạn đừng nên viết nữa

    Số phiếu: 2 1,0%

  • Số người tham gia
    192
Càng ngày em càng phục chị vì kiến thức cũng như khả năng mày mò của chị để cho ra 1 chap chất lượng vậy. Có vài chỗ còn mấy từ dính nhau, còn lại đều ổn cả. Nhưng dạo này hint Duật x Ai ít quá. Hóng đoạn chiến tranh (dạo nầy em thích máu me) :)
 
chị vẫn giữ phong độ như ngày nào giọng văn mỗi ngày 1 hay. nhưng vẫn có chỗ lỗi fone không cách, dạo này em lười lắm không buồn kể :KSV@05::KSV@05::KSV@05:
về chap mới thì rất hay có nhiều kiến thức => chị chăm thật . nhưng em cũng như Kayoko_Ume cũng thấy Nhật Duật và Ai ít đi.

p/s: đọc cả chap không sao nhưng đến chữ Xuân Quỳnh thì có chút giật mình nhẹ đố biết tại sao .:Conan05::Conan05::Conan05:
 
@sherry lemon 1995 những đoạn chữ bị dính do lỗi font chị đã sửa rồi. Rất cảm ơn em đã dành thời gian để sửa cho chị từng chữ một. Cảm ơn em đã viết một comment dài như vậy, đối với chị, những comment giống như của em chính là "nhuận bút". Em nói đúng :"Họ sẵn sàng vì nước mà xóa bỏ mọi mâu thuẫn, mọi toan tính nhỏ nhen, sẵn sàng đặt "nợ nước" lên trên "thù nhà", sẵn sàng vì nước mà chấp nhận hy sinh tình cảm cá nhân, chấp nhận hy sinh cả tính mạng mà chẳng hề do dự. Nói thì dễ nhưng đâu phải ai cũng dám chấp nhận, dám buông tay, dám đánh đổi?". Đúng là các nhân vật không dễ chấp nhận và đánh đổi vì họ là con người ích kỷ. Thế nên trong truyện này chị sẽ nhắc đến cả những người phản bội, vì không phải tất cả đều dám hi sinh. Còn việc các nhân vậy ho hy sinh tư thù để vì nước non thì chị cũng sẽ không thần thánh hóa, anh hùng hóa mà chỉ viết trên những gì mình cảm nhận sau khi đọc xong những sự kiện lịch sử. Chị không nhớ chính xác từng câu từng chữ trong một chương trình phim tài liệu nói về cuộc chiến tranh với Mỹ, một người tướng Mỹ đã trả lời phỏng vấn rằng người Việt Nam chấp nhận những nỗi đau tột cùng để chiến đấu. Chị nghĩ người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ và chống Nguyên cũng đều như thế.
 
@Kayoko_Ume À chương này có một chỗ hint Duật Ai đấy nhưng chìm. Người đọc tự hiểu thôi à
"Huyết Lệ bật cười - Nhưng sao nhóc phải hao tâm tổn trí xác minh ta và Hiền Thục kia có phải một người không?

- Có lẽ là do nhiễm thói xấu thích soi mói ra sự thật của một người. - Haibara nói - Biết nhiều quá quả là không tốt, vậy nên chẳng phải những gì hôm nay chúng ta nói chỉ có chúng ta biết thôi sao? - Vừa nói, Haibara vừa cầm hai tờ giấy lên xé vụn rồi đưa lại ngọn nến đang cháy.

- Nhóc rất thú vị đấy. Ta đã tự hỏi sao ban ngày mà lại đốt nến, ra vậy - Huyết Lệ đứng dậy ra về - Chiêu Văn không nên giữ một người như nhóc ở bên. Quá nguy hiểm nếu nhóc có lòng làm phản. - Ra đến cửa phòng, Huyết Lệ quay đầu lại nói - Cảm ơn vì đã nhắc nhở."
 
Ah ah em hiểu rồi, chìm quá nên em chưa rõ lắm. Chỗ này chắc mỗi người hiểu một cách nên em không mổ xẻ nó ra làm gì nữa cho nó dài :3. Cảm ơn chị nha

Sent from my Viettel V8410 using KSV
 
Chương 46: Đa sự
Editor: @sherry lemon 1995

Đại Việt, năm Giáp Thân, niên hiệu Thiệu Bảo thứ 6 (1284)

...................................................................................

Thu xếp xong việc ở kinh thành, Nhật Duật phải tức tốc trở về thái ấp để củng cố phòng tuyến nơi đây, kiểm tra lại số thuyền ghe đã đóng trong ba năm qua và xem xét lương thực dự trữ. Cuộc chiến ngày càng đến gần, mọi công tác chuẩn bị càng khẩn trương, gấp rút hơn bao giờ hết. Haibara đang giúp Nhật Duật chuẩn bị hành lý tư trang. Lần này, nàng ở lại phủ đệ tại kinh thành, bởi chàng cũng hiểu rõ, nàng thích nơi đây hơn là thái ấp.

Trước khi đi, Nhật Duật gọi Haibara đến, nói:

- Nàng là người thông minh, ta không nói chắc nàng cũng biết chiến tranh sắp nổ ra rồi. Shiho Miyano, nàng không phải người Việt, nàng không phải có trách nhiệm với đất nước này, cũng không liên quan đến cuộc chiến ở đây. Vì thế, nếu nàng muốn rời đi, trở về quê hương mình - nơi chiến tranh đã chấm dứt - thì ta có thể giúp nàng. Còn về địa danh giống bức tranh nọ thì đợi khi cuộc chiến ở đây kết thúc, ta sẽ cho người đón nàng về Đại Việt hoặc sai người tìm giúp nàng, khi nào tìm được sẽ báo lại cho nàng.

Haibara lắc đầu:

- Ngày đó ở bến Đông Bộ Đầu, nếu đã quyết định đi rồi thì tôi sẽ không quay trở lại. Lựa chọn quay lại đây, tôi đã suy nghĩ rất kỹ.

- Bức tranh ấy không phải lý do duy nhất khiến nàng ở lại, đúng không? - Nhật Duật hỏi.

- Đúng là không gì qua được mắt anh. - Haibara mỉm cười buồn bã, ánh mắt dần xa xăm – Ngày đó, khi bị tổ chức bắt giam vì phản bội, tôi đã quyết định tự sát bằng thứ thuốc độc mình tạo ra. Lúc phát hiện người của tổ chức tìm ra mình, sợ liên lụy đến những người xung quanh, tôi lại muốn tự sát lần nữa. Mạng tôi là do cậu ấy bất chấp nguy hiểm cứu về. Anh biết không, ngay khoảnh khắc vừa vượt qua lằn ranh sống chết ấy, cậu ấy khắp người đều là máu nhưng câu đầu tiên nói với tôi vẫn là:"Đừng chạy trốn số phận. Nếu đó là số phận của cậu thì không thể chạy trốn được đâu." Sau đó, khi cô bé ngây thơ nhất, hồn nhiên nhất cũng nói với tôi rằng:"Nếu cứ mãi trốn chạy, cậu sẽ không bao giờ chiến thắng được" thì tôi đã hiểu, tôi không thể trốn tránh thực tại, cũng không muốn trốn tránh nữa, tôi phải đương đầu...

Nàng cười khẽ:

- Vì thế khi FB... khi quan phủ đề nghị tôi tham gia chương trình bảo vệ nhân chứng, thay tên đổi họ, mai danh ẩn tích tránh cuộc truy sát, tôi đã từ chối.Thế nhưng sau này, mỗi lần đối mặt với tổ chức, tôi vẫn sợ. Tôi không trốn chạy nữa, nhưng thực sự trong thâm tâm, nỗi ám ảnh suốt mười mấy năm vẫn khiến tôi kinh hoàng, khủng hoảng và nghi ngờ bản thân. Tôi vẫn luôn nghĩ mình không thể làm gì nổi chúng, mãi mãi không thể. Nhưng anh đã khiến tôi… không, không chỉ riêng anh mà còn có An Tư công chúa, Hoài Văn hầu, Nguyễn tướng quân, chính mọi người đã nhen nhóm lại niềm tin trong tôi. Kẻ thù của các anh là những kẻ được xưng tụng “bất khả chiến bại”, là những kẻ đã giày xéo khắp miền đông tây nam bắc, muôn người khiếp sợ; so với chúng, có lẽ Đại Việt chỉ là “châu chấu đá xe”, thế nhưng tôi chưa từng thấy tia khiếp hãi nào trong ánh mắt các anh, chỉ thấy từng người từng người đều hừng hực niềm tin chiến thắng. Tôi vẫn nhớ anh đã từng nói:"Chúng ta có thể thua lúc đầu, nhưng người chiến thắng cuối cùng sẽ là Đại Việt. Bởi chúng ta sẽ chiến đấu đến khi thắng mới thôi, đời này chưa thắng được thì con cháu đời sau, lớp lớp người Đại Việt sẽ không ngừng đứng lên, sẽ chiến đấu không mệt mỏi. Trên mảnh đất này, bất kỳ kẻ xâm lược nào muốn “đánh nhanh thắng nhanh” đều là vọng tưởng. Chúng ta có thể cúi đầu, có thể quỳ gối nhưng TÂM sẽ KHÔNG BAO GIỜ KHUẤT PHỤC cho dù núi có cạn, sông có mòn." – Nàng mỉm cười, ánh mắt ngời sáng - Anh nói đúng, một lý do nữa khiến tôi ở lại là để tận mắt chứng kiến cuộc chiến không cân sức này, chứng kiến niềm tin ấy có thành sự thật hay không.

- Ta hiểu rồi. - Nhật Duật gật đầu - Vậy nàng cứ ở lại đất nước nhỏ bé sắp đối đầu với cuồng phong bão táp này đi. Rồi nàng sẽ nhận ra, chỉ cần vững lòng tin, có kiên trì, có quyết tâm, nàng sẽ vượt qua mọi sợ hãi, nàng hoàn toàn có thể cùng... cậu ấy đánh bại chúng. Lần này ta đi, có lẽ sẽ rất lâu. Hãy bảo trọng - Nhật Duật đặt tay lên bờ vai bé nhỏ của Haibara, dặn dò nàng.

Haibara gật đầu:

- Anh cũng vậy.

Nàng nhìn ra được Nhật Duật vẫn còn tâm sự gì đó nhưng không tiện hỏi nên đành thôi.

.....................................

Việc quân việc nước cứ cuốn Nhật Duật đi. Mọi việc ở thái ấp, chàng vốn đã sắp xếp ổn thỏa từ lâu. Lần này trở về, cốt là cẩn thận xem xét mọi việc cho chu toàn, đồng thời thăm con và Trinh Túc.

Nhật Duật nắm tay Trinh Túc ân cần:

- Chuyến này ta đi phải hơn nửa năm mới lại về được. Thánh An còn nhỏ, nàng lại phải thay ta gánh vác mọi chuyện, sẽ rất vất vả đấy. Đừng ham công tiếc việc, mọi việc nơi nàng đều tốt thì ta mới yên lòng được. Phụ trách hậu phương, khai phá đất đai, trồng lương thực, chăn nuôi gia súc phục vụ quân doanh ở thái ấp và đội quân của Triệu Trung trong thời gian ta đi vắng, đều nhờ nàng.

- Vương gia, xin ngài yên tâm. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Thiếp không thể cùng chàng cầm quân ra trận thì sẽ ở đây làm tốt mọi việc để chàng yên tâm đánh giặc giữ nước. Thiếp nhất định sẽ làm được. - Trinh Túc kiên định nói.

........................................

Thu xếp xong việc ở thái ấp, Nhật Duật chưa khởi hành đi Tuyên Quang ngay mà còn phải tuần tra vùng Thanh Hóa - Nghệ An. An bài mọi sự thỏa đáng rồi chàng mới lên đường. Hôm ấy, chàng ngoảnh đầu nhìn lại con đường dẫn vào thái ấp vẫn còn chìm trong sương, nơi cuối đường có bóng dáng thân quen của Trinh Túc đang bồng con tiễn chàng nhạt nhòa trong sương sớm. Nhật Duật bất giác nhớ đến những câu thơ trong một truyền thuyết xưa cũ mà chợt thấy xót thương:

" Ngàn thu hóa đá đến bao giờ

Trông chồng thành đá khối chơ vơ

Xuân tàn, thu đến, trông muôn dặm

Gió tạt, mưa tuôn, quyết lòng chờ

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp lại về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh"

Nhật Duật đưa tay vẫy Trinh Túc ý bảo nàng hãy quay về đừng tiễn nữa rồi dứt khoát thúc ngựa phi đi. Tấm áo choàng bị gió thổi bay phấp phới cuốn lấy bụi đường ngàn dặm. Lần này lên vùng Tây Bắc, Nhật Duật ghé thăm Trịnh Giác Mật, đồng thời bàn bạc trước kế hoạch tác chiến. Sau lại đôn đốc chấn chỉnh, bố trí phòng vệ ở trại Thu Vật [1] rồi đến Bạch Hạc [2] khảo sát.

...

Nhật Duật buông quyển binh thư xuống, đưa tay day day mi tâm, đoạn chàng thổi tắt nến rồi đến bên gi.ường ngả lưng. Lần này rời kinh quá gấp, chàng còn chút lấn cấn bởi hôn sự của An Tư vẫn chưa được thu xếp ổn thỏa. Thái thượng hoàng đang bận việc quốc gia đại sự, không có tâm trí mà nhớ đến chuyện chung thân của em gái. Nhưng cũng không vội, dù sao An Tư vẫn còn nhỏ, đợi cuộc chiến kết thúc, chàng sẽ thay nàng làm chủ, đứng ra xin ban hôn cho nàng và Nguyễn Khoái. Vậy nhưng thế sự vô thường, nếu dự định nào cũng thành sự thật, tính toán nào cũng được như mong ước thì đâu còn là cuộc đời. Thế nên dự định này của Nhật Duật mãi mãi không có cơ hội thực hiện.

........................................................

Đã đến giờ cho binh sĩ nghỉ giải lao, Bình Trọng và Nguyễn Khoái ra lệnh giải tán đội hình. Những ngày này lịch luyện tập của quân đội dày đặc hơn bao giờ hết, đặc biệt là đội quân Thánh Dực. Bình Trọng cùng Nguyễn Khoái rời khỏi thao trường, vừa vặn có một binh sĩ chạy lại bẩm báo:

- Tiểu nhân tham kiến Trần tướng quân, Nguyễn tướng quân. Bẩm Nguyễn Tướng quân, có một thái giám là người Tân Nguyệt điện ở Cấm thành xin được diện kiến tướng quân.

- Ngươi cho truyền hắn vào đây. - Nguyễn Khoái nói.

Người lính rời đi, lát sau đã quay lại dẫn theo một thái giám tay xách một chiếc giỏ to. Người đó hành lễ với Nguyễn Khoái và Bình Trọng rồi thưa:

- Bẩm tướng quân, công chúa sai nô tài dâng giỏ bánh này cho ngài.

Nguyễn Khoái không sai người nhận chiếc giỏ mà tự mình đỡ lấy:

- Ngươi giúp ta chuyển lời cảm ơn đến công chúa.

Bình Trọng ở bên thấy vậy bèn trêu chọc:

- Nhìn không ra Nguyễn đệ lại có giao tình với người ở điện Tân Nguyệt như vậy. - Đoạn, chàng vờ thở dài - Haizzz, ta với Thụy Bảo là vợ chồng kết tóc se tơ bấy lâu mà có bao giờ nàng ấy gửi đồ ăn đến quân doanh đâu.

- Phò mã đừng cười thần nữa. - Nguyễn Khoái ngượng ngùng gãi đầu.

Chàng mở khăn đậy giỏ bánh ra xem. Là bánh cốm. Bình Trọng tò mò ngó vào rồi chép miệng đầy ghen tỵ:

- Không những gửi bánh đến mà còn tự tay làm.

- Sao phò mã biết là bánh do công chúa tự tay làm? - Nguyễn Khoái ngạc nhiên.

- Ta nghe Thụy Bảo nói, có lần An Tư bị Thái thượng hoàng cấm túc, phạt nàng bao giờ làm ra bánh cốm khiến người ta có thể nuốt trôi thì mới được “tha” - Bình Trọng nhún vai, rồi trước gương mặt ngơ ngác đến tội nghiệp của Nguyễn Khoái, chàng ôn tồn giải thích - Thiên hạ đồn An Tư công chúa tài sắc vẹn toàn, tinh thông cầm kỳ thi họa nhưng lại không đồn công chúa nấu ăn dở đến không nuốt nổi, không đồn công chúa không biết cầm cây kim thế nào cho đúng. Thái thượng hoàng phạt như vậy cốt là để làm khó An Tư, để nó ngoan ngoãn ở trong cung. Nhưng đệ thấy rồi đó, nó vẫn nhởn nhơ chạy ra ngoài chơi được nghĩa là nó đã hoàn thành yêu cầu của Thái thượng hoàng. Ta nghe Thụy Bảo nói bây giờ bánh cốm là món tủ của An Tư rồi đấy.

Dù Bình Trọng đã cảnh cáo trước về tài nấu ăn của An Tư, cũng chưa nếm thử xem mùi vị ra sao nhưng Nguyễn Khoái vẫn rất có lòng tin với những chiếc bánh này. Chàng lấy hai cái, một cho mình, một đưa cho Bình Trọng, còn lại sai người chia cho các thuộc tướng. Trong quân đội, giữa những người lính với nhau, không có gì là riêng tư, tất cả đều là anh em một nhà, thậm chí gia thư hay thư tình của người thương cũng vậy, có khi chủ nhân của bức thư lại là người đọc cuối cùng sau khi đồng đội đọc cho nhau nghe chán rồi mới đem trả.

Nguyễn Khoái bóc bánh ăn. Vừa ăn vừa tủm tỉm cười. Vị ngọt của bánh thấm vào đầu lưỡi, thấm vào tim chàng, thấm vào tâm hồn chàng.

.....................................

Haibara mở cửa sổ, thẫn thờ nhìn màn mưa rào trắng xóa xé tan bóng đêm yên tĩnh. Ngày tháng bình yên trước giông tố càng khiến lòng người bồn chồn bất an. Vương phủ dù xa hoa bề thế nhưng thiếu vắng bóng dáng chủ nhân, vạn vật dường như cũng mất đi sức sống. Nhật Duật lên đường cũng đã mấy tháng rồi. Không khó để Haibara nhận thấy sự thay đổi trong phủ thời gian này. Những đồ đạc quý dần được di dời, hoặc đưa vào mật thất hoặc chuyển đi nơi khác, không quá vội vàng cũng không quá chậm chạp, nếu không chú ý thì sẽ khó lòng phát hiện ra. Gia nhân trong phủ cũng được an bài, giải tán bớt, người trở về quê, người đến vương phủ ở thái ấp. Có lẽ trước khi đi, Nhật Duật đã phân phó tổng quản chuẩn bị mọi việc. Bao gồm cả việc biến chính vương phủ thành một trận địa mai phục với vô vàn cạm bẫy. Haibara không rõ dụng ý của Nhật Duật khi làm những việc này, nhưng mục đích cuối cùng thì nàng hiểu rất rõ ràng, tất cả là để phục vụ cho cuộc chiến sắp tới.

.............................................................................................................................................................................................

Hôm nay là ngày Thoát Hoan chính thức nhận sắc phong Trấn Nam vương từ Đại hãn Nguyên triều Hốt Tất Liệt. Hốt Tất Liệt có nhiều con trai nhưng ông ta yêu quý nhất vẫn là đứa con thứ hai tên Chân Kim và Thoát Hoan - người con thứ chín. Phong Thoát Hoan làm vương, đặt vương hiệu là Trấn Nam, “Trấn” trong “trấn áp”, “Nam” trong “nước Nam”, trấn áp nước Nam, hành động này của Hốt Tất Liệt đồng nghĩa với việc trao quyền chủ tướng thảo phạt Đại Việt cho Thoát Hoan. Sau lễ sắc phong, Hốt Tất Liệt cho triệu vào Thoát Hoan vào gặp mặt riêng.

- Nhi thần khấu kiến phụ hoàng. - Thoát Hoan hành lễ.

- Bình thân - Hốt Tất Liệt miễn lễ - Ngồi xuống đi.

Thoát Hoan đứng dậy, ngồi xuống chiếc ghế được nô tài đưa tới.

- Thoát Hoan, lần này việc thảo phạt An Nam, trẫm giao cho con. Dẻo đất ấy nhất định phải sáp nhập vào Đại Nguyên.

- Phụ hoàng yên tâm, nhi thần nhất định san bằng An Nam. - Thoát Hoan quyết liệt bày tỏ.

- Khẩu khí khá lắm - Hốt Tất Liệt bật cười sảng khoái - Thoát Hoan từ nhỏ con đã ham mê chiến trận, bắn cung cưỡi ngựa đều giỏi, là một trong những dũng sĩ mạnh nhất Đại Nguyên ta. Giao việc thảo phạt An Nam cho con trẫm rất yên tâm. An Nam là mảnh đất màu mỡ giàu có, vị trí tự nhiên đắc lợi, không chiếm được nó trẫm không cam lòng. Lần xuất chinh này trẫm cho con 50 vạn quân để nhổ sạch cỏ An Nam. Tướng lĩnh tùy con lựa chọn. Con chọn ai?

- Tạ ơn phụ hoàng - Thoát Hoan đáp - Nhi thần xin chọn A Lý Hải Nha - Tả thừa hành tỉnh của An Nam hành trung thư tỉnh. A Lý Hải Nha phụ trách công việc hải ngoại đã lâu, khả năng chuẩn bị tiền chiến, hành quân, điều động quân đội, thu gom lương thảo, vũ khí của ông ấy đều là bậc thầy, đáng để nhi thần thọ giáo. A Lý Hải Nha cũng là người theo sát cuộc chiến Chiêm Thành suốt thời gian qua nên sẽ nắm rõ tình hình Chiêm Thành - bàn đạp để thiên triều ta tấn công Đại Việt từ phía nam. Ô Mã Nhi là dũng tướng giỏi thao lược lại hiếu chiến, Lý Hằng từng đánh bại hải quân Tống, nhi thần xin chọn hai người này. Ngoài ra còn có các tướng Khoan Triệt, Bột La Hợp Đáp Nhĩ, Sát Tháp Nhi Đài, Mãng Cổ Thái, Nạp Hải, Lý Bang Hiển, Tôn Hựu, Tôn Đức Lâm, Lưu Thế Anh, Lưu Khê, Nghê Nhuận.

- Được, trẫm chuẩn tấu - Hốt Tất Liệt đáp ứng, đoạn hỏi - Thống lĩnh quân đội An Nam lần này là ai?

- Tâu phụ hoàng, theo tin thám báo truyền về thì Trần Khâm đã phong Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công tiết chế, hắn là kẻ nắm quyền quân sự cao nhất hiện giờ tại An Nam. Nhắc đến kẻ này, nhi thần có chút khó hiểu. Cha hắn là Trần Liễu vì hận em trai cướp vợ mà làm phản nhưng thất bại, suýt bị Trần Thủ Độ giết chết, sau được tha nhưng vẫn bị giam lỏng tại đất Yên Sinh. Trần Quốc Tuấn là con trai kẻ từng làm phản, tất có thù với dòng chính hoàng tộc. Nhi thần nghe nói triều đình nhà Trần đối với hắn vẫn luôn có nghi kỵ. Hắn còn từng qua mặt Trần Cảnh, kháng chỉ, cướp cô ruột là Thiên Thành công chúa làm vợ. Con dâu hắn lại tư thông với nghĩa tử của Trần Hoảng. Ngoài ra, Trần Quốc Tuấn và Thái sư nhà Trần cũng có mâu thuẫn cá nhân. Không hiểu sao Trần Hoảng và Trần Khâm lại chọn hắn làm Quốc công tiết chế? - Thoát Hoan thưa.

- Trần Quốc Tuấn? Trẫm đã từng nghe qua. - Hốt Tất Liệt chau mày nghĩ ngợi như đang cố nhớ gì đó - Hơn hai mươi năm trước, lúc đại hãn thiên triều vẫn là Mông Kha hoàng thúc của con, hắn từng cất quân thảo phạt An Nam một lần. Chuyện này chắc con cũng biết. Trận chiến năm ấy, kẻ đó cũng tham chiến, nhưng người chỉ huy tối cao phía An Nam không phải hắn mà là Trần Thủ Độ - một gã gian hùng. Năm đó, lúc Ngột Lương Hợp Thai dẫn quân thảo phạt An Nam, trẫm còn bận chinh chiến với Nam Tống nên không rõ tường tận, nhưng từ việc Mông Kha cử Ngột Lương Hợp Thai xuất trận, trẫm đủ hiểu hoàng huynh coi trọng cuộc chiến ấy tới mức nào. Chỉ là, không ngờ chúng ta lại là kẻ bại trận. Dù sao An Nam cũng là miếng mồi ngon, không thể bỏ. Nay Trần Thủ Độ chỉ còn là một nắm xương khô, không biết đám hậu bối ở An Nam có làm nên trò trống gì không. Lần xuất chinh này con tuyệt đối không được chủ quan, khinh địch, dù quân thiên triều ta cuồng phong vạn mã, uy vũ tứ phương nhưng bọn người Giao Chỉ lại xảo quyệt gian trá, ngoan cố cứng đầu. Cứ nhìn sau một nghìn năm bị đô hộ mà chúng vẫn giữ được đất thì biết bọn chúng cứng đầu cứng cổ thế nào. Con không được để chúng che mắt, phải thật cẩn thận, hiểu không?

- Nhi thần xin kính cẩn khắc ghi lời giáo huấn của phụ hoàng - Thoát Hoan đáp.

- Lui đi - Hốt Tất Liệt phẩy tay.

...

Thoát Hoan trở về phủ với vô vàn toan tính trong lòng. Phụ hoàng nói hoàng thúc hắn khi còn tại thế đã rất coi trọng việc chinh phục An Nam. Lần này phụ hoàng lại giao cho hắn 50 vạn quân, một con số không hề nhỏ, hẳn phụ hoàng cũng rất xem trọng mảnh đất này, không chỉ vì những lợi ích thu được mà còn bởi sự hiếu thắng, kiêu ngạo nếu có thể đem thất bại của Mông Kha giẫm dưới gót chân. Với bản thân hắn, cuộc chiến lần này càng quan trọng. Ngôi vị thái tử hiện vẫn còn bỏ trống. Tuy phụ hoàng có nhiều con cái nhưng hắn hiểu rõ, trong cuộc chiến vô hình này, chiến trường chỉ có hắn và nhị hoàng huynh Chân Kim. Thắng lợi ở An Nam sẽ là bước đệm để hắn nâng cao vị thế và uy tín, tiến gần ngai vàng hơn. Dũng tướng thiện chiến ở Đại Nguyên nhiều không kể siết, lần này Thoát Hoan lựa chọn A Lý Hải Nha và đám người Ô Mã Nhi, Lý Hằng cùng tham chiến khôngchỉ đơn thuần vì họ là những kẻ xuất sắc trên chiến trường. A Lý Hải Nha có thế lực lớn trong đám triều thần, rất nhiều võ tướng và quan chức là do ông ta bồi dưỡng, cất nhắc, là phe cánh chính trị của ông ta. Quan trọng hơn, ông ta là người được Hốt Tất Liệt trọng dụng. Từng có kẻ tâu với phụ hoàng rằng:"A Lý Hải Nha nắm quyền binh dân, con cháu phe đảng chia giữ các chức vụ trọng yếu, quan lại ra vào cửa nhà y đến bảy tám phần mười, uy quyền y không kém Ahma, nên bãi chức và thanh toán phe đảng của y, tuy có người không dơ bẩn cũng nên đổi đi chỗ khác, chớ để giữ lâu ở Hồ Quảng" nhưng cũng không lung lay được vị trí của người này trong triều. Thoát Hoan lại nghĩ khác, hắn muốn lôi kéo A Lý Hải Nha về phe mình, lợi dụng quyền hành và uy thế của ông ta để đạt được mục đích. Nếu có được sự ủng hộ của người này thì con đường đến ngôi vị thái tử của Thoát Hoan không lo khó khăn. Vừa hay kẻ ý kiến với A Lý Hải Nha chính là Hình bộ thượng thư Thôi Úc, vốn có giao tình khá tốt với Chân Kim. Thoát Hoan cười khẩy, Thôi Úc đã giúp hắn một việc lớn rồi đấy. Chọn Ô Mã Nhi, Lý Hằng bởi hai kẻ này đều là người A Lý Hải Nha cất nhắc, còn có Toa Đô - kẻ đang thảo phạt Chiêm Thành cũng là người của A Lý Hải Nha. Đây là cách hắn lấy lòng A Lý Hải Nha đồng thời cũng là tạo đường lui cho mình. Thoát Hoan thúc ngựa phi nước đại, lòng đầy hưng phấn mong chờ cuộc chiến sắp tới. An Nam sẽ sớm bị hắn giẫm dưới chân. Thắng lợi trong cuộc nam chinh này sẽ đem lại vinh quang cho hắn. Cũng chính cuộc nam chinh này đã cho hắn gặp một người con gái, câu nói ngông cuồng ngạo nghễ của người con gái đó vẫn ám ảnh hắn cho đến tận lúc hắn qua đời ở Dương Châu - một nơi rất xa Đại Đô [3]. Người con gái ấy đã nói:"Thoát Hoan, Đại Việt là mảnh đất địa linh nhân kiệt, động đến nó ngươi không những không có thắng lợi vinh quang như mong muốn mà còn thân bại danh liệt. Cho đến hết đời, ngươi, Hốt Tất Liệt cũng đừng hòng chiếm được dù chỉ là một tấc núi, một thước sông của Đại Việt".

...

Tháng 7, Thoát Hoan bắt đầu khởi binh, 50 vạn quân tạm đóng ở Ngạc Châu, đồng thời cử sứ lên đường sang Đại Việt, yêu cầu mượn đường đánh Chiêm Thành. Muốn phát động chiến tranh chung quy vẫn cần một cái cớ.

...................................................................................................................................................................................................................................

"Mùa thu, tháng 8, Hưng Đạo vương điều các quân của vương hầu, duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu, chia quân đóng giữ Bình Than và nhưng nơi xung yếu khác" [4]

....

Những tháng ngày này đối với Haibara dài đằng đẵng. Hình như trong vô thức nàng đang chờ đợi một ai đó. Những cơn mưa xuân vơi dần, mưa rào mùa hạ giăng kín lối đi rồi cũng tạnh để lại cái tiết se lạnh của mùa thu. Nhật Duật đi đã gần một năm mà chưa hề trở lại. Vắng chàng, Haibara mới giật mình nhận ra từ khi đến nơi này, nàng đã vô tình dựa dẫm vào chàng quá nhiều, giống như với Shinichi vậy. Nàng đã sống trong cô đơn để lớn lên, để trưởng thành, nàng đã quen với đơn côi lạnh lẽo, thế nhưng giờ đây, nàng hơi sợ sợ sự trống vắng nó đem lại khi đang dần thích nghi với cuộc sống bình thường, dần quen với việc có người bên cạnh bầu bạn. Trong suốt thời gian qua, An Tư cũng không ghé thăm vương phủ. Cũng phải, Nhật Duật không ở đây, An Tư đến làm gì?

Tiếng kẻng tập trung gia nhân trong phủ làm Haibara giật thót. Dứt mình khỏi dòng suy nghĩ miên man, nàng vội đi tới sân lớn. Gia nhân trong phủ đã vơi đi một nửa. Tổng quản điểm mặt nhận tên đủ người rồi mới dặn dò:

- Ngày mai đức ông về phủ. Lần này đức ông đi đường xa mệt nhọc, các ngươi hãy hầu hạ, chăm lo dọn dẹp cho tốt để đón đức ông trở về.

- Thưa vâng ạ. - Gia nhân đồng thanh trả lời.

Ấy thế mà lần này Nhật Duật về kinh, Haibara cũng không gặp được chàng. Rời khỏi trại Thu Vật, Nhật Duật về thái ấp điều quân tới Đông Bộ Đầu, tập trung cho cuộc duyệt binh sắp tới. Chàng nghỉ ngơi mấy ngày rồi mới lên đường hồi kinh, dù sao vẫn phải có thời gian để điều binh. Chàng cũng có chuyện cần bàn với Triệu Trung. Trở về từ chỗ vị tướng người Tống lưu vong, Nhật Duật cân nhắc rồi thảo một bức thư cho Hưng Đạo vương, ngỏ ý muốn cho cả đội quân của Triệu Trung tham gia đợt duyệt binh lần này. Không dùng bồ câu, chàng cho người tức tốc phi ngựa gửi thư đến tận tay Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn cùng phu nhân là Thiên Thành công chúa đã tới kinh thành từ sớm, chàng quyết định đợi thư hồi âm rồi mới lên đường. Thế nên mấy "ngày mai" đã trôi qua mà Haibara vẫn chưa thấy tin Nhật Duật sắp về tới nơi. Trong lòng nàng mơ hồ một nỗi lo, không biết chàng đi đường có gặp chuyện gì bất trắc không? Là do bôn ba ngược xuôi sương gió vất vả nên ngã bệnh giữa đường, hay là gặp địch nhân rồi? Haibara tự nhủ kiểu người thâm trầm âm hiểm như Nhật Duật có nhiều kẻ thù oán hận cũng không có gì lạ đâu.

...

Nhật Duật không phải đợi lâu đã nhận được thư hồi âm của Quốc Tuấn. Chàng mở ra xem. Trong thư chỉ vỏn vẹn một câu:"Quân quý hồ tinh, bất quý hồ đa" [5]. Nhật Duật đọc thư xong trầm ngâm hồi lâu, cho là phải liền bỏ đi ý định đưa đội quân của Triệu Trung về tham gia duyệt binh. Không thể chậm trễ thời gian, chàng lập tức dẫn quân về Thăng Long. Thực ra, Nhật Duật muốn Triệu Trung tham gia diễn tập không chỉ vì muốn đội quân của ông ta được rèn luyện chiến lược chung, nắm được các hiệu lệnh của quân đội nhà Trần để phối hợp nghênh chiến chặt chẽ mà còn bởi chàng muốn Triệu Trung nhận thấy mình được triều đình Đại Việt coi trọng, để ông ta cùng những binh lính người Tống kia dốc lòng cho cuộc chiến sắp tới. Nhưng Quốc công tiết chế đã từ chối. Chàng không có gì bất mãn vì bản thân chàng cũng hiểu rất rõ nguyên nhân. Đúng là Trung Nguyên đang bị người Mông Cổ đô hộ, nhưng đó chỉ là hiện tại, còn tương lai thì sao, nhà Tống liệu có thể đông phong tái khởi hay không? Không ai biết trước được. Chiêm Thành và Đại Việt suốt mấy trăm năm chiến tranh không ngừng nhưng đến lúc cần còn cùng chung chiến tuyến, Đại Việt và Trung Nguyên cũng vậy mà thôi. Giờ đây nhà Tống bại trận phải lưu vong sang Đại Việt nhờ cậy, nhưng sau này họ giành lại được độc lập, có lẽ rất nhanh thôi sẽ quên đi những ân nghĩa xưa kia, những giao tình tốt đẹp thưở nào mà cất quân xâm lược Đại Việt như rất nhiều lần trong quá khứ. Núi liền núi, sông liền sông. Để quân đội Tống cùng tham gia duyệt binh, để họ biết được đường lối quân sự, cách chỉ huy, cách bài binh bố trận là một điều mạo hiểm. Quốc công đã nhìn xa trông rộng mà chỉ ra điều này.

.................................................................

Nguyễn Khoái vừa trở về từ thao trường thì gia nhân trong phủ bẩm báo rằng có một vị khách đã chờ chàng ở tiền đường một lúc rồi. Nguyễn Khoái thuận miệng hỏi:

- Người đó có xưng danh không?

- Dạ bẩm, con có hỏi "Công tử là ai?" nhưng vị công tử ấy trả lời rất khó hiểu. - Người gia nhân đáp.

- Như thế nào mà khó hiểu? - Nguyễn Khoái hỏi lại

- Vị công tử ấy nói:"Ta là người mà cha mẹ ta sinh ta ra, mong ta vừa có cuộc sống yên bình, vừa được trời phú cho thiên tư thông minh, sáng suốt". Con không rõ thân phận người đó, cũng không dám đắc tội nên đành mời ngài ấy vào tiền đường đợi. Mẫu thân của đức ông bảo cứ chờ đức ông về định đoạt, lệnh bà cũng không có ra mặt hỏi chuyện.

- Mẹ ta trước giờ không thích gặp khách khứa của ta. Có gì mà phải định đoạt - Nguyễn Khoái cười - Ta biết người đó là ai rồi.

...

Khi Nguyễn Khoái đến tiền đường thì vị khách kia đang ung dung thưởng trà. Người đó mặc võ phục màu nâu sẫm, có đôi mày kiếm đậm cùng nước da bánh mật rắn rỏi.

- An Tư. An trong “yên bình”, Tư trong “thiên tư sáng suốt”. Đó là ý nghĩa phong hiệu của nàng, đúng không? - Nguyễn Khoái phất tay cho gia nhân xung quanh lui hết rồi mới lên tiếng.

Vị công tử kia ngẩng lên, không vui nhìn Nguyễn Khoái:

- Chàng nhận ra ta dễ dàng vậy sao?

- Nếu ta không nhận ra nàng chẳng phải sẽ đáng giận sao? - Rồi Nguyễn Khoái thở dài - Nàng ăn mặc thế này đến tìm ta có phải muốn ta giúp nàng đi xem trận duyệt binh sắp tới không?

- Không sai. - An Tư đáp - Thế nào, chàng có giúp ta không?

- Quân lệnh như sơn. - Nguyễn Khoái nói - Người không phận sự không thể vào. Ta là người cầm quân, phải chấp hành quân lệnh để làm gương cho binh sĩ, không thể làm trái được.

- Kể cả người đó là ta mà chàng cũng không đồng ý sao? - An Tư nhíu mày giận dỗi.

- Kỷ luật quân đội không có chỗ cho tư tình. - Nguyễn Khoái đặt tay lên vai An Tư, nhẹ nhàng khuyên nhủ.

An Tư phụng phịu ngả đầu vào vai Nguyễn Khoái thủ thỉ, giọng nàng ngọt ngào mềm mại:

- Chàng tham gia duyệt binh tất có lính theo hầu. Em cải trang thành lính hầu là được, không có ai nhận ra đâu. Em chỉ xem một chút thôi rồi đi. Chàng xem, trước đây em cũng từng đến hội nghị Bình Than mà có ai phát hiện ra đâu. Chàng dẫn em đi nhé. Ngoài chàng ra, em không biết nhờ ai giúp cả. - Đoạn nàng kiễng chân thơm lên môi Nguyễn Khoái rồi vội cúi đầu, không giấu được nét ngượng ngùng trên gương mặt, môi xinh mỉm cười e thẹn, đôi mắt long lanh kín đáo như có như không liếc chàng đầy mong chờ. Hóa trang thành nước da bánh mật không những giúp che hết những vết thâm do sởi để lại mà còn khiến các đường nét tuyệt đẹp trên gương mặt An Tư càng sắc nét. Nguyễn Khoái ngây người nhìn giai nhân tuyệt sắc trước mặt như mất hồn. Người xưa nói nụ cười của mỹ nhân có thể khiến thành quách tan nước điêu tàn, người xưa nói chí lớn trong thiên hạ không đong đầy trong đôi mắt giai nhân.

.

Ở một góc kín đáo quan sát tất cả, Trần Khâm và Quốc Tuấn nãy giờ vẫn im lặng, còn Quang Khải thì cảm khái:

- Xem ra là anh hùng nan quá mỹ nhân quan.

- Nguyễn Khoái vẫn chưa đồng ý mà. Để xem cuối cùng thế nào. - Trần Khâm lên tiếng.

- Khó đấy. - Quảng Khải cao thâm nói - Tự cổ chí kim có biết bao anh hùng lụy vì mỹ nhân - Đoạn Quang Khải cười liếc sang Quốc Tuấn - Bên cạnh Quan gia cũng có một vị đấy.

Quốc Tuấn lạnh lùng liếc Quang Khải rồi gật đầu:

- Thượng tướng nói phải. Bên cạnh Quan gia quả thật có một vị.

Trần Khâm thận trọng lùi về phía sau để Quốc Công tiết chế và Thượng tướng thái sư thuận lợi "bốn mắt nhìn nhau". Chàng nghe nói sau lần tắm chung hai người này tình nghĩa qua lại càng thêm thân thiết kia mà? Thế sao bây giờ người chú yêu quý của chàng lại lôi chuyện Quốc công năm xưa mạo hiểm lẻn vào phủ Nhân Đạo vương cướp người trong mộng ra? Thế sao cha vợ đáng kính của chàng lại ám chỉ việc Thượng tướng từng vì sủng ái một người thiếp mà không ngại đắc tội với Thống Quốc Thái sư quyền khuynh triều dã, ghẻ lạnh chính thê - con gái vị Thái sư mà đến phụ hoàng còn phải kính nể?

.

- Sao chàng không nói gì thế?

- Ta....chuyện này... - Nguyễn Khoái vẫn chưa hoàn hồn lại.

- Nếu chàng thấy thiếp làm chàng khó xử thì thiếp cũng không dám nài ép. Hạnh Nguyên nào phải người không hiểu lý lẽ. - An Tư giận dỗi, đôi mắt long lanh lấp lánh ánh lệ đầy tủi hờn – Thôi, nếu đã vậy, thiếp cũng không dám cầu chàng giúp. Thiếp sẽ nhờ Chiêu Thành vương vậy.

Cuối cùng, Nguyễn Khoái đầu hàng:

- Thôi được rồi, ta giúp nàng. Nhưng chuyện đóng giả lính hầu rồi lén vào nơi duyệt binh thì không được. Ta sẽ xin Quốc công tiết chế cho phép nàng đường đường chính chính tới xem. Quốc công là người trọng nhân tài, không phân biệt nam nữ. Ngài vẫn để Anh Nguyên quận chúa cầm quân ra trận, giao cho quận chúa trông nom tàu thuyền ra vào đầm Đào Động mà. Hẳn ngài sẽ đồng ý thôi.

- Nếu chàng đã nói vậy thì ta cũng không cần nữa. Ta sẽ tự có cách. - An Tư vùng vằng bỏ đi.

Nguyễn Khoái định đuổi theo nhưng lại thôi. Bây giờ An Tư đang nóng giận, chờ lúc nàng nguôi ngoai rồi chàng sẽ giải thích. Nhưng ngẫm lại chàng thấy An Tư hôm nay rất lạ. Người ta nói con gái sớm nắng chiều mưa là như vậy chăng?.

...

- Cậu ta còn không đuổi theo. Anh hùng qua ải mỹ nhân, quả là đáng khen. Hậu sinh khả úy. - Trần Khâm gật gù - Giao trọng trách chỉ huy quân Thánh Dực cho Nguyễn Khoái là không nhầm người rồi.

- Quan gia anh minh. - Hai vị tiền bối là Quang Khải và Quốc Tuấn nhìn nhau rồi đồng thanh đáp. "Hậu sinh khả úy", có phải Quan gia đang ám chỉ điều gì không?

Kịch hay đã hết, ba người lặng lẽ rời đi. Thiên hạ này có chỗ nào không phải của vua, chuyện Quan gia đến rồi đi đã có lệnh “không được thông báo” thì tất nhiên chẳng ai dám to gan khinh nhờn uy rồng mà trái lệnh.

Ghi chú:

[1] Thu Vật: Huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái ngày nay

[2] Bạch Hạc: Việt Trì ngày nay

[3] Đại Đô: Kinh đô nhà Nguyên. Nay là Bắc Kinh

[4] Trích Đại Việt sử ký toàn thư

[5] Quân quý hồ tinh, bất quý hồ đa: Số lượng ít nhưng phải tinh nhuệ
 
Hiệu chỉnh:
Chap nào của chị cũng rất hay. :KSV@12::KSV@12::KSV@12:(và còn có nhiều DuậtxAi nữa chứ )Chị cố gắng viết tiếp nhé nhé ~^o^~~^o^~~^o^~
nhưng : Dẻo đất ấy nhất định phải sáp nhập vào Đại Nguyên.
Hóa trang thành nước da bánh mật không những giúp che hết những vết thâm so sởi để lại mà còn khiến các đường nét tuyệt đẹp trên gương mặt An Tư càng sắc nét

Nghĩa là gì ạ ?
 
@Nobi Nobisuke deo dat nghia tuong duong voi manh dat, nhung dung tu deo the hien y khinh miet cua nha nguyen. Con tu so la do loi type, khi onl may tinh chi se sua lai
 
*Khụ* Lời đầu tiên, em xin lỗi chị a~ vì em không đọc nổi nửa chap của chị mà đã mạo muội comt thế này :KSV@18: Nghe danh fic chị đã lâu cơ mờ chưa có thời gian đọc chap, mới chỉ đọc sum thôi =)) Khi nào có thời gian em sẽ đọc sau nhé ;) Giờ em chỉ có một góp ý rất rất nhỏ trong một chap dài (chap 45), mà cũng không phải về nội dung mà là dùng từ. Xin lỗi chị lần nữa nhé, em chỉ lướt qua và thấy có gì đó sai sai nên mới vào comt. Thứ lỗi cho em nhá :D

Tình hình là chị đã viết "Bài thuốc trị thanh nhiệt táo thấp gồm..."
Em không có ý kiến gì về bài thuốc vì chắc chắn chị đã tra cứu rất kĩ rồi mới suy nghĩ để viết, em chỉ có ý kiến là từ "trị" hình như chị dùng không đúng. Thường thì người ta nói trị chứng mất ngủ, trị cảm mạo phong hàn..., tóm lại là trị bệnh nào đó. Còn "thanh nhiệt táo thấp" là phương pháp trị bệnh, cũng là tên 1 nhóm thuốc, ý là bệnh đó cần dùng phương pháp là "thanh nhiệt", dùng nhóm thuốc thanh nhiệt (thanh nhiệt có nhiều nhóm, cụ thể ở đây là thanh nhiệt táo thấp, ngoài ra còn có thanh nhiệt lương huyết, thanh nhiệt giải độc...).
Nên túm lại ý em là "trị" không dùng với "thanh nhiệt táo thấp", và chị bỏ chữ "trị" thành "Bài thuốc thanh nhiệt táo thấp gồm..." thì sẽ đúng hơn :KSV@09:

Lời cuối, chúc chị viết fic tốt, khi nào rảnh em sẽ cày từ sum trở đi :))
 
Chương 47: Họp bàn
Editor: @kidsherry18

Nhật Duật dẫn quân về đến Đông Bộ Đầu cũng là lúc mặt trời đã khuất núi. Khi chàng trở về vương phủ thì đã là nửa đêm. Nhìn thấy vương gia hồi phủ, người gia nhân gác cổng toan đi loan báo nhưng Nhật Duật đã đưa tay ngăn lại:

- Không cần thông báo.

Nhật Duật lắc đầu khi thấy ánh nến hắt ra từ phòng Haibara. Chàng khẽ gõ cửa nhưng không nghe thấy tiếng trả lời nên đẩy nhẹ cửa bước vào, cửa không khóa. Haibara đang ngủ gục trên chiếc bàn. Không biết làm gì mà lại ngủ quên cả ở trên bàn. Nhật Duật nhẹ nhàng bế Haibara về gi.ường, cẩn thận đắp chăn cho nàng. Chàng đặt tay lên trán nàng, thấy yên tâm vì trán không nóng. Nhật Duật cầm những tờ giấy vương vãi trên bàn lên xem. Chàng không thể hiểu nổi những hình vẽ, ký tự trên những tờ giấy này nghĩa là gì. Đã có lần chàng nhìn thấy chúng và hỏi Haibara nhưng nàng đã lảng tránh việc trả lời. Nhật Duật sắp xếp gọn lại những tờ giấy thành tập, để trên mặt bàn. Chàng ngồi xuống mép gi.ường, lặng nhìn Haibara say giấc. Đôi mày nàng hơi chau lại, dường như là ngủ không ngon. Không có gầy đi, sắc mặt hồng hào, xem ra thời gian qua vẫn sống tốt. Haibara trở mình khiến chăn bị lệch đi, một cánh tay lộ ra ngoài. Nhật Duật nhẹ nhàng cầm tay nàng đặt vào trong chăn rồi định đứng dậy rời đi thì lúc đó bất ngờ bàn tay nhỏ bé kia lại nắm chặt lấy cổ tay chàng. Trong căn phòng yên tĩnh, từng lời của Haibara trong cơn mơ, Nhật Duật đều nghe rõ ràng:

- Kudo-kun, itte imasen. Kare wa aruku koto ga dekimasendeshita (Kudo-kun, đừng đi. Cậu không thể đi được)

Bàn tay đang định rút lại của Nhật Duật khựng lại. Chưa bao giờ Haibara nắm tay chàng, chưa bao giờ nàng lại nắm chặt như lúc này vì nàng đang nhầm chàng với một người khác, một người đàn ông khác, người mà nàng đã thấy trong mơ. Kudo, phải chăng đây chính là tên của người đã cứu Haibara khi nàng định tự sát, là tên của người đã khuyên nàng:"Haibara đừng chạy trốn số phận. Nếu đó là số phận của cậu thì không thể chạy trốn được đâu."

Bàn tay đang nắm cổ tay Nhật Duật lỏng dần, chàng rút tay lại, giém chăn cho nàng cẩn thận rồi dứt khoát quay người rời đi, không quên thổi tắt nến vẫn đang cháy.

.

- Kudo ... Số phận ... đám trẻ ... Curacao...cá heo...cháy đen. Chết thảm...là...kết cục... - Haibara tiếp tục mê sảng - Chiêu Văn... có phải nếu Đại Việt thắng được Đại Nguyên ... thì có nghĩa là chỉ cần dũng cảm đối mặt... đối mặt là sẽ thắng được tổ chức ...

Haibara ngồi bật dậy. Nàng đưa tay đỡ trán. Thì ra là mơ. Một giấc mơ hỗn loạn. Nàng mơ thấy người phụ nữ có đôi mắt hai màu - cánh tay phải của Rum, nàng mơ thấy Kudo Shinichi, nàng mơ thấy đội thám tử nhí, nàng mơ thấy cuộc chiến với tổ chức ở vòng xoay khổng lồ. Cái cảm giác nguy hiểm rình rập, cái cảm giác lo sợ đã từng trải qua lặp lại trong mơ sao mà thật đến thế. Cái cảm giác độ ấm truyền đến lòng bàn tay khi nàng nắm lấy cổ tay Shinichi bảo rằng cậu ta đừng đi cứ như không phải trong mơ. Làn mưa đạn ác liệt, sự hy sinh của Curacao để cứu nàng cùng đám trẻ và tất cả mọi người ở thủy cung, biết là không thể quên nhưng nó còn ám ảnh vào trong những giấc ngủ, nhất là cái chết của Curacao. Nàng biết, biết rất rõ và đã chứng kiến những kết cục bi thảm của những người đối đầu với tổ chức. Nàng sợ hãi. Nàng nghĩ muốn bỏ trốn, vào khoảnh khắc ấy, trong giấc mơ của nàng xuất hiện một người, Nhật Duật, lời người ấy nói, hành động của người ấy làm, nàng đang chờ đợi, chờ đợi để xem trong một cuộc chiến không cân sức, kẻ yếu có thể chiến thắng không? Nàng mong chờ chiến thắng ấy như điểm tựa của một niềm tin.

Haibara định thần lại, nàng nhớ ra mình vốn ngủ quên trên mặt bàn cơ mà. Là ai đã bế nàng lên gi.ường, đắp chăn cho nàng, là ai đã giúp nàng sắp xếp lại giấy tờ trên bàn, là ai giúp nàng thổi tắt nến. Haibara vội xuống gi.ường, mở cửa nhìn ra ngoài. Nàng nghe tiếng bước chân quen thuộc đang xa dần, một bóng người vừa khuất sau khúc ngoặt của dãy hành lang. Là Nhật Duật phải không? Như một phản xạ, Haibara liền đuổi theo bóng người đó. Khi nàng chạy đến cổng phủ thì bóng người cưỡi ngựa đã ở phía cuối con đường. Ánh đèn lồng mờ ảo treo hai bên đường không thắng được màn đêm, nhưng nàng vẫn khẳng định người đó là Nhật Duật. Haibara thần người nhìn cho đến khi chàng đi khuất hẳn rồi nàng chợt giật mình, nàng đuổi theo để làm gì, nàng đứng đây trông theo để làm gì. Lắc đầu tự cười chính mình, Haibara quay về phòng, lúc đi vội quá, nàng còn quên đóng cửa. Có lẽ đêm nay lại là một đêm khó ngủ.

..................................................................................

Đông Bộ Đầu là một trong những bến sông quan trọng trên sông Lô, đây chính là cửa ngõ phía Đông của kinh thành Thăng Long. Bến sông vừa rộng rãi, vừa sát kinh thành nên ngày thường tấp nập thuyền bè qua lại. Nhưng từ đợt chuẩn bị cho tập trận vào mùa đông năm ngoái, triều đình đã ra lệnh giới nghiêm, phong tỏa bến Đông Bộ Đầu thành khu vực cấm quân sự, không phận sự thì không được phép ra vào, dân chúng đi lại bằng đường thủy thì rẽ thuyền ghe qua cập vào bến khác. Bờ Đông Bộ Đầu rộng mênh mông lại bằng phẳng, nơi đây thích hợp để duyệt cả bộ binh và thủy binh, dựng doanh trại để quân sĩ nghỉ ngơi trong đợt duyệt binh. Trên mặt sông, từng hàng, từng hàng chiến thuyền số lượng lên đến hàng ngàn chiếc, đủ các loại lớn nhỏ dàn hàng thành đội hình ngay ngắn quy củ. Chiến thuyền được chia thành Đại chiến thuyền để chở quân đổ bộ, Trung thuyền để giao chiến với thủy quân địch và Kinh thuyền phụ trách việc liên lạc. Chiến thuyền chủ yếu là thuyền Mông Đồng, thuyền Lưỡng Phúc có 25 chiến thủ, 23 tay chèo, loại thuyền này hẹp và dài, đuôi thuyền như cánh uyên ương, hai bên mạn thuyền cao, dùng để xông đánh thuyền giặc và vận tải. Ngoài ra còn có thuyền Châu Kiều, thuyền Đinh Sắt, thuyền Cổ Lâu,... Những loại thuyền nhỏ như độc mộc, thuyền thúng dùng để trinh thám, dụ địch, truyền tin. Thuyền chỉ huy nơi vua ngự là thuyền Kim Phượng.

Trên bờ, bộ binh dàn trận ngay hàng thẳng lối. Nhà Trần kế thừa nhà Lý, tổ chức quân đội cơ bản vẫn giống như nhà Lý - đội quân đã đánh Tống bình Chiêm.

Thân quân là quân đội chính quy. Thân quân gồm có Cấm vệ, quân Các lộ và quân của các Vương hầu giống như quân của Nhật Duật.

Nhiệm vụ của quân Cấm vệ là bảo vệ Quan gia và Thái thượng hoàng, triều đình ở kinh thành. Những người lính Cấm vệ còn sẵn sàng ra chiến trường chiến đấu bảo vệ giang sơn khi có chiến tranh. Không phải ai cũng có thể được trở thành lính Cấm vệ, họ là những thanh niên trai tráng phải trải qua đợt lựa chọn chặt chẽ và khắt khe. Bộ phận lính Cấm vệ gánh trọng trách bảo vệ sự an nguy của Quan gia và Thái thương hoàng cùng triều đình là những đinh tráng khỏe mạnh, giỏi võ nghệ, xuất thân là con em họ Trần ở lộ Thiên Trường, lộ Long Hưng, lộ Trường Khoái, lộ Trường Yên, lộ Kiến Xương. Lộ Thiên Trường là quê hương của hoàng tộc họ Trần. Lộ Long Hưng, lộ Trường Khoái, lộ Trường Yên, lộ Kiến Xương là những nơi đã góp công lớn với nhà Trần. Những người không đảm nhiệm trọng trách bảo vệ trực tiếp hoàng tộc của quân Cấm vệ được gọi là Du quân. Du quân canh gác vòng ngoài kinh thành, họ xuất thân là những thanh niên trai tráng khỏe mạnh ở các địa phương. Quân Cấm vệ được chia thành các quân và đô. Mỗi quân gồm 30 đô, mỗi đô gồm 80 người. Trong mỗi đô đều có các quan chức vị nhỏ theo dõi tình hình, phụ trách hậu cần. Đứng đầu mỗi đô là một chánh đại đội, còn chỉ huy mỗi quân là một võ tướng. Quân Cấm vệ chịu sự quản lãnh của Thượng thư sảnh, mà người đứng đầu Thượng thư sảnh là Đại hành khiển. Quân Cấm vệ rất dễ nhận biết bởi trên trán họ đều thích ba chữ "Thiên tử quân".

Thời nhà Lý không có quân Các lộ. Quân các lộ có nhiệm vụ bảo vệ địa phương. Triều đình chia cả nước làm 12 lộ, mỗi lộ có 1 quân và 20 đô phong đoàn để giữ gìn an ninh trật tự. Người đứng đầu quân ở mỗi lộ là một viên Tổng quản. Những nơi có vị trí chiến lược quan trọng như lộ Sơn Nam thì được cắt cử 4 quân, lộ Hải Đông cắt cử 2 quân.

Quốc Tuấn cưỡi voi quan sát đội hình, hài lòng gật đầu. Các vương hầu đã tề tựu đông đủ đem theo đội quân riêng của mình. Đội quân của mỗi vương hầu khoảng 1000 lính. Các vương hầu mặc khôi giáp, cưỡi ngựa đứng đầu đội quân của mình. Nhật Duật mắt không thấy, tai không nghe, mặc mọi người chỉ trỏ xì xào bán tán về cái đuôi của con ngựa yêu quý mà chàng đang cưỡi, nghĩ đến An Tư mà lòng giận sôi lên.

Bên cạnh bộ phận thường trực chính quy Thân quân là Sương quân. Sương quân có mặt ở kinh thành và 12 lộ, các phủ trong nước. Sương quân gồm các đô, mỗi đô lại bao gồm 10 ngũ, một ngũ có từ 5 đến 8 người lính. Những người lính Sương quân đảm nhiệm việc canh gác bên ngoài thành hoặc phục dịch. Họ được luân phiên đi lính rồi lại về nhà làm ruộng.

Từ khi lên nắm chính quyền, tổ chức lại quân đội, triều đình nhà Trần ban hành chính sách đăng ký đinh tráng cho tất cả thanh niên trai tráng. Đây là cách nhanh nhất để huy động lực lượng lính bổ sung cho quân đội khi chiến tranh nổ ra. Đinh tráng đăng ký gồm ba hạng, đó là: Thượng, trung, hạ. Những người thuộc dòng dõi họ Trần ở lộ Thiên Trường được xếp vào hạng thượng. Những người này được gọi bổ sung vào các đơn vị phiên hiệu Thiên, Thánh Thần của Cấm quân. Những đinh tránh ở hạng trung thì sung vào quân đội ở các lộ. Còn đinh tráng đăng ký hạng ba tham gia quân đội để làm phục dịch, chèo thuyền, khuân vác, hậu cần...

Không cần biết ai là lính Thân quân hay Sương quân, thuộc quân nào, đô nào, của lộ nào, dưới trướng vương hầu nào, làm nhiệm vụ gì, tất cả toàn quân đều phải học tập binh thư. Quốc Tuấn đã dốc tâm huyết soạn thảo Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để toàn quân học tập.

....................................................

Nguyễn Khoái đang ngồi trong trại lau kiếm thì lính canh bên ngoài vào bẩm báo rằng có Phiêu kỵ tướng quân là Chiêu Văn vương đến. Nhật Duật vén cửa trại bước vào. Nguyễn Khoái để kiếm xuống, đứng lên hành lễ. Nhật Duật phất tay.

- Không biết Chiêu Văn vương hạ cố có gì chỉ giáo? - Nguyễn Khoái chắp tay.

- Chỉ giáo gì chứ. - Nhật Duật cười cười - Chẳng qua ta đói bụng nên tìm sang chỗ Nguyễn tướng quân xem có còn bánh cốm không để ăn lót dạ ấy mà. - Vừa nói vừa thong thả ngồi xuống.

- Thần sơ suất quá. Mời vương gia uống trà, ăn bánh - Nguyễn Khoái dâng trà và bánh

Nhật Duật gật đầu, cầm bánh lên xem rồi chậm rãi bóc vỏ, đoạn nói:

- Cách gói bánh này, rồi mùi vị rất quen, giống như là ... - Nhật Duật vờ nhíu mày như đang cố nhớ gì đó - Giống như là bánh của em gái ta làm vậy. Nghe nói gần đây, quân Thánh Dực rất được công chúa chiếu cố. Thụy Bảo quả là có lòng.

Thấy Nhật Duật hiểu lầm, Nguyễn Khoái cũng không biết nên nói gì, chỉ đáp:

- Được công chúa quan tâm là phúc phận của quân Thánh Dực.

Nhật Duật gật gù rồi hỏi một câu rất liên quan:

- An Tư dạo này có khỏe không?

- Dạ bẩm, nàng vẫn khỏe - Nguyễn Khoái thuận miệng đáp. Đến lúc chàng giật mình nhận ra thì thấy Nhật Duật đang nhìn mình bằng ánh mắt rất khó tả, giống như là ánh mắt của người thợ săn khi thấy con mồi sa bẫy.

- Ai dà, xem kìa, ta lẩn thẩn rồi. - Nhật Duật đau khổ vỗ trán - Sao ta lại lẩm cẩm đi hỏi khanh chuyện này chứ. Khanh làm sao biết được. Khanh cũng thật là, dù là có ý tốt muốn ta yên tâm nhưng cũng không nên đáp chuyện mình không biết chứ.

- Thần...thần... - Nguyễn Khoái không biết đáp sao.

Lúc này chàng mới thấm thía lời An Tư nói:"Chiêu Văn vương nhã nhặn, độ lượng chỉ là vẻ ngoài thôi."

May sao lúc ấy tiếng trống triệu tập vang lên đã cứu Nguyễn Khoái thoát khỏi "nanh vuốt" của Nhật Duật. Nguyễn Khoái lập tức đánh trống lảng:

- Lệnh triệu tập. Chẳng hay vương gia có biết vì sao lại có lệnh triệu tập vào giờ này không?

- Có lẽ Quan gia và Thái thượng hoàng di giá ra ngự ở điện Phong Thủy để xem duyệt binh. Nghe nói có cả hậu cung đi cùng để phát quân phục. Biết đâu lại có An Tư. Đã lâu ta không gặp con bé, để xem nó có vẫn khỏe như lời khanh nói không. - Nhật Duật liếc Nguyễn Khoái đầy hàm ý, cười nói rồi ung dung chắp hai tay sau lưng rời đi.

...........................

Trống lệnh triệu tập vang lên, toàn quân nhanh chóng vào đội hình ngay ngắn. Quan gia và Thái thượng hoàng đích thân đến xem tập trận và khích lệ tinh thần quân sĩ. Đi cùng có Bảo Thánh hoàng hậu, hoàng hậu đem quân phục do các cung nhân nuôi tằm dệt vải và may vá đến để phát cho tất cả các binh sĩ. Từng xe, từng xe quân phục được trở đến thao trường. Hoàng hậu tự tay cầm binh phục trao cho quân sĩ. Đi cùng hoàng hậu tự tay trao quân phục là Thái thượng hoàng hậu Thiên Cảm, Thiên Thành công chúa - vương phi của Hưng Đạo vương, An Tư công chúa, Thụy Bảo công chúa, cùng các vương phi, công chúa, quận chúa khác.

Quân phục được cung nhân may, lại được trao tận tay bởi những người phụ nữ hoàng tộc tôn quý nhất, ba quân sao có thể không cảm động được.

An Tư trao quân phục cho Nguyễn Khoái. Giữa mấy vạn người ở thao trường nhưng không khó để nàng nhìn thấy chàng. Nàng mỉm cười dịu dàng, ánh mắt hai người nhìn nhau chan chứa ánh tình, thay vạn lời muốn nói. Nàng đã hết giận rồi.

- Đa tạ công chúa - Nguyễn Khoái nhận quân phục, đoạn nói.

Cảnh tình chàng ý thiếp nồng thắm kia không lọt khỏi mắt Nhật Duật, thế nên khi An Tư trao quân phục cho Nhật Duật, chàng liền nhỏ giọng trêu:

- Trước giờ không nhận ra hoàng muội cũng có lúc dịu dàng nhu mì như khi trao quân phục cho Nguyễn Khoái.

An Tư không khách khí thô bạo dúi quân phục vào tay Nhật Duật đồng thời quẳng cho chàng một cái lườm sắc hơn dao cau. Khi nàng trao quân phục cho hàng quân lính phía sau, nét hung dữ trên gương mặt hoàn toàn biến mất, thay vào đó là một gương mặt tươi tắn, trên môi là một nụ cười mỉm đoan trang cao quý chuẩn mực của một công chúa, ánh mắt bình lặng. Nhật Duật thầm lắc đầu thở dài, không biết em gái chàng nó giống ai mà trở mặt như trở bàn tay.

Quân phục trao xong, Bảo Thánh hoàng hậu nói vài lời khích lệ động viên tinh thần quân sĩ rồi dẫn theo các vương phi, công chúa ra về. Trên đường về, Bảo Thánh lệnh cho xe ngựa rẽ qua Giảng võ đường để gặp gỡ đội nữ binh. Thiên Thành công chúa và An Tư theo hầu hoàng hậu, còn những người khác thì trở về hoàng cung và vương phủ trước.

- An Tư, tình hình đội nữ binh như thế nào? - Bảo Thánh hoàng hậu hỏi An Tư.

- Tâu hoàng hậu, rất tốt. - An Tư đáp - Họ luôn trong tinh thần sẵn sàng chiến đấu, đều là những người tinh nhuệ, trung thành.

Bảo Thánh gật đầu:

- Khanh đảm đương luôn khiến bổn cung yên tâm. Hôm nay, ta cũng muốn xem đội nữ binh tập trận như thế nào.

.

- Hoàng hậu thiên tuế. Hưng Đạo vương phi thiên tuế. An Tư công chúa thiên tuế. - Những người nữ binh quỳ xuống hành lễ. Được hoàng hậu đích thân đến thăm là vinh hạnh của họ.

- Chúng khanh hãy bình thân - Bảo Thánh lên tiếng.

Tiếng trống nổi lên, vị nữ tướng đứng đầu đội nữ binh dõng dạc hô:

- Dàn trận. Một, hai, ba...

Động tác đều mạnh mẽ, dứt khoát tăm tắp, trăm người như một.

- Mẫu thân, người thấy thế nào? - Bảo Thánh cung kính hỏi ý kiến của Thiên Thành.

Thiên Thành mỉm cười hài lòng:

- Phối hợp dàn trận rất tốt. Thần không có gì phải góp ý thêm. Chỉ là không biết kỹ năng chiến đấu độc lập của họ như thế nào.

- Vậy để thần thử họ. Quả là thần thiếu xót khi chưa sát sao quan tâm đến khía cạnh này. - An Tư nói.

- Không, để ta. - Bảo Thánh đưa tay ngăn An Tư lại, đoạn hoàng hậu cởi áo choàng đưa cho nô tỳ theo hầu, rồi ung dung đến giá để binh khí, nàng chọn trường đao. - Mang ngựa lại đây cho bổn cung! - Bảo Thánh ra lệnh.

Bảo Thánh cầm trường đao phi thân lên lưng ngựa:

- Ai dám giao đấu cùng ta?

Trong quân dậy lên tiếng xì xào, đích thân hoàng hậu muốn khảo nghiệm võ nghệ của họ. Các nữ binh có vẻ hưng phấn nhưng chưa ai dám đứng ra. Hoàng hậu xuất thân là con nhà võ tướng. Cha nàng là Quốc công tiết chế Hưng Đạo vương. Hoàng hậu được người người ca ngợi là người thông minh sáng suốt, nhu mì hiền thục, nhân hậu, tri thư đạt lễ. Nhưng khi nàng cưỡi ngựa cầm trường đao, không hổ danh là con nhà võ tướng, toàn thân toát lên vẻ hiên ngang anh khí uy dũng.

- Sao? Các người không ai dám bước ra sao?

- Phượng thể hoàng hậu đáng giá ngàn vàng. Chúng thần không dám. - Nữ tướng đứng đầu đội nữ binh thưa.

- Cái đó thì phải xem các ngươi có bản lĩnh đả thương hoàng hậu không thì hẵng nói! - An Tư nói - Vậy để An Tư ta giao đấu cùng hoàng hậu trước rồi đến lượt các ngươi.

An Tư đến giá binh khí chọn vũ khí là kiếm. Vị nữ tướng kia sai người dắt ngựa đến cho An Tư. Nàng nhẹ nhàng tung mình lên lưng ngựa. Tuy An Tư ngày ngày đến Giảng võ đường giám sát đội nữ binh tập luyện nhưng họ chưa bao giờ thấy nàng thi triển võ nghệ. Hôm nay là lần đầu tiên. Hoàng hậu là con nhà võ, ba tuổi đã theo cha cùng các anh luyện võ nên không có gì lạ, nhưng không ngờ một công chúa từ nhỏ sinh ra trong cung vàng điện ngọc như An Tư, được nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa cũng tài giỏi như vậy.

Hai con ngựa không chút kiêng dè lao vào nhau, tiếng binh khí va chạm. Giao chiến trên lưng ngựa, dùng kiếm không phải là lợi thế, trong khi dùng trường đao lại phát huy được hết uy lực của nó. Bảo Thánh nhanh chóng chiếm thế thượng phong. Một đao lại xé gió chém tới, dùng kiếm không thể đỡ nổi, An Tư muốn tránh chỉ có cách nhảy xuống khỏi lưng ngựa. Mà một khi nhảy khỏi lưng ngựa thì đương nhiên rơi vào thế yếu, khó có thể trở mình. Bảo Thánh ở trên ngựa nhìn xuống An Tư phía dưới hỏi:

- An Tư, khanh chịu thua chưa?

- Đầu thần chưa rơi xuống đất thì chưa chịu thua! - An Tư cười đáp.

- Được. Vậy thì chúng ta đấu tiếp. - Bảo Thánh thúc ngựa phi tới, trường đao vung lên. Từ sau khi làm hoàng hậu, nàng đã lâu lắm rồi không cưỡi ngựa, không cầm đao thương. Hôm nay cảm giác như trở lại thời thiếu nữ theo cha và anh ra chiến trường, đi săn.

An Tư không hề nao núng, sợi xà tích đã cầm sẵn trên tay. Mặc con ngựa đang uy dũng lao tới, An Tư bình tĩnh nghiêng người trượt trên mặt đất, sợi dây tung lên bay vút đi khiến con ngựa hoảng sợ. Sợi xà tích quấn chặt lấy cổ ngựa, nàng lập tức bật dậy, tay kéo mạnh sợi xà tích, một chân đứng vững làm trụ, một tay dẫm chân lên sợi dây kéo con ngựa ngã xuống đất. Bảo Thánh tung người nhảy khỏi lưng ngựa, đáp xuống vững vàng trên mặt đất. Hai người tiếp tục giao chiến cho đến khi vũ khí kề vào tử huyệt của đối phương mới ngừng lại.

An Tư thu kiếm, chắp tay thưa:

- Thần mạo phạm rồi. Xin hoàng hậu thứ tội.

- Miễn lễ. - Bảo Thánh phất tay rồi quay về phía các quân sĩ - Tiếp theo là ai?

Màn giao đấu của hoàng hậu và công chúa khiến các nữ binh kinh ngạc, cả hai đều võ nghệ tài giỏi, có thể sánh ngang với đấng nam nhi, vượt xa những kẻ mày râu tầm thường. Họ là những người mà các nàng cần phải bảo vệ sao? Người mà mình cần bảo vệ, võ nghệ còn tài giỏi hơn mình chẳng phải là điều đáng hổ thẹn với các nữ binh sao? Một cách này của Bảo Thánh đã khích lệ tinh thần học hỏi, hăng say rèn luyện của đội nữ binh.

..........................................

Haibara chọn một bàn trong góc quán trà ở gần cổng thành rồi gọi một bát nước nhân trần. Cuộc duyệt binh đã kết thúc. Các vương hầu lẫn lượt dẫn quân về đất phong của mình hoặc đến nơi đóng quân đã được bố trí. Haibara vừa nhìn từng đoàn người ngựa rời khỏi kinh thành vừa nghe ngóng tin tức thế sự.

- Đây là đoàn quân cuối cùng rồi đấy! - Một người nói.

- Là quân của ai vậy?

- Nhìn cờ hiệu, có lẽ là quân của đức ông Chiêu Văn.

Chiêu Văn. Haibara nhìn ra bên ngoài. Trong những người mặc khôi giáp cưỡi ngựa dẫn đầu đoàn quân, Haibara không nhìn thấy bóng dáng quen thuộc. Nhật Duật không đích thân dẫn quân về thái ấp sao? Nghĩa là anh ta vẫn còn ở kinh thành. Đoàn quân cuối cùng ra khỏi thành, quán trà dần vãn người. Haibara cũng đứng dậy tính tiền rồi ra về, nhìn sắc trời cũng không còn sớm.

.....

- Tổng quản, đức ông hồi phủ. - Người gia nhân gác phủ thấy Nhật Duật về vội đến báo cáo với tổng quản.

- Vậy hả. Đức ông đang ở đâu?

- Dạ, ngài đang đợi tổng quản ở thư phòng ạ.

.

-Tiểu tỳ mời đức ông dùng trà. - Một người tỳ nữ đến dâng trà, nàng đặt ấm trà lên bàn. - Bẩm đức ông, thư đồng đi ra ngoài chưa về, hay để tiểu tỳ dọn dẹp thư phòng thay cho cô bé ấy.

- Vậy à? - Nhật Duật rời mắt khỏi đống văn thư gửi đến phủ trong thời gian chàng đi vắng, ngẩng lên hỏi - Thôi không cần, ngươi cứ lui đi. Lúc nào thấy thư đồng của ta về thì bảo đến gặp ta.

- Vâng - Người tỳ nữ thi lễ rồi rời đi.

Người tỳ nữ vừa đi thì vị tổng quản đến. Nhật Duật cùng với tổng quản bàn công vụ xong vẫn chưa thấy Haibara quay về. Nàng tỳ nữ dâng trà có quay lại nhưng người dẫn theo không phải là Haibara mà là vị công công truyền khẩu dụ từ Long Phượng thành tới. Vị công công truyền lời của Quan gia triệu Nhật Duật vào cung có việc gấp. Nhật Duật không dám chậm trễ liền sửa soạn y phục rồi lên kiệu vào cung.

.

Haibara vừa về đến cổng phủ thì người gác cổng trông thấy liền bảo:

- Em đi đâu về vậy? Đức ông hồi phủ cho tìm em nhưng em không có trong phủ.

- Vậy hả anh? - Haibara đáp - Anh có biết đức ông đang ở đâu không ạ? Để em đến diện kiến.

- Đức ông vừa được người trong cung triệu đi rồi. - Người gác cổng nói.

- Vâng, em biết rồi. Em cảm ơn ạ. - Haibara nói cho phải phép rồi đi vào phủ.

Nàng không về phòng mình mà đến thư phòng của Nhật Duật. Đồ đạc sách vở trong phòng Nhật Duật phần lớn đã chuyển đi. Không người, ít vật, Haibara chợt cảm thấy hiu vắng. Nhìn ấm trà mới pha để trên bàn, nàng biết Nhật Duật rời đi chưa lâu. Thật sự bận như vậy sao? Có lẽ đến lúc chàng trở về thì ấm trà cũng đã nguội nên Haibara thu dọn trà rồi rời khỏi thư phòng và đóng cửa lại. Không thấy Nhật Duật trong đoàn quân trở về thái ấp, quả nhiên nàng đoán đúng, chàng vẫn còn ở lại kinh thành.

..................

Khi Nhật Duật đến điện Long An thì ngoài Thái Thượng hoàng và Quan gia ra, Quốc Tuấn, Quang Khải, Ích Tắc, Bình Trọng, Nguyễn Khoái, Chiêu Thành cùng các quan cũng có mặt ở đó.

Thấy tất cả đều tề tựu đông đủ, Trần Khâm lên tiếng:

- Các ái khanh, trẫm triệu các khanh vào cung là có chuyện quan trọng muốn nghe ý kiến của các khanh. Hiện nay, hoàng tử thứ 9 của Hốt Tất Liệt là Thoát Hoan đã đem 50 vạn quân đóng ở Ngạc Châu thuộc hành tỉnh Kinh Hồ. Thoát Hoan đóng quân ở đó theo lệnh của Hốt Tất Liệt là chuẩn bị tấn công Chiêm Thành. Hắn sai sứ thần sang nước ta. Sáng nay, sứ thần nhà Nguyên đã vào chầu. Nhà Nguyên muốn Đại Việt cho mượn đường để hành quân đánh Chiêm Thành. Đối với việc này, các khanh nghĩ sao? Nên thuận hay không?

Chiêu Minh vương Quang Khải là người đưa ý kiến đầu tiên:

- Tâu Quan gia, tâu Thái thượng hoàng, năm Thiệu Bảo thứ năm (1283), Hốt Tất Liệt đã tiến hàng sát nhập hành tỉnh Kinh Hồ của nhà Nguyễn và Chiêm Thành làm một. Những vùng đất mà quân Thát đã chiếm được của Chiêm Thành đã được chúng xây dựng thành căn cứ quân sự phía Nam, mục để có thể dễ dàng nhìn ra là tiến đánh nước ta. Mượn đường chỉ là cái cớ. Chúng muốn đẩy triều đình vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu nhận lời thì khi quân Nguyên tràn vào lãnh thổ Đại Việt chiếm cứ, đóng quân, không chịu rời đi, rồi cố tình gây hấn để có cớ đánh chiếm, Đại Việt sẽ như cá nằm trên thớt. Nếu không nhận lời thì Nguyên triều sẽ viện lý do Đại Việt chống đối mà cất quân thảo phạt để trừng trị. Lựa chọn như thế nào cũng không thể tránh được cuộc chiến này, theo thần nếu đã như vậy thì thẳng thừng từ chối Nguyên triều về việc cho mượn đường. Như vậy trong việc đối phó với quân Thát, quân ta sẽ chủ động hơn so với việc cho chúng mượn đường.

Lời Quang Khải vừa nói ra các quan đều đồng tình cho là phải. Những lời mà hoàng huynh Chiêu Minh đã tâu cũng chính là những suy nghĩ của Nhật Duật. Nhưng chín người mười ý, không phải ai cũng tán thành quan điểm này.

- Tâu Quan gia, tâu Thái thượng hoàng, trong chuyện này việc mượn đường, các vị anh minh sáng suốt ở đây đều hiểu là một cái cớ để Nguyên triều cất quân xâm lược nước ta. Vậy tại sao ta đã biết rõ mà lại còn mắc bẫy của chúng? Theo ngu ý của thần, chi bằng cứ thuận theo, cho nhà Nguyên mượn đường. Như vậy chúng sẽ không còn cớ để gây hấn nữa, phát động chiến tranh nữa, tránh cho bách tính rơi vào cảnh binh đao nước sôi lửa bỏng. Quân Nguyên thiện chiến, quanh năm suốt tháng đều chinh chiến đã quen. Nhưng quân ta thì lại khác. Hai mươi năm yên bình không chiến tranh, tuy rằng quân sĩ vẫn ngày ngày thao luyện nhưng tập trận khác với đánh trận. Nếu giao chiến thì Đại Việt sẽ nắm được bao nhiêu phần thắng. Nếu thua thì Đại Việt sẽ giống như số phận của Chiếm Thành, bị sát nhập vào hành tỉnh Kinh Hồ. Nếu thắng thì thiệt hại do chiến tranh để lại cũng khỏi phải bàn cãi, công sức gây dựng đất nước hơn 20 năm qua vì một cuộc chiến sẽ đổ xuống sông xuống bể. - Ích Tắc nói.

Từ ngày biết Ích Tắc từng đưa thư ở Vân Đồn xin quân Nguyên xuống Nam, Nhật Duật đã không đồng tình với quan điểm của Ích Tắc. Hôm nay, nghe người anh này nói xong, chàng càng không cho là phải. Nhưng Nhật Duật không có phản đối ngay mà chỉ mỉm cười ung dung hỏi:

- Vậy nếu lựa chọn đồng ý cho nhà Nguyên mượn đường qua nước ta tiến đánh Chiêm Thành, thì về việc 50 vạn quân Nguyên ở trên lãnh thổ nước ta, không biết Chiêu Quốc vương có cao kiến, kế sách gì về việc này, xin đưa ra để thọ giáo?

- Chỉ là cho họ mượn đường hành quân thì cần gì phải có kế sách. 50 vạn quân này nhà Nguyên chuẩn bị là để đánh Chiêm Thành. Hiện quân của Toa Đô thất thủ do thiếu lương thực khiến hắn phải kéo về phía Bắc Chiêm Thành dựng đồn điền để sản xuất lương thực. 50 vạn quân này là viện binh nhà Nguyên tiếp tế cho Toa Đô đánh Chiêm. Nhưng nếu ta từ chối việc cho nhà Nguyên mượn đường thì 50 vạn quân này sẽ là để xâm lược Đại Việt. - Ích Tắc cười khẩy đáp

Nhật Duật nghe câu trả lời của Ích Tắc xong thấy thật mỉa mai. Nhưng chàng không nói gì ngay lúc này để tránh quan hệ giữa chàng và Ích Tắc thêm căng thẳng.

- Tâu Quan gia, tâu Thái thượng hoàng, không thể khẳng định chắc chắn nhà Nguyên chỉ đơn thuần muốn mượn đường đi đánh Chiêm thôi hay là muốn nhân cơ hội hoặc kiếm cớ xâm lược nước ta nhưng dù động cơ của chúng là gì cũng không thể cho mượn đường. - Bình Trọng nghe không lọt tai những lời của Ích Tắc liền bẩm.

Nguyễn Khoái lên tiếng:

- Tâu Quan gia, tâu Thái thượng hoàng, dã tâm xâm lược Đại Việt của Nguyên triều rất rõ ràng. Nhưng thời cơ chưa tới nên trong hai mươi năm qua chúng chưa động binh. Một khi chúng đã quyết định động binh và chỉ còn thiếu một cái cớ để sách động chiến tranh thì dù không cho chúng mượn đường thì cũng có vô vàn những cái cớ khác, kể cả vô lý. Vì vậy theo thần không thể đồng ý cho mượn đường. Nếu đồng ý cho mượn đường thì không có gì đảm bảo rằng chúng không được đằng chân lân đằng đầu, ngày càng đưa ra những yêu sách vô lý khác buộc ta phải từ chối thì khi đó 50 mươi vạn quân như hổ rình mồi kia đã có cớ để từ "mượn đường" sang chiếm đất.

Trần Khâm nhíu mày trầm ngâm rồi hỏi Nhật Duật:

- Chiêu Văn vương, năm ngoái khanh đi tuần phía Nam về, đã nắm rõ tình hình mặt trận tại Chiêm Thành. Về việc này khanh có ý kiến gì không?

Nhật Duật ôn tồn đáp:

- Bẩm Quan gia, năm Thiệu Bảo thứ năm (1283), nhà Nguyên yêu sách bắt Đại Việt phải cung cấp binh lương cho chúng để chinh phạt Chiêm Thành và Quan gia đã từ chối vì nước ta lực yếu sức kém không thể cung cấp binh lương được. Không những từ chối yêu cầu của chúng mà Đại Việt ta còn cử 2 vạn binh và 500 chiến thuyền sang chi viện cho Chiêm Thành, nhưng chúng cũng đâu có lấy đó là cớ để cất quân xâm lược. Vậy nên lần này tiếp tục từ chối yêu cầu của Nhà Nguyên, chúng cũng chưa chắc đã khởi binh. Còn nếu nhà Nguyên vì chuyện này mà khởi binh thì triều đình từ lâu cũng đã xác định được điều này và chuẩn bị tất cả mọi thứ cho cuộc chiến không thể tránh khỏi này. Căn cứ tình hình ở Chiêm Thành thì việc cho nhà Nguyên mượn đường vào lúc này vô cùng nguy hiểm, sẽ đẩy Đại Việt bị kẹp vào thế gọng kìm, cả Bắc lẫn Nam đều là địch. Đồn điền của Toa Đô xây dựng kia có thể là căn cứ để duy trì cuộc chiến tại Chiêm nhưng nó cũng là căn cứ để quân Nguyên làm bàn đạp tấn công lên Đại Việt từ phía Nam. Cuộc chiến tại Chiêm Thành đã gây cho đoàn quân của Toa Đô nói riêng và nhà Nguyên nói chung tốn nhiều thời gian và chịu nhiều tổn thất, nhưng đến nay không thấy dấu hiệu chúng định bỏ cuộc, vì vậy có thể nhà Nguyên sẽ thay đổi chiến thuật: Tiến hành chinh phạt Đại Việt, một mũi tên trúng hai mục đích, vừa thôn tính nước ta như tham vọng bấy lâu của chúng, vừa cải thiện tình hình chiến sự tại Chiêm Thành. Hiện nay việc vận chuyển binh lương cho cuộc chiến tại Chiêm Thành là bằng đường biển, việc vận chuyển này mệt nhọc, vừa dễ bị mai phục, lại hay gặp bão. Đó cũng là lí do mà năm ngoái chúng yêu cầu ta cung cấp lương. Yêu cầu không được thì nay dã tâm của chúng là muốn biến Đại Việt thành căn cứ đánh Chiêm, đóng quân ở Đại Việt để tránh đường xá xa xôi, cướp lương của Đại Việt để nuôi quân đánh Chiêm, như vậy việc thôn tính Chiêm Thành sẽ trở nên dễ dàng. Ngoài ra, nếu ta đồng ý cho nhà Nguyên mượn đường thì đối với Chiêm Thành đây là một sự phản bội, nó sẽ phá vỡ quan hệ hợp tác giữa hai nước, phá vỡ sự đoàn kết rất cần thiết vào thời thế này để chống kẻ thù chung. Vì vậy không thể cho chúng mượn đường.

Trần Khâm chăm chú lắng nghe những điều Nhật Duật nói, đều thấy hợp tình hợp lý. Ích Tắc nhận ra sự đồng tình của Quan gia nên liền lên tiếng có ý phản đối:

- Chiêu Văn vương nói rằng việc nhận lời nhà Nguyên cho mượn đường là sự phản bội Chiêm Thành có điểm không đúng rồi. Trong chính trị, không có kẻ thù cũng không có đồng minh mãi mãi, mà chỉ có lợi ích là vĩnh viễn. Nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử, từ sau khi Tiền Ngô vương giành lại được độc lập cho dân tộc, chiến tranh giữa Đại Việt và Chiêm Thành vẫn luôn xảy ra liên miên: Năm Nhâm Ngọ Thiên Phúc thứ 3 (982) thời vua Lê Đại Hành, năm Kỷ Dậu Thiên Huống Bảo Tượng thứ 2 (1069) thời Lý Thánh Tông, năm Ất Mão Thái Ninh năm thứ 4 (1075) thời vua Lý Nhân Tông và vô số những xung đột nhỏ khác. Từ đó nhận định Chiêm Thành là kẻ thù truyền kiếp của Đại Việt ta cũng không sai. Vậy thì sao? Chẳng phải bây giờ Đại Việt còn chi viện binh giúp đỡ Chiêm Thành đó sao. Ta giúp Chiêm Thành vì lợi ích của mình, ta "phản bội" ... - Ích Tắc nhấn mạnh - Chiêm Thành vì lợi ích của mình thì có gì khác nhau. Ngoài ra, ta không trở mặt với Chiêm Thành cũng không có gì đảm bảo rằng Chiêm Thành không vì nhìn thấy lợi ích khác mà trở mặt với Đại Việt. Đại Nguyên hay Chiêm Thành suy cho cùng đều là kẻ thù, nhưng thời thế thế thời nếu phải lựa chọn hợp tác thì sao lại không lựa chọn cây cao bóng cả?

Nguyễn Khoái nghe những gì Ích Tắc nói liền muốn phản đối nhưng chàng nhẫn xuống và giữ im lặng, bởi vì dù rất kín đáo nhưng chàng nhận ra Chiêu Văn vương khẽ nhíu mày hơi lắc đầu, nhìn thoáng quá tưởng như ngài ấy chỉ đang thổi trà cho nguội bớt để uống nhưng chàng nhận ra Chiêu Văn vương đang khuyên chàng không nên lên tiếng.

- Tâu Quan gia, tâu Thái thượng hoàng, thần thấy những gì Chiêu Quốc vương phân tích đều thấu tình đạt lý, đối với đề nghị mượn đường phạt Chiêm của Nhà Nguyên nên thuận - Thị lang Lê Tắc chắp tay tâu.

Trần Khâm quay sang Quốc Tuấn, người vẫn ngồi im lặng nãy giờ chưa hề lên tiếng, đoạn hỏi:

- Quốc công Tiết chế, theo ý khanh thì việc này nên định như thế nào?

Nhật Duật đánh mắt sang phía Nguyễn Khoái. Dụng ý của Nhật Duật, chàng hiểu rồi.

Quốc Tuấn đáp:

- Tâu Quan gia, theo ngu kiến của thần thì về chủ trương cuối cùng kiên quyết không đồng ý yêu sách của nhà Nguyên. Lý do tại sao thì Thượng tướng Thái sư và Chiêu Văn vương đã nói rất rõ ràng rồi, thần không có gì cần nói thêm. Còn về đối sách trả lời sứ giả do Thoát Hoan cử sang thì trước mắt cần phải dùng kế hoãn binh kéo dài thời gian để quân đội ta có được sự chuẩn bị tốt nhất.

Trần Khâm hài lòng gật đầu:

- Lời khanh nói rất hợp ý trẫm. Trẫm sẽ yêu cầu sứ giả của Thoát Hoan về trước để suy nghĩ về đề nghị của "thiên triều", khi có câu trả lời sẽ cử sứ giả sang hồi đáp. Trọng trách đi sứ sang tỉnh Kinh Hồ xin hoãn binh với Thoát Hoan, ai dám đứng ra đảm đương?

Trung đại phu Trần Phủ bước lên phía trước, đoạn quỳ xuống cung kính thưa:

- Bẩm Quan gia, thần tuy tài hèn sức mọn nhưng xin cố gắng hết sức để hoàn thành nhiệm vụ này?

- Trẫm chuẩn tấu Trần Phủ làm sứ giả sang tỉnh Kinh Hồ. - Trần Khâm phất tay.

Trần Hoảng trầm ngâm từ đầu cho đến giờ mới mở miệng vàng:

- Việc cho nhà Nguyên mượn đường hay không lần này đồng nghĩa với việc Đại Việt đối với nhà Nguyên là đánh hay hòa. Quốc công, khanh nắm trọng trách thống lĩnh quân đội toàn quốc, theo khanh với tương quan lực lượng như vậy thì nếu đánh sẽ mất bao lâu để thắng 50 vạn quân Nguyên?

- Tâu Thái thượng hoàng, quân Nguyên có 50 vạn nhưng Đại Việt thì toàn quốc vi binh. Từ những đứa trẻ thơ cho đến các bô lão, từ những người đàn bà chân yếu tay mềm đến những thanh niên trai tráng sức dài vai rộng, từ những người lính mặc giáp chinh chiến sa trường đến những người nông dân áo vải cầm quốc nơi ruộng đồng, mỗi người đều là một binh sĩ, mỗi một ngôi làng là một tòa thành, há lại phải e ngại không thể thắng được 50 vạn quân? - Quốc Tuấn rành mạch đáp.

- Khanh nói đúng. - Trần Hoảng vuốt râu gật đầu - Toàn quốc vi binh. Chính là vậy. Sức mạnh to lớn nhất mà ta có là lòng dân muôn người như một. Ý dân chính là ý ta. Ta sẽ triệu các bô lão trên cả nước về kinh để hỏi kế đánh giặc. Kính lão đắc thọ, các bô lão chính là đại diện cho các thế hệ trong dân chúng, lại là những người từng trải, kinh qua sóng gió, gừng càng già càng cay. Lời của họ là những lời đáng giá cần nghe.
 
Em cảm ơn chị rất nhiều ^^ :) :x ? <3 <3 <3 ;)
đọc đến đoạn này em rất xúc động với các tình tiết trong truyện, e thấy nhà Trần rất tôn trọng và coi trọng vị trí của nd trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Thấy được sự đoàn kết, đồng lòng trước sau như một của nd với triều đình nhà Trần thời đó. Em cảm thấy yêu và tự hào về lịch sử nước m khi đọc truyện này.
Tuy biết kết quả của cuộc chiến tranh này, nhưng e vẫn rất mong đợi điễn biến của nó.
Cảm ơn chị đã dành tâm huyết cho nó.
Đọc truyện này e luôn có mong ước chuyển thể nó trở thành một bộ phim hay là một cuốn truyện tranh. Chắc chắn nó sẽ rất hay... :) :) :) :* :* :* ;) ;) ;) .
:KSV@03: :KSV@03:
 
1476775148191.jpg
trong lúc ngứa tay em vẽ bức này. cái miệng và má có vấn đề .
À không bức tranh có vấn đề hết thì phải.
 
Chương 48: Hội nghị Diên Hồng

Khi cuộc họp bàn kết thúc, người người ra về, Nguyễn Khoái rời khỏi điện Long An thì có thái giám đứng đợi chàng truyền lời rằng An Tư công chúa có việc cần gặp, công chúa đang đợi ở ngự hoa viên.

.

Dưới mái lương đình, có bóng người con gái mảnh mai mặc áo màu đỏ đang gảy tỳ bà. Chỉ vừa nhìn Nguyễn Khoái đã nhận ra An Tư. Tiếng đàn thánh thót say lòng người. Hình ảnh người thiếu nữ tuyệt sắc ngồi gảy tỳ bà bất giác khiến chàng nghĩ tới mỹ nhân lạc nhạn - nàng Vương Chiêu Quân cống Hồ mà trong lòng vô cớ dậy lên nỗi bất an. Nhất là khi chàng nghe lời ca thê lương mà An Tư hát. Lời ca kể lại chuyện đời của chính người con gái hồng nhan bạc mệnh mà chàng vừa nghĩ đến:

"Đêm thổn thức mây mờ lạnh lẽo

Tường cao cung sâu, trăng sáng trong

Đàn đứt dây, mắt nhòa lệ

Nơi gác ngọc quạnh vắng, gót sen cô đơn

Nỗi bơ vơ cất vang nơi cung Hán

Cố ngăn những giọt lệ nhuốm sầu chia ly

Đường xa ngàn dặm rời Trường An

Trông về cố hương chìm trong sương trắng

Chiều đông giá buốt, lòng khắc khoải không nguôi

Gió thổi thê lương, đại mạc hoang vắng

Kiếp má hồng sao lắm truân chuyên?

Gió quyện cát bụi mù mịt

Mang thương nhớ bay về cố hương

Tiếng tỳ bà ngân đượm sầu, tỏ lòng Vương Tường [2]

Bóng dáng ngày xưa ấy biết tìm nơi đâu



Xa trông tưởng cờ quân Hán còn phất phới

Xưa nay chiến trường đi dễ khó về

Đêm đêm văng vẳng tiếng tỳ bà ai oán

Thân em lưu lạc xứ người như tấm lụa đào

Ngóng trông nhạn Bắc bay về phương Nam

Vạn dặm giang sơn nặng nghìn cân

Phận quần thoa nhẫn nhục hy sinh

Hoa cười giữ yên sơn hà

Tiếng trống trận đã lặng, gươm đao phủ bụi sáu mươi năm

Nhưng tiếng thổn thức nơi lều chiên vọng ngàn năm ...."


- "Tay ôm tỳ bà che nửa mặt hoa." [1]

Nghe tiếng Nguyễn Khoái, An Tư quay lại, nàng đưa đàn cho cung nữ rồi ra hiệu cho nàng ta lui xuống.

- Thần tham kiến công chúa - Nguyễn Khoái hành lễ theo cung quy.

- Bình thân - An Tư nói - Sao hôm nay Nguyễn tướng quân lại có nhã hứng ngâm "Tỳ bà hành" của Bạch Cư Dị vậy? Khanh ngồi đi.

- Đạ tạ công chúa. Thần nghe tiếng đàn mà bất chợt nhớ đến câu thơ xưa thôi, cũng không phải nhã hứng gì. - Nguyễn Khoái đáp. - Công chúa cho triệu kiến thần, chẳng hay có gì chỉ giáo, thần xin chăm chú lắng nghe.

An Tư đưa mắt nhìn xung quanh thấy không có người ở gần, thị vệ thì đứng gác cách xa lương đình mới nói:

- Để xin lỗi chàng. Hôm đó ta đã giận dỗi vô cớ rồi bỏ đi là không đúng. Quân lệnh như sơn, ta không nên ngang ngược ép chàng giúp ta, không được đáp ứng thì giận dỗi. Chàng có giận ta không?

- Công chúa đang thật lòng muốn làm hòa với thần hay là lại đang tiếp tục thử thần? - Nguyễn Khoái cười.

An Tư không ngạc nhiên cũng chẳng giận dữ khi nghe Nguyễn Khoái nói vậy, nàng đưa tay nhấc bình trà, tự rót cho mình và Nguyễn Khoái một chén, thoải mái hỏi:

- Chàng biết từ bao giờ?

- Ngay hôm đó. Nếu nàng chỉ là Hạnh Nguyên thì ta sẽ không có gì lấn cấn nhưng nàng là công chúa, là An Tư công chúa, một người nữ nhi quý tộc thấu tình đạt lý, coi trọng trách nhiệm, thái độ khác lạ của nàng khiến ta sinh nghi. Ngoài ra nàng có thể đường đường chính chính đến nơi duyệt binh phát quân phục thì sao phải nhờ ta giúp lẻn trốn vào? Ngoài ra có ba người lạ vào trong phủ ta, không thể không có người nhìn thấy. Nghe tin về ba vị quý nhân đó là ta hiểu ra tất cả. - Nguyễn Khoái ung dung đáp.

- Việc Quan gia, Quốc công và Thái thượng hoàng đến phủ chàng được giữ kín, tất cả gia nhân trong phủ chàng đều được khẩu dụ không cho phép đi báo tin. Sao chàng lại biết? - An Tư nhíu mày

- Chính công chúa là người đã dạy thần, bên cạnh mình phải có ít nhất một người trung thành. Người đã quên rồi sao? - Nguyễn Khoái nhấp ngụm trà, bình thản đáp.

- Chàng giận rồi sao? - An Tư thở dài. - Nhưng hôm đó, chàng từ chối yêu cầu của ta làm ta thất vọng về nhan sắc của mình quá. - Nàng tủi thân.

- Công chúa ngốc của thần ơi - Nguyễn Khoái áp tay lên má An Tư - Tự cổ chí kim, hồng nhan bạc mệnh. Nàng như vậy không phải vẫn tốt sao, chỉ cần trong mắt tình nhân hóa Tây Thi là được. - Ngón tay chàng lướt nhẹ qua những vết thâm đã mờ dần nhưng vẫn còn hiển hiện trên làn da mịn màng của An Tư - Nếu không có chúng, nàng còn đẹp hơn Tây Thi, ta sợ không giữ được nàng.

An Tư liếc nhìn Nguyễn Khoái rồi ngượng ngùng cụp mắt, mỉm cười ngọt ngào.

- Nô tỳ tham kiến Chiêu Thành vương

Tiếng hành lễ của cung nữ khiến hai kẻ đang tình chàng ý thiếp trong lương đình giật mình, không biết Chiêu Thành vương xuất hiện ở đây từ lúc nào, có nhìn thấy cảnh thân mật vừa rồi giữa hai người không. Nhìn sắc mặt không vui rõ ràng thế kia lại thêm ánh mắt phảng phất sự ghen tỵ, có lẽ là thấy rồi. Nguyễn Khoái rời tay khỏi má An Tư, đứng dậy hành lễ với Chiêu Thành. An Tư cũng chào hỏi vài câu cho phải phép rồi định kiếm cớ ôm đàn bỏ đi nhưng Chiêu Thành lại nói:

- Lần trước bổn vương đem sính lễ đến cầu hôn công chúa, người từ chối ta vì đã có người trong mộng. Ta đã hỏi không biết là vị anh hùng hào kiệt nào nhưng nàng không nói, hóa ra Nguyễn Khoái là người đã lọt vào mắt xanh của công chúa. Đúng là trai tài gai sắc có điều hình như không...môn đăng hộ đối.

Nét mặt Nguyễn Khoái trầm xuống khi nghe Chiêu Thành nói vậy.

An Tư ngước nhìn Nguyễn Khoái, dưới ống tay áo rộng, nàng nắm lấy tay chàng. Một ánh nhìn thay cho tất cả lời cần nói. Đoạn nàng quay sang Chiêu Thành, mỉm cười nhã nhặn đáp:

- Chiêu Thành vương đánh giá cao Nguyễn Khoái rồi. Chàng chỉ lọt được vào mắt đen của ta thôi chứ không lọt được vào mắt xanh. Thực ra mắt màu nào cũng không quan trọng bởi vì trái tim vốn không có mắt. Không có mắt thì làm sao biết thế nào là môn đăng hộ đối, nhưng lại biết phân biệt yêu và không yêu.

- Công chúa nói hay lắm. Nhưng trăm nghe không bằng một thấy, nếu trái tim mù quáng thì làm sao phân rõ tốt xấu, thật giả. Hơn nữa, con cháu họ Trần chỉ có thể lấy người trong họ. TRẦN An Tư, nàng định sẽ như thế nào đây? - Chiêu Thành không kìm được mà buột miệng. Ngày đó bên gốc cây gạo đã chặt, chàng tự nhủ lòng mình phải chấp nhận buông tay nhưng không dễ như thế. Ngày hôm nay nhìn cảnh hai người họ thân mật, lòng chàng giờ khắc này chỉ có ghen tức.

- Năm xưa, Hưng Đạo vương mạo hiểm trèo tường vào phủ Nhân Đạo vương - An Tư bình thản đáp - Ta chỉ là phận nữ nhi không dám so với Hưng Đạo vương. Nhưng nếu mang họ Trần là phải cưới người trong họ thì vì Nguyễn Khoái, Hạnh Nguyên ta có thể từ bỏ quốc tính, xóa họ đổi tên.

- Công chúa không sợ ta đem những lời này tâu lại với Quan gia và Thái thượng hoàng sao?

- Nếu sợ thì ta đã không nói - An Tư mỉm cười lắc đầu

- Chiêu Thành hiểu rồi. Không làm phiền hai người tâm tình nữa, kẻ không mời là ta xin cáo lui.

- Không tiễn - Vẫn giữ trên môi nụ cười khách sáo, An Tư không ngần ngại mà nói.

Chiêu Thành đi rồi, Nguyễn Khoái mới hỏi An Tư:

- Ta vẫn nhớ từng lời nàng nói ở Thi đình. Rốt cục lời nào của nàng mới là thật?

- "Đàn ông nông nổi giếng khơi/Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu". Chàng đoán thử xem - An Tư nghiêng đầu.

- Lời nàng nói với Chiêu Thành vương dù là thật hay là giả nhưng đến tai Thái thượng hoàng và Quan gia thì không hay. Ta e..... - Nguyễn Khoái lo lắng.

An Tư dịu dàng đặt tay lên môi chàng không để chàng nói tiếp nữa:

- Không có gì phải lo lắng cả. Hiện giờ Thái thượng hoàng và Quan gia cũng không có tâm trí mà lo đến chuyện hôn nhân của ta đâu. Và ta tin Chiêu Thành vương cũng sẽ không đem chuyện ngày hôm nay ra tâu.

- Công chúa có lòng tin vào vị vương gia kia thế ư? - Nguyễn Khoái không vui hỏi.

An Tư nhìn vẻ mặt của chàng mà phì cười:

- Phải, ta tin, tin vào cách nhìn người của ta. - Đoạn nàng thở dài - Nguyễn Khoái, hôm đó Quan gia thử chàng, ta giúp Quan gia thử chàng, chàng có giận không, có tự ái không? Ta biết cảm giác khi bị nghi ngờ, khi không có được lòng tin nó như thế nào. Hôm nay ta sai người mời chàng đến đây là muốn hỏi chàng điều này.

Nguyễn Khoái lắc đầu:

- Không. Ta hiểu mà.

- Có lời này của chàng là em yên tâm rồi - An Tư cúi đầu đáp - Đến giờ học thi từ rồi, ta phải về điện Tân Nguyệt kẻo nữ học sĩ đợi lâu.

Đoạn An Tư ôm đàn rời đi. Nguyễn Khoái nói với theo:

- Công chúa, người để quên tờ giấy này trên bàn. Còn nữa bài hát về Minh phi [3] lời ca và giai điệu quá thê lương, lần sau người đừng hát nữa....

An Tư quay lại mỉm cười gật đầu:

- Chàng bảo ta đừng hát bài đó nữa nên tờ giấy ấy phải bỏ đi thôi.

Trông theo bóng dáng thướt tha cao quý xa dần đến khi khuất sau những hòn non bộ, ánh mắt Nguyễn Khoái rơi trên tờ giấy lụa An Tư để quên trên bàn, chàng cầm lên đọc, là lời ca của bài hát An Tư hát lúc chàng đến. Nguyễn Khoái gấp tờ giấy lại, cất vào trong ngực áo rồi xoay người rời khỏi lương đình, đến lúc phải xuất cung rồi. Nơi cung vàng điện ngọc này không phải là chỗ thích hợp để chàng và An Tư hàn huyên.

...................................................................

Haibara rất ngạc nhiên khi mấy ngày gần đây nào xe, nào ngựa, nào võng, nào kiệu đổ về kinh thành, các phụ lão hương thân trên khắp cả Đại Việt đang về kinh thành. Hỏi ra mới biết là do Thái thượng hoàng vời họ về kinh thành, còn mục đích là gì thì nàng không biết. Nàng ngồi trầm tư, suy nghĩ vẩn vơ, sách đang đọc dở vẫn chưa lật được sang trang mới. Một thứ mềm mại bất ngờ được trùm xuống đầu nàng, Haibara giật mình ngẩng lên. Đứng trước mặt nàng là người mà một năm nay không gặp. Anh ta đã về rồi. Ngày đó Nhật Duật theo nội thị truyền chỉ vào cung, xong việc ở cung là rời khỏi kinh thành đi luôn, cũng không ghé qua phủ. Đến bây giờ mới quay lại. Xuân ấm, hạ nóng, thu mát, đông lạnh mới gặp lại. Không biết nói gì, không biết hỏi gì, Haibara cụp mắt che đi sự xao động cảm xúc. Giờ nàng mới nhớ ra thứ Nhật Duật phủ lên đầu mình, đưa tay kéo xuống, đó là một mái tóc giả màu đen. Nàng khó hiểu nhìn Nhật Duật.

- Ánh mắt này là sao? - Nhật Duật đưa tay búng tách một cái vào trán nàng - Ta đi một năm trời mới về phủ, nàng gặp cũng không chào hỏi một tiếng lại còn nhìn ta như thế.

- Đức ông Chiêu Văn đâu phải một năm trời mới về phủ, cả năm qua, đức ông lai kinh đều có vài lần ghé qua phủ.... Mái tóc giả này để làm gì? - Haibara nói.

Nhật Duật xoa đầu nàng làm mái tóc nâu đỏ mượt mà rối tung lên, cười hì hì bảo:

- Màu tóc nàng quá đặc biệt, dễ gây chú ý, nàng đội mái tóc giả này vào rồi thay y phục tiểu đồng theo ta nhập cung. Hôm nay ta sẽ cho nàng thấy cái gì khiến ta dám khẳng định rằng:" Chúng ta có thể thua lúc đầu, nhưng người chiến thắng cuối cùng sẽ là Đại Việt bởi chúng ta sẽ chiến đấu cho đến khi thắng mới thôi, đời này chưa thắng được thì con cháu đời sau lớp lớp người của Đại Việt sẽ không ngừng đứng lên đấu tranh, sẽ chiến đấu không mệt mỏi. Trên mảnh đất này, bất kỳ kẻ xâm lược nào muốn “đánh nhanh thắng nhanh” đều là vọng tưởng. Chúng ta có thể cúi đầu, có thể quỳ gối nhưng TÂM sẽ KHÔNG BAO GIỜ KHUẤT PHỤC cho dù núi có cạn, sông có mòn."

....

Haibara làm tiểu đồng theo hầu đức ông hoàng sáu vào cung. Đây là lần đầu tiên nàng được vào nơi Cấm thành chỉ dành cho vua chúa này. Tường cao hào sâu, cung điện nguy nga tráng lệ, lầu son gác tía trùng điệp, non bộ kỳ hoa dị thảo muôn phần đẹp đẽ. Nơi mà Nhật Duật đưa nàng đến có tên là điện Diên Hồng - cái tên nổi tiếng sẽ đi vào những trang sử vàng muôn đời của nước Việt Nam. Trước thềm điện, từng dãy bàn đã được bày sẵn ngay ngắn hàng hàng lối lối. Nhật Duật về chỗ ngồi đã được sắp xếp của mình. Haibara đứng hầu sau lưng chàng. Không lâu sau, các vương gia khác rồi Thái thượng hoàng cùng Quan gia đều đến. Dù vô cùng tò mò xem vị Minh quân của Đại Việt trông như thế nào, một vị vua bằng xương bằng thịt ra sao, nhưng Haibara không dám vọng động mà ngó nghiêng lung tung. Nàng khiêm nhường chắp tay cúi đầu đứng sau lưng Nhật Duật, ra dáng một kẻ hầu kính cẩn sẵn sàng đợi nghe chủ nhân sai bảo. An tọa xong xuôi, Thái thượng hoàng cho truyền gọi các phụ lão vào điện. Các phụ lão từ từ tiến vào điện, đoạn đồng loạt quỳ xuống hành lễ. Thái thượng hoàng liền miễn lễ, ban ngồi rồi sai cung nhân dâng yến tiệc.

Khi tiệc đã xong, lúc này Thái thượng hoàng mới trịnh trọng đứng dậy nói:

- Các bậc hương thân phụ lão, ngày hôm nay trẫm cho triệu các vị về đây là muốn cùng các vị bàn về kế đánh giặc Thát. Các vị đều là người những người cao tuổi đáng kính, là những người được trọng vọng ở làng xã, ở gia tộc. Đường xa mệt nhọc nhưng các vị không quản ngại khó khăn mà đều đến đây khiến trẫm vô cùng cảm động. Do thời gian gấp gáp, nếu như triều đình tiếp đón có gì sơ suất mong các vị hương thân phụ lão bỏ quá.

Một ông lão đại diện cho tất cả các bô lão đứng dậy, cung kính chắp tay thưa:

- Bẩm Thái thượng hoàng, bẩm quan gia, được sự tin tưởng và coi trọng của triều đình, chúng thảo dân vui mừng và tự hào còn không hết, sao dám có gì trách cứ, sao dám kể gì đến mệt nhọc. Tự cổ chí kim đâu có triều đại nào mà dân đen quê mùa chân lấm tay bùn được vinh dự như chúng thảo dân vào hoàng cung diện kiến long nhan, được bàn việc quốc gia đại sự. Ấy là phải đội ơn tấm lòng lớn lao, thương dân như con của Thái thượng hoàng và Quan gia.

Đoạn ông lão vái lạy rồi mới ngồi xuống.

- Thấy các bậc phụ lão nhập cung an toàn khỏe mạnh thì trẫm yên tâm rồi. - Trần Hoảng mỉm cười hòa nhã - Các vị, Nguyên triều cho sứ giả sang yêu cầu Đại Việt chúng ta cho mượn đường để đánh Chiêm Thành, nếu chúng ta không cho mượn đường thì nhà Nguyên sẽ cất 50 vạn quân sang xâm lược Đại Việt. Giặc Thát khét tiếng tàn bạo, vó ngựa của chúng đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó, máu chảy thành sông, thây chất cao như núi, tội ác tày trời. Khắp tứ phương đều có dấu vó ngựa của quân xâm lược khát máu. Sau khi chiếm được Trung Nguyên, giặc Thát lại như hổ mọc thêm cánh. Đại Việt ta nếu so tương quan lực lượng với nhà Nguyên thì giống như lấy trứng chọi đá. Trẫm không lo sợ việc đối đầu với nhà Nguyên, thân chinh ra trận, dẫu da ngựa bọc thây cũng đâu hề gì, vì sơn hà xã tắc của tổ tiên có gì mà phải đắn đo, chỉ hiềm nỗi nếu động binh đao thì người chịu khổ nhất là lê dân bách tính. Trẫm không muốn nhìn thấy cảnh nhà tan cửa nát, những người dân vô tội bị quân dã man tàn sát, xương trắng chất chồng, người đầu bạc tiễn người đầu xanh, góa phụ cô nhi. Nếu thuận theo ý nhà Nguyên thì sẽ tránh được nạn binh đao, giữ được cuộc sống yên bình cho dân chúng. Nhưng nếu thuận theo bọn giặc Thát tham lam thì chúng sẽ được đằng chân lân đằng đầu, ngày càng ngang ngược hống hách. Đại Việt tuy nhỏ nhưng là một nước độc lập. Áng thơ thiên cổ bất hủ của danh tướng Lý Thường Kiệt vẫn còn mãi vang vọng đó:"Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư". Đại Việt chúng ta sao có thể cam lòng cúi đầu xưng thần, mặc bọn giặc ngông cuồng tự xứng là "thiên triều" đè đầu cưỡi cổ, quanh năm yêu sách, đòi vàng bạc châu báu mà dân ta phải muôn cay ngàn đắng lên rừng xuống biển mới tìm được, đòi thợ thuyền kẻ sĩ tài giỏi của ta, đòi con dân của ta làm lao dịch,... Các vị là những người đã trải qua cuộc chiến đánh đuổi quân Mông Cổ hơn 20 năm trước, là những người đại diện cho con dân thân yêu của trẫm trên toàn Đại Việt, là những người trẫm vô cùng kính trọng và tin tưởng. Nay, việc đánh hay hòa có quyết định quan trọng đến sự tồn vong của giang sơn. Vậy, NÊN HÒA HAY NÊN ĐÁNH? - Lời cuối, giọng của vị Thái thượng hoàng sang sảng đầy hào khí, vang khắp điện Diên Hồng.

Lời Thái thượng hoàng vừa dứt, các bô lão không ai bảo ai đồng loạt đứng dậy, những cánh tay gầy yếu đầy đồi mồi, da nhăn nhe nhất nhất giơ lên nắm đấm hướng thẳng lên trời, chẳng kể người mặc áo gấm sang trọng đắt tiền, kẻ mặc áo vải cũ nát, chẳng kể người tóc đã bạc như cước hay đầu mới pha sương, chẳng kể người là nho gia lắm chữ hay người ít học, chẳng kể kẻ ở đồng bằng màu mỡ hay người ở nơi núi non nghèo nàn, muôn người đều hô to duy nhất một tiếng:

- ĐÁNH!

Tiếng hô đánh ấy không hẹn mà như bật ra từ một cửa miệng, nó đanh thép hùng hồn mạnh mẽ, nó không chỉ vang vọng trong điện Diên Hồng mà vang vọng khắp non nước sông núi của mảnh đất Đại Việt, nó vang vọng đến ngàn đời sau mà mỗi lần nhắc đến người ta đều nói cái gọi là hào khí Đông A chính là đây chứ đâu. Bởi từ "đánh" ấy nó không phải từ cửa miệng của những con người tuổi cao sức yếu gần đất xa trời mà là từ ý chí quyết tâm, từ lòng tự tôn dân tộc, từ tinh thần bất khuất quật cường, từ tấm lòng yêu nước nồng nàn của toàn con dân Đại Việt. Tiếng hô quyết đoán "đánh" tại Hội nghị Diên Hồng đã trở thành biểu trưng cho ý chí, cho sự đồng lòng đồng tâm của cả một dân tộc

Thái thượng hoàng xúc động, ngài giơ cũng nắm tay giơ cao lên, dõng dạc hô:

- Đánh

Tức thì Quan gia, các vương hầu đứng dậy cùng các phụ lão, các quân lính đứng gác xung quanh, các cung nhân hầu cận tại điện đều lặp lại tiếng hô "đánh" ấy lần nữa. Tiếng hô rung chuyển đất trời. Một từ đã quyết định quan trọng đến sự tồn vong của một đất nước. Haibara nổi da gà bởi tiếng hô hào hùng ấy, bởi những gương mặt già nua nhăn nheo nhưng tràn đầy kiên định, tràn đây quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược, bừng bừng khí thế ấy. Đây chính là điều mà Nhật Duật muốn cho nàng thấy, muốn cho nàng nghe, là điểm tựa niềm tin sắt đá của Nhật Duật. Sự lan tỏa của lòng yêu nước, của sự đoàn kết thật kỳ diệu. Khoảnh khắc vừa rồi nàng vô thức mà không tự chủ được cũng bị cuốn vào, nàng không phải người Việt nhưng nàng đã hô "đánh" hòa vào tiếng hô chung của tất cả mọi người trong điện. Sự kiện này chính là hội nghị dân chủ trưng cầu dân ý mà ngày nay các nước vẫn làm đó thôi. Không ngờ hơn 700 năm trước tại đất nước này đã có hội nghị dân chủ rồi. Haibara thấy Nhật Duật liếc về phía mình. Nàng hiểu rồi. Nghe nói triều đình nhà Trần toàn những anh tài kiệt xuất, một ví dụ điển hình là vị đang đứng trước mặt nàng đây, bao nhiêu bộ não với IQ cao hợp lại có lẽ đã vạch ra kế hoạch chống quân xâm lược từ lâu, đâu phải đợi đến hôm nay khi giặc đã tràn sang đến nơi mới họp bàn. Hội nghị tại điện Diên Hồng này ngày hôm nay cốt là để triều đình thăm dò sự ủng hộ của nhân dân, lòng căm thù giặc cao đến đâu. Hội nghị này là sự tôn trọng của triều đình đối với các bậc hương thân phụ lão. Sống ở Đại Việt một thời gian không thể gọi là dài nhưng đủ để Haibara nhận ra đây là một xã hội "lão quyền", người già rất được coi trọng, người Việt hay nói "gừng càng già càng cay" và "kính già, già để tuổi cho". Triều đình tôn trọng các bô lão nghĩa là tôn trọng con dân. Hội nghị này chính là cầu nối đoàn kết dân với dân, dân với triều đình. Đây cũng là cách mà triều đình nhà Trần khiến cho hoạt động lãnh đạo trong mắt người dân trở nên minh bạch hơn, để củng cố niềm tin vào triều đình cho người dân, lấy ngọn cờ chính kiến thuận theo lòng dân để tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc, và cũng là đường lui cho những bất lợi thất bại của cuộc chiến nếu có, bởi cuộc chiến là triều đình thuận theo lòng dân, không để thất bại lỗi lầm lên triều đình khiến dân chúng mất niềm tin. Các bô lão những người có ảnh hưởng lớn với làng xã, với gia tộc sẽ thay triều đình phổ biến chính sách cho người dân sau khi họ trở về nhà. Phải nói là hội nghị này chính là một mũi tên trúng mấy con chim.

Nhật Duật chắp tay tâu:

- Bẩm Quan gia, Thái thượng hoàng, nhân không khí đánh giặc giữ nước đang sục sôi, nhân hội nghị Diên Hồng thành công rực rỡ, thần tài hèn sức mọn có một màn biểu diễn xin được hiến.

- Trẫm chuẩn tấu - Trần Khâm nói

Nhật Duật tạ ơn rồi ra lệnh cho truyền gọi, đội nhạc cùng đội hát tiến vào. Tiếng trống vang lên, lời ca hào hùng sắc bén:

"Toàn dân! Nghe chăng? Sơn hà nguy biến!
Hận thù đằng đằng! Biên thùy rung chuyển
Tuông giày non sông rền vang tiếng vó câu
Gây oán nghìn thu
Toàn dân Tiên Long! Sơn hà nguy biến!
Hận thù đằng đằng! Nên hòa hay chiến?
Diên Hồng tâu lên cùng Minh đế báo ân
Hỡi đâu tứ dân!

Kìa vừng hồng tràn lan trên đỉnh núi
Ôi Thăng Long! Khói kinh kỳ phơi phới

Loa vang vang, chiếu ban truyền bốn hương
Theo gió bay khắp miền sông núi réo đời.

Lòng dân Lạc Hồng nhìn non nước yêu quê hương
Giống anh hùng nâng cao chí lớn
Giống anh hùng đua sức tráng cường.
Ta lên đường lòng mang tâu đến long nhan
Giòng Lạc Hồng xin thề liều thân liều thân!

Đường còn dài
Hờn vương trên quan tái
Xa xa trông áng mây đầu non đoài

Trông quân Nguyên tàn phá non sông nhà
Đoạt thành trì toan xéo giày lăng miếu
Nhìn bao quân Thoát lấn xâm tràn nước ta
ôi sông núi nhà rền tiếng muôn dân kêu la

Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến?
Quyết Chiến!

Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến?
Quyết Chiến!

Quyết chiến luôn
Cứu nước nhà
Nối chí dân hùng anh

Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh?
Hy Sinh!

Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh?
Hy Sinh!

Thề liều thân cho sông núi

Muôn Năm Lừng Uy!" [4]


(Nguồn: https://www.lichsuvietnam.vn/suca/detail.php?did=48)

Bài hát kết thúc, tiếng vỗ tay tán thưởng dậy vang như sấm.

- Chiêu Văn vương quả nhiên tài hoa hơn người - Trần Khâm khen ngợi.

- Đa tạ Quan gia quá khen. Chính lòng yêu nước, quyết tâm sắt đá của các bậc phụ lão đã tạo cảm hứng để thần nghĩ ra lời ca điệu nhạc này. - Nhật Duật đáp.

Giữa từng ấy người bừng bừng khí thế quyết tâm chống giặc, Haibara vẫn nhận ra có một kẻ lạc lõng, nàng biết người đó - Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Khi các vương hầu đồng loạt đứng lên hô đánh thì kẻ đó dù cũng làm theo nhưng nàng nhìn ra trong đôi mắt u tối thâm sâu ấy sự bất mãn cùng ý phản đối. Nhưng người này là người khôn ngoan dù không đồng tình thì cũng sẽ không ngay tại đây, tại thời khắc này mà nói ra. Cảm nhận được có người nhìn về phía mình, Ích Tắc quay lại theo linh cảm, chàng bắt gặp một đôi mắt lạnh lùng sắc sảo, đôi mắt thư đồng của Chiêu Văn. Bị người ta phát hiện mình đang thầm quan sát nhưng Haibara không bối rối, nàng bình tĩnh nhìn sang hướng khác.

Tiệc tàn, các phụ lão lần lượt ra về. Nhật Duật cùng các vương hầu theo Quan gia và Thái thượng hoàng đưa tiễn các bô lão. Haibara đứng đợi chàng ở thềm điện.

- Tại sao ngươi lại nhìn lén bổn vương? - Một tiếng nói bất ngờ cất lên sau lưng Haibara.

Nàng không giật mình, Haibara biết có người đang tiến về phía mình, giác quan của nàng qua những năm tháng rèn luyện trong tổ chức rất nhạy bén. Nàng quay người lại, chắp tay ra vẻ cung kính hành lễ:

- Con xin lạy đức ông Chiêu Quốc vương. Con sao dám cả gan nhìn lén đức ông.

Haibara lựa lời nói cho phải phép để tránh đắp tội với người quyền cao chức trọng, không phải ai cũng dung túng bỏ qua cho nàng vì tội vô lễ như Nhật Duật.

- Cứ cho là nhà ngươi không nhìn lén đi. Nhưng ánh mắt đấy của ngươi là ý gì? - Ích Tắc hỏi.

- Dạ bẩm, lần đầu được vào cung, con hiếu kỳ, trẻ người non dạ không kìm được tò mò mà nhìn cung vàng điện ngọc nên vô tình mạo phạm đến đức ông, mong đức ông thứ tội - Haibara đáp

- Vậy ngươi đang nói dối không phải là càng nặng tội hơn sao? Ngươi trẻ người non dạ, ta thấy không giống tý nào - Ích Tắc cười khẩy

Haibara rủa thầm trong bụng sao kẻ này cáo già thế, nàng giả nai như vậy mà vẫn không tin.

- Con nào dám - Haibara cúi đầu đáp.

- Nếu hôm nay ngươi không chịu nói ra thì ta sẽ không để ngươi đi dễ dàng đâu. Đừng kín đáo nhìn ra phía đó nữa, Chiêu Văn vương của ngươi chưa quay lại sớm thế đâu. Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng nhưng ta vẫn muốn nghe, sẽ không trách tội ngươi nói lời vô lễ.

- Nếu đức ông đã khoan dung mở lượng hải hà thì con cũng xin cả gan mà thưa:"Kẻ phản bội cuối cùng không có nơi nào để đi" - Haibara cân nhắc rồi cũng nói, nàng biết kẻ này nếu nàng không nói ra thì sẽ không bỏ qua cho nàng mà cứ mãi dây dưa căn vặn ở đây.

Sắc mặt Ích Tắc trầm xuống:

- Sao ngươi cho là vậy?

- Vì con cũng đã từng là một kẻ phản bội - Haibara đáp - Nếu đức ông không còn gì dạy bảo, con xin lui.

- Sao ngươi lại nói với ta câu này? Ngươi có ý gì? - Giọng Ích Tắc lạnh lẽo.

- Hi hi...hôm nay hoàng muội mới biết hóa ra Chiêu Quốc vương nổi tiếng tài hoa, văn chương nhất đời lại thích so đo với một đứa trẻ như thế - Một giọng nói trong trẻo cất lên.

Haibara và Ích Tắc quay lại. Người vừa nói là An Tư.

- An Tư sao muội lại đến đây? Đây đâu phải là nơi đàn bà con gái tự tiện ra vào? - Ích Tắc không vui nói.

- Nhưng cũng đâu có biển cấm - An Tư chu môi rồi thân mật khoác tay Ích Tắc - Chiêu Quốc huynh lâu lắm mới gặp. Huynh dạo này thế nào? Huynh có đang bận gì không? Nếu không thì đến Tân Nguyệt điện đi, muội muốn huynh xem mấy tranh muội vẽ gần đây. - An Tư liến thoắng.

- An Tư ngoan, để hôm khác nhé. Hôm nay hoàng huynh có việc bận rồi. Thôi huynh đi trước đây.

Đoạn Ích Tắc phất tay áo rời đi. Đôi mày chàng nhíu lại. Là Chiêu Văn sai thư đồng của mình nói những lời này với chàng sao? Không, đây không giống cách hành xử của Chiêu Văn vương. Vậy những lời vớ vẩn kia chính là suy nghĩ của đứa bé kỳ lạ đó. "Kẻ phản bội cuối cùng không có nơi nào để đi", hừ chàng không tin.

.

- Cảm ơn công chúa đã giúp đỡ - Haibara nói.

An Tư thở dài lắc đầu:

- Chiêu Quốc huynh là người tâm tư khó dò. Lần sau có chạm mặt ngươi nên cẩn thận. Nhập gia tùy tục.

- Tạ công chúa chỉ giáo - Haibara đáp.

An Tư mỉm cười dịu dàng gật đầu rồi xoay người rời đi.

- Cung tiễn công chúa - Haibara hành lễ

Lời nói cùng thái độ cao sang xa cách của An Tư hôm nay là lời nhắc nhở Haibara về thời đại nàng đang sống. Có lẽ Nhật Duật quá dễ dãi với nàng nên có lúc nàng quên mất một vương gia như chàng, như Chiêu Quốc vương có quyền lực như thế nào. An Tư nói đúng, nàng phải cẩn thận hơn.

..................................

Haibara tựa lưng vào cột gỗ ở trước cửa phòng, trầm mặc nhìn lá vàng rụng đầy sân. Sau khi trở về từ Cấm thành, Haibara chìm vào những suy nghĩ mông lung. Tiếng hô "đánh" của những con người tuổi cao sức yếu cứ vang dội trong đầu nàng.

- Nghĩ gì mà thần người ra thế.

Tiếng nói của Nhật Duật cất lên bên cạnh khiến nàng giật mình.

- Tôi đang nghĩ về lời của những bô lão nói tại điện Diên Hồng hôm ấy. Suy cho cùng họ đều là những người già cả, đến lúc chiến tranh, dĩ nhiên người phải ra chiến trường đối mặt với cái chết không phải họ nên họ dễ dàng nói đến việc lựa chọn đánh nhau với quân Mông Cổ.

Nhật Duật cốc đầu Haibara:

- Ta không biết tổ chức kia nuôi nàng mười mấy năm đã nhồi nhét vào đầu nàng những gì, nhưng dường như lúc nào nàng cũng nghĩ đến bản chất xấu xa và mặt tối của con người. Phải, nàng nói đúng, các bô lão ấy không phải ra chiến trường, nhưng con cháu họ sẽ là người ra chiến trường, sẽ là người phải đối mặt với cái chết. Đâu có ai muốn cảnh kẻ đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh.Thế nên chỉ có một từ "đánh" nhưng không hề dễ dàng để mà nói ra đâu. Đúng rồi, nàng hãy thu xếp đồ đạc đi, ta sẽ gửi nàng đến tá túc ở chỗ của Phụng Dược cung. Giới giang hồ đứng ngoài thế sự, ở trên núi cao đảo xa. Nàng hãy đến ở chỗ họ trong lúc chiến loạn. Mai ta sẽ cho người đưa nàng đi.

- Không nhất thiết phải như vậy - Haibara lắc đầu - Tôi có thể về thái ấp mà.

- Ta nghĩ đến Phụng Dược cung thích hợp với nàng hơn. - Nhật Duật đáp - Ta có thứ này cho nàng. - Đoạn chàng huýt sáo.

Nhật Duật vừa huýt sáo liền có một chú chó con chạy đến. Nó vẫy đuôi tíu tít mừng chàng.

- Dễ thương quá - Haibara cười, đưa tay xoa đầu con chó

Thấy người lạ con, chó rụt rè nép sát vào chân Nhật Duật rồi thò đầu ra giương đôi mắt tròn xoe tò mò nhìn Haibara.

- Nhất khuyển nhì mã. Có nó ở bên bầu bạn nàng sẽ đỡ buồn. Ta nhặt được nó trong rừng khi đi tuần trên Tuyên Quang. Nó lai giữa chó săn và chó sói nên khỏe hơn những con chó bình thường. Nó vừa có đốm lưỡi vừa có hiền đề, là một con chó khôn.

Rồi Nhật Duật vỗ vỗ đầu con chó nhỏ:

- Ra đi, từ nay cô nhóc này sẽ là chủ nhân của mày biết chưa?

Con chó dụi dụi đầu vào tay Nhật Duật rồi liếm liếm tay chàng.

- Nó tên là gì vậy? - Haibara hỏi.

- Nó chưa có tên. Ta mới tạm gọi nó là Chi Bảo thôi. Nay cho nàng, nàng đặt tên cho nó đi. - Nhật Duật cười - Nếu không nghĩ ra tên gì thì cứ gọi là Chi Bảo cũng được.

- Chi Bảo [5] ... - Haibara nhếch mép - Anh lấy tên tôi đặt cho nó, xong rồi còn bảo cứ gọi tên đó cũng được.

- Đâu có, ta rõ ràng bảo là nếu không nghĩ ra tên gì thì mới gọi là Chi Bảo mà - Nhật Duật tỉnh bơ đáp

Haibara lườm chàng nhưng cũng không nói gì thêm bởi con chó đáng yêu kia đang thu hút sự chú ý của nàng.

- Tên à? - Haibara lẩm nhẩm rồi nói - Tôi sẽ đặt tên cho nói là Hachiko.

- Hachiko? - Nhật Duật tò mò - Sao nàng lại chọn cái tên này?

- Tôi hi vọng nó sẽ trung thành. - Haibara mỉm cười - Đó là cả một câu chuyện. Ở Nhật... ở Phù Tang, có một câu chuyện có thật về một chú chó trung thành. Con chó ấy tên là Hachiko. Mỗi buổi sáng Hachiko theo tiễn chủ tới tận nhà ga... ừm ý tôi là bến sông... - Haibara cân nhắc rồi sửa lại tình tiết câu chuyện cho phù hợp để Nhật Duật có thể hiểu được - ... rồi đến giờ chiếc thuyền trở chủ nó đi làm về, Hachiko lại ra bến sông đó chờ chủ. Ngày ngày đều như vậy. Nhưng rồi chủ của Hachiko bị bệnh và qua đời đột ngột ở nơi làm việc. Không rõ là Hachiko có biết chủ của nó đã chết rồi hay không nhưng những ngày sau đó, nó vẫn đều đều vào lúc thuyền cập bến, nó vẫn ra bến sông đợi chủ nó đi làm về. Sự chờ đời vô vọng đó kéo dài 10 năm trời cho đến khi Hachiko chết vì già yếu và mắc bệnh giun chỉ.

- Quả là một con chó trung thành. Một câu chuyện cảm động - Nhật Duật đồng tình. - Có câu "con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo". So về đức tính trung thành, con người còn không bằng. Phản bội, con người dễ dàng làm điều này. Nói đến đây mới nhớ, chuyện nàng và Chiêu Quốc vương ở điện Diên Hồng, An Tư đã kể lại cho ta nghe rồi.

- Tôi biết mình đã sai. Công chúa đã nhắc nhở. Lần sau sẽ cẩn trọng lời nói và hành động hơn - Haibara nói.

- Nàng tự nhận ra là tốt. Có điều ta nhắc đến chuyện này chủ yếu là muốn hỏi tại sao nàng lại nói câu đó với Chiêu Quốc vương? - Ánh mắt Nhật Duật trầm xuống.

- Vì tôi nhìn ra trong đôi mắt người đó sự toan tính của một kẻ có ý định phản bội. - Haibara cười - Vì cùng là một loại người nên nhận ra không khó.

- Cảm tính quá - Nhật Duật lắc đầu.

- Tôi nghĩ tin hay không thì trong lòng anh đã rõ. - Haibara nói.

Hachiko không có ai đoái hoài đến một lúc, nó giương mắt nhìn hai kẻ trò chuyện qua lại kia mà quên mất nó, Hachiko bất mãn kêu lên vài tiếng rồi nó bắc hai chân lên người Nhật Duật cào nhẹ để gây sự chú ý. Nhật Duật cúi xuống bế nó lên rồi đưa cho Haibara. Nàng ôm lấy con chó nhỏ vào lòng, vuốt ve lớp lông màu xám mượt mà của nó:

- Hachiko. Đó là tên của mày. Nhớ kỹ nhé.

Như hiểu lời của nàng, Hachiko thè chiếc lưỡi hồng hồng có đốm đen ra liếm liếm tay nàng.

......................................

- Thôi con cứ về đi, việc quân cơ bận rộn, tiễn u đến đây là được rồi. Có mấy chú này đi theo hộ tống là ổn rồi - Người đàn bà mặc áo nâu nói với Nguyễn Khoái.

- Để con tiễn u thêm một đoạn nữa - Nguyễn Khoái đáp - Chiến sự cận kề, kinh thành tất loạn u lánh về dưới quê, con không ở bên cạnh để hiếu nghĩa, u nhớ bảo trọng.

- Cha bố anh còn phải dặn - Người mẹ cười hiền hậu, đoạn nhổ bã trầu đi rồi nói - U anh đâu phải trẻ lên ba. Anh hẵng cứ lo thân anh ấy. - Rồi bà thở dài - Làm trai phải cho đáng nên trai, sơn hà gặp nguy phải dốc lòng bảo vệ nhưng u cũng chỉ còn mỗi mình con, chiến trường gươm giáo vô tình, Khoái con nhất định phải cẩn thận và bình tĩnh.

- Con biết mà u. U cứ yên tâm - Nguyễn Khoái cười.

Người đàn bà cân nhắc lưỡng lự rồi cũng nói ra:

- Ừm, Khoái này, còn chuyện này u..... Chuyện của con và An Tư công chúa. U biết con đã thương người ta, thương sâu đậm nhưng...

- Ý u là chuyện môn đăng hộ đối? - Nguyễn Khoái gượm hỏi ý mẹ. - Nếu là chuyện này thì xin u đừng khuyên con. Ý con đã quyết. Con sẽ theo đuổi Hạnh Nguyên. Nhất định một ngày không xa, con sẽ là người môn đăng hộ đối đem sính lễ đến cầu Thái thượng hoàng ban hôn. Làm trai cho đáng nên trai, nếu ngay cả người con gái mình yêu cũng không thể lấy được thì nói gì đến làm những chuyện lớn. Hạnh Nguyên sẽ đợi con.

- Ấy chết....-Mẹ Nguyễn Khoái cau mày - Sao con lại gọi thẳng tên công chúa như vậy, phải tội đó - Đoạn bà lắc đầu - U đẻ con ra, tính con thế nào chẳng lẽ u lại không rõ. Chuyện môn đăng hộ đối, u không nói nữa. Chỉ là con thương người ta nhiều như thế nhưng tình cảm người ta đáp lại có được như thế không. Đó là công chúa cành vàng lá ngọc không phải nữ nhi bình thường. Đàn bà chỉ cần toàn tâm toàn ý thờ chồng yêu con là đủ nhưng u nhìn ra người con gái đó có những bận tâm, những nỗi lòng, những trăn trở lớn lao khác quan trọng hơn chuyện tư tình. U chỉ sợ con phải đau khổ.

- Con biết mà - Nguyễn Khoái cười trừ

Bà phật ý:

- U nói thế anh nghe hay không thì tùy.

- Vâng, con nghe chứ. U sinh con ra khỏe mạnh, đâu có nghễnh ngãng mà không nghe được - Vừa nói Nguyễn Khoái vừa nhanh chân nhảy xuống khỏi xe ngựa - Thôi con tiễn u đến đây thôi, u đi đường mạnh giỏi.

Bà vừa bực vừa buồn cười rồi thở dài mà lầm bầm:"Cá không ăn muối cá ươn, con không nghe lời cha mẹ trăm đường con hư".

Chú thích:

[1] Trích "Tỳ bà hành" của Bạch Cư Dị.

[2] Vương Tường: Tên của Vương Chiêu Quân

[3] Minh phi: Phong vị của Vương Chiêu Quân

[4] Lời bài hát "Hội Nghị Diên Hồng" của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước.

[5] Shiho Miyano: Phiên âm là Cung Dã Chi Bảo
 
Chương 49: Nổi gió

Haibara đến chỗ của Phụng Dược cung tá túc đã được vài ngày. Những người ở đây khá thân thiện và tốt bụng. Phụng Dược cung có một tòa gia trang trong rừng sâu ở huyện Cổ Đỗ [1]. Haibara cứ nghĩ chắc Nhật Duật gửi nàng đến một quán y dược nào đó của Phụng Dược cung, không ngờ chàng lại đưa nàng đến luôn tòa gia trang này. Nơi đây cảnh đẹp như thế ngoại đào nguyên, yên tĩnh thanh tịnh, thích hợp để ẩn cư lánh đời. Thảo nào Nhật Duật nói giới giang hồ đứng ngoài thế sự.

Huyết Lệ nói nàng đến ăn nhờ ở đậu tại Phụng Dược cung không thể ăn không ngồi rồi nên giao cho nàng việc phân loại và phơi khô thuốc. Haibara đang bắt đầu học cách nhận diện thảo dược. Haibara ngơi tay ngước lên nhìn người vừa đến. Hachiko đang nằm gối đầu lên chân nàng ngủ liền ngóc đầu nhổm dậy, thấy nó như vậy là nàng biết có người đến tìm mình

- Thế nào, mấy ngày qua ở đây nhóc đã quen chưa? - Huyết Lệ hỏi.

- Cảm ơn, tôi quen rồi - Haibara đáp.

- Ồ, không ngờ nhóc lại học được nhanh như vậy? - Huyết Lệ nhìn từng khay thảo dược Haibara đã phân loại mà tán thưởng.

- Trước đây tôi có từng nghiên cứu... ừm từng học qua. - Haibara nói.

- Nhóc rất có tư chất đấy, thấy nhóc hình như rất hứng thú với việc bào chế thuốc. Có muốn học không? - Huyết Lệ hỏi. Dù chỉ vài ngày ngắn ngủi nhưng nàng đã quan sát được đứa trẻ này rất chăm chú khi nhìn người ta bốc thuốc

Haibara chưa kịp trả lời thì có một người hầu hớt hải chạy vào, gấp gáp nói:

- Cô ơi, bọn Thát thế mà đã tràn sang rồi đấy. Không nghĩ là nhanh thế.

Huyết Lệ đứng bật dậy:

- Thật không? Nói rõ hơn xem nào.

Haibara cũng bàng hoàng. Dẫu nàng biết trước chiến tranh chỉ là nay mai nhưng không nghĩ là nhanh đến thế. Nàng đến đây mới có mấy ngày mà Mông Cổ đã cất quân rồi.

- Thật mà cô. Con đâu dám nói láo. Hồi nãy bọn thằng Tèo vừa ở Khâu Ôn [2] về bảo vậy. Tèo nó bảo quân Thát đông như kiến cỏ. Bọn chúng từ phía bắc tràn xuống chia làm hai đạo. Đường thứ nhất do tên tướng tên là gì nhỉ, à Bò - cá - đái (Bolqadar)... tên gì mà khó gọi trẹo cả lưỡi...

Huyết Lệ cau mày sốt ruột khẽ gắt:

- Mày đừng luyên thuyên nữa, nói chuyện chính đi xem nào.

- Dạ.. con Bò - Cá đi đường Khâu Ôn. Một đạo do tướng tên Lý Bang Hiển và tên...ừm... Sờ - tai-tao (Satartai) đi đường núi Cấp Lĩnh [3]. Nhưng đông nhất là đại quân của kẻ tên Thoát Hoan hành quân ngay sau quân của thằng Sờ - tai - tao.

- Rồi sao? Có quân của triều đình ra chặn chúng lại không cho tràn sang nữa không? - Huyết Lệ hỏi.

- Đương nhiên có chứ - Hai mắt của con hầu sáng lên nhưng nhanh chóng ảm đạm - Quốc Công tiết chế đích thân dẫn quân chỉ huy lên ải Khả Ly [4]...

- Đích thân Quốc công ra trận...Phải rồi, đó là đại quân của bọn Thát cơ mà - Huyết Lệ hỏi dồn - Thế tình hình thế nào, ta có thắng không...?

Con hầu buồn bã lắc đầu:

- Không cô ạ. Bọn rợ Mông cho thằng Tôn Hựu làm tướng tiên phong. Hắn đã đánh tan quân triều đình trấn ở ải Khả Ly, còn bắt được ông Đỗ Vĩ và Đỗ Hựu của ta.

- Nhanh như vậy đã mất ải Khả Ly rồi ư? - Huyết Lệ thảng thốt.

- Dạ thưa cô. Không những mất ải Khả Ly mà còn mất cả ải Động Bản rồi - Giọng con hầu méo đi - Chúng giết chết tướng Trần Sâm của ta nữa. Nghe bọn thằng Tèo bảo trên đó bây giờ loạn lắm. Quân triều đình thua tan tác, chết nhiều không kể siết, máu chảy thành sông, xương trắng ngập núi, bọn Thát được thể tàn sát bừa bãi dân chúng, gặp bản làng là đốt phá cướp giết, gặp đàn bà con gái thì bắt bớ h.ãm hiếp. Mà con nghe nói chỉ khoảng 5 ngày nữa thôi là chúng sẽ dễ dàng tràn qua các ải Vĩn Châu, Thiết Lược, Chi Lăng. Là đại quân của chúng luôn do hoàng tử Thoát Hoan và Bột La Đáp Nhĩ dẫn đầu.

- Sao mà thế được, chẳng phải có Quốc Công tiết chế đích thân chỉ huy quân lính cự giặc ở trên đấy đó sao?- Huyết Lệ tự trấn an.

- Cô nói phải, đức ông Hưng Đạo nhất định sẽ đẩy lùi bọn rợ Mông ấy. Ba mươi chưa phải là Tết.

Haibara trầm mặc. Những gì sử sách ghi lại không sai, Mông Cổ quả thật là đế quốc xâm lược hùng mạnh nhất thế giới thế kỷ XIII. Đế quốc Mông Cổ có nguồn gốc từ Trung Á bao gồm các bộ lạc của người Mông Cổ và người Đột Quyết. Thời kỳ đỉnh cao nhất, thịnh vượng nhất của Mông Cổ là dưới sự trì vì của Thành Cát Tư Hãn. Vó ngựa Mông Cổ đã tới Trung Đông, tiến qua Châu Âu, giẫm tới phía Nam Ấn Độ rồi Trung Quốc, xâm chiếm bán đảo Triều Tiên, chinh phạt Đông Nam Á. Haibara lục lại trí nhớ về những gì đã đọc trong sách khi rảnh rỗi. Đến năm 1227 khi mà Thành Cát Tư Hãn qua đời thì Mông Cổ đã cai trị được một vùng lãnh thổ rộng lớn trải dài từ Thái Bình Dương tới Biển Caspi, vùng lãnh thổ đó có lẽ có diện tích gấp đôi Đế quốc La Mã và các Khalip Hồi Giáo. Sau khi Thành Cát Tư Hãn qua đời, con cháu lên kế nhiệm nhưng đời đại hãn nào của Mông Cổ cũng đều giống nhau ở chỗ liên tục cất quân thảo phạt các nước khác. Vó ngựa Mông Cổ tiếp tục tung hoành trên lãnh thổ của người Bashkir, người Bulgar, người Kipchak, người Alan, người Mordvin, người Chuvash, tiêu diệt chế độ Đông Hạ và người Thủ Thát Đát, xóa sổ triều Kim, bắt các tiểu quốc ở Nam bộ Ba Tư tự nguyện thần phục, tràn qua nước Nga thảm sát, tiến công vào Châu Âu xa xôi với những cuộc xâm lược quy mô tiến đánh Ba Lan, Hungary, Transilvania, Serbia, Babenberg Áo,... và nuốt trọn toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc.

Thế nên khi nàng nghe chuyện quân Nguyên tiến vào Đại Việt như vũ bão mà chẳng phải vấp trở ngại gì thì nàng cũng không ngạc nhiên nhưng thực sự Haibara cảm thấy hụt hẫng. Nàng tự hỏi không biết mình hụt hẫng vì điều gì. Có lẽ là niềm tin vào sự chiến thắng mà Nhật Duật gieo cho nàng quá lớn, khí thế sục sôi chống giặc tại Hội nghị Diên Hồng quá chấn động để khi nghe tin thất bại nàng cảm thấy chơi vơi. Nàng nhớ lại lời của Nhật Duật nói với mình hôm nào:"Trên mảnh đất này, bất kỳ kẻ xâm lược nào muốn “đánh nhanh thắng nhanh” đều là vọng tưởng.". Nhưng sự thật thì sao? Giờ chiến tranh đã chính thức nổ ra và quân Nguyên đã thắng rất nhanh, thế như chẻ tre, quân Đại Việt đã thua. Kir à không có lẽ phải nói là điệp viên CIA Hidemi Hondo đã nói rồi đó thôi:"Thành công không dễ thâý ngay đâu nhưng thất bại thì biết liền tức khắc.". Hẳn là Nhật Duật nói sai rồi, "đánh nhanh thắng nhanh" với đội quân Mông Cổ khét tiếng "bất khả chiến bại" không phải là "vọng tưởng" mà là việc dễ như trở bàn tay.

- Mà mày vừa là bọn Thát từ phía Bắc tràn xuống chia làm hai đạo. - Huyết Lệ chợt nhớ ra vội hỏi lại con hầu - Còn một đạo nữa thì đi theo đường nào, có nghe ngóng được không?

- Dạ, dĩ nhiên là con nghe được - Con hầu dẩu môi - Đạo quân này do Nạp Tốc Lạt Đinh dẫn 1000 quân theo đường sông Chảy mà qua Tuyên Quang....

Hai tiếng "Tuyên Quang" kéo Haibara ra khỏi dòng suy tư. Nàng không kiềm được mà hỏi:

- Thế chị có biết ai là ngươi trấn giữ cản địch ở vùng ấy không?

- Tôi không rõ.... - Con hầu chớp mắt bối rối gãi đầu - ... nhưng hình như là ông hoàng sáu...

- Ông hoàng sáu....? - Haibara mờ mịt hỏi lại rồi đưa mắt nhìn Huyết Lệ.

Huyết Lệ nhìn nàng rồi nhún vai đáp:

- Chiêu Văn là hoàng tử thứ sáu của vua Trần Thái Tông nên nhiều người vẫn quen gọi nghĩa huynh là ông hoàng sáu.

- Thế quân Mông Cổ và quân Trần ở Tuyên Quang đã giao chiến chưa? Thắng thua thế nào? - Haibara liền hỏi.

- Cái này thì tôi chịu... - Con hầu xụ mặt lắc đầu

- Thôi, mày đừng đứng đây gãi đầu gãi tai nữa - Huyết Lệ thở dài - Cậu mày có ở nhà không, đang ở đâu?

- Bẩm cô, cung chủ có ở nhà, đang ở chỗ sân tập võ - Con hầu nhanh nhảu đáp - Mà cô tìm cung chủ làm gì?

- Còn làm gì nữa? - Huyết Lệ ký đầu nó - Giặc giã giày xéo quê cha đất tổ, không thể không màng thế sự, hèn nhát trốn trong thâm sơn cùng cốc được. Tao đi tìm cậu mày để bàn xem nên như thế nào?

- Nhưng từ trước đến giờ người giang hồ chúng ta tự do tự tại, không giao du với triều đình, nước sông không phạm nước giếng, chống giặc đã có triều đình lo, việc gì ta phải quan tâm ạ? Tại cô bảo con phải nghe ngóng tin tức chiến sự nên con mới bám lấy bọn thằng Tèo để hỏi đó thôi...

Huyết Lệ thở hắt ra:

- Mày lại ngốc nữa rồi. Nếu chuyện bọn giặc Thát xâm lược chỉ là chuyện của triều đình thì tao đâu có rảnh mà xen vào làm gì? Nhưng đây không phải chỉ là chuyện của riêng nhà Trần nữa rồi mà là của toàn dân Nam có biết chửa? Nếu mà chúng chiếm được Đại Việt thì Phụng Dược cung có yên ổn mà sống được không, chúng giày xéo lên núi lên non, lên những ngọn cỏ cây thuốc thì Phụng Dược cung có còn hái, còn trồng được thuốc mà buôn bán được nữa không? Thôi tao không dông dài với mày nữa, đi tìm cậu mày đây...

Huyết Lệ vừa nói vừa tất tả đi ra cửa sau khi quay lại chào Haibara. Còn lại một mình Haibara ngồi lặng thinh. Khi nghe đến hai tiếng "Tuyên Quang" là nàng đã giật mình rồi. Bởi nàng đoán, bởi nàng biết người mà triều đình nhà Trần cử trấn thủ trên Tuyên Quang chín mười phần là Nhật Duật. Trong lòng nàng dâng lên nỗi lo mơ hồ. Dù không tận mắt được chứng kiến sức mạnh của kỵ binh Mông Cổ nhưng những gì sử sách ghi lại cũng đủ để nàng rùng mình trước sự tàn bạo, càn quét của những kẻ hiếu chiến đến từ thảo nguyên ấy. Nàng biết Nhật Duật là một người tài giỏi, vừa có mưu trí vừa giỏi võ nghệ. Nghe nói năm chàng mới hai mươi tuổi đã được nhà vua giao cho trọng trách đảm nhiệm các công việc về các dân tộc có liên quan, tương đương với chức Bộ trưởng bộ ngoại giao ở hiện đại. Mấy năm ở bên cạnh chàng, dù chưa tỏ hết nhưng nàng biết Nhật Duật là một người tài hiếm có. Người như chàng nếu mà tổ chức Áo đen gặp được thì chắc chắn chúng sẽ tìm cách lôi kéo về tổ chức để sử dụng. Nhưng một người tài giỏi không phải là mặt nào cũng tài giỏi. Nàng từng nhiều lần thấy Nhật Duật mặc khôi giáp của võ tướng nhưng chưa bao giờ thấy chàng cầm quân ra trận. Bốn năm trước, Nhật Duật tuân lệnh vua lên Tây Bắc dẹp phản loạn của Trịnh Giác Mật. Nhưng lần đó chẳng hề xảy ra giao chiến gì bởi vì Nhật Duật đã dùng mưu trí để thu phục được Trịnh Giác Mật mà không tốn một mũi tên, một giọt máu. Hình ảnh chàng bình tĩnh ung dung, sắc mặt không đổi bình thản một mình đi vào trại của Trịnh Giác Mật giữa lớp lớp gươm giáo sắc lạnh ngày ấy, đến giờ Haibara vẫn nhớ như in. Nhưng dù sao thì Trịnh Giác Mật dù có định phản loạn suy cho cùng ông ta vẫn là người Việt. Còn lần này kẻ thù mà Nhật Duật phải đối mặt là những kẻ đến từ Mông Cổ. Năm nay Nhật Duật mới có 29 tuổi, tuổi đời còn quá trẻ. Chàng chưa có nhiều kinh nghiệm chinh chiến nơi sa trường gươm giáo vô tình. Không biết chàng sẽ đối phó ra sao đây? Vừa nghe người hầu của Huyết Lệ nói đã có nhiều tướng của Đại Việt, người thì bị quân Nguyên bắt, người thì bị giết. Chiêu Văn vương, ngài sẽ ổn phải không? Haibara tự hỏi.

Nàng cúi người bế con chó con đang nằm liếm chân ở dưới đất lên.

- Hachiko mày nói xem, Chiêu Văn vương có thắng không?

Con chó không có phản ứng gì. Haibara thở dài, đoạn nói:

- Chi Bảo, mày nói xem. Anh ta sẽ bình an vô sự đúng không?

Tức thì con chó vẫy cái đuôi ngắn ngủn tít thò lò. Nó sủa vài tiếng rồi liếm liếm tay Haibara, dụi đầu vào người nàng. Haibara mỉm cười vỗ vỗ đầu nó. Con chó này đã bị Nhật Duật dạy hư rồi, nó đã quen với cái tên Chi Bảo nên nàng gọi nói là Hachiko nó nhất quyết không nghe còn bày thái độ giận dỗi vì nàng không gọi đúng tên nó. Sao mà khó dạy?

...............................................................

Chỉ còn vài ngày nữa là hết năm, nhưng đang chiến tranh loạn lạc, nước sôi lửa bỏng, chẳng còn ai có tâm trí đón Tết. Người người đều đang lo chống giặc.

...

Trinh Túc vừa đi thăm ruộng trở về thì có gia nhân báo là tam phu nhân đang đợi gặp. Nhật Duật vắng nhà, nàng thay chàng gánh vác, bận rộn trăm bề không có nhiều thời gian lo cho Thánh An. Thằng bé bị ốm mà cũng không ngày đêm kề cận đích thân chăm sóc được.Nhưng nàng không dám viết thư kể chuyện với Nhật Duật sợ chàng phân tâm. Vào lúc Trinh Túc vô cùng mệt mỏi thì người vợ lẽ từ trước đến giờ sống lánh đời, thờ ơ thời cuộc, chẳng màng thế sự của Nhật Duật lại ngỏ lời giúp đỡ nàng chăm sóc Thánh An để đỡ đần Trinh Túc, đặng nàng an tâm mà lo việc ở thái ấp. Thùy Mỵ thấy Trinh Túc bước vào thì liền đứng lên chào cho phải phép.

- Thùy Mỵ em đợi gặp chị hẳn có chuyện quan trọng? - Trinh Túc hỏi

- Cũng không có chuyện gì quan trọng lắm - Thùy Mỵ lắc đầu - Bình thường thì không sao nhưng lúc này thái ấp đang phải lo tài lực làm hậu phương cho cuộc chiến. Thùy Mỵ cũng chẳng có nhiều nhặn gì, chỉ có chút bạc này muốn đóng góp, gọi là của ít lòng nhiều - Đoạn Thùy Mỵ mở hòm bạc ra.

- Đây là.... - Trinh Túc nhìn cái hòm chứa toàn vàng gượm hỏi.

- Nhà ngoại của em là thương gia buôn bán nhiều đời, cũng có chút của cải, nay đất nước lâm nguy nên muốn đóng góp. Chị cứ nhận đi, không phải ngại hay nghĩ ngợi gì cả. Cũng nhờ đức ông Chiêu Văn khoan dung độ lượng, cai quản thái ấp thịnh vượng, khiến cho người người có thể yên ổn làm ăn buôn bán phát đạt nên mang ơn lắm. Chút này coi như là đền ơn đáp nghĩa. Chỗ bạc này có cả tiền em thu được từ xưởng thêu mà vương gia cho lập ngày trước.

- Tấm lòng của em và gia tộc em, chị xin thay mặt vương gia, thay mặt thái ấp nhận - Trinh Túc lắc đầu từ chối, đậy nắp hòm vàng lại rồi đẩy về phía Thùy Mỵ - Nhưng số bạc lớn thế này chị không thể nhận.

- Chị không nhận là em giận đấy, rồi người nhà sẽ qưở trách em cho mà xem. Tiền bạc chỉ là vật ngoài thân. Nếu nước mất nhà tan thì tiền muôn bạc vạn cũng tiêu tan hết. Người ta vì sơn hà còn có thể da ngựa bọc thây huống chi chút vật ngoài thân này. Xin chị nhận cho. - Thùy Mỵ mỉm cười dịu dàng nói.

- Nếu em đã nói đến vậy thì chị không thể không nhận rồi - Trinh Túc cân nhắc rồi đáp - Chân thành cảm ơn em.

Thùy Mỵ gật đầu rồi đứng dậy trở về biệt viện của mình. Trinh Túc trầm ngâm. Chiến tranh khiến nhà tan cửa nát, sinh ly tử biệt nhưng chiến tranh cũng kéo người với người đến gần nhau hơn, cái đó gọi là "đoàn kết".

.

Trinh Túc chậm rãi đứng dậy, mở rương lấy phong thư trước khi Nhật Duật để lại ra. Trong phong thư có danh sách những nhà hào thương phú gia ở thái ấp. Nhật Duật đã dặn nàng nếu những nhà này đến quyên tiền ủng hộ cho việc chống giặc thì hãy nhận còn những nhà mà không có trong danh sách này thì dù quyên nhiều tiền và nhiệt tình đến đâu cũng tuyệt đối không được nhận. Trinh Túc lấy bút đánh dấu vào tên gia tộc của Thùy Mỵ trong tờ danh sách. Đoạn cất số vàng vào trong kho và cân nhắc sẽ dùng vào việc gì.

....................................................................

Haibara chống cằm, lơ đãng nhìn bóng cây lờ mờ in trên mặt đất. Mưa xuân lất phất. Đêm mịt mờ. Nàng đang nghĩ lại cuộc hội thoại vô tình nghe được buổi chiều khi đi tìm Hachiko. Nghe chuyện nàng lờ mờ đoán ra được là cung chủ Phụng Dược cung và quản gia của tòa gia trang này.

.

- Cung chủ, người hãy suy nghĩ cho kỹ. Việc này không thể quyết định vội vàng được. Từ trước đến nay, người giang hồ không can thiệp vào việc đời, đặc biệt là những việc liên quan đến triều đình. Trước khi lão gia mất người đã căn dặn như vậy. Vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu, cỏ không mọc nổi đến đó. Triều đình lựa chọn đối nghịch lại Nguyên triều là việc quá liều lĩnh. E rằng Đại Việt sẽ bị thôn tính trong nay mai. Nếu ta giúp triều đình chống quân Nguyên thì không tránh khỏi đắp tội với chúng. Nhỡ sau này triều đình thua trận, quân Nguyên chiếm được Đại Việt rồi thì làm sao Phụng Dược cung còn thể sống được những ngày yên ổn, cách xa thế sự phiền nhiễu. Người không nên nghe theo lời của cô. Dù thế nào thì cô cũng xuất thân là tiểu thư con nhà quan lại, không tránh khỏi việc bận lòng đến triều đình. Việc giao dịch với Chiêu Văn vương để gỡ bỏ danh phận cho cô cũng đã sòng phẳng. Số thảo dược chúng ta đã giúp cho triều đình không phải là nhỏ.

Có tiếng thở dài rồi người còn lại cũng nên tiếng:

- Anh nói phải, ta nên làm theo lời dặn của cha ta. Ta đã quyết định rồi..... Phụng Dược cung sẽ chung tay chống giặc.

-Cung chủ? - Giọng người quản gia thảng thốt.

Có tiếng cười trầm thấp:

- Hơn hai chục năm trước, quân Mông Cổ xâm lược Đại Việt. Anh có biết cha ta đã làm gì không? Ông vừa quyên bạc vừa quyên thảo dược cho triều đình, lại còn góp cả sức người. Cử người của Phụng Dược cung đến các doanh trại, đến các chiến trận để hỗ trợ việc băng bó, bốc thuốc, trị thương cứu người. Còn lý do cha ta làm như vậy, thiết nghĩ cung chủ phu nhân của ông đã nói cả rồi.

.

Nhật Duật nói muốn nàng tránh xa mưa tanh gió máu của cuộc chiến nên đưa nàng đến đây. Nhưng xem ra những con người nơi đây cũng sắp bị cuốn vào vòng khói lửa. Nhật Duật đã tính sai rồi sao? Hoặc cũng có thể Nhật Duật cố tình làm vậy để nàng nhận ra. Dụng ý của chàng là gì? Là muốn cho nàng hiểu dù có muốn chạy trốn nhưng vẫn không thể thoát khỏi số phận hay là muốn cho nàng thấy mặc dù có thể lựa chọn cuộc sống an phận yên ổn nhưng những con người gọi là giới giang hồ này vẫn quyết định đối mặt dấn thân vào bão tố phong ba?

..............................................................

Nguyễn Khoái đi tuần một vòng trở về thì mới hay có người đến từ Tân Nguyệt điện chờ mình được một lúc. Chàng đã quen mặt người thái giám chuyên đi đưa đồ này.

- Nô tài tham kiến Nguyễn tướng quân - Trông thấy Nguyễn Khoái, người thái giám liền hành lễ

- Miễn lễ - Nguyễn Khoái phẩy tay.

- Bẩm tướng quân, công chúa sai nô tài gửi gói đồ này cho người. Việc công chúa phân phó, nô tài đã làm xong, xin phép cáo lui. - Đoạn người thái giám cáo từ xong liền rời đi.

Nguyễn Khoái háo hức mở gói đồ ra, bên trong là một chiếc áo choàng ấm dày dặn. Chàng liền mặc thử, thật vừa vặn thoải mái. Không biết An Tư ngắm kỹ chàng lúc nào mà căn được áo vừa vặn thế. Chàng rút kiếm, nhìn cái bóng mình khoác áo mới phản chiếu trên lưỡi kiếm, vừa nhìn vừa tủm tỉm cười. Trong gói đồ còn có một lá thư. Nguyễn Khoái vội mở ra đọc. Nét chữ An Tư thanh thoát.

"Chàng mặc áo chắc vừa đúng không? Trời đã sang xuân nhưng vẫn còn rất lạnh, chàng đi tuần đêm nhớ mặc ấm nhé. "

Lá thư chỉ có hai dòng ngắn ngủi nhưng Nguyễn Khoái cứ đọc đi đọc lại cho đến khuya mới tranh thủ chợp mắt, trong giấc ngủ, khóe môi chàng vẫn còn vương nét cười dù đôi mày thì nhíu chặt vì những sầu lo khiến chàng rầu gan héo ruột do tin từ chiến trường phía biên giới truyền về kinh thành.

.......................................

An Tư trở mình mấy lần mà vẫn không tài nào ngủ được. Nàng thở dài ngồi dậy, không muốn gọi cung nữ, nàng tự mình thắp nến. Mất ngủ, An Tư lấy chiếc khăn thêu hoa tre đang thêu dở ra thêu tiếp.Nàng định tặng nó cho Nguyễn Khoái nhưng mãi mà vẫn chưa thêu xong do thời gian này bận rộn nhiều việc. Được vài mũi, không thể tập trung, nàng buông khung thêu xuống. An Tư lấy áo choàng khoác lên người, dùng trâm vấn tóc lên, lặng lẽ tự mình cầm đèn lồng rời khỏi Tân Nguyệt điện đi dạo. Cái lạnh của sương đêm làm cho người đang khó ngủ là An Tư càng tỉnh táo. Nàng đến lầu Chính Dương. Lính gác không ngạc nhiên trước sự xuất hiện của An Tư. Trước đây thỉnh thoảng khó ngủ nàng vẫn thường đến đây. Đứng ở trên nơi cao mà nhìn màn đêm phủ lên hoàng cung uy nghiêm, phủ lên kinh thành phồn hoa. An Tư bất an trông về mạn Tây biên giới. Những tin xấu từ mạn Đông biên giới liên tiếp truyền về Thăng Long khiến nàng càng lo lắng trông ngóng tin tức từ mạn Tây biên giới nơi Nhật Duật đang trấn giữ. Mạn đông có đại quân của triều đình do Quốc công tiết chế chỉ huy mà còn như vậy không biết anh trai nàng có ổn không. Thế giặc như trẻ che, tiến công như vũ bão, quân triều đình thua trận thảm hại. Nhưng giờ khắc này, An Tư không lo được nhiều như thế. An Tư tự biết trái tim nàng nhỏ bé lắm, nàng chẳng lo cũng chẳng ôm nổi việc quân cơ quốc gia đại sự, an nguy của xã tắc. Nàng hiện chỉ lo cho Nhật Duật mà thôi.

- Công chúa, đêm khuya gió lạnh, người không nên ở đây. Xin người trở về tẩm điện của mình

Nghe tiếng nói cất lên sau lưng, An Tư quay lại. Nguyễn Khoái không biết đến từ bao giờ.

- Hẳn là người bẩm báo có ta đến đây khiến Nguyễn tướng quân phải đích thân đến đây kiểm tra. Đáng khen cho tinh thần cảnh giác của khanh- An Tư nửa đùa nửa thật nói.

Nguyễn Khoái phất tay ra lệnh cho quân lính lui xuống.

- Công chúa đang lo lắng chuyện gì ư? - Nguyễn Khoái hỏi.

An Tư gật đầu.

- Chiêu Văn vương mưu dũng hơn người. Xin công chúa đừng quá lo lắng. Người hãy bảo trọng ngọc thể, ấy mới là giúp cho vương gia - Nguyễn Khoái dịu dàng nói.

An Tư ngẩng đầu, ngạc nhiên nhìn Nguyễn Khoái:

- Chàng biết ta đang nghĩ gì ư?

- Ta biết chứ - Nguyễn Khoái nhìn quân lính đã lui hết xuống, vươn tay ôm An Tư vào lòng

An Tư ngả đầu lên vai chàng, khẽ nhắm mắt lại, thì thầm nói:

- Từ nhỏ ta sống trong cung vàng điện ngọc nhưng dù ta chưa từng tận mắt chứng kiến chiến trận, ta vẫn biết chiến trường chính là cánh cửa dẫn đến quỷ môn quan, sống chết chỉ trong gang tấc, dẫu có là hoàng thân quốc thích - Đoạn nàng thở dài - Trước mặt là chiến trường gươm giáo vô tình, sau lưng là minh tranh ám đấu.

- Nàng đang nghĩ ngợi về việc Chiêu Quốc vương nói:" Chiêu Văn ở Tuyên Quang, chắc ở trên đó gọi giặc sang rồi" ư? - Nguyễn Khoái nói.

An Tư khẽ gật đầu:

- Trong các anh chị em của ta, Chiêu Quốc huynh là người khó hiểu nhất. Người ta thường nói tâm ý đế vương khó dò nhưng đối với ta tâm tư của Thái thượng hoàng cũng không khó hiểu như thế. Ta không rõ anh Chiêu Văn và Chiêu Quốc huynh có xích mích với nhau từ bao giờ và xích mích về chuyện gì nhưng Chiêu Quốc huynh luôn có những lời rèm pha không hay về Chiêu Văn ngay cả lúc nước sôi lửa bỏng, cần trong ngoài đoàn kết một khối hơn lúc nào hết như bây giờ. Quốc công là người của chi Vạn Kiếp, lại mang trong mình mối thù nhà nhục cha nhưng ngài còn bỏ qua, gạt hết hiềm khích để gắn kết sự đoàn kết nhưng Chiêu Quốc huynh lại....

- Chiêu Quốc vương tuy tài hoa hơn người, tinh thông lục nghệ không nghề nào không giỏi, văn chương nhất đời nhưng nếu nói người có khả năng gọi giặc sang thì ta sẽ nghĩ ngay là Chiêu Quốc vương - Nguyễn Khoái cảm thán rồi chàng trấn an An Tư - Ông hoàng sáu là Chiêu Văn đồng tử, trời xanh sẽ phù hộ cho đồng tử mình đã phái xuống hạ giới, nàng đừng quá lo lắng.

An Tư ngẩng đầu nhìn chàng, đôi mắt ngập âu lo:

- Chàng nói phải. Còn chàng thì sao. Nay mai chàng ra chiến trường, trời xanh liệu có phù hộ cho chàng không?

- Trời xanh của ta là nàng - Nguyễn Khoái mỉm cười ấm áp - Dù đứng sát cạnh bên nhau hay cách xa ngàn dặm thì chúng ta vẫn luôn ở bên nhau vì ta và nàng luôn cùng nhìn về một phía. Thế nên có nàng cùng ta xông pha chiến trường chính là có trời xanh đang phù hộ cho ta rồi.

Khi nói những lời này, Nguyễn Khoái không ngờ được rằng ngày hai người họ phải chia xa lại gần đến thế. Một mảnh tình ái nam nữ sao có thể sánh bằng vạn dặm giang sơn. Thế nên cả chàng và nàng đều buông bỏ, buông bỏ cuộc đời đầu bạc răng long sớm tối kề cận để người nam kẻ bắc, chỉ có thể trông thấy nhau trong tâm tưởng.

..................................................................

Haibara nhìn người trong gia trang tất bất chuẩn bị thảo dược để xuống núi mà lòng nhộn nhạo. Nàng đắn đo, cứ đi ra rồi lại đi vào. Nhật Duật nói đúng, nàng không phải là người Việt, nàng không cần có trách nhiệm với đất nước này. Thế nhưng nàng không muốn ẩn trốn ở đây để tránh binh đao khói lửa. Nàng muốn ra bên ngoài để tận mắt chứng kiến cuộc chiến sẽ trở thành lịch sử này. Nhưng nàng biết nếu nàng lựa chọn như thế là nàng đang mạo hiểm tính mạng nhỏ bé của mình. Nghe nói đoàn xe ngựa đang chuẩn bị khởi hành rồi, Haibara chẳng nghĩ nhiều nữa, nàng vơ vội hành lý và ôm theo Hachiko chạy ra cổng. Huyết Lệ nhìn thấy nàng thì ngạc nhiên:

- Nhóc cũng muốn đi cùng sao?

Haibara gật đầu.

- Ở lại đây sẽ an toàn hơn. Chiêu Văn đã nhờ ta chăm sóc nhóc. Nếu nhóc xảy ra chuyện gì ta cũng không biết nói thế nào với nghĩa huynh - Huyết Lệ lắc đầu không đồng ý.

- Tôi đã suy nghĩ đi suy nghĩ lại mới đủ dũng khí mà quyết định. Cung chủ phu nhân đừng làm tôi chùn ý chứ. - Khóe môi Haibara nhếch lên làm nụ cười nửa miệng.- Dẫu sao lần này đi cũng không phải đối mặt với thứ tôi khiếp sợ nhất, chỉ là chút nguy hiểm mà thôi. Tôi đã từng tự sát 3 lần nhưng vẫn không chết, thế nên có lẽ sống chết có số, đã là số phận thì có chạy trốn cũng không thể thoát được.

Huyết Lệ bật cười:

- Nếu nhóc đã nói thế thì ta có muốn cản, cũng chẳng cản được. Đây là quyết định của nhóc, có thế nào Chiêu Văn cũng chẳng thể trách được ta. Lên xe đi.

........................................................................

Đạo quân do Nạp Tốc Lạt Đinh dẫn đầu tiến vào Đại Việt từ mạn Tây biên giới không hoàn toàn suôn sẻ mà vấp phải sự kháng cự của quân Trần. Người chỉ huy quân Trần chặn giặc ở Tuyên Quang là Nhật Duật. Địch hạ trại ngay gần trại Thu Vật. Quân hai bên đã giao chiến nhiều trận nhỏ, tuy nhìn bề ngoài đang ở thế giằng co nhưng Nhật Duật tự biết trước thế giặc mạnh mới tràn sang thì việc chàng lui quân để bảo toàn lực lượng chỉ là sớm hay muộn và khi nào là thời cơ thích hợp. Kỵ binh Mông Cổ quả nhiên danh bất hư truyền. Đội ngựa chiến của địch dũng mãnh, khỏe, nhanh và dai sức . Về ngựa chiến thực lòng ngựa của Đại Việt không thể sánh bằng những con ngựa được sinh ra trên thảo nguyên. Về binh sĩ, quân Nguyên tinh nhuệ, bắn cung cưỡi ngựa đều vô cùng giỏi lại hiếu chiến, trên chiến trường thẳng tay sát phạt. Nhật Duật cưỡi ngựa quan sát thế trận hai bên giằng co, thấy có giao chiến thêm cũng vô ích mà chỉ khiến số lượng quân sĩ thương vong tăng thêm nên liền hạ lệnh thu quân về trại. Dẫu có khả năng đẩy lùi quân Nguyên không tiến thêm thì trận giao chiến này cũng không phải là trận quyết định. Hơn nữa Nhật Duật không muốn chỉ vì đẩy lùi bước tiến của quân Nguyên mà không màng đến sự hi sinh xương máu của binh sĩ dưới trướng. Nếu họ có phải hi sinh thì hi sinh là để quét sạch bóng quân xâm lược ra khỏi bờ cõi của đất nước. Nhưng Nhật Duật biết bây giờ thời cơ chưa đến.

.

Màn sương chiều lãng đãng dần dần giăng xuống chốn núi rừng. Trại Thu Vật đã lên đuốc. Trở về từ chiến trường, Nhật Duật không cởi chiến bào mà đến ngay chỗ lán đang chữa thương cho binh sĩ thăm hỏi, động viên. Sau đó chàng mới về trại của mình nghỉ ngơi. Cởi bộ khôi giáp nặng nề ra treo lên giá, Nhật Duật ngồi xuống bàn nhấp ngụm trà cho tỉnh táo. Qua mấy ngày giao chiến Nhật Duật cứ cảm giác có gì đó không đúng. Cái cách giao chiến cầm chừng mấy ngày qua không giống lối đánh tốc chiến tốc thắng của quân Nguyên. Tuy rằng chúng liên tiếp tấn công để mở cửa tiến quân qua trại Thu Vật và đều bị chặn lại nhưng Nhật Duật không nhận thấy chúng có dấu hiệu nôn nóng liều mạng mà tràn tới. Nhật Duật trầm ngâm nhớ lại những lời kể của Thái thượng hoàng về cuộc chiến chống quân Mông Cổ năm Nguyên Phong xưa kia. Trận Phù Lỗ năm ấy, quân ta phá cầu phao để chặn quân Mông Cổ không sang được sông để tranh thủ thời gian chấn chỉnh lại binh sĩ. Nhưng không ngờ quân Mông Cổ không hề bị sông sâu nước siết kiềm chân mà ngay lập tức vượt sông bằng cách dùng cung tên bắn xuống nước đề dò đáy, gặp khúc sông nào không thấy tên nổi lên nghĩa là ở đó nông, liền phóng ngựa xông qua tấn công. Cũng vì không lường trước được cách vượt sông tài tình linh hoạt đó của kẻ địch mà trận đánh đó quân Trần đã trở tay không kịp mà chịu tổn thất không nhỏ. Đó là những gì Nhật Duật được nghe kể lại. Nhưng nay khi tự mình cầm quân giao chiến chàng lại thấy chúng chỉ tấn công rời rạc. Quân Nguyên không chỉ đánh nhau giỏi mà còn thông thạo cả về tâm lý chiến. Nhật Duật chắc chắn là chúng đang mưu tính gì đó. Chàng chau mày. Hay là quân Nguyên sẽ thực hiện lối đánh vu hồi, đưa quân ra bọc sau trại Thu Vật rồi đồng thời giáp công hai mặt để quân ta không trở tay kịp?

......

Nạp Tốc Lạt Đinh đứng trên đài quan sát nheo mắt nhìn về phía trại Thu Vật nơi Nhật Duật đóng quân đã được một lúc lâu khiến mấy tên tiểu tướng theo hầu bắt đầu cảm thấy sốt ruột, Một tên tiến lên hỏi:

- Bẩm tướng quân, mọi việc tướng quân phân phó, thuộc hạ đã bố trí đâu vào đấy. Thuộc hạ đã cho một đội ngựa buộc thêm cành cây vào đuôi, mỗi một lính lại cầm theo nhiều đuốc, đến tối sẽ vòng ra sau trại Thu Vật giả như sẽ tấn công từ hướng ấy để đánh lạc hướng Trần Nhật Duật.

Nạp Tốc Lạt Đinh gật đầu tỏ vẻ hài lòng. Vừa lúc đấy có một tên thám báo vừa đi do thám tình hình về liền tức tốc vào bẩm báo:

- Bẩm Nạp Tốc tướng quân, Trần Nhật Duật đang cho bố trí lại canh phòng của trại. Hắn đã dàn đều quân, đưa thêm quân ra trấn thủ ở mặt sau của trại Thu Vật.

Một tên tiểu tướng nịnh hót:

- Tướng quân quả nhiên dự liệu như thật. Tên nhóc con Nhật Duật đã trúng kế nghi binh của ta rồi. Đến tối nay đội ngựa người của ta ở sau trại Thu Vật khua chiêng gõ trống phô trương thanh thế nữa thì hắn càng tin là thật. Sao tướng quân biết Nhật Duật sẽ nghĩ đến khả năng quân thiên triều bọc hậu rồi giáp công cả hai mặt?

- Trần Nhật Duật tuy là còn trẻ nhưng là kẻ có tài mà không kiêu, tính tình trầm ổn, cẩn trọng - Nạp Tốc Lạt Đinh cười khẩy. - Có điều hắn quên mất Giao Chỉ có câu "chắc quá hóa lép". Mấy ngày qua, hắn thấy quân ta thừa khả năng tốc chiến tốc thắng để chiếm được trại Thu Vật nhưng ta chỉ đánh những trận rời rạc, cầm chừng chắc chắn hắn sẽ nghi ngờ mà phòng trước.

- Bẩm tướng quân, thứ cho thuộc hạ ngu dốt. Xin tướng quân chỉ giáo cho, rõ ràng quân ta thừa sức một trận san bằng Thu Vật. Sao phải hao tâm tổn trí và mất thời gian bày mưu tính kế? - Một người lên tiếng hỏi.

- Ngươi nói đúng - Nạp Tốc Lạt Đinh bình thản đáp - Tuy nhiên tấn công như thế sẽ gây tổn thất nhiều hơn cho quân ta. Hiện nay đại quân do hoàng tử Thoát Hoan chỉ huy ở mạn Đông vẫn đang giao chiến với đại quân của nhà Trần ở đây. Thế nên chúng ta không bắt buộc phải nhanh chóng vượt qua được Thu Vật để hội quân. Do đó đang dư dả thời gian tại sao lại không dụng binh cho hiệu quả mà ít tổn thất hơn. Hoàng tử còn chưa chiếm hết các ải để tiến về Thăng Long, ta mà dẫn quân về trước, công cao hơn chủ là không hay. Hơn nữa nếu quân ta chỉ có 1000, nếu chiếm được Thu Vật sớm quá là không tốt, ở lại chiếm đóng cũng không ổn mà một mình tiến tiếp cũng không nên vì sẽ rất dễ bị mai phục. Hơn nữa quan trọng là ta muốn Trần Nhật Duật ngay trong trận đầu ra quân phải thua cả về lực và trí để đánh đòn hoang mang vào đám phên dậu ở Tây Bắc Giao Chỉ. Nhật Duật là kẻ đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa các tù trưởng miền núi với triều đình. Bổn tướng muốn hắn phải thất bại thảm hại để các tù trưởng và dân chúng ở đây mất hết niềm tin vào quan quân triều đình. .........................................................................

Nhật Duật dẫn theo vài binh sĩ trở lại chiến trường giao chiến ban ngày. Xác người xác ngựa nằm la liệt. Những cái xác không còn nguyên vẹn của quân ta quân địch nằm chồng chất lên nhau. Trong không khí ngập mùi máu tanh. Tiếng quạ gọi nhau đến rỉa xác khiến người người cảm thấy rùng mình. Nhật Duật ra lệnh cho binh sĩ thu thập xác đồng đội để chôn cất và chuyển xác ngựa về làm lương thực, thu gom vũ khí và áo giáp của địch về để lấy nguyên liệu rèn vũ khí. Nhật Duật nhặt kiếm của quân Nguyên lên xem. Lưỡi kiếm cong, lưỡi kiếm này đem lại ưu thế cho quân Nguyên khi chiến đấu trên lưng ngựa. Qua quan sát thì chàng nhận thấy ngoài dùng kiếm, vũ khí được quân Nguyên sử dụng rộng rãi là chủy, búa, dao găm và không thể không kể đến cung tên. Đặc biệt là tên còi. Tên còi là loại tên rỗng, khi bắn đi sẽ tạo âm thanh như tiếng huýt, người chỉ huy của quân Nguyên dùng tên còi để ra hiệu trong trận mạc. Nhật Duật cầm mũi tên rỗng lên ngắm nghía rồi suy ngẫm. Nếu như vô hiệu hóa được công dụng của loại tên này thì sẽ làm cản trở việc điều khiển quân của kẻ địch.

- Cấp báo - Một người lính chạy đến báo tin - Bẩm tướng quân, xin người về trại gấp. Quân ta đi do thám về thấy quân Nguyên đang phục kích từ phía sau trại, có khả năng chúng sẽ tấn công ta từ hai mặt.

Nhật Duật bình tĩnh gật đầu:

- Ta biết rồi.

Đoạn chàng nhanh chóng trở về trại. Nhật Duật cho truyền những người nhận mệnh đi do thám vào để hỏi rõ ràng cụ thể tình hình. Khi những người lính báo cáo xong tình hình rồi lui ra, một vài vị tiểu tướng sốt ruột lên tiếng:

- Tướng quân, quả nhiên là quân Nguyên âm mưu tấn công ta từ hai mặt đưa quân ta vào thế gọng kìm. Trước tình hình như thế này phải sắp xếp lại đội hình trấn thủ trại và cản địch.

- Việc tăng cường phòng thủ từ mặt phía sau của trại ta đã bố trí rồi - Nhật Duật nói. - Kế hoạch tấn công từ hai phía của chúng sẽ không thành công - Đôi mắt sáng của vị tướng trẻ ánh lên sự tự tin mà không biết rằng mình đã bước một chân vào cái bẫy giăng sẵn của kẻ thù.

...............................................................

Trời ảm đạm, đìu hiu, gió se lạnh quyện mùi tử thi và máu tanh tưởi thốc vào mũi khiến người vừa ngửi thấy đã muốn nôn thốc nôn tháo. Trên những cái xác người không còn nguyên vẹn nào là quạ, nào là ruồi bọ lúc nhúc. Nhật Duật đứng giữa bãi chiến trường, xơ xác tùy tụy, mũ trụ đã rơi ở đâu không rõ, tóc tai rối bời, gương mặt sạm đen khói lửa, lem nhem vết máu tươi chưa khô, ánh mắt vô hồn nhìn xác binh lính của mình nằm ngổn ngang như ngả rạ. Tất cả đều đã chết hết, đã xa lìa nhân thế. Chỉ còn mình chàng, cũng sẽ rất nhanh thôi chàng sẽ cùng họ xuống suối vàng bởi chàng đang bị quân Nguyên bao vây bốn phía. Những tên lính hung hăng giương cung tên chĩa về phía chàng. Tên tướng Mông Cổ cưỡi ngựa ngạo nghễ nhìn xuống với con mắt của kẻ chiến thắng, hắn đưa tay ra lệnh. Bọn lính phá lên cười man rợ thích thú rồi buông tay khỏi dây cung để những mũi tên bay vút đi, đâm thẳng, xuyên qua người Nhật Duật, máu bắn ra. Người Nhật Duật cắm đầy tên của kẻ địch như bàn chông. Đôi mắt sáng hơn sao trên trời ngày nào giờ đây mở lớn, trợn trừng đầy phẫn uất, bất lực và không cam tâm. Chàng chết, đã chết, chết đứng, chết không nhắm mắt. Có ai ngờ được cuộc đời của một vị vương gia trẻ tuổi lại kết thúc một cách thảm bại sớm như vậy trên chiến trường ngập thây đồng bào.

.

Haibara giật mình tỉnh giấc, ngồi bật dậy, mồ hôi lấm tấm trên trán, người lạnh ngắt. Nàng lại mơ thấy ác mộng. Nhưng cơn ác mộng này hoàn toàn khác, nó chẳng liên quan gì đến bọn áo đen mà là nàng mơ thấy Nhật Duật. Nàng mơ chàng tử trận. Hai bàn tay nhỏ bé của nàng nắm chặt lấy nhau. Đêm nay đoàn người của Phụng Dược cung trên đường xuống núi, trời tối mà chưa ra khỏi rừng nên họ quyết định dừng chân, chọn một bãi đất trống bằng phẳng để nghỉ qua đêm. Giữa mùa đông rét buốt lại ngủ ngoài trời, Haibara vốn khó ngủ, vừa mới chợp mắt được một lúc lại mơ thấy ác mộng.

- Em sao vậy? - Bị Haibara làm cho thức dậy, thiếu nữ nằm bên cạnh nhỏm người, vừa dụi mắt vừa hỏi nàng.

- Chỉ là em mơ thấy ác mộng thôi. Không có gì đâu, chị ngủ tiếp đi, em xin lỗi.

Hachiko thấy chủ mình lạ liền liếm liếm tay Haibara rồi dụi cái đầu vào người nàng. Haibara mỉm cười xoa xoa đầu nó, thân nhiệt của nó cao, cũng nhờ ôm nó ngủ mà nàng không thấy lạnh.

- Có thật không sao không? Chị trông em xanh lắm. Hay là rét? Đắp thêm chăn của chị nữa này - Thiếu nữ quan tâm hỏi.

- Em không sao thật mà. Cảm ơn chị. Trời sắp sáng rồi, chị mau ngủ đi để còn lên đường sớm mai - Haibara lắc đầu.

- Haizz... em mơ thấy gì mà nom trông lo lắng bất an thế kia - Thiếu nữ vẫn không an tâm mà gặng hỏi.

- Em...em mơ thấy máu - Haibara ngập ngừng

- Máu? - Thiếu nữ chau mày - Thế là điềm không lành rồi. Thôi cứ ngủ đi, sáng mai dậy lấy nắm gạo muối mà rắc để đuổi tà là ổn cả. - Nói xong nàng ấy ngáp một cái rồi nằm xuống co người cuốn chăn ngủ tiếp.

Haibara cũng nằm xuống. Hachiko liền rúc vào lòng nàng. Nàng đưa tay vuốt ve bộ lông mềm mại của nó. Haibara nhắm mắt mà không dễ ngủ lại trong khi đã nghe thấy tiếng thở đều đều của người nằm bên cạnh. Điềm không lành ư? Phải chăng là Nhật Duật đã xảy ra chuyện gì? Không đâu. Haibara thầm nhủ. Nàng nhớ tới con người lúc nào cũng mang vẻ mặt bình thản, phong thái ung dung ấy, anh ta mà biết nàng mơ thấy anh ta chết thảm như thế chắc sẽ nạt nàng một trận về cái tội dám mơ mộng linh tinh. Dù nghĩ thế nhưng nỗi lo mơ hồ trong lòng nàng vẫn chẳng vơi đi được tí nào.

........

Mặt trời ló rạng. Ánh nắng xuyên qua những tán lá rậm rạp để lại những đốm sáng loang lổ trên mặt đất. Haibara đưa tay dụi mắt. Trời đã sáng rồi. Mọi người trong đoàn lục đục thức dậy thổi cơm sáng rồi sắp đồ đạc chuẩn bị lên đường. Haibara nghe nói đi hết khu rừng này họ sẽ chia làm ba hướng: Một về kinh thành, một lên mạn Tây biên giới, một lên mạn Đông biên giới.

- Nghe nói là sẽ cho mọi người tự lựa chọn đội đi trước đó, nếu số người giữa ba đội không đồng đều mới phân chia lại. Em sẽ đi theo đội nào? - Người thiếu nữ đêm qua nằm cạnh Haibara hỏi

- Em sẽ theo đội lên mạn Tây - Haibara không suy nghĩ nhiều liền đáp.

- Mạn Tây? - Thiếu nữ ngạc nhiên hỏi lại - Em nghĩ kỹ chưa? Em nên theo đội về kinh thành. Cả mạn Tây và mạn Đông bây giờ đều đang có chiến sự rất ác liệt, nghe nói quân triều đình còn đang thất thế.

- Thế chị sẽ theo đội nào? - Haibara không trả lời mà hỏi ngược lại

- Chị sẽ theo đội lên mạn Tây - Thiếu nữ đáp.

- Thế sao chị không về kinh thành? - Haibara lại hỏi.

- Dĩ nhiên là ai chẳng muốn về kinh thành cho sướng thân. Tội gì mà phải đi đày thân vào chỗ khổ. Nhưng chẳng gì sướng bằng ở lại gia trang. Đã quyết định xuống núi rồi thì phải quyết tâm mà vượt khó vượt khổ thôi - Thiếu nữ nhoẻn miệng cười - Những nơi chiến sự nhiều người bị thương, thiếu thốn thuốc men cần người của Phụng Dược cung hơn....

Haibara nghiêng đầu mỉm cười, ánh mắt thoáng tia tinh nghịch:

- Chị còn muốn tìm người nữa đúng không?

Thiếu nữ giật mình, hai má hơi ửng hồng, nàng ngoảnh mặt nhìn sang hướng khác nhưng giọng nói không giấu được sự ngạc nhiên:

- Sao em biết?

- Em đoán thôi - Haibara nháy mắt.

- Con bé này, trêu chị phỏng? - Thiếu nữ vờ nạt. - Đúng rồi, em tên gì? Chị là Khánh.

- Em tên là Ai - Haibara đáp.

- Sao em lại chọn lên mạn Tây? - Khánh hỏi.

Haibara chỉ mỉm cười thay cho câu trả lời. Chính nàng cũng không biết vì sao mình lại quyết định như vậy. Phải chăng là vì Tuyên Quang ở phía Tây và vị tướng đang trấn thủ trên đó là người ấy?
Chú thích:
[1] Huyện Cổ Đỗ: Một phần Hương Sơn ngày nay

[2] Khâu Ôn: Nay là Ôn Châu, Lạng Sơn

[3] Đường núi Cấp Lĩnh: Từ Lộc Bình đi Sơn Đông ngày nay.

[4] Ải Khả Ly: Sông Xa Lý, huyện Sơn Động ngày nay.



Chú thích:

[1] Huyện Cổ Đỗ: Một phần Hương Sơn ngày nay

[2] Khâu Ôn: Nay là Ôn Châu, Lạng Sơn

[3] Đường núi Cấp Lĩnh: Từ Lộc Bình đi Sơn Đông ngày nay.

[4] Ải Khả Ly: Sông Xa Lý, huyện Sơn Động ngày nay.
 
Hiệu chỉnh:
×
Quay lại
Top