Hoàn Mê hiệp ký – Thi Định Nhu

Tiếp đến chàng định ra giếng múc nước, giặt quần áo buổi sáng thay ra.


Ròng rọc kéo nước trên giếng lắc lư hơn xa chàng tưởng tượng. Lúc nó lắc lư thì buộc phải đồng thời dùng sức hai tay mà giữ lấy, nhưng hai tay chàng mà rời tay vịn của xe lăn thì thân người sẽ rất khó ngồi vững được, chỉ có thể dựa chặt lên lưng ghế mà thôi. Thùng nước kia cứ đánh qua đánh lại trong giếng, rất nặng nề, khó khăn lắm mới kéo lên khỏi miệng giếng. Chàng cúi người đón lấy cái thùng, cảm thấy dùng một tay thì sẽ không sao xách nổi, chàng trầy trật lắm mới vươn nốt tay kia lên được, nhưng lại không để ý tuột mất tay này khỏi dây ròng rọc, thùng nước liền tuột đi. Chàng lập tức níu lấy sợi dây nhưng không đủ sức, chỉ đành buông ra, thùng nước lại cứ thế rơi trở lại giếng. Cứ như thế ba lần, chàng thử bảy tám tư thế cẩn thận tính toán thăng bằng, cuối cùng mới kéo được thùng nước ra khỏi miệng giếng, hai tay đang giữ lấy thì lưng lại chợt mềm nhũn, tay chợt buông lỏng, thế là cả thùng nước dội thẳng vào người, khiến chàng ướt sũng.


Đầu xuân, nước trong giếng cũng không quá lạnh, nhưng tưới lên người vẫn khiến chàng rùng mình, run lên cầm cập.


Chàng chỉ đành quay vào phòng cởi đồ ướt ra, thay một bộ y phục khô ráo trắng tinh. Tấm đệm ngồi trên xe lăn cũng đã ướt nhẹp, chàng đành phải lấy ra, đặt gần lò sưởi để hong khô.


Hơ xong một mặt chàng đảo mặt kia qua rồi chợt sững người.


Một góc của tấm đệm có thêu hai hình đầu người nho nhỏ bằng chỉ đỏ.


Đường thêu vụng về, đường chỉ xiên xiên xẹo xẹo, nhìn một cái liền biết, đây chính là tác phẩm của Hà Y.


Cái đầu bên trái, trên đỉnh đầu còn thêu thêm mấy sợi dài, đại khái là tóc, bên cạnh còn thêu hai chữ “Hà Y”. Cái đầu bên phải, trên đầu không thêu tóc dài, nhưng thêu một cái búi tóc tròn tròn, bên cạnh thêu hai chữ “Vô Phong” Hai cái đầu dụi sát vào nhau, khuôn mặt tươi cười, bộ dạng rất vui vẻ hớn hở.
 
Chàng nhìn chăm chú vào hai hình thêu đơn giản mà vui tươi, trong mắt thấy cay cay.


Từ trước tới giờ nàng không sao viết chữ “Vô” cho ra dáng được, bởi vì nét chữ quá nhiều nên viết ra phải béo gấp đôi chữ “Phong”. Nàng vốn cũng không viết cho ổn thỏa được chữ “Mộ”, viết ra rồi thì phải dài gấp đôi gấp ba chữ còn lại.


Nàng còn nói, đứa con đã chết của hai người, tên của nó là “Mộ Dung Đinh Nhất”. Tuy hai chữ đầu lằng nhằng nhiều nét phức tạp là không thể tránh được, nhưng rốt cuộc hai chữ phía sau viết ra cũng đơn giản hơn khối rồi.


Chàng còn nhớ lúc ấy mình bật cười hỏi: “Sao nàng không dứt khoát gọi nó là ‘Mộ Dung Nhất’ luôn cho gọn?”.


“Việc này… hình như không được ổn lắm? Nó tên là ‘Mộ Dung Nhất’, vậy chẳng nhẽ gọi đứa thứ hai là ‘Mộ Dung Nhị’? Thiếp nghe cứ thấy sao sao ấy?”


Mộ Dung Vô Phong ngắm nhìn những hình thêu ấy, mắt nhòa đi. Chàng chợt cảm thấy mình sai rồi. Hai người bọn họ ở với nhau đích xác là có rất nhiều lúc vui vẻ. Bây giờ nhớ lại, niềm hạnh phúc Hà Y cho chàng mới hai năm nay còn vượt xa niềm vui hai mươi mấy năm cuộc đời chàng cộng lại.


Nhưng, liệu Hà Y cũng được vui vẻ chăng?


Thân thế của nàng so với chàng còn thê lương hơn, tuy luôn mang dáng vẻ tràn đầy sức sống nhưng chính bản thân chàng cũng không biết được, cuối cùng nàng có thực sự vui vẻ hay không.


Có! Nàng có hạnh phúc!


Nếu không nàng đã chẳng thêu thế này, hy vọng bọn họ vĩnh viễn hạnh phúc cùng nhau.


Nếu hai người đều cùng vui vẻ, sao lại không thể ở cùng một chỗ? Sao còn phải nghĩ nhiều như thế?
 
“Người đọc sách cứ thường bị cảm giác cao thượng chi phối, thân mình có chút lý lẽ thì cứ muốn làm thánh nhân. Những người thô lỗ không chịu đọc sách như bọn thiếp cuối cùng lại phải chịu bị bọn chàng hành hạ”, từng có lúc Hà Y đã nói như thế.


Chàng cười khổ, không thể không thừa nhận, lời nàng có lúc cũng thật chuẩn.


Chàng sai rồi! Đơn giản là sai đến mức hồ đồ!


Nghĩ tới đây, chàng vươn người dậy, ra ngoài cửa, đem theo xe lăn, cưỡi lạc đà, men theo cửa hiệu, quán rượu khách điếm dọc phố hỏi từng nhà từng nhà một.


“Xin hỏi vị đại ca này, ngày hôm qua có từng nhìn thấy một cô gái nhỏ nhắn mặc đồ màu tím nhạt không? Trên lưng cô ấy khoác một bọc hành lý màu đỏ, eo giắt một thanh kiếm màu tía?”


“Cô gái nhỏ người à? Không có.”


Chàng lại lăn bánh xe, dưới ánh mắt chăm chăm của đám đông rời đi, tới bên chân lạc đà vỗ nhè nhẹ. Lạc đà quỳ xuống, một tay chàng vịn xe lăn, tay kia níu lấy bướu lạc đà, gồng sức vươn người lên yên, sau đó treo xe lăn lên một cái móc móc vào yên, xong việc lại vỗ lưng lạc đà, con lạc đà từ từ đứng dậy rồi tiếp tục thong thả đi về phía trước.


Tới một nhà khác, chàng lại lặp lại quy trình phức tạp gian nan ấy một lượt nữa, đi vào từng cửa hàng cửa tiệm, hỏi cùng một câu hỏi, đợi người ta lắc đầu trả lời “không thấy”, rồi lại vòng ra leo lên lưng lạc đà, tiếp tục tiến lên phía trước.


Chàng tự biết bộ dạng mình thật không bình thường, rất nhiều người trên đường chú ý tới chàng, có những người khoanh tay đứng hẳn sang một bên, không e dè gì, theo dõi chàng từ đầu tới cuối.


Đây là giang hồ, không phải Vân Mộng cốc, chàng chỉ có thể cố chịu đựng những ánh mắt hiếu kỳ ấy.


Trông thấy bên đường có mấy tiệm nhỏ bán Khách Ngõa Phù, chàng cũng ngồi trên lạc đà cúi người xuống hỏi thăm.
 
Hà Y tới nơi đây, thứ thích ăn nhất chính là thịt dê xiên nướng. Với lại trước giờ nếu tâm tình nàng càng không tốt, ăn sẽ càng nhiều.


Nhưng ông lão bán Khách Ngõa Phù lại cứ một mực lắc đầu: “Lão đây nướng thịt dê ở chỗ này đã mấy mười mấy năm, chưa từng gặp vị cô nương nào như thế”.


“Nói bừa, nói bừa rồi, lão đầu ông nướng thịt, khói cứ gọi là bay mù mịt, cho dù có một con gấu to đùng bò tới trước mặt, ông cũng chẳng thấy được nữa là!”, người ở quầy hàng bên cạnh nói: “Công tử, người chớ tin lời ông ta. Tôi đã nhìn thấy cô gái công tử vừa nói. Cô ấy còn tới chỗ tôi mua bốn xiên Khách Ngõa Phù nữa cơ”.


Chàng vội hỏi: “Thật sao? Là lúc nào thế?”.


“Chiều tối qua.”


“Cô ấy có nói gì với huynh không?”


“Chẳng nói chẳng rằng. Cô nương ấy trông mặt mày ủ rũ, mua xong đồ thì tiếp tục đi về phía trước rồi.”


“Đa tạ”, chàng chán nản lấy một lượng bạc quẳng cho người kia.


Chủ gánh hàng kia mừng rỡ ngoài mong đợi hỏi: “Công tử, ngài lấy mấy xiên?”.


“Tôi không ăn, anh lấy bán cho người khác đi”, chàng vỗ vỗ lạc đà, không nản chí tiếp tục tiến về phía trước hỏi thăm từng nhà.


Đoạn cuối con phố nối liền với một quan đạo dài tít táp vắt qua một thảo nguyên, thông tới một khu thành thị khác.


Đoạn đường bắt đầu của quan đạo có một khách điếm không lớn không bé, cũng là cửa tiệm buôn bán cuối cùng trên con phố này.
 
Tiểu nhị nói cho chàng, đích xác là có một vị cô nương như chàng tả vào khách sảnh gọi một bát trà sữa, còn hỏi thăm anh ta xem muốn đi về phía đông tới khu vực giáp biển thì đi như thế nào. Tiểu nhị liền chỉ cho nàng con đường quan đạo này. Nàng uống xong trà, trả tiền rồi đi luôn.


Nghe thấy vậy, Mộ Dung Vô Phong chỉ đành kéo dây cương, như người mất hồn mà quay trở về nhà.


Ánh nắng đầu xuân êm ái chiếu qua cửa sổ, ngoài song còn văng vẳng tiếng chim hót.


Chàng đã sức cùng lực kiệt, ủ rũ nằm xuống gi.ường, trong đầu là một khoảng trống rỗng.


th.ân thể chàng vốn yếu đuối, vừa rồi bị nước giếng tưới ướt, rồi lại thêm cả đêm qua rượu vào ngủ gục dưới đất bị nhiễm lanh, đến chiều thì toàn thân bắt đầu nóng bừng.


Chàng định cắn răng xuống gi.ường, tìm cho mình ít thuốc, nhưng đầu váng mắt hoa, cả người mềm nhũn đành nằm đơ trên gi.ường, mê mê man man mà thiếp đi.


Tới nửa đêm thì toàn thân chàng nóng rực, miệng lưỡi khô khốc muốn uống nước nhưng mí mắt nặng trĩu không mở ra nổi, vươn tay quờ quạng trên cái bàn cạnh gi.ường một lát cũng chẳng sờ thấy bình nước đâu, chỉ đành tiếp tục gục đầu xuống mê man.


Cũng không biết ngủ tới lúc nào, đột nhiên có người lay mạnh thân chàng. Chàng miễn cưỡng mở mắt ra, trời đi sáng từ lâu, một người trung niên mặc áo xanh đang đứng trước mặt chàng.


Trong cơn mơ hồ, chàng hỏi: “Các hạ là ai? Sao lại chạy tới phòng tôi?”.


Người kia nói: “Lâm đại phu, ngài không nhận ra tôi à? Tôi là người nói chuyện với ngài hôm qua lúc ngài treo biển hiệu đó. Tôi họ Phí, gọi là Phí Khiêm”.


Mộ Dung Vô Phong nhắm mắt lại, nói: “Bất kể là phí tiền hay không phí tiền[1], hôm nay tôi không khai trương”.


[1] Phí Kiêm và phí tiền trong tiếng Trung có cùng một âm đọc.
 
Phí Khiêm kêu lên: “Này! Con người ngài sao nói rồi lại không giữ lời thế? Hôm qua rõ ràng ngài đã nhận lời khám bệnh cho muội muội tôi mà”.


Mặc kệ hắn khua môi múa mép, Mộ Dung Vô Phong hạ đầu xuống ngủ luôn, chẳng thèm để ý tới hắn nữa.


“Bây giờ sắp chiều rồi! Sao ngài vẫn chưa xuống gi.ường? Có loại đại phu lười biếng như ngài sao? Tôi đưa người bệnh từ xa xôi tới dễ dàng lắm hả? Họ Lâm kia, rốt cuộc hôm nay ngài có khám bệnh hay không?”, Phí Khiêm tức mình đứng chống nạnh giạng chân bên gi.ường Mộ Dung Vô Phong to mồm mắng mỏ.


Giọng hắn to kinh người, hét tới mức Mộ Dung Vô Phong chẳng làm sao ngủ nổi.


Bất chợt có một giọng nói khác rất nhỏ nhẹ, rất nho nhã cất lên: “Ca ca, chúng ta… hay là chúng ta về đi. Vị đại phu này… muội thấy hình như ốm rồi”.


“Ốm rồi? Nói linh tinh, bản thân hắn là đại phu, sao mà ốm được?”


“Huynh xem người ta mặt mũi đỏ rực thế kia… chẳng phải đang… đang sốt hay sao?”


Phí Khiêm đưa tay sờ trán Mộ Dung Vô Phong một cái, giật thót mình, nói: “Quả nhiên hắn ốm rồi”.


Nói rồi lay lay chàng, hỏi: “Này, ở đây ngài có thân thích nào không? Tôi sẽ giúp ngài gọi tới. Ngài ốm rồi, cứ phải có người chăm sóc vẫn hơn”.


Mộ Dung Vô Phong chẳng biết làm sao, chỉ đành mở mắt ra, trông thấy có một cô bé nhỏ nhắn đang đứng sau lưng Phí Khiêm, trên đầu còn đội một chiếc mũ lớn. Cô bé này mặt trái xoan, đường nét thanh tú, thân hình gần giống như Hà Y.


Vừa nghĩ tới Hà Y, đầu chàng thoáng mê muội, lại khép mắt lại.


Cô bé nói: “Ca ca, chúng ta về đi. Vị này hình như bệnh không nhẹ. Mấy hôm nữa chúng ta… chúng ta lại tới”.
 
Phí Khiêm không có cách nào khác, đang định quay người đi thì thấy Mộ Dung Vô Phong trở mình ngồi dậy.


“Đại phu, ngài không sao chứ?”, Phí Khiêm dò hỏi.


“Không sao, chỉ là chút phong hàn mà thôi”, Mộ Dung Vô Phong bật ho vài tiếng, nói: “Xin lỗi, tôi chẳng cách nào xuống gi.ường được. Làm phiền ông lấy một chiếc trường kỷ vào đây, bảo bệnh nhân ngồi trước mặt tôi”.


Phí Khiêm vội vàng bê ghế tới, nói: “Tiểu Mẫn, lại đây, mau ngồi xuống đây”.


Cô bé kia ngập ngừng do dự, mặt mũi ngượng nghịu tới đỏ bừng, gượng gạo đi tới rồi ngồi xuống ghế.


Mộ Dung Vô Phong thờ ơ không chút biểu cảm, nhìn cô bé rồi nói với Phí Khiêm: “Làm phiền mang một chậu nước vào đây, tôi cần rửa tay”.


Chàng cẩn thận kỹ lưỡng rửa tay thật sạch rồi lấy khăn lau khô.


“Năm nay bao nhiêu rồi?”, chàng vừa bắt mạch, vừa hỏi.


Cô bé rụt rè nói: “Mười lăm”.


“Bỏ mũ xuống đi”, chàng lại nói.


Khuôn mặt cô bé càng đỏ hơn, đầu cúi thấp, ngần ngừ hồi lâu mới kéo mũ xuống.


Trên đầu cô bé toàn là ghẻ lở, không có lấy một cọng tóc.


Chàng ngơ ngẩn nhìn những vết lở xấu xí, cái cao cái thấp ấy, không biết vì sao, tâm tư lại lâng lâng nhớ tới Hà Y.


Mãi một lúc sau, chàng mới từ từ tỉnh táo trở lại, liền với một cái bút trên chiếc bàn bên cạnh, chấm lên chút chu sa rồi lần đưa tay sờ lên những vết lở trên đầu cô bé, từng cái từng cái một. Vừa sờ vừa hỏi:
 
“Cái này đau không?”


Nếu cô bé nói “Đau”, chàng liền sờ lên cái tiếp theo. Nếu cô bé nói “Không đau nhưng ngứa”, chàng sẽ dùng bút khoanh lại một vòng. Nếu cô bé nói “Không đau cũng không ngứa”, chàng sẽ đánh dấu chéo. Trong đó có một chỗ, cô bé nói: “Vừa đau vừa ngứa”, chàng liền khoanh lại rồi đánh thêm dấu chéo.


Sau khi sờ xong hết những chỗ lở loét, chàng lại rửa tay thật kỹ rồi lấy bút mực, viết ra bốn đơn thuốc đánh dấu là Giáp, Ất, Bính, Đinh.


Cô bé kia vội vàng đội mũ lên.


Xong xuôi Mộ Dung Vô Phong nói: “Đem thuốc trong bốn phương thuốc này sao riêng ra thành cao. Chỗ khuyên tròn thì dùng Giáp, chỗ dấu chéo thì dùng Ất, vừa khuyên tròn vừa dấu chéo thì dùng Bính. Những chỗ còn lại dùng Đinh. Một ngày ba lần, cách một ngày lại dán cao. Trong vòng một tháng có thể khỏi hẳn”.


Phí Khiêm nói: “Trên đầu nó có bao nhiêu vết như thế, làm sao tôi nhớ được chỗ nào đau, chỗ nào ngứa?”.


Mộ Dung Vô Phong nói: “Có tổng cộng hai mươi ba vết lở loét. Tôi sẽ vẽ lại cho ông”, nói rồi chàng lấy giấy vẽ lại hình dáng đầu, ở từng vị trí lở loét cũng đánh dấu như trên.


Chàng vẽ liền một hơi là xong xuôi, tựa như vị trí mỗi vết lở loét đều đã ghi nhớ kỹ trong đầu rồi.


Phí Khiêm không nhịn được hỏi: “Liệu ngài có nhớ nhầm không? Có cần bảo nó bỏ mũ xuống kiểm tra lại một lượt không?”.


Mộ Dung Vô Phong lườm hắn một cái: “Tôi không nhớ nhầm được. Nếu ông muốn đếm lại thì về nhà mà đếm cũng chưa muộn”.
 
Phí Khiêm nghĩ một lát rồi hỏi: “Thuốc trong bốn đơn này, có đắt lắm không?”.


Mộ Dung Vô Phong hỏi: “Trong tay ông giờ có bao nhiêu tiền?”.


Phí Khiêm nói: “Hai mươi lượng. Mười lượng là phí khám bệnh, mười lượng mua thuốc. Chẳng giấu gì đại phu, bệnh này của tiểu muội tôi đã bị bảy tám năm nay rồi, tiền bỏ ra chữa chạy cứ tuôn đi như nước. Loại thuốc kỳ lạ hiếm có nào cũng thoa qua rồi, chẳng có chút tác dụng nào cả. Bộ dạng nó như thế, thật muốn gả củng chẳng gả cho ai được, của hồi môn cũng sớm đã bị tiêu sạch rồi. Bây giờ trong nhà chỉ còn lại chút tiền, thật không sao chịu nổi chi tiêu như thế. Nhưng, ài… cuối cùng vẫn là người có học mà. Ai bảo nó là tiểu muội của tôi cơ chứ”.


Mộ Dung Vô Phong nhìn Phí Khiêm một cái, cầm lại đơn thuốc, loạt xoạt vài nét gạch đi mấy loại thuốc, rồi lại thêm vào mấy vị, nói: “Cô bé là bệnh nhân đầu tiên của tôi, tiền khám miễn đi. Vị thuốc quý, chỉ cần không quá quan trọng tôi đã bỏ đi rồi, đổi thành vài vị khác rẻ hơn một chút. Tính ra, hai mươi lượng đại khái cũng đủ rồi”.


Phí Khiêm nhìn chàng, nói: “Trông ngài quả đúng là một đại phu cao minh. Trước đây mấy vị đại phu khác xem bệnh đều chỉ kê có một đơn thuốc”.


Mộ Dung Vô Phong cười nhạt nói: “Vết lở loét trên đầu cô bé đâu phải chỉ có một loại. Phải dùng các loại thuốc khác nhau chữa riêng mới được”.


Phí Khiêm cúi đầu nói: “Vậy xin đa tạ. Bây giờ bọn tôi sẽ đi mua thuốc, cáo từ”.
 
Truyền Hạnh đường.


Phùng Lão Cửu tay cầm đơn thuốc, tay kia luân chuyển trên kệ thuốc lớn hình bát giác đầy ắp thuốc, chớp mắt đã lấy đủ phân lượng vị thuốc theo bốn đơn thuốc Phí Khiêm đưa cho.


Đợi tới lúc đang bọc thuốc lại, ông ta đột nhiên dừng tay thắc mắc: “Lạ thật, phương thuốc này hình như không phải do Diệp lão tiên sinh kê!”.


Loại giấy Diệp lão tiên sinh hay dùng để kê đơn thuốc thống nhất dùng giấy Tố Vân Hoa Tiên, ở góc dưới bên phải còn có đóng ấn ba chữ “Truyền Hạnh đường”.


Trong vòng trăm dặm quanh đây cũng có tới mười mấy tiệm thuốc nhưng y quán thì chỉ có một nơi, chính là Truyền Hạnh đường của Diệp thị.


Người một dải quanh đầy đều biết, thuốc, ở kho của Truyền Hạnh đường là đầy đủ nhất; đại phu, Diệp lão tiên sinh của Truyền Hạnh đường là tốt nhất.


Ở Truyền Hạnh đường, trừ Diệp lão tiên sinh ra cũng chỉ còn hai vị đại phu ngồi khám bệnh trong y quan là có thể kê đơn, tuy nhiên bất kể hai người họ cần xin khẩn khoản thế nào, Diệp tiên sinh cũng kiên quyết không đồng ý thu nhận bọn họ làm học trò.


Hai vị đại phu này, một vị họ Trương, một vị họ Cảnh, tuổi đều đã xấp xỉ bốn mươi.


Giấy mà bọn họ dùng cũng là giấy Hoa Tiên chuyên dụng của Truyền Hạnh đường.


Phí Khiêm cũng là khách thường xuyên của Truyền Hạnh đường. Mọi người đều biết hắn có một người em gái nhan sắc không tệ nhưng đầy đầu lở loét. Chỉ vì căn bệnh này của em gái, Phí Khiêm tới nơi đây bốc thuốc chưa phải một trăm thì cũng đã chín mươi lần rồi.


Nhưng lần này, tờ đơn thuốc trong tay Phùng Lão Cửu chỉ là một tờ giấy Mai Hoa tùy tiện mua từ một tiệm bán giấy nào đó, chữ trên đó là Triệu thể được viết ngay ngắn mềm mại, bên dưới đề “Lâm Xử Hòa” ba chữ, cũng là một cái tên cực kỳ xa lạ.
 
“Vị Lâm đại phu này là ai?”, Phùng Lão Cửu không nhịn được hỏi.


“Là một đại phu mới tới, vừa khai trương hôm nay”, Phí Khiêm thật thà trả lời.


“Vừa mới tới? Sao tôi chẳng nghe ai nói? Có ai tiến cử à?”


Hành nghề đại phu đều phải có người trong nghề tiến cử thì mới có chỗ đứng chân. Người này vừa mới tới, cho dù không muốn chào hỏi đồng nghiệp thì chí ít cũng phải gửi tới một tấm thiếp thông báo một tiếng. Cứ thế ngang nhiên khai trương, há chẳng phải cố ý không thèm để Diệp lão tiên sinh vào mắt sao?


“Tôi không biết, hình như không có”, Phí Khiêm đáp.


“Thế thì ngươi không đúng rồi”, Phùng Lão Cửu nghiêm mặt nói: “Lẽ nào hắn nói hắn là đại phu thì hắn đúng là đại phu sao? Mấy năm nay những kẻ đi lừa gạt còn ít à? Bọn lang băm giang hồ hành nghề y là thô bỉ nhất, kê một đơn thuốc, ôm tiền vào tay là chạy, nào có quản tới sống chết của người bệnh? Ngươi xem phương thuốc này, đều là vị nặng. Lão đầu này đây bốc thuốc đã mấy chục năm cũng chưa từng nhìn thấy đơn thuốc nào mạnh thế này. Muội muội ngươi mới chỉ là một nha đầu mười ba, mười bốn tuổi, có chịu nổi không? Nếu như thoa vào rồi có mệnh hệ gì, thế thì phải làm sao?”.


Ông ta nói một hồi, làm Phí Khiêm cũng bị dọa sợ tới không dám mở miệng. Mãi một lúc sau mới ấp a ấp úng nói: “Không phải chứ? Xem ra hắn còn rất trẻ tuổi. Đại khái là mới hơn hai mươi. Phí khám bệnh lại đòi những mười lượng, không giống bọn lang băm giang hồ đâu!”.


“Cái gì? Mười lượng một lượt khám? Thế còn không phải muốn giết người sao? Diệp lão tiên sinh tuổi cao đức lớn, hành nghề đại phu đã mấy chục năm cũng chỉ mới thu ba lượng một lần khám thôi. Người trẻ tuổi muốn phát tài cũng không thể vội vàng đến thế chứ!”, Phùng Lão Cửu cực kỳ bực bội, cảm thấy việc này là việc lớn, bèn cầm phương thuốc đi vào trong nhà, xin Diệp lão tiên sinh xem qua.


Phí Khiêm chỉ đành đứng ngoài cửa đợi, tim đập không yên. Trong lòng thầm cảm thấy may mắn vì tên họ Lâm kia không hề thu phí khám bệnh, nếu không số bạc trắng phau kia lại chẳng phải là ném xuống sông xuống biển rồi sao?


Một lúc sau, Diệp Sĩ Viễn từ trong nhà bước ra.
 
Đó là một lão nhân dáng cao, mặt mũi đầy đặn, ánh mắt bức người, tay vuốt chòm râu, vừa gặp Phí Khiêm liền hỏi: “Phí huynh đệ, vị Lâm đại phu mà ngươi nói sống ở đâu?”.


“Vâng, việc này… hắn sống ở ngõ Xuyên Sơn Giáp, kế bên nhà Vạn viên ngoại”, Phí Khiêm nói: “Bên cửa có treo một tấm bảng hiệu, viết là Lâm thị y quán”.


“Ừm, liệu có thể mời huynh đệ tới trước thông báo một tiếng, nói là có Diệp Sĩ Viễn ta muốn tới nhà thăm hỏi không?”


Phùng Lão Cứu nghe thấy câu này không khỏi sững người. Thăm hỏi? Câu này có phải quá khách khí rồi không?


“Điều này… điều này… hôm nay sợ không được tiện lắm. Hình như hắn đang bệnh rất nặng. Với lại… với lại chân của hắn cũng không được tiện cho lắm… hình như hắn chỉ có một chân, chân kia cũng không thể đi lại được”, Phí Khiêm lắp bắp nói.


“Ái chà!’, Diệp Sĩ Viễn thầm giật mình.


“Ngài ấy ở một mình, hay là cùng ở với người khác nữa? Có gia quyến gì không?”


“Hắn ở một mình. Theo tôi thấy thì trong nhà không còn ai khác. Lúc bọn tôi đi khỏi, hắn còn đang mê man trên gi.ường, hình như ốm đã lâu lắm rồi, cũng không ai chăm. Bộ dạng… đáng thương lắm.”


“Vậy ta càng muốn tới xem xem. Người đâu, chuẩn bị kiệu. Phùng Cửu, ngươi chỉ cần bốc thuốc theo đơn ấy đưa cho hắn là được. Vị Lâm Xử Hòa này có lẽ không phải là một đại phu bình thường đâu.”
 
✥ Chương 39 ✥


Kiệu đi lòng vòng bảy tám lượt cuối cùng cũng dừng trước cửa Lâm thị y quán. Diệp Sĩ Viễn xuống kiệu, sai kiệu phu đợi bên ngoài, đích thân bước tới gõ cửa.


Không có ai trả lời.


Chẳng lẽ Lâm Xử Hòa ốm quá nặng? Hay là bất tỉnh nhân sự rồi?


Cửa viện hoàn toàn không khóa, chỉ khép hờ, Diệp Sĩ Viễn chỉ đành đẩy cửa bước vào, phòng khách không có ai, sân viện tĩnh lặng, đang là giờ cơm trưa, vậy mà trong bếp củi lửa nguội ngắt, cảnh vật tuyền một vẻ tĩnh mịch.


Ông ta đi vào phòng trong, lại gõ cửa, lần này thì nghe thấy bên trong vọng ra một giọng nói trầm thấp, kèm theo cơn ho kéo dài, hỏi: “Ai thế?”.


“Diệp Sĩ Viễn”, ông ta đáp.


“Là Diệp lão tiên sinh?”, Mộ Dung Vô Phong đang trong giấc ngủ, đầu óc mơ màng, vừa nghe thấy cái tên ấy thì lập tức tỉnh táo trở lại, nói: “Xin đợi một chút, tôi… tôi lập tức ra đây”.


Chàng liền thay áo, ngồi lên xe lăn, ra ngoài mở cửa.


Diệp Sĩ Viễn chỉ thấy một thanh niên mặt mũi xanh xao nhưng tướng mạo cực kỳ anh tuấn, dáng vẻ thanh tú, tay dài, eo thon, thân người ngay thẳng, ngồi trên một chiếc xe lăn tinh xảo. Có vẻ như người này rất sợ lạnh, đang lúc đầu xuân mà thân dưới vẫn đắp một tấm chăn lông.
 
Diệp Sĩ Viễn cảm tạ ngồi xuống nhìn chàng hỏi: “Lâm tiên sinh không phải người phương bắc?”.


“Vâng, vốn chỉ là khách ngụ cư nơi đây, muốn kiếm chút tiền trả tiền thuê nhà mà thôi.”


“Nhân tài trung nguyên nhiều không kể xiết, lão phu sớm đã nghe qua. Vừa rồi được xem đơn thuốc của Lâm tiên sinh, cao minh, quả là cao minh, thật bội phục, bội phục.”


Diệp thị mạch độc của Diệp tiên sinh, vãn sinh từng đọc đi đọc lại, quả đúng là tác phẩm lưu truyền hậu thế. Đặc biệt là quyển sáu, quyển bảy về mạch pháp là tinh túy nhất, thật khiến người ta tỉnh ngộ, hôm nay được gặp thật còn gì hân hạnh hơn! Xin mời ngồi, tôi đi pha trà.”


Chàng nói câu này, thật trúng lòng Diệp Sĩ Viễn, vốn hai chương ấy là có sáng tạo nhất, ông ta rất lấy làm đắc ý, ngay lập túc cảm thấy tâm đầu ý hợp.


Chàng đẩy xe tới bên lư trà đỏ hồng, bỏ thêm mấy viên than thơm vào rồi đặt ấm trà lên, sau đó dùng nước sạch rửa hai chén trà.


Diệp Sĩ Viễn nhìn chàng hơi cúi mình mà một tay cứ phải nắm chắc lấy tay vịn xe lăn, cử động cực kỳ bất tiện, trong lòng không khỏi thương cảm mà thở dài.


“Vãn sinh nghe nói tiên sinh từ trước tới giờ hành nghề y ở một dải Tần Phượng, sao lại tới nơi này rồi?”, Mộ Dung Vô Phong hỏi.


“Ài, thời vận không tốt, số mệnh đa đoan. Đắc tội với quan phủ nên phải chạy tới nơi này. May là những người ờ đây đều là những kẻ từng đắc tội với quan phủ, nếu không phải là một vài chính khách sa cơ thì là dăm tay văn nhân thất ý. Đất này tuy hẻo lánh, lại là đất của phường man di nhưng lão phu lại như cá gặp nước, sống rất thoải mái. Lâm lão đệ quả thật tài cao, ngay đơn thuốc vừa rồi, lão phu nhìn một cái là biết, đó không phải thứ kẻ phàm nhân có thế làm đuọc Chỉ là lão đã ở nơi xa xôi này quá lâu, đối với sự tình trung nguyên càng ngày càng ít biết, xin hỏi lão đệ nhà ở vùng nào, quê quán nơi đâu?”, Diệp Sĩ Viễn cười hỏi.
 
Mộ Dung Vô Phong tinh tường các nhân vật trong ngành y, những người lợi hại dưới gầm trời này, đếm đi đếm lại cũng chỉ có mấy người. Mà ba chữ Lâm Xử Hòa này quả thật quá xa lạ, liền nói: “Vãn sinh nhà ở Giang Đông[1], nhiều đời hành nghề y, lại tuân theo gia huấn, ‘thuật nhi bất tác[2]‘, cho nên chẳng có tên tuổi gì, chỉ là một lang y tầm thường mà thôi”.


[1] Giang Đông là một địa danh lịch sử của Trung Quốc, để chỉ khu vực phía đông của sống Dương Tử, còn được gọi là Giang Tả.


[2] Chữ trong thiên Thuật nhi, sách Luận ngữ, nghĩa là chỉ thuật lại thành tựu của cổ nhân mà không sáng tác thêm vào


Diệp Sĩ Viễn gật đầu nói: “Vùng Giang Tả nhiều anh tài, đời nào cũng có danh gia. Tàng long ngọa hổ, không màng danh lợi. Thật chẳng phải điều kẻ thô dã như lão phu có thể tường tận hết được. Đấy gọi là ‘Nói theo cái học chính thống, không đem cái học sai trái lòe đời[3], cái học chính thống của trung nguyên lão phu ngưỡng mộ đã lâu”.


[3] Lời trong Nho lâm liệt truyện sách Sử ký của Tư Mã Thiên.


Mộ Dung Vô Phong nói: “Lão tiên sinh không nên tự khiêm. Diệp thị mạch độc tất sẽ lưu truyền y sử”.


Diệp Sĩ Viễn hỏi: “Lão đệ sống ở trung nguyên, có từng bái vọng Mộ Dung tiên sinh ở Vân Mộng cốc chăng?”.


Mộ Dung Vô Phong đang uống trà, nghe thấy câu này thiếu chút nữa thì sặc, vội vàng nói: “Chưa từng. Vãn sinh đi lại không được thuận tiện, rất ít ra ngoài. Chuyến này… chuyến này đi xa là vì nhận lời mời của bằng hữu”.


Diệp Sĩ Viễn than rằng: “Lão phu rất muốn gặp người này một lần, hỏi xem thiên kế tiếp sách Vân Mộng nghiệm án loại thuyết của anh ta bao giờ mới ra. Chỉ đáng tiếc vài ngày trước lão phu nghe được một tin, nói rằng mấy tháng trước vị này đã đột ngột qua đời rồi. Vân Mộng cốc vì việc này đã cử hành lang lễ cực kỳ long trọng, bạn hữu trong giới Hạnh lâm[4] nghe tin cũng lũ lượt tới phúng viếng. Thật là trời ghét người tài, đáng tiếc, đáng tiếc”.


[4] Từ phiếm chỉ cho giới Y học Trung Quốc ngày xưa. Điển xuất phát từ thời Tam Quốc, nước Ngô cỏ một vị y sinh tên là Đổng Phụng. Vị này chữa bệnh cứu người nhưng không nhận tiền cảm ơn. Nếu người bệnh nặng được ông ta chữa khỏi thì sẽ trồng năm cây hạnh, nếu người bệnh không nặng được chữa khỏi, sẽ trồng một cây hạnh. Cứ như thế sau mười năm nơi đó đã có tới mười mấy vạn cây hạnh. Đổng Phụng nhìn rừng hạnh cảm thấy rất vui liền làm một ngôi nhà cỏ ở nơi ấy. Đến khi quả hạnh chín, ông nói với mọi người, ai muốn mua hạnh thì không cần nói với ông, chỉ cần đem một thúng gạo đổ vào kho gạo của ông là có thể lấy một thúng hạnh về. Đổng Phụng đem hạnh đổi lấy gạo rồi lại đem gạo đi cứu tế cho nông dân nghèo khổ. Về sau người ta nói tới “Hạnh lâm” là để ca tụng người làm nghề y. Y đường của Diệp Sĩ Viễn trong truyện cũng nhân đó mà lấy lên Truyền Hạnh đường, ý muốn nói tới việc noi theo y đức của Đổng Phụng mà hành nghề y.
 
Mộ Dung Vô Phong chỉ đành nói theo: “Đáng tiếc, thật đáng tiếc”.


Thầm nghĩ Hà Y khuấy đảo Đường môn đất Thục một trận rồi ôm mình nhảy từ vách đá xuống, chỉ sợ đã có người nhìn thấy. Người ở Vân Mộng cốc cho rằng hai người đã cùng nhau qua đời cũng chẳng phải việc gì kỳ lạ.


Diệp Sĩ Viễn nói: “Lão phu cũng đã phái một tên đồ đệ kém cỏi đi trước rồi, đến được đó đại khái cũng phải mất bốn tháng. Nhân tiện cũng tìm hiểu luôn trong Vân Mộng cốc liệu có còn sách mới nào mà người ấy chưa viết xong không”.


Mộ Dung Vô Phong nói: “A… việc này chỉ sợ là không có rồi. Có điều nơi ấy vẫn còn hai vị Sái đại phu và Trần đại phu, cũng rất hay viết sách”.


“Đương nhiên, đương nhiên, lão đệ nói tới Sái Tuyên và Trần Sách hả? Trước đây lão phu từng gặp qua tiểu Sái một lần rồi. Tên tiểu tử đó mắt để trên trán, quá mức cao ngạo, phụ thân hắn nói chuyện với lão phu hãy còn vài phần khách khí, hắn nói chuyện thì nửa điểm khách khí cũng chẳng có. Làm ta tức muốn chết. Người trẻ tuổi cậy tài phóng đãng, chẳng có chút khuôn phép nào cả. A, nói thế thôi chứ tên tiểu tử ấy cũng đúng là thông minh thật. CuốnTrừng minh y giải của hắn và Úy phong tam cấp của Trần Sách vẽ mặt ngoại khoa và tạp bệnh cũng xem như rất có kiến giải rồi. Đương nhiên so với mấy cuốn sách kia của Mộ Dung Vô Phong – nghe nói người này còn rất trẻ, cũng tương đương với lão đệ – thì vẫn còn thua xa lắm. Ta thấy hắn cũng chưa tìm được học trò nào thông minh hơn mình, khà khà.”


Mộ Dung Vô Phong cũng cười nhạt, cúi đầu không nói năng gì.


Diệp Sĩ Viễn lại nói: “Nghe nói nơi ấy còn có một vị Ngô đại phu rất nổi tiếng về nhi khoa và phụ khoa”.


Mộ Dung Vô Phong đáp: “Vâng, là Ngô Du. Cô ấy cững có viết một cuôn sách”.


“Đọc qua rồi, đọc qua rồi, là Ấu khoa tạp luận. Nghe nói Ngô đại phu cực kỳ xinh đẹp, cả đời sùng bái nhất là sư phụ Mộ Dung tiên sinh của mình. Trong lời tựa của cuốn sách ấy, có quá nửa là để dành khen sư phụ của mình, lúc lão phu mới đọc sách ấy còn cho rằng sách này là do Mộ Dung tiên sinh giúp cô ấy viết ra. Ai ai cũng nói sớm muộn gì cô ấy cũng gả cho Mộ Dung tiên sinh, nhưng không biết trước khi Mộ Dung tiên sinh qua đời cô ấy rốt cuộc đã gả cho người hay chưa?”
 
Mộ Dung Vô Phong thầm lấy làm may mắn vì Hà Y không ở bên cạnh lúc này, nếu không nàng nghe thấy mà để yên cho chàng mới là lạ.


Ban đầu vị Diệp Sĩ Viễn này là danh sĩ vùng Tây Bắc, từ nhỏ đã có tài văn chương, tự thị rất cao, tuy vốn xuất thân từ danh y thế gia nhưng lại yêu thích nghiệp học hành, nhất quyết không chịu lấy nghề y làm nghiệp chính. Không ngờ, khoa cử hắc ám, mấy lần thi chẳng được, lúc ấy mới trong cơn phẫn nộ mà vứt bỏ nghiệp khoa cử, chuyên tâm làm một vị đại phu. Lúc đến nơi này, xa gần trong ngoài, tới một người có thể cùng ông ta bình luận về y thuật cũng không có. Bây giờ gặp được Mộ Dung Vô Phong, thấy chàng là người trong nghề, trình độ cũng chẳng thấp hơn mình thì lập tức cảm thấy như có được tri kỷ, không nén được mà mừng ra mặt, liền đem chuyện trong nghề, những hay dở của sách y, những giai thoại của ngành y bao nhiêu năm nay tích trong lòng không có người để nói mà đàm đạo thảo luận hết với chàng. Cứ liên miên bất tuyệt mãi, nói tới hơn một canh giờ vẫn không sao khép nổi miệng lại. Nếu không phải vì thấy sức khỏe Mộ Dung Vô Phong còn kém, chỉ sợ ông ta đã cùng ngủ chung gi.ường, thắp đèn nói chuyện thâu đêm với chàng rồi.


Mộ Dung Vô Phong thì vốn là một người ít nói ít cưòi, không thích trò chuyện với người xa lạ. Chỉ có ở trước mặt Hà Y mới hoạt bát tự do, dám bầy trò đùa vui. Lúc gặp người trong nghề, chàng lại trở thành bộ dạng nói năng thận trọng, chỉ bàn việc công.


Gần tời giờ thắp đèn, Diệp Sĩ Viễn mới từ biệt, về đến nhà lại nghĩ tới Mộ Dung Vô Phong cô đơn một mình, ốm đau nơi đất khách, không khỏi chạnh lòng, liền vội sai tiểu đồng đem tới một hộp bánh điểm tâm và vài loại thuốc bị phong hàn, rồi lại hẹn chàng ngày sau bệnh khỏi nhất định phải tới Truyền Hạnh đường tụ họp với mấy tên đệ tử của ông ta “trao đổi thân tình”. Mộ Dung Vô Phong tuy không thích ồn ào nhưng thấy lão tiên sinh thịnh tình như thế mà bản thân cũng là đêm dài vò võ một mình, thấy thật khó từ chối liền theo hẹn mà tới.


Cứ thế, năm tháng trời loáng cái đã qua. Chớp mắt một cái đã vào đầu tháng Tám. Khí hậu miền Tái Băc mùa này sớm đã nóng chẳng khác gì Giang Nam. Việc làm ăn của “Lâm thị y quán” cũng cực kỳ tấp nập, ngoài cửa lúc nào cùng đông đúc, càng ngày càng bận rộn. Mộ Dung Vô Phong không muốn cướp mối làm ăn của Diệp tiên sinh, thêm vào đó th.ân thể chàng cũng yếu ớt, không chịu nổi vất vá quá độ thế là cứ hết lần này tới lần khác tăng tiền khám bệnh đẻ giảm bớt bệnh nhân tìm tới. Nhưng chẳng ngờ y thuật chàng quá cao, một truyền mười, mười truyền trăm, chàng đã hô một lần khám sẽ thu năm mươi lượng bạc, thế mà bệnh nhân đợi ngoài cửa lớn vẫn chỉ tăng không giảm, mà tiền vung ra cũng càng lúc càng hào phóng. Cực chẳng đã, chàng dứt khoát dán một cáo thị ngoài cửa lớn, nói rõ bản thân một ngày chỉ khám tối đa là mười bệnh nhân, tuyệt đối không hơn. Ban đầu mọi người đều cho là chàng đang đùa. Tiền khám đã đòi cao như thế, không kiếm thì quá uổng. Không ngờ, sau khi cáo thị được dán lên, khám xong mười bệnh nhân, tuy mới tới trưa, chàng đã đóng kín cửa lớn, mặc kệ người ta ở bên ngoài kêu gào van xin thế nào cũng tuyệt đối không ngó ngàng tới. Tính khí của Mộ Dung Vô Phong thế nào, lúc đấy mọi người mới biết.


Vạn viên ngoại cũng rất hay tới hàn huyên. Thì ra ông ta thấy việc làm ăn của Mộ Dung Vô Phong cực tốt, bèn lập tức mở một quán ăn bên cạnh y quán, rồi lại đem một hậu viện bỏ trống làm một khách điếm đơn giản. Tiền bạc nhờ thế cũng càng ngày càng nhiều. Đối với Mộ Dung Vô Phong lại càng quan tâm hơn, không những để bảo tiêu của nhà mình bảo vệ luôn tòa tiểu viện của Mộ Dung Vô Phong, lại còn ba lần bảy lượt muốn tặng chàng mấy đứa nha hoàn giúp việc.
 
“Lão đệ, không phải lão ca ta nói đệ. Việc y vụ của đệ rõ ràng bận tối mắt, tới nước cũng không kịp uống, vậy mà bên người đến một đứa coi cửa cùng không có. Cơm ngày ba bữa cũng vẫn là lão đệ tự mình lo liệu, đến việc xách nước, giặt quần áo cũng không chịu để người khác tới giúp. Lão đệ ngươi chỉ cần động ngón tay là một ngày đã kiếm được năm trăm lượng bạc. Đấy vẫn chỉ là thích kiếm thì kiếm không thích thì thôi. Nói ra thật khiến mã tặc ở quan ngoại nhìn muốn đỏ con mắt. Đứa sai vặt đó giá chẳng mấy đồng, năm lượng bạc là có thể mua được một đứa nhanh nhẹn hoạt bát rồi. Ngón tay này của đệ, chỉ vào đâu là nơi đó biến thành bạc trắng xóa, thật đúng là vật quý giá biết bao nhiêu! Vậy mà hàng ngày vẫn cứ dùng để nấu ăn, giặt quần áo. Chân của đệ cũng không được tiện lắm, dịp nọ chẳng phải còn mệt tới mức thở không ra hơi sao. Mấy việc lặt vặt kia cứ để nha hoàn làm, bảo đảm vừa nhanh vừa gọn. Dứt khoát như thế này đi, ta tặng đệ hai đứa nha hoàn, một đứa sai vặt, thế nào? Nha hoàn để giặt giũ nấu nướng, xoa lưng bóp chân. Sai vặt để coi cửa tiếp khách, chạy đi mua đồ. Cũng chẳng phải đệ không nuôi nổi! Ta tặng cho đệ đấy, ngày mai sẽ đưa đến.”


Mộ Dung Vô Phong thong thả đáp: “Ý tốt của Vạn huynh, đệ xin nhận nhưng quả thật đệ không cần .


Vạn viên ngoại trố mắt nhìn chàng, khẽ hỏi: “Phu nhân đệ đâu rồi? Lâu lắm rồi ta chẳng thấy cô ấy đâu?”.


Mộ Dung Vô Phong nói: “Cô ấy về nhà mẹ đẻ rồi”.


Vạn viên ngoại nói: “Có câu này không phải là huynh đệ thân thiết, ta chẳng nói với đệ. Ta có một đứa cháu gái nhà thì bần cùng nhưng rất xinh đẹp. Ta thấy đệ vốn cũng là người đọc sách, lại có thế kiếm tiền, sau này nhất định không đến nỗi để nó chết đói. Ta sẽ đi hỏi giúp đệ nhé? Lấy làm tiểu thiếp?”


Mộ Dung Vô Phong lập tức lắc đầu lia lịa nói: “Không dám, không dám. Đệ trời sinh sợ vợ, lão bà mà biết được sẽ giết đệ mất”.


“Ha ha ha… cô nào gả cho đệ, thật sự là có phúc”, biết chàng nhất quyết không chịu, Vạn viên ngoại cũng không để bụng liền trêu chọc chàng một trận, cười ha hả rồi rời đi.


Chạng vạng tối, trong trấn đã sớm điểm đèn, nhà nhà khói bếp nghi ngút, thật là một cảnh tượng yên bình. Mộ Dung Vô Phong đã ăn xong cơm tối, tự mình rửa bát, tắm táp rồi nằm ngả trên chiếc gi.ường mềm trước cửa sổ, lặng lẽ ngắm nhìn những đốm sao sáng trong bốn góc song cửa. Hoa trong sân đã nở rộ từ lâu, cây cối xanh tươi, rậm rạp lá, bao phủ xuống trang viện nhỏ một không gian trong mát.


Chàng thong dong nhấp một ngụm trà, thưởng thức đêm hè phương bắc trước giờ hiếm có.


Trong mùa ấm áp chàng luôn tràn trề tinh lực, từ trước tới giờ đa số sách chàng viết ra đều là vào mùa hè. Trong trấn nhỏ lại ấm áp tình người, càng khiến chàng cảm thấy từng ngày trôi qua cũng không hề cô đơn. Đấy là còn chưa nói ông chủ cho thuê nhà của chàng luôn luôn quan tâm tới chàng, chỉ cấn chàng mở miệng thì chẳng việc gì là khó làm cả. Lại cả Diệp Sĩ Viễn nữa, cứ ba ngày hai bữa dẫn theo đám đệ tử tới chuyện phiếm, luận đàm y vụ. Hai người họ khâm phục lẫn nhau, càng nói càng thân, cuối cùng bỏ ra bốn tháng trời, cùng nhau viết một cuốn sách về những dược liệu hiếm gặp vùng Tây Bắc, Mộ Dung Vô Phong kiên quyết muốn dặt tên sách là Truyền Hạnh đường bản mộc tập lục. Tháng trước vừa mới giao bản thảo mang đi in. Mấy ngày trước Diệp Sĩ Viễn đã đem một bản còn thơm mùi mực, trang đầu có đề “Diệp Sĩ Viễn, Lâm Xử Hòa” tới trao tận tay cho chàng, vô cùng đắc ý: “Lâm lão đệ, lần này có lẽ đệ phạm vào gia huấn rồi. Rõ ràng nói ‘thuật nhi bất tác’, nhưng trong cuốn này của chúng ta thì đã là ‘vừa thuật vừa tác’ rồi. Lúc về mà để phụ thân đệ nhìn thấy, lại chẳng lấy gia pháp ra giáo huấn một trận sao?”.


Nếu như hai người không gặp nhau độ năm ngày, Mộ Dung Vô Phong thì chẳng sao chứ Diệp Sĩ Viễn chắc chắn sẽ cả nghĩ tới phát hoảng, ắt phải tìm một lý do nào đó tới kéo chàng ra quán uống rượu, không thì rẽ vào quán nhỏ ven đường làm vài chén qua loa. Một đám người say túy lúy thêm đồ nhắm nào là lạc, nào là đậu khô, nào lã hạt điều, liền có thể tán chuyện đến khi trời sáng.
 
Mộ Dung Vô Phong dần dần cảm thấy ở cùng đám người ấy, thời gian trôi qua cũng rất nhanh nên chẳng muốn nghĩ ngợi gì quá nhiều, cười cười nói nói ồn ào, cứ thế qua ngày. Những ngày tháng như thế, trước đây chàng chưa từng trải qua, bây giờ nghĩ lại cũng không đến nỗi tệ.


Chỉ là mỗi khi đêm xuống, người người đã say ngủ, còn chàng thì không tự chủ được cứ nhớ tới Hà Y, mỗi khi nhớ tới nàng, ký ức trong đầu cứ cuồn cuộn trào dâng. Chàng nhớ từng chi tiết nhỏ lúc mình và nàng sống cùng nhau, y phục cùa nàng, ánh mắt của nàng, nụ cười của nàng, bàn tay của nàng… dáng vẻ nàng khi say ngủ, khi ăn cơm, lúc giặt đồ…


Nếu như trong một ký ức nào đó có chỗ mơ hồ, thậm chí chàng còn cố gắng nghĩ đi nghĩ lại nhớ tái nhớ hồi, cho đến khi mỗi một tình tiết trong đầu lại rõ ràng như cũ mới thôi. Có những khi chỉ để nhớ cho được trong sự kiện nọ rốt cuộc nàng mặc chiếc váy nào, khuy áo trên đó là dạng gì, hoa văn thêu ở bên trên hay là bên dưới mà chàng vắt hết cả đầu óc. Chàng như còn sợ mình quên mất, còn vẽ lại nàng trên giấy tuyên, vẽ liền một mạch sáu bức, dán hết lên tường phòng ngủ. Rồi lại sợ để Diệp Sĩ Viễn nhìn thấy sẽ lại nói linh tinh, thế là cố ý vẽ thêm dưới người Hà Y một con hổ hoặc một con báo. Thật ra thần thái trên khuôn mặt Hà Y đã không giống thục nữ, lại tuyệt đối không như Hoa Mộc Lan, mấy kiểu truyền thống như trong các bứcĐấu Miêu đồ, Triển Tú đồ hay Du Xuân đồ đều không sao lột tả hết được thần thái của nàng. Nếu hỏi chàng vẽ cái gì đó, chàng sẽ đáp “Sơn Quỷ”.


“Lão đệ à, bức họa Sơn Quỷ này của đệ rất khá nhé! Không ngờ họa pháp cúa tiểu tứ ngươi lại tốt đến thế. Sớm biết như vậy, mấy loại cây thuốc cổ quái trong cuốn sách kia cùa chúng ta đã để đệ vẽ hết. Chữ đề bên cạnh cũng viết rất đẹp. Tặng ta một bức nhé”, Diệp Sĩ Viễn vuốt vuốt chòm râu dài, gật gù tán thưởng nói.


“Đây không phải bức tốt nhất, để vãn bối vẽ một bức khác tặng cho người là được”, Mộ Dung Vô Phong vội vàng nói.


Đêm hôm ây chàng trằn trọc không ngủ được, trời vừa sáng đã dậy khỏi gi.ường.


Tiết hè oi nóng, trời sáng rất nhanh. Chàng dậy tắm rửa rồi khoác lên một chiếc áo xám, cưỡi lên lạc dà, thong dong đi dạo trên con phố dài.


Tuy bình thường rất ít ra ngoài nhưng tên tuổi của Mộ Dung Vô Phong thì nhà nhà đều biết. Bộ dạng của chàng cũng khác xa người bình thường, cho nên lúc đi trên đường, người nhận ra chàng cũng chào hỏi mà người không nhận ra chàng cũng tới hỏi thăm.


“Lâm đại phu, ra ngoài đi dạo à? Chào buổi sáng!”


Chàng nhìn kỹ một lượt nhưng không nhận ra người đang chào hỏi, chợt cảm thấy cực kỳ xấu hổ, chỉ đành đáp qua loa lấy lệ.


Chàng buông lỏng dây cương, suốt dọc đường đầu óc cứ suy nghĩ vẩn vơ, con lạc đà đã đưa chàng rẽ vào một ngả đường khác. Càng đi càng xa, lúc đầu chàng vẫn không để ý, sau đó mới từ từ phát hiện con đường càng ngày càng thấy xa lạ, không còn nhận ra nữa.


Chàng quay trái quay phái, cuối cùng cũng xác định được muốn quay về phải đi đường nào, có điều con đường ấy bắt buộc phải đi qua khu chợ ồn ào tạp nham kia.
 
Chẳng thể làm khác, chàng đành theo đám con buôn từ bốn phương tám hướng đổ tới tụ tập đi vào chợ.


Đưa mắt nhìn một lượt, xung quanh đầu người lúc nhúc, đầu kề đầu, vai kề vai, thật là một cánh tượng náo nhiệt, lộn xộn phi thuờng.


Hãy còn may là chàng đang cưỡi lạc đà, ngồi cao hơn hẳn những người xung quanh, nhờ thế mới không đến nỗi bị không khí ngột ngạt nơi đây hun chết.


Chàng theo dòng người tiến về phía trước, rồi mới phát hiện, thật ra đám tiểu thương này vẫn coi là có quy củ, bọn họ đều theo mặt hàng của mình mà đứng vào một chỗ nhất định, để ra một con đường nhỏ cát bụi tung mù mịt trước mặt để khách qua đường và người mua hàng đi lại xem xẻt


Tiếng mời chào đây đó vang lên không ngớt:


“Sữa ngựa mới vắt đây! Sáu văn tiền một bát!”


“Hạt tiêu hảo hạng đất Thục đây, không thơm không lấy tiền!”


“Khách Ngõa Phù đê! Khách Ngõa Phù đê!”


“Rượu Cao Xương đây! Hai lượng năm vò!”


“Đồ trang sức bằng bạc của phường Tân Long đê! Vừa rẻ vừa đẹp, bây giờ không mua ngày mai chẳng còn đê!”


Chàng bật cười, cảm thấy nơi đây tuy chen chúc khó chịu, nhưng cũng không phải là nơi không thế đến.


Mấy tiểu thương này vì một xu tiền mà cũng bằng lòng rã bọt mép thương lượng với khách. Một xu cũng là tiền, một người cố gắng kiếm tiền nuôi gia đình, bất kể nghề nghiệp của anh ta là gì thì đều đáng được tôn trọng.
 
Quay lại
Top Bottom