Hoàn Mê hiệp ký – Thi Định Nhu

Trên mặt Quách Tất Viên luôn luôn điểm một nụ cười nhẹ, bộ dạng khi nói chuyện ân cần khiến cho người ta ưa thích. Nghe nói vị tổng quản này là lão làng trong việc bàn chuyện làm ăn, rất thích mời khách tới quán ăn, vừa uống rượu vừa nói chuyện việc làm ăn cùng giá cả trên thị trường. Ông ta luôn có cách đàm phán ổn thỏa trước khi người ta chuếnh choáng say. Trong bữa ăn nóng hôi hổi, ông ta thành thục đối phó với từng vị khách, tuyệt đối không lơ là lãnh đạm với bất kỳ ai. Bởi vì con mắt ông ta luôn luôn gắn chặt vào mối làm ăn sắp tới cũng như cơ hội làm ăn có thể có. Sau khi cơm no rượu say, cảm giác của những vị khách luôn là cả khách lẫn chủ đều hết sức vui vẻ, vụ giao dịch vừa bàn xong rất phải chăng, hai bên đều có lợi. Quách tổng quản còn một cái tài khác, chính là bất kể đối phương là ai, chỉ cần gặp mặt một lần sẽ vĩnh viễn không quên. Cho dù có lâu đến chừng nào, bất cứ lúc nào ông ta gặp lại anh đều có thể gọi được tên anh, bá vai anh mà hàn huyên tâm sự, xưng huynh gọi đệ. Kể cả dù lúc ấy chính anh có khi đã hoàn toàn quên ông ta là ai rồi.



Hà Y mỉm cười hỏi thăm ông ta.



Quách Tất Viên nói: “Đêm qua cô nương nghỉ ngơi tốt chứ?”.



Hà Y đáp: “Rất tốt. Nếu như Quách tổng quản đến thu tiền trọ, thế thì bây giờ tôi có thể trả được rồi”.



Quách Tất Viên cười vang nói: “Sao dám, sao dám. Hiện giờ cô nương là khách của cốc chủ, tôi đang muốn phái mấy nha hoàn tới hầu hạ cô nương, chỉ là cốc chủ từ trước đến giờ quen sống một mình rồi, trong viện không cho phép có người tùy tiện ra vào. Đành để cô nương chịu thiệt thòi vậy”.



Hà Y hỏi: “Hôm nay cốc chủ vẫn khỏe chứ?”.



Quách Tất Viên lắc đầu, thở dài một tiếng nói: “Không khỏe lắm. Hình như đêm qua người bị nhiễm phong hàn, sớm nay sương lại dày, chứng phong thấp của người nhất định lại tái phát rồi”.



Hà Y nói: “Phong thấp?”.



Quách Tất Viên gượng cười: “Có chỗ cô nương không biết, cốc chủ là đại phu giỏi nhất ở dây nhưng cũng là bệnh nhân nặng nhất. Người không quan tâm lắm tới bệnh tật của bản thân mình, đã không chịu uống thuốc, lại không chịu nghỉ ngơi cho đủ. Ngày thường so với đại phu bận rộn nhất người còn bận hơn gấp mười lần”.



Hà Y hỏi: “Ngài ấy cử động khó khăn, th.ân thể lại yếu đuối, tại sao đến một người hầu hạ bên cạnh cũng không có?”.



Quách Tất Viên thở dài: “Tính cách cốc chủ vốn mạnh mẽ, từ nhỏ đã không thích người khác xen vào việc của mình. Ai mà có chút gì khiến ngài nổi giận thì cơn tức giận của ngài không phải là đùa. Tim của ngài lại không tốt lắm, mệt mỏi hoặc kích động quá độ là phát bệnh, chúng tôi ai cũng không dám làm ngài nổi nóng”.
 
Hà Y nói: “Có phải ngài ấy khi phát bệnh thì sẽ hô hấp khó khăn, đau quặn vùng ngực, toàn thân toát mồ hôi, chân tay vô lực?”.



Quách Tất Viên trợn mắt ngạc nhiên nhìn nàng, mặt mũi biến sắc hỏi: “Làm sao cô nương biết? Lẽ nào đêm qua bệnh tình ngài tái phát?”.



Hà Y lắc đầu: “Không phải. Chẳng qua là trước đây tôi vô tình gặp qua người cũng mắc bệnh ấy”.



Quách Tất Viên thở phào nói: “Thế thì tốt rồi, thế thì tốt rồi”.



Hà Y nói: “Ngài ấy sống một mình, nói cho cùng vẫn rất nguy hiểm”.



Quách Tất Viên than: “Bao nhiêu năm nay, đó luôn luôn là việc khiến mấy tổng quản chúng tôi lo lắng không thôi. Chúng tôi đành bố trí trong phòng ngài ấy mấy cái dây gắn với chuông bên ngoài, đề phòng có việc ngoài ý muốn. Nhưng ngài nhất quyết không cho ai vào ở trong Trúc Ngô viện. Thực lòng mà nói, việc cốc chủ để cho cô nương vào ở trong Thính Đào Thủy Tạ khiến chúng tôi kinh ngạc mãi không thôi”.



Hà Y nói: “Lẽ nào ngài tổng quản quên, tôi đến đây vốn để bàn một vụ làm ăn?”.



Quách Tất Viên nói: “Cho nên ít nhất hiện giờ cô nương tạm thời là người của Vân Mộng cốc rồi. Cô nương xem, tôi nói nãy giờ đến việc chính cũng quên mất. Hiện giờ cốc chủ đã đi thăm bệnh rồi. Ngài sai tôi chuyển lời tới cô nương, trong Thần Nông trấn có rất nhiều thầy kể chuyện[7], nếu cô nương thích thì vào trấn tìm nghe cũng không sao. Ngài còn nói thanh bảo kiếm của cô nương quá bắt mắt, không tránh khỏi bằng hữu giang hồ bên ngoài cốc hiếu kỳ. Tốt nhất là cô nương đừng mang thanh kiếm ấy theo người”.



[7] Một hoạt động giải trí của người Trung Quốc xưa. Thường là một người hay chữ, giỏi nói năng đem những tích truyện trong sách hoặc trong dân gian kể lại trong quán rượu để mua vui cho khách qua đường.



Hà Y cười nói: “Liệu cũng có thể nhờ Quách tổng quản chuyển vài lời tới cốc chủ không?”.



Quách Tất Viên đáp: “Đương nhiên rồi, xin cứ nói”.



“Thứ nhất, não của tôi chính ở trong đầu tôi, không phải ở trong đầu ngài ấy. Thứ hai, kiếm, tôi vẫn muốn đem theo. Thay chuôi kiếm là được.”
 
Quách Tất Viên cũng bật cười, nói: “Giờ tôi đã hiểu tại sao cốc chủ lại chọn cô nương. Người ở trước mặt cốc chủ có được chủ kiến của bản thân không nhiều. Là nữ nhân lại càng ít”.



Nắng tháng Mười mênh mang. Mới sáng sớm, thị trấn nhỏ đã ồn ào tấp nập. Tất cả các cửa hiệu đều đã mở cửa, đủ các loại biển hiệu trang trí khiến người khác nhìn mà hoa cả mắt. Những tay bán rong trên phố nhiệt tình theo đuổi mời chào từng vị khách, mồm miệng liến thoắng về món hàng trong tay. Mọi người nói rằng, những tay bán rong ở Thần Nông trấn ai cũng là phú ông. Bởi vì bọn họ tin rằng, chỉ cần không ngừng thuyết phục, không bỏ qua một cơ hội nào, sớm muộn gì tiền cũng sẽ sinh lời. Ví như, nếu anh bị một tay bán rong bám theo, tay bán rong ấy có thể đi theo anh tới cùng chỉ để bán một túi lá chè mười lăm đồng, anh ta có thể cùng anh vượt qua cả một ngọn núi, thậm chí làm người dẫn đường miễn phí cho anh. Suốt chặng đường, nếu anh cứ nghe anh ta nói cuối cùng sẽ tin lá chè trong tay anh ta căn bản không phải là lá chè mà là một loại lá thần có thể trị được bách bệnh. Giải khát, giảm mệt nhọc chỉ là một trong số các công hiệu thôi. Đương nhiên anh cũng có thể mặc cả với anh ta, anh ta chính là đang chờ việc ấy. Bởi vì bọn họ tin chắc, phàm là người mà đã mặc cả đều là người thật thà, thực sự có ý mua đồ. Cái giá mười lăm đồng một bao lá chè có khi mười hai đồng là bán, còn như khi đụng phải khách chắc giá, năm đồng cũng bán luôn.



Hà Y mới dạo bước một lúc trên con đường lát đá xanh đã mua luôn bao chè mười lăm đồng. Mới nhìn thấy một người bán hàng rong bước về phía nàng, trong tay cầm một bao chè nàng đã đưa tiền ra trước, nói: “Bao chè này tôi mua”.



Người bán hàng rong ngây ra, nói: “Thật sao? Mười lăm đồng một bao”.



Sau khi nàng mua bao chè mười lăm đồng kia theo cách ấy ở trên đường lớn, tuy vẫn còn những người bán hàng rong từ xa mà ngó nghiêng nàng nhưng không có ai có ý kiến tới.



Nàng cứ như thế mà thoát được khỏi bọn họ, đi đến một cửa hiệu bán kiếm.



Chủ tiệm là một người trung niên gầy nhưng rắn rỏi, mặt mũi có chút không cân đối. Bốn bức tường của cửa hiệu đều có treo các loại kiếm.



Ông chủ tiệm vừa nhìn thấy nàng liền lập tức nhiệt tình chào hỏi: “Hẳn cô nương không phải tới mua kiếm rồi?”.



Hà Y gật đầu.



Chủ tiệm nhìn thanh kiếm nơi eo lưng nàng, cười nói: “Thanh kiếm cô nương đep trên lưng đã đủ tốt rồi, hay là bởi ngại nó quá nặng, cầm không thuận tay?”.



Hà Y nói: “Ông chủ nhận ra thanh kiếm này?”.



Chủ tiệm cười: “Nếu như đến cả Ngư Lân Tử Kim kiếm mà tôi cũng không nhận ra, vậy thì còn mở cửa tiệm bán kiếm làm gì? Đây là thanh kiếm năm đó truyền nhân của Công Trị đại sư, Lỗ Ấn Tuyền làm ra, kiếm nặng bảy cân hai lạng. Nghe nói khi kiếm luyện thành từng dùng máu của bé trai bảy tuổi để tế kiếm. Cho nên kiếm có màu tía, ấy là do màu máu ngấm vào chất thép”.



Hà Y nói: “Hay thật. Tuy tôi biết đây là một thanh kiếm nổi tiếng, nhưng về lai lịch của nó thì đây là lần đầu tiên được nghe”.



Chủ tiệm nói: “Phải chăng cô nương chính là người đã đánh bại Phi Ngư đường, Sở Hà Y, Sở cô nương?”.



Hà Y cười khổ: “Ngay cả ông cũng nhận ra tôi?”.
 
Chủ tiệm nói: “Kiếm này rất nổi tiếng, cô nương trước khi tỉ thí đổi kiếm, há chẳng phải rất không nên sao?”.



Hà Y hỏi: “Trước khi tỉ thí?”.



Chủ tiệm nhìn nàng, bộ dạng có vẻ đang rất kinh ngạc: “Cô nương thật biết nói đùa?”.



“Nói đùa cái gì?”



“Cô nương và Hạ công tử của phái Nga My hẹn tỉ kiếm, sau mười ngày nữa, vào giờ Hợi sẽ ở Phi Diên cốc phía bắc Thần Nông trấn so tài. Tin này đã truyền khắp võ lâm, cô nương sao có thể không biết?”



Hà Y nhìn ông ta, đột nhiên thấy hình như mình vừa nuốt phải một con ruồi, lập tức cảm giác đầu to như cái đấu, không nhịn được buột miệng hỏi: “Làm thế nào mà ông biết?”.



Chủ tiệm trả lời: “Trên phố ai cũng nói thế, việc làm ăn của tôi ở đây cũng đột nhiên thuận lợi hẳn. Hôm qua tôi vừa đi đặt một cửa đấy. Cô nương đừng giận nhé, tuy cô có bảo kiếm nhưng tôi vẫn cược Hạ công tử thắng”.



Hà Y tức quá hóa cười, hỏi: “Có ai đặt tôi thắng không?”.



Chủ tiệm nghĩ một lúc nói: “Người đi đặt cược đều đặt cửa Hạ công tử. Đến hôm nay người đặt cho cô nương đột nhiên nhiều lên, cơ hồ nhiều bằng số người đặt cho Hạ Hồi”.



Hà Y hỏi: “Nếu như tôi không đi tỉ kiếm thì sao?”.



Chủ tiệm nói: “Cô không đi tức là Hạ công tử thắng, tôi cũng có lời rồi. Huống hồ cô nương nhất định sẽ đi”.



“Tại sao?”



“Giang hồ đồn rằng cô nương là đệ tử của Trung nguyên đệ nhất khoái kiếm mười lăm năm trước, Trần Thanh Đình, Trần đại hiệp. Khinh công và kiếm pháp của Trần Thanh Đình đều thuộc hàng thượng đẳng, năm đó chỉ bại dưới tay Chưởng môn phái Nga My, Phương Nhất Hạc mà thôi. Nếu như cô nương lâm trận bỏ trốn, vậy thì mối nhục sư môn ấy…”
 
Hà Y đột nhiên quát lên: “Chớ nói nữa!”. Nàng quăng ra hai đĩnh mười hai lượng bạc, chỉ một thanh kiếm hình thức bình thường treo trên tường nói: “Tôi lấy thanh này”.



Chủ tiệm thấy nàng nhíu chặt lông mày, vội vàng lấy thanh kiếm ấy xuống, trao đến tay nàng, nói: “Thanh kiếm này chỉ mười hai lượng bạc thôi”.



Hà Y nói: “Mười hai lượng kia là tôi tặng ông chủ”.



“Sao dám, sao dám.”



“Tốt nhất ông nên dùng số bạc ấy mua một vò rượu. Người ta lúc thua cược uống một chút rượu thì có thể nghĩ thoáng một chút.”



Kiếm thì vẫn là Ngư Lân Tử Kim kiếm, nhưng trải qua một phen sửa sang, nhìn bề ngoài không thể nhận ra được nữa rồi. Chuôi kiếm đã được quấn thêm một lớp vải thô màu đen. Vỏ kiếm được đổi thành loại bình thường nhất. Lúc Hà Y đi lại trên phố không cần quá lo lắng có người nhận ra nàng nữa.



Lúc ấy, sau lưng nàng đột nhiên có tiếng vó ngựa truyền tới, tiếng ngựa hí dài vừa dứt, một người áo xám từ trên ngựa nhảy xuống, đứng ngay bên cạnh nàng.



“Xin hỏi, phải chăng cô nương chính là Sở Hà Y, Sở cô nương?”, người áo xám này mặt mũi phong trần, trên má còn có một vết sẹo dài, bộ dạng khi cười thực có chút đáng sợ. Trên lưng người này có một thanh trường kiếm hình dạng đặc biệt.



Hà Y nói: “Ngài nhận ra tôi?”.



Người áo xám đáp: “Ngày trước cô nương tỉ kiếm ở Phi Ngư đường, tại hạ từng có may mắn có mặt tại đó”.



Hà Y hỏi: “Ngài là người của Phi Ngư đường?”.



Người áo xám gật đầu đáp: “Tại hạ là Thẩm Bân, sư đệ của Lưu trại chủ”.



Hà Y lạnh lùng cười: “Ngài cũng tới tìm tôi so kiếm?”.



Thẩm Bân nói: “Con người quý ở chỗ tự biết mình, tại hạ há xứng là đối thủ của cô nương?”.



Hà Y nói: “Vậy chắc là Lưu trại chủ lại có điều gì sai bảo?”.



Thẩm Bân nói: “Không dám. Chẳng qua sư huynh của tôi ngày hôm nay đã đến Thần Nông trấn”.



“Ngài cũng đến xem tỉ kiếm?”



Thẩm Bân đáp: “Đúng vậy, nhưng cũng không hoàn toàn chỉ có thế. Thực ra sư huynh đến đây để trị bệnh. Từ sau khi bị cô nương cắt đứt gân tay, ông ấy ngay việc dùng đũa ăn cơm cũng là một vấn đề. Đành tới tìm Mộ Dung cốc chủ nghĩ cách. Đương nhiên, thuận tiện cũng tới xem cô nương so kiếm. Cô nương hẳn biết sư huynh tôi trước vốn là đệ tử phái Nga My, Hạ Hồi là sư huynh của ông ấy”.



Hà Y nói: “Làm sao tôi biết được? Ông ấy trước giờ không hề thông báo với tôi”.
 
Thẩm Bân cười nói: “Bất kể cô nương có biết hay không, Nga My phái quyết không chịu mất thể diện”.



Hà Y cười nhạt: “Cho nên ông ta mới nhất định ép tôi so kiếm với Hạ Hồi?”.



Thẩm Bân nói: “Hiện giờ chúng tôi rất muốn biết cuối cùng kiếm pháp của cô nương lợi hại hay kiếm pháp của Hạ Hồi sư huynh lợi hại”, rồi dừng một chút mới nói tiếp, “Chỉ là lần này tôi tới tìm cô nương vì một việc khác”.



Hà Y hỏi: “Là việc gì?”.



Thẩm Bân nói: “Hôm nay sư huynh tôi tới gặp Mộ Dung cốc chủ, muốn ngài nối lại gân mạch tay phải. Cốc chủ đã một câu từ chối rồi”.



Hà Y nói: “Đến cả gân mạch đã đứt một tháng rồi mà Mộ Dung Vô Phong cũng có thể nối lại sao?”.



Thẩm Bân nói: “Y thuật của Mộ Dung tiên sinh là đệ nhất trong thiên hạ, từng nối thành công kinh mạch cho mấy người. Chỉ là tính tình của ngài cực quái dị. Việc gì ngài ấy đã không đồng ý giúp thì người khác cũng chẳng có cách nào”.



Hà Y nói: “Hay là Lưu trại chủ bỏ tiền chẩn bệnh không đủ?”.



Thẩm Bân nói: “Chỉ cần trị khỏi cho tay phải của sư huynh, có bỏ bao nhiêu tiền Phi Ngư đường cũng không để tâm. Vấn đề là trước nay Mộ Dung tiên sinh vốn chẳng thiếu tiền. Thuốc của Vân Mộng cốc bán khắp thiên hạ. Ngài ấy chính là người giàu nhất trong những người giàu rồi. Tôi nghe nói ngài ấy chẳng bao giờ thèm để mắt tới tiền chẩn bệnh. Thường miễn phí cho những bệnh nhân mà quá trình điều trị quá phức tạp. Trước đây có một tay thợ rèn nghèo kiết xác mắc một chứng bệnh quái lạ, nguy tới nơi rồi. Mộ Dung cốc chủ liên tục bảy ngày bảy đêm ở cạnh chăm sóc, cuối cùng chữa khỏi cho anh ta. Nghe nói trong thời gian dưỡng bệnh, tay thợ rèn nghèo kiết ấy đã ăn mười mấy cân nhân sâm từ núi Trường Bạch phía đông bắc dùng khoái mã chuyển tới. Vậy mà Mộ Dung cốc chủ đến một đồng tiền khám chữa cũng chẳng cần. Nhưng việc lần này cốc chủ thế nào cũng nhất quyết không chịu xem bệnh cho sư huynh tôi, bất kể bỏ ra bao nhiêu tiền cũng vô ích”.



Hà Y hỏi: “Việc này thì có liên quan gì tới tôi?”.



Thẩm Bân nói: “Cốc chủ bảo, thương thế ở tay sư huynh là do kiếm của Sở cô nương, mà cốc chủ lại nợ Sở cô nương một món nợ ân tình”.



Hà Y nói: “Tôi hiểu rồi. Các vị muốn tôi tới năn nỉ Mộ Dung Vô Phong.”
 
Thẩm Bân nói: “Tuy kiếm thuật của cô nương cao siêu nhưng trên giang hồ lại thế cô lực mỏng. Nếu cô nương có thể thuyết phục Mộ Dung tiên sinh, từ nay về sau cô nương sẽ là bằng hữu của Phi Ngư đường. Trên giang hồ nếu có bất cứ kẻ nào dám bất kính với cô nương, Phi Ngư đường sẽ không khoanh tay đứng nhìn. Cô nương cũng biết, kiếm cơm chốn giang hồ không phải chỉ dựa vào thực lực, còn phải có thế lực nữa”.



Hà Y lạnh lùng cười: “Ngài chắc biết quý sư huynh lúc tỉ kiếm với tôi toàn dùng sát chiêu. Nếu tôi không vung kiếm tự vệ thì giờ chắc đã thành một cái xác. Người chết dưới kiếm của quý sư huynh vốn cũng chẳng ít, cho nên nhát kiếm ấy chỉ đâm vào tay ông ta đã là khách khí lắm rồi”.



Thẩm Bân biến sắc nói: “Ý của cô nương là không đồng ý cầu xin giúp sư huynh tôi, mà quyết đối địch với toàn bộ Phi Ngư đường?”.



Hà Y đáp: “Trên giang hồ, Phi Ngư đường là danh môn chính phái. Nếu vì chuyện này mà trở mặt với tôi, vậy tôi cũng chẳng có cách nào”.



Thẩm Bân lạnh lùng cười: “Cô nương vừa mới vào giang hồ chưa lâu, cậy sức đón gió, đối với việc chốn giang hồ thực chẳng hiểu gì. Cái gì gọi là ‘oan gia nên cởi không nên thắt’, cô nương thân gái một mình, tính tình như thế sao có thể lăn lộn lâu trên giang hồ?”.



Hà Y nói: “Hãy còn may giang hồ này không phải của họ Lưu”.



Thẩm Bân chắp tay, nói: “Vậy thì sau này gặp lại”, nói xong nhảy lên ngựa, thúc roi phi khuất.
 
✥ Chương 03 ✥


Sương mù chưa tan, thậm chí ở giữa hồ lại càng lúc càng dày hơn, dày đến mức chẳng nhìn rõ đám lá sen phía đằng xa bên cạnh cây cầu cửu khúc[1] nữa.



[1] Cửu khúc kiều là loại cầu có chín lần gấp khúc, chia thành chín đoạn, bởi theo quan niệm của người Trung Quốc, số chín vừa là số tôn quý vừa là số may mắn.



Lúc Hà Y tìm thấy Mộ Dung Vô Phong, chàng đang ngồi một mình trong đình nhỏ ở giữa hồ thưởng trà. Một lư sưởi đặt ngay cạnh ghế của chàng, củi khô đang cháy phát ra tiếng kêu tí tách, tựa như giúp chàng xua đi không khí ẩm ướt. Trên chân chàng phủ một chiếc chăn lông chồn trắng muốt mềm mại. Trong làn sương mù, nước da trắng bệch cùng bộ y phục cũng một màu trắng phau đang khoác trên người khiến chàng như hòa tan vào sương khói.



Có vẻ như chàng đang đặt toàn bộ tâm tư nghĩ ngợi đến điều gì đó. Đến mức Hà Y đã tới bên cạnh cũng bắt đầu đắn đo xem rốt cuộc có nên quấy rầy chàng không. Thực ra nàng nghĩ mãi không hiểu, một người sao có thể ngồi yên trong một tư thế lâu đến vậy.



Chàng cứ chăm chú nhìn về nơi xa, có vẻ như hoàn toàn không để ý đến Hà Y đã tới đằng sau lưng mình nhưng đến khi Hà Y lại gần chàng đột nhiên cất tiếng: “Sao cô nương lại quay về sớm như thế?”.



Hà Y vốn rất tự tin vào khinh công của mình, nàng là một trong số rất ít người trong thiên hạ có khả năng đi lại mà hoàn toàn không hề phát ra tiếng bước chân. Vậy mà Mộ Dung Vô Phong, một người tàn phế vốn chẳng có chút võ công lại có trực giác đáng sợ như thế.



Hà Y không nhịn được hỏi: “Làm sao ngài biết chắc người sau lưng ngài chính là tôi?”.



Mộ Dung Vô Phong lạnh nhạt đáp: “Tôi có thể cảm giác thấy”.



Hà Y vòng tới trước mặt chàng, với một chiếc ghế rồi ngồi xuống nói: “Tôi có việc tìm ngài”.



Mộ Dung Vô Phong ngẩng đầu nhìn, đợi nàng nói tiếp.



Đúng lúc Hà Y đang định mở miệng chợt thấy một người áo trắng bưng hai bát thuốc đi tới rồi đặt xuống bàn đá. Bát thuốc tỏa lên một mùi đắng chát nồng nồng.



Người áo trắng tuổi khoảng năm mươi, dung mạo thanh thoát, thân hình cao lớn, hẳn lúc còn trai trẻ phải là một trang mỹ nam tử.



Ông ta đặt khay thuốc xuống bàn rồi ghé vào tai Mộ Dung Vô Phong nhỏ giọng nói vài câu, dáng vẻ rất mực cung kính. Mộ Dung Vô Phong gật đầu, nói với Hà Y: “Vị này là Tạ tổng quản, Tạ Đình Vân”.



Hà Y nói: “Rất hân hạnh. Tôi họ Sở, gọi là Sở Hà Y”.
 
Tạ Đình Vân khẽ cười nói: “Tin cô nương một kiếm đánh bại Phi Ngư đường tại hạ vừa được nghe kể. Bội phục vô cùng”. Dáng vẻ của ông ta khi gặp gỡ người khác rất chân thành, không phải loại người dẻo mồm nói lắm. Không đợi Hà Y tiếp tục hàn huyên, ông ta nói tiếp: “Cô nương thong thả ngồi lại, tôi có việc, xin lui trước”.



Mộ Dung Vô Phong thấy ông ta đã đi xa mới nhấc tay, đem toàn bộ số thuốc đổ thẳng xuống hồ.



Hà Y trợn tròn mắt, nhíu chặt mi, kinh ngạc nhìn chàng, nói: “Thuốc này… ngài không uống?”.



Mộ Dung Vô Phong đáp: “Không uống”.



Hà Y nói: “Nếu như bệnh nhân của ngài không chịu uống thuốc, có phải ngài cũng khuyên anh ta đổ thuốc đi?”.



Mộ Dung Vô Phong nói: “Đơn thuốc tôi kê, bọn họ sao dám không uống?”.



Hà Y nói: “Thuốc vừa rồi là do ai kê đơn?”.



Mộ Dung Vô Phong nghĩ một chút rồi đáp: “Tôi”.



Hà Y bật cười. Nàng không sao nghĩ tới, lời nói của một người lại có thể mâu thuẫn đến vậy. Nàng còn đang muốn hỏi lại cho rõ, Mộ Dung Vô Phong lại không muốn tiếp tục nói về mình, bèn đổi chủ đề, nói: “Cô nương vội tìm tôi thế, có phải đã nghe được tin gì không?”.
 
Hà Y đáp: “Tin ngài muốn nghe thì không có. Chỉ nghe được một tin tức liên quan tới chính tôi thôi”.



“Tin gì thế?”.



“Mười ngày nữa tôi sẽ tỉ kiếm với Hạ Hồi ở Phi Diên cốc.”



“Tôi nghe qua rồi”, chàng lãnh đạm nói.



“Ngài nghe rồi?”, nàng ngạc nhiên hỏi.



“Cuối cùng thì cô nương đi hay không đi?”



“Đi.”



“Hình như hôm qua cô nương có nói không muốn đi.”



“Tôi đổi ý rồi.”



“Cô nương nắm chắc phần thắng?”



“Không hề.”



Mộ Dung Vô Phong thong thả rót một chén trà, một hơi uống cạn, không nói câu nào chỉ lạnh lùng nhìn nàng.



Hà Y hỏi: “Ngài trợn mắt nhìn tôi làm gì?”.



Mộ Dung Vô Phong nói: “Cô chớ quên, vụ làm ăn giữa chúng ta đã có ước định trước, việc cô với Hạ Hồi so kiếm là sau này. Cô nên bỏ qua những thứ lằng nhằng khác, chuyên tâm làm việc cho tôi mới đúng”.
 
Hà Y nói: “Ngài nói có lý, chỉ là…”.



Mộ Dung Vô Phong nói: “Cô vẫn muốn đi?”.



Hà Y gật đầu cười khổ: “Ngài đừng quên tôi là một kiếm khách. Ngài là đại phu cho nên việc của ngài là trị bệnh cho người. Tôi là kiếm khách nên việc của tôi là so kiếm. Công việc của chúng ta chính là như thế, kể cả ngài không muốn, người khác vẫn cứ tìm đến ngài”, nàng ngừng một chút rồi nói tiếp: “Đương nhiên tôi không giống ngài. Ngài trời sinh đã là một đại phu, còn tôi thì vừa mới phát hiện ra mình là một kiếm khách”.



Với Hà Y mà nói, tình huống xấu nhất một người gặp phải không gì hơn là bị người khác “phát hiện”. Trên người nàng có quá nhiều thứ mà bản thân nàng vốn cũng chẳng biết, thế mà bị người khác đột nhiên “phát hiện” ra rồi.



Nàng không đợi Mộ Dung Vô Phong đáp lời mà chuyển ngay đề tài, nói: “Liệu tôi có thể tới phòng của mẫu thân ngài ở trước đây xem xét không, có lẽ chúng ta sẽ tìm thấy đầu mối gì ở đó chăng?”.



Mộ Dung Vô Phong nói: “Phòng của bà ở ngay cạnh phòng của tôi, xin hãy theo tôi”.



Hai người đi men theo bức tường hoa tới một cánh cửa màu son ở hành lang bên phải, Mộ Dung Vô Phong đẩy cửa nói: “Mời vào”.



Hà Y tiến vào, thấy trong phòng sạch sẽ gọn gàng như mới, đằng sau tấm bình phong là phòng trong rộng rãi, giữa phòng có đặt một chiếc thái sư ký[2] bằng gỗ tử đàn có lót đệm lông cừu màu hồng đậm. Một bên đặt lò hâm trà, tuy không đốt xạ hương nhưng vẫn có than. Một bên đặt bình hoa mai, hoa lá đều đã khô héo, chỉ còn trơ cành khẳng khiu. Cạnh ghế còn một cái bình lớn bên trong cắm mấy cuộn tranh. Hà Y rút ra một cuộn, lật giở xem, chỉ thấy bên trong vẽ một mỹ nhân, tóc đen vấn cao, trắng trẻo tựa trăng đêm, mắt trong và tĩnh lặng tựa như nước hồ thu, môi đỏ như son. Hà Y đặt cuộn tranh xuống, rồi lại mở thêm sáu cuộn khác, trừ hai cuộn bên trong vẽ sơn thủy và điểu thú[3], còn lại đều là vẽ cùng một vị mỹ nhân, chẳng qua lúc thì là áo khoác hồng ánh bạc, áo lụa mỏng, quần hoa hòe; khi thì áo vàng đỏ, khăn choàng thêu hoa, quần xanh nhạt. Mái tóc cũng vẽ mỗi lúc mỗi khác, hoặc vấn cao, hoặc buông xõa, khi bện tròn. Tư thế thì khi dựa lan can, lúc giỡn nước, lúc lại là cảnh đùa chơi với mèo… có khi lại đang mỉm cười một mình, phong phú muôn vẻ.



[2] Một loại ghế của Trung Quốc.



[3] Tranh sơn thủy (núi sông) và điểu thú (động vật) là hai đề tài truyền thống trong hội họa cổ của Trung Quốc. Như tên gọi tranh sơn thủy chủ yếu họa cảnh sơn thanh thủy tú, núi sông tươi đẹp; tranh điểu thú lấy đề tài là các loại động vật, phổ biến là kê (gà), mã (ngựa), hồ, ưng…
 
Hà Y xem kỹ tất cả rồi cuộn lại cắm trả vào bình, nói: “Người được vẽ trong tranh chính là mẫu thân của ngài?”.



Mộ Dung Vô Phong gật đầu.



Hà Y nói: “Dáng vẻ của bà tựa như rất thanh nhàn”.



Mộ Dung Vô Phong nói: “Đây là hình dáng của bà năm mười bảy tuổi trở về trước. Ngày bà mười bảy tuổi đột nhiên mất tích, trong cốc không thấy đâu nữa”.



Hà Y kinh ngạc nói: “Mất tích?”.



Mộ Dung Vô Phong nói: “Sau này bà cũng không quay trở lại. Không ai biết bà đã đi đâu”.



Hà Y nói: “Ba đông Tam Hiệp đèo thăm thẳm, Vượn hú ba câu lệ ướt y[4]. Tôi nghe nói sâu trong núi vùng này thường có vượn khỉ tới lui, lũ vượn, khỉ này hình như đều đã sống trên trăm năm, đã thành tinh, toàn thân lông trắng, mừng giận thất thường, thích ghẹo mỹ nữ, trông thấy người có chút nhan sắc thì nhất định sẽ cướp đi”.



[4] Lời ca của nhân vật ngư phủ trong Thủy Kinh Chú – Giang Thủy của nhà địa lý, tản văn Lịch Đạo Nguyên (470 – 527) thời Bắc Ngụy (386 – 557), Trung Quốc. (Nguyên văn: Ba Tây Tam Hiệp u hiệp trường, Viên đề/Minh tam thanh lệ triêm thường: Đèo Tam Hiệp phía đông đất Ba thăm thẳm âm u, Vượn kêu ba tiếng người sợ mà khóc ướt đẫm áo)



Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng nói: “Cô muốn nói, phụ thân của tôi là một con vượn?”.



Hà Y cứng lưỡi, nói: “Đâu dám thế. Chỉ có điều, nếu như mẫu thân của ngài không hề quay lại, vậy làm sao ngài tới được đây? Khi mẫu thân ngài rời đi, hình như không phải là đi lấy chồng?”.



Mộ Dung Vô Phong nói: “Nếu như tôi biết thì còn bỏ ngân lượng thuê cô làm gì nữa?”.



Hà Y nói: “Vậy còn chuyện nói mẫu thân ngài do đẻ khó mà qua đời? Nếu như bà ấy đã mất tích, làm sao ngài biết bà ấy do đẻ khó mà mất?”.
 
Mộ Dung Vô Phong nói: “Đây là do ông ngoại tôi kể lại. Ông còn nói, mẫu thân tôi qua đời ở chính căn phòng này, rồi được chôn cất ở sau núi. Lời của ông cũng không thể tin chút nào được”.



Hà Y nói: “Ông ngoại của ngài trước sau gì cũng không hề nói cho ngài biết phụ thân ngài là ai”.



Mộ Dung Vô Phong nói: “Tính tình của ông rất khó chịu, so với tôi chỉ có hơn chứ không có kém. Chẳng qua về việc này có thể chính ông ngoại cũng không biết”.



Hà Y nói: “Bây giờ nhìn lại, vấn đề có vẻ như càng lúc càng nhiều rồi. Tôi xem xét kỹ lưỡng. Có thể mẫu thân ngài vẫn còn tại thế chăng?”.



Mộ Dung Vô Phong đáp: “Tôi không rõ. Chí ít, từ nhỏ tới giờ tôi chưa hề gặp bà. Cô xem xong chưa?”, có vẻ như chàng không muốn ở lại căn phòng này thêm chút nào nữa.



Hà Y nói: “Chưa, tôi còn rất nhiều chuyện chưa hiểu rõ”.



Mộ Dung Vô Phong nói: “Cô không cần hỏi tôi. Bởi những điều tôi biết thực sự rất ít, kể cả có biết đi chăng nữa thì cũng đều không đúng sự thật”.



Hà Y hỏi: “Tôi nghe ngóng được Thính Phong Lâu có một tay tiểu nhị, chuyên kể những câu chuyện vùng này, tôi định tối nay tìm anh ta. Ngài có muốn đi với tôi không? Hay là để tôi đi về rồi kể lại cho ngài?”.
 
Mộ Dung Vô Phong hỏi: “Lúc nào?”.



Hà Y đáp: “Giờ Dậu hai khắc[5]”.



[5] Trung Quốc thời cổ dùng mười hai con giáp để định giờ, giờ Dậu là từ 17 – 19 giờ. Một khắc là mười lăm phút, bốn khắc là một tiếng đồng hồ.



Mộ Dung Vô Phong nói: “Tôi vẫn còn vài bệnh nhân, đúng giờ ấy chúng ta gặp nhau ở Thính Phong lâu”.



Con đường từ Vân Mộng cốc thông đến Thần Nông trấn thì ra rộng dài hơn khá nhiều so với tưởng tượng của Hà Y, phóng ngựa phi nhanh cũng phải nửa giờ mới có thể đi hết. Vừa nghĩ tới việc mười ngày nữa phải so kiếm. Hà Y cảm thấy đầu mình như to ra. Lại còn thêm việc mà Mộ Dung Vô Phong giao phó, có vẻ như càng lúc càng tối tăm mặt mũi, bỗng dưng thấy tâm sự trùng trùng. Con đường thấp thoáng dưới tán rừng rậm, sương mù chưa tan, bốn phía tĩnh mịch chẳng có tiếng người. Mới đi được nửa tuần hương, Hà Y chợt phát hiện phía xa có bóng người. Bóng người ấy đứng bất động giữa đường.



Hà Y dừng ngựa, trông thấy một người áo xám đang trợn trừng mắt nhìn mình. Trên mặt người này có một vết sẹo dài do đao chém.



“Thẩm Bân”, nàng có chút ngạc nhiên kêu lên.



Thẩm Bân nói: “Tôi ở đây đợi cô nương”.



Hà Y nói: “Chẳng lẽ Lưu trại chủ lại có gì sai khiến?”.



Thẩm Bân nói: “Sư huynh tôi nghe xong lời cô nương nói, cảm thấy rất thất vọng”.



Hà Y nói: “Vậy à. Lần này các hạ đến là muốn?”.



Thẩm Bân nói: “Sư huynh không chỉ thất vọng về cô nương, mà còn thất vọng về tôi”.



Hà Y nói: “Cho nên ngài đến là muốn tôi thay đổi ý kiến?”.
 
Thẩm Bân nói: “Từ xưa đến nay tôi chưa bao giờ cầu xin nữ nhân. Nếu như phải cầu xin, đó cũng là chuyện của kiếp sau”.



Hà Y cười nói: “Có khí phách, vậy thì sau này gặp lại thôi”.



Nàng vừa nói hai chữ “gặp lại” đã thấy Thẩm Bân chầm chậm đưa tay tới đốc kiếm. Chữ “thôi” chưa kịp dứt, Thẩm Bân đã rút kiếm ra khỏi vỏ. Tốc độ xuất kiếm rõ ràng nhanh hơn Lưu Côn nhiều. Hà Y nhìn thấy sống kiếm có đường vân màu máu, bên trong càng đỏ đậm hơn. Tay trái Thẩm Bân bắt kiếm quyết, nói: “Rút kiếm của cô ra”.



Hà Y nói: “Võ công của ngài rõ ràng cao hơn lệnh sư huynh, vậy mà cam lòng ở dưới ông ta, thật bội phục, bội phục”.



Thẩm Bân nói: “Trong Giang hồ danh nhân phổ[6] tôi xếp thứ mười hai, sư huynh mười lăm. Con mắt của Phần Trai lão nhân, rốt cuộc vẫn rất công bằng”.



[6] Sách xếp hạng các nhân vật nổi tiếng trong giang hồ.



Hà Y hỏi: “Hạ Hồi xếp thứ mấy?”.



Thẩm Bân đáp: “Không biết. Cuốn sách ấy của Phần Trai lão nhân chỉ xếp thứ tự những người ông ta quen biết và từng gặp mặt. Ông ta chưa từng gặp Hạ Hồi”.



Hà Y nói: “Nếu như ngài muốn so tài, chúng ta tỉ thí một phen cũng chẳng sao”, nàng cũng rút kiếm, vừa dứt lời bỗng nghe thấy một tiếng nói vọng tới: “Lẽ nào cô nương không nhận ra? Hắn ta muốn thăm dò võ công của cô nương, rồi đem điểm yếu về báo cho Hạ Hồi, đảm bảo Hạ Hồi tất thắng”.



Tiếng nói lúc gần lúc xa, khi to khi nhỏ, hai người nhìn bốn phía xung quanh chẳng thấy bóng dáng ai. Hà Y cao giọng đáp: “Cảm ơn ý tốt nhắc nhở, chỉ là bạn hữu đã đến giúp đỡ, sao không ra đây gặp mặt?”.



Tiếng nói ấy cất lên: “Ta đang ở đây”. Tiếng nói đang nhỏ chợt thành to, Hà Y ngẩng đầu nhìn trên cành cao cách mặt đất mấy chục trượng, Hà Y tung người nhảy lên cây, bóng xám ấy lùi lại mấy trượng, theo hướng đông bắc mà đi mất. Hà Y vận khí, phi thân đuổi theo. Tốc độ hai người tương đương, lách qua cây cối um tùm trong rừng, bóng xám kia tựa như có ý dụ nàng vào sâu trong rừng. Hà Y nghĩ ngợi chợt thấy không ổn, vội xoay người quay về, bỗng ngửi thấy mùi máu tanh, định thần nhìn lại, Thẩm Bân đã đầu một nơi thân một nẻo, nằm trong một vũng máu lớn! Hai mắt vẫn còn trợn trừng, dáng vẻ tựa như đang cực kỳ sợ hãi. Hà Y quay đầu nhìn ra xa, bóng xám kia đã mất dạng.



Nàng chợt cảm thấy da đầu tê tê, sợ đến ướt đẫm mồ hôi, sống lưng lạnh toát. Đến cả dũng khí quay lại nhìn xác chết một cái cũng không có.



Đây là lần đầu tiên nàng chứng kiến một người phút trước đang còn sống, phút sau đã bị giết một cách tàn nhẫn như thế. Khinh công của bóng xám kia rõ ràng tương đương với nàng, Hà Y cũng không tin hắn ta có thuật phân thân. Xung quanh nhất định vẫn còn một người nữa ẩn nấp. Mà võ công của người thứ hai này, nhất định cao hơn Thẩm Bân.
 
Vậy mà nàng lại không phát giác được gì. Điều này cho thấy, rõ ràng khinh công của người thứ hai không thể thấp hơn nàng. Nếu hai người này liên thủ…



Nàng nhìn lại con ngựa của mình. Nó không bị kinh hãi chút nào. Rất bình thường đứng ở ven đường ăn cỏ. Trên lưng ngựa là bọc hành lý của nàng, trong bọc có ngân phiếu vài trăm lượng.



Một cơn gió nhè nhẹ ở trong rừng lùa tới. Từ phía cây cối bên trái đường, bỗng có một âm thanh rất nhỏ phát ra. “Vụt” một tiếng, thân hình nàng lao đi, kiếm như chớp giật đâm về phía ấy! Quả nhiên một bóng xám lướt đi mười trượng lui về phía bắc.



Tuy lần này bóng xám cũng dẫn dụ nàng vào sâu trong rừng, nhưng Hà Y không chút do dự đuổi theo. Khi nàng dốc hết sức chạy theo, tốc độ cực nhanh, chẳng bao lâu sau, hai người chỉ còn cách nhau chưa đến mười bước, người áo xám lại tựa như cố tình chậm lại. Hà Y cũng chậm lại theo, trước sau giữ khoảng cách năm bước với hắn ta. Trong rừng là cảnh tranh tối tranh sáng, nàng không thể không đề cao cảnh giác, cẩn thận đề phòng đồng bọn của kẻ áo xám này đột nhiên xuất hiện.



Không đợi nàng nghĩ xong, kẻ áo xám đã vung tay ném một nắm mạt sắt như mưa về phía nàng, trong đám mạt sắt có lẫn một mùi kỳ lạ, trong đó có độc! Hà Y vung kiếm như gió, miễn cưỡng tránh thoát, lại thấy một kẻ áo xám khác vung kiếm xông đến, tạo thành thế liên thủ công kích nàng. Hà Y thầm quyết định, bất kể thế nào bản thân cũng phải tránh kẻ dùng độc kia trước. Tay trái vung ra, dải lụa trắng quấn lấy một cành cây trên đỉnh đầu, mượn lực bay vút lên, một kiếm đâm thẳng tới cổ họng kẻ áo xám.



Trước sau đều là kẻ địch, nàng không thể yếu lòng nữa, xuất ra sát chiêu.



Mà kẻ dùng độc kia lại không hề liên thủ với đồng bọn, ngược lại còn thoái lui về phía rừng cây.



Kẻ áo xám kia, nương theo thế kiếm của Hà Y, lùi một bước dài ba thước, thừa cơ hóa giải lực kiếm của Hà Y rồi vung kiếm đâm trả, chỉ nghe “keng” một tiếng, hai kiếm tóe lửa, hai luồng lực đạo xô nhau, Hà Y chỉ cảm thấy một luồng lực rất lớn men theo sống kiếm truyền đến, chấn động tới mức hổ khẩu[7] tê dại. Kiếm pháp của nàng vốn theo hướng nhẹ nhàng linh hoạt, khéo léo, phải đấu với người có nội lực thâm hậu, về phương diện thể lực mà nói, không tránh khỏi phải ăn quả đắng. Huống chi kiếm pháp của người này lão luyện, tinh thâm, chẳng phải chỉ là một cao thủ bình thường.



[7] Khoảng giữa ngón cái và ngón trỏ gọi là hổ khẩu.
 
Dưới tình huống này, nàng nghĩ tới phương án thích hợp nhất “chạy”. Chạy thật nhanh. Nhưng kiếm của nàng lại chẳng chịu nghe lời, tựa như dây dưa không chịu đi. Chính bởi nàng không thể chịu được việc bản thân vẫn chưa nỗ lực hết sức đã nhận thua. Huống chi trong chuyện này vẫn còn một Thẩm Bân. Bất kể như thế nào, ít nhất cũng phải nghĩ cách làm rõ thân phận thật sự của hung thủ.



Trong lúc suy nghĩ ấy, hai người đã đấu hai mươi chiêu rồi, kiếm pháp của kẻ áo xám càng thêm quyết liệt mà Hà Y thì càng chiến càng quả cảm. Sau ba mươi chiêu, nàng đã phát hiện ra một sơ hở của kẻ áo xám. Nàng xoay người đâm một nhát, đánh thẳng tới cổ tay phải của kẻ áo xám, nhưng kẻ áo xám lại tựa như đã lường trước chiêu này của nàng, hạ thấp người xuống, tay trái đánh ra một chưởng, nhắm thẳng đỉnh đầu nàng, buộc nàng thu kiếm tự vệ. Hà Y vặn eo một cái, nghiêng người tránh thoát trong gang tấc, vung tay, dải lụa trắng cuốn lấy tay trái của hắn ta, thân hình nàng nương theo lực kéo của dải lụa phóng tới sau lưng kẻ áo xám.



Cùng với thân hình còn có kiếm của nàng. Cuối cùng nàng cũng thở phào được một tiếng. Lần này nàng tính toán đúng rồi. Toàn bộ tấm lưng của kẻ áo xám đã như một cánh cửa mở rộng ra cho nàng.



Nhát kiếm này nhắm đâm tới điểm cách tim của hắn ba tấc về bên phải. Ấy là bởi nàng đã dự liệu trước, kẻ áo xám nghe thấy tiếng gió sẽ tránh về bên phải. Sau đó nàng nghe “keng” một tiếng. Thanh kiếm của nàng đã đâm trúng sống kiếm của kẻ áo xám. Hắn nghiễm nhiên không tránh né, lại đoán chính xác nơi kiếm của nàng nhắm tới, đem kiếm làm khiên, vừa khéo bảo vệ bản thân.



Cao thủ giao đấu, quả nhiên chỉ trong gang tấc. Mảy may sai lầm, giá phải trả chính là tính mạng.



Hai kiếm giao nhau, hai người ai nấy đều lùi lại ba thước. Kẻ áo xám đột nhiên lên tiếng: “Ngươi không phải Đường Thập”.
 
Trong rừng đã tối tới mức chỉ còn nhìn thấy hai bóng người.



Hà Y lạnh lùng hừ một tiếng, nói: “Không phải. Chính ngươi giết Thẩm Bân?”.



Kẻ áo xám đáp: “Không hề”.



Hà Y hỏi: “Các hạ là ai?”.



“Tạ Đình Vân.”



“Tạ tổng quản?” Hà Y kinh ngạc: “Tôi là Sở Hà Y, ngài… sao ngài lại ở đây?”.



Kẻ áo xám thoáng động, cũng rất ngạc nhiên, nói: “Là Sở cô nương? Tại hạ và Đường môn có chút thù riêng, đang ở chỗ này giải quyết. Đang giao đấu với Đường Thập, hắn bị thương bỏ chạy”, ông ta ngừng một lát rồi nói tiếp: “Độc của Đường Lục không làm cô nương bị thương chứ?”.



Thì ra là Đường môn. Độc của Đường môn, dính phải một chút coi như mất mạng.



Hà Y bán tín bán nghi nói: “Không sao. Ngài quả đúng là Tạ tổng quản?”.



Người đó cười, nói: “Chúng ta mới rồi còn ở đình giữa hồ gặp mặt, sao cô nương mau quên thế?”.



Quả nhiên là Tạ Đình Vân.
 
Hà Y thầm nhủ trong lòng một tiếng: “Thật xấu hổ”. Giả sử trong hai người có một người võ công kém hơn một chút, há chẳng phải đã thành ma sao? Vân Mộng cốc quả là nơi ngọa hổ tàng long.



Hà Y thở ra một hơi, nói: “Tạ tổng quản sao biết được tôi không phải Đường Thập? Lẽ nào Đường Thập cũng là nữ nhân?”.



Tạ Đình Vân đáp: “Không những là nữ nhân, mà còn là một nữ nhân cực kỳ lợi hại. Cứ theo tính tình của cô ta, trong vòng mười chiêu nhất định sẽ phóng ra ngũ độc thần châm. Mà cô nương sau ba mươi chiêu vẫn không phóng ra ám khí, bởi thế tôi mới đoán có thể không phải là Đường Thập. Có điều tại hạ có may mắn lĩnh giáo ‘Tố Thủy Băng Tiêu’ của cô nương rồi”.



Hà Y nói: “Xin hãy theo tôi”. Nàng dẫn Tạ Đình Vân đến chỗ Thẩm Bân bị giết, lại phát hiện ra thi thể của Thẩm Bân đã biến mất, đến bao hành lý của mình trên lưng ngựa cũng chẳng thấy đâu nữa.



Tạ Đình Vân nói: “Xem ra đến khu rừng này hôm nay không chỉ có một nhóm người. Giết người thu xác tuyệt đối không phải là tác phong của Đường môn”.



Hà Y chau mày nói: “Có lẽ là người của chính phái Nga My làm. Thẩm Bân tới tìm tôi, nhất định có không ít sư huynh đệ biết chuyện. Hoặc giả bọn họ sợ có điều gì ngoài ý muốn nên lén bám theo đến đây, vừa hay thu dọn thi thể”.



“Hy vọng không dẫn tới hiểu lầm gì”, Tạ Đình Vân thở dài một tiếng: “Phái Nga My người đông thế mạnh, nhưng gần đây trên giang hồ lại liên tục chịu nhục…”.



Hà Y lên ngựa, cười khổ nói: “Hiểu lầm giữa tôi với phái Nga My đã chẳng ít. Tôi còn có việc, xin đi trước đây”.



“Cô nương cẩn thận.”



Phong lai tứ diện ngọa đương trung.[8]



[8] Câu cuối cùng trong bài thứ tư của chùm năm bài thơ Mộng Mộ Tạp Thư ngũ thủ (…) của họa gia nổi tiếng đời Thanh – Kim Nông (1687 – 1763) ý tả sự thanh cao thoát tục, nguyên văn:



Âu ba đình ngoại thủy mông mông,



Ký đắc kim thu huề điếu đồng.



Tiêu thụ bạch liên hoa thế giới,



Phong lai tứ diện ngọa đương trung.



(Chim âu bỡn nước ngoài đình,



Thu nay đã nhớ mang theo đồ câu cá.



Đắm mình trong thế giới tràn ngập hoa sen trắng,



Bốn phương gió nổi vẫn nhởn nha nằm giữa.)
 
Ngô Du để chân trần, cuộn mình nằm trên gi.ường nhỏ đan bằng mây đặt trên gác nhỏ. Đôi chân của nàng mềm mại, tinh tế, móng chân sơn màu mận chín.



Mái tóc dài đen tuyền rủ từ gi.ường buông chạm đất.



Trên tóc có vương một vài chiếc lá ngô đồng khô vàng, nhưng nàng chỉ nhìn chúng, lười không đưa tay gỡ xuống.



“Tiểu thư, nên ăn cơm chiều thôi”, Nguyệt Nhi đặt một đĩa bánh sữa, một đĩa bánh mật ong lên chiếc bàn trước gi.ường. Bưng bát canh long nhãn tới trước mặt nàng.



Ngô Du ngồi dậy, uống được hai ngụm rồi đăm đăm nhìn bát canh, ngây người ngơ ngẩn.



“Lại nghĩ ngợi linh tinh rồi”, Nguyệt Nhi than thở: “Tuy đúng là ngài ấy thích ăn long nhãn nhất nhưng tiểu thư có nhìn đắm đuối bát canh ý đến chết cũng chẳng thấy được ngài ấy đâu”.



Vừa nhắc tới chàng, trong lòng Ngô Du nhói đau, cáu gắt: “Em lại nói linh tinh gì thế. Cái gì mà ta với ngài ấy. Em phải đi lấy bệnh án tiên sinh phê cho ta mới đúng”.



Nguyệt Nhi lấy trong người ra một tập giấy, nói: “Chẳng phải đây rồi sao? Nguyệt Nhi có bao giờ dám quên đem theo bảo bối của tiểu thư chứ? Chỉ là bệnh án hôm nay quá nhiều, em sợ tiểu thư xem đến hoa mắt, cho nên chỉ đem một nửa tới thôi”.



Tiện tay rút ra một tờ giấy mai hoa, bên trên có mấy chữ lối tiểu khải ngay ngắn cẩn thân do chính tay nàng viết:



Trẻ nhỏ ho về đêm, đau bụng, mặt xanh xao, ấy là chứng nhiễm lạnh. Một nhánh tỏi, năm phần trầm hương, giã nhuyễn vê thành viên to bằng hạt cải, mỗi lần uống bảy viên, chiêu bằng sữa. Lại thấy, co quắp chân mà ho, dáng vẻ như động kinh, có đổ mồ hôi lạnh. Dùng viên An tức hương. Lại thêm một tiền nghệ, mạt dược, trầm hương mỗi thứ hai tiền lấy ngọn, dùng mật vê thành viên to bằng hạt đỗ, mỗi lần uống một viên, rang câu đằng sắc nước để uống.
 
Quay lại
Top Bottom