Hoàn Mê hiệp ký – Thi Định Nhu

“Phùng đại phu giờ đang ở đâu?” chàng hỏi.



“Tại phòng mạch của Trần đại phu.”



“Giờ ta sẽ đến đó. Ông chuyển mấy bệnh nhân của ta cho Ngô đại phu. Y hội buổi chiều có thể ta không đi nữa. Còn nữa, chuyển lời của ta tới Tạ tổng quản, ta muốn cái đầu trên cổ của Quách Đông Báo. Ta hi vọng ông ấy có thể làm cho tốt việc này để làm gương cho kẻ khác”.



“Vâng. Chỉ cần cốc chủ sai bảo chúng thuộc hạ sẽ lo liệu cho ổn thỏa”.



Mộ Dung Vô Phong xoay bánh xe, đi ra ngoài cửa, Triệu Khiêm Hòa vội vàng nói: “Cốc chủ, xin để thuộc hạ đưa ngài đi, đợi khi đến chỗ Trần đại phu chỉ sợ lại phải vất vả cả ngày, giờ vãn nên tiết kiệm chút sức lực thì hơn”.



Chàng thoáng do dự, cuối cùng cũng lỏng tay ra.



Trần đại phu, tên là Sách, tự là Tiệm Huy, ngoài hiệu là “Trần Bất Cấp[2]”, bởi vì ông ta có một thói quen, chính là rất thích nói với bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân “không vội”.



[2] “Bất cấp” nghĩa là không vội.
 
“Không vội, không phải vội, vội ắt sẽ rối tung, bệnh này sẽ sớm trị khỏi thôi”, đây chính là câu cửa miệng của ông ta.



Hiện ông ta đang đi tới đi lui ở gian phòng sau phòng mạch của mình.



Gian nhà sau thường là nơi đại phu nghỉ ngơi, thương thảo bệnh án. Ngồi đối diện là cộng sự Trần đại phu ưa thích nhất – Sái đại phu, ngoại hiệu là “Quý Chỉ[3] Sái”. Trong số các đệ tử của Mộ Dung Vô Phong anh ta là người trẻ nhất, nhưng cũng hơn Mộ Dung Vô Phong ba tuổi.



[3] Ngón tay linh diệu khéo léo như quỷ.



Sái Tuyên vốn sinh ra trong danh y thế gia, từng có mấy vị tổ tiên là người đứng đầu Thái y viện. Nghe nói Sái Tuyên cũng thành danh từ rất sớm, không những tinh thông y thuật mà đối với thư họa cũng rất xuất sắc, cho nên tính cách không tránh khỏi có phần kiêu ngạo phóng khoáng, chỉ có ở trước mặt ở Mộ Dung Vô Phong mới nói năng khách khí mà thôi.



“Lão huynh đã đi đi lại lại ở đấy hơn một nửa canh giờ rồi. Theo đệ thấy hay là dùng cách của đệ đi. Bất kể thế nào cứ nối lại xương rồi tính tiếp”. Sái Tuyên nhấp một ngụm trà nói.
 
“Việc này…Hiện giờ hắn hôn mê không mở được mắt, đờm tắc trong mũi, lâu không tỉnh lại, tỉnh lại thì thần trí hỗn loạn, đấy là hiện tượng máu ứ bên trong không lưu thông được, mạo hiểm trị liệu chỉ sợ khó mà sống”.



“Sáu mạch đều là mạch huyền[4], huống hồ xương bên trong đã đâm vào phổi, trong sách y nói làm sao? Tuy không chết ngay cũng không qua nổi mười bốn ngày, đây chính là một trong mười triệu chứng không chữa nổi nữa, không mạo hiểm thì phải làm sao?”.



[4] Mạch tượng giống như sợi dây đàn, ấn vào thấy căng nhưng lúc có lúc không.



“Nếu như tiên sinh ở đây thì tốt rồi”, Trần Sách than một tiếng.



“Vẫn là báo cho tiên sinh thì hơn. Huynh còn không biết tính tiên sinh là ghét nhất thấy đại phu trong cốc bị kẻ khác bắt nạt. Nếu thấy đệ tử của mình bị đánh đến mức nông nỗi này, tiên sinh không tức đến nỗi bệnh tim tái phát mới lạ”.



“Vạn nhất thực sự không chữa nổi thì chẳng phải càng khó ăn nói hay sao?”.



“Tóm lại thế nào cũng chết, chẳng bằng…”, lời chưa dứt ngoài cửa đã truyền tới tiếng bánh xe lăn.



Trần Sách cả mừng nói: “Tiên sinh đến rồi”.



Quả nhiên là Mộ Dung Vô Phong. Sái Tuyên lập tức đứng dậy hành lễ.



“Tình hình thế nào?”, Mộ Dung Vô Phong vừa rửa tay vừa hỏi.



“Nguy kịch lắm rồi. Xương cốt tứ chi đều đã nối xong, chỉ có một rẻ xương sườn đâm vào phổi, nếu là người bình thường đã không sống nổi hai ngày, may mà hắn tuổi trẻ, khí huyết đầy đủ mới sống được tới hôm nay, chỉ có điều bây giờ máu ứ không thông, hô hấp khó khăn, vẫn rất nguy kịch”.
 
“Dùng thuốc gì rồi?”.



“Nhân sâm tử kim đơn, Vạn Linh cao…đều không được, có mỗi canh sâm thôi”.



“Ý Sái đại phu thế nào?”



“Học trò cho rằng những chỗ bị thương, đều ảnh hưởng tới tính mạng, như thất khiếu gần với não, ngực lại gần tim, tứ chi bị thương cơn đau cũng thấu tim, nhưng người này nguyên khí đầy đủ, nếu nhanh chóng nối xương, khiến cho máu huyết không chảy đi mất thì còn có cơ hội”.



“Mặt của anh ta cũng bị đánh”.



“Vâng. Tiên sinh, uống ngụm nước trà trước đã”, Sái Tuyên vừa nhìn thấy mặt của Mộ Dung Vô Phong đã tức giận tới tái đi, vội bưng chén trà xanh đưa tới.



Mộ Dung Vô Phong phẩy tay rồi tiến vào phòng, bắt mạch cho người bệnh.



“Rẻ xương sườn đã đâm vào phổi này, bất luận thế nào cũng phải lấy ra trước, nếu không máu tụ sẽ càng lúc càng nhiều”, chàng nói “Nối xương thì phải làm rồi, nhưng thủ pháp phải rất cẩn trọng, khí huyết của anh ta vốn đầy đủ nhưng bệnh nặng mấy ngày, sớm đã cạn kiệt, nếu lại bị thương sẽ càng khó chữa trị. Huống chi máu huyết tắc nghẽn không thông, đến gan cũng gặp hỏa, trước nên dùng Tử Hồ, Hoàng Liên, Sơn Chi. Không được nhầm thành triệu chứng nhiễm lạnh mà cho dùng thuốc có vị nóng”.



“Vâng, bọn học trò thấy xương ngực của hắn xẹp xuống, lại bởi quá gần tim, rất nguy hiểm, cảm thấy khó thao tác”.



Mộ Dung Vô Phong nói: “Đã đến mức này cũng chỉ có thể miễn cưỡng làm mà thôi, để ta làm”.



Bàn tay trắng tái nhẹ nhàng đưa đến ngực bệnh nhân, cách một lớp da, vừa cẩn thận lại vừa quyết đoán nắn một lúc rồi rút xương gãy ra, thuận kinh mạch “cách” một tiếng đẩy về vị trí cũ. Tiếp sau, tay của chàng chuyển động rất nhanh “cách, cách, cách” mấy tiếng trong chớp mắt đã đem những đoạn xương gãy khác về vị trí cũ.



Sau đó cất tiếng: “Cẩn thận, anh ta có thể bị thổ huyết”, nói xong, như đã lường trước tình hình, chàng lấy một đoạn băng gạc, bệnh nhân nghiêng đầu “ộc” một tiếng, một ngụm máu lớn phun đúng vào đoạn băng gạc đó.
 
Trần Sách và Sái Tuyên đứng bên cạnh đều hiểu rõ, tuy chỉ có mấy động tác ấy nhưng muốn làm nhanh, chuẩn lại nhẹ nhàng đến thế trong thiên hạ sợ chỉ có một mình Mộ Dung Vô Phong làm được.



Sái Tuyên không nhịn được nói: “Tiên sinh”.



Mộ Dung Vô Phong ngẩng đầu lên.



“Học trò muốn đổi nghề. Hồi còn nhỏ phụ thân học trò từng nói với học trò rằng, nếu việc học trò chọn mà không đứng đầu được thiên hạ, vậy thì chẳng bằng chẳng làm làm gì”.



“Vậy ngươi muốn làm cái gì?”, Mộ Dung Vô Phong hỏi.



“Đồ tể, tiên sinh cảm thấy nghề này có được không? Chỉ cần dùng dao cắt chém, không cần phải nhìn kĩ…” lời chưa nói xong, Trần Sách đã cười gập cả bụng, đến Mộ Dung Vô Phong cũng không nhịn được mỉm cười.



“Đây không phải cái gì quá khó học, từ từ học, sớm muộn cũng có ngày các ngươi làm nhanh, chuẩn xác hơn ta”, chàng từ tốn nói. Bởi lúc cười đã phạm đến cơn suyễn đêm qua, bây giờ không nén lại được lại bật ho.



“Xem ngươi kìa, bày trò cười làm bệnh của tiên sinh tái phát rồi”, Trần Sách ở một bên trách, “Tiên sinh, chúng ta vào phòng sau nghỉ ngơi chút đã”.
 
Hai người tự động đẩy xe giúp chàng ra gian ngoài, bưng đến cho chàng một chén trà xanh mới châm.



“Bệnh nhân này là học trò của ngươi?”, Mộ Dung Vô Phong nhấp ngụm trà hỏi.



“Họ Phùng. Có lẽ tiên sinh không nhớ, mấy năm trước hắn cũng từng được nghe tiên sinh giảng vài lần rồi”.



“Ta nhớ. Tên anh ta là Phùng Sướng, tự Phụng Tiên, sinh năm Canh Ngọ, người phủ Tùng Giang”, chàng điềm nhiên nói.



Trần Sách thầm nhủ: Đáng thẹn, là học trò của mình mà bản thân mình không biết hắn sinh năm Canh Ngọ.



“Tiên sinh nhớ không sai chút nào”.



“Sao lại đến Thái Hành, Thái Hành không phải là quê nhà anh ta”.



“Tuy không phải quê nhà hắn nhưng so với quê nhà hắn còn thân thiết hơn”, lần này đến lượt Trần Sách cười rồi.
 
“Hả”.



“Đây là…quê vợ hắn”.



“Hiểu rồi”, Mộ Dung Vô Phong khẽ cười. Mấy vị đại phu thủ hạ, trừ Ngô đại phu ra đều rất hài hước, trước giờ chàng cũng không cấm. Khi trị bệnh, tinh thần mọi người phải chịu căng thẳng, đùa vui, gây cười ngược lại có thể giải tỏa đi một chút.



“Nếu như anh ta mệnh lớn, có thể sống qua phen này, ngươi an bài một chút, để cả nhà anh ta chuyển về cốc. Một là anh ta bệnh nặng không chết, nhưng mấy năm tới chỉ sợ cũng không thể dậy khỏi gi.ường, trong cốc thuốc thang thuận tiện, đại phu cũng nhiều, điều trị dễ dàng hơn. Hai là, lần này điều trị, để khỏi hẳn cực khó, anh ta lại là chủ gia đình, đối với việc sinh nhai e rằng khó khăn. Về cốc rồi, nhiều khoản chi phí có thể miễn được. Phía Thái Hành ấy ta sẽ đổi người khác”.



Trần Sách cúi đầu thưa: “Vâng, vẫn là tiên sinh suy nghĩ chu đáo”.



Sái Tuyên nói: “Vẫn phái người đi sao? Lại bị người ta đánh thì làm thế nào?”.



Mộ Dung Vô Phong lãnh đạm nói: “Việc này ta đã cho người đi giải quyết rồi, sẽ không thể phát sinh nữa”.



Chàng nói ra tuy nhẹ nhàng, nhưng Trần Sách và Sái Tuyên đều hiểu rõ sức mạnh của lời nói đó.
 
“Tình hình vết thương của anh ta vẫn rất nguy hiểm, có điều trong mấy canh giờ tới không thể có gì đáng ngại. Các ngươi cẩn thận chăm sóc cho anh ta. Ta qua chỗ Ngô đại phu, có chuyện gì thì đến Dật Tiên tìm ta”, chàng dặn dò.



“Học trò đưa tiên sinh đi”, Sái Tuyên nói.



Chàng phẩy tay, quay xe lăn, nói: “Ta tự đi được”.



Ra khỏi cửa, rẽ sang phải, men theo hành lang cong cong uốn khúc khoảng một nén hương, xa xa có thể nhìn thấy Nguyệt môn của Dật Tiên lâu.



Đây vốn là một gò đất, ngày thường lúc tinh thần tốt, cứ dùng lực mà đi, khoảng một tuần trà thì tới. Hôm nay không rõ vì sao, bánh xe lại trở nên rất nặng nề, mỗi lần tiến về phía trước đều khiến chàng thở dốc không thôi, mồ hôi ướt đẫm áo. Đã hơn một tuần trà rồi, nửa đường vẫn chưa hết. Tay lại không thể nới lỏng, nếu không bánh xe sẽ trượt ngược về chỗ cũ.



Tựa vào lan can hành lang, chàng rút khăn tay quệt mồ hôi trên trán. Cơn suyễn lại ập đến như ma quỷ. Chàng biết bất luận thế nào cũng không được cố gắng dùng sức, nếu không cơn đau tim nhất định sẽ tái phát.



Chàng cười khổ, đành tựa vào lan can nghỉ ngơi chốc lát.



“Cốc chủ, sao hôm nay lại có thời gian tới chỗ này?”, một bóng người mặc chiếc áo vàng nhác đến trước mặt chàng, thì ra là một cô bé nhỏ nhắn, trên tay còn cầm bình sứ.



Chàng nhớ mang máng đây là tiểu nha hoàn trong viện của Ngô đại phu, tên gọi là “Nguyệt Nhi”.
 
“Ta có bệnh nhân ở đây, thuận tiện đến xem xem”.



“Cốc chủ, ngài mệt rồi phải không, nô tì…” cô bé đặt chiếc bình sứ xuống.



“Không cần”, chàng dứt khoát ngắt lời cô bé.



“Vậy…nô tì có thể đi trước không?”



“Ừ”.



Nguyệt Nhi nhấc chiếc bình lên, chạy như bay về phía Dật Tiên viện. Vừa khép cửa đã chạy ngay tới cửa phòng khám của Ngô Du, nói: “Tiểu thư, ngài ấy…ngài ấy tới rồi đấy”.



Ngô Du đang cho bệnh nhân trên gi.ường dùng thuốc, tay run một cái, suýt nữa đổ cả bát thuốc vào mặt bệnh nhân, không nhịn được nghiêm mặt lại, nói: “Rốt cuộc là ai tới? Sao đến việc nói năng cũng lắp ba lắp bắp thế, làm ta giật thót tim.”
 
“Là…là cốc chủ”.



“Sao em không nói sớm”, Ngô Du đứng vụt dậy, đặt bát thuốc xuống, tay chân lại luống cuống rồi.



“Tiểu thư định làm gì vậy?”.



Nàng kéo Nguyệt Nhi chạy ra khỏi phòng khám, hỏi: “Em nhìn ta xem, đầu tóc có rối lắm không?”.



“Không rối”.



“Quần áo thế nào?”.



“Đều ổn cả. Trông rất đẹp”.



“Những chỗ khác thì sao?”, nàng lại hỏi.



“Còn chỗ nào khác nữa. Phụ nữ chẳng qua cũng chỉ có quần áo và đầu tóc thôi”.



“Sao tiên sinh vẫn chưa tới”.



“À”, Nguyệt Nhi thở dài nói: “Tiểu thư cứ thong thả mà đợi, ít nhất cũng phải qua một nén hương nữa cơ. Có vẻ như cốc chủ đang bận, sức lực còn yếu, được nửa đường thì không đi nổi nữa, một mình tựa lan can thở dốc, em đi phía sau ngài ấy rất lâu, cũng không dám vượt lên trước, vừa rồi em nói muốn đưa ngài ấy đi, còn chưa nói xong đã bị ngài ấy nói lại rồi”.



“Nha đầu này, em còn không biết tính khí tiên sinh sao? Kể cả có mệt chết, tiên sinh cũng không chịu để người khác hỏi tới…”, nàng nóng ruột hỏi: “Chúng ta nên làm gì?”.
 
“Cái gì mà nên làm gì? Cứ đợi ngài ấy đi. Sớm muộn gì cốc chủ cũng tới”.



“Ta lo bệnh của tiên sinh, vừa rồi mệt nhọc liệu có phải bệnh lại tái phát rồi không?”.



“Tiểu thư dám tới giúp cốc chủ không?”.



“Kh…không dám”.



“Vậy đành để bệnh của cốc chủ phát tác thôi. Hoặc là cốc chủ nghỉ ngơi một lát là ổn”.



Còn đang nói, cửa đã bật mở ra.



Cửa mở ra, trông thấy chàng, lòng Ngô Du không khỏi đau nhói. Mồ hôi trên trán chàng đã được lau đi nhưng bộ quần áo trắng trên người dường như đã bị mồ hôi thấm ướt đẫm, dưới lớp áo rộng lộ ra thân hình gầy yếu.



Trong lòng nàng thầm than, nhưng không dám thể hiện ra mặt, chỉ khẽ thi lễ, cung kính nói: “Tiên sinh đến, Ngô Du không đón từ xa, xin thứ lỗi”.



Chàng khẽ cười: “Tối qua Ngô đại phu phải kinh sợ rồi, hắn không làm cô bị thương chứ?”.



“May mà có tiên sinh kịp thời cứu giúp, Ngô Du khắc ghi trong lòng”, nàng lại thi lễ.



“Cô không phải người trong giang hồ, sau này ra ngoài phải cẩn thận một chút. Đừng quên nói với Tạ tổng quản một tiếng, nhờ ông ấy phái người hộ tống”.
 
“Vâng, Ngô Du nhớ rồi”.



“Sao thế, sao lại chặn ta ngoài cửa, không muốn để ta vào?”, chàng hỏi đùa.



“Đâu có, đâu có”, Ngô Du thoắt một cái đã đứng sang một bên, nhường đường cho chàng tiến vào.



Vào tới phòng bệnh, chàng tới thăm bệnh nhân, rồi lại tới gian sau, nói: “Bệnh nhân ở chỗ cô, ta rất yên tâm. Đơn thuốc ta đã xem qua rồi, không có vấn đề gì. Chuẩn bị bao giờ phẫu thuật?”.



“Bẩm tiên sinh, định để ngày mốt, bệnh tình của anh ta quá nặng, học trò cho rằng vẫn nên đợi thêm hai ngày, khi nguyên khí khôi phục lại rồi sẽ tiến hành chữa trị”.



“Đợi một ngày là được rồi, cần làm nhanh chóng. Cô có cần giúp không?”.



“Nếu như tiên sinh có thể đứng bên cạnh xem xét, tâm lí học trò cũng được vững hơn”.



“Vậy được, mai ta sẽ tới. Có điều không thể dựa dẫm vào ta, loại phẫu thuật này, khi ta không có mặt, cô cũng phải thực hiện được”.
 
“Vâng, học trò chỉ muốn nhờ tiên sinh tiếp thêm can đảm”.



“Cứ thế đi. Giờ Thìn ba khắc ngày mai ta sẽ tới”.



Nói rồi, chàng chuyển mình: “Ta vẫn còn một bệnh nhân, xin cáo từ trước”.



Chàng vẫn luôn thế, đến Dật Tiên lâu tuyệt đối không được ở lại quá một khắc.



“Tiên sinh, ngài vừa mới tới, nghỉ ngơi một chút rồi hãy đi. Xin uống chén trà đã…”, không nhiều lời, nàng đem chến trà đặt vào tay chàng. Chàng không thể không nhấp một ngụm. Vị trà đắng đến bất ngờ, thiếu chút nữa chàng đã sặc ra.



“Trà này…”



“Đây là Hồng trà tiểu thư pha chế riêng cho cốc chủ, bên trong có ba mươi sáu vị thuốc, tiểu thư nói nếu cốc chủ thường xuyên dùng trà này, sức khỏe có thể mau chóng hồi phục”, Nguyệt Nhi đứng một bên nói.



“Ừ, mùi vị không tệ”, chàng nói chiếu lệ.



Vì loại trà ấy, chàng đành lưu lại Dật Tiên thêm một khắc rồi tự mình về Trúc Ngô viện.
 
Vừa về đến nơi chàng lại tất bật phê duyệt bệnh án, rồi lại thăm khám hai bệnh nhân của mình. Chiếu theo kế hoạch mà trị liệu, còn nửa giờ nữa là tới y hội. Y hội lần này do Sái đại phu chủ trì, nhưng đặc biệt nghe nói có mấy vị đại phu ở Nam Kinh tìm tới, bản thân không đi không ổn. Đây chỉ là một ngày bình thường mà bận rộn cứ như đi đánh trận vậy.







Sau buổi y hội quay lại xem thương thế của Phùng Sướng, lúc trở về Trúc Ngô viện, dọc hành lang đã thắp đèn lồng.



Gió đêm man mác, tiếng trúc lao xao, hoa cỏ trong vườn về thu vẫn chưa tàn úa, trên mặt hồ mưa lắc rắc khắp trời, mấy mẫu sen tàn dưới án trăng khe khẽ lay động.



Vô thức, ánh mắt lại dõi về Thính Đào Thủy Tạ ở xa xa. Đó là một gian nhà dựng cạnh hồ, vốn là nơi dễ chịu mát mẻ nhất vào ngày hè.



Không có ánh đèn. Hiển nhiên nàng ấy vẫn chưa quay lại.



Không kìm được lại nhớ về việc tối hôm qua. Nhớ tới lần đầu tiên hai người gặp mặt.



Nói chính xác hơn, chàng nhớ tới sắc thái bình thản trên khuôn mặt nàng,



Sắc thái đặc biệt từ trước tới nay chàng chưa từng thấy ở cô nương nào khác.



Dáng vẻ nàng khi cười cũng rất đặc biệt, dường như rất thoải mái, rất vui vẻ, dường như từ trước đến nay nàng luôn sống trong tiếng cười.
 
Chàng còn nhớ bàn tay nàng tối đó. Bàn tay mềm mại, dịu dàng ôm lấy chàng, trán của nàng dựa vào trán của chàng, còn có giọng nói của nàng nữa.



“Mộ Dung Vô Phong, nói dứt khoát đi, chàng có thể hay không?”.



Chàng bật cười. Cả đời chưa từng gặp cô gái nào nói năng bạo dạn đến thế.



Nhưng tại sao nàng vẫn chưa quay trở lại?



Chàng chợt nhớ tới kiếm của nàng, nhớ những kẻ tìm nàng so kiếm, chàng đột nhiên lo lắng cho nàng.



Liệu có phải Hạ Hồi đến tìm nàng? Hay là người của Đường môn vẫn chưa chạy xa? Chẳng lẽ lại gặp phải Đường Tam?



Không nên nghĩ quá nhiều. Chàng tự nhủ. Điều khiển bánh xe, chàng đi vào thư phòng. Trên bàn sớm đã chất đầy bệnh án của ngày hôm nay, không gọi là nhiều, xem kĩ lưỡng cũng một hai canh giờ là xong. Trên chiếc bàn nhỏ bên cạnh có đặt bữa tối, chàng cầm bát lên ăn qua loa vài miếng. Gần đây khẩu vị rất kém, chỉ có thể ăn những món cực kì thanh đạm.
 
Ăn không thấy ngon, chỉ đành ép bản thân nuốt xuống. “Ép bản thân” sớm đã thành thói quen của chàng.



Tập trung tinh thần lại, bắt đầu đọc bệnh án. Từ khi chàng hiểu chuyện đây dường như là công việc phải làm thường ngày của chàng, lúc trước là đọc những thứ người khác viết, bất kể là ai, chàng đều có thể đọc được. Đương nhiên, không phải tất cả bệnh án đều được viết một cách buồn tẻ. Sái đại phu vốn thích thi từ, toàn đem bệnh án viết thành thể văn tứ lục, có những lúc bên dưới còn cho thêm truyện cười. Mỗi lúc như thế, văn chàng phê vào cũng không tránh khỏi không vần điệu, coi như là một chút giải tỏa đối với công việc vất vả này.



Nhưng công việc cuối cùng vẫn là công việc. Chàng không thể không thừa nhận phần lớn đời người thật nhàm chán. Dường như rất nhiều sự việc cứ vĩnh viễn lặp đi lặp lại trong những hoàn cảnh khác nhau. Chàng thành như hiện giờ chính là kết quả của việc luyện tập đi luyện tập lại.



Người luyện kiếm thì sao? Cũng như thế chăng?



Nghĩ đến đây, chàng bỗng cảm thấy có chút thư thái. Dường như cuối cùng cũng tìm thấy một điểm tương đồng giữa hai người.



Hầu như mỗi tối chàng đều bận việc phê sửa bệnh án. Đương nhiên, ngoại trừ những lúc gặp ca bệnh trầm trọng, không thể không chữa trị tới tận khuya. Nếu như vẫn thừa ra chút ít thời gian, có thể chàng sẽ tới tiểu đình giữa hồ ngồi một lát. Về đêm, khí hồ lạnh và ẩm, ngồi đó một lúc, các khớp trên cơ thể lại bắt đầu âm ỉ đau. Nhưng chàng vẫn thích đến nơi đấy.



Thích ngồi tĩnh lặng trong gió đêm lồng lộng, nghe tiếng sóng dập dờn lên xuống. Thích ngắm nhìn bầu trời sao tim tím dưới ánh trăng vằng vặc xa xôi. Thích sự yên tĩnh đến cùng cực ấy.



Làm xong phần việc cuối cùng, chàng lại tới tiểu đình. Thính Đào Thủy Tạ ở ngay bên, đèn đóm vẫn nguội lạnh. Bầu bạn với chàng bây giờ chỉ có những vì sao lặng lẽ trên đầu.
 
Chàng ngồi đó một mình, ho tới nửa đêm, ngồi đến khi sương đêm ướt đẫm áo, nàng vẫn chưa quay về.



Chàng đem chút thất vọng trở về phòng ngủ. Tắm gội xong, đem th.ân thể với xương khớp bên trong ê ẩm đau lên gi.ường, lại trằn trọc không ngủ nổi.



Trong bóng tối, đôi chân bỗng đau nhức như bị kim châm.



Tuy chân chàng không thể cử động nhưng vẫn có cảm giác đau đớn rõ ràng.



Hẳn là ngồi ở hồ quá lâu, không tránh khỏi nhiễm phải khí ẩm.



Càng lúc càng đau, chàng đành gượng dậy, vươn tay tới tủ đầu gi.ường lấy một bình rượu thuốc.



Đây là thuốc thường dùng mỗi khi lên cơn phong thấp, tuy tác dụng không lớn nhưng tạm thời cũng có thể giảm đau.



Mở nút bình, bỗng đâu có một bàn tay vươn ra từ trong đêm tối, tiếp lấy bình rượu.



Một giọng nói nhẹ nhàng: “Để tôi”.



Chàng đã có chút mơ màng, nhưng giọng nói đó đương nhiên chàng nhận ra. Có khi cũng chỉ là giấc mộng.
 
“Ngủ đi…” bàn tay đó đỡ lấy vai chàng, đặt đầu chàng xuống gối rồi vén chăn nơi chân chàng, nhẹ nhàng lấy rượu xoa bóp các khớp.



Giấc ngủ ập tới như thủy triều, cuối cùng chàng cũng chìm vào giấc ngủ.



Lúc tỉnh dậy trời đã sáng hẳn.



Chàng vốn luôn dậy rất sớm, ít khi quá giờ Mão[5], nhưng nhìn sắc trời sáng sủa, chỉ sợ đã qua giờ Mão rồi. Mặc xong y phục, trở ra thư phòng, Triệu Khiêm Hòa đã đứng đợi ngoài cửa.



[5] Giờ Mão là từ 5-7 giờ.



“Chào buổi sáng”, chàng nói.



“Chào buổi sáng, cốc chủ”, Triệu Khiêm Hòa đáp. Mỗi sáng đều có một vị tổng quản tới gặp chàng để thông báo về việc hàng ngày. Đa phần do Triệu Khiêm Hòa, có lúc là Quách Tất Viên hoặc Tạ Đình Vân.



“Thương thế của Phùng đại phu…”, chàng hỏi.



“Bẩm cốc chủ, tuy vẫn còn rất yếu nhưng đã khá hơn trước rất nhiều rồi. Hiện đang do Sái đại phu chăm sóc, chữa trị”.



“Ừ”, chàng đáp một tiếng, nói: “Giờ Thìn ba khắc ta sẽ tới chỗ Ngô đại phu. Bệnh án hôm qua để trên bàn, ông đem giao cho Trần đại phu. Ngoài ra buổi chiều ta còn hai bệnh nhân. Còn sắp xếp gì không?’.



“Vâng. Tiết đại phu có một bệnh nhân khó chữa, mong cốc chủ tới xem sao”.
 
“Lúc nào?”.



“Càng sớm càng tốt”.



“Bảo với hắn, khoảng đầu giờ Tị[6] ta sẽ tới”.



[6] Giờ Tị là từ 9-11 giờ.



“Vâng. Còn hai thương nhân buôn thuốc từ Tây Bắc tới, muốn trao đổi về giá thuốc năm nay. Quách tổng quản nói, vụ làm ăn này quá lớn, ông ấy không dám làm chủ, mong cốc chủ tới quyết định”.



“Để ông ấy tự quyết định đi, xong về báo lại cho ta một tiếng là được”, chàng nhấp một ngụm trà, từ tốn nói.



“Sở cô nương sáng nay đã rời đi, lưu lại cho tại hạ một tờ giấy, nhờ giao lại cho tiên sinh”, Triệu Khiêm Hòa dâng tờ giấy. “Chữ của Sở cô nương rất quái lạ, thuộc hạ già đầu rồi mà nhìn mãi không sao hiểu được”.



Giấy là loại giấy Tử Vân mà chàng hay dùng, nét chữ thì nghiêng nghiêng ngả ngả, rõ ràng là tiện tay tìm giấy tìm bút trên bàn của chàng.



Xem ra là tối qua đúng là nàng có tới.



Chàng mỉm cười nói: “Cô ấy bảo cô ấy lên núi Nga Mi rồi”.



“A! Mấy chữ ấy là Nga My sao?”, Triệu Khiêm Hòa bật cười nói.
 
“Việc này…cô ấy gần như không biết chữ, ông phải đem chữ cô ấy viết lộn lại rồi đảo qua đảo lại mới nhận ra được”.



“Không viết được cũng không sao, nhưng lại cổ quái đến mức này. Thuộc hạ quả thực vẫn cho rằng đây là kim văn[7]. Cốc chủ làm thế nào mà thấy ra được. Hay là trước đây đã từng thấy qua rồi”.



[7] Kim văn là một thể chữ của Trung Quốc, phỏng theo lối chữ khắc trên đồ kim loại ngày, xưa, nét chữ thô phác, gầy mảnh.



Mộ Dung Vô Phong khẽ cười, nói: “Đây cũng là lần đầu tiên ta nhìn thấy. May mà vẫn nhận ra được”.



Tại sao nhận ra được, chàng cũng không sao nói rõ. Chỉ là nhìn một cái liền biết mấy chữ ấy là gì. Giờ nhìn lại lại thấy hoàn toàn không giống rồi.



“Lúc ra khỏi cửa, tâm trạng cô ấy ra sao?”, chàng không nhịn được hỏi thêm một câu. Trong lòng thầm hối hận sao đêm qua lại ngủ như chết thế, đến một câu còn chưa kịp nói, người ta đã đi mất rồi.



“Tốt. Cốc chủ, dáng vẻ cô nương tràn đầy sinh khí, tâm trạng thoải mái vui vẻ. Đến như thuộc hạ nhìn thấy cũng cảm thấy có tinh thần. Nhắc đến việc này, cốc chủ, ngài lại quên uống thuốc rồi?”, Triệu Khiêm Hòa nhìn vào bát thuốc đặt trên bàn.



“Đồ ăn sáng của ta đâu rồi?”, chàng hỏi rồi nâng bát thuốc, một hơi uống cạn.
 
Quay lại
Top Bottom