[Longfic] Đại Việt du ký

Bạn thấy fic này như thế nảo

  • Rất hay và muốn đọc lại sau khi đã đọc xong

    Số phiếu: 121 63,0%
  • Hay và muốn đọc lại

    Số phiếu: 32 16,7%
  • Hay và không muốn đọc lại, chỉ đọc một lần

    Số phiếu: 20 10,4%
  • Bình thường

    Số phiếu: 14 7,3%
  • Chán

    Số phiếu: 0 0,0%
  • Quá chán

    Số phiếu: 2 1,0%
  • Chán đến mức không thể đọc hết

    Số phiếu: 1 0,5%
  • Chán thậm tệ, tốt nhất bạn đừng nên viết nữa

    Số phiếu: 2 1,0%

  • Số người tham gia
    192
đúng là vận may hôm nay của em tốt thật buổi sáng vừa được điểm 10 bây giờ lên đây chị lại ra chap .
chúc chị gặp nhiều. may mắn
cảm ơn chị nhiều
 
Tuy hôm nay e thi nhưng tối qua vẫn ngồi cày lại fic. Cảm xúc vẫn như lần đầu đọc vậy. Dù em không phải người giỏi văn nên k cảm nhận hết đc nhưng fic của chị thật sự hấp dẫn, giống như sử ca vậy. Chúc chị mạnh khoẻ và sớm ra chap mới :)
 
Chương 50: Dậy sóng

Nhật Duật vừa ngả lưng xuống cái chõng tre định chợp mắt một lát để lấy lại sức thì từ ngoài có người lính hối hả chạy vào, giọng hô gấp gáp:

- CẤP BÁO OOO...

Chàng bật dậy vén cửa trại ra ngoài, đoạn hỏi người lính đến báo tin:

- Đã xảy ra chuyện gì?

- Bẩm tướng quân, bọn Thát phục kích phía sau trại, chúng kéo đến đông lắm, dùng tên tẩm dầu đốt cháy rồi bắn

-Ước tính chúng dùng bao nhiêu quân? - Nhật Duật hỏi

- Dạ bẩm khoảng 600 quân ạ - Người lính đáp.

- Tình hình phòng thủ thế nào? - Nhật Duật tiếp tục hỏi

- Dạ tuy ta đã lường trước và chuẩn bị nhưng các binh sĩ vẫn lầm vào sự bị động, lúng túng. Thời tiết lại hanh khô, rào chắn bắt lửa rất nhanh

Nhật Duật chau mày. Hiện chàng chỉ có trong tay khoảng 400 quân [1]. Tuy rằng phía sau trại đã có trấn giữ nhưng so với 800 quân đang không ngừng công kích của kẻ địch thì lực lượng phòng thủ quá mỏng

- Lập tức gióng trống triệu tập - Nhật Duật ra lệnh - Ta sẽ đích thân dẫn quân ứng chiến.

.

Quân của Nạp Tốc Lạt Đinh phục kích phía sau trại Thu Vật thấy Nhật Duật đích thân xuất hiện, dẫn quân rời khỏi trại tới ứng chiến thì mừng thầm vì chàng đã mắc mưu kế điệu hổ ly sơn của chủ tướng. Chúng dễ dàng nhận ra Nhật Duật bởi vì con ngựa chiến chàng cưỡi rất đặc biệt. Nó là một con ngựa quý, nhưng điều đó chẳng có gì là lạ, thảo nguyên mênh mông của chúng còn có những con ngựa tốt hơn thế gấp nhiều lần. Điều đặc biệt là con ngựa đen chàng cưỡi có cái đuôi lởm chởm và ngắn ngủn do bị kéo cắt. Chúng vừa giả dồn dập tấn công vừa nhử cho đoàn quân của Nhật Duật ngày càng đi xa trại. Trên cổ những con ngựa được quân Thát đeo vào rất nhiều lục lạc, đuôi ngựa buộc nhiều gáo dừa cành cây để khi ngựa phi có cảm giác tạo ra đội quân rất đông. Mỗi người lính Nguyên lại đốt 5 ngọn đuốc, nhìn từ xa chỉ thấy đuốc của chúng sáng rực cả khu rừng. Nhật Duật bình tĩnh cho quân dùng khiên đã được trát một lớp bùn ướt để đỡ tên lửa từ phía quân địch. Nhiệm vụ của toán quân Nguyên này là kéo Nhật Duật dẫn quân đi càng xa trại càng tốt và giữ chân chàng lại nên chúng chỉ cử từng toán nhỏ đánh cầm chừng, vừa đánh vừa khéo léo dụ quân chàng vào bãi mãi phục chúng đã gài bẫy để âm mưu bắt sống chàng.

.

Nạp Tốc Lạt Đinh nhận được tin báo về là Nhật Duật đã dẫn một nửa số quân trong trại đi ứng chiến liền không chậm trễ cho quân xuất phát bất ngờ tấn công Trại Thu Vật từ chính diện. Số quân dùng làm mồi nhử thực chất chỉ có 100 quân nhưng ông ta đã lợi dụng trời tối dùng cách khuếch trương quân số khiến cho quân Trần từ xa trông tới có cảm giác rất đông, rất hùng hậu. Nạp Tốc Lạt Đinh chỉ được giao 1000 quân tiến từ Vân Nam xuống Đại Việt theo phía Tây thế nên ông ta rất cẩn thận trong việc dùng từng người lính một. Lần này Nạp Tốc Lạt Đinh quyết định tập trung lực lượng bất ngờ tấn công sàn bằng trại Thu Vật. Tình hình chiến sự phía đông, đại quân của hoàng tử Thoát Hoan dù giao chiến với đại quân của nhà Trần do đích thân Quốc Công tiết chế của An Nam chỉ huy nhưng không hề gặp khó khăn, quân của thiên triều đang tiến như vũ bão vào chốn không người. Ngày đại quân tiến về Thăng Long sẽ không còn xa nữa. Đây là thời điểm thích hợp để ông ta dẫn quân vượt qua trại Thu Vật rồi.

.

Trong khi Nhật Duật vẫn đang bị giữ chân ở khu rừng cách trại 2 dặm thì quân của Nạp Tốc Lạt Đinh đã áp sát trại. Ông ta cho một toán quân ra khiêu chiến. Số quân Trần còn lại ở trại không có chủ tướng thấy quân Nguyên kéo đến đông như kiến liền nháo nhác như quạ vào chuồng lợn. Quân Nguyên dàn trận trước cổng trại, cờ xí rợp trời, tiếng trống, tiếng tù và liên hồi gióng lên đến chói tai.

Quân Trần nhanh chóng chấn chỉnh đội ngũ, một vị tướng trẻ nhìn chỉ vừa qua ngưỡng hai mươi dẫn quân ra nghênh chiến. Nhìn tương quan lực lượng quân Trần hoàn toàn bị áp đảo. Nếu như Nhật Duật không dẫn một nửa quân đi thì quân số vẫn không thể bằng quân của Nạp Tốc Lạt Đinh.

Nạp Tốc Lạt Đinh ở trên đài cao quan sát. Ông ta chọn một tướng bên mình ra giao chiến với vị tướng trẻ kia. Quân sĩ hai bên án binh bất động xem hai tướng giao chiến trước. Tên tướng Nguyên đầu cạo trọc lốc, to cao vạm vỡ, dáng vẻ bặm trợn, cơ bắp cuồn cuộn, binh khí của hắn là hai quả chùy. Vị tướng trẻ kia thì dáng dấp lại mang vẻ thư sinh nho sĩ hơn là người luyện võ. Người này tuy còn trẻ nhưng phong thái ngoài hiên ngang anh dũng còn mang theo sự ung dung bình thản, đặc biệt toát lên khí chất cao quý dường như chỉ có ở những người mang dòng dõi nhà đế vương. Trời tối nên không nhìn rõ gương mặt của người đó. Vị tướng cầm trong tay cây trường đao. Hai bên cưỡi ngựa xông lên. Tiếng binh khí chạm vào nhau phát ra những âm thanh chát chúa. Hai chùy giáng xuống của tên tướng Nguyên lực mạnh kinh người khiến vị tướng mang dáng dấp thư sinh kia phải dùng cả hai tay mà đỡ, thân đao rung lên, lực truyền vào lòng bàn tay tê rần. Hai người đánh mấy hiệp mà vẫn chưa phân thắng bại. Nhưng có thể dễ nhận ra vị tướng quân Trần đang dần đuối sức trong khi tên tướng Nguyên càng đánh càng hăng. Cuối cùng cũng ngã ngũ. Vị tướng trẻ quay ngựa bỏ chạy. Tên tướng Nguyên liền đuổi theo sát nút quyết không để kẻ địch của mình chạy thoát. Nạp Tốc Lạt Đinh quan sát nãy giờ, bằng kinh nghiệm của mình ông ta liền thấy không ổn, tướng của ông đã trúng kế rồi. Nạp Tốc Lạt Đinh cho người bắn tên còi để ra lệnh tên tướng đầu trọc ngừng đuổi theo nhưng không biết từ lúc nào trên bầu trời đêm lộng gió của núi rừng đã xuất hiện ba con diều sáo bay phất phới. Gió nâng cánh diều lên cao, gió luồn vào ống sáo văng vẳng vi vút. Tiếng sáo diều lấn át tiếng tên còi. Không kịp ngăn lại nữa rồi. Chỉ thấy trong chớp nhoáng thấy vị tướng trẻ đang bỏ chạy kia quay người lại, trường đao sắc lạnh vung lên, cái đầu trọc của tên tướng Nguyên cao to liền lìa khỏi cổ, lăn lông lốc trên mặt đất, máu bắn tung tóe, cái thân hình to lớn đổ ập xuống khỏi lưng ngựa.

Nạp Tốc Lạt Đinh nhíu mày. Ngay từ đầu tướng nhà Trần đã cố tình vừa đánh vừa giữ sức, không đem hết lực ra mà đấu, chỉ bằng kế đả đao đã dễ dàng lấy được đầu của đối thủ.

Sĩ khí quân Trần liền lên cao. Nạp Tốc Lạt Đinh hạ lệnh cho bính lính ồ ạt xông lên tấn công.

Vị tướng trẻ kia quay ngựa lại, rút kiếm bên hông chỉ thẳng lên trời, dõng dạc hô to:

- Xung phong.

Nạp Tốc Lạt Đinh giật mình. Đó chẳng phải là Trần Nhật Duật sao? Vậy thì kẻ đang bị giữ chân ở khu rừng kia là ai?

Trại Thu Vật được dựng ở vùng đất khá bằng phẳng, thoai thoải dốc, xung quanh là rừng rậm và núi đồi vây quanh rất thích hợp để giấu quân mai phục. Quân Trần ẩn nấp bốn xung quanh nghe tiếng hô uy vũ của chủ tướng liền xuất hiện. Bây giờ đến lượt quân Nguyên rối loạn. Nhật Duật vung kiếm:

- Bắn tên.

Tức thì những người lính ẩn nấp bốn xung quanh nãy giờ giương cung, bắn những mũi tên đầu đã tẩm độc lá ngón về phía quân Nguyên đang dàn trận.

Nạp Tốc Lạt Đinh bình tĩnh phất cờ:

- Dàn trận, dùng khiên đỡ tên.

Quân Nguyên lùi xuống để đội quân cầm khiên áp sát sau nhau nhanh chóng di chuyển lên trước, những tấm khiên ráp sát vào nhau vô cùng kín kẽ, chặn lại mưa tên của quân Trần. Tuy nhiên những loạt tên đầu tiên đã găm vào d.a thịt của không ít quân lính Nguyên. Dù mũi tên không trúng vào chỗ hiểm khiến trúng bỏ mạng ngay nhưng khi độc lá ngón ngấm dần vào cơ thể mà không được chữa trị kịp thời thì cái chết là khó tránh khỏi. Ở núi rừng Tây Bắc này thì đâu có thiếu lá ngón.

- Ngừng bắn - Nhật Duật ra lệnh.

Chàng vung kiếm. Những người lính nhận được lệnh liền thả dây giữ bẫy, từ hai bên những bàn chông nhọn hoắt không biết từ đâu xuất hiện lao nhanh về phía quân địch. Liên tiếp bị tấn công bất ngờ, hàng ngũ quân Nguyên bắt đầu nhốn nháo, những tấm khiên lảo đảo.

Nhật Duật cảm nhận hướng gió có lẽ sẽ không đổi liền tiếp tục hô:

- Hất.

Tức thì một toán quân đem những thùng chứa đầy mỡ lợn và gáo dừa ra, nhanh gọn múc mỡ lợn trong thùng hắt về phía quân Nguyên vẫn còn đang hoảng loạn với những bàn chông đang không ngừng lao tới.

- Lên

Toán quân đem mỡ lợn lui xuống, từ trong trại quân Trần ùn ùn đẩy ra những cái xe chất đầy rơm khô. Những xe chất đầy rơm khô này được châm lửa rồi đẩy mạnh về phía quân Nguyên. Mặt đất dốc thoai thoải khiến những chiếc xe đang bốc lửa cháy rừng rực lao nhanh về đám quân Nguyên. Lửa gặp mỡ lợn lại thuận chiều gió càng bốc cháy dữ dội. Đám ngựa tuy được huấn luyện kỹ càng nhưng gặp lửa vẫn không tránh được lồng lên, có con còn hất cả kẻ đang cưỡi trên lưng xuống đất.

- Tiếp tục bắn tên - Nhật Duật phất tay.

Những chiếc xe chứa đầy rơm bốc cháy đã phá vỡ hàng ngũ cầm khiên đỡ tên của quân Nguyên.

Trước tình thế từ chủ động đột ngột bị chuyển thành bị động nhưng Nạp Tốc Lạt Đinh không hề nao núng.

- Bình tĩnh. - Ông ta hô - Dùng khiên đỡ tên. Dùng giáo thọc vào bánh xe hất ngược xe rơm úp xuống đất. Xông lên đánh giáp lá cà. Hãy cho chúng biết thế nào là sức mạnh của vó ngựa thiên triều.

Quân Nguyên là đội quân thiện chiến được trải qua rèn luyện khắc nghiệt thế nên chúng chỉ náo loạn lúc đầu sau đó đã mặc tên bay, chông lao, lửa tạt liều mạng dũng cảm phi ngựa xông lên phía trước tấn công.

Nhật Duật vung kiếm hô:

- Đá.

Những xe đẩy chất đầy đá được đẩy ra. Quân Trần dựng cao một đầu xe để đổ hết đá ở trên xe xuống. Đá theo mặt đất dốc lăn xuống cản trở nước phi của ngựa quân Nguyên. Những tảng đá đập vào chân ngựa khiến nhiều con lảo đảo ngã trên mặt đất, hất người xuống. Kẻ bị hất xuống bị đá lăn vào người, bị vó ngựa và chính đồng đội của mình ở phía sao ào lên giẫm phải.

- Cung thủ - Nạp Tốc Lạt Đinh ra lệnh - Bắn chết đội đẩy xe đá của địch.

Nhật Duật chau mày. Nếu hai bên giáp lá cà thì rõ ràng quân ta yếu thế hơn hẳn về quân số. Nhưng tình thế trước mắt quân Nguyên đã áp sát trại mà chỉ phòng thủ không tấn công thì không thể được. Trận này không có tổn thất về binh sĩ là điều không tưởng.

- Xông lên. Sát Tháttttt - Nhật Duật gầm vang

Quân hai bên tràn vào nhau, chém giết. Nhật Duật dẫn đầu, trường đao vung lên tung hoành dọc ngang, chém đầu quân địch như bổ dưa. Máu bắn lên mặt chàng. Tiếng binh khí va chạm, tiếng d.a thịt bị giày xéo, tiếng ngựa hí, tiếng lửa cháy, tiếng la hét khiến cái yên lặng bấy lâu của núi rừng bị phá vỡ.

- Cấp báo

Nạp Tốc Lạt Đinh đang chăm chú quan sát thế trận, thầm cảm thán ông ta muốn đoạt được trại Thu Vật mà giảm được thương vong xuống mức thấp nhất mà e rằng khó đấy. Bởi Nhật Duật chẳng hề trúng kế dương đông kích tây. So về võ nghệ, cưỡi ngựa bắn cung thì quân Trần cũng chẳng thua kém quân của thiên triều, chúng chỉ thua về quân số mà thôi. Nghe tiếng hô cấp báo từ người lính vừa chạy đến, Nạp Tốc Lạt Đinh quay lại hỏi:

- Có chuyện gì?

- Bẩm Nạp Tốc tướng quân, quân Trần phục kích trại của ta. Chúng phóng lửa đốt trại - Người lính thở hổn hển nói.

Nạp Tốc Lạt Đinh quát lớn:

- Cái gì?

Ông ra vội nhìn về phía nơi mình hạ trại đóng quân, quả nhiên trông thấy những cột khói đang bốc lên nghi ngút và ánh lửa rực sáng một góc trời đêm.

Trận này ra quân tuy không thua những cũng đã thất bại. Nạp Tốc Lạt Đinh liền hạ lệnh thu quân rút lui. Trại Thu Vật kia, ông ta sẽ san bằng nó vào ngày khác.

Không để quân Nguyên lui quân dễ dàng, Nhật Duật cho quân vờ truy đuổi theo một đoạn rồi quay lại. Chàng hạ lệnh cho quân sĩ thu dọn chiến trường và tu bổ tuyến phòng thủ. Nhật Duật vừa trở về trại thì cũng là lúc nhận được tin tốt rằng 100 quân Nguyên ở phía sau trại đã bị tiêu diệt không còn một tên. Người tiểu tướng đóng giả chàng dẫn quân trở về với gương mặt hồ hởi. Đi cùng người đó có cả những người lính mặc trang phục dân tộc miền núi. Đó là chính những người lính của Trịnh Giác Mật cử đến giúp sức. Không lâu sau những người lính cảm tử được cử đến trại của quân Nguyên làm nhiệm vụ cũng đã trở về.

Nhật Duật thở phào nhẹ nhõm khi những gì chàng dự tính đã thuận lợi diễn ra. Đầu óc của vị tướng trẻ luôn căng như dây đàn mấy hôm nay, giờ phút này mới thả lỏng được đôi chút.

- Chiêu Văn vương quả nhiên dự liệu như thần - Một đầu mục của Trịnh Giác Mật không kìm được mà tán thưởng

- Ông quá lời rồi - Nhật Duật lắc đầu khiêm tốn đáp - Chẳng qua Duật tôi may mắn đêm nay gặp được thiên thời địa lợi nhân hòa mà thôi.

Các tiểu tướng nghe Nhật Duật trả lời như vậy càng thêm khâm phục chủ tướng của mình. Họ nhớ lại cuộc họp bàn mấy ngày trước trong trướng chủ tướng càng cảm thấy chủ tướng của mình là người bình tĩnh sáng suốt, cẩn trọng. Nếu không có lẽ hôm nay, quân Nguyên đã san bằng trại Thu Vật rồi.

...

- Cấp báo - Một người lính chạy đến báo tin - Bẩm tướng quân, xin người về trại gấp. Quân ta đi do thám về thấy quân Nguyên đang phục kích từ phía sau trại, có khả năng chúng sẽ tấn công ta từ hai mặt.

Nhật Duật bình tĩnh gật đầu:

- Ta biết rồi.

Đoạn chàng nhanh chóng trở về trại. Nhật Duật cho truyền những người nhận mệnh đi do thám vào để hỏi rõ ràng cụ thể tình hình. Khi những người lính báo cáo xong tình hình rồi lui ra, một vài vị tiểu tướng sốt ruột lên tiếng:

- Tướng quân, quả nhiên là quân Nguyên âm mưu tấn công ta từ hai mặt đưa quân ta vào thế gọng kìm. Trước tình hình như thế này phải sắp xếp lại đội hình trấn thủ trại và cản địch.

- Việc tăng cường phòng thủ từ mặt phía sau của trại ta đã bố trí rồi - Nhật Duật nói. - Kế hoạch tấn công từ hai phía của chúng sẽ không thành công - Đôi mắt sáng của vị tướng trẻ ánh lên sự tự tin mà không biết rằng mình đã bước một chân vào cái bẫy giăng sẵn của kẻ thù.

- Nhưng tâu tướng quân, tuy rằng đã tăng cường phòng thủ nhưng e là vẫn chưa đủ, cần phải điều thêm quân bởi quân ta đi do thám về cho biết quân Nguyên ở mặt sau cả người và ngựa đều khá đông. Lực lượng của ta đang trấn thủ quá mỏng, e là không chống đỡ được những đợt tấn công bất ngờ - Một tiểu tướng chắp tay thưa. Những người khác đều lo lắng đồng tình khi cảm thấy mặt sau của trại quá trống trải.

Nhật Duật nhìn một lượt các gương mặt ngồi trong chướng, cân nhắc rồi mới lên tiếng hỏi:

- Các vị có biết người chỉ huy bên quân Nguyên giao chiến với ta mấy ngày qua là ai không?

- Bẩm tướng quân, là Nạp Tốc Lạt Đinh ạ.

- Còn gì nữa? - Nhật Duật thong thả nhấp ngụm trà rồi hỏi tiếp.

Các tướng quay ra nhìn nhau lộ vẻ bối rối.

- Người xưa có câu biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Quân Nguyên rất giỏi về tâm lý chiến và trước khi ra trận chúng đều dành thời gian tìm hiểu kỹ về đối thủ. Ta e rằng sở trường sở đoản của quân ta Nạp Tốc Lạt Đinh đã nắm rõ. - Nhật Duật ôn tồn nói - Nhà Nguyên trước kia là Mông Cổ có lệ thôn tính được nước nào thì sẽ đặt tại đó một chức quan gọi là Đạt lỗ hoa xích. Kẻ giữ chức quan này có bổn phận giám sát công việc tại đó. Nước ta tuy không phải là nước bị Mông Cổ chiếm đóng nhưng vẫn phải thông hiếu với nhà Nguyên và nộp cống ba năm một lần, ấy thế mà tháng 10 năm Thiệu Long thứ năm (1262), Hốt Tất Liệt vẫn gửi chiếu cho Quan gia vừa đòi cống vật vừa ngạo ngược nói:"Trẫm vẫn cử Nạp Tốc Lạt Đinh đeo hổ phù đi lại trong nước An Nam". Dù ý định của Hốt Tất Liệt khi cử Nạp Tốc Lạt Đinh sang nước ta là muốn biến Đại Việt thành một thuộc quốc nhưng nước ta chỉ coi hắn như một sứ thần. Trong thời gian Nạp Tốc Lạt Đinh ở nước ta, triều đình đã tìm trăm phương nghìn cách cản trở vô hiệu hóa công việc của ông ta, khi thì mềm mỏng mua chuộc, khi thì cứng rắn từ chối. Thế nên tháng 12 năm Thiệu Long thứ 6 (1263), Nạp Tốc Lạt Đinh đã phải về nước.

- Rồi sau đó thì sao thưa tướng quân? - Một người hỏi.

- Còn sao nữa - Nhật Duật cười - Đương nhiên cái gọi là "thiên triều"gửi chiếu sang hăm dọa rằng "Mỗi lúc tâu lên, khanh thường có lời nói thân mật như trong một nhà. Nay nghe Nạp Tốc Lạt Đinh ở bên ấy, có nhiều sự thường bị chống bằng cấm đoán, không cho được hội đàm, quả như thế thì có phải lễ nghĩa thân mật trong một nhà đâu. Nghĩa vua tôi cũng như tình phụ tử, có lẽ gì mà tôi phản vua, con mà phản lại cha sao? Nếu trẫm không nói ra, thì đãi khanh không có sự thành thật, khanh nên nghĩ lại cho chín chắn để tròn sự giao hảo trước sau như một". Thế nên năm Thiệu Long thứ 10 (1267), triều đình buộc phải nhân nhượng cử sứ sang xin cho Nạp Tốc Lạt Đinh làm quan Đạt lỗ hoa xích dài hạn ở nước ta. Ban đầu Hốt Tất Liệt đồng ý nhưng sau lại cử một viên quan khác thay Nạp Tốc Lạt Đinh. Các vị nghĩa sao về việc này?

- Nhà Nguyên không tin tưởng Nạp Tốc Lạt Đinh nên không cho ông ta tiếp tục làm Đạt lỗ hoa xích nữa phải không ạ? - Một người hỏi.

- Việc năm Thiệu Long, khi đó ta còn nhỏ cũng không thể tường tận ngọn ngành - Nhật Duật đáp - Có điều nếu tự ngẫm thì ta thấy như thế này: Trong thời gian một năm Nạp Tốc Lạt Đinh ở Đại Việt, triều đình đã từng dùng cả biện pháp mua chuộc hắn tuy rằng không thành công nhưng việc này cũng để lại gút mắc trong lòng đại hãn nhà Nguyên. Việc triều đình chủ động xin Nạp Tốc Lạt Đinh làm Đạt lỗ hoa xích dài hạn ở Đại Việt càng khiến nhà Nguyên nghi ngờ. Có lẽ vì thế nên cuối cùng nhà Nguyên đã đổi ý cử một người khác sang.

- Nạp Tốc Lạt Đinh ở Đại Việt chỉ khoảng 1 năm, trong thời gian ở Đại Việt lại bị kiềm chế hoạt động do đó hắn không thể thu thập và nắm rõ được tình hình ở Đại Việt - Một người như bừng tỉnh nói - Từ năm Thiệu Long đến nay cũng đã 21 năm. Nạp Tốc Lạt Đinh vừa mới đến, ông ta chưa nắm rõ địa hình và con người ở đây nên sẽ không mạo hiểm cho một số lượng lớn quân của mình phải lặn lội vượt qua rừng thiêng nước độc vòng ra phía sau trại Thu Vật để tấn công đề phòng bị mai phục giữa đường hoặc chậm trễ tiến độ hành quân do không thông thuộc địa hình và cản trở cho việc ra lệnh chỉ huy vì khoảng cách ở xa.

- Chính là như vậy - Nghe vị tiểu tướng nói vậy, Nhật Duật hài lòng mỉm cười gật đầu nói - Thế nên đây chỉ là liên hoàn kế rung cây dọa khỉ, dương đông kích tây, điệu hổ ly sơn của địch mà thôi.

- Tâu tướng quân, vậy bây giờ nên phải làm như thế nào, chúng tướng nguyện một lòng nghe theo tướng quân, chỉ cần giữ được trại thì có chết cũng không từ nan - Chúng tướng chắp tay đồng thanh nói.

- Chúng ta sẽ tương kế tựu kế - Nhật Duật mỉm cười.

......................................

Nạp Tốc Lạt Đinh dẫn quân tức tốc trở về trại thì mới biết hóa ra đây chỉ là một cái bẫy của Nhật Duật bầy ra để dụ ông ta rút quân mà thôi. Khi nghe tin quân Trần tấn công trại, Lạt Đinh đã cảm thấy không ổn vì lực lượng quận Trần ở trên này mỏng, không thể có nhiều quân để dàn trải ra được, như vậy rất mạo hiểm. Nhưng điều ông ta vẫn lo lắng muốn quay về là vì kẻ chống lại quân của thiên triều không chỉ có quân của triều đình mà còn có quân của các tù trưởng miền núi ở đây. Thậm chí những người dân thường đầu tắt mặt tối chỉ biết lên rẫy vào rừng giờ đây cũng biết cầm gươm cầm giáo chiến đấu. Đây chính là điều mà ông ta cảm thất e dè ở mảnh đất phía nam này. Xâm chiếm một đất nước có thành đồng vách sắt không khó bằng một đất nước dù chẳng có lấy bức tường thành nhưng tinh thần dân tộc của đất nước đó lại không gì kiên cố bằng.

.

Quả thật quân Trần phục kích phóng lửa đốt trại nhưng đám cháy không lớn như từ ở xa trông thấy. Nạp Tốc Lạt Đinh cho người đi kiểm tra thì phát hiện ở đằng sau trại của ông ta, có rất nhiều đống củi được chất đang bốc cháy. Quân Trần đã lợi dụng khói lửa để khiến cho ông ta ở xa trông về tưởng tình hình ở trại đóng quân đang rất nguy cấp, còn quân lính đang ở trại thì hoang mang do tưởng quân Trần đông lắm không biết sẽ ào lên tấn công lúc nào trong khi phần lớn binh lính đã theo chủ tướng đi tấn công trại Thu Vật. Quân Trần cũng thật biết chọn chỗ để phóng hỏa. Chúng chọn ngay kho lương. May mà quân lính đã nhanh chóng dập lửa nên không bị tổn thất gì nhiều. Vấn đề là làm sao chúng biết chính xác vị trí của kho lương để mà tấn công. Không lẽ có nội gián. Nạp Tốc Lạt Đinh chau mày và khi nhìn thấy kho lương đã được dập tắt thì ông ta sầm mặt xuống:

- Đám cháy không quá lớn, sao lại dùng nước để dập lửa. Hỏng hết lương thực thì làm sao? Ngươi không biết dùng đầu óc để đẩy các xe chứa lương thực ra khỏi chỗ cháy à? - Lạt Đinh gằn giọng hỏi tên tướng phụ trách kho lương khi chứng kiến cảnh nước chảy lênh láng, những bao lương thực sũng ẩm.

- Hồi tướng quân, ban đầu là thuộc hạ cho quân đẩy xe lương thực ra khỏi kho nhưng các bánh xe và trục xe không biết đã bị trát đầy bùn và đất sét từ bao giờ mà đất với bùn đã khô cứng, không thể đẩy được. Chỗ bị cháy lại ngay đám cỏ khô để cho ngựa ăn nên lửa lan rất nhanh. Trong lúc cấp bách thuộc hạ đành dùng nước để tránh gió to lửa bùng lên không có cách cứu vãn. - Tên phụ trách kho lương vội trả lời.

- Bị trát đầy bùn và đất - Nạp Tốc Lạt Đinh nhíu mày. - Thắp thêm đuốc lên

Ông ta bước vào kho lương quan sát. Quân đội nhà Nguyên dùng xe ngựa để vận chuyển lương thực. Đến nơi hạ trại đóng quân, để thuận tiện cho việc di chuyển, Nạp Tốc Lạt Đinh ra lệnh tháo ngựa khỏi xe, rồi đẩy cả xe chất đầy lương thực vào nơi cất giữ mà không tháo dỡ xuống để tiết kiệm chỗ để.

- Soi đuốc lại đây - Ông ta nói với tên lính cầm đuốc đang đi đằng sau.

Tất cả trục xe và bánh xe đều bị kẹt cứng vì bùn và đất sét trộn với rơm vụn. Nhìn tình trạng như này thì các xe lương thực đã bị quân Trần âm thầm dở trò từ lâu. Ánh mắt của Nạp Tốc Lạt Đinh càng tối hơn khi phát hiện thêm các bao lương thực còn bị chuột cắn phá rất nhiều. Có những bao bị bục, thóc ngô rơi đầy mặt đất.

- Có chuột sao? - Giọng Nạp Tốc Lạt Đinh lạnh lẽo.

- Hồi tướng quân, nơi đây núi rừng rậm rạp ẩm ướt, việc có chuột là không thể tránh khỏi. - Viên tướng quản lương trả lời

- Phải, không tránh khỏi cả bầy chuột - Nạp Tốc Lạt Đinh cười khẩy, tức giận kéo một bao lương thực ở trên nóc vất xuống đất, những bao bên dưới hầu như đều đã bị chuột cắn, thậm chí có bao chuột vẫn còn lúc nhúc ở bên trong chưa kịp thấy động mà bỏ chạy

- Không phải tự dưng mà chuột nhiều như thế này. Có kẻ đã động tay động chân đem bã rượu rắc ở đây, mùi thơm đã dụ chuột đến - Nạp Tốc Lạt Đinh ném một nhúm bã rượu vừa tìm thấy xuống đất, ánh mắt sắc bén của ông ta nhìn xoáy vào viên quản lương - Ngươi trả lời thế nào về những chuyện này đây?

Viên quản lương run lẩy bẩy:

- Là do tiểu nhân thất trách. Xin tướng quân cho cơ hội lập công chuộc tội để tiểu nhân tra rõ vụ việc.

- Giáng chức xuống làm binh. Trong vòng 3 ngày ngươi không tìm ra được nguyên nhân thì cái đầu cũng không cần ở trên cổ nữa - Nạp Tốc Lạt Đinh nói rồi bỏ đi.

Nhưng vụ bê bối ở kho lương chưa phải là tin xấu cuối cùng trong ngày ông ta nhận được. Bởi cái tin 100 quân ông ta cử đi làm mồi nhử đều bị giết sạch không còn một mống đương nhiên chẳng phải là một tin tốt đẹp gì. Những cạm bẫy quân Nguyên dựng sẵn để mai phục hòng bắt sống Nhật Duật không biết đã bị quân dân vô hiệu hóa tự lúc nào, không những thế chính 100 quân sĩ này lại rơi vào bẫy mai phục của kẻ địch. Những tên lính được phái đi do thám về đều bị ám ảnh bởi những hình ảnh xác của đồng đội mình ở dưới hầm chông nhọn hoắt, bẫy thú sắc bén, ổ rắn độc dường như họ đã phải trải qua sự đau đớn vô cùng trước khi chết. Tất cả đều chết hết nên quân Nguyên chẳng thể rõ được rốt cục điều gì đã xảy ra ở khu rừng phía sau trại Thu Vật. Điều duy nhất khi những tên lính do thám đến nơi nghe được từ miệng của một người đang hấp hối là:

- ...Thoắt ẩn.....thoắt hiện....từ trên trời...rơi xuống.....từ dưới đất...chui....lên....

Dù lời nói của người này không ra đầu ra đuôi nhưng cũng đủ để hiểu quân Trần ở đó không thể đông đến đến 300 quân như do thám báo về. Nạp Tốc Lạt Đinh nhíu chặt đôi mày. 300 quân đó có lẽ đã thực sự rời khỏi trại nhưng sau đó đã đi đường vòng để quay lại trấn thủ tại trại Thu Vật chỉ còn một nhóm nhỏ ở lại phối hợp quân của các tù trưởng miền núi vùng này phục kích tấn công 100 quân của ông ta mà thôi.

- Người đâu dẫn đường. Ta muốn đến xem nơi quân của thiên triều bị mai phục để xem cái gì gọi là thoắt ẩn thoắt hiện, từ trên trời rơi xuống, từ dưới đất chui lên.

.

Nạp Tốc Lạt Đinh lặng người nhìn cảnh tượng trước mặt. 100 binh sĩ tinh nhuệ chết vì sập bẫy. Hố sâu đầy chông tre. Hai người lính đang hì hục lôi xác đồng đội đầy lỗ thủng từ dưới hố chông lên. Những mũi chông nhọn hoắt nhuộm máu tươi, còn dính cả d.a thịt kẻ xấu số. Hố chông không chỉ đơn giản là chôn những mũi chông tre nhọn. Có hố có chông cắm chéo, bên trên có một tấm ván tròn có dây cung kéo cong nối với những mũi chông sắc nhọn. Khi có kẻ không may dẫm chân lên cái hố đã được quân Trần ngụy trang khéo léo bằng lá cây khô, chân sẽ bị thụt xuống và kéo theo cả tấm ván mỏng, lúc này bốn mũi chông từ bốn bên đâm xuyên vào đùi, các mũi chông đâm chéo vào cổ chân. Muốn kéo người bị thương ra khỏi hố thì bắt buộc phải đào rộng miệng hố và lôi cả những mũi chông lên. Kẻ sập bẫy dẫu không chết ngay nhưng chắc chắn sẽ bị tổn thương hoàn toàn phần chân. Một cái bẫy rùng mình nhưng nó chưa phải là ác mộng kinh hoàng. Thứ chông được gắn trên hai trục tròn quay tự do, khi có người giẫm lên nó sẽ tại ra rất nhiều lỗ thủng trên cơ thể người đó. Thứ chông này khiến cho kẻ mắc bẫy chết trong đau đớn và đem lại ám ảnh cho kẻ chứng kiến.

Nạp Tốc Lạt Đinh cau mày nhìn thi thể một binh lính được khiêng qua.

- Hắn làm sao chết?

- Bẩm tướng quân, anh ta bị cây tre gắn đầy thanh tre và gỗ vót nhọn trên thân quất ngang người nên đã tử vong ngay tức khắc.

- Vô dụng - Nạp Tốc Lạt Đinh hừ lạnh - Binh sĩ của thiên triều võ nghệ cao cường, sao lại có thể không tránh được một đòn tấn công của bọn quân Trần như thế chứ. Chết là đáng.

- Hồi tướng quân, không phải là không tránh được mà quá bất ngờ không thể tránh kịp. Cây tre gắn đầy thanh tre và gỗ vót nhọn được uốn cong, buộc vào một cái giá để giữ và kết nối với sợi dây câu giăng ngang tầm đầu gối. Anh ta không may vướng dây bẫy, dây bị kéo căng làm chốt h.ãm cần bật bung ra tức thì cây tre sẽ quất ngang người. - Người lính khiêng thi thể lau mồ hôi trên trán trả lời.

Nạp Tốc Lạt Đinh khoát tay để hai người lính tiếp tục khiêng xác đi. Ông ta rảo bước đến phía trước, đôi mày càng cau chặt hơn khi nhìn những thi thể nằm la liệt trước mặt. Những người này chết do bị những bao đá, những tấm đan tua tủa mũi chông sắc nhọn lao từ trên các thân cây cao ngoài tầm nhìn xuống. Cái bẫy được giấu trên cây này một lúc đã cướp đi sinh mạng của rất nhiều kẻ thiện chiến đển từ thảo nguyên.

Trần Nhật Duật, Nạp Tốc Lạt Đinh đã coi thường con người trẻ tuổi, không có nhiều kinh nghiệm chiến trận này. Nhưng thế là đủ rồi, từ bây ông ta sẽ không chủ quan khinh địch nữa.

............................................................

Nạp Tốc Lạt Đinh tức giận đập tay xuống mặt bàn:

- Hoang đường. Quân bay đâu, đem những kẻ này chém đầu cho ta. Coi thường quân kỷ, tội đáng muôn chết.

Những kẻ trông coi kho lương đều bị Nạp Tốc Lạt Đinh xử phạt. Chuyện xảy ra ở kho lương nay đã được làm sáng tỏ. Ngày đó có một nhóm người dân tộc Mông [2] đẩy những xe chất đầy bưởi Khả Lĩnh và rượu ngô Na Hang đi ngang qua trại. Đám người chủ yếu là nữ, những cô gái xinh đẹp đang độ trăm rằng mười mấy đôi mươi, mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu, dáng vẻ vội vã đã thu hút sự chú ý của đám lính gác trại. Nhân lúc chủ tướng rời trại, chúng liền hùa nhau giữ đám người lại, lôi vào trong trại để cướp rượu và bưởi. Những người thiếu nữ run rẩy rót rượu hầu bọn lính, bổ bưởi cho bọn chúng. Rượu ngô Na Hang của nơi vùng núi Tây Bắc này khiến người uống say như điếu đổ vì chất ngô ngọt lử, vì cái quyến rũ của men từ lá rừng, vì hương vị thơm mát lan tỏa khắp cơ thể dù chỉ mới nhấp một ngụm. Và rượu ngô Na Hang càng khiến những kẻ đến từ thảo nguyên say hơn khi trong rượu có thuốc mê. Người đàn ông dẫn đầu đoàn người bộ dáng khúm núm sợ sệt đứng ra nói là họ sẽ biếu hết chỗ rượu ngô và bưởi cho các tướng quân, chỉ mong các tướng quân thả cho họ đi, rượu và bưởi nhiều quá để họ chuyển vào kho cho các tướng quân. Bọn lính đã ngà ngà say, tâm trí đâu còn tỉnh táo, say vì rượu, say vì thuốc mê, say vì vị ngọt mát của bưởi, say vì gái đẹp nên dễ dàng đồng ý, lại còn thoải mái ra lệnh cho đám người chuyển bưởi và rượu vào kho. Đâu có ai trong chúng nghĩ đến việc kiểm tra xem trong ruột những bình rượu ấy chứa những gì, đâu có ai trong chúng nghĩ ra những quả bưởi kia trong ruột không phải là những múi mọng nước mà đã được chứa đầy bùn và đất sét cùng rơm vụn, bã rượu.

.

- Dẫn quân dọn sạch các bản làng quanh đây cho ta - Ánh mặt Nạp Tốc Lạt Đinh lạnh lẽo - Giết hết không còn một mống.

Trước giờ, ông ta chỉ dè chừng đội quân của các tù trưởng ở vùng Tây Bắc này của Đại Việt, nay mới chợt nhận ra còn những người dân ở đây nữa.

...............................................................

Nhật Duật duỗi tay để con chim bồ câu lông xám đậu xuống tay mình. Gỡ lấy thư buộc ở chân chim rồi thả cho nó bay đi. Nhật Duật mở mẩu giấy ra đọc. Trong thư Huyết Lệ nói người của Phụng Dược cung sẽ đến các mặt trận để giúp đỡ. Chàng đốt mẩu giấy đi. Có sự giúp đỡ của Phụng Dược cung thì vấn đề y lý thuốc men xem như đã không còn phải lo lắng quá nhiều. Chỉ là chàng không ngờ mình vừa nhận được thư chưa bao lâu thì người của Phụng Dược cung phái tới đã đến nơi.

- ... Ẳng...gâu...gâu.ư...ư

Chàng còn chưa nhìn thấy mặt ngang mũi dọc những người được Phụng Dược cung gửi đến như thế nàng thì đã nghe thấy tiếng nói...à nhầm tiếng sủa quen thuộc.

Một cục bông lao vụt vào quấn quýt quấn lấy chân chàng đến khi chàng phải cúi xuống vỗ đầu nó thì nó mới thôi quấn nhưng cái đuôi vẫy ngoáy tít thò lò.

Hachiko ở đây nghĩa là người đó cũng đến cùng người của Phụng Dược cung ư. Quả thật, khi Nhật Duật ngẩng đầu lên, dù vóc dáng trẻ con nhỏ bé nhưng chàng vẫn dễ dàng nhìn thấy Haibara đứng lẫn trong nhóm người vừa được lính dẫn tới.

Nhật Duật hỏi han người phụ trách nhóm vài điều rồi sai người an bài chỗ ở thỏa đáng cho họ, cất chỗ thảo dược được quyên tặng vào kho. Nhóm người cúi chào Nhật Duật rồi cáo lui:

- Khoan đã, nhóc con kia lại đây - Vẻ mặt Nhật Duật giữ nguyên nét đạo mạo nghiêm túc khi nói câu này. - Đừng quên dắt theo chú chó của mình đi chứ. - Đôi mày chàng hơi cau lại khiến đám người Phụng Dược cung và lính gác không rõ sự tình tưởng tướng quân có điều phật ý.

- Thưa vâng - Haibara nghiến răng đáp, nàng hắng giọng - Hachiko đi nào.

Nhưng chú cún đang ngồi chồm hỗm dựa vào chân Nhật Duật kia chỉ nghiêng đầu nhìn nàng mà chẳng có ý định nghe lời. Con cún bướng bỉnh này đang mùa thay lông, thời tiết ở đây hanh khô, Haibara ái ngại nhìn lông chó bắt đầy vào quần áo của vị vương gia cao quý. Nàng nghĩ đến khung cảnh Nhật Duật xông pha chiến trường, vung đao đánh giặc, lông chó bay lả tả, kể ra cũng là một khung cảnh hiếm có.

Haibara lặp lại lần nữa:

- Hachiko....lại đây... - Nàng vừa gọi vừa tặc lưỡi

Vẫn không nhúc nhích. Trước rất nhiều ánh mắt đang đổ dồn vào mình với đủ loại sắc thái biểu cảm, Haibara đành chép miệng:

- Chi Bảo đi thôi

Tức thì con chó kia liền đứng dậy, dụi dụi đầu mấy cái vào chân Nhật Duật rồi chạy lại chỗ nàng, cái đuôi vẫy tít thò lò. Và Haibara đã thấy vị tướng quân trấn thủ trại Thu Vật kia tủm tỉm cười dù chỉ là thoáng qua. Thật đáng ghét, rõ ràng là cố tình mà. Haibara quay lại nhìn Nhật Duật lần nữa rồi mới rời đi. Chàng gầy đi trông thấy, hai mắt thâm quầng dường như đã thức trắng mấy đêm, gò má hốc hác. Nước da thư sinh trắng trẻo nay đã sạm đi, cằm lún phún râu, dáng vẻ nhuốm sự mệt mỏi phong trần. Nhưng ít ra vẫn còn bình an đứng đó. Bắt gặp ánh mắt của nàng, Nhật Duật mỉm cười khẽ gật đầu.

.

Nhật Duật thở dài. Chàng cũng đoán được Haibara sẽ không lựa chọn an nhàn ở lại Phụng Dược cung nhưng không nghĩ đến sẽ gặp nàng ở nơi binh đao chiến loạn máu chảy đầu rơi này nhanh như vậy. Chàng sợ mình phân tâm. Chàng biết rõ quân mình đang lực mỏng sức yếu, đang hết sức cầm cự. Sau trận đánh ngày hôm ấy, Nạp Tốc Lạt Đinh liên tục cho quân tấn công trại Thu Vật đồng thời càn quét các bản làng xung quanh, một số tù trưởng đã đầu hàng quân Nguyên. Việc tù trưởng đầu hàng là vấn đề khiến Nhật Duật e ngại nhất. Điểm yếu của quân Nguyên là không thông thuộc địa hình sông núi ở đây nhưng nay chúng đã mua chuộc được các tù trưởng. Nhìn những bản làng bị quân thù thảm sát, không tha cả người già trẻ con mà mình không thể làm gì, cảm giác bất lực giày vò Nhật Duật. Số quân chàng có trong tay chỉ đủ để cầm cự giữ trại Thu Vật, cản bước chân kẻ địch tiến sâu hơn nữa vào lãnh thổ mà thôi. Chàng không thể điều quân để bảo vệ các bản làng. Máu đã nhuộm đỏ con suối trong lành ngày nào, tiếng kêu căm phẫn, tiếng khóc than đã thay cho tiếng sáo tràn trề nhựa sống xưa kia. Quân Nguyên đã tàn phá cuộc sống thanh bình, đã hủy diệt biết bao gia đình. Nhưng chàng chỉ có thể trơ mắt đứng nhìn, im lặng nghe tin tức báo về mà chẳng thể làm gì. Đây là kế khích tướng của giặc, chàng không thể chỉ vì một phút yếu lòng mà trúng kế được.

................................................................

Haibara cùng đoàn người Phụng Dược cung không có nhiều thời gian nghỉ ngơi. Họ bắt tay ngay vào việc bắt bệnh chữa thương cho binh lính. Trong lúc đi phát thuốc, Haibara được nghe kể về trận chiến vừa diễn ra mấy hôm trước. Ly kỳ nhất là về cái cách mà những người lính xuất thân từ những người nông dân chân lấm tay bùn này đã tiêu diệt 100 kỵ binh Mông Cổ tinh nhuệ chỉ bằng chông tre. Haibara giật mình, đây chẳng phải là lối đánh du kích nàng đã từng được nghe nói đến trong cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam đó sao.

- Này Ai, xong chưa thì mau lại ăn cơm - Tiếng gọi khiến Haibara giật mình

- Em xong rồi ạ - Nàng đáp rồi chạy theo người vừa gọi mình.

Rửa tay sạch sẽ rồi vào lán, Haibara thấy những người của Phụng Dược cung đã sắp xong mâm bát. Bữa cơm nơi doanh trại đang trong chiến tranh không thể đòi hỏi quá nhiều. Nàng nhìn quanh rồi hỏi:

- Chị Khánh không lại ăn cơm ạ?

Một người lắc đầu chẹp miệng:

- Cái con bé ấy không biết từ sáng đến giờ đi đâu mà không có thấy.

- Vậy ạ? Mọi người cứ ăn trước đi, để em đi tìm chị ấy. - Haibara nói rồi toan đứng dậy

- Em cứ ăn xong cơm đi rồi hẵng hay - Người phụ trách đoàn nói - Chúng ta đến đây là để giúp đỡ đừng khiến mọi việc thêm loạn. Chiến tranh mà, phải tự lo cho bản thân tốt trước đã thì mới làm được việc khác, không thì chỉ là gánh nặng làm người khác thêm khổ mà thôi. Khánh nó tự biết lo cho mình. Không thể vì một người mà ảnh hưởng đến những người khác được. Chúng ta đang sống trong doanh trại nên phải sinh hoạt theo kỷ luật của doanh trại. Cơm của Khánh mọi người đã để phần rồi. Em đừng lo.

- Vâng - Haibara tần ngần rồi ngồi xuống. Những điều người kia vừa nói đều đúng.

...................................

Khánh trở về khi trại đã lên đuốc từ lâu. Nàng trệu trạo nhai cơm, thất thần dọn dẹp rồi lủi thủi về chỗ ngủ ngồi bó gối. Đôi mắt đỏ hoe, lệ đọng trên mi còn chưa khô. Đôi tay run run lấy chiếc khăn piêu dính máu ra nhìn, lệ lại nhòe.

- Chị làm sao vậy?

Haibara lặng lẽ ngồi xuống cạnh Khánh, dịu giọng hỏi. Nàng nhìn chiếc khăn thổ cẩm màu sắc sặc sỡ mà Khánh đang cầm trên tay. Nàng từng mấy lần theo Nhật Duật lên Tây Bắc, Haibara nhận ra đây là chiếc khăn đội đầu của các cô gái thuộc dân tộc Thái ở trên này. Nhưng đường thêu của chiếc khăn này non nớt, vụng về chứ không tinh xảo như những chiếc khăn mà Haibara đã từng thấy. Chiếc khăn dính máu, dù vết máu đã khô và bị màu sắc rực rỡ của chỉ thêu lấn át nhưng Haibara vẫn nhận ra.

Nước mắt Khánh lăn dài. Haibara nhìn thấy trong đôi mắt của nàng sự đau thương mất mát và rõ ràng nhất là căm hận. Ánh mắt ấy vừa quen vừa lạ. Đó là ánh mắt của người mất đi người quan trọng nhưng sự căm hận trong ánh mắt đấy chỉ có thể xuất phát từ mối thù sâu hơn vực cao.

- Chết rồi. Bị giết chết rồi. Bọn Thát man rợ đã giết chết chàng. - Khánh thẫn thờ nói.

- Chàng? Là người chị muốn tìm khi lên đây đúng không? - Haibara hỏi

Khánh gật đầu.

- Năm đó, chị lần đầu theo các anh chị trong Phụng Dược cung lên đây hái thuốc. Chị đã bị lạc trong rừng, còn bị rắn độc cắn rồi ngã xuống vực, bị gãy chân. Giàng A Tu đã cứu chị. Chàng giúp chị hút nọc độc của rắn ra, cõng chị xuống dốc núi, đưa chị về nhà, chăm sóc chị. - Khi nhắc đến Giàng A Tu, ánh mắt Khánh trở nên xa xôi như trôi về những ngày tháng êm đềm hạnh phúc được bên nhau ấy. - Trong thời gian chờ chân khỏi, chị đã học và tập thêu chiếc khăn piêu này. Ngày chân chị vừa lành thì cũng là lúc đoàn người đi cùng tìm được chị. Khi chị theo đoàn người trở về xuôi, Giàng A Tu đã tặng chị đôi vòng bạc này - Khánh vuốt ve đôi vòng bạc đeo ở cổ tay - Chị đã từ chối nhận vì mình không có gì để tặng lại chàng. Giàng A Tu bảo thế thì chàng muốn chiếc khăn piêu này. Lúc ấy chị rất ngạc nhiên vì Giàng A Tu thường hay trêu chị, chê chiếc khăn này xấu thảm hại, chứng tỏ người thêu vụng dại, lười nhác. Chị đã đồng ý tặng nó cho chàng. Chàng nhận khăn rồi cười, nói là đã nhận khăn rồi sẽ không bao giờ trả lại, bắt chị hứa nhất định phải quay về đây tìm chàng. Sau này chị mới biết hóa ra người con gái Thái chỉ tặng khăn piêu cho người con trai mà họ yêu. Nếu không yêu nữa hoặc không đến được với nhau thì người con gái sẽ xin lại khăn. Ngày đó chị trở về xuôi, vẫn nhớ lời hứa sẽ quay lại nhưng mãi hôm nay mới thực hiện được thì chàng đã không còn nữa. - Khánh khóc nấc lên - Bọn Thát kéo vào bản tàn sát. Chàng bị chúng giết rất dã man. Chúng mổ bụng moi ruột móc gan chàng. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, chàng đã nhờ người bạn trả lại chị chiếc khăn này. - Khánh úp mặt vào hai bàn tay nức nở. - Chàng....hức....chàng đã nói...là...là sẽ không bao giờ trả lại khăn....thế mà.... Già làng dạy chị thêu khăn cũng bị bọn chúng giết rồi. Già rất thương chị. Coi chị như con. Từ nhỏ chị đã mồ côi cha mẹ. .....hức....già là người đã cho chị cảm giác biết có mẹ là như thế nào....

Haibara vỗ nhè nhẹ lên lưng Khánh thay cho lời an ủi. Nàng đã hiểu sự căm thù trong đôi mắt Khánh là gì, đó là sự căm thù dành cho giặc Nguyên, những kẻ đang chà đạp lên quê hương nàng, và đau đớn nhất là chúng đã giết hại những người mà Khánh yêu thương. Haibara nhìn chiếc khăn piêu dính máu mà không khỏi thở dài. Cảm giác mất đi người thân như thế nào, nàng đã từng trải qua. Chiến tranh chỉ mới bắt đầu thôi. Không biết nàng sẽ còn phải chứng kiến bao cảnh đau thương, sinh ly tử biệt như thế này nữa.

Chú thích:

[1] Số quân 400 của Nhật Duật trấn giữ ở trại Thu Vật là hư cấu

[2] Mông, Thái: Những dân tộc thiểu số trên Tuyên Quang
 
Hiệu chỉnh:
Lần nào cũng phải mòn mỏi chờ đợi mới có chương mới. Qủa thật em cực kì ngưỡng mộ chị.
Bao nhiêu thông tin như vậy không phải muốn tìm là thấy ngay được. Bao nhiêu công sức đổ vào một chương quả thật khiến mọi người phải thán phục.
Chị có văn phong rất tự nhiên, như kể một câu chuyện thường ngày làm em cứ bị cuốn theo mãi thôi.
Đọc chùa mãi rồi mà chỉ có từng này dòng gửi chị thật tội lỗi. Hic thui chữ ít lòng nhiều được không ạ?????
 
chị ơi câu nói của Nhật Duật phần đầu là "phỏng thủ" kìa
@Nhã Quân còn từ "giật minh" và "thua triều" nữa chị ạ
 
Hiệu chỉnh:
@Nobi Nobisuke chắc chị sửa bị sót để bao h bật máy tính thì sửa lại. Chi tiết bắn cung xuống nước dò độ sâu của sông chị đọc được trên mạng khi tìm hiểu về chiến tranh lần thứ nhất và đây là cho tiết đã được lịch sử ghi nhận
 
Chương 51: Chuyện cũ ở Cối Kê

Khánh cuối cùng cũng mệt quá mà thiếp đi. Haibara đứng dậy đi ra ngoài lán, nàng muốn hít thở không khí trong lành lành lạnh sương của núi rừng nhưng không biết có phải do ảo giác hay không mà nàng cảm thấy trong gió có mùi máu và mùi tử thi.

- Chưa ngủ hả em.

Nghe tiếng nói, nàng quay lại, thì ra là Kiên, người phụ trách đoàn của Phụng Dược cung.

- Vâng. Nhưng em cũng vào ngủ ngay thôi - Nhớ đến thái độ nghiêm khắc ban ngày của Kiên, Haibara liền trả lời.

- Sáng mai, em hãy thu xếp về gia trang đi. Phiêu kỵ tướng quân không đồng ý có trẻ con ở trong doanh trại. - Kiên nói.

- Phiêu kỵ tướng quân? Là Chiêu Văn vương ạ? - Haibara nhíu mày.

Kiên trầm mặc gật đầu.

- Em vốn là thư đồng của đức ông. Chủ nhân ở đâu thì thư đồng nên ở đó - Nàng đáp.

- Nơi này là chiến trường, không cần thư đồng. - Kiên lắc đầu - Em nghe lời anh về gia trang đi. Ở đó sẽ tốt cho em hơn.

- Điều này đương nhiên em biết. Em sẽ suy nghĩ sau khi nói chuyện với đức ông - Haibara gật đầu.

Kiên ngạc nhiên. Không hiểu sao chàng cứ cảm giác đứa trẻ này chẳng giống những đứa trẻ bình thường. Chững chạc, chín chắn, điềm tĩnh và cả thông minh sắc sảo.

- Vậy được - Chàng nói - Cũng không còn sớm nữa, em đi nghỉ đi. Ngày mai còn nhiều việc phải làm đấy.

Tù...tù...tù.....

Tùng.....tùng......tùng

Tiếng tù và, tiếng trống nổi lên dồn dập. Không khí trong trại lập tức trở nên căng thẳng.

- Bọn Thát lại tấn công đấy. Mau về chuẩn bị cứu thương - Dứt lời đoạn Kiên quay người chạy đi. Haibara chạy theo.

Khi nàng về đến nơi ở của nhóm người Phụng Dược cung thì mọi người đã khoác hòm thuốc lên vai, sẵn sàng ra chiến trận cùng binh lính. Một số được phân công đem theo cáng, võng để vận chuyển binh lính bị thương về trại, một số ở lại trại. Nàng cũng chẳng chậm trễ mà đeo hòm thuốc của mình lên vai, tuy nhiên Haibara vừa mới dợm bước thì Kiên đã lên tiếng:

- Em ở lại trong trại với mấy người này đi. Gươm giáo không có mắt.

- Nhưng...

- Đây là lệnh của Phiêu kỵ tướng quân. Là quân lệnh - Kiên nghiêm giọng

- Thưa vâng - Haibara đáp.

....

Tiếng gươm giáo chát chúa, tiếng gào thét, tiếng hô hào, tiếng ngựa hí, tiếng trống từ bên ngoài vọng về khiến Haibara cảm thấy sốt ruột. Những ngày gần đây quân Nguyên liên tục tấn công lúc thì vào trại khi thì vào quân của các tù trưởng, khi thì vào bản làng. Quân dân Đại Việt lâm vào thế lao đao, không biết còn cầm cự được đến bao giờ, vừa phải đánh vừa bảo toàn lực lượng, vừa không để địch chiếm thêm đất lấn lấy sông. Haibara leo lên đài cao dùng để canh gác của trại. Từ đây nàng có thể nhìn thấy chiến trường đẫm máu đang diễn ra ở xa. Đây là lần đầu tiên nàng được tận mắt chứng kiến chiến tranh, người và người điên cuồng lao vào chém giết nhau, chém giết đồng loại. Máu chảy, đầu rơi, thịt nát, xương tan. Nàng có thể trông thấy tấm áo choàng của người đó tung bay phần phật trong gió, trường đao trên tay tung hoành ngang dọc, lấy đầu giặc như bổ dưa. Người đó từ trước đến giờ luôn nhã nhặn độ lượng, trong nhà còn chẳng chứa roi vọt để đánh kẻ hầu người hạ, nay trên chiến trường đã hoàn toàn biến thành người khác, không khoan nhượng, không run tay mà liên tục giết người đoạt mạng. Nhưng vì đây là chiến tranh. Chiến tranh không phải trò đùa. Ngươi sống thì ta chết. Hai tiếng "đất nước" thiêng liêng để người ta dám làm những điều phi thường mà bảo vệ khỏi vó ngựa của quân xâm lược. Haibara mở to mắt lo lắng. Nàng trông thấy có tên lính Nguyên đang giương cung tên bắn lén Nhật Duật. Hai bàn tay vô thức vò chặt vạt áo. Liệu chàng có phát hiện ra để tránh không. Liệu có ai báo cho chàng biết không. Liệu có ai bảo vệ chàng không. Liệu.... Haibara bất lực nhìn mũi tên xé gió lao nhanh rồi cắm phập vào vai Nhật Duật. Chủ tướng bị thương, đội hình quân Trần bắt đầu rối loạn. Nhật Duật vung đao chém gãy cán mũi tên rồi hạ lệnh rút quân. Tiếng trống thu quân vang lên. Nhưng quân Nguyên bao vây chặt quá, Nhật Duật cùng quân lính của mình phải chật vật mới rút được về trại. Haibara vội chạy xuống đài gác. Chiêu Văn vương ngài sẽ ổn đúng không?

...

Những thương binh nhanh chóng được chuyển về nơi cứu chữa. Quân y cùng người của Phụng Dược cung cùng quay cuồng, vắt chân lên cổ cứu bệnh nhân. Kiên cùng vài vị thầy thuốc tức tốc đến lều của Nhật Duật. Haibara nóng ruột liền đi theo. Lần này Kiên không cản nàng. Nhật Duật đang ngồi tựa lưng trên gi.ường, tuy chàng vẫn còn tỉnh táo nhưng sắc mặt đã tái nhợt, môi tím tái.

- Tên có tẩm độc. - Kiên lên tiếng. - Vương gia, bây giờ thảo dân phải rút mũi tên này ra, hút máu độc và khoét phần thịt đã bị ngấm độc xung quanh mũi tên đi. Sẽ rất đau.

- Không cần dài dòng - Nhật Duật khoát tay - Cần làm gì thì làm đi.

Đoạn mấy người tiến lên, người đỡ Nhật Duật, người cởi khôi giáp. Kiên thận trọng hai tay nắm lấy đuôi mũi tên rồi rút mạnh. Nhật Duật cắn mạnh vào môi để tránh hét lên. Máu bắn tung tóe lên mặt chàng, lên mặt Kiên, xuống nền đất. Miệng vết thương đã thâm đen lại. Kiên dùng rượu rửa dao rồi đưa lên rạch vết thương để hút độc.

- Khoan đã - Haibara nói

- Gì đây nhóc - Khóe môi nhợt nhạt của Nhật Duật nhếch lên

- Rửa dao bằng rượu như thế vẫn chưa sạch có thể làm vết thương nhiễm trùng. Đưa con dao cho em - Nàng nói với Kiên rồi lôi từ hòm thuốc của mình ra một bình sứ nhỏ. Trong bình chứa cồn i ốt. Haibara để dao lên một cái khay đồng, đổ cồn ngập dao rồi châm lửa. Ngọn lửa bùng lên cháy quanh con dao. Khi cồn cháy hết, nàng nói - Bây giờ có thể dùng được rồi.

Kiên gật đầu, nhấc dao lên xử lý vết thương của Nhật Duật. Dù đã dùng thuốc mê nhưng đôi mày Nhật Duật vẫn nhíu chặt vào nhau. Mồ hôi trên trán chàng rịn ra. Vết thương phải thật lâu mới xử lý xong rồi băng bó. Cũng may không ảnh hưởng đến tính mạng. Một người quân y được cử lại để chăm sóc dưỡng thương cho Nhật Duật.

- Em đi theo anh lấy thuốc sắc cho vương gia - Kiên nói rồi khoác hòm thuốc rảo bước đi trước.

- Vâng - Haibara ngoái đầu nhìn Nhật Duật rồi nhanh chóng đi theo.

Nàng vừa về đến lán cứu thương thì đã nghe tiếng kêu la đau đớn của binh lính bị thương. Một vài thi thể đang được khiêng đi. Không khí tràn ngập sự tang tóc. Một vị quân y lắc đầu thở dài não nề. Người lính đang nằm trên cáng, máu me bê bết, thều thào nói:

- Đại nhân đã cố hết sức rồi. Tại tiểu nhân mệnh ngắn.

Haibara nhìn đồng tử người này đã giãn rộng biết là không thể cứu chữa được nữa, người lính đó sắp kết thúc sinh mệnh rồi.

- Ngươi còn tâm nguyện, trăn chối gì không? - Vị quân y ân cần hỏi.

- Tôi chỉ muốn nghe một điệu quan họ ở quê nhà. Quê tôi ở lộ Bắc Giang [1].

- Được, để tôi hát cho chàng nghe - Khánh nãy giờ đứng lặng yên bên cạnh phụ giúp vị quân y nghe vậy liền lên tiếng - Quê tôi cũng ở lộ Bắc Giang.

Người lính nghe Khánh nói, gặp được đồng hương, trong đôi mắt sắp lụi tàn sự sống liền ánh lên vui mừng, anh ta đưa tay run rẩy vào trong ngực áo lấy ra một chiếc trâm đẽo từ ngà voi đưa cho Khánh:

- Nếu cô nương có về quê, qua...qua làng Vân, gặp nàng Mai con thầy đồ Trung thì hãy đưa nó cho nàng, nói tôi xin lỗi.... Mong cô giúp cho....

- Được - Khánh đưa tay nhận lấy chiếc trâm chưa được mài giũa hoàn thiện vẫn còn thô kệch, bị máu nhuốm lên che mất màu trắng vốn có của ngà voi -Yên tâm, tôi sẽ giúp anh trao tận tay nàng Mai.

Người lính gật gật đầu biết ơn.

"Bèo dạt mây trôi, chốn xa xôi,

Anh ơi em vẫn đợi bèo dạt.

Mây trôi, chim sa, tang tính tình, cá lội

Ngậm một tin trông, hai tin đợi, ba bốn tin chờ

Sao chẳng thấy đâu.

Một mảnh trăng treo, suốt canh thâu,

Anh ơi trăng đã ngã ngang đầu

Thương nhớ ai, sương rơi đêm sắp tàn trăng tà,

Cành tre đu trước ngõ

Là gió la đà em vẫn mong chờ, sao chẳng thấy anh.

Ngày ngày ra trông, chốn xa xăm

Anh ơi, em vẫn đợi, mỏi mòn

Ra trông Sao xa tang tính tình cá vờn

Người đi xa có nhớ là nhớ ai ngồi trông cánh chim trời.

Sao chẳng thấy đâu.

Mòn mỏi đêm thâu suốt năm canh.

Anh ơi em vẫn đợi mỏi mòn

Thương nhớ ai.

Chim ơi, cho nhắn một đôi lời

Người đi xa có nhớ là nhớ ai ngồi trông cánh chim trời.

Sao chẳng thấy đâu." [2]

Lời hát giai điệu tha thiết của điệu quan họ, gửi gắm nỗi nhớ, sự chờ đợi mỏi mòn của một cô gái với người mình thương, nhưng chàng trai ấy chẳng thể quay về. Cô gái tên Mai ở làng Vân nọ có lẽ cũng chẳng bao giờ đợi được người lính này quay về. Giọng Khánh nghẹn ngào, nước mắt lăn dài trên má, tâm trạng của cô gái trong lời hát, tâm trạng của nàng Mai, cũng là tâm trạng của nàng, của bao người đàn bà khác thời chiến loạn khi mà người yêu, chồng của họ ra chiến trường rồi vĩnh viễn chẳng thể trở lại.

- Cảm ơn cô nương, tôi...nhìn thấy...quê mình rồi... - Nói xong câu đó, đôi mắt người lính nhắm lại, cánh tay chưa khô máu buông thõng xuống

- Anh ta đi rồi - Vị quân y nói.

Không hiểu sao Haibara thấy khóe mắt mình cay cay. Chiến tranh!

" ....em vẫn mong chờ, sao chẳng thấy anh...."

......................................................................................................................

Vĩn Châu, Nội Bàng, Thiết Lược, Chi Lăng. Quân Trần thua tan tác, ải vỡ trận, binh lính bị giết, tướng sĩ bị chém đầu, tù binh bị bắt nhiều không kể xiết. Quân Nguyên tấn công dồn dập, truy đuổi ráo riết, đối với chúng đại quân nhà Trần do Hưng Đạo vương lãnh đạo không đủ mạnh để có thể cản bước tiến như vũ bão của chúng. Thủy quân không phải là thế mạnh của quân Nguyên ấy thế mà vẫn khiến cho đội thủy quân tinh nhuệ của nhà Trần vỡ vụn. Quân Nguyên trước giờ vẫn quen chiến đấu trên bộ, lênh đênh trên mặt nước khiến chúng say sóng mệt mỏi, kém nhanh nhạy linh hoạt. Trong khi quân Trần giỏi bơi lội, đi lại trên thuyền mà đi như đất bằng. Ấy vậy mà vẫn thua. Quân Nguyên đã dùng những tù binh lính thủy của nhà Tống để mở đường máu phá vỡ đội hình thủy quân của Hưng Đạo vương. Những kẻ tù binh này trước sau đều chỉ có một con đường chết thế nên chúng liều mạng chiến đấu để cầu sống, để cầu được trở về, lao vào chém giết như những kẻ điên. Quân Nguyên chỉ chờ có thế để tấn công vào sơ hở hàng phòng thủ của quân Trần. Đối lập với những tin bại trận liên tiếp chuyển về kinh thành Thăng Long, quân Nguyên lại bừng bừng khí thế mở tiệc khao quân mừng tin thắng trận. Chúng chỉ hận trong trận Nội Bảng, sau khi đã đánh cho thủy quân nhà Trần te tua liền truy đuổi giết Hưng Đạo vương nhưng vẫn không bắt được. Thoát Hoan cho quân mai phục ở lối chân núi để bắt giết Quốc Tuấn. Hắn muốn treo đầu ngài trên ngọn cờ và sẽ bêu cao trước cổng thành kinh đô của Đại Việt. Thủy quân đã tan, Quốc công tiết chế của Đại Việt chắc chắn sẽ rút lui theo đường đó. Thoát Hoan đoán không sai, quả thật Quốc Tuấn đã lựa chọn lối thoát hiểm mà hắn mất công giăng thiên la địa võng để bắt ông. Nhưng Dã Tượng người luôn cận kề với chủ tướng trong những giờ phút sinh tử chưa rời một bước, vào thời khắc nguy cấp khi giặc sắp đuổi đến nơi, liền khẳng định chắc chắn:

- Đại Vương mau chạy về Bãi Tân [3]. Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không rời thuyền.

Sự lựa chọn tin tưởng vào những người nô bộc trung thành của mình đã giúp Quốc Tuấn thoát khỏi mai phục của quân Thát. Khi ông đến Bãi Tân, tàn quân của thủy quân đã rút lui hết. Nhưng bên bờ sông rộng mênh mông, vẫn còn một chiếc thuyền đậu lại. Người tay cầm mái chèo vừa lo lắng vừa bình tĩnh đang ngóng trông phía trước kia chính là Yết Kiêu. Không thể chậm trễ, Quốc Tuấn và Dã Tượng bỏ ngựa lên thuyền. Yết Kiêu liền chèo thuyền đi. Khi Thoát Hoan được báo về là Quốc công của Đại Việt tháo chạy ra hướng sông liền tức tốc dẫn quân đuổi theo nhưng không kịp. Khi kỵ binh quân Nguyên đến bờ sông thì chiếc thuyền nhỏ nhưng chắc chắn kia đã cách bờ được một đoạn. Thoát Hoan liền hạ lệnh bắn tên, nhất quyết phải giết được Quốc Tuấn. Dã Tượng đứng trước lấy thân mình che cho chủ tướng, vung kiếm gạt làn mưa tên của quân địch. Chiếc thuyền nhỏ cũng thoát được tầm bắn của tên.

- Trần Quốc Tuấn, lần này ngươi may mắn thoát chết, nhưng lần sau bổn vương quyết không để ngươi thoát. Hẹn gặp lại ở Thăng Long. Đầu của Trần Hoảng sẽ là quà mừng của bổn vương dành cho ngươi. Ha...ha...ha - Thoát Hoan cười ngạo nghễ.

- Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng chim thường thôi. - Quốc Tuấn điềm đạm đáp trả.

- Bẩm, vương gia, ta có thừa thắng cho thủy quân đuổi theo bọn Giao Chỉ không? - Ô Mã Nhi hỏi Thoát Hoan

- Không - Thoát Hoan cười khẩy - Tên quan huyện ở vùng này đã giao cho bổn vương bản đồ địa hình ở đây. Con sông này dài, lại có những bảy phụ lưu. Ta không thông thuộc địa hình bằng chúng.Hơn nữa tuy quân Trần thua trận nhưng rút lui trật tự bài bản, không rối loạn như đã tập duyệt kỹ lưỡng. Bổn vương đang suy tính xem là chúng rút lui do thua trận hay là để bảo toàn lực lượng. Đuổi theo lúc này không phải là một quyết định thông minh.

- Vâng, vương gia - Ô Mã Nhi đáp rồi kín đáo đánh mắt nhìn sư phụ mình là A Lý Hải Nha và nhận được cái gật đầu đồng tình của ông ta.

- Thu binh - Thoát Hoan ra lệnh

- Trận hôm nay quân thiên triều thắng lợi vẻ vang, chỉ tiếc không bắt được Trần Quốc Tuấn. Hắn có hai gia nô trung thành, không quản nguy hiểm mà bảo vệ chủ. Điều này vương gia đã không lường đến - A Lý Hải Nha nói.

- Phó soái yên tâm. Trận chiến này chỉ mới bắt đầu nhưng sẽ sớm kết thúc thôi. Giao Chỉ sẽ sớm phủ phục dưới chân thiên triều ta - Thoát Hoan nhếch mép.Trong đôi mắt sắc bén như chim ưng của hắn chứa đầy toan tính cho những trận chiến tiếp theo.

......................................................................

An Tư mệt mỏi lê bước về tẩm điện. Những ngày này nàng cùng hoàng hậu và Thiên Thành công chúa cùng cung nhân tổ chức công tác hậu cần, thu xếp cho hoàng tộc, gia quyến quan lại sẵn sàng thực hiện di rời khỏi kinh thành khi cần thiết. Dù rất mệt, cứ ngỡ ngả lưng xuống gi.ường là sẽ ngủ được ngay nhưng An Tư trở mình mấy lần mà vẫn chưa chìm được vào giấc ngủ. Nàng rời gi.ường, chong đèn rồi lấy một quyển kinh Phật đọc nhưng cũng chỉ được vài trang lại buông xuống. Tin bại trận từ chiến trường biên giới liên tục truyền về kinh thành. Thế địch mạnh quá. Quốc công tiết chế còn suýt bị bọn Thát bắt được. Thiên Thành công chúa khi nghe tin này sắc mặt đã tái nhợt, Bảo Thánh hoàng hậu phải lựa lời trấn an dù trong lòng cũng tràn ngập lo lắng cho phụ thân. Cuộc chiến này rồi sẽ đi về đâu. Liệu quân dân Đại Việt có ca khúc thắng trận như hai mươi năm trước không? Gánh nặng trách nhiệm dồn lên vai những người đàn ông hoàng tộc họ Trần đang cầm quân chống giặc ngoài chiến trường kia không chỉ là gánh nặng của những người lãnh đạo, bảo vệ đất nước con dân trong nguy biến, mà còn là gánh nặng phải giữ gìn cơ nghiệp của gia tộc họ Trần đã vất vả mà gây dựng nên. Và gánh nặng trên bờ vai mảnh mai nhưng không yếu đuối của những phụ nữ quý tộc mang họ Trần cũng vậy.

.........................................................................

Sau những thất bại liên tiếp ở các ải Vĩn Châu, Nội Bàng, Thiết Lược, Chi Lăng, Hưng Đạo vương đã lui đại quân về bến Vạn Kiếp. Đại quân dưới sự chỉ huy của ông an toàn rút lui. Trần Khâm đã di giá đến Vạn Kiếp để chờ Hưng Đạo vương trở về từ lâu. Thế giặc mạnh như nước triều cường, vị vua trẻ không khỏi lo lắng. Cho triệu Quốc công tiết chế vào hỏi tình hình chiến sự ở biên giới, sau khi nghe xong, đôi mày kiếm rậm của chàng nhíu chặt:

- Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân?

Quốc Tuấn nghe Quan gia nói như vậy, ông liền quỳ xuống khảng khái nói:

- Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng tôn miếu xã tắc thì sao? Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy hàng. Thần xin được nhắc lại lời của Thống quốc Thái Sư hơn hai mươi năm trước:"Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo". Tại hội nghị Diên Hồng, các bô lão đã hô "Đánh". Có lòng dân như thế thì không sợ bất kỳ kẻ thù nào. Xin bệ hạ hãy tin tưởng vào con dân Đại Việt.

Trần Khâm cảm động, vội đỡ Quốc Tuân dậy:

- Quốc công nói thế trẫm rất yên lòng. Được. Đánh. Cho dù phải hi sinh hết tất cả, chúng ta cũng sẽ đánh với chúng đến cùng để bảo vệ xã tắc. Trẫm lệnh cho khánh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm, lựa chọn những người dũng cảm làm tiên phong, vượt biển vào nam. Truyền Hưng Vũ Vương, Minh Hiến vương, Hưng Nhượng vương, Hưng Trí vương đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn đến hội ở Vạn Kiếp.

- Thần tuân lệnh.

...............................................

Nhật Duật nhận được tin cấp báo này khi đang thay băng vết thương.

- Việc đại quân của triều đình do Quốc công tiết chế lãnh đạo bị trận. Quốc công suýt bị giặc bắt không được lộ ra, tránh làm giảm sĩ khí của binh lính. - Chàng ra lệnh cho người lính báo tin hiện vẫn đang quỳ đợi nghe giao phó rồi chàng quay sang nói với người đang băng bó vết thương cho mình:

- Cả nàng cũng vậy.

- Vâng - Haibara đáp.

- Tuân lệnh - Người lính chắp tay thưa rồi tiếp tục bẩm báo. - Hiện đang có 20 vạn quân hội ở Vạn Kiếp. Quốc Công tiết chế thảo Dụ chư tỳ tướng hịch văn và đọc cho toàn binh. Binh sĩ nghe lời hịch nức lòng, tất cả đều lấy mực xăm vào tay hai chữ "Sát Thát" để biểu lộ quyết tâm chống giặc. Buổi hội quân ở Vạn Kiếp, Quan gia đích thân ngự giá, và đề hai câu thơ ở đuôi thuyền:"Cối Kê cựu sự quân tu ký/Hoan Diễn do tồn thập vạn binh".

- Cối Kê chuyện cũ người nên nhớ/Hoan Diễn còn kia chục vạn quân. - Nhật Duật gật đầu, đoạn nói - Việt vương Câu Tiễn thời Chiến Quốc đánh nhau với nước Ngô, chỉ còn một ngàn quân phải rút lui trấn ở Cối Kê mà về sau đánh bại được Ngô Phù Sai, khôi phục đất nước. Hay lắm. Ngươi truyền lệnh ta đọc Dụ chư tỳ tướng hịch văn của Quốc công cho toàn quân nghe để nâng cao sĩ khí.

- Tuân lệnh - Người lính chắp tay thưa rồi lui ra.

Haibara nãy giờ không nói gì, nàng ngẩng lên nhìn Nhật Duật rồi lại cúi đầu tiếp tục công việc của mình. Tình hình chiến sự nặng nề căng thăng như vậy, hẳn Nhật Duật rất mệt mỏi phiền não.

- " Loài vật còn tốt hơn khối kẻ được gọi là con người. Cứu vật vật trả ân, cứu nhân nhân trả oán". Ta nhớ nàng từng nói thế. Thực ra con người cũng rất trung thành và biết "uống nước nhớ nguồn". Chuyện của Hưng Đạo vương nhờ hai người nô bộc trung thành cứu thì mới an ổn rút lui, nàng vừa nghe thuộc hạ của ta nói rồi đó. "Yết Kiêu", "Dã Tượng", nàng có hiểu ý nghĩa của hai cái tên này là gì không - Nhật Duật nói

Haibara đáp:

- Yết kiêu là tên loài chó săn mõm ngắn, còn dã tượng là voi rừng.

- Bị dùng tên loài thú để đặt tên, như thế là nàng hiểu địa vị thấp kém của kẻ làm nô ra sao rồi đúng không? Hưng Đạo vương đối đãi với hai người này rất hậu. Và họ sẵn sàng hi sinh tính mạng để bảo vệ ngài. Thấy không, con người vẫn rất trung thành, không phải ai cũng luôn xấu xa chỉ mang nhưng mảng tối mà nàng luôn nghĩ đến.

- Lúc này mà đức ông vẫn còn tâm trí giảng đạo cho NÔ TỲ sao? - Haibara lạnh lùng nhìn Nhật Duật - Dùng tên thú để đặt tên cho gia nô biểu thị sự thấp kém của kẻ làm nô. Thế nên dù đức ông không lấy tên thú để đặt cho tên cho nô tỳ, nhưng lại lấy tên của nô tỳ đặt tên cho thú. Nô tỳ ngu dốt, hôm nay mới hiểu được.

Nhật Duật cứng họng. Chàng đâu có ý đó. Chẳng qua là khi nhặt được con chó nhỏ trong rừng, thấy nó khôn lại đáng yêu liền nghĩ đến tặng nàng, nên hay trước mặt nó nhắc đến "Chi Bảo", nó liền nhận đấy là tên mình. Sau đó thì chàng chỉ muốn trêu chọc nàng một chút. Không ngờ Haibara lại hiểu lầm là chàng coi thường mình.

- Không phải.... - Nhật Duật luống cuống lựa lời giải thích.

Khóe môi của ai đó cong lên, bờ bôi hồng xinh xắn chậm rãi nhả ra ba chữ:

- Chỉ...đùa...thôi - Rồi Haibara đưa tay lên xoa đầu Nhật Duật - Trông vẻ mặt của ngài kìa. Không ngờ đức ông cũng dễ bị gạt như vậy.

Nhật Duật chau mày:

- Băng bó xong chưa. Xong rồi thì giúp ta mặc khôi giáp rồi ra ngoài truyền lời cho lính gác ngoài lều nói ta cho triệu tập các thuộc tướng nghị sự gấp.

- Thưa vâng - Haibara đáp rồi nhanh chóng đi ra ngoài.

.

Rời khỏi lều của Nhật Duật, Haibara về lán giúp mọi người sắc thuốc cho thương binh. Chẳng bao lâu đã nghe thấy tiếng trống triệu tập binh lính. Một giọng nói sang sảng đọc bài hịch với lời văn hùng hồn sắc bén cất lên, như âm vang cả núi rừng Tây Bắc, hòa cùng khí thế hăng hái chống giặc của 20 vạn quân ở Vạn Kiếp. Đây hẳn là bài hịch tướng sĩ mà người lính kia vừa bẩm báo với Nhật Duật.

"...... Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm....

..... Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị ....." [4]

Đi theo Nhật Duật, Haibara từng gặp Hưng Đạo vương vài lần. Đôi mắt tinh anh của người đàn ông đó khiến nàng ấn tượng. Nghe lời hịch do con người này viết, nàng tự hỏi điều gì đã khiến người này sau khi bại trận liên tiếp ở các ải dưới tay con trai của Hốt Tất Liệt - hoàng tử thứ chín Nguyên triều Thoát Hoan lại có thể soạn những lời ngông cuồng là bêu đầu Hốt Tất Liệt - vua của Đại Nguyên dưới cửa khuyết. Liệu đây phải chăng chỉ là những lời sáo rỗng khoác lác nói suông. Trong tâm người Đại Việt, triều đình Đại Việt chẳng thuần phục nhà Nguyên nhưng bề ngoại giao vẫn luôn tỏ ra cung kính thần phục. Nay hai nước chiến tranh, Đại Việt đang thất thế, lại dám nhắc đến việc bêu đầu Đại hãn của nhà Nguyên. ?

....................................................

Phía đông biên giới đại quân của triều đình đã bại trận. Ở phía tây, Nhật Duật cũng đã cầm cự đến giới hạn. Tuyên Quang thất thủ. Thời điểm lui quân mà Nhật Duật dự tính có lẽ là lúc này đây. Ngày trước lên Tuyên Quang, Nhật Duật đã tính toán sẵn đường rút lui. Chàng sẽ dẫn quân về Bạch Hạc bằng đường thủy. Đánh thủy là điểm yếu của quân Nguyên. Sông ngòi nơi này nhiều nhánh rẽ, quân địch muốn truy kích cũng sẽ gặp khó khăn. Đoàn quân của Nhật Duật nhổ trại gọn gàng nhanh chóng nhưng vẫn không thoát khỏi trinh sát của quân Nguyên. Công tác rút quân buộc tất cả mọi người trong doanh trại phải thao tác nhanh nhẹn. Haibara không cần quan sát kỹ cũng nhận ra được quân đội đã được tập dượt nhiều lần. Vậy là triều đình nhà Trần lại mất thêm Tuyên Quang. Nhưng trước mắt có lẽ không lo được quá nhiều, có rút lui được an toàn hay không là vấn đề cần giải quyết trước mắt. Vết thương của Nhật Duật chưa lành hẳn nên nàng được cắt cử theo hầu chàng để chăm sóc vết thương.

.

Haibara thảng thốt quay lại nhìn phía sau. Đoàn quân vừa rút lên thuyền thì cũng là lúc quân Nguyên đuổi đến nơi. Chúng theo hai bên bờ sông ném đá, bắn tên truy kích. Dù bị truy kích nhưng đoàn quân không hề rối loạn. Đội chèo thuyền bình tĩnh lái thuyền ra giữa dòng để tránh sự tấn công và dần tăng nhanh tốc độ. Đôi mày Nhật Duật nhíu chặt khi nhìn làn khói bụi ở đằng xa.

- Truyền lệnh giữ nguyên tốc độ thuyền, không được tăng tốc - Nhật Duật ra lệnh.

- Bẩm tướng quân, nếu không nhanh thì e rằng chúng sẽ đuổi kịp mất - Binh lính lên tiếng.

Nhật Duật lắc đầu, bình tĩnh đáp:

- Các ngươi hãy nhìn đám khói bụi bay rất thấp và mỏng kia chứng tỏ chúng hành quân không nhanh mà thong thả. Truy kích thì phải nhanh, nay chúng lại đi thong thả, sợ có quân phía trước đón chặn. Còn hai toán lính đang đuổi theo trên bờ có khả năng chỉ là dương đông kích tây mà thôi. Ngươi và người dùng thuyền nhẹ vượt lên phía trước do thám tình hình cho ta - Chàng ra lệnh cho hai người lính.

- Tuân lệnh - Hai người lính thưa rồi nhanh chóng thi hành nhiệm vụ.

Nhật Duật giở bản đồ xem lại và cân nhắc cẩn thận. Chàng đã dự tính trước những trường hợp có thể sẽ xảy ra để lui binh an toàn về Bạch Hạc.

- Đức ông cho rằng phía trước có quân mai phục ở hạ lưu sao? - Haibara lên tiếng.

Nhật Duật nhìn nàng:

- Nhóc càng ngày càng hiểu ta đấy.

Nàng không để ý đến câu nói của Nhật Duật vì đang mải nhìn chiếc thuyền đi do thám đang rẽ nước lướt về.

- Báo. Giặc Thát đã chặn ở hạ lưu. Có nhiều thuyền chiến đậu ở đó và hai bên bờ sông đều có nhóm mai phục tiếp ứng cho đội thuyền chiến. - Người lính tâu.

Nhật Duật hạ lệnh:

- Tăng tốc độ thuyền, kéo xa khoảng cách với truy binh sau lưng. Đến đoạn trung lưu sông, quân ta sẽ rút lên bờ và hành quân bằng đường bộ.

Dù nghe có truy binh phục kích cả hai đầu nhưng dưới sự chỉ huy của Nhật Duật, các binh lính vẫn bình tĩnh, tác chiến bài bản, không hề rối loạn. Đoàn quân rời thuyền lên bờ vô cùng nhanh gọn. Nhật Duật cho nổ nheo, giương buồm những chiếc thuyền trống không để trúng xuôi theo dòng. Chàng quan sát hướng gió thổi cùng hướng với dòng chảy của sông và ước lượng khoảng cách từ đây đến chỗ quân địch đang mai phục ở hạ lưu. Nhận thấy khả năng thành công cao, chàng cho quân lính phóng hỏa toàn bộ thuyền trước khi cho chúng xuôi theo dòng. Đã quyết định rút theo đường bộ là phải chấp nhận bỏ lại số thuyền này. Chàng không muốn giặc Thát chiếm được dù chỉ là một cái. Vậy thì đốt hết đi. Hơn nữa, lòng sông ngày càng dốc, nước chảy ngày càng siết, gió thổi mạnh, những chiếc thuyền bốc cháy rừng rực sẽ lao nhanh về phía đội chiến thuyền của địch. Dù rằng không gây tổn thất lớn về binh lực cho chúng nhưng cũng khiến chúng hoang mang và việc hi sinh số thuyền này không phải là vô ích.

.

Đoàn quân của Nhật Duật theo đường bộ mà tiếp tục hành quân. Họ đi xuyên qua rừng. Rải lá cây phía trước rồi mới đi qua để tránh để lại dấu chân. Khi truy binh hai phía của quân Nguyên phát hiện ra Nhật Duật đã bỏ thuyền và rút lui bằng đường khác liền nhanh chóng đuổi theo. Chúng nhất quyết sẽ tiêu dọt gọn toán quân của chàng. Nạp Tốc Lạt Đinh dẫn đầu đoàn truy binh. Ông ta đoán đoàn quân của Nhật Duật chắc chắn sẽ đi qua khu rừng trước mặt vì đó là con đường gần nhất để về xuôi. Tuy nhiên khi đuổi theo hết cánh rừng vẫn chưa thấy một bóng dáng nào của quân Đại Việt, mà phía trước lại có hai con đường. Không biết là quân Đại Việt đã tháo chạy theo đường nào. Dù đã mua chuộc được bản đồ địa hình nơi này từ một tên tù trưởng hám lợi nhưng Nạp Tốc Lạt Đinh không dám mạo hiểm chia quân làm hai cánh đuổi theo nơi rừng thiêng nước độc này. Ông ta vẫn còn nhớ rất rõ cái chết của 100 binh lính do bị quân dân Đại Việt mai phục bằng những cái bẫy bằng tre đáng sợ hôm nào.

- Bẩm tướng quân, con đường bên trái có rất nhiều dấu chân. Có lẽ chúng đã chạy đường này. - Tên lính đi dò đường quay lại bẩm báo

Nạp Tốc Lạt Đinh liền xuống ngựa quan sát rồi lắc đầu:

- Không phải, chúng cố tình đánh lừa ta mà thôi. Quân Trần rất cẩn thận. Nền đất trong rừng rất ẩm ướt nhưng không hề thấy một dấu chân nào dù chúng đã đi qua đấy, bởi vì chúng đã rải lên cây rồi mới bước lên. Nên việc để lại nhiều dấu chân như này rất đáng nghi. Hơn nữa những dấu chân này, nhìn độ lún là biết không phải do khi đi vô tình để lại mà cố tình ấn bàn chân xuống nên độ lún mới đều như vậy. Chúng chắc chắn đã tháo chạy theo đường này - Ông ta chỉ con đường bên phải rồi quay người nhảy lên người rồi ra lệnh cho binh sĩ nhanh chóng đuổi theo để bắt bằng được Trần Nhật Duật.

Vó của những con ngựa chiến đến từ thảo nguyên tung cao phi nhanh, chẳng mấy chốc đã đưa bọn Thát đến cuối con đường mà chúng cho rằng quân Trần đã chạy trốn. Cuối đường là vực thẳm. Bàn tay nắm dây cương của Nạp Tốc Lạt Đinh siết chặt vì giận dữ. Trần Nhật Duật lại tương kế tựu kế. Ông ta cho quân đuổi theo hai bên bờ làm nghi binh để lừa Nhật Duật sa vào mai phục ở hạ lưu sông thì vị tướng trẻ nhà Trần cũng dùng nghi binh để lừa ông ta truy kích sai đường. Trời sắp tối, mặt trời dần khuất sau những dãy núi mù sương, lúc này quay lại và tiếp tục đuổi theo đã không kịp nữa rồi. Nạp Tốc Lạt Đinh ra lệnh quay về doanh trại. Trong khi đó đoàn quân của Nhật Duật đã tìm được chỗ hạ trại nghỉ ngơi để sáng hôm sau tiếp tục lên đường về Bạch Hạc. Nhật Duật đã phái hai người lính do thám chặn hậu phía sau, phòng trường hợp quân Nguyên không trúng kế mà đuổi theo. Khi nhận được tin báo địch đã trúng kế, Nhật Duật mới yên tâm để binh sĩ hạ trại nghỉ ngơi trước khi tiếp tục chặng đường hành quân. Rời khỏi Thu Vật là điều bắt buộc, nhưng để lại quan quân địa phương cùng dân chúng trên này chống đỡ với quân Nguyên tàn bạo, chàng thực không yên lòng. Triều đình đã lệnh cho dân chúng di tản để tránh thế giặc mạnh nhưng tuyệt đối không được đầu hàng giặc. Trước khi dẫn quân về xuôi, Nhật Duật bí mật đến gặp Trịnh Giác Mật và các tù trưởng để bàn bạc về việc chống giặc ở đây sau khi quân triều đình rút đi. Rút lui không đồng nghĩa với việc ngừng chiến đấu. Quân sĩ của Nạp Tốc Lạt Đinh sẽ được quân dân của vùng Tây Bắc Đại Việt "chăm sóc" chu đáo. Các đạo dân binh đem những hình nộm người đan bằng tre, có vóc dáng cao lớn, mặc áo, dẫn ra dẫn vào bên ngoài trại giặc; rồi những cây to, khoét lỗ rồi cắm những mũi tên nỏ để giặc tưởng ta có những tên nỏ có sức mạnh xuyên qua thân cây nên khiếp sợ; lại bỏ lá han xuống nguồn nước giặc hay dùng, lá han là loại lá độc, chỉ cần d.a thịt chạm vào chúng thì sẽ phát ngứa, lở loét và đau buốt, nặng có thể dẫn đến chết. Dù hạ được trại Thu Vật nhưng không hạ được lòng dân ở đó thì người thắng vẫn không phải là cánh quân của Nạp Tốc Lạt Đinh. Đại quân của Trấn Nam vương Thoát Hoan cũng vậy.Niềm tin đó vẫn luôn hiện hữu trong tâm Nhật Duật. Haibara có thể cảm nhận được điều đó.

Chú thích:

[1] Thời Trần, đất Bắc Ninh được gọi là lộ Bắc Giang

[2] Bèo dạt mây trôi - Dân ca quan họ Bắc Ninh

[3] Bãi Tân: Một địa điểm trên sông Lục Nam

[4] Trích "Hịch tướng sĩ"
 
Đọc fic của bạn mấy năm rồi chưa hết. Công nhận là từ trước đến giờ chưa bao giờ được đọc fic nào công phu đến thế.
Mình thích cách miêu tả tâm lý của bạn đối với cặp đôi Nhật Duật - Ai lắm.Cảm giác tình cảm của Nhật Duật thì đã xác định rõ ràng còn Ai thì chưa. Nhưng Nhật Duật lại biết tình cảm này không đi đến đâu nên đôi lúc muốn gần gũi nàng nhưng lại cố kiềm chế ...

Ui nói chung là mình hóng chap mới lắm.
 
Chương 52: Bại trận

Tranh thủ thời gian dừng quân hạ trại nghỉ ngơi, Haibara thay băng cho Nhật Duật. Xong xuôi, nàng thu dọn các thứ và định rời đi thì Nhật Duật bảo:

- Nàng ngồi lại đây. Ta có chuyện cần nói.

Haibara để hòm thuốc xuống rồi lại ngồi xuống cạnh chàng.

- Đoàn người của Phụng Dược cung đều ở lại Tuyên Quang để giúp đỡ cho quân lính của các tù trưởng ở đó. Chỉ có hai người là về xuôi để lấy thêm thảo dược. Nàng hãy theo họ về gia trang của Phụng Dược cung đi. Những ngày qua nàng cũng chứng kiến rồi đấy. Chiến tranh thực sự khiến cho người ta điên loạn.

- Anh có cảm thấy việc tôi đi theo là vướng bận không? - Haibara hỏi.

- Có - Nhật Duật đáp.

Trước câu trả lời rất phũ của Nhật Duật, Haibara đáp:

- Hôm nay anh làm tôi nhớ đến một người bạn. Kế anh dùng để đánh lừa truy binh rất giống với cách cậu ấy đã lừa bọn giết người đang đuổi theo mình bị đầu mối để chạy thoát [1]. Cậu ấy đã từng nói với tôi là đừng chạy trốn số phận nhưng khi khi tôi cần đối mặt thì cậu ấy lại dùng thuốc mê để khiến tôi ngất đi và thay tôi giải quyết khó khăn. Nhưng tôi không muốn là một kẻ yếu đuối dựa dẫm.

- Cậu ta là Kudo phải không? - Nhật Duật trầm ngâm - Ta đã nghe nàng gọi cái tên đó trong mơ.

Haibara gật đầu.

Nhật Duật mỉm cười:

- Ta hiểu nàng nhắc đến chuyện này với ý gì. Nhưng nàng không phải là người Việt, nàng không có trách nhiệm với đất nước này, nàng không nên để cuộc chiến tranh này cuốn vào.

- Bốn năm sống ở đây không ngắn không dài, nhưng đã khiến tôi trót yêu Việt Nam....ừm ý tôi là Đại Việt rồi, phong cảnh, ẩm thực, văn hóa, con người. Tôi muốn mình có thể làm gì đó để góp phần bảo vệ thứ mà tôi yêu quý hoặc ít nhất cũng là được chứng kiến. Tôi là một kẻ cứng đầu. Nên nếu anh cho là tôi gây vướng bận thì tôi sẽ rời đi nơi khác nhưng không phải trở về ẩn trốn ở gia trang. - Haibara trả lời.

- Nàng nói nàng đã trót yêu con người Đại Việt rồi. Con người đó có phải là ta không? - Nhật Duật đột nhiên hỏi một câu không đúng trọng tâm.

- Đương nhiên anh không nằm trong số người Đại Việt mà tôi yêu quý - Nàng đáp.

Nét cong cong trên khóe môi Nhật Duật thoáng cứ đờ rồi từ từ hạ xuống:

- Ta biết nàng là kẻ cứng đầu nhưng cũng la người chín chắn thấu tình đạt lý. Hãy trở về gia trang đi. - Ngừng lại một lúc, Nhật Duật nói tiếp - Vì chiến tranh không phải trò đùa. Ta nghĩ những gi đã tận mắt chứng kiến trong những ngày qua là đủ để nàng hiểu. Đó cũng chỉ là một phần sự thảm khốc của chiến tranh thôi.

- Tổi hiểu rồi - Haibara gật đầu - Tôi sẽ về gia trang...

- Bẩm tướng quân, đang xảy ra xô xát giữa binh lính hai đô. Thỉnh tướng quân đến xử xét - Một người lính đến báo cáo tình hình quân sĩ cắt ngang cuộc nói chuyện giữa Nhật Duật và Haibara.

Nhật Duật nghe tin báo liền đứng dậy đi ngay. Haibara nhìn theo bóng dáng mang vẻ vội vã của chàng khác hẳn phong thái ung dung vương giả thường ngày mà lòng ngổn ngang. Quân đội đông người như vậy, xảy ra xô xát xích mích là chuyện bình thường. Gà cùng một mẹ còn có lúc đá nhau nữa là. Vậy mà chuyện xô xát giữa binh lính phải đích thân để chủ tướng là Nhật Duật xử lý. Trông thái độ của Nhật Duật lúc rời đi thì việc này rất nghiêm trọng, còn nghiêm trọng cả việc trại Thu Vật bị thất thủ. Haibara nghĩ đến hai từ đoàn kết mà chàng đã nói trước đây liền hiểu tại sao. Vào thời khắc chiến đấu với kẻ thù hùng mạnh mà nội bộ xảy ra mâu thuẫn là điều tối kỵ. Rồi nàng thở dài khi nghĩ đến thế cục trận chiến không cân sức giữa quân Nguyên và quân Đại Việt. Thua trận, phải rút lui trong sự truy đuổi của quân giặc, thiếu thốn lương thực, thuốc men khiến binh sĩ mệt mỏi, và nặng nề nhất là khi họ phải chứng kiến những người đồng đội, đồng bào của mình lần lượt ra đi. Mới hôm qua còn sống khỏe mạnh đó, còn cười nói đó, ngày hôm sau đã là cái xác không hồn. Chứng kiến điều đó nào có ai không tự hỏi liệu mình có phải là người nằm xuống tiếp theo. Nàng nghĩ đến câu nói cửa miệng của người yêu chị gái mình:"Cảm giác sợ chết còn đáng sợ hơn cái chết". Xem chừng sĩ khí của quân Trần đang giảm xuống. Nhật Duật lo lắng cũng phải. Cuộc chiến giữa hai bên mới chỉ bắt đầu nhưng dường như Haibara đã cảm nhận được thất bại của Đại Việt. Ngẫm nghĩ một lúc rồi nàng cân nhắc việc trở về của mình. Nhật Duật không muốn nàng ở đây, vậy nàng sẽ không ở. Có lẽ chàng không tin tưởng để một người không mang trong mình dòng máu lạc hồng như con dân Đại Việt là nàng ở bên. Và nàng sợ, nàng sợ một người lẽ ra không tồn tại ở thời đại này như nàng kề cận một nhân vật lịch sử như Nhật Duật sẽ vô tình làm gì đó làm thay đổi dòng chảy quá khứ vốn có. Những kẻ can thiệp vào thời gian sẽ bị trừng phạt. Câu nhắc nhở của vị sư ở chùa Diên Hựu nàng vẫn luôn ghi nhớ.

.

Nhật Duật đi không lâu thì trở lại. Chàng không nói gì về việc vừa xảy ra, lại càng chẳng biểu hiện gì nét mặt nhưng Haibara tinh ý cảm nhận được mọi việc đã ổn thỏa. Nhật Duật bảo nàng hãy đi cùng đoàn quân của chàng về đến Bạch Hạc rồi mới từ Bạch Hạc về gia trang, như thế an toàn hơn.

............................................................................................................................................................................................................................................

Đại Việt năm Thiệu Bảo thứ 7 (1285), Ất Dậu

.....

Haibara đã trải qua mấy cái Tết ở Đại Việt nhưng có lẽ cái Tết đón nắm Ất Dậu này là một cái Tết u ám đối với Đại Việt. Không có không khí rộn ràng đón xuân như mọi năm, chỉ có nỗi hoang mang lo sợ khi giặc tràn tới, chỉ có sự bi thương tang tóc của cảnh gia đình ly tán, chỉ có sự chết chóc máu me. Có lẽ như Conan hay nói, nàng luôn nhìn cuộc đời bằng con mắt bi quan. Thế nên nàng không cảm nhận được tinh thần sục sôi chống giặc của toàn dân Đại Việt vẫn luôn còn đó, nàng không cảm nhận được sự lạc quan và niềm tin chiến thắng vẫn luôn tồn tại trong mỗi con người trên mảnh đất này, nàng không cảm nhận được ý chí kiên cường bất khuất dù không biểu lộ rõ ràng nhưng đã ăn vào máu, vào thịt, vào tiềm thức của những con người mang trong mình dòng máu lạc hồng.

Thực ra cũng không phải do nàng luôn tồn tại tâm lý bi quan mà những gì nàng chứng kiến khiến nàng buộc phải suy nghĩ như vậy. Đoàn quân của Nhật Duật vượt núi băng rừng cuối cùng cũng an toàn về đến Bạch Hạc. Trên đường đi họ phải vượt qua sự truy kích của giặc, tai mắt của bọn bán nước, vượt qua sự thiếu thốn lương thực thuốc men và phải cố gắng hưng trấn tinh thần khi liên tiếp nhận được tin dữ từ những mặt trận khác.

.

Mùng sáu tháng giêng, tướng Nguyên là Ô Mã Nhi dẫn quân đánh vào Vạn Kiếp và núi Phả Lại - nơi Hưng Đạo vương vừa hội quân sau những thất bại thảm hại ở mạn Đông Bắc. Quân Nguyên do thám và nắm được quân Đại Việt có hơn 1000 chiến thuyền đóng ở gần Vạn Kiếp. Khi được báo cáo tin này, Thoát Hoan không do dự liền hạ lệnh đóng gấp thuyền để chặn đường rút của quân binh Đại Việt. Việc quân Nguyên đóng thuyền khiến máu của dân Đại Việt chảy thêm nhiều, xương chất thêm cao. Chúng bắt bớ dân chúng quanh vùng chiếm đóng phải dâng gỗ quý gỗ tốt để đóng thuyền, dâng người để làm. Người thì bị giết hại dã man rồi bêu xác do chống đối, người thì chết do đi kiếm gỗ, người thì bị mất mạng do làm việc quá sức,...Thoát Hoan đã nghiên cứu rất kỹ trận chiến giữa hai bên hơn hai mươi năm trước. Thủy binh là thế mạnh của Đại Việt, xứ này lắm sông hồ chằng chịt. Lần này cất quân sang đây, Thoát Hoan đã mang sang một số lượng lớn nô lệ tù binh bắt được của thủy quân nhà Tống để đối phó với thủy quân Đại Việt. Nay quân Trần chuẩn bị một số lượng lớn thuyền ở Vạn Kiếp có lẽ là dự tính cho việc rút lui. Hắn không thể để chuyện này xảy ra. Ô Mã Nhi là một dũng tướng, ông ta không phụ sự giao phó của Thoát Hoan. Ô Mã Nhi tấn công vào phòng tuyến sông Bình Than trước. Thủy quân hai bên giao chiến kịch liệt. Đến ngày mùng 9, quan quân nhà Trần vỡ trận nên phải rút lui. Việc nhiều lần thua thủy chiến ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý và sĩ khí của quân Đại Việt bởi so về thủy binh thì đấy là thế mạnh của Đại Việt. Ấy thế mà quân Nguyên vẫn đại thắng. Những tù binh thủy quân Tống là những kẻ không còn gì để mất, họ lao vào trận chiến như những kẻ điên, liều mạng chém giết và chém giết, con người khi bị dồn vào đường cùng, khi phải đối mặt với cái chết, bản năng sinh tồn trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Thoát Hoan đã lợi dụng điểm này để đối phó với thủy quân nhà Trần. Đến khi cuộc xâm lược này tàn rồi, ngẫm lại hắn mới thấy mình đã quên mất đối với quân Đại Việt, à không phải nói là đối với dân Đại Việt khi bị mất nước thì cũng chẳng khác gì là không còn gì để mất, vì thế những con người đó cũng liều mạng để mà chiến đấu và đã chiến thắng.

.

Quân Đại Việt chưa hết lao đao sau trận thủy chiến ở Vạn Kiếp vừa rồi thì ngày 12 giặc Thát lại đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh và Đông Ngàn. Trận này quân Nguyên điền cuồng tàn sát tù binh chúng bắt được. Bởi quân Đại Việt người nào cũng thích hai chữ "Sát Thát" bằng mực vào cánh tay. Hai chữ này trên những cánh tay của quân sĩ Đại Việt như cái gai nhọn tẩm độc đâm vào mắt chúng, khiến chúng nhức nhối và tức giận. Chúng cứ thấy ai có chữ trên tay là giết, giết tàn bạo, giết dã man, thậm chí băm vằm cánh tay được thích chữ của những thi thể quân sĩ Đại Việt. Thắng trận, quân Nguyên thẳng tiến đến bến Đông Bộ Đầu, dựng một lá cờ rất lớn. Hai mươi năm trước quân Đại Việt thắng trận ở Đông Bộ Đầu thì đã sao, nay quân Nguyên ngang nhiên dựng một lá cờ lớn ở đấy để khuếch trương khí thế, để đạp đổ cái quá khứ mà Đại Việt cho là huy hoàng, để khẳng định thất bại hiện tại của Đại Việt.

....

Lá cờ lớn phất phới tung bay trong gió ở Đông Bộ Đầu của quân Nguyên đối với quân Trần cũng nhức nhối chẳng khác gì khi quân Nguyên nhìn thấy hai chữ "Sát Thát" ngông cuồng trên hàng nghìn cánh tay binh lính Đại Việt.

.

An Tư cầm tấm áo choàng nhẹ nhàng khoác lên lưng Thái thượng hoàng.

- Sao em biết anh ở đây? - Trần Hoảng quay lại, ánh mắt âu yếm nhìn nàng. An Tư trông thấy sự lo âu căng thẳng mệt mỏi trong đôi mắt người anh đáng kính.

- Mỗi khi phiền não chuyện quốc gia đại sự, phụ hoàng thường ra vườn trầu nhỏ sau cung của Chiêu Thánh công chúa từng ở này ngồi. Anh cũng vậy - An Tư đáp.

- Em có biết tại sao không? - Trần Hoảng trầm giọng hỏi.

An Tư lắc đầu:

- Tâm ý đế vương khó dò. Phận nữ nhi như em đâu dám vọng đoán.

Trần Hoảng cười:

- Còn làm trò, cứ nói đi.

- Em thực sự không biết - An Tư đáp.

Trần Hoảng đưa tay xoa đầu An Tư:

- Giờ đã biết giấu cả tâm tư với anh rồi đấy. Trưởng thành rồi. Tốt.

- Em nào dám - An Tư cúi đầu trả lời.

- Theo em ai là người thích hợp đi dò xét tình hình giặc - Trần Hoảng chợt hỏi.

- Người nào tự nguyện xin đi người ấy là kẻ thích hợp - An Tư nói.

- Phải - Trần Hoảng trầm ngâm hồi lâu rồi gật đầu rồi ông rời khỏi bộ tràng kỷ trở về tẩm điện, đoạn bảo An Tư - Em trở về nghỉ sớm đi.

- Thưa vâng - An Tư trả lời

Còn lại một mình ở vườn trầu, An Tư ngồi thẫn thờ nhìn những lá trầu đong đưa. Năm đó, Trần Thủ Độ vin vào chuyện Lý Chiêu Hoàng ném khăn trầu về phía phụ hoàng liền tuyên bố nữ hoàng đế có chồng, rồi làm một cuộc chuyển giao quyền lực êm thấm từ nhà Lý sang nhà Trần. Ngôi báu mà phụ hoàng nàng ngồi lên, tấm long bào cao quý mà phụ hoàng nàng khoác nhuốm nước mắt, nhuốm đau thương, nhuốm oán hận của vị vua cuối cùng triều Lý. Sau khi bị tước bỏ danh phận hoàng hậu, giáng làm công chúa, Lý Chiêu Hoàng bị giam lỏng ở tẩm cung này. Vườn trầu này là do bà đích thân trồng. Vị nữ đế này là người một vị trí quan trọng trong trái tim phụ hoàng nàng. An Tư nhớ khi phụ hoàng nàng hấp hối còn nói mơ:"Bệ hạ có tha tội cho thần không?". Nàng không biết là vào giây khắc cuối đời đó, phụ hoàng nàng đang nhớ về những ngày tháng hồi bé được đưa vào cung làm nội thị hầu hạ Lý Chiêu Hoàng, hay là đến lúc sắp lìa xa nhân thế, người vẫn day dứt băn khoăn vị nữ đế của một vương triều đã lụi tàn đó có tha thứ cho người không. Trong những năm còn tại thế, phụ hoàng nàng thường hay ra vườn trầu này ngồi khi gặp phiền não chuyện quốc gia đại sự. Có lẽ người ngồi đây để tự nhắc nhở mình, nhà Trần đã có được thiên hạ như thế nào? Người phải khiến Đại Việt quốc phú binh cường, đó là cách để người thấy bớt có lỗi với Lý Chiêu Hoàng. Còn Trần Hoảng. Ông đến đây cũng là để nhắc nhở mình cơ nghiệp mà nhà Trần đang có phải vất vả dựng nên vì thế ông có trách nhiệm phải giữ gìn. Nó không chỉ nhuốm máu và nước mắt của họ Lý và còn mang nặng nỗi đau sự hi sinh của chính người họ Trần, đó là phụ hoàng ông, đó là Linh Từ Quốc Mẫu [2], đó là Ngoạn Thiềm công chúa, đó là Yên Sinh vương Trần Liễu, đó là Vũ Uy Vương Trần Nhật Duy, đó là Trần Thủ Độ,...

Tình hình chiến sự căng thẳng nặng nề như thế nào An Tư biết. Không phải tự dưng mà nói "Vó ngựa quân Mông Cổ đi đến đâu thì cỏ không mọc được đến đó". Trận Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngạn, quân Đại Việt thua thảm bại, binh sĩ bị giết nhiều không kể xiết, nhất là khi quân Nguyên trông thấy hai chữ Sát Thát trên cánh tay hàng ngàn binh sĩ, chúng càng dã man chém giết. Nhiều chiến thuyền đã bị chúng chiếm được.

- Phụ hoàng, liệu lần này Đại Việt có thể vượt can qua hay không? - An Tư lẩm nhẩm, là hỏi phụ hoàng nàng hay tự hỏi chính mình.

.

Người tình nguyện đến trại giặc dò xét tình hình là Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung. Trần Hoảng trao thư xin giảng hòa tạm thời đình chiến cho Khắc Chung, đoạn nói:

- Ngờ đâu trong đám ngựa xe kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế. Trẫm tin tưởng ở khanh.

Khắc Chung nhận thư vua trao liền lên đường sang trại giặc. Hai bên giao chiến không giết sứ giả nhưng đâu thể nói trước được điều gì. Khi tự nguyện đứng ra xin đi, ông đã xác định trước cái chết. Trại giặc nơi đại quân của Thoát Hoan đóng rất to lớn kiên cố. Những chiếc lều tròn dựng san sát nhau ngay hàng thẳng lối. Quân lính canh gác cẩn mật khắp nơi. Chỉ cần quan sát qua cũng biết lực lượng đông đảo dồi dào của quân Nguyên, có thể thấy chúng dốc nhiều của và sức cho cuộc chiến này. Lều của tướng lĩnh to đẹp và sang trọng được dựng ở giữa. Khắc Chung dâng thư nhưng Thoát Hoan không thèm tiếp, chỉ có tướng Nguyên Ô Mã Nhi ra gặp mặt. Ô Mã Nhi nhận thư không đọc liền xé vụn rồi vứt xuống đất, lấy chân di lên:

- Quốc vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ "Sát Thát", khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to lắm.

Đỗ Khắc Chung nhíu mày nhìn thư do Thái thượng hoàng viết bị coi thường như vậy, cố dằn xuống cơn giận, ông bình tĩnh đáp:

- Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ thôi. Quốc Vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lại không có? - Đoạn Khắc Chung kéo áo lên để Ô Mã Nhi nhìn tay.

- Hóa ra cận thần của Trần Hoảng lại không có lòng trung bằng những kẻ binh tốt sao? - Ô Mã Nhi khẽ nhếch môi cười khẩy mỉa mai.

- Trung và ngu trung khác nhau. Chẳng phải Ô Mã tướng quân vừa nói sai người thích chữ "Sát Thát" là khinh nhờn thiên binh đó sao? Quốc Vương tôi nào có thái độ khinh nhờn thiên triều, tôi là thần tử của Quốc Vương cũng không dám khinh nhờn - Khắc Chung thong thả đáp.

Ô Mã Nhi chế giễu:

- Không dám khinh nhờn? Đại quân thiên triều từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao?

Khắc Chung điềm đạm nói:

- Hiền tướng không theo cái phương sách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu thì mới có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người. Đại Việt chỉ là đang tự vệ.

Ô Mã Nhi gạt đổ bình rượu trên bàn, ông ta không ưa cái bình tĩnh thong dong của gã người Giao Chỉ này, gằn giọng:

- Đại quân mượn đường để đi đánh Chiêm Thành, Quốc vương ngươi nếu đến hội kiến thì trong cõi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp mê thì khoảnh khắc núi sông thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát.

- Nếu Ô Mã tướng quân đã nói vậy thì tôi cũng xin cáo lui. Chuyện ngày hôm nay hai bên sẽ nói tiếp trên chiến trường. Núi sông Đại Việt có thành đất bằng, vua tôi Đại Việt có thành cỏ nát hay không thì sau này sẽ rõ. - Đến đây thì Khắc Chung biết cuộc thương lượng đình chiến này đã thất bại liền nói.

Ô Mã Nhi cho Khắc Chung về nhưng lại sai người đuổi theo để giết. Có người khuyên là không nên vì hai bên giao chiến không giết sứ giả, e làm ảnh hưởng đến danh tiếng của thiên triều thì Ô Mã Nhi bảo:

- Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó xướng là Chích, không nịnh ta lên là Nghiêu, mà chỉ nói "chó nhà cắn người", giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được.

Vừa lúc ấy thì toán lính được sai đuổi giết quay lại bẩm báo là đã để Đỗ Khắc Chung chạy thoát. Ô Mã Nhi tức giận sai người lôi ra phạt trượng.

- Khoan đã - Một giọng nói oai nghiêm cất lên.

Ô Mã Nhi liền đứng dậy hành lễ với người vừa đến:

- Trấn Nam vương.

Thoát Hoan khoát tay với toán lính đang bị lôi đi lĩnh phạt:

- Thả chúng ra. Các ngươi lui đi - Rồi hắn quay sang nói với Ô Mã Nhi - Không giết được thì thôi. Nước nào cũng có người tài. Đỗ Khăc Chung cũng chỉ một người giỏi đối ứng. Kẻ này tâm không sáng, tính gian tà, là kẻ tiểu nhân xu thời mà thôi. Việc hắn mạo hiểm xin Trần Hoảng đến đây chỉ là để cầu tiếng khen. Giết một kẻ này hay không cũng chẳng ảnh hưởng gì đến mưu tính của ta. Hơn nữa thôn tính được nước có nhiều kẻ giỏi mới là chiến thắng vẻ vang, mới khiến ta hứng thú. Còn nếu thắng một nước toàn những kẻ ngu dốt bạc nhược thì đâu còn gì là thú vị, là chinh phục. - Thoát Hoan cười khẩy. - Lập tức cho người dựng cầu phao vượt sông san phẳng Thăng Long.

...

Đỗ Khắc Chung thất bại trong việc đưa thư giảng hòa với quân Nguyên là một tin xấu. Tin xấu nối tiếp tin xấu. Cánh quân của Toa Đô từ Chiêm Thành đã kéo sang Đại Việt tấn công, đánh chiếm các lộ phía nam. Dự đoán của Chiêu Văn vương về tình hình chiến sự tại Chiêm Thành và chiến lược cánh quân của Toa Đô không sai. Đối với với đại quân của Thoát Hoan cũng đã khiến quân Trần lao đao, Trần Hoảng phải tính đến chuyện người đưa thư giảng hòa. Nay lại thêm cánh quân của Toa Đô. Tình thế của Đại Việt trước sau đều có địch, vô cùng nguy hiểm.

..................

Đại quân của Thoát Hoan dựng cầu phao vượt sông tiến như vũ bão về Thăng Long mà dường như chẳng gặp trở ngại gì. Thoát Hoan cho dựng trại ở phía bắc sông Phú Lương. Đây chính là lúc triều đình nhà Trần thực hiện mưu kế vườn không nhà trống đã vạch ra từ trước. Đương kim hoàng thượng đích thân ngự giá thân chinh để cản giặc tấn công vào kinh thành. Trần Khâm chỉ huy quân sĩ lập các chiến lũy bằng gỗ bên bờ bắc sông để nghênh chiến quân địch. Thủy quân Đại Việt dàn quân bày trận dưới sông. Quan sát lực lượng của quân Trần đã sẵn sàng ứng chiến, Thoát Hoan ở trên lầu gỗ cao cười khẩy:

- Quả nhiên việc đưa thư giảng hòa của Giao Chỉ chỉ là giả vờ để kéo dài thời gian. Nếu thực sự chúng muốn giảng hòa thì sao lại dàn trận sẵn sàng thế kia được. A Lý Hải Nha, ông nói có phải không?

- Tâu vương gia, chính là thế - A Lý Hải Nha đáp.

...

Gió lộng. Lá cờ Đại Việt rách nát nhuốm báu như chực bị gió thổi phăng đi. Mùi máu tanh, mùi khói lửa khét lẹt theo gió đưa đi. An Tư đứng trên tường thành nhìn dòng sông ngày nào nàng vẫn còn hào hứng cùng các anh du ngoạn nay đã nhuốm màu đỏ của máu, nổi lềnh bềnh xác người, mảnh vỡ của thuyền. Xác quân ta, xác quân địch. Trận đại chiến bên bờ sông Phú Lương diễn ra vô cùng ác liệt. Các chiến lũy của Đại Việt lần lượt bị hạ gục. Chiến thuyền bị chìm, bị cháy, bị địch chiếm. Thoát Hoan cho nô lệ, tù binh nhà Tống lên thuyền nhỏ chất đầy thuốc pháo, tẩm dầu thuận dòng lao vào chiến thuyền của Đại Việt rồi châm lửa. Lửa từ những chiếc thuyền của giặc Thát cháy lan sang thuyền của Đại Việt khiến hàng ngũ rối loạn, thế trận bị phá vỡ. Mặc dù thủy quân Đại Việt tinh nhuệ và đã chiến đấu vô cùng anh dũng những vẫn không ngăn được đà tiến công của quân Nguyên. Những người lính không quản trời giá rét ngụp lặn dưới lòng sông để đục thủng thuyền của quân giặc Thát khiến chúng bất ngờ khi nước tràn vào thuyền mà không biết tại sao. Bằng cách này quân ta đã hạ được nhiều thuyền của giặc. Tuy nhiên khi chúng phát hiện ra liền giăng lưới sắt dưới đáy thuyền để bắt người, lại cho đổ đầy dầu xuống mặt nước và châm lửa đốt để buộc những người lính đang lặn dưới lòng sông phải ngoi lên, phải chịu đau đớn do bị lửa thiêu. An Tư rùng mình trước thủ đoạn nhẫn tâm của Thoát Hoan. Hắn dùng những người nô lệ, những người tù binh nhà Tống như một mồi lửa. Vì muốn phá thế trận của quân ta, mà không biết bao mạng người bị hắn lấy làm vật hi sinh. Khóe mắt nàng cay cay. Là vì chứng kiến thảm cảnh tang thương sau trận bại chiến trước mắt, là vì khói làm nhức mắt. Trong trận chiến này, mục đích của quân Nguyên là chiếm được kinh đô Thăng Long - nơi mà chúng cho là trái tim của Đại Việt, là nơi mà chiếm được đồng nghĩa với việc Đại Việt đã bị thôn tính. Còn mục đích của Đại Việt là gì? Đó là cản bước tiến của quân Nguyên để có thời gian sơ tán dân chúng và hoàng gia quý tộc rời kinh thành. Người dân nước Nam trước nạn ngoại xâm tự cổ chí kim luôn đồng lòng. Lệnh triều đình vừa ban di rời, họ liền nhanh chóng thu dọn để tránh giặc, bỏ lại cơi ngơi vất vả gây dựng, bỏ lại nhà cao cửa rộng, nhưng thứ nhất nhất mang theo không để lại một chút là lương thực. Rau trong vườn đang trồng chưa đến kỳ thu hoạch, nhổ lên. Cây ăn quả đương ra trái, không thể mang theo, chặt đổ. Dù lo lắng hoang mang khi giặc đã đánh đến nơi nhưng dân chúng vẫn rất tuần tự nghe theo hướng dẫn của Thiên Thành công chúa và Bảo Thánh hoàng hậu rời khỏi kinh thành. Hoàng gia quý tộc đã sơ tán ổn thỏa từ khi nghe tin giặc bắc cầu phao. Đêm hôm qua, An Tư nhìn đoàn dân cuối cùng an toàn di tản mà thở phào nhẹ nhõm. Những người lính đã hi sinh trong trận chiến bên bờ sông Phú Lương để đổi lấy tính mạng của hoàng gia và dân chúng đã không hề vô ích. Nguyễn Khoái đã dẫn quân Thánh Dực để bảo vệ hoàng gia quý tộc về đến hành cung sơ tán từ trước. Xong xuôi phải tức tốc quay lại Thăng Long để cùng Trần Bình Trọng bảo vệ hai vua, Thiên Thành công chúa và Bảo Thánh Hoàng hậu. Lẽ ra An Tư đã đi cùng đoàn trước nhưng các chiến lũy của quân ta bị hạ nhanh hơn dự tính, nàng ở lại giúp Thiên Thành công chúa sắp xếp tổ chức việc di rời cho dân chúng.

.

Tiễn xong đoàn dân cuối cùng cũng là lúc trời hửng sáng. Không trở về tẩm cung mà An Tư leo lên tường thành. Khung cảnh chết chóc tang thương khiến trong tim nàng có cái gì đó nhói đau. Những người lính đã bỏ mạng kia là thần tử, những người dân vô tội hai bên bờ sông bị giặc giày xéo nào có máu mủ ruột thịt với nàng, ấy vậy mà chứng kiến cái chết của họ lại khiến nàng xót thương nặng lòng. Chính nàng cũng không biết tại sao? Có lẽ bời vì nàng và họ và cả những người dân trên mảnh đất mang tên Đại Việt này là ĐỒNG BÀO.

- Bẩm công chúa, Nguyễn tướng quân đã đến. - Nghe lời của người lính cất lên sau lưng, An Tư quay lại.

Nguyễn Khoái mình khoác chiến bào, mặt lấm lem khói bụi, cánh tay trái quấn băng trắng đã thấm đầy máu từ vết thưởng rỉ ra. Vết thương ấy do chàng đỡ thay Quan gia một mũi tên trong trận chiến vừa rồi. Lòng dạ An Tư đã như lửa đốt khi hay tin. Nàng nhìn chàng, không cần nhiều lời chỉ nói:

- Đến lúc rồi phải không?

- Phải - Nguyễn Khoái gật đầu - Xe ngựa đã chuẩn bị sẵn sàng. Tối nay ta sẽ đưa hoàng hậu, Thiên Thành công chúa và nàng rời khỏi Thăng Long.

- Còn Thái thượng hoàng và Quan gia... - An Tư nói.

- Phò mã sẽ đảm nhận trọng trách này - Nguyễn Khoái trả lời.

- Đưa ta đến nơi xong, chàng sẽ ra chiến trường phải không? - An Tư lo lắng hỏi.

- Chưa xa mà đã nhớ ta rồi sao? - Nguyễn Khoái mỉm cười, đưa tay vén những sợi tóc bị gió thổi lòa xòa qua vành tai nàng.

Bình thường thì An Tư sẽ bĩu môi, kiêu ngạo mỉa mai chàng vài câu. Nhưng lần này thì không, nàng linh cảm có chuyện chẳng lành:

- Nhớ - An Tư gật đầu rồi ôm lấy Nguyễn Khoái mặc kệ binh lính đang đứng canh gác trên tường thành.

Nguyễn Khoái ngạc nhiên trước hành động của An Tư. Chàng vuốt tóc nàng:

- Ta sẽ ổn. Nàng đừng lo lắng.

Khi nói vậy, Nguyễn Khoái đã chẳng thể ngờ đến việc có ngày An Tư sẽ lại nói câu đó với chàng. Ngày mà hai người họ phải chia ly.

..................................................................

Nhật Duật hay tin đại quân triều đình đã bỏ kinh thành và rút lui xuống phía Nam về phủ Thiên Trường khi vừa đến Bạch Hạc. Vậy là Thăng Long đã mất. Chàng vốn dự tính dẫn quân từ Bạch Hạc về hội quân ở Thăng Long. Nay xem ra phải tính hướng khác để hội quân với triều đình. Cánh quân của chàng số lượng mỏng, nếu không hội quân được với triều đình thì khả năng sẽ bị tiêu diệt hết. Chàng không thể để điều đó xảy ra được. Việc kinh thành đã rơi vào tay giặc khiến binh lính hoang mang lo ngại.

.

Haibara bê thuốc vào cho Nhật Duật. Chàng đang ngồi trầm mặc chăm chú nhìn tấm bản đồ trước mặt. Đôi mày kiếm chau lại. Nhật Duật tập trung suy nghĩ đến nỗi phải khi Haibara lên tiếng thì chàng mới biết:

- Đến giờ uống thuốc rồi.

Nhìn thấy nàng, đôi mày Nhật Duật dãn ra, khóe môi nhếch lên:

- Vẻ mặt này của nàng là sao?

Haibara cũng không biết mình đang mang vẻ mặt gì mà Nhật Duật phải ý kiến. Nàng lắc đầu:

- Chẳng sao cả. Anh uống thuốc đi.

- Mai nàng hãy lên đường về gia trang của Phụng Dược cung đi. - Chàng nói.

- Nếu đó là điều anh muốn - Haibara không vui đáp

Nàng đã nghe việc Đại Việt đã bị mất kinh thành. Nàng nhớ lại những bộ phim cổ đại đã lướt qua, một số bộ có nhắc đến việc các nước giao tranh, mất kinh thành đồng nghĩa với mất nước. Toàn quân đang lo ngại việc này. Nhưng nàng cảm nhận cái lo ngại của họ khi nghe tin dữ kinh thành đã bị giặc chiếm không phải là cái lo ngại hoang mang bi ai của những người bị mất nước. Khi ấy nàng chưa hiểu, chưa biết rằng đối với Đaị Việt, nước có thể mất nhưng làng thì không bao giờ mất, làng còn thì nước còn. Bởi làng chính là dân. Mà người dân Đại Việt sẵn sàng cùng nhau đánh một trận sống mái, hoặc là sống hoặc là chết. Họ có thể hi sinh tất cả để bảo vệ quê hương của mình, thà chết vinh còn hơn sống nhục, thà bỏ mạng để giữ lấy đất nước, còn hơn khom lưng quỳ gối trước kẻ ngoại xâm. Cho dù triều đình có chấp nhận thuận theo nhà Nguyên để tránh nạn binh đao, thương vong cho nhân dân thì họ cũng không cần. Người Việt là thế. Trước giặc ngoại xâm, họ sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của toàn dân tộc. Và họ dám chấp nhận những nỗi đau tận cùng để bảo vệ quê hương.

Chú thích:

[1] Xem Conan tập 25.

[2] Linh Từ Quốc Mẫu: Trần Thị Dung
 
Chương 53: Bại trận

Sau trận đại chiến bên bờ bắc sông Phú Lương, đại quân của Thoát Hoan tiến như vũ bão về kinh thành của Đại Việt mà chẳng gặp bất cứ trở ngại nào. Thoát Hoan hưng phấn dẫn đầu đoàn quân tiến về Thăng Long. Đại quân của thiên triều đã chuẩn bị tất cả đầy đủ để hạ thành. Máy bắn đá, cung tên, thang dây, cọc gỗ nhọn để phá cửa thành.

A Lý Hải Nha chau mày nhìn toà thành kiên cố bề thế nhưng lại mang vẻ im lìm kỳ lạ trước mặt. Trên tường thành chẳng có lấy một tên lính tốt canh gác, chỉ cắm liêu xiêu vài lá cờ rách nát.

- Vương gia, coi chừng có mai phục. Sự bất thường - A Lý Hải Nha nói

Thoát Hoan gật đầu cho là phải. Hắn truyền quân hạ trại đóng dưới chân thành một hôm vừa để quân lính nghỉ ngơi trước khi công thành vừa để thăm dò tình.

Sáng ngày hôm sau, đã cân nhắc xong xuôi, Thoát Hoan quyết định tấn công.

- Đội cung thủ chuẩn bị - Hắn dõng dạc ra lệnh

Nhanh chóng một đội cung thủ dàn trận, nhúng đầu mũi tên vào chảo dầu rồi châm lửa.

- Bắn - Thoát Hoan phất tay.

Những đợt mưa tên lửa lên tục bắn lên tường thành. Nhưng phía quân Đại Việt chẳng có bất cứ động tĩnh gì đáp trả.

Các tướng lĩnh của thiên triều khó hiểu nhìn nhau. Thoát Hoan ra lệnh:

- Phá cửa thành.

- Vương gia, liệu có mai phục? - Ô Mã Nhi lên tiếng.

- Kể cả quân của chúng có bất ngờ tràn ra, thì đánh giáp lá cà, quân thiên triều vẫn áp đảo. Không cần lo lắng - Thoát Hoan điềm tĩnh trả lời - Ta không muốn dây dưa mất thời gian.

Một toán quân đẩy xe gắn cọc gỗ nhọn lao mạnh về phía cổng thành Thăng Long. Và việc diễn ra sau đó càng khiến quân Nguyên khó hiểu. Cổng thành chỉ khép chứ không hề đóng. Đầu cọc gỗ vừa chạm nhẹ vào, cửa thành đã tự động mở do không cài then.

- Chuyện này là sao? - A Lý Hải Nha thắc mắc - Bọn Giao Chỉ đang giở trò quỷ gì đây?

- Bẩm vương gia, có nên tiến vào không? - Ô Mã Nhi hỏi.

- Đương nhiên là có - Thoát Hoan đáp - Toàn quân nghe lệnh, thẳng tiến hoàng cung Đại Việt. Đề phòng mai phục.

Thế là đại quân của thiên triều tiến vào kinh thành của Đại Việt với tinh thần đề cao cảnh giác và sự cẩn trọng đề phòng mai phục. Và khi tiến sâu vào chúng bàng hoàng khi nhận ra đây giống như một ngôi thành chết, chẳng có lấy một bóng người, thậm chí súc vật cũng không. Thoát Hoan cho người lục soát nhưng chúng chẳng tìm được ai. La thành không có dân sinh sống. Hoàng thành, các quan lại, vương công quý tộc để lại phủ đệ trống không. Giống như cổng thành, cửa hoàng cung chẳng hề đóng và cũng nhẵn không.

Đến lúc này thì quân thiên triều đã hết đề phòng vì sợ bị mai phục. Chúng phấn khởi cười ha hả, nhạo báng vua tôi, quan quân Đại Việt hèn nhát bỏ kinh thành để chạy thoát thân. Thoát Hoan ngông nghênh bước lên ngai vàng của vua Đại Việt ngồi xuống trước sự tung hô của quân lính và các tướng lĩnh.

- Truyền mở tiệc khao quân. Các binh sĩ đã vất vả những ngày qua. Hôm nay chúng ta sẽ thưởng hết cao lương mĩ vị trong kho lương của Đại Việt.

Lệnh của Thoát Hoan truyền ra chẳng lâu thì đã nhận được bẩm báo là kho lương của Đại Việt hoàn toàn trống không, đến một hạt gạo cũng không có. Vừa lúc ấy, thì toán lính lục soát nhà dân ở La Thành cũng trở về bẩm báo là cũng không có bất cứ lương thực gì có thể ăn được ở các nhà dân. Tuy nhiên niềm vui thắng trận, chiếm được kinh đô của Đại Việt lúc đấy quá lớn nên tin này nhanh chóng bị Thoát Hoan bỏ qua tai. Nhưng A Lý Hải Nha thì đăm chiêu. Gừng càng già càng cay. Ông ta đã trải qua bao cuộc chinh chiến nhưng chưa gặp trường hợp như thế này bao giờ. Kinh nghiệm chiến trường dụng mưu khiến ông ta chắc mẩm rằng việc kinh thành của Đại Việt chống không thế này không chỉ đơn giản là do hoảng sợ chạy trốn để giữ mạng. Sau bữa tiệc khao quân, đợi lúc Thoát Hoan đã tỉnh rượu, A Lý Hải Nha liền đến xin gặp. Đối với vị hoàng tử này của Đại hãn, ông ta không phủ nhận tài năng và bản lĩnh cầm quân của hắn nhưng hắn vẫn còn ngựa non háu đá và đặc biệt ông ta nhận ra được sự nóng lòng muốn chiến thắng của Trấn Nam vương.

- Tiệc khao quân vừa tàn, Tả thừa liền đến gặp bổn vương ắt hẳn lại có việc hệ trọng. - Thoát Hoan nói, hắn đang cần tranh thủ sự ủng hộ của A Lý Hải Nha trong cuộc chiến trở thành Đại hãn tương lai nên đối với A Lý Hải Nha luôn tỏ ra tôn trọng.

- Tâu vương gia, là việc truy đuổi vua Trần -A Lý Hải Nha đáp. - Tuy thiên triều liên tiếp thắng trận nhưng đánh giá lại thì lực lượng của quân Trần chưa hề bị tổn thất nghiêm trọng. Thần e chúng rút lui là kế sách để bảo toàn lực lượng chờ thời cơ phản công. Thần vừa xem lại ghi chép về cuộc chiến với Giao Chỉ hơn hai mươi năm trước. Chúng cũng rút lui và để lại kinh thành trống rỗng như thế này.

- Bổn vương cũng không định đóng quân ở đây. Chúng ta sẽ trở lại bờ bắc sông Phú Lương để lập trại. Sáng mai ta sẽ chia binh hai đường thủy bộ xuôi theo sông để truy đuổi vua Trần và đại quân của chúng. Chắc chắn chúng chạy về phủ Thiên Trường. - Thoát Hoan vừa nói vừa giở bản đồ Đại Việt chỉ hướng tấn công cho A Lý Hải Nha. - Trong lúc đợi Toa Đô từ phía Nam tiến lên, ta sẽ phái Khoan Triệt, Mãng Cổ Thái và Bột La Đáp Nhĩ dẫn binh đuổi theo đường bộ, còn Lý Hằng và Ô Mã Nhi sẽ truy kích bằng đường thủy để bắt được cha con Nhật Huyên.

A Lý Hải Nha gật đầu hài lòng:

- Vương gia sáng suốt.

....................

- Đi đường bảo trọng - Nhật Duật đặt tay lên vai Haibara dặn dò.

- Anh cũng vậy. - Haibara đáp.

Khóe môi Nhật Duật nhếch lên, chàng khẽ gật đầu rồi cúi xuống vỗ vỗ lên lưng con chó đang ra sức dụi đầu lên chân mình:

- Bảo vệ chủ của mày nhé.

Hachiko sủa lên vài tiếng rồi chạy lại chỗ Haibara.

- Đi đi - Dứt lời Nhật Duật xoay người lên ngựa phi về doanh trại.

Haibara nhìn bóng chàng khuất sau lớp bụi đường mà thấy xa xôi.

...

Nhật Duật đã quyết định sẽ dẫn quân đi xa hơn nữa về phía Tây. Đó là vùng của các tộc Phiên Man. Trước giờ chàng luôn có mối giao hảo tốt đẹp với họ. Đi xuyên qua vùng của các tộc Phiên Man để tránh những nơi giặc chiếm đóng là một lựa chọn thông minh để về với đại quân ở Thiên Trường. Tuy đường xá núi non hiểm trở, rừng thiêng nước độc nhưng cũng không quá đáng ngại. Vì Nhật Duật đối với đường đất ở đó qua nhiều lần đi thị sát, kinh lý chàng đã nắm rõ như lòng bàn tay. Trong đầu chàng đã có sẵn tấm bản đồ của những nơi đó. Hơn nữa còn có sự giúp đỡ của dân chúng vùng Phiên Man. Trước khi khởi hành, Nhật Duật lệnh cho Hứa Tông Đạo lập một đàn tế trời bên bờ sông Bạch Hạc để làm lễ ăn thề cho toàn quân để binh sĩ yên tâm lên đường và vững lòng lên đường. Đây là cách để chàng trấn an tâm lý của binh sĩ.

.

Haibara lên đường từ sớm nhưng đường núi khó đi nên một ngày đường cũng không đi được bao xa. Nàng cùng hai người đồng hành dừng chân nghỉ ngơi trước khi đêm xuống. Từ đây nàng có thể trông về bờ sông nơi Nhật Duật đóng quân. Hình như ở đó đang lập đàn tế trời gì đó. Trong quân ngũ của Nhật Duật luôn có một đạo sĩ người Tống đi theo. Hứa Đạo Tông cũng giống như Triệu Trung, sau khi nhà Tống vong quốc thì lưu lạc sang Đại Việt và được Nhật Duật thu nhận cưu mang. Triệu Trung là tướng quân dẫn theo nhiều binh sĩ. Đương nhiên nên thu nhận. Còn đạo sĩ? Ban đầu Haibara có chút khó hiểu. Đại Việt thời kỳ này sùng đạo Phật, không hiểu sao Nhật Duật là trọng dụng một đạo sĩ. "Nuôi quân ba năm dụng một giờ". Chiêu Văn vương, tâm tư của người này sâu kín, nhìn xa trông rộng. Tên thám tử bốn mắt liều mạng kia nếu có được phần chín chắn trầm ổn của Nhật Duật thì nàng sẽ bớt lo lắng mỗi khi hắn lao đầu vào những vụ án có liên quan đến bọn áo đen.

.................................................................................

Bảo Thánh lòng nóng như lửa đốt. Nàng cứ chốc chốc lại đứng lên ngóng ra cửa hành cung Thiên Trường. Nàng mong trông thấy bóng dáng của Quan gia, của cha nàng. Tin tức quân Nguyên theo hai đường thủy bộ truy đuổi ráo riết để truy bắt vua Trần liên tiếp được chuyển về, gần nhất lại thêm ải Hải Thị thất thủ, phòng tuyến bị vỡ.

- Hoàng hậu người hãy bình tĩnh đi - Thiên Thành công chúa nắm lấy tay con gái - Chờ đợi. Việc của đàn bà thời chiến là chờ đợi. Chờ đợi họ bình an trở về. Nhưng chờ đợi không phải là việc duy nhất chúng ta làm. Chúng ta còn nhiều việc khác quan trọng hơn phải làm để họ an tâm chinh chiến nơi sa trường.

- Con hiểu - Bảo Thánh thưa.

- Về rồi, về rồi. Thái Thượng hoàng, Quan gia, đại quân về rồi.... - An Tư vừa chạy vừa hô to tin báo, nét mặt nàng rạng rỡ - Thuyền đang cập bến rồi thưa Thái thượng hoàng hậu, hoàng hậu, hoàng cô, hoàng tỷ,... Cả cánh quân của Chiêu Văn huynh cũng sắp từ Bạch Hạc về rồi.

Nghe tin báo, nữ quyến hoàng tộc họ Trần vui mừng chạy ra bến thuyền đón người nhà họ. Nhìn thấy chồng mình bình an, họ mới thở phào nhẹ nhõm. Những ngày phiêu dạt lênh đênh vất vả khiến Quan gia, Thái Thượng hoàng, Hưng Đạo vương hốc hác đi nhiều.

- Bình Trọng, Bình Trọng.... - Nhìn khắp các gương mặt quen thuộc nhưng vẫn không thấy chồng mình, Thụy Bảo cuống quýt gọi tên chàng - Chàng ở đâu, sao em không thấy.

Trần Hoảng trầm giọng:

- Thụy Bảo. Bình Trọng hi sinh rồi.

Lời nói trầm trầm của Trần Hoảng lúc này vào tai Thuy Bảo chẳng khác nào tiếng sét bên tai. Nàng loạng choạng suýt ngã may mà có An Tư đỡ lấy. Nàng bàng hoàng:

- Hoàng huynh. Người nói gì? Bình Trọng hi sinh rồi? Không thể nào? Người làm ơn....làm ơn nói lại đi. Người biết muội không thích đùa, không thích đùa mà.

Đoạn Thụy Bảo mang theo ánh mắt hi vọng nhìn sang những người khác, nàng mong họ sẽ báo cho nàng một tin khác. Một tin rằng Bình Trọng vẫn bình an và sẽ sớm đến đây hội quân thôi. Trần Khâm lắc đầu. Quốc Tuấn thở dài:

- Giặc truy đuổi ráo riết cả bằng đường bộ và đường thủy. Để cản địch, ta buộc phải liên tiếp bố trí một số trận đánh trên sông Phú Lương và Lô Giang nhằm kéo dài thời gian cho Quan gia và Thái thượng hoàng cùng đại quân rút lui an toàn, không để lại dấu vết. Trận đầu tiên ở bãi Đà Mạc. Tướng giặc được Thoát Hoan cử để truy đuổi đều là những dũng tướng tài giỏi. Nhiệm vụ nặng nề giữ vùng Đà Mạc - Thiên Mạc, ta chỉ có thể tin tưởng giao phó cho phod mã Bình Trọng mà thôi. Sáu trăm quân Thánh Dực cùng phò mã đã anh dũng chiến đấu. Trận đấu rất quyết liệt vì hàng ngàn quân Thát rất hăng máu, chúng quyết bắt bằng được lưỡng cung. Vì lực lượng quá chênh lệch, giặc lại tấn công dồn dập nên... Bình Trọng đã bị bắt, hiện chưa rõ sống chết. Nhưng khả năng... Thụy Bảo công chúa nên chuẩn bị tinh thần cho tình huống xấu nhất.

- Không thể nào...không thể...- Vì quá đau lòng, Thụy Bảo liền ngất đi. An Tư đỡ lấy thân hình run rẩy của chị mà nhói lòng. Tim nàng thắt lại và lạnh người khi nghĩ đến một mai sẽ có thêm những người nàng yêu thương nhất hi sinh giống Bình Trọng.

...

Nguyễn Khoái buồn bã nhìn dòng sông đậm màu phù sa chảy trước mặt. Phò mã là người tiến cử chàng với triều đình, là người đã động viên giúp đỡ chàng vượt qua những khó khăn ban đầu. Là một anh em tốt. Là đồng đội. Nay người anh em ấy đã bị sa vào tay giặc, không rõ sống chết.

- Nguyễn Khoái - An Tư ngồi xuống cạnh chàng.

- Thụy Bảo công chúa thế nào rồi? - Chàng hỏi.

- Vẫn chưa tỉnh. - An Tư lắc đầu. - Cái chết của tỷ phu khiến chị ấy đau lòng lắm. Trước khi lấy tỷ phu, chị Thụy Bảo đã có một đời chồng là Uy Văn vương. Nhưng Uy Văn vương mất sớm. Bây giờ lại đến...

- Lẽ ra ta phải xin Quốc công cùng với phò mã bảo vệ Quan gia và Thái thượng hoàng di giá - Bàn tay Nguyễn Khoái siết chặt, chàng tự trách mình.

- Vô ích thôi - An Tư nắm lấy bàn tay đang siết chặt của chàng - Mỗi người có một trách nhiệm của mình. Chàng có xin cũng chẳng được. Ta nghĩ người chọn tỷ phu đánh trận Đà Mạc không phải Quốc công tiết chế mà là Thái thượng hoàng. Vì tỷ phu là chồng của em gái nên tin tưởng huynh ấy sẽ dốc lòng, không ngại hi sinh, tuyệt đối trung thành cũng đúng. Vì tỷ phu là con của Lý Chiêu Hoàng nên muốn nhân cơ hội này diệt cỏ tận gốc cũng đúng....

Nguyễn Khoái giật mình vội đưa tay bịt miệng An Tư:

- Sao nàng lại có thể nói những lời này. Thái thượng hoàng không thể nào....

An Tư bình tĩnh gỡ tay Nguyễn Khoái xuống:

- Tất nhiên là khả năng nguyên nhân sau thấp hơn và đó cũng chỉ là một trong những phỏng đoán của ta. Cha của tỷ phu, Lê Phụ Trần là một trung tướng có công lấy thân mình hộ giá phụ hoàng ta trong trận chiến hơn hai mươi năm trước. Nhưng không có gì là không thể. - Đôi mắt nàng sâu thẳm nhìn thẳng vào mắt Nguyễn Khoái - Từ sau cái chết của mẫu phi, ta hiểu được rằng tâm tư của những người trong hoàng tộc sâu hơn biển. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, mẫu phi đã căn dặn ta:"Nguyên, vô tình nhất là gia đình đế vương, con không thể hoàn toàn tin tưởng bất kỳ ai trong họ Trần, kể cả Duật". - Nàng từ từ ngả đầu tựa vào vai Nguyễn Khoái - Chàng có biết tại sao tỷ phu bị giặc bắt, chưa rõ sống chết nhưng Thái thượng hoàng đã khẳng định luôn với chị Thụy Bảo là huynh ấy đã hi sinh rồi không? Còn Quốc công thì khác.

- Vì một người là vua một nước, còn một người thì không - Nguyễn Khoái trầm giọng đáp.

- Lớn rồi, nghĩ lại lời mẹ dặn, ta thấy thật trớ trêu. Nếu người cùng một họ chẳng thể tin tưởng hoàn toàn thì biết tin ai - An Tư thầm thì. - Nhưng giờ ta nghĩ, ta có thể tin chàng. Không phải bởi vì chàng không mang họ Trần mà là vì ngày đó, chàng dám mạo hiểm tính mạng xông vào ngôi nhà rực lửa sắp đổ để cứu ta. Ta đang dựa vào vai chàng, chàng nếu buồn thì cũng hãy dựa vào vai ta.

- Ừm - Nguyễn Khoái đưa tay lên ôm lấy bờ vai mảnh dẻ của An Tư.

......................................

Con đường về hội quân với triều đình của Nhật Duật ở Thiên Trường [1] và Trường Yên [2] dài hơn, khó khăn hơn so với Thăng Long. Thế nhưng cuối cùng cũng an toàn về đến nơi. Không dừng chân lâu ở đây, Nhật Duật được cử vào mặt trận phía Nam phối hợp với Thượng tướng thái sư Quang Khải chặn đánh cánh quân của Tosa Đô đang tiến công lên phía Bắc.

- Anh Duật - An Tư gõ cửa phòng Nhật Duật

- Vào đi - Nhật Duật ngừng lau kiếm, lên tiếng

An Tư đẩy cửa bước vào, áo vải đơn giản, váy lĩnh đen, tóc vấn gọn gàng không mang trang sức.

- Bao giờ anh đi? - Nàng hỏi.

- Anh sẽ bảo trọng - Việc quân cơ, Nhật Duật tránh trả lời câu hỏi của nàng nhưng chàng hiểu được lo lắng của em gái liền đáp.

- Nhất định. - An Tư nói - Anh hứa phải giữ lời. Em sợ...sợ anh... - Đôi môi An Tư run run, nàng không muốn nói điều gở, nhưng nàng rất sợ anh nàng sẽ giống Trần Bình Trọng.

Nhật Duật đưa tay búng tách một cái vào trán An Tư:

- Vẻ mặt này xấu lắm. Yên tâm, Nguyên. Sau khi thắng trận, đánh đuổi bọn Thát xong xuôi, anh sẽ đứng ra xin Quan gia ban hôn cho em và Nguyễn Khoái.

An Tư gật gật đầu rồi ôm lấy Nhật Duật như khi còn nhỏ nàng vẫn hay làm nũng với anh mình:

- Em sẽ đợi.

Nhật Duật phì cười, dịu dàng xoa đầu nàng.

Và đó là lần cuối cùng anh em họ gặp nhau.

...............................................................

Quân Nguyên thắng trận ở Vạn Kiếp nhưng lại không cho quân đóng giữ ở đó bởi vì Thoát Hoan cho rằng việc này là lãng phí binh lực. Việc tập trung truy bắt đằng được vua Trần đối với hắn quan trọng hơn. Và đây cũng là kế điệu hổ ly sơn, hắn muốn tách tên Quốc công tiết chế kia ra khỏi vua Trần. Thoát Hoan biết Vạn Kiếp đối với quân Trần có vị trí chiến lược quân sự quan trọng. Hắn chắc chắn Trần Quốc Tuấn sẽ dẫn quân về đóng ở Vạn Kiếp. Dựa vào hướng Trần Quốc Tuấn dẫn quân từ nơi nào đó về Vạn Kiếp, hắn sẽ lần ra tung tích nơi ẩn náu của vua Trần.

.

Quả thật, Quốc Tuấn cùng Phạm Ngũ Lão đã chỉ huy hơn một nghìn chiến thuyền đóng ở Vạn Kiếp. Để làm phân tán sự chú ý của giặc, ông cử thuộc tướng của mình là Nguyễn Lộc cùng dân quân địa phương tại vùng Vĩnh Bình [3] thực hiện tác chiến du kích ở đây.

......

A Lý Hải Nha hồ hởi bước vào trại của Thoát Hoan:

- Tâu vương gia, ngài đoán không sai. Đã có tin thám báo báo về. Cha con Trần Nhật Huyên đang chui rúc ở Thiên Trường, Trường Yên. Đại quân của chúng cũng đóng ở đó. Trần Quốc Tuấn hiện đang ở Vạn Kiếp, không ở cùng cha con Nhật Huyên.

- Hay lắm - Thoát Hoan vỗ tay lên mặt bàn đứng dậy - Lập tức tấn công Thiên Trường, Trường Yên.

........................................................................................

Trở lại gia trang của Phụng Dược cung sau những thời gian sống ở doanh trại, ngày ngày nhìn thấy chiến loạn, máu chảy đầu rơi, Haibara đã hiểu tại sao Nhật Duật lại gửi nàng đến đây để tránh nạn. Nàng cùng người của Phụng Dược cung đã phải đi đường vòng tránh giặc để về được đến đây. Trên đường về nàng đã gặp nhiều thảm cảnh của chiến tranh do tội ác của quân Nguyên. Nàng gặp cảnh một ngôi làng bị thiêu rụi, toàn bộ dân làng bị giết chết. Nàng gặp xác một thai phụ bị quân dã man mổ bụng lôi đứa con đã thành hình ra ngoài. Nàng gặp xác hai cha con ôm chặt lấy nhau, người cha lấy thân mình đỡ tên cho con. Nàng gặp xác của thiếu nữ lõa thể, bị giặc cưỡng hiếp đến chết rồi vứt thây giữa đồng,... Chúng ám ảnh nàng. Haibara giật mình tỉnh dậy. Trời cũng vừa hừng sáng, bên ngoài ồn ào tiếng người, tiếng khuân vác. Nàng rửa mặt, chải đầu khoác áo rồi vội chạy ra xem.

Huyết Lệ đang đứng giữa sân lớn chỉ đạo gia nhân chất thuốc lên xe ngựa:

- Bao này để qua bên kia, đúng rồi, xếp lên. Nhanh lên...

- Họ lại chuẩn bị xuống núi tiếp tế ư? - Haibara hỏi Huyết Lệ

- Ừ. - Huyết Lệ gật đầu - Nhóc lại muốn đi đúng không?

- Phải - Haibara đáp - Tôi muốn đi cùng đoàn vào mặt trận phía Nam, vùng Bố Chính [4].

- Tại sao? - Huyết Lệ nhíu mày khó hiểu.

- Có được không? - Haibara không trả lời câu hỏi của Huyết Lệ mà chỉ hỏi ngược lại.

- Được thôi - Huyết Lệ nhún vai - Mạng là của cô, chân là của cô. Chiêu Văn cũng chẳng thể trách ta được. Nhưng sao cô cứ nhất định phải đi.

- Không biết nữa. - Haibara đưa tay vén vài lọn tóc lòa xòa ra sau vành tai - Có lẽ gần mực thì đen. Tôi bị lây bệnh biết là nguy hiểm nhưng vẫn liều xông vào.

- Nghe nhóc tả thì người lây bệnh cho nhóc không phải là Chiêu Văn rồi. - Huyết Lệ làm ra vẻ suy tư.

- Phu nhân đoán đúng rồi - Haibara mỉm cười - Đương nhiên là không phải con người thâm trầm đó.

.................................................................

Bố Chính trước kia vốn là một châu của Chiêm Thành. Đó là chuyện của hơn 200 năm trước. Còn bây giờ, vùng Bố Chính thuộc về Đại Việt. Thời vua Lý Thánh Tông năm Thiên Huống Bảo Tượng thứ 2 (1069), Chiêm Thành và Đại Việt giao tranh. Vua Chiêm thời đó là Chế Củ thua trận bị bắt giải về Thăng Long. Dâng nộp ba châu phía bắc Chiêm Thành cho Đại Việt là cái giá mà Chế Củ phải trả để được thả về nước. Bố Chính là một trong ba châu đó. Thái ấp của Nhật Duật gần Bố Chính. Trước khi chiến tranh xảy ra, chàng đã nhiều lần đi tuần xuống phía Nam, qua vùng này, có vài lần Haibara đã đi cùng chàng. Lại nói, Nhật Duật vốn có giao hảo tốt với người Chiêm. Thế nên khi nghe manh nha tin tức triều đình cử tướng vào Nam chặn đánh cánh quân Thát Bắc tiến, Haibara đoán Nhật Duật sẽ đến Bố Chính. Và nàng đoán không sai.

...

Vùng Bố Chính đất hẹp, toàn là đồi núi, có năm con sông lớn bắt nguồn từ núi cao đổ ra biển. Bờ biển của Bố chính dài với hai cửa sông lớn

Nhật Duật chọn nơi đóng quân ở trên núi phía tây, vừa dễ tấn công lại lợi dụng thiên nhiên để phòng thủ. Quân Nguyên có tập tính đóng quân ở những bãi đất trống rộng nên chúng sẽ đóng ở nơi đồng bằng ven biển phía Đông.

.

Nhật Duật chau mày nhìn trời mưa. Bố Chính mùa này là mùa mưa. Thế nên chàng không thể dùng hỏa công để đánh. Nếu như vào mùa khô, có thể dùng kế lăn những quả cầu rơm lớn tẩm mỡ lợn đang cháy dọc theo triền núi xuống doanh trại của giặc. Nhưng thiên không thời rồi. Mưa khiến cho quân của chàng đóng trên núi cũng gặp nhiều khó khăn. Tuy không lo vấn đề hạn hán thiếu nước uống nhưng thời tiết ẩm thấp trong rừng dễ khiến quân sĩ bị bệnh. Mưa nhiều khiến nền đất ẩm, dễ để lộ tung tích hành quân, rút lui sau những trận phục kích giặc. Cánh quân của Toa Đô dù đã mệt mỏi sau thời gian chiến đấu kéo dài ở Chiêm Thành nhưng chúng đã có một thời khôi phục lực lượng trước khi kéo quân sang tấn công Đại Việt. So về tương quan lực lượng Nhật Duật không thể cùng chúng đánh giáp là cà được, chỉ có thể dụ chúng vào trận địa mai phục. Chàng bàn bạc cùng các tướng cho toán quân nhỏ ra khiêu chiến, giả thua, vừa đánh vừa rút lên núi, để địch đuổi theo. Khi chúng vào khe núi, quân ta sẽ ở bên trên ném đá xuống để tiêu hao sinh lực địch. Sau đó chặn lối ra và từ trên đỉnh núi tràn xuống đánh. Nhưng Toa Đô là kẻ cảnh giác. Hắn không mắc mưu. Toa Đô cho quân đuổi theo nhưng cũng chỉ là một toán nhỏ, cốt là để thăm dò nơi quân Trần đóng trên núi. Dù biết là trên núi có mai phục nhưng lần nào quân Trần xuống dử, quân Nguyên cũng đều có một toán đuổi theo. Ban đầu những toán đuổi theo đều bị quân Trần tiêu diệt hết nhưng dần dần chúng đã rút lui khỏi vòng mai phục một cách an toàn. Đến lúc này thì Nhật Duật không cho quân xuống núi khiêu chiến nữa. Chàng hiểu mục đích của Toa Đô khi biết có mai phục nhưng vẫn cho người đuổi theo. Dù biết mục đích của giặc, nhưng chàng vẫn thực hiện cho quân dụ địch trong thời gian qua một là vừa muốn tiêu hao bớt sinh lực địch, hai là hướng sự chú ý của giặc lên núi để chuẩn bị cho đợt tấn công từ biển vào. Bố Chính có bờ biển giáp đồng bằng dài, với nhiều đảo lớn nhỏ nằm rải rác ngoài biển thích hợp để giấu thủy quân và chiến thuyền, mai phục. Về phía Toa Đô, hắn đương nhiên nghi ngờ quân Trần có dự tính âm mưu khác. Toa Đô đã nghe nói về Nhật Duật. Một con người như thế không thể chỉ ấu trĩ dậm chân tại chỗ, cho vài toán quân lẻ tẻ làm việc lặp đi lặp lại, khiêu chiến, giả thua như thế được. Và phán đoán của hắn ta là đúng. Ngày Nhật Duật dùng chiến thuyền từ bờ biển tấn công vào doanh trại của hắn dù bất ngờ nhưng Toa Đô không ngạc nhiên. Quân Trần dàn trận, dùng cung tên tấn công, rồi tràn lên bờ, vừa đánh vừa dụ quân địch ra bờ biển. Thủy triều lên bất ngờ, nước biển dâng cao, quân Trần đã tính toán từ trước rút lên thuyền an toàn, còn quân Nguyên chạy không kịp vì nước lên quá nhanh, những con sóng dữ đổ ập lên chỗ trước đó vẫn còn là bãi cát, kẻ bị chết đuối, kẻ bị sóng biển cuốn trôi. Lúc này cánh quân từ trên núi theo kế hoạch sẽ tràn xuống phối hợp với thủy quân giáp công hai mặt. Nhưng hình như có gì không ổn. Nhật Duật liền phái người đi xem. Chàng linh tính có chuyện chẳng lành. Có lẽ kế hoạch đã bị lộ. Trong quân đã có kẻ phản bội. Quân nguyên sau một hồi hoang mang liền ổn định đội ngũ, chúng dùng máy bắn đá từ đất liền bắn ra bờ biển hòng muốn làm hỏng chiến thuyền của quân Trần. Đúng như những gì Nhật Duật lo lắng, cánh quân trên núi của chàng đã bị đánh úp. Nhật Duật đành ra lệnh lui quân. Trận tấn công này đã thất bại. Theo như dự định ban đầu, chàng sẽ cho thủy quân lui về các đảo ngoài biển nhưng trước tình hình chuyển biến này, Nhật Duật quyết định rời Bố Chính giong thuyền về Nghệ An phối hợp với lực lượng của Thượng tướng Quang Khải đang trấn giữ mặt nam ở đó. Cánh quân ở trên núi tạm thời lui vào trong hang động ẩn náu sau đó cũng về Nghệ An.

Thiên không thời, nhân không hòa. Hai trăm năm bằng mấy chục đời người rất dài, Đại Việt cũng đã thay đổi triều đại nhưng vẫn chưa đủ dài để người Chiêm Thành có thể quên đi vùng Bố Chính này trước đây vốn là đất của họ. Hậu duệ của người Chiêm ở đây đã bị Toa Đô vừa dùng tiền mua chuộc, vừa dùng kế kích tướng, ly gián để phản bội lại quân Trần. Toa Đô dù mới đến nhưng hắn nắm rất rõ địa hình ở đây là vì có hoa tiêu dẫn đường, có người dân địa phương làm tai mắt, chỉ điểm. Lòng dân ở đây không thuận thế nên Nhật Duật liền rời Bố Chính.

...

Lòng người ở Bố Chính đổi thay, lòng người ở Thanh Hoa cũng phản trắc. Toa Đô cử một cánh quân tấn công vào Thanh Hoa. Người chỉ huy 1 vạn quân đảm trách trấn giữ Thanh Hoa là Chương Hiến hầu Trần Kiện. Trần Kiện là con trai của Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang. Trần Kiện được xem là một người tài mạo song toàn, vừa khôi ngô, vừa làu binh thư, thạo bắn cung cưỡi ngựa. Triều đình trọng dụng Trần Kiện được phong chức Tịnh Hải quân tiết độ sứ. Trần Kiện được ban hôn với con gái của Thượng tướng Thái Sư Quang Khải là Quỳnh Huy công chúa. Trần Kiện là người khiêm cung nho nhã độ lượng, đối đãi khiến kẻ dưới mang ơn, dân chúng kính mến. Vậy mà con người ấy khi lâm vào gian nan lại là một kẻ phản bội. Quả thực một vạn quân là đem đánh với cánh quân của Toa Đô phái đến thì chẳng khác này lấy trứng chọi đá. Trần Kiện mong chờ tin tức của viện binh nhưng không hay được tin nào tốt lành, Chiêu Văn vương thua trận ở Bố Chính, bố vợ là Thái Sư lao đao ở mặt Nam Nghệ An. Những đội quân ở gần lo thân còn chưa xong sao có thể đến Thanh Hoa để chi viện. Triều đình rút khỏi Thăng Long không rõ tung tích, chỉ ra lệnh cho hắn phải bảo vệ Thanh Hoa. Vốn năm ngoái Trần Kiện có mâu thuẫn với Tá Thiên vương Trần Đức Việp - em trai Quan gia, không muốn căng thẳng, hắn đã nhẫn nhịn lui về làng Nhân Mục ẩn cư lấy cớ là để học đạo Lão Trang. Ấy thế mà khi chiến tranh xảy ra, tình hình chiến sự xấu cần người đẩy ra chiến trường, triều đình vẫn gọi hắn, sao không gọi Tá Thiên vương. Cũng phải, người ta là em trai của đương kim hoàng thượng, sao lại phải xông pha chỗ nguy hiểm. Trần Kiện dao động lập trường. Phò mã Trần Bình Trọng tử trận ở Thiên Mạc. Trần Kiện lung lay. Hắn không muốn bị như vậy. Thuộc hạ tác động. Trần Kiện liền quyết định đầu hàng bởi hắn cho rằng:" Thế tử bị Thiên tử chỉ triệu, chẳng chịu vào chầu, đến đỗi gây việc binh đao, nguy cơ sắp đến, thế mà còn chấp mê, chẳng tỉnh ngộ, nỡ để cho nhà tan nước mất hay sao?"

...

Bàn tay mềm mại man mát áp lên trán khiến Nhật Duật tỉnh giấc, chàng mở mắt và ngạc nhiên khi thấy người trước mặt. Dù vẫn hơi choáng do cơn sốt cao nhưng Nhật Duật biết chàng không mơ.

- Sao nàng lại ở đây? - Nhật Duật vừa day mi tâm vừa hỏi.

- Tôi đi cùng người của Phụng Dược cung - Haibara đáp rồi rót chén nước đưa cho chàng - Đi được nửa đường thì hay tin anh đã rút khỏi Bố Chính về Nghệ An.

- Làm thế nào mà tìm được doanh trại vậy? - Nhật Duật đón lấy chén nước nàng đưa uống cạn.

- Cả một đoàn quân di chuyển thì làm sao tránh được việc để lại dấu vết - Haibara trả lời - Dù rằng quân lênh bắt buộc binh sĩ phải thu dọn sạch sẽ khi nhổ trại không được để sót lại dù chỉ là một hạt gạo, đi vệ sinh bắt buộc phải lấp đất đi. Ban đầu chúng tôi cũng không biết tìm doanh trại ở đâu để chuyển thuốc tới. Tôi nghĩ nơi anh sẽ rút lui đến chắc chắn là Nghệ An thôi. Vì Thanh Hoa tuy có thái ấp của anh nhưng đã có người trấn giữ, đất Nghệ An rộng lớn, Thượng tướng Thái Sư cũng chỉ đang đảm trách được mặt Nam. Căn cứ vào con đường từ Bố Chính về Nghệ An, địa hình ở Nghệ An thông qua hỏi người dân địa phương, tôi khoanh vùng được những nơi thích hợp để hạ trại đóng quân và chúng tôi tìm được đến đây. Cũng rất khó khăn đấy. Hachiko đã giúp rất nhiều. Khứu giác của loài chó thật kỳ diệu. Tôi chẳng ngờ nó có thể đánh hơi được hương bạc hà trên người anh.

Nhật Duật cau mày:

- Ta đã bảo nàng ở lại gia trang vậy mà vẫn chạy đến đây. Thật cứng đầu.

- Có cứng đầu đến đây thì mới biết có người bị sốt cao đến mức hôn mê mà không báo quân y tới thăm khám chỉ vì sợ lòng quân dao động. - Haibara nói - Anh có biết rất nhiều tử vong do nguyên nhân sốt cao không? Cũng may bây giờ hạ sốt rồi.

Haibara định bê chậu nước và khăn đắp trán hạ sốt đi thay mới thì Nhật Duật lên tiếng:

- Cảm ơn. Giúp người của Phụng Dược cung sắp xếp xong chuyện thuốc men, nàng cũng nên sớm rời khỏi Nghệ An. Nơi này cũng sắp không giữ nổi nữa rồi. Trần Kiện đã phản bội.

- Kẻ phản bội là kẻ đáng sợ nhất - Haibara nhếch môi. - Tôi cũng là một kẻ phản bội. Nhưng phản bội Tổ quốc là hành động không thể tha thứ. Quân Nguyên tấn công Thanh Hoa, Chương Hiến hầu lại theo giặc, thái ấp của anh và ... Trinh Túc phu nhân liệu có ổn không?

Nhật Duật mỉm cười:

- Sẽ ổn thôi nếu Trinh Túc nghe lời dặn của ta trước khi ra trận.

Haibara chau mày khó hiểu. Nhưng Nhật Duật cũng không nói gì thêm. Là không đủ tin tưởng? Cũng phải. Nếu nàng ở vào vị trí của Nhật Duật nàng cũng dè chừng như vậy. Trần Kiện đầu hàng giặc rồi còn dẫn đường cho quân Nguyên đi qua Vệ Bố (Quảng Xương) đánh úp quân Trần, khiến cho hai tướng nhà Trần là Đinh Xa và Nguyễn Tất Thống thiệt mạng. Không những thế hắn còn dẫn đường cho quân Nguyên tấn công người vừa là cha vợ vừa là chú của mình - Thái sư Quang Khải. Trận đó bị tập kích bất ngờ, Quang Khải nếu không có vợ là Phụng Dương công chúa đánh thức dậy thoát khỏi chiếc thuyền bốc cháy do giặc phóng hỏa thì e là đã lành ít dữ nhiều. Ai ngờ được hóa ra một người được dân chúng kính mến như Trần Kiện lại là kẻ cạn tình cạn nghĩa như vậy. Có thể là ban đầu chỉ đầu hàng cầu sống nhưng hàng binh nếu không có giá trị thì quân Nguyên giữ lại làm gì? Thế là từ buông vũ khí lại thành cầm vũ khí lên đánh ngược lại đồng bào của mình. Thoát Hoan vừa đấm vừa xoa, vừa đe dọa vừa khen ngợi ban thưởng xiêm áo yên cương. Haibara có thể thấy trước kết cục của người được gọi là Chương Hiến Hầu kia, một khi đã chọn phản bội, người đó sẽ không còn đường để quay lại. Triều đình nhà Trần sẽ không để Trần Kiện sống. Đó là kết cục kẻ phản bội bởi kẻ phản bội là kẻ thù nguy hiểm nhất. Giống như nàng.

Chú thích:

[1] Thiên Trường: Nam Định

[2] Trường Yên: Ninh Bình

[3] Vĩnh Bình: Lạng Sơn

[4] Bố Chính: Quảng Bình
 
Chào chị Nhã Quân, hôm nay em mang đến một nhuận bút dài. :D

Em viết comment này khi câu nói "cuối cùng cũng theo kịp chị rồi!" bay lòng vòng trong tâm trí. Em đã đọc ĐVDK từ tháng 8/2016. 9 tháng để đọc một fic mà chị đã dành hơn ba năm chăm chút, sẽ không tránh khỏi đọc nhanh và quên một vài chi tiết. Nhưng em vẫn mạo muội bay vào comment, vì để comment ở KSV sẽ tốt hơn để ở FB nhiều.

Hôm qua là lần đầu tiên chị tag em khi có chương mới. Và... em chính thức không đọc chùa nữa. =)) Thực ra cũng bởi vì ĐVDK mà em quyết định lập nick ở KSV, chứ không em đọc chùa miết rồi.

ĐVDK có rất nhiều điểm tốt. Và điểm tốt che mất điểm xấu, nên em sẽ nói về cái tốt, còn cái xấu, từ từ em soi nha.

1. Văn phong
Thực ra ban đầu đọc fic, em không bị cuốn hút bởi văn phong của chị. Bởi ba năm trước chị vẫn gặp lỗi hành văn. Em cũng không thích fic Sử, :P nhưng vì cách trình bày của chị, em đã theo đuổi fic.

Em đọc fic một ngày nhiều chương, và nhiều ngày đọc một lần do thời gian hạn chế. Rồi bị cuốn hút dần. Văn phong của chị "tăng level" rất nhanh, và ở thời điểm này, cực kỳ đáng để em học hỏi. Từ cách miêu tả cảnh vật, nội tâm đến cách dùng lời thoại, cách đưa bài hát vào fic, tất cả đều khiến em nghiện. Dạ, nghiện.

Văn phong của chị, rất tuyệt!

Mang âm hưởng sử ca, trầm, nhẹ, sâu, bình lặng, gợn sóng, tang thương, đó là những gì em cảm nhận được.

2. Cốt truyện
"Đại Việt du ký ư? Sao lại... một DC fan fic liên quan đến Việt Nam?", ban đầu em đã nghĩ như thế. Và, thực sự khi thấy 42 trang đang chờ em, và mỗi một chương truyện đều dài, em thấy ngán.

Nhưng em đã đọc đến trang 54 rồi. :D

Ban đầu em đã không ấn tượng, một khung cảnh bình thường thôi. Nhưng vẫn bị cuốn theo, đọc, đọc. Và cho đến lúc Haibara hỏi Nhật Duật: "Cháu không biết gọi chú bằng 'chú' hay 'bác'." Em đã hiểu mình bị fic quyến rũ.

Một tháng chị ra một chap, chị dần trưởng thành và Haibara trầm tư đi, Nhật Duật thâm trầm dần, An Tư trở nên sâu sắc. Nhân vật cuốn em vào cốt truyện, cốt truyện cuốn em vào fic, và đọc, đọc.

3. Ý niệm
Khái niệm khó hiểu nhất mà em từng dùng để nhận xét fic. :P

Đó là thế giới nội tâm. Chính cái này kéo em vào truyện. Kéo từ chương đầu và sẽ kéo đến những chương tiếp theo chị sẽ viết. Suy nghĩ của nhân vật. Đôi lúc em muốn hỏi chị là ai mà rành nội tâm thế? :D Hơn nữa còn là nội tâm của những nhân vật lịch sử. Thật đáng nể.

Những lo lắng mà Haibara dành cho Nhật Duật, suy nghĩ của nàng (gọi theo chị), hành động của nàng, đều mang lại ý niệm rất ấm. Chị thổi cả hơi ấm trong fic vào lòng em, một cách nhẹ nhành và... thành công.

Những suy nghĩ trong lòng Nhật Duật, lời thoại của chàng (cũng gọi theo chị), hành động hư hư thực thực, ý niệm băn khoăn len vào câu chữ. Chị biết không, nội tâm nhân vật có nhiều cách miêu tả. Nhưng không phải nói "cô buồn" thì người đọc cũng buồn theo. Chị rất tuyệt trong khả năng miêu tả nội tâm.

Nhân vật mà em thích nhất là An Tư, lời thoại của nàng khiến em... khóc hơi nhiều. Mặc dù ban đầu em ấn tượng với Haibara nhất, và chính ĐVDK đã khiến em trở thành fan khá ruột của Ai. Nhưng bây giờ em lỡ thương An Tư rồi... Lỡ thương rồi. Nếu nhân vật sống trong fic, tại sao đến khi em biết thương họ, biết cảm mến họ, thì họ phải chết? Em rất tiếc cho nhân vật An Tư, nhưng đây là fic sử. Và em hy vọng chị có thể để thi hài An Tư được tìm thấy... Giống như khi chị viết "thấy thi hài giá lạnh của em gái" trong đoạn miêu tả Nhật Duật vậy.

___o0o0o0o____
Em viết đến đây thôi, khi chị ra chương mới em sẽ bay vào comment tiếp. =))

Chị giữ sức khỏe tốt nhé.
 
@Nga Robot cảm ơn comment của em. Chị biết fic của mình vẫn còn nhiều lỗi, thứ nhất là lỗi type và chính tả, lặp từ. Một chương dài nên dù chị soát lại nhưng vẫn sót. Thực ra là chị cũng k đủ kiên nhẫn và tỉ mỉ ngồi đọc lại và soát trên máy tính. Thứ hai là về tên địa danh thời kỳ này, dù đã tra cứu nhưng chắc chắn k thể chính xác hết. Thứ 3 là về xưng hô nhân vật, nhưng nhân vật ít đối thoại với nhau lâu lâu mới gặp một lần nên lâu lâu chị mới viết sẽ không nhất quán cách xưng hô do ... quên. Bây giờ đọc lại nhưng chương đầu chị cũng thâuy lời văn của mình gượng gạo và lạm dụng từ hán viết để cố tạo không khí cổ trang. Nhưng vì lười và không có cảm xúc nên chị k viết lại. Về văn phong, chị k có khái niệm văn phong mà chị viết một cách bản năng, đơn giản là diễn đạt trôi chảy để ng đọc có thể hiểu đc ý của mình. Về cốt truyện thì thực ra ban đầu c định viết một truyện dã sử mà nhân vật chính là An Tư nheng k biết đăng ở đâu ngoài bõ DC fan fic nên chị nảy ra ý tưởng có sự xuất hiện của Ai. Khi bắt đầu chị xác định An Tư là nữ chính. Nhật Duật thêm vào để làm nền cho Ai nhưng dần dần chính c cũng bị nhân vật Nhật Duật cuốn hút và khai thác nhiều hơn. Trong rất nhiều nhân vật lịch sử chị chọn Nhật Duật vì độ tuổi còn trẻ, quan trọng là ng đc sử sách ghi nhận là biết nhiều ngoại ngữ. Về nội tâm nhân vật, đặc biệt là An Tư chị đang bị mất dần cảm xúc có lẽ là do viết lâu quá. Lần đầu tiên khi biết đến nhân vật lịch sử này, lúc đó chị đã có một cảm xúc rất khó tả, một sự thương cảm cho số phận của nàng công chúa này. Chính cảm xúc đó đã khiến c viết fic này. Và báy giờ chị k tìm lại đc cảm xúc đó nữa. Khi bắt đầu viết những dòng đầu tiên của môth fic liên quan đến chiến tranh c k nghĩ là mình sẽ viết đc nhiều đến thế, viết lâu đến thế. Về nội tâm nhân vật là c suy diễn từ những sự kiện lịch sử đọc đc. Viết dã sử nhưng thú thật chị bị hạn chế về việc nghiên cứu tư liệu chỉ đọc ĐVSKTT và nhờ gg đại ca, ngoài ra chị bị đặt nặng vấn đề logic. Em nói đúng chị dần trưởng thành nên nhân vật của c cũng bị ảnh hưởng. Khi v bắt đầu viết c mới đang là sinh viên năm 3, rồi ra trường đi làm. Về cái kết của An Tư trong đầu chị đã dự tính cảnh đó từ khi bắt đầu viết, nhạc nền. Chị hi vọng khi viết đoạn đó sẽ đủ cản xúc để ng đọc khóc. Lan man nhiều chốt lại c cảm ơn comment của e rất nhiều để chị biết vẫn có ng đọc và quan tâm fic để chị tiếp tục viết cho xong dù dự tính cốt truyện thì vẫn còn dài
 
Nhận được thông báo chị ra chương mới,liền nhảy vào xem :)) Em theo fic của chị đã lâu,nhưng đều là đọc và ra đi trong thầm lặng,hôm nay mới comt một đoạn,mong chị không lấy đó làm giận :) Kì thật ban đầu,cái thu hút em chính là trong fandom bỗng xuất hiện một câu chuyện dã sử giữa một rừng các câu chuyện tình yêu của DC,cảm thấy rất lạ lẫm.Em rất thích đọc những câu chuyện lịch sử,nhưng đều là chính sử,được lưu hành bằng sách vở nên đối với thể loại dã sử cũng có đôi chút hứng thú.Nghĩ là làm,liền một nhấp vô xem,ko ngờ mới đó cũng đã dc hơn 1 năm.Nay em có một chút góp ý nho nhỏ,không rõ chị có đồng tình ko :))
Quả thật,theo thời gian,văn phong của chị ngày càng tốt hơn,có một sự tiến bộ không nhỏ so với những ngày đầu.Lời văn trau chuốt hơn,ít bị lặp từ hơn rất nhiều,Nhưng đôi khi,có những chi tiết nhỏ lại được diễn giải hơidài dòng,làm cho câu chữ có phần lấn cấn và bị lặp.Thực ra lỗi đánh máy là khó tránh,vậy nên em cũng ko câu nệ chuyện có nhiều lỗi hay không.Vậy nên em mạo muội nghĩ rằng ,nếu có thể rút ngắn câu chữ đi một chút mà vẫn giữ được ý tứ của câu thì câu chuyện sẽ trở nên hay hơn rất nhiều.
Lại nói về các nhân vật trong truyện.Ngươi làm em ấn tượng,không phải là Ai,không phải An Tư,không phải Nguyễn Khoái,mà chính là Nhật Duật.Ngài là một vương gia,có đủ sự thông minh và dứt khoát cần thiết (như lúc bàn chuyện chính sự hay giao cho Ai việc tìm kiếm An Tư để mình hồi cung lo việc nước),nhưng ngày thường là mộthuynh yêu thương em gái,một vương gia thích trêu chọc gia nhân (điển hình là Ai).Chính vì quá tốt,nên em lại bắt đầu công cuộc tra cứu,tìm và search,lại nhận ra ngài ta thuộc thể loại phúc hắc khó đoán,vui giận không lộ mặt,tâm tư kín đáo.Vậy nên khi cẩn thận rà lại,cảm thấy Nhật Duật của fic,dường như quá tốt đi.Người ta vân nói,bạc tình nhất đế vương gia,thật tiếc vì chuyện cung đấu trong fic khá ít,chỉ nói sơ qua trong lời tự thoại của An Tư ( chuyện cái chết của Bình Trọng đã được mưu tính trước),còn cuộc đồ sát tông thất nhà Lý,sự nghi kị của hai chi nhà Trần lại ít được nhắc tới.Vậy nên càng tìm kiếm tư liệu bên ngoài,càng tâm niệm :Duật a,hãy cứ tốt như thế này mãi đi,như vậy sẽ ổn hơn so với việc ra tay với họ hàng anh em của mình :)))
Phân đoạn chiến tranh,phải thừa nhận rằng nó chính là phân đoạn khó nhằn nhất.Để có thể tưởng tượng ra mà viết dài đến như vậy,em thực sự kính phục.Một mẹo nho nhỏ mà em lượm lặt ở đâu đó để tả phân cành này rõ hơn ,chính là xem phim Tam quốc diễn nghĩa,đọc binh pháp Tôn tử và Binh thư yếu lược :)) Em nghĩ chị cũng thử tham khảo qua một chút,biết đâu lại này ra ý tưởng mới thì sao :3
Quên nói về An tư.Nàng là một hình mẫu nữ nhi lý tưởng,ko thể chê ở bất kì điểm nào,dù là ở trong suy nghĩ.Đó là còn chưa kể,nàng theo thời gian còn trưởng thành lên rất nhiều,suy nghĩ cũng chính chắn sâu sắc hơn,thật khiến người khác ngưỡng mộ.Chỉ tiếc,hồng nhan bạc mệnh mà thôi. (em có đọc trên wikipedia,thấy cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần hai kéo dài từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1285,lại đọc thấy trong cuốn An Nam chí lược của Lê Trắc có đề cập đén việc Thoát Hoan khi tấn công Đại Việt có lấy một người vợ họ Trần và có hai con. Người con gái họ Trần này có thể là công chúa An Tư, tuy nhiên chưa có chứng cứ rõ ràng khẳng định điều này".Vậy nên mới đặt ra giả thuyết,có phải sau khi cuộc chiến kết thúc,An tư bị bắt sang trung quốc rồi sinh con ở đó không,vậy nên nàng mới không được khen thưởng công lao chăng?
Dù sao thì,cảm ơn chị đã bỏ công huyết viết ra một câu chuyện dã sử hay đến vậy.Em thực sự khâm phục,và mong rằng chị sẽ tiếp tục nó cho đến tận cùng ,khi Ai trở về thế giới hiện đại.Chúc chị mạnh khỏe,chúc fic ngày càng đông khách.
P/s:Trên thị trường và trên mạng cũng có không ít truyện dã sử,nhưng em thấy truyện Nhân gian nằm nghiêng lại có một vài điểm tương đồng nhất định,cũng là về cuộc chiến chông quân Mông Nguyên lần 2,nhân vật nam-gần-chính cũng là Nhật Duật,hay nhân vật nữ cũng làm trong phú của Chiêu Văn vương,...Truyện đó cũng rất hay,em nghĩ chị cũng nên đọc một lần ,biết đâu lại này ra ý tưởng mới :)) (Hoàn toàn là do em đọc fic dã sử khá nhiều,trùng lặp cũng bình thường vì cùng một khoảng không-thời gian,nhưng em ko hề có ý nghĩ rằng có sự đạo văn ở đây nhé ).
 
@bohème chị mắc cái tật diễn đạt dài dòng và hơi tham nên câu cú có lúc dài. Về cung đấu, sự mâu thuẫn giữa hai chi, việc tiêu diệt tôn thất nhà lý chị chỉ nhắc qua thôi để nói lên cục diện của thời thế này vì k muốn khai thacs sâu do nó k phải lại nội dung chính, c k muốn quá tham làm loãng mạch chính và cũng k tham nổi. C chỉ tập trung khai thác sư kiện quanh nhật duật và an tư thôi. Đặc biệt là việc tiêu diệt toin thất nhà lý đã là chuyện thế hệ trước của các nhân vật. Về sự vô tình của gia đình đế vương thì thời trần k khốc liệt như lê sơ anh en giết nhau mà vẫn có tình cảm, ví dụ như trần cảnh ngăn trần thủ độ giết trần liễu rồi vua ăn cùng mâm ngủ cùng gi.ường với anh e . Hơn nữa thời này nhà trần bị ảnh hưởng bởi phật giáo một tôn giáo hướng tới cái thiện. Về nhân vật Nhật Duật, mỗi ng sẽ có cản nhận khác nhau khi đọc sử, c xây dựng nhân vật này theo cảm nhận và muốn nhân vật này k quá tốt nhưng vẫn đc mọi ng đánh giá là tốt. Về truyện nhân gian nằm nghiêng chị chưa đọc, cũng k biết nội dung, nhưng những gì em tả thì c sẽ k đọc ít nhất là trc khi viết xong fic vì cùng nhân vật bối cảng chị sợ bị ảnh hưởng. Cuối cùng cảm ơn em vì đã dành thời gian comment cho c
 
Quay lại
Top Bottom