Khi yêu
Tôi bỗng thành người lớ ngớ
Mọi người cười tôi
Nhưng họ cũng đều lớ ngớ
Khi yêu!
Có nhiều người càng yêu
Càng lớ ngớ!
Và càng lớ ngớ
Họ càng yêu!
Sỏi đá bỗng dỗi hờn
Khi bỗng lớ ngớ
Bỗng yêu!
Quỷ sứ cũng hiền như nai
Khi cũng yêu
Cũng lớ ngớ!
Nhưng coi chừng
Bạn sẽ là người lớ ngớ
Nếu không yêu!
Cũng đừng quá vội yêu
Kẻo thành người lớ ngớ!
1997
(Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Tình yêu là gì? Tình yêu là cảm xúc mà mỗi con người đều có nhưng rất khó định nghĩa. Trong thơ văn đã có rất nhiều định nghĩa về tình yêu...
"Văn chương vỉa hè" đã từng có câu:
Yêu là khổ
Không yêu thì lỗ
Thà chịu khổ chứ không chịu lỗ...
Bài thơ viết tặng cho một cô bạn sau khi cùng nhau tranh luận về chủ đề "yêu".
Người ta tan học có đôi
Sao bé tan học mồ côi một mình?
Ta chào bé cứ làm thinh
Ta cười bé giận mắt nhìn đâu đâu...
Hỏi tên, bé bỗng lắc đầu
Hỏi nhà, bé chỉ mây cao... trên trời!
Xe ta sao bé chẳng ngồi?
Ta buồn lẽo đẽo...
Mồ côi hai mình!
1994
(Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Tình yêu tuổi học trò đứng giữa hai giai đoạn, đồng thời còn là trẻ con và cũng đã là người lớn, tạo nên một loại tình yêu trong trẻo và tuyệt vời.
Chuyện tóc ngắn và tóc dài khi tan trường:
- Mình làm quen nha em?
- Em bà nội mầy, chứ em!
Vậy mà có ai ngờ sau này họ vẫn quen nhau...
Bài thơ viết từ câu chuyện kể vủa một em nữ sinh lớp 12, lớp tác giả chủ nhiệm.
Trời mưa ướt áo trời mưa
Chiều nay tan học ai đưa em về
Sao em cắt ngắn tóc thề
Để buồn giọt nắng, dầm dề giọt mưa?
Huế 1994
(Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Thừa Thiên - Huế là vùng có lượng mưa trong năm cao nhất (2.700-4.000mm), số ngày mưa cũng kéo dài nhất (200-220 ngày) và tất nhiên độ ẩm cao nhất nước (83-87%).
Ai đó đã nói rất đúng rằng, đến Huế mà chưa được thăm lăng tẩm Hoàng cung thì coi như chưa đến Huế. Tôi vẫn muốn nói thêm, đến Huế mà chưa được rong ruổi trên các con đường để tắm mình trong những cơn mưa rả rích, dìu dịu, lâm thâm… thì cũng coi như chưa một lần đến Huế.
Bài thơ viết từ một buổi chiều mưa đợi bạn trước cổng trường Quốc Học - Huế.
Là nhớ gì không nhỏ?
Ngày ấy em rời trường
Nắng chiều vương trong mắt
Ngập ngừng và mông lung.
Ta ngẩn ngơ lặng ngắm
Cánh phượng hồng rụng rơi
Sân trường mùa hạ thắm
Bóng em xa, xa rồi...
Là thấy gì không nhỏ?
Sao vội vàng quay lưng
Đầu cành ve nức nở
Chiếc lá sầu rưng rưng.
Bước giày em thầm lặng
Bỗng chốc hóa xa vời
Ta về qua cửa lớp
Bụi phấn còn rơi rơi.
Là xa rồi đấy nhỏ
Kỷ niệm những ngày thơ
Người em xưa áo trắng
Hình bóng giờ trong mơ.
Trời xanh kia thăm thẳm
Mùa hạ biết còn không
Mùa thu sao đến chậm
Để buồn ta mênh mông?
1994
(Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Mùa hạ là mùa kết thúc một niên học của các em học sinh và cũng là mùa hạ cuối cùng, từ giã mái trường của các em học sinh.
Mùa hè của năm học lớp 12 được những học trò cuối cấp gọi là mùa hè cuối cùng. Đây là mùa hè có nhiều cảm xúc nhất, những cảm xúc khó nói thành lời, lòng bồi hồi không nỡ rời xa những năm tháng học trò.
Bài thơ viết tặng cho một nữ sinh của trường THPT Võ Thị Sáu tên Minh Thu sau khi tốt nghiệp lớp 12 và ra trường.
Khi tôi về thăm mẹ
Mùa nước lũ đang lên
Mái tranh nghèo nước ngập
Cỏ rác trôi bập bềnh.
Bao năm trời phố chợ
Sống thành kẻ không hồn
Thừa bạc tiền, bia bọt
Quên mẹ hiền, quê hương.
Tôi quên thời cắp sách
Mò cua ốc mỗi ngày
Quên mẹ mình cơ cực
Manh áo còn vá vai...
Khi tôi về thăm mẹ
Giọt nắng đã không còn
Bóng trăng gầy xanh khuyết
Đã khuất vào hư không.
Tôi gục đầu nức nở
Bên quang gánh mẹ già
Nhớ lá rau dền tím
Mẹ bán chợ đường xa...
Khi tôi về thăm mẹ
Mộ mẹ biết tìm đâu?
Điên điển vàng trôi nổi
Mây nước xám một màu...
1996
(Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Mùa nước nổi, còn gọi là mùa lũ sông Cửu Long, là hiện tượng lũ lụt tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam, thường bắt đầu từ tháng 7 âm lịch đến tháng 10 âm lịch hàng năm, cao nhất là vào nửa cuối tháng 8 và đầu tháng 9 dương lịch.
Nước lũ ở miền Tây Nam Bộ không dâng đột ngột mà con nước lên chầm chậm, từ từ tràn vào đồng ruộng, vào những dòng sông, kênh rạch, xóm làng… tạo thành một vùng nước bao la theo phù sa và nguồn lợi thuỷ sản dồi dào.
Lời tác giả: Mùa thu Đà Lạt là những buổi sớm se lạnh, là khung cảnh phủ đầy sương mù mờ ảo, là những đồi hoa dã quỳ nở vàng rực rỡ hay khung cảnh hoàng hôn đầy bình yên.
Đà Lạt từng có được những biệt danh: Thành phố mộng mơ; Thành phố ngàn hoa; Thành phố ngàn thông; Tiểu Paris phương Đông; Xứ Hoa Anh Đào
Đừng quên chị em nhé
Dẫu mai này cách xa
Chị - có cha mất mẹ
Em - còn mẹ không cha.
Gia đình mình ly tán
Đem nỗi buồn nhân đôi
Đem bát cơm đập nửa
Nước mắt mặn mềm môi.
Ngày xưa cha thương mẹ
Sao giờ mẹ ghét cha
Chúng con thương chẳng ghét
Sao cha mẹ đành xa?
Chú lính chì gãy cổ
Chị gắn rồi trao em
Nghe lời mẹ em nhé
Cố học chăm, ngoan hiền.
Em khản hơi gào khóc
Dỗ nó cha mẹ ơi!...
Cha cúi đầu không nói
Mẹ nín lặng ngậm ngùi.
Đừng quên chị em nhé
Ngày mai buồn chia xa
Hai mảnh đời côi cút
Trong mắt lệ nhạt nhòa...
1996
(Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Ly hôn luôn là một bi kịch khủng khiếp của những đứa trẻ.
Sau khi ly hôn, những đứa trẻ chỉ có thể chọn sống chung với cha hoặc chọn sống chung cùng mẹ, dù chọn lựa nào thế nào thì cũng là một mất mát rất lớn đối với chúng.
Một chiều qua xóm Đạo
Chân nhói kỷ niệm xưa
Tượng Chúa trên thánh giá
Cô đơn màu nắng mưa
Ngọn gió đông gầy guộc
Lạnh tim ta cuối mùa.
Đâu sân trường Thiên Phước
Đâu lầu trường Đức Minh
Chuông nhà thờ chầm chậm
Vọng tiếng buồn tâm linh?
Chuông vang lời sương khói
Ta về tìm đức tin.
Em về đeo thánh giá
Dắt ta kẻ tội đồ
Sáng danh là Thiên Chúa
Tội danh là... làm thơ!
Bờ vai em tròn nhỏ
Đưa ta đến dại khờ!
Em bông hồng Thiên sứ
Xuống từ miền trăng sao
Bầu má đỏ hồng đào
Tà áo dài hồng phấn
Để hồn ta lận đận
Để tình ta lao đao.
Ta tín đồ ngoại đạo
Ngàn năm chỉ biết yêu
Theo em Thiên sứ nhỏ
Tóc xõa dáng yêu kiều
Câu kinh em truyền đọc
Ta nghe toàn rong rêu.
Em thiên thần hờn dỗi
Nụ cười hồng xinh xinh
Ta trái tim nông nổi
Lệ nửa đời phiêu linh
Trước em xin sám hối
Ngơ ngẩn một u tình.
Tìm trao lời vô tội
Nẻo nào nghẹn tương tư?
Bàn chân em bối rối
Bàn chân ta chần chừ
Nỗi đau dài không nói
Câu thơ hằn đá sỏi.
Em giờ mờ sương khói
Cành hồng vội gãy đôi
Tình ta màu bão táp
Hồn ta màu tuyết rơi
Mảnh trăng xưa vỡ khuyết
Thổn thức cuối chân trời.
Thiên sứ ơi, Thiên sứ
Ta còn em nơi đâu?
Lang thang chiều xóm Đạo
Bước chân buồn bể dâu
Chúa trên trời cũng khóc
Mưa pha lê xám màu.
2003
(Tuyển tập thơ Mưa Pha Lê - NXB Văn Hoá Dân Tộc 2003)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Thúy Nga là hoa khôi của lớp tôi ngày xưa. Là một nữ sinh trường Đạo trước năm 1975, Thúy Nga luôn xinh đẹp và dịu dàng nhất lớp. Không may cô mất rất sớm khi chưa được 30 tuổi trong một tai nạn giao thông để lại niềm thương tiếc khôn nguôi trong lòng của bè bạn...
Trường Thiên Phước (trường Đạo của nữ sinh) sau 1975 đổi tên là trường Hai Bà Trưng. Trường Lasan Đức Minh (trường Đạo của nam sinh) sau 1975 đổi tên là trường Trần Quốc Tuấn và bây giờ có tên là Đại Học Tại Chức Tp. HCM. Cả hai trường đều ở gần nhà thờ Tân Định.
Ta Đại Đế về thăm vương quốc cũ
Thăm cánh đồng xưa mây trắng lưng đồi
Thuở chăn trâu chơi lội sông đánh giặc
Ta đủ tài thành Đại Đế lên ngôi.
Lấy tre lá dựng lâu đài tráng lệ
Lấy cờ lau làm hiệu lệnh vương quyền
Bao tướng lãnh, bao thần dân thần phục
Trâu theo bầy theo Đại Đế uy nghiêm.
Nhưng Nhỏ Phù Thủy môi hồng dễ ghét
Cùng bọn nữ yêu đỏng đảnh tóc dài
Thích chọi phá, thích leo trèo la hét
Khiêu khích ta đạp ngã những lầu đài.
Ta giận dữ đòi yêu ma quyết chiến
Đại Đế ra quân đội ngũ trùng trùng
Chỉ một trận giặc thù thua khiếp vía
Vứt gậy chạy dài nhốn nháo bến sông.
Nhỏ Phù Thủy biết quân mình sức kiệt
Đem bọn yêu lẩn trốn tận rừng sâu
Ta thừa thắng xua đại quân đuổi đánh
Bỗng phục binh, bị đá ném lỗ đầu!
Vết sẹo nhỏ hóa đôi bờ ngăn cách
Chẳng nhìn ai như hận oán nghìn đời
Ta lên tỉnh tháng năm dài biệt xứ
Vẫn nhớ thầm một vương quốc xa xôi...
Nhỏ Phù Thủy ai ngờ thành cô giáo!
Mắt xinh xinh e lệ dưới mây chiều
Ta Đại Đế giờ cúi hàng quy phục
Khẩn xin nàng ban tặng trái tim yêu!...
1997
(Tập thơ Hạ nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Khoảng năm 1994, tôi có hướng dẫn một cô giáo sinh tên là Liên, quê ở Tánh Linh tỉnh Bình Thuận. Cô giáo sinh này tính tình như con trai: biết võ thuật, biết đá banh, biết bơi lội, biết dùng ná bắn chim... Cô kể có lần chơi trò chơi đánh giặc với lũ con trai cô đã vô tình ném đá vỡ đầu một thằng bạn, làm nó phải khóc thét vì máu chảy đầy mặt! Tôi đã viết bài thơ này để tặng cho cô giáo sinh.
Bài thơ này bị nhiều tờ báo từ chối đăng vì có chứa ít nhiều nội dung "bạo lực".
Bài thơ viết tặng cô giáo sinh thực tập trường Võ Thị Sáu, tên Liên.
Em sắp xa thành phố
Về lại đất hương tràm
Hỏi em thích gì nhất?
Em cười: Hoa vông vang.
Ta qua bao góc phố
Ta đến bao tiệm hoa
Hỏi mua, mua chẳng có
Hỏi tìm, tìm không ra.
Tên hoa quen mà lạ
Như người lạ giờ quen
Hẳn là hoa cũng đẹp
Hiền dịu như mắt em?
Kẻ nói hoa màu đỏ
Kẻ mách hoa màu vàng
Người cho hoa là cỏ
Người bảo hoa mọc hoang!
Ta tìm, đi tìm mãi
Mang nỗi buồn lang thang
Giữa thị thành hoa lệ
Tìm đâu hoa vông vang?
Ngày tiễn em mưa trắng
Ta lặng nhìn mây trôi
Vông vang trong tay với
Hay xa tận chân trời?
1995
(Tập thơ Hoa Sứ Trắng - NXB Đà Nẵng 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Hoa vông vang thường có màu vàng là hoa của một loài cây dại. Cây vông vang thường mọc lẫn với các loại cây cỏ thấp ở nương rẫy, ven đồi, bãi hoang hay ven đường đi.
Bài thơ được viết từ một câu chuyện kể của một cô gái xinh đẹp quê ở An Giang, sống ở Cà Mau. Cô cho biết ngày xưa chồng của cô là một anh chàng công tử con nhà giàu, luôn nghĩ trong đầu có tiền thì mua tiên cũng được. Có lần, khi mới quen nhau, chàng công tử hỏi cô thích hoa gì anh sẽ mua tặng. Cô đã trả lời cô thích nhất là hoa vông vang...
Chia xa bẻ nửa câu thề
Nửa đi ngập gió, nửa về ướt mưa
Nửa đau đau lá cuối mùa
Nửa thương thương mảnh trăng xưa phập phồng.
Người về lạnh nửa vườn hồng
Câu thơ lạnh nửa bềnh bồng thành sương
Người đi lạnh nửa con đường
Nửa đau nhẹ mất, nửa thương nặng đầy.
1998
(Tập thơ Hạ Nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Tình yêu có hợp có tan. Có những người được bên nhau nhưng chưa chắc đã hạnh phúc. Cũng có những chuyện tình phải chia xa nhưng đó lại là một tình yêu rất đẹp.
Thôi, từ giã giảng đường
Từ giã tuổi sinh viên
Chúng mình ra đi để mang hoài nỗi nhớ
Hoa phượng vĩ chiều nay tưng bừng nở
Đỏ thắm ven trời. Những cánh chim bay.
Ngày mai xa rồi ta biết nói gì đây
Ánh mắt ấy nhìn ai chợt có gì khang khác!
Tạm biệt nhé con đường về xanh mát
Bao dấu chân xưa. Sao xao xuyến bồi hồi?
- Em sẽ về miền đất ấy xa xôi...
Lời nói khẽ như bao lời muốn nói
Mái trường xa sẽ đón chào cô giáo mới
Và tình yêu thoảng nhẹ trong chiều.
Họ bên nhau chưa nói được nhiều
Lòng mải hẹn những phương trời xa lắc!
Để những ước mơ thầm thì khẽ hát
Khúc - hát - vào - đời những mơ ước lứa đôi...
1994
(Tập thơ Hoa Sứ Trắng - NXB Đà Nẵng 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Bài thơ viết tặng cho một cô giáo sinh.
SÁM HỐI TRƯỚC BIỂN
Khi con về thăm lại mái nhà xưa
Thấy bóng mẹ dật dờ nơi bãi biển
Tuổi bé thơ đợi cánh buồm cha màu tím
Con vẫn dắt mẹ tìm dõi mắt xa xôi...
Con đã về. Đừng khóc nữa mẹ ơi!
Nước mắt mẹ làm lòng con mặn đắng
Biển rủ sóng, tóc mẹ giờ bạc trắng
Mái tranh nghèo lay lắt khói chiều lên.
Con ăn học nhiều nên lú lẫn thành quên
Không nhớ nổi một nỗi buồn của mẹ
Cặp đầy ắp những công trình bản vẽ
Chỗ mẹ nằm vẫn nắng giọt mưa sa.
Bao năm trời bay nhảy tận miền xa
Mê bia bọt con bỏ trôi vị nồng của biển
Lời thương mẹ cũng nhạt nhòa tan biến
Trong những ánh đèn nhấp nháy đỏ xanh...
Chợt giận mình sao quá đỗi vô tâm
Con quỳ khóc trước muôn trùng sóng vỗ
Cha không còn. Mà mẹ thì không nhớ
Hỏi biển trời dung thứ được con không?
1995
(Tập thơ Hoa Sứ Trắng - NXB Đà Nẵng 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả: Bài thơ khi đăng trên báo Áo Trắng đã đổi tựa đề thành TRƯỚC BIẺN.
THĂM MỘ HÀN MẶC TỬ
Bồng bềnh dưới biển trên trăng
Đêm trôi vào cõi vĩnh hằng tìm nhau.
Tài hoa vùi lấp mộ sâu
Xót người mệnh bạc dãi dầu cỏ xanh Đau thương rụng vỡ bên gành Mộng cầm sắc vỡ tan tành chiêm bao Xuân như ý bỗng nghẹn trào
Nửa hồn bút mực chìm vào mưa ngâu...
Tìm người, người đã về đâu?
Nửa vành trăng góa buồn đau giữa trời
Sóng leo trồi sụt chân đồi
Ném lòng vào đá vọng lời tháng năm
Câu thơ lệ ứ ướt đầm
Nửa lăn xuống biển, nửa nằm trên trăng.
Quy Nhơn 1996
(Tuyển tập thơ Thơ Nhà Giáo Tp.HCM tập 2 - NXB Trẻ 1998)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Lời tác giả:
Đau Thương, Xuân Như Ý: Tên các tập thơ của Hàn Mặc Tử
Mộng Cầm: Tên người yêu Hàn Mặc Tử
Bút mực: Ý nghĩa bút danh của Hàn Mặc Tử. “Hàn” ám chỉ cây bút lông; “Mặc” tức là mực dùng để viết. “Hàn Mặc Tử” có nghĩa là người viết văn, làm thơ hoặc người có duyên nợ với văn chương.