Chương 20: Đốm lửa.
Thay xong trang phục của dân thường, giắt một ít tiền vào ruột tượng, An Tư xỏ đôi guốc mộc vào rồi chuẩn bị xuất cung. Khi băng qua ngự hoa viên nàng cẩn trọng ngó trước nhìn sau để đề phòng Thái thượng hoàng cũng đang ngắm cảnh đâu đó trong ngự hoa viên bắt gặp mình lại trốn đi chơi. Do mải ngó nghiêng tứ phía, An Tư không để ý đằng trước kết quả là đâm sầm vào một người và bị một cú ngã đau điếng.
- Tôi xin lỗi, cô nương không sao chứ – Người không may bị An Tư đâm vào áy náy lên tiếng.
- Không là lỗi của ta mới đúng, là ta không cẩn thận – An Tư đứng dậy, vừa cúi đầu phủi quần áo, vừa hối lỗi nói.
Sau nghĩ lại lời người kia, nàng thấy hơi kỳ lại, là cung nữ nội thị hay cấm vệ quân nếu biết nàng thì không thể nói như thế mà phải cung kính, có khi còn quỳ xuống rối rít xin nàng tha tội vì đã đụng phải công chúa. Chắc là người mới vào cung. An Tư ngẩng lên thì thấy đó là một chàng trai tầm 17 tuổi, mặt mũi sáng sủa nhưng cách ăn mặc rất kỳ lạ, đây không phải là trang phục của người Kinh. Nếu nàng đoán không nhầm thì đây là trang phục của người sống ở vùng Đà giang.
Trịnh Giác Sơn thoáng ngẩn người khi nhìn rõ dung mạo mỹ lệ của người thiếu nữ trước mặt. Đôi mắt đen lay láy ngập nước như đầm sâu. Đôi tròng mắt lanh lợi tinh quái của An Tư khẽ đảo một vòng ngầm quan sát người thanh niên trước mặt. Nhìn dáng vẻ thật thà của Giác Sơn, An Tư nảy ra ý định trêu chọc:
- Anh là thái giám mới nhập cung? – Nàng khẽ chớp mắt ngây thơ hỏi.
- Không. Tôi là người trông coi ao cá ngự. – Nghe An Tư hỏi vậy, Giác Sơn vội lắc đầu. – Cô là…cung nữ? Nhưng y phục của cô không giống những người khác mà trông giống dân thường nhưng sao mà dân thường có thể vào cung được – Giác Sơn cẩn trọng hỏi.
An Tư đang định gật đầu xác nhận mình là cung nữ và bịa chuyện mình vâng lệnh chủ nhân ra ngoài thành làm việc thì lúc đó vừa vặn có một đoàn cung nữ đi, trông thấy An Tư liền nghiêng mình thi lễ:
- Tiểu tỳ tham kiến công chúa.
- Miễn lễ - An Tư thở dài, khẽ phất tay áo, chỉ có thể trách trời không muốn cho nàng trêu chọc người khác. Đoàn cung nữ sau khi được An Tư miễn lễ liền rảo bước tiếp tục đi làm nhiệm vụ của mình kẻo bị tổng quản trách mắng.
Nghe đoàn cung nữ gọi người thiếu nữ mặc y phục thường dân, trang sức giản dị đứng trước mắt mình là công chúa, Giác Sơn ngạc nhiên rồi nhớ ra mình đã đắp tội liền quỳ xuống nói:
- Thần không biết người là công chúa. Mong công chúa tha tội.
- Anh đứng dậy đi – An Tư nhẹ nhàng đáp. – Anh có tội đâu mà xin tha.
- Công chúa gọi thần là “anh” như vậy, thần có to gan đến đâu cũng vạn lần không dám nhận – Giác Sơn cúi đầu cung kính.
An Tư từ từ khuỵ một gối xuống đất làm trụ, để mắt mình ngang tầm với mắt Giác Sơn, nàng mỉm cười, giọng nhẹ tênh nhưng khiến người đối diện nghe thấy mà bất giác lạnh người:
- Ta lại thấy anh rất to gan là đằng khác. Đến việc ta muốn gọi người khác như thế nào, anh cũng muốn quản sao?
Giác Sơn lúng túng không biết phải trả lời như thế nào để khỏi đắp tội với công chúa cao quý, nàng công chúa này khiến người ta như đi vào màn sương mù dày đặc không biết đâu là thật đâu là đùa, cảm thấy vô cùng hoang mang. Nụ cười tuy dịu dàng, đôi mắt sóng sánh nước với ánh nhìn chan hoà nhưng không hiểu sao lại khiến chàng cảm thấy, nói như thế nào nhỉ, cảm thấy…đáng sợ.
- Trò không cần quan tâm đến lời An Tư vừa nói đâu, nó đùa đấy.
Nhân có việc vào cung, Nhật Duật đến ao cá xem tình hình Giác Sơn thế nào, vừa vặn bắt gặp em gái mình đang vặn vẹo làm khó người ta, liền lắc đầu lên tiếng.
- Thầy – Giác Sơn cúi chào Nhật Duật.
- Trò đứng dậy đi. Em gái ta muốn gọi trò là gì thì cứ mặc kệ nó. – Chàng khẽ bảo.
- Vâng – Giác Sơn thưa.
Rồi Nhật Duật quay sang An Tư giọng nửa dung túng, nửa đe doạ:
- Còn em, ăn mặc như thế này lại muốn trốn đi chơi đúng không? Hôm nay thì không được rồi, anh nghe nói Thái thượng hoàng đang trên đường đến Tân Nguyệt điện đấy.
- Sao anh không nói sớm hơn. – An Tư nhăn mặt, rồi nàng vội kéo váy chạy đi, vừa chạy vừa vẫy tay và nói với lại – Em về đây.
Sứ giả Nguyên triều sắp sang Đại Việt. Thái thượng hoàng, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, quan gia đang lo chuyện tiếp đón sứ giả nên làm gì có thời gian mà đến Tân Nguyệt điện. Nhật Duật biết chắc chắn điều đó vì chàng đang trên đường đến điện Long An để cùng mọi người bàn bạc về việc tiếp sứ. Để đón tiếp và ứng phó trước những tên sứ giả hống hách kiêu căng ngạo mạn, luôn hạch sách đủ điều và đưa ra những yêu cầu phi lý thì người có trọng trách đón sứ giả phải là người có bản lĩnh, tài năng, sắc sảo, khả năng ứng biến linh hoạt, giỏi ngoại giao đối đáp để sứ giả Nguyên triều không có cớ nói Đại Việt đắp tội với thiên triều của chúng nhưng cũng không đời nào làm mất quốc thể. Mềm dẻo nhưng cứng rắn. Người trực tiếp đón tiếp sứ giả là Quang Khải. Đây là một lựa chọn vô cùng sáng suốt. Còn Nhật Duật chỉ phụ trách phần ca vũ trong yến tiệc tiếp đón sứ giả mà thôi.
Khi chạy hộc tốc về đến nơi, An Tư sẽ biết mình bị lừa. Nghĩ đến gương mặt tức tối của nàng, Nhật Duật cảm thấy thật thoải mái trong lòng. Nhớ ra điều quan trọng, cảm thấy áy náy Nhật Duật liền quay sang vỗ vai Giác Sơn đang đứng bên cạnh:
- Trò ở đây phải hết sức bảo trọng. An Tư, nó sẽ không bỏ qua dễ dàng cho trò đâu.
Để lại đứa học trò đáng thương đang ngơ ngác vì không hiểu thầy của mình sao lại nói như vậy, Nhật Duật rời đi đến điện Long An kẻo trễ giờ. Vừa đi chàng vừa lẩm bẩm:” Giác Sơn, thầy có lỗi với trò. Trò có trách thì hãy trách An Tư oan có đầu nợ có chủ, sao lại giận cá chém thớt”.
…
- Cho anh này – An Tư tung một quả táo chín mọng về phía Trịnh Giác Sơn đang ngồi trong đình trên mặt hồ cá.
- Thần xin đa tạ công chúa – Giác Sơn bắt lấy, cung kính nói.
Trước thái độ cung kính đa lễ của Giác Sơn, An Tư phất tay áo một cách chán nản rồi ngồi xuống cạnh chàng. Gần đây An Tư rất ngoan ngoãn yên phận ở trong cung. Sứ giả nhà Nguyên sắp sang, còn mục đích gì ngoài thăm dò Đại Việt và tìm cách gây hấn để có cớ phát động chiến tranh, đem quân thôn tính Đại Việt. Chiến tranh chắc chắn không thể tránh được, chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi. Thế nhưng cái Đại Việt cần là thời gian, thời gian để chuẩn bị xây dựng lực lượng vững chắc. Hoàng huynh đang bận rộn chính sự, lao tâm khổ tứ vì đất nước, nàng không giúp được gì thì ít nhất cũng đừng làm hoàng huynh phiền lòng vì mình. Ở mãi trong tẩm điện sinh buồn chán, nàng ra ngự hoa viên đi dạo, lại gặp người mặc trang phục miền núi hôm trước ở chỗ ao cá, liền ghé vào đình chơi rồi tiện hỏi chuyện vài câu. Nàng không được đi nhiều như Nhật Duật nên rất tò mò về vùng núi Tây Bắc hùng vĩ ấy, nên thỉnh thoảng vẫn hay đến đây để nghe Giác Sơn kể chuyện trên ấy.
Thấy An Tư ngồi xuống cạnh mình, Giác Sơn vội vàng đứng lên, không dám to gan ngồi cùng với công chúa. An Tư xoa xoa quả táo trong tay mình rồi đưa lên miệng cắn một phát, mắt lơ đãng nhìn những con cá vàng đang bơi lội có vẻ rất thảnh thơi kia, chán nản nói:
- Người Man từ lúc nào mà coi trọng lễ nghi đến vậy. Anh cứ ngồi xuống đi
Giác Sơn đành ngần ngừ ngồi xuống. Gần đây chàng nghe được những lời bàn tán không hay của bọn cung nữ nội thị. Họ cười nhạo sau lưng chàng là kẻ thô lỗ quê mùa, là giống người man di mọi rợ ăn bằng tay uống bằng mũi, rằng giữ chàng lại kinh thành chẳng qua chỉ là một con tin chính trị không hơn không kém, họ chê bai việc chàng vô cồng rồi nghề nên Thái thượng hoàng mới giao cho việc trông coi ao cá – công việc của bọn hoạn quan để gọi là có việc, rồi cái tước Thượng phẩm chỉ là hữu danh vô thực, họ còn nói chàng là đũa mốc mà chòi mâm son và cóc ghẻ mà đòi ăn thịt thiên nga, dám tiếp cận quyễn rũ công chúa cành vàng lá ngọc. Giác Sơn không tin những điều đấy, chàng tin vào sự coi trọng, tình nghĩa của Thái thượng hoàng và Chiêu Văn vương giành cho mình, thế nhưng thực sự ít nhiều vẫn bị dao động.
- Anh kể cho ta nghe tiếp chuyện phong tục trên ấy đi – An Tư vui vẻ đề nghị - Đúng rồi có lần ta nghe anh Chiêu Văn nói là Đà giang có tục cướp vợ rất thú vị đúng không?
- Vâng. Vào một đêm trăng thanh, chàng trai miền núi vác chiếc thang tựa cửa nhà người yêu, rồi thổi một điệu kèn môi t.ình tứ bằng chiếc lá. Âm điệu du dương khiến lòng cô gái thổn thức, xốn xang. Nàng bắt đầu hé cửa sổ thì chàng lập tức ghé thang lên, trèo vào và cõng nàng chạy vào rừng. Họ ở bên nhau 3 ngày, rồi trở về nhà bố mẹ vợ, xin phép cưới. – Giác Sơn chậm rãi kể, lòng nhớ về khung cảnh nơi quê nhà, có tiếng sao văng vẳng bốn phương, có suối chảy róc rách, có núi cao hùng vĩ.
- Vậy… - An Tư dùng ánh mắt tinh quái thấp thoáng những tia trêu chọc nhìn Giác Sơn – Anh đã có ý định cướp cô gái nào chưa.
- Dạ, thần chưa có ạ.
- Chúng ta là bạn. – An Tư vỗ vai Giác Sơn – Anh có ý với cô gái nào thì cứ kể với ta đi, không phải ngại đâu – Thấy Giác Sơn có vẻ lúng túng, nàng càng trêu chọc.
- Công chúa đừng trêu thần nữa ạ - Hai vành tai Giác Sơn dần dần đỏ lên.
- …
Đôi mắt An Tư thu hẹp lại sắc bén, nàng quay lại bụi cây sau lưng gần đấy, bắt gặp hai cung nữ bộ dáng lấm lét lén lút đang thì thầm to nhỏ. Giác Sơn phát hiện ra bọn họ trước An Tư vì chuyện này xảy ra thường xuyên rồi. Bắt gặp ánh nhìn lạnh lẽo của An Tư, hai cung nữ toan lẩn đi.
- Đứng lại – An Tư lên tiếng, ngữ điệu ôn hoà mà đanh thép – Hai ngươi lại đây cho ta.
Biết chạy cũng không thoát được, hoàng cung nơi này có chỗ nào là không phải của hoàng tộc, hai nàng cung nữ vội líu ríu đi đến trước mặt An Tư và nghiêng mình thi lễ. An Tư khẽ phất tay áo. Nàng tự mình rót trà, quý phái cầm chén trà lên tao nhã nhấp một ngụm. Ánh mắt lạnh lẽo ban nãy biến mất không một vết tích, An Tư mỉm cười thân thiện, nhẹ nhàng cất lời:
- Các ngươi vừa nói chuyện gì. Nói lại cho ta nghe được không? Ta sẽ ban thưởng.
Hai người cung nữ nghĩ công chúa sẽ giận dữ trách mắng họ vì tội nói xằng bậy về Trịnh Giác Sơn nhưng ai ngờ công chúa lại hỏi vậy với vẻ thích thú muốn nghe và đồng tình với chuyện họ nói. Họ nhắc lại những lời không hay về Trịnh Giác Sơn. Vừa nói vừa len lén nhìn Giác Sơn với vẻ khinh thường xen lẫn đắc thắng. Giác Sơn đứng bên cạnh, gương mặt từ từ đanh lại, bàn tay nắm chặt. Tiếp xúc với An Tư một thời gian, chàng rất quý vị công chúa này, nhưng không nghĩ nàng cũng giống như bọn họ. Bộ mặt của hoàng cung, của triều đình, chàng đã thấy rõ rồi.
- Còn gì nữa không? – An Tư nhẹ giọng hỏi khi hai nàng cung nữ kể xong.
- Dạ bẩm, hết rồi ạ.
“Rầm”
Giác Sơn đang định bỏ đi thì nghe tiếng đập tay xuống bàn cùng giọng quát đanh thép của An Tư:
- To gan. Các ngươi là cung nữ trong cung mà không biết an phận làm việc. Dám bàn tán chuyện của bề trên. Đừng tưởng ta không biết chuyện này diễn ra lâu rồi. Đã sống trên đất Việt thì đều là người Việt. Các phò mã triều Lý đều là người miền núi. Con trai tù trưởng Đà giang mang tước Thượng phẩm do đích thân Quan gia ban tặng. Các ngươi nói hữu danh vô thực, như vậy khác nào phỉ báng Quan gia. Việc Thái thượng hoàng để Thượng phẩm trông coi ao cá là để xem tài năng nảy nở về mặt nào và sẽ ứng cử vào một vị trí xứng đáng. Các ngươi chê cười việc Thượng phẩm làm có phải là muốn chê cười Quan gia không? Ao cá ngự là nơi Thái thượng hoàng, Quan gia, hoàng hậu và các vị vương gia hay lui tới, nếu như có thích khách ẩn nấp quanh đấy thì sao? Trông coi ao cá ngự mà là một việc vớ vẩn ư? Là các ngươi thấy Thượng phẩm tiếp cận ta hay là ta chủ động đến tìm Thượng phẩm?
- Công chúa tha tội. Chúng tỳ không dám – Hai nàng cung nữ mặt xám như chàm đổ, vội vã quỳ xuống, run như cầy sấy, dập đầu miệng lia lịa xin tha tội. Công chúa vừa lúc nãy hãn còn.., vậy mà giờ cả người toát ra âm khí lãnh lạnh lẽo, quyền uy lấn át người khác.
- Chính miệng các ngươi vừa nói ra mà còn dám chối. – An Tư nhạt giọng.
- Xin công chúa tha mạng, công chúa tha mạng.
- Người đâu, mang hai kẻ này đến cho tổng quản cung xử lý. Nói với tổng quản là cứ chiếu theo cung quy mà xử, không cần nhân từ – An Tư thờ ơ ra lệnh. – Còn nữa, ta còn nghe thấy kẻ nào trong cung dám xàm ngôn thì liền xử phạt gấp đôi, các ngươi có tấm gương trước mắt rồi đó.
Trong hoàng cung là nơi mà lời nói không có cánh vẫn có thể bay đến mọi ngóc ngách. Vì vậy mà lời nói của An Tư khiến nhiều kẻ chột dạ, cũng có kẻ yên tâm, cười thầm trong lòng. Hoàng cung xa hoa tráng lệ là thế, nhìn yên bình là thế nhưng có ai biết bên trong có bao nhiêu đợt sóng ngầm, bao nhiêu âm mưu chính trị, bao nhiêu thủ đoạn ngoại giao. Tất cả cỏ cây tấc đất trong hoàng cung này đều có máu tươi tưới lên cả. Những con cá kia, người đời nghĩ chúng thảnh thơi bơi lội nhưng họ có phải là cá đâu mà biết chúng thảnh thơi. Những có cá kia chỉ trông có vẻ thảnh thơi cho đến khi có mồi ăn…
- Giác Sơn – An Tư nhìn thẳng vào mắt Trịnh Giác Sơn và hỏi – Những lời điều tiếu như thế này anh có tin không?
- Thần không. – Trước ánh mắt mong chờ của An Tư, Giác Sơn đáp. Những nghi ngờ và lấn cấn trong lòng vẫn còn nhưng chính trị luôn tàn khốc, nên thực sự việc chàng ở lại kinh thành để làm một con tin chính trị của nhà Trần thì cũng không thể trách được. Hơn nữa người xin cha ở lại kinh thành để bái Chiêu Văn vương chính là chàng. Có thể trách ai?
….
Trên lầu cao hóng gió trong ngự hoa viên có 2 người đàn ông đang đứng theo dõi cảnh diễn ra tại ao cá từ lúc bắt đầu cho đến giờ một cách rõ mồn một. Việc bàn tàn về chuyện Trịnh Giác Sơn trông coi ao cá ngự nổi lên trong cung đã được một thời gian. Không tự dưng có ngọn lửa nào lại bùng lên, chắc chắn phải có kẻ đứng trong bóng tối dàn xếp. Chuyện này tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa triều đình và vùng Đà giang. Không thể không giải quyết.
- Hình như An Tư diễn hơi quá thì phải – Nhật Duật lên tiếng – Hai cung nữ kia mặt trắng bệch không còn chút huyết sắc rồi. Hoàng huynh, khả năng hai cung nữ này bị diệt khẩu có cao không?
- Nếu không có gì bất thường thì chúng sẽ không làm vậy mà để cho mọi chuyện yên ắng lắng xuống. Tự dưng giết người diệt khẩu như thế khác nào lạy ông tôi ở bụi này. – Trần Hoảng lắc đầu.
- Hoàng huynh, anh định để bọn mật thám của Nguyên triều trong cung bao lâu nữa. – Nhật Duật trầm ngâm rồi cất tiếng hỏi. – Chuyện lần này chắc chắn cũng do chúng gây ra.
- Chưa phải lúc hạ màn kịch. Bây giờ ta có tiêu diệt hết mật thám của Nguyên triều trong cung thì chúng lại đưa người mới vào. Chi bằng cứ để bọn cũ ở đấy, ta đã biết rõ chúng là những kẻ nào, cung cách hoạt động ra sao, đưa tin về nước như thế nào, lại có thể lợi dụng chúng để đưa những tin mình muốn về Nguyên triều – Trần Hoảng mỉm cười, đưa tay khẽ vuốt râu.
- Điều này em hiểu – Nhật Duật gật đầu – Khi chuyện này hoàn toàn lắng xuống, em nghĩ đến lúc nên để Trịnh Giác Sơn trở về Đà giang rồi.
- Phải. Nên vậy – Trần Hoảng tán đồng, đôi mắt đã nhuốm màu thời gian nhưng vẫn còn rất tinh anh sắc sảo chìm vào suy tư.
…
Thấy đoàn sứ giả Nguyên triều nghênh ngang hống hách sắp đi tới, người đi đường vội dạt sang hai bên để tránh đường, các hàng quán vội vã thu dọn. Chẳng ai muốn mắc cái tội bất kính với sứ giả ngoại quốc. Bọn lính dẹp đường gân cổ gào thét quát tháo, chúng còn quơ giáo loạn xạ rồi đạp đổ hàng quán hai bên đường. Sài Thung – Kẻ dẫn đầu đoàn sứ giả chễm chệ ngồi trên kiệu, đầu đội mũ bằng lông thú, vẻ mặt châng cháo không coi ai ra gì. Đôi mắt bé tí như đường chỉ, râu cá trê vểnh lên, cái bụng phệ làm thân hình hắn trông có vẻ nặng nề. Thực sự là Haibara nhìn cảnh đoàn sứ giả của Đại Nguyên nghênh ngang hống hách mà không vừa mắt chút nào. Thấy đoàn quân sắp đi đến chỗ mình, Haibara vội tránh đường nhưng do gấu váy dài quá nên luống cuống thế nào lại ngã làm đống giấy mới mua đựng trong túi vải đeo bên vai tung toé ra đường.
Bọn lính thấy vậy liền quát tháo ầm ĩ. Nàng định đứng dậy th.ì không từ dưới mắt cá chân truyền lên một cảm giác đau nhói, hình như nàng bị trặc chân rồi. Sài Thung nghe tiếng ồn ảo liền cất cái giọng ồm ồm hỏi:
- Kẻ nào dám chắn đường của sứ giả thiên triều vậy?
- Dạ bẩm đại nhân, là một con nhóc ạ - Tên lính bên kiệu xun xoe trả lời.
- Thật to gan. Giết nó đi – Sài Thung nhếch mép. Từ khi qua biên giới, đặt chân vào Đại Việt, hắn đã gặp không ít chuyện bực mình, thậm chí cả bẽ mặt. Bọn quan lại tiếp đón hắn ở biên giới lẫn địa phương kẻ nào kẻ nấy đều mồm miệng sắc sảo, khiến hắn vốn định bắt bẻ hạch sách chúng thì lại bị chúng nói lại đến mức chỉ còn biết nuốt hận vào trong. Bọn không biết trời cao đất dày là gì. Hắn không tin bọn quan ở triều đình cũng dám khinh xuất như vậy. Bực mình hơn là khi đi qua vùng núi giáp biên giới hắn đã cho tay chân đi dò la thăm lùng đường đi lối lại nhưng kết quả chẳng thu được gì. Bọn Đại Việt không biết làm cách nào khiến cho hắn cảm thấy như bị che tai che mắt, kết quả khi đi qua những vùng có địa thế quan trọng rồi vẫn chưa biết địa hình ở đó như thế nào.
Đã được lệnh của Lễ bộ thượng thư, một tên lính cầm giáo định đâm thẳng vào Haibara. Vốn đã nghĩ mình sẽ bỏ mạng oan uổng tại nơi này nhưng lúc mũi giáo nhọn hoắt kia sắp tàn nhẫn đâm xuyên qua người nàng thì có một thanh kiếm chặn lại.
- Đại nhân xin dừng tay – Người vừa ra tay nghĩa hiệp lên tiếng.
Haibara mở mắt nhìn. Người vừa cứu nàng là một chàng trai khoảng 20 tuổi. Dáng người cao lớn vạm vỡ, vai hùm lưng gấu. Nước da nâu bóng rám nắng khoẻ mạnh. Khuôn mặt khôi ngô tuấn tú mang theo nét rắn rỏi. Đôi lông mày đen rậm, ánh mắt toát lên sự cương nghị. Có vẻ là người có võ công cao cường.
- Ngươi là kẻ nào? Dám to gan chặn kiệu của Lễ bộ thượng thư thiên triều – Tên lính vừa định đâm Haibara hống hách quát lên. – Mau bắt hắn lại.
Kẻ đó vừa dứt lời, đám lính cầm giáo liền chĩa mũi nhọn vây xung quanh người thanh niên đó. Một người từ trong đám đông bên đường vội chạy ra bế lấy Haibara tránh gọn vào bên đường. Haibara nhận ra đó là Dương Đông.
- Em có sao không? – Dương Đông thì thầm hỏi. Lúc nãy khi nhìn thấy Haibara bị đâm, Dương Đông thót tim, nàng rất muốn chạy ra cứu nhưng nước xa không cứu được lửa gần, bị kẹt giữa đám đông khiến nàng không nhúc nhích được. Cũng may đã có vị anh hùng kia ra tay cứu giúp kịp thời nếu không giờ có lẽ cô bé nàng bế trong tay đã thành một cái xác không hồn. Không biết là lý do gì và tại sao, nhưng với sự nhạy cảm của mình Dương Đông biết Chiêu Văn vương rất coi trọng cô bé này. Vừa nghĩ đến ánh mắt lạnh băng của vương gia nếu nghe tin quân Thát ngang ngược giết chết cô bé, Dương Đông đã thấy rùng hết cả mình. Chủ nhân của nàng là người mừng giận không lộ ra mặt, không bao giờ đập bàn thậm chí là to tiếng quát tháo, mà khi đó người thường ngồi trầm mặc một mình, dù tức giận đến mấy cũng chỉ là nét mặt mới đanh lại và ánh mắt hết sức lạnh lẽo không có lấy một tia ấm áp. Chỉ vậy thôi nhưng nàng lại thấy đáng sợ hơn cả việc người cứ to tiếng quát tháo, hoặc thể hiện sự giận dữ ra mặt.
- Em không – Haibara lắc đầu – Nhưng anh ấy… - Nàng lo lắng nhìn về phía ngươi vừa cứu mình đang bị bủa vây kia.
- Người đó sẽ không sao đâu – Dương Đông nói.
- Có lẽ chị nói đúng – Haibara cẩn thận quan sát người thanh niên nọ - Ánh mắt anh ta rất bình tĩnh, không có lấy một tia xao động. Có lẽ tình huống này sẽ xảy ra đã được anh ta lường trước rồi và sẽ có cách giải quyết.
- Em yên tâm. Nếu anh ta không tự giải quyết được thì chị sẽ ra mặt. Người của Chiêu Văn vương dù ít dù nhiều chúng cũng phải nể mặt. – Dương Đông lên tiếng trấn an.
Trong khi đó chàng trai kia bị bao vây như vậy liền vứt kiếm xuống dưới đất, chắp hai tay ra vẻ cung kính nói to và rõ ràng để người trong kiệu chắc chắn nghe rõ:
- Bẩm Lễ bộ thượng thư, thảo dân nào dám to gan chặn kiệu làm trễ nải việc đại sự của đại nhân. Cô bé kia chắc chắn cũng vậy. Có lẽ là do cảm thấy áp lực trước sự oai nghiêm uy phong của ngài nên mới không kịp tránh đường. Nghe danh đại nhân là người phóng khoáng, độ lượng, nổi danh bốn bề. Thảo dân trộm nghĩ một người như thế chắc chắn sẽ không thèm chấp một đứa trẻ vì vô ý mà ngã trước kiệu của mình. Nên thấy người lính này tự ý định giết cô bé, thảo dân mới mạo muội chặn giáo của anh ta lại, quyết không để thanh danh của ngài bị nhiễm bẩn bởi tuy rằng anh ta tự ý hành động, nhưng nhiều người sẽ nghĩ do ngài hạ lệnh. Quân lính của Đại Nguyên nổi tiếng tứ phương là tinh nhuệ thiện chiến, anh dũng, quả cảm, có lý nào lại đối phó với một cô bé yếu ớt.
Người dân xung quanh nghe vậy liền xôn xao tán đồng rồi đồng thanh hô:
- Xin lễ bộ thượng thư khoan dung tha tội cho cô bé và chàng trai này.
Sài Thung ngồi trong kiệu nghe những lời nói của người thanh niên trước mặt mà chau mày lại. Hừ, kẻ này không phải là một tên tầm thường. Đối diện với hiểm nguy tính mạng mà không sợ hãi. Nói năng lưu loát. Khen hắn là người độ lượng, không chấp trẻ con, nếu hắn vẫn cố giết đứa bé kia thì quá như tự nhận mình là người hẹp hòi, nhỏ mọn, rôi chuyện quân hộ tống sứ giả thiên triều giết một đứa bé sẽ trở thành nhiều chuyện khiến nhiều người chê cười. Kẻ đó lại còn khôn ngoan nói rằng tên lính dưới trướng tự ý lộng hành, không phải theo lệnh của hắn. Dân chúng xung quanh vẫn đồng loạt lặp lại câu hô ban nãy. Sài Thung nhếch mép, vân vê cái râu của mình rồi cất lời:
- Bổn quan tha tội cho các ngươi. – Hắn dứt lời, bọn lính liền hạ giáo xuống.
- Đa tạ đại nhân – Người thanh niên thưa
- Ngươi nên quỳ xuống tạ ơn ta mới đúng – Sài Thung đáp.
Nghe Sài Thung ngang ngược nói như vậy, ban tay chàng trai nắm chặt lại. Quỳ là một sự sỉ nhục.Đối với một dân thường phải quỳ trước kẻ ngoại bang ngang nhiên hống hách trên đất nước mình, bắt nạt dân mình là một sự nhục nhã thì đối với một võ quan của triều đình như chàng càng là sự sỉ nhục. Không thể quỳ.
Chàng đặt tay phải lên ngực trái cúi đầu:
- Đa tạ đại nhân. Để bày tỏ sự tạ ơn của thảo dân có lẽ quỳ cũng không thể thể hiện hết, chi bằng hành lễ theo phong tục của quý quốc.
- Hừ, đi – Sài Thung ra lệnh cho đoàn quân tiếp tục đi. Vốn định hạ nhục kẻ kia nhưng tên đó lại lôi cách hành lễ của thiên triều vào để tạ ơn khiến Sài Thung không thể bắt bẻ, nếu hắn cứ tiếp tục ép tên kia phải quỳ khác nào hạ thấp lễ nghi của Nguyên triều. Đặt chân đến cái xứ này, đi đâu mà gặp chuyện với bọn dân Nam cũng toàn chuốc lấy bực mình vào người. Đủ mềm dẻo, đủ cứng rắn, đủ nhún nhường, đủ hiên ngang, như tre uốn mình trước gió nhưng không bị quật ngã và vẫn đứng thẳng.
Đoàn sứ giả đi qua, đường phố lại trở về nhịp sống bình thường, có điều bộ mặt tức tối của tên sứ giả lúc rời đi khiến dân chúng hả hê. Người thanh niên gan dạ kia cũng đã hoà vào dòng người trên đường.
Người đó là tướng quân Nguyễn Khoái.
…
Đám đông đã giải tán, không còn gì để xem nên người đàn ông trẻ ăn mặc sang trọng ngồi cạnh cửa sổ của lầu trên một quán quay sang nhìn người đối diện, cây quạt trong tay gập lại:
- Tên Sài Thung này thật hống hách. Cha nghĩ sao nếu để Nguyễn Khoái nắm trọng trách chỉ huy đội quân Thánh Dực. – Trần Khâm lên tiếng.
- Hắn sang lần này mục đích là gây hấn để kiếm cớ cho Đại Nguyên khởi binh nên không hống hách thì cũng phải cố phải tỏ ra ngang ngược để chúng ta không kiềm chế được mà phản kháng lại, chỉ cần như vậy là đã có cái cớ chống lại thiên triều rồi. Có điều tên Sài Thung này không phải loại thùng rỗng kêu to, cũng lè kẻ học rộng biết nhiều. Về chuyện của Nguyễn Khoái thì cần một thời gian nữa – Trần Hoảng chậm rãi ngụm trà rồi đáp – Người mà Nguyễn Khoái vừa cứu, con có biết là ai không?
- Là một cô bé ạ - Trần Khâm đáp, không hiểu tại sao phụ hoàng mình lại hỏi câu như vậy, không quen không biết thì làm sao chàng biết đấy là ai được. – Cha hỏi vậy là biết cô bé đấy sao?
- Ừ - Trần Hoảng gật đầu – Là thư đồng của Chiêu Văn.
- Đấy không phải là đứa trẻ tầm thường đâu – Trần Khâm mỉm cười – Trước tình huống như vừa rồi mà không rối loạn, không khóc lóc, không run rẩy. Chú Chiêu Văn quả biết cách chọn người.
- Nhưng có điều ta không biết Chiêu Văn có bỏ đói con bé không mà thấy so với hồi gặp nó lần đầu gần 1 năm trước đây, nhìn chẳng lớn lên tí nào trong khi trẻ con thay đổi từng ngày – Trần Hoảng nói bâng qươ.
- Vậy thì cha phải hỏi chú ấy rồi – Trần Khâm lắc đầu.
…
- Chân em bị thương rồi, để chị đưa em đến thầy lang – Mọi chuyện đã yên ổn, Dương Đông xem xét vết thương của Haibara rồi nói.
- Em chưa kịp cảm ơn người thanh niên đó đã biến mất rồi. Tên sứ giả đó thật hống hách – Haibara chau mày, tuy nàng không phải người Việt nhưng nhìn dáng vẻ, cách hành xử của Sài Thung cũng thấy rất nóng mắt.
- Nếu có duyên thì sẽ gặp lại, lúc đó em cảm ơn cũng được – Dương Đông mỉm cười.
- Vâng – Haibara đáp rồi trầm ngâm. Đại Nguyên lớn mạnh như thế nào mới có thể khiến sứ giả của mình sang nước khác mà hống hách, ngang ngược đến mức tuỳ tiện giết người nước đó như vậy. Về sức mạnh có lẽ Đại Việt quá yếu so với Đại Nguyên rồi. Thế này thì khi chiến tranh xảy ra, Đại Việt còn hay mất? Đến Đại Tống rộng lớn như vậy còn bị thôn tính hoàn toàn, nói gì đất nước nhỏ bé này. Hai chục năm trước, Đại Việt đã thắng quân Mông Cổ nhưng khi đó khác bây giờ, khi quân Mông chưa thống nhất được Trung Nguyên, nhưng nay đã khác. Một cuộc chiến không cân sức, quá chênh lệch như thế này thì kẻ yếu hơn sao có thể thắng. Cũng giống như nàng không thể làm gì tổ chức áo đen dù rằng rất muốn trả thù cho cha mẹ và chị gái.
- Dạo này sao em không thấy đức ông hả chị? – Haibara ngần ngừ rồi lên tiếng. Từ sau hôm nàng cứu người chết đuối bằng hô hấp nhân tạo, rất ít gặp Nhật Duật, thời gian gần đây thì phải nói là không gặp.
- Đức ông phụ trách tổ chức ca múa trong tiệc tiếp sứ nên gần đây người phải vào cung để chỉ dạy các vũ nữ tập múa và độ nhã nhạc luyện tập. – Dương Đông đáp.
Đúng rồi, nàng từng nghe An Tư nói là Nhật Duật là người sáng tác các điệu nhạc điệu múa bài hát cho các phường hát phục vụ triều đình mà. Nhật Duật nghĩ ra điệu múa là một chuyện, nhưng làm thế nào để truyền tải chúng cho các nàng vũ nữ nhỉ, chỉ bằng lời nói thì không thể diễn tả hết được, không lẽ múa mẫu cho các cô gái coi. Nghĩ đến cảnh Nhật Duật uyển chuyển yểu điệu giơ tay nhấc chân, mềm mại xoay người, miệng cười duyên dáng làm mẫu cho các cô vũ nữ mà Haibara muốn phì cười. Lần trước có sứ của Sách Ma Tích sang, người tiếp sứ là Nhật Duật. Còn bây giờ sứ giả Nguyên triều ngạo mạn, hống hách, ngang tàng như vậy, không biết người tiếp sứ là ai.
- Vậy đức ông cũng đảm nhiệm luôn việc tiếp sứ hả chị?
- Không. Người tiếp sứ lần này Chiêu Minh Đại vương Tướng quốc Thái uý đương triều. – Dương Đông đáp.
Haibara quay lại nhìn lên tầng 2 của một ngôi lầu gần đấy nhưng không thấy gì. Đôi mắt nàng nheo lại làm đuôi mắt trở nên rất sắc, rõ ràng nàng cảm giác được có người từ nãy đến giờ rất chăm chú theo dõi mình từng cử chỉ một bắt đầu từ lúc tên lính Nguyên quát nàng lúc nàng ngã ở giữa đường. Khẽ đảo mắt một vòng, thấy không có gì bất thường, có lẽ nàng cảm giác của nàng sai rồi.
- Sao vậy em – Thấy thái độ của Haibara có vẻ lạ, Dương Đông hỏi.
- Không ạ - Haibara lắc đầu.
Bắt gặp cái nhìn sắc bén chứa vài phần lạnh lẽo của Haibara, trên bờ môi của người đàn ông trẻ đang ngồi bên cửa sổ của ngôi lầu nọ - tức Trần Khâm khẽ nhếch lên thành nụ cười nửa miệng: ”Thú vị thật”.
...
Một đốm lửa dù nhỏ, thậm chí le lói sắp tắt nhưng có thể bùng lên cháy thành đám lửa lớn rồi lan rộng không có điểm dừng và mang sức huỷ diệt khủng khiếp vào bất cứ lúc nào, nhất là khi có một cơn gió thồi qua, kể cả đốm lửa ấy có nằm trong đống tro tàn.
Chú thích:
[1] Quân Thánh Dực: là đạo quân chủ lực của triều đình nhà Trần, có nhiệm vụ bảo vệ hoàng tộc và tuân theo mệnh lệnh của vua khi có nhiệm vụ, đây là đội quân có vai trò rất quan trọng trong quan đội nhà Trần.