- Tham gia
- 26/6/2009
- Bài viết
- 2.855
Có một lúc nào đó, một thiên thần sẽ đến bên ta và bảo rằng ta rất tốt đẹp...
Mọi thứ trở nên thú vị hơn một chút khi tôi nhận làm part-time ở một quán café-guitar. Đó là một chân thu ngân làm việc rất nhẹ nhàng, thù lao cũng ổn, ngày nào cũng được gặp các bạn trẻ xinh tươi và luôn được nghe nhạc miễn phí. Chủ quán sau một tháng đã trở thành người-bạn-già đáng yêu thân thiết của tôi. Ông sôi nổi, trẻ trung và biết mọi thứ trên đời, ông còn có nụ cười tươi trẻ của một thanh niên và khai sáng đầu óc tôi sau mỗi lần nói chuyện. Những bài học cuộc đời chắc phải hàng năm mới học được nhưng tôi có được từ ông chỉ sau những lần trò chuyện một đêm quán vắng khách. Quán nhỏ, các bạn trẻ thường hay đến đây tổ chức sinh nhật, để góp vui, nhân viên quán hay chơi điệu Flamenco. Người-bạn-già của tôi thỉnh thoảng hay dùng đàn riêng của mình độc tấu Scarborough Fair. Đó hẳn là một cây đàn khủng, có dây sắt, rất hợp với đệm hát, thơm mùi gỗ, bao đàn không phải loại bao da bình thường mà bằng nhựa đen long lánh, hấp dẫn đến mê hồn.
Ka là tên gọi thân mật tôi dành cho anh bạn người Nhật, khách quen của chủ quán tôi. Anh chàng chỉ có một style duy nhất: quần bò, áo sơ mi và tay đeo đồng hồ quai da. Ngày trở gió, Ka đến quán với một chiếc áo len mỏng, nụ cười rạng rỡ. Dường như có một vẻ mùa thu hiện lên từ phục trang của anh ấy. Vì Ka là người ngoại quốc, nên anh càng khiến tôi phải để ý tới. Kasube Takeshi là tên đầy đủ của Ka - thật khó để học thuộc, để nhớ và để gọi. A-cái ca-tên của anh ta-là Ka, tôi lẩm nhẩm trong đầu bài đánh vần ngày lớp 1 và có ngay một bài thơ con cóc về cái tên của Ka. Với vẻ ngoài hấp dẫn người khác một cách nhẹ nhàng như thế, Ka thật sự là một cái ca, một cái cốc, một cái ly, hoặc đại loại là một thứ gì đấy có thể đựng được, có chứa nắng. Tôi cười một mình nhưng ra vẻ khoái chí, đầu óc tôi lởn vởn những suy nghĩ củ chuối này để học cách nhớ tên người khác.
Ngày còn nhỏ, có dạo cô bạn gái theo đạo Thiên Chúa Giáo hay kể tôi nghe những câu chuyện về Adam, Eva và trái cấm. Những câu chuyện đó còn vương lại trong tôi rất lâu về sau. Lạy Chúa, vì thế tôi càng chú ý đến những người có “trái cấm’’ nổi rõ. “ Yết hầu” - cái từ mỗi lúc đọc lên tôi đều thấy ghê ghê là tên gọi sinh học của “trái cấm”. Tôi không nhớ rõ nữa, nhưng ngày trước cô bạn đáng yêu của tôi đã từng gọi nó bằng một từ khác bằng cái tên mĩ miều, dễ thương và lãng mạn hơn thế nhiều. Hoặc là để hợp với cái dáng vẻ mùa thu toát lên từ Ka - người có “trái cấm” mà tôi đang rất để ý thì tôi phải lục tung cả kí ức lên để tìm ra một từ thật đáng yêu để thay thế cho “yết hầu”. Ka đang ngồi nhâm nhi ở kia, ở chỗ ngồi cũ cùng chủ quán tôi. Ông dành một sự ưu ái đặc biệt cho vị khách này. Phía Ka ngồi phản sáng, ánh đèn vàng mờ tỏ làm hiện lên những đường nét trên khuôn mặt anh và “trái cấm” đang đưa lên đưa xuống. Tôi đứng nghiêng người, dựa vào thành bàn, chân gõ theo nhịp bản đàn đang chơi và dùng tờ báo che ánh mắt nhìn kín đáo không ngừng tới Ka - cái ca có chứa nắng mùa thu rất đáng yêu kia.
Có một hôm Ka đến và cùng chơi Scarborough Fair với người-bạn-già của tôi. Đó là hôm tôi không thể chớp mắt trước mọi cử chỉ của Ka: những lúc anh nhắm mắt hay cúi mặt xuống, những lúc Ka đưa tay lên, khẽ chạm vào những dây đàn… Đó cũng là hôm tôi quyết định phải làm quen với anh ta. Khi Ka bước ra khỏi quán, như thường lệ, cùng với nụ cười tạm biệt dễ mến, tôi gọi với theo Ka và chìa cho anh namecard của mình. Từ đấy, chúng tôi quen nhau.
Tôi và Ka chưa từng có lần nào cùng nhau ngồi nói chuyện tử tế. Anh hẳn là người bận rộn và tôi cũng thế, cuốn mình vào và buộc phải có trách nhiệm với bài vở và vô số công việc nhạt nhẽo khác. Khi tôi đến quán café để làm việc thì anh lại đến để thư giãn. Khi tôi đang bù đầu với đống sổ sách thì anh đang ngồi trầm ngâm suy nghĩ. Với tôi, giao tiếp với bạn bè qua Y!M và Facebook là chủ yếu. Như thế cũng khá tiện lợi, chúng tôi thể hiện những icon cười-mếu đủ kiểu, rồi bốc phét, tâm sự ủ ê… thức đến mấy giờ cũng được, không cần make-up, không cần cân đối thời gian, không phải mất thời gian chờ đợi, không sợ bụi bặm, tắc đường và giá rẻ… Ka thật sự là một bạn chat tuyệt vời, tếu táo và hóm hỉnh, sử dụng Tiếng Việt rất nhuần nhuyễn và hài hước. Dần dà tôi có thói quen online vào 11h tối, sau khi trở về từ quán café. Ka sẽ buzz và icon cười nhăn nhở, tôi sẽ được cười vỡ bụng trước những câu chuyện kể mãi không hết của Ka, hay chỉ để nhận đường link một bài hát thật hay và duỗi mình nằm nghỉ, chuẩn bị cho hai tiếng tiếp theo phải thật tỉnh táo để hoàn thành một núi bài tập phải nộp vào cuối kì. Một cuộc hẹn với anh chàng này sẽ thật thú vị đây, tôi nghĩ bụng.
Tiết trời mấy hôm nay thật âm u, tôi có cảm tưởng mình đang bị cảm, hoặc nhức đầu, sổ mũi… thật khó chịu. Tôi trở về nhà, đầy mệt mỏi, chán chường, đôi lúc không thể hiểu vì sao. Hai giờ sáng, rốt cuộc tôi đã hoàn tất những bài tập cuối cùng, trong lòng tôi đã cảm thấy khoan khoái, nhẹ nhàng, như mọi người thường nói-trút bỏ được một gánh nặng. Tôi online, gõ vào dòng status những suy nghĩ chán đời mấy tiếng trước “no sweet, much sadness, countless troubles”. Gần ba giờ sáng rồi, mọi người đã đi ngủ hết, ai quan tâm đến cái status kia cơ chứ. Tôi vỗ vào đầu mình cười khẩy, “mày thật sự có vấn đề rồi!”.
Buzz! Ka đang online. “Em ổn chứ?” Tôi có ổn không nhỉ? Tôi có vẻ ổn, hình như là tôi đang ổn, mặc dù mấy tiếng trước thì tôi không ổn chút nào. Tôi ổn vì tôi không đau đớn gì cả, ít nhất là không đau đớn về tình cảm, tình yêu như nhiều người. Tôi cũng không bị xói mòn niềm tin vì bất cứ điều gì. Tôi vừa hoàn thành xong bài tập của môn học mình yêu thích và cuối ngày hôm nay người-bạn-già vừa chỉ cho tôi một bài học thật tuyệt vời. Có chăng là tôi đang thấy thiếu thời gian để đắm chìm vào một cuốn tiểu thuyết nào đó, nhưng ai chả mong mỗi ngày có thêm mấy tiếng nhỉ. Sao thế, tôi có ổn không? Vì Ka hỏi nên lập tức tôi thấy mình không ổn chút nào. Ngày hôm nay với tôi thật quá sức, lúc về đến nhà, đẩy cửa vào phòng thấy mọi thứ quá im lặng và sạch sẽ làm cho tôi có cảm giác lẻ loi. Sống một mình là tự do, nhưng đồng nghĩa với cô độc và cô đơn. Tôi đã đứng lặng trước gương cạnh cửa ra vào rất lâu rồi mới bước tiếp. Tôi mỉm cười mặn đắng trước gương. Phía sau không có ai cả, trong căn phòng rộng lớn này chỉ có tôi đang mỉm cười với chính mình. Tôi thả mình xuống gi.ường, trần nhà trắng toát và quá ư sạch sẽ cũng làm cho trí nghĩ tôi mệt mỏi. Tôi đã tự cho mình một giấc ngủ rất ngắn để rồi mơ chập chờn, tựa như đang nằm trôi trên một con thuyền nhỏ ngập đầy nước rồi chìm ra giữa sông, không hay biết gì nữa. Tôi không ổn, thật sự thế, nhưng tôi không muốn cho Ka biết điều đó. Dẫu sao Ka vẫn chỉ là một người lạ, một người ngoại quốc và có mệt mỏi hay buồn chán gì cũng không nên than thở với họ, Ka có hiểu không nhỉ? Đầu óc tôi đang bị một câu hỏi xã giao của Ka làm rối trí. Uể oải gõ lên bàn phím, tôi dùng icon mặt cười: “Em không sao. Ngày hôm nay em mệt quá, mà, đói nhỉ, hihi…”. Tôi gãi lông mày rồi tự cười mình, sao mình vô duyên đến thế.
Vẫn là icon mặt cười nhăn nhở quen thuộc của Ka, anh gõ Tiếng Việt luôn rất lâu... “Cả tối nay anh đã tự làm bánh trôi nước theo hướng dẫn trong sách và vừa hoàn thành xong cách đây 1h, anh nghĩ nó khá ngon, nếu em muốn, anh có thể mang đến cho em ngay bây giờ…”
Tôi nhìn đồng hồ, “ngay bây giờ” - gã người Nhật thích đùa này, chắc hẳn đang nghĩ tôi sẽ ái ngại và từ chối việc để một anh chàng ngoại quốc mò mẫm trong tiết trời giá rét của Hà Nội lúc 3h sáng để mang đồ ăn đến cho một người bạn bình thường. Hoặc có thể là anh ta tốt bụng đến như thế ấy chứ. Tôi nhấp một ngụm cacao nóng và thở dài, đàn ông họ chỉ nói thế thôi. Thức được đến tận bây giờ, tôi tự khen mình thật giỏi chống chịu, giá như bây giờ được ngủ một mạch đến 3h ngày hôm sau nhỉ.
Buzz! Vẫn là Ka, 5 phút sau. ‘’Đừng ngại, cho tôi địa chỉ, tôi sẽ đến ngay. Chỗ em ở có lẽ không xa chỗ tôi lắm đâu. ‘’
Tôi tròn mắt nhìn vào màn hình, Ka sẽ không đùa đâu. Cũng đã hai tuần rồi hoặc hơn thế, Ka chưa đến café ở quán. Không chần chừ, tôi gõ địa chỉ nhà tôi và hướng dẫn đường đi cho anh.
Ka đến, nhanh hơn tôi tưởng, đi bằng xe máy, một tay lái, một tay kia giữ lấy hộp bánh cho tôi. Không hiểu là tôi sẽ cười thật tươi để chào anh hay rớm nước mắt vì xúc động nữa. Anh bảo lạnh quá, nhưng bảo vẫn phải ôm lấy hộp bánh này, bỏ trong cốp xe sẽ xóc, bánh mất ngon. Tôi ngước nhìn Ka, khuôn mặt đỏ ửng, mũi sụt sịt, cổ quấn cái khăn bông to sụ và lắng nghe giọng Việt Nam trọ trẹ nhưng ngọt ngào như giai điệu Scarborough Fair của anh. Tôi ngắm anh đủ lâu đủ để chân tay Ka lóng ngóng cả lên giữa trời lạnh và quên mất việc phải mời anh vào nhà, uống một cái gì đấy nóng để ấm người. Ka quay xe ra về, dặn tôi ăn đi cho nóng, trong khi tôi vẫn đang mơ màng hạnh phúc và lí nhí cảm ơn.
Chiều nay tôi xin nghỉ làm ca đêm một buổi và đến quán café quen thuộc trên đường về nhà để thư giãn. Đó là một quán café nhỏ, đủ riêng tư, chỉ chơi nhạc không lời, ở trên cao và trông ra một cái hồ rộng. Trời mùa đông, sương trắng giăng phủ khắp mặt hồ lạnh lẽo. Chút sắc vàng cuối cùng đang nối nhau thả mình xuống lòng sông thật yếu ớt. Nước dềnh lên, dập xuống, nhấn chìm những cây con mảnh dẻ bé bỏng bên hồ, còn mặt hồ vẫn lạnh lùng phẳng lặng. Gió luồn qua khung cửa sổ bỏ ngỏ làm bàn tay tôi tê tái. Quàng khăn thật ấm, tôi toan ra về. Vừa ngước mặt lên, là Ka, Ka đang đứng trước mặt tôi. Vẻ hấp dẫn nhẹ nhàng của anh không lần nào không làm tôi choáng ngợp. Từ lần gặp nhau lúc gần sáng đến giờ, chưa bao giờ tôi được ngắm kĩ anh trực diện đến thế. Môi tôi run run và sững sờ không nói nên lời nữa. Thật sự thì, tôi đã có ý định gửi cho Ka video tôi tự quay lại được hôm anh chơi Scarborough Fair và rồi sẽ hẹn anh một hôm đi uống café để cảm ơn cho hộp bánh lúc gần sáng của anh ấy. Lần không hẹn mà gặp này khiến tôi bất ngờ. Vẫn dáng đứng ấy, khuôn mặt anh vẫn sáng ngời đáng yêu, cổ áo sơ mi lộ ra trên chiếc cổ áo len trông thật lịch thiệp. Anh mời tôi đi ăn tối ở một nhà hàng mà anh cho là rất ngon.
''Đi ăn với một người đàn ông…’’, tôi lẩm nhẩm trong đầu, "có sao không nhỉ?", lâu lắm rồi tôi chưa đi ăn ở ngoài và lần cuối cùng là đi với bố. ‘’Chỉ có hai người thôi ư...’’, tôi lại lẩm nhẩm, ‘’đã bao giờ đâu nhỉ...’’. ‘’Bình tĩnh nào…’’, tôi tự nhủ, bạn bè thôi mà. Đi cạnh Ka, trong đầu tôi chìm ngập hình ảnh anh, khuôn mặt hút hồn và giọng nói trọ trẹ, ngập ngừng của anh. Để rồi không hiểu tại sao tôi lại gọi thức uống tráng miệng là café. Ka bụm miệng cười, nheo mắt nhìn tôi, ‘’Sao thế em, café ư, nó sẽ làm giảm vị giác của em đấy, mình còn bao nhiêu món ngon. Nước cam nhé?’’ Tôi gật lấy gật để như một con ngốc.
Rõ ràng là những lúc trò chuyện rôm rả khi chat chit khác hẳn với lúc nói chuyện trực tiếp bên ngoài. Vẻ ngoài tự nhiên của Ka cũng khó cho tôi được cảm giác dễ gần ngay được. Khi khó vào đề một câu chuyện, chúng ta thường mào đầu bằng những chuyện thời tiết vẩn vơ. Ka nói anh đã quen với kiểu thời tiết ẩm ương rất đặc trưng của Hà Nội. Anh yêu lắm lớp sương mù trắng lạnh giá của sáng sớm, thật là lãng mạn biết bao khoảnh khắc giọt mưa rơi tí tách bên mái hiên vào buổi chiều muộn nữa. Bữa ăn tối nhẹ nhàng trôi đi và không biết khả năng lợi khẩu của tôi đã biến đi đâu ngay lúc tôi cần.
Trong lúc ăn, để có chuyện mà nói, Ka nhận xét rằng phụ nữ Việt Nam thật thông minh, đơn cử như cô chủ cửa hàng ăn này mà anh quen. Tôi lật giở thực đơn của nhà hàng này một lần nữa, gần 100 món ăn, đầu bếp nhà hàng này ba đầu sáu tay thật, hoa cả mắt. 100 món ăn - phong phú thật, nhưng chỉ sử dụng chừng nào đấy số nguyên liệu thôi, Ka phân tích. Cái cốt là những món ăn đặc biệt ngon đã được nhà hàng gây ấn tượng trong menu này bằng cách in màu và miêu tả xem nó ngon như thế nào. ‘’Như lúc nãy em chọn Rossini ấy, trong lúc chờ chắc hẳn đã có tí chút tưởng tượng nó hấp dẫn thế nào.’’ - Ka cười và đánh mắt nhìn tôi, muốn khẳng định mình đúng. Rossini… Rossini… món ăn Tây tôi chưa từng ăn bao giờ… ‘’Phi lê bò Úc áp chảo hai mặt, bỏ lò cho đến khi chín tới để đạt được hương vị đậm đà thơm ngọt. Gan ngỗng béo của Pháp rán vàng đều. Cả hai ăn cùng khoai tây chín dầm nhuyễn với kem tươi. Tất cả quyện trong sắc đỏ ngọt ngào của nước sốt mang hương vị rượu vang và lá pennies. Rossini đang chờ để được tan chảy trong miệng bạn’’. Và món ăn này đã nhảy ra khỏi đĩa và tan chảy trong miệng tôi rồi. Tôi vẫn không ngừng lắng nghe Ka nói và thầm thán phục sự tinh tế của anh chàng này.
8h tối, còn quá sớm để kết thúc một lần gặp mặt tuyệt với như hôm nay. Ka mời tôi về nhà. Phòng anh đơn giản, nhẹ nhàng, thanh lịch, treo nhiều tranh mành, nó cho tôi cảm giác mát mẻ và thanh bình. Anh mời tôi một cốc café khi tôi đang ngắm nhìn khung cảnh thành phố về đêm. Lúc này, trong lòng tôi đã bớt đi nhiều ngượng ngập. Tôi ngỏ ý khen khăn phòng tuyệt vời của Ka, anh cười, vẫn nụ cười nhẹ nhàng mỗi lần tôi gặp anh ở quán café. Tôi sẽ phải lòng nụ cười ấy mất!
'’Em không biết nhiều loại cà phê cho lắm, nhưng hình như mùi vị của cốc café này khác với loại café em thường uống.’’
'’Có lẽ em hay dùng café Robusta. Đây là café Abrica. Cả hai loại đều là những loại café phổ biến, nhưng Abrica ưa sống ở những vùng cao hơn, khí hậu mát mẻ nên thơm ngon hơn. Robusta thì lại chống chọi được với những vùng khí hậu ẩm, khô.’’ Ka xoay xoay cốc café của mình trên tay và nói một cách say sưa.
'’Ra thế.’’ Tôi gật gù.
'’Nếu phối trộn cân bằng hai loại café này, giữa tính thanh chua của Abrica và thể chất đậm đà của Robusta thì ta sẽ có một loại café hoàn hảo. Lần sau ghé nhà tôi, tôi sẽ mời em!’’
'’Giống như một cuộc gặp gỡ có duyên!’’. Tôi đá lông nheo với Ka.
'’Tiếng Việt thật là đẹp, có duyên - tôi biết từ này.’’ - Ka cười đắc chí.
Tôi cũng mỉm cười với anh và thoáng mơ mộng về những lần gặp sau thật vui vẻ như thế này. Những ngày tiếp theo trôi qua với nhịp điệu nhẹ nhàng. Công việc part-time của tôi vẫn ổn. Gặp được một người như ông chủ quán của tôi làm tôi có khao khát ngày nào cũng có thể lên danh sách vô vàn điều phải hỏi để được nghe ông nói. Ka vẫn đến quán thường xuyên, mỉm cười nhiều hơn với tôi. Anh đã ngỏ ý sau giờ làm ca chiều nay sẽ đón tôi về.
5h chiều - giờ của tắc đường, xô đẩy và chen chúc. Từng phút trôi qua, tôi thật sự trông chờ giây phút Ka đến. Đã mười, rồi mười lăm, hai mươi phút, có lẽ anh đang đi trên đường. Ba mươi phút rồi, tôi có nên gọi cho anh không, nhưng nhấc điện thoại nghe giữa lúc đường sá đông đúc này cũng thật là nguy hiểm. Gần một tiếng đồng hồ trôi qua, tôi có gọi cho Ka nhưng anh tắt máy. Tôi vẫn liên tục gọi cho Ka ngay sau đó nhưng vô ích. Tôi hơi hoảng hốt, nếu Ka là một chàng trai Việt Nam, tôi sẽ không bất an đến thế. Trời đổ mưa và tôi có cảm giác chiếc điện thoại trên tay tôi nặng như đá. Tôi sẽ thấy gì đây... ngoài màn mưa đang ướt đầm đôi mắt tôi. Có lần Ka đã bảo, khi lo lắng hay sợ sệt, anh sẽ hát. Tôi cố hát, cố cất lên một bài hát nào đó mà ngay lúc đó tôi có thể nhớ để chờ Ka đến, cố chặn lại những suy nghĩ linh tinh dại dột đang ùa đến trong đầu. Tôi cố soạn một tin nhắn cho Ka trong khi hai tay đang run lên,’’Anh đang ở đâu?’’, bàn tay lâu ngày quen nhắn tin với Tiếng Việt không dấu đang cố tìm dấu hỏi luống cuống cả lên.
Cuối cùng thì cơn mưa rào cũng tạnh, cũng là lúc Ka vừa đến. Tôi định òa khóc như một đứa trẻ nhưng trông bộ dạng hớt hải của Ka lúc đó, tôi kìm nước mắt lại. ‘’Anh cố tìm một cái áo mưa đôi màu da cam em thích nhưng tìm mãi không thấy, đường thì đông quá mà điện thoại thì hết pin. Anh xin lỗi, anh rất xin lỗi.’’ - Ka phân trần. Tôi mím chặt môi cố không để nước mắt rớt ra. Nước mưa nhỏ xuống từ mũ bảo hiểm, đầm đìa khuôn mặt anh, chảy đẫm cả cổ áo có ‘’trái cấm’’ đang đưa lên đưa xuống rất nhanh khi nói. Ngay lúc này, tôi tưởng như đã học thuộc được đường nét cơ mặt anh khi chuyển động, rằng khi anh cười thì sẽ như thế này, khi lo lắng thì sẽ thế kia…
Chúng tôi cùng nhau đi hối hả trên đường. Khi lao xuống dốc, tôi như rụng tim, bần thần vì cây sưa trắng mê mải giữa lòng Hà Nội bạc phếch vì mưa bẩn. Tôi níu chặt lấy áo Ka như níu chặt cái cảm xúc đang dâng tràn trong tâm hồn. Trời vẫn đang rất lạnh, áo tôi đã ngấm nhiều giọt nước mưa lúc nãy. Đầu óc tôi lúc này vô cùng mông lung. Chúng tôi ghé vào quán café cũ, nơi hai đứa từng không hẹn mà gặp. Tôi chủ động ngồi gần bên Ka. Anh vẫn bắt đầu câu chuyện bằng những lời kể về thời tiết quen thuộc, giọng Việt Nam trọ trẹ nhưng ấm áp dễ thương.
Vốn thể chất yếu, cơn mưa chiều nay đã làm tôi rất mệt mỏi. Tôi vẫn muốn nghe Ka nói, nhưng không thể. Tôi dựa đầu vào vai anh, mắt nhắm lìm. Anh chắc hẳn đã nói điều gì đó, rất nhiều, trong khi tôi lặng im. Tôi đã thoáng chớp mắt một chút và mơ hồ nghe anh nói về một chuyến đi, một sự bắt buộc, một điều phải làm nào đó… Từ lúc quen Ka, chưa bao giờ tôi hỏi bao giờ anh sẽ quay trở về Nhật Bản hay anh sẽ ở Việt Nam trong bao lâu, sau chuyến công tác dài ngày ở Việt Nam anh sẽ làm gì? Hình như tôi tin Ka rất nhiều, hay bởi anh là bạn thân của người-bạn-già của tôi, nên tôi tin anh cũng tốt như ông vậy. Dẫu sao, sớm thôi, tôi sẽ nói cho anh một vài điều mà tôi đang giấu kín, nó sẽ thật bất ngờ và ngọt ngào, đáng yêu như cây sưa trắng chiều nay tôi bắt gặp vậy.
Đã gần đến ngày Tốt nghiệp, tối nay là lần cuối cùng tôi nghe người-bạn-già của tôi chơi Scarborough Fair ở quán với tư cách là một nhân viên. Ông ấy vẫn luôn lôi cuốn và thu hút mọi ánh nhìn của mọi người lúc chơi đàn. “Không biết cháu và Ka quen nhau được nhiều chưa, nhưng ta thấy anh ta rất mến cháu. Anh ta trông cũng đáng quý đấy chứ nhỉ?”, người-bạn -già của tôi nheo mắt cười.“Tặng cháu cây đàn này, hi vọng sẽ có lúc cháu tự chơi được một bản nhạc, Scarborough Fair chẳng hạn.’’ Ông luôn làm tôi bất ngờ, không bằng việc này thì bằng việc khác. Nói lời cảm ơn với ông thôi, thật sự là không đủ. Ông ôm tôi vào lòng, tôi thấy mình bé lại, bao giờ cũng thế, trước một người đàn ông lớn như vậy. Tôi nhắn tin với Ka rằng đang rất mong ngày mai được gặp anh. Ka chắc hẳn sẽ rất vui, anh sẽ chơi cho tôi nghe một vài bản nhạc mà tôi mê mẩn. Mà không, không chỉ một vài, mà sẽ là rất nhiều, rất nhiều…
Ngay cả đến lúc về đến nhà, tôi vẫn chưa hết bất ngờ với cây đàn mình đang mang sau lưng. Tôi vuốt đi vuốt lại trên cái bao đàn đen nhánh. Cây đàn đã cũ nhưng người-bạn-già của tôi đã nâng niu nó rất cẩn thận. Tôi mở đoạn video hôm trước đã quay Ka chơi Scarborough Fair và tí toáy học theo cách anh phiêu cùng nó. “Tách!” - dây số 4 bị đứt. Tim tôi như thắt lại, tiếng dây đàn đứt như vẳng đi vẳng lại trong căn phòng im lặng. “Tách! Tách! Tách!’’. Đêm đó tôi đã rất khó ngủ.
Tôi hẹn gặp Ka ở quán café quen. Tôi còn phải sửa dây đàn trước khi gặp anh nữa. Tính tổng thời gian từ trường về, tắc đường và đi sửa dây đàn, thế nào tôi cũng bị trễ cuộc hẹn với Ka 30 phút. Tôi không có dự định hoãn cuộc hẹn này sang giờ khác, có thể để anh chờ một chút, nhưng anh sẽ vui và bất ngờ biết làm sao khi tôi mang cây đàn này tới. Khuôn mặt thể hiện sự nóng lòng muốn nhìn thấy tôi ngay lúc đấy chắc hẳn sẽ rất đáng yêu, tôi cười mỉm và ngắm nhìn bầu má đang hồng lên trong gương của mình.
6h tối rồi, nhưng tôi vẫn bị bó chặt trong dòng xe ì ạch tiến qua tiến lại. Tôi nhắn tin bảo Ka cố chờ thêm chút nữa. Phải khó lắm tôi mới luồn lách ra khỏi dòng người này. Trời đang mưa phùn nhè nhẹ, lành lạnh - cái tiết trời đáng yêu của Hà Nội mà Ka đặc biệt yêu. Giờ này có lẽ anh đang ngồi dựa lưng vào tường và xoay xoay cốc café của mình trên tay.
Ánh sáng vàng ấm áp của quán cà phê quen đã hiện ra trước mắt tôi. '’Có người nhờ tôi gửi lại cho chị cái này. Anh ấy tên là Kasube Takeshi.’’
Tôi đứng người, thở hổn hển sau quãng đường đầy khói và mưa bụi vừa qua. Ka hay đùa, chắc hẳn anh đang muốn dành một điều gì đó cho tôi.
'’Anh ấy vừa đi cách đây 15 phút.’’ Anh ấy bận đột xuất ư? Sao anh không gọi để báo cho tôi? Có cái gì đó không ổn, tôi không muốn mường tượng một điều gì đáng buồn như các cuộc chia tay không được gặp mặt nhau trên phim ảnh.
Tôi mở thư của Ka và nước mắt rơi xuống như mưa. “Đêm hôm trước anh đã nói lí do tại sao anh phải đi. Anh xin lỗi, rất xin lỗi nhưng anh không đủ can đảm để nói lời tạm biệt em. Tạm biệt.”
Đêm hôm trước... Đêm hôm trước... anh ấy đã nói điều gì đó, rất nhiều trong đêm hôm trước... Thật sự tôi không đủ bình tĩnh để hình dung chuyện gì đang xảy ra nữa.
Ka đã đi rồi, anh đi thật rồi, tôi hoảng hốt. Nhưng anh chỉ mới đi 15 phút thôi, 15 phút, chắc anh đi chưa xa, tôi có thể đuổi theo, gọi tên anh, nhưng đi hướng nào, anh ở đâu, giữa thành phố mấy triệu con người?
'’Cô ổn chứ?’’- cô phục vụ hỏi tôi ân cần, ánh mắt vồn vã.
''Em ổn chứ?” - trong lòng tôi xoáy lên câu hỏi của Ka tối hôm ấy. Anh đã quàng khăn bông to sụ và mang hộp bánh trôi kì công làm cả buổi tối đến cho tôi. Cô ấy, cô ấy cũng muốn biết tôi có ổn không?
'’Tôi… tôi… ổn. Cảm ơn.’’
Tôi đi ra cửa và quyết định bách bộ về nhà. Nước mắt không ngừng rơi, ướt đẫm cùng mưa suốt cả đường đi. Lúc chiều, vì vội quá, tôi không mang theo áo khoác, mà chỉ mặc mỗi chiếc áo len mỏng và quàng một chiếc khăn dài. Gió mùa đông cuốn xoáy lấy trái tim nhỏ bé yếu ớt của tôi và vẫn luôn hồn nhiên thổi. Cứ thế, tôi bước đi và mưa phùn phả vào mặt tôi lạnh giá. Tôi tự hỏi, từ giờ đến lúc về nhà, cây đàn có thể nặng dần lên không, mưa phùn rơi lấm tấm có thể phủ trắng xóa lên tóc mình như điểm những hạt kim sa lấp lánh không, sự hẫng hụt và trống rỗng trong lòng này có ăn mòn bước chân tôi không?
Giá như lúc này tôi có thể vừa đi trên đường vừa tự chơi Scarborough Fair cho chính tôi nghe…
Are you going to Scarborough Fair?
Parsley, sage, rosemary, and thyme
Remember me to one who lives there
She once was a true love of mine…
Bởi những bản nhạc luôn dở dang, theo cách riêng của nó...
Mọi thứ trở nên thú vị hơn một chút khi tôi nhận làm part-time ở một quán café-guitar. Đó là một chân thu ngân làm việc rất nhẹ nhàng, thù lao cũng ổn, ngày nào cũng được gặp các bạn trẻ xinh tươi và luôn được nghe nhạc miễn phí. Chủ quán sau một tháng đã trở thành người-bạn-già đáng yêu thân thiết của tôi. Ông sôi nổi, trẻ trung và biết mọi thứ trên đời, ông còn có nụ cười tươi trẻ của một thanh niên và khai sáng đầu óc tôi sau mỗi lần nói chuyện. Những bài học cuộc đời chắc phải hàng năm mới học được nhưng tôi có được từ ông chỉ sau những lần trò chuyện một đêm quán vắng khách. Quán nhỏ, các bạn trẻ thường hay đến đây tổ chức sinh nhật, để góp vui, nhân viên quán hay chơi điệu Flamenco. Người-bạn-già của tôi thỉnh thoảng hay dùng đàn riêng của mình độc tấu Scarborough Fair. Đó hẳn là một cây đàn khủng, có dây sắt, rất hợp với đệm hát, thơm mùi gỗ, bao đàn không phải loại bao da bình thường mà bằng nhựa đen long lánh, hấp dẫn đến mê hồn.
Ka là tên gọi thân mật tôi dành cho anh bạn người Nhật, khách quen của chủ quán tôi. Anh chàng chỉ có một style duy nhất: quần bò, áo sơ mi và tay đeo đồng hồ quai da. Ngày trở gió, Ka đến quán với một chiếc áo len mỏng, nụ cười rạng rỡ. Dường như có một vẻ mùa thu hiện lên từ phục trang của anh ấy. Vì Ka là người ngoại quốc, nên anh càng khiến tôi phải để ý tới. Kasube Takeshi là tên đầy đủ của Ka - thật khó để học thuộc, để nhớ và để gọi. A-cái ca-tên của anh ta-là Ka, tôi lẩm nhẩm trong đầu bài đánh vần ngày lớp 1 và có ngay một bài thơ con cóc về cái tên của Ka. Với vẻ ngoài hấp dẫn người khác một cách nhẹ nhàng như thế, Ka thật sự là một cái ca, một cái cốc, một cái ly, hoặc đại loại là một thứ gì đấy có thể đựng được, có chứa nắng. Tôi cười một mình nhưng ra vẻ khoái chí, đầu óc tôi lởn vởn những suy nghĩ củ chuối này để học cách nhớ tên người khác.
Ngày còn nhỏ, có dạo cô bạn gái theo đạo Thiên Chúa Giáo hay kể tôi nghe những câu chuyện về Adam, Eva và trái cấm. Những câu chuyện đó còn vương lại trong tôi rất lâu về sau. Lạy Chúa, vì thế tôi càng chú ý đến những người có “trái cấm’’ nổi rõ. “ Yết hầu” - cái từ mỗi lúc đọc lên tôi đều thấy ghê ghê là tên gọi sinh học của “trái cấm”. Tôi không nhớ rõ nữa, nhưng ngày trước cô bạn đáng yêu của tôi đã từng gọi nó bằng một từ khác bằng cái tên mĩ miều, dễ thương và lãng mạn hơn thế nhiều. Hoặc là để hợp với cái dáng vẻ mùa thu toát lên từ Ka - người có “trái cấm” mà tôi đang rất để ý thì tôi phải lục tung cả kí ức lên để tìm ra một từ thật đáng yêu để thay thế cho “yết hầu”. Ka đang ngồi nhâm nhi ở kia, ở chỗ ngồi cũ cùng chủ quán tôi. Ông dành một sự ưu ái đặc biệt cho vị khách này. Phía Ka ngồi phản sáng, ánh đèn vàng mờ tỏ làm hiện lên những đường nét trên khuôn mặt anh và “trái cấm” đang đưa lên đưa xuống. Tôi đứng nghiêng người, dựa vào thành bàn, chân gõ theo nhịp bản đàn đang chơi và dùng tờ báo che ánh mắt nhìn kín đáo không ngừng tới Ka - cái ca có chứa nắng mùa thu rất đáng yêu kia.
Có một hôm Ka đến và cùng chơi Scarborough Fair với người-bạn-già của tôi. Đó là hôm tôi không thể chớp mắt trước mọi cử chỉ của Ka: những lúc anh nhắm mắt hay cúi mặt xuống, những lúc Ka đưa tay lên, khẽ chạm vào những dây đàn… Đó cũng là hôm tôi quyết định phải làm quen với anh ta. Khi Ka bước ra khỏi quán, như thường lệ, cùng với nụ cười tạm biệt dễ mến, tôi gọi với theo Ka và chìa cho anh namecard của mình. Từ đấy, chúng tôi quen nhau.
Tôi và Ka chưa từng có lần nào cùng nhau ngồi nói chuyện tử tế. Anh hẳn là người bận rộn và tôi cũng thế, cuốn mình vào và buộc phải có trách nhiệm với bài vở và vô số công việc nhạt nhẽo khác. Khi tôi đến quán café để làm việc thì anh lại đến để thư giãn. Khi tôi đang bù đầu với đống sổ sách thì anh đang ngồi trầm ngâm suy nghĩ. Với tôi, giao tiếp với bạn bè qua Y!M và Facebook là chủ yếu. Như thế cũng khá tiện lợi, chúng tôi thể hiện những icon cười-mếu đủ kiểu, rồi bốc phét, tâm sự ủ ê… thức đến mấy giờ cũng được, không cần make-up, không cần cân đối thời gian, không phải mất thời gian chờ đợi, không sợ bụi bặm, tắc đường và giá rẻ… Ka thật sự là một bạn chat tuyệt vời, tếu táo và hóm hỉnh, sử dụng Tiếng Việt rất nhuần nhuyễn và hài hước. Dần dà tôi có thói quen online vào 11h tối, sau khi trở về từ quán café. Ka sẽ buzz và icon cười nhăn nhở, tôi sẽ được cười vỡ bụng trước những câu chuyện kể mãi không hết của Ka, hay chỉ để nhận đường link một bài hát thật hay và duỗi mình nằm nghỉ, chuẩn bị cho hai tiếng tiếp theo phải thật tỉnh táo để hoàn thành một núi bài tập phải nộp vào cuối kì. Một cuộc hẹn với anh chàng này sẽ thật thú vị đây, tôi nghĩ bụng.
Tiết trời mấy hôm nay thật âm u, tôi có cảm tưởng mình đang bị cảm, hoặc nhức đầu, sổ mũi… thật khó chịu. Tôi trở về nhà, đầy mệt mỏi, chán chường, đôi lúc không thể hiểu vì sao. Hai giờ sáng, rốt cuộc tôi đã hoàn tất những bài tập cuối cùng, trong lòng tôi đã cảm thấy khoan khoái, nhẹ nhàng, như mọi người thường nói-trút bỏ được một gánh nặng. Tôi online, gõ vào dòng status những suy nghĩ chán đời mấy tiếng trước “no sweet, much sadness, countless troubles”. Gần ba giờ sáng rồi, mọi người đã đi ngủ hết, ai quan tâm đến cái status kia cơ chứ. Tôi vỗ vào đầu mình cười khẩy, “mày thật sự có vấn đề rồi!”.
Buzz! Ka đang online. “Em ổn chứ?” Tôi có ổn không nhỉ? Tôi có vẻ ổn, hình như là tôi đang ổn, mặc dù mấy tiếng trước thì tôi không ổn chút nào. Tôi ổn vì tôi không đau đớn gì cả, ít nhất là không đau đớn về tình cảm, tình yêu như nhiều người. Tôi cũng không bị xói mòn niềm tin vì bất cứ điều gì. Tôi vừa hoàn thành xong bài tập của môn học mình yêu thích và cuối ngày hôm nay người-bạn-già vừa chỉ cho tôi một bài học thật tuyệt vời. Có chăng là tôi đang thấy thiếu thời gian để đắm chìm vào một cuốn tiểu thuyết nào đó, nhưng ai chả mong mỗi ngày có thêm mấy tiếng nhỉ. Sao thế, tôi có ổn không? Vì Ka hỏi nên lập tức tôi thấy mình không ổn chút nào. Ngày hôm nay với tôi thật quá sức, lúc về đến nhà, đẩy cửa vào phòng thấy mọi thứ quá im lặng và sạch sẽ làm cho tôi có cảm giác lẻ loi. Sống một mình là tự do, nhưng đồng nghĩa với cô độc và cô đơn. Tôi đã đứng lặng trước gương cạnh cửa ra vào rất lâu rồi mới bước tiếp. Tôi mỉm cười mặn đắng trước gương. Phía sau không có ai cả, trong căn phòng rộng lớn này chỉ có tôi đang mỉm cười với chính mình. Tôi thả mình xuống gi.ường, trần nhà trắng toát và quá ư sạch sẽ cũng làm cho trí nghĩ tôi mệt mỏi. Tôi đã tự cho mình một giấc ngủ rất ngắn để rồi mơ chập chờn, tựa như đang nằm trôi trên một con thuyền nhỏ ngập đầy nước rồi chìm ra giữa sông, không hay biết gì nữa. Tôi không ổn, thật sự thế, nhưng tôi không muốn cho Ka biết điều đó. Dẫu sao Ka vẫn chỉ là một người lạ, một người ngoại quốc và có mệt mỏi hay buồn chán gì cũng không nên than thở với họ, Ka có hiểu không nhỉ? Đầu óc tôi đang bị một câu hỏi xã giao của Ka làm rối trí. Uể oải gõ lên bàn phím, tôi dùng icon mặt cười: “Em không sao. Ngày hôm nay em mệt quá, mà, đói nhỉ, hihi…”. Tôi gãi lông mày rồi tự cười mình, sao mình vô duyên đến thế.
Vẫn là icon mặt cười nhăn nhở quen thuộc của Ka, anh gõ Tiếng Việt luôn rất lâu... “Cả tối nay anh đã tự làm bánh trôi nước theo hướng dẫn trong sách và vừa hoàn thành xong cách đây 1h, anh nghĩ nó khá ngon, nếu em muốn, anh có thể mang đến cho em ngay bây giờ…”
Tôi nhìn đồng hồ, “ngay bây giờ” - gã người Nhật thích đùa này, chắc hẳn đang nghĩ tôi sẽ ái ngại và từ chối việc để một anh chàng ngoại quốc mò mẫm trong tiết trời giá rét của Hà Nội lúc 3h sáng để mang đồ ăn đến cho một người bạn bình thường. Hoặc có thể là anh ta tốt bụng đến như thế ấy chứ. Tôi nhấp một ngụm cacao nóng và thở dài, đàn ông họ chỉ nói thế thôi. Thức được đến tận bây giờ, tôi tự khen mình thật giỏi chống chịu, giá như bây giờ được ngủ một mạch đến 3h ngày hôm sau nhỉ.
Buzz! Vẫn là Ka, 5 phút sau. ‘’Đừng ngại, cho tôi địa chỉ, tôi sẽ đến ngay. Chỗ em ở có lẽ không xa chỗ tôi lắm đâu. ‘’
Tôi tròn mắt nhìn vào màn hình, Ka sẽ không đùa đâu. Cũng đã hai tuần rồi hoặc hơn thế, Ka chưa đến café ở quán. Không chần chừ, tôi gõ địa chỉ nhà tôi và hướng dẫn đường đi cho anh.
Ka đến, nhanh hơn tôi tưởng, đi bằng xe máy, một tay lái, một tay kia giữ lấy hộp bánh cho tôi. Không hiểu là tôi sẽ cười thật tươi để chào anh hay rớm nước mắt vì xúc động nữa. Anh bảo lạnh quá, nhưng bảo vẫn phải ôm lấy hộp bánh này, bỏ trong cốp xe sẽ xóc, bánh mất ngon. Tôi ngước nhìn Ka, khuôn mặt đỏ ửng, mũi sụt sịt, cổ quấn cái khăn bông to sụ và lắng nghe giọng Việt Nam trọ trẹ nhưng ngọt ngào như giai điệu Scarborough Fair của anh. Tôi ngắm anh đủ lâu đủ để chân tay Ka lóng ngóng cả lên giữa trời lạnh và quên mất việc phải mời anh vào nhà, uống một cái gì đấy nóng để ấm người. Ka quay xe ra về, dặn tôi ăn đi cho nóng, trong khi tôi vẫn đang mơ màng hạnh phúc và lí nhí cảm ơn.
Chiều nay tôi xin nghỉ làm ca đêm một buổi và đến quán café quen thuộc trên đường về nhà để thư giãn. Đó là một quán café nhỏ, đủ riêng tư, chỉ chơi nhạc không lời, ở trên cao và trông ra một cái hồ rộng. Trời mùa đông, sương trắng giăng phủ khắp mặt hồ lạnh lẽo. Chút sắc vàng cuối cùng đang nối nhau thả mình xuống lòng sông thật yếu ớt. Nước dềnh lên, dập xuống, nhấn chìm những cây con mảnh dẻ bé bỏng bên hồ, còn mặt hồ vẫn lạnh lùng phẳng lặng. Gió luồn qua khung cửa sổ bỏ ngỏ làm bàn tay tôi tê tái. Quàng khăn thật ấm, tôi toan ra về. Vừa ngước mặt lên, là Ka, Ka đang đứng trước mặt tôi. Vẻ hấp dẫn nhẹ nhàng của anh không lần nào không làm tôi choáng ngợp. Từ lần gặp nhau lúc gần sáng đến giờ, chưa bao giờ tôi được ngắm kĩ anh trực diện đến thế. Môi tôi run run và sững sờ không nói nên lời nữa. Thật sự thì, tôi đã có ý định gửi cho Ka video tôi tự quay lại được hôm anh chơi Scarborough Fair và rồi sẽ hẹn anh một hôm đi uống café để cảm ơn cho hộp bánh lúc gần sáng của anh ấy. Lần không hẹn mà gặp này khiến tôi bất ngờ. Vẫn dáng đứng ấy, khuôn mặt anh vẫn sáng ngời đáng yêu, cổ áo sơ mi lộ ra trên chiếc cổ áo len trông thật lịch thiệp. Anh mời tôi đi ăn tối ở một nhà hàng mà anh cho là rất ngon.
''Đi ăn với một người đàn ông…’’, tôi lẩm nhẩm trong đầu, "có sao không nhỉ?", lâu lắm rồi tôi chưa đi ăn ở ngoài và lần cuối cùng là đi với bố. ‘’Chỉ có hai người thôi ư...’’, tôi lại lẩm nhẩm, ‘’đã bao giờ đâu nhỉ...’’. ‘’Bình tĩnh nào…’’, tôi tự nhủ, bạn bè thôi mà. Đi cạnh Ka, trong đầu tôi chìm ngập hình ảnh anh, khuôn mặt hút hồn và giọng nói trọ trẹ, ngập ngừng của anh. Để rồi không hiểu tại sao tôi lại gọi thức uống tráng miệng là café. Ka bụm miệng cười, nheo mắt nhìn tôi, ‘’Sao thế em, café ư, nó sẽ làm giảm vị giác của em đấy, mình còn bao nhiêu món ngon. Nước cam nhé?’’ Tôi gật lấy gật để như một con ngốc.
Rõ ràng là những lúc trò chuyện rôm rả khi chat chit khác hẳn với lúc nói chuyện trực tiếp bên ngoài. Vẻ ngoài tự nhiên của Ka cũng khó cho tôi được cảm giác dễ gần ngay được. Khi khó vào đề một câu chuyện, chúng ta thường mào đầu bằng những chuyện thời tiết vẩn vơ. Ka nói anh đã quen với kiểu thời tiết ẩm ương rất đặc trưng của Hà Nội. Anh yêu lắm lớp sương mù trắng lạnh giá của sáng sớm, thật là lãng mạn biết bao khoảnh khắc giọt mưa rơi tí tách bên mái hiên vào buổi chiều muộn nữa. Bữa ăn tối nhẹ nhàng trôi đi và không biết khả năng lợi khẩu của tôi đã biến đi đâu ngay lúc tôi cần.
8h tối, còn quá sớm để kết thúc một lần gặp mặt tuyệt với như hôm nay. Ka mời tôi về nhà. Phòng anh đơn giản, nhẹ nhàng, thanh lịch, treo nhiều tranh mành, nó cho tôi cảm giác mát mẻ và thanh bình. Anh mời tôi một cốc café khi tôi đang ngắm nhìn khung cảnh thành phố về đêm. Lúc này, trong lòng tôi đã bớt đi nhiều ngượng ngập. Tôi ngỏ ý khen khăn phòng tuyệt vời của Ka, anh cười, vẫn nụ cười nhẹ nhàng mỗi lần tôi gặp anh ở quán café. Tôi sẽ phải lòng nụ cười ấy mất!
'’Em không biết nhiều loại cà phê cho lắm, nhưng hình như mùi vị của cốc café này khác với loại café em thường uống.’’
'’Có lẽ em hay dùng café Robusta. Đây là café Abrica. Cả hai loại đều là những loại café phổ biến, nhưng Abrica ưa sống ở những vùng cao hơn, khí hậu mát mẻ nên thơm ngon hơn. Robusta thì lại chống chọi được với những vùng khí hậu ẩm, khô.’’ Ka xoay xoay cốc café của mình trên tay và nói một cách say sưa.
'’Ra thế.’’ Tôi gật gù.
'’Nếu phối trộn cân bằng hai loại café này, giữa tính thanh chua của Abrica và thể chất đậm đà của Robusta thì ta sẽ có một loại café hoàn hảo. Lần sau ghé nhà tôi, tôi sẽ mời em!’’
'’Giống như một cuộc gặp gỡ có duyên!’’. Tôi đá lông nheo với Ka.
'’Tiếng Việt thật là đẹp, có duyên - tôi biết từ này.’’ - Ka cười đắc chí.
Tôi cũng mỉm cười với anh và thoáng mơ mộng về những lần gặp sau thật vui vẻ như thế này. Những ngày tiếp theo trôi qua với nhịp điệu nhẹ nhàng. Công việc part-time của tôi vẫn ổn. Gặp được một người như ông chủ quán của tôi làm tôi có khao khát ngày nào cũng có thể lên danh sách vô vàn điều phải hỏi để được nghe ông nói. Ka vẫn đến quán thường xuyên, mỉm cười nhiều hơn với tôi. Anh đã ngỏ ý sau giờ làm ca chiều nay sẽ đón tôi về.
5h chiều - giờ của tắc đường, xô đẩy và chen chúc. Từng phút trôi qua, tôi thật sự trông chờ giây phút Ka đến. Đã mười, rồi mười lăm, hai mươi phút, có lẽ anh đang đi trên đường. Ba mươi phút rồi, tôi có nên gọi cho anh không, nhưng nhấc điện thoại nghe giữa lúc đường sá đông đúc này cũng thật là nguy hiểm. Gần một tiếng đồng hồ trôi qua, tôi có gọi cho Ka nhưng anh tắt máy. Tôi vẫn liên tục gọi cho Ka ngay sau đó nhưng vô ích. Tôi hơi hoảng hốt, nếu Ka là một chàng trai Việt Nam, tôi sẽ không bất an đến thế. Trời đổ mưa và tôi có cảm giác chiếc điện thoại trên tay tôi nặng như đá. Tôi sẽ thấy gì đây... ngoài màn mưa đang ướt đầm đôi mắt tôi. Có lần Ka đã bảo, khi lo lắng hay sợ sệt, anh sẽ hát. Tôi cố hát, cố cất lên một bài hát nào đó mà ngay lúc đó tôi có thể nhớ để chờ Ka đến, cố chặn lại những suy nghĩ linh tinh dại dột đang ùa đến trong đầu. Tôi cố soạn một tin nhắn cho Ka trong khi hai tay đang run lên,’’Anh đang ở đâu?’’, bàn tay lâu ngày quen nhắn tin với Tiếng Việt không dấu đang cố tìm dấu hỏi luống cuống cả lên.
Cuối cùng thì cơn mưa rào cũng tạnh, cũng là lúc Ka vừa đến. Tôi định òa khóc như một đứa trẻ nhưng trông bộ dạng hớt hải của Ka lúc đó, tôi kìm nước mắt lại. ‘’Anh cố tìm một cái áo mưa đôi màu da cam em thích nhưng tìm mãi không thấy, đường thì đông quá mà điện thoại thì hết pin. Anh xin lỗi, anh rất xin lỗi.’’ - Ka phân trần. Tôi mím chặt môi cố không để nước mắt rớt ra. Nước mưa nhỏ xuống từ mũ bảo hiểm, đầm đìa khuôn mặt anh, chảy đẫm cả cổ áo có ‘’trái cấm’’ đang đưa lên đưa xuống rất nhanh khi nói. Ngay lúc này, tôi tưởng như đã học thuộc được đường nét cơ mặt anh khi chuyển động, rằng khi anh cười thì sẽ như thế này, khi lo lắng thì sẽ thế kia…
Chúng tôi cùng nhau đi hối hả trên đường. Khi lao xuống dốc, tôi như rụng tim, bần thần vì cây sưa trắng mê mải giữa lòng Hà Nội bạc phếch vì mưa bẩn. Tôi níu chặt lấy áo Ka như níu chặt cái cảm xúc đang dâng tràn trong tâm hồn. Trời vẫn đang rất lạnh, áo tôi đã ngấm nhiều giọt nước mưa lúc nãy. Đầu óc tôi lúc này vô cùng mông lung. Chúng tôi ghé vào quán café cũ, nơi hai đứa từng không hẹn mà gặp. Tôi chủ động ngồi gần bên Ka. Anh vẫn bắt đầu câu chuyện bằng những lời kể về thời tiết quen thuộc, giọng Việt Nam trọ trẹ nhưng ấm áp dễ thương.
Vốn thể chất yếu, cơn mưa chiều nay đã làm tôi rất mệt mỏi. Tôi vẫn muốn nghe Ka nói, nhưng không thể. Tôi dựa đầu vào vai anh, mắt nhắm lìm. Anh chắc hẳn đã nói điều gì đó, rất nhiều, trong khi tôi lặng im. Tôi đã thoáng chớp mắt một chút và mơ hồ nghe anh nói về một chuyến đi, một sự bắt buộc, một điều phải làm nào đó… Từ lúc quen Ka, chưa bao giờ tôi hỏi bao giờ anh sẽ quay trở về Nhật Bản hay anh sẽ ở Việt Nam trong bao lâu, sau chuyến công tác dài ngày ở Việt Nam anh sẽ làm gì? Hình như tôi tin Ka rất nhiều, hay bởi anh là bạn thân của người-bạn-già của tôi, nên tôi tin anh cũng tốt như ông vậy. Dẫu sao, sớm thôi, tôi sẽ nói cho anh một vài điều mà tôi đang giấu kín, nó sẽ thật bất ngờ và ngọt ngào, đáng yêu như cây sưa trắng chiều nay tôi bắt gặp vậy.
Đã gần đến ngày Tốt nghiệp, tối nay là lần cuối cùng tôi nghe người-bạn-già của tôi chơi Scarborough Fair ở quán với tư cách là một nhân viên. Ông ấy vẫn luôn lôi cuốn và thu hút mọi ánh nhìn của mọi người lúc chơi đàn. “Không biết cháu và Ka quen nhau được nhiều chưa, nhưng ta thấy anh ta rất mến cháu. Anh ta trông cũng đáng quý đấy chứ nhỉ?”, người-bạn -già của tôi nheo mắt cười.“Tặng cháu cây đàn này, hi vọng sẽ có lúc cháu tự chơi được một bản nhạc, Scarborough Fair chẳng hạn.’’ Ông luôn làm tôi bất ngờ, không bằng việc này thì bằng việc khác. Nói lời cảm ơn với ông thôi, thật sự là không đủ. Ông ôm tôi vào lòng, tôi thấy mình bé lại, bao giờ cũng thế, trước một người đàn ông lớn như vậy. Tôi nhắn tin với Ka rằng đang rất mong ngày mai được gặp anh. Ka chắc hẳn sẽ rất vui, anh sẽ chơi cho tôi nghe một vài bản nhạc mà tôi mê mẩn. Mà không, không chỉ một vài, mà sẽ là rất nhiều, rất nhiều…
Ngay cả đến lúc về đến nhà, tôi vẫn chưa hết bất ngờ với cây đàn mình đang mang sau lưng. Tôi vuốt đi vuốt lại trên cái bao đàn đen nhánh. Cây đàn đã cũ nhưng người-bạn-già của tôi đã nâng niu nó rất cẩn thận. Tôi mở đoạn video hôm trước đã quay Ka chơi Scarborough Fair và tí toáy học theo cách anh phiêu cùng nó. “Tách!” - dây số 4 bị đứt. Tim tôi như thắt lại, tiếng dây đàn đứt như vẳng đi vẳng lại trong căn phòng im lặng. “Tách! Tách! Tách!’’. Đêm đó tôi đã rất khó ngủ.
Tôi hẹn gặp Ka ở quán café quen. Tôi còn phải sửa dây đàn trước khi gặp anh nữa. Tính tổng thời gian từ trường về, tắc đường và đi sửa dây đàn, thế nào tôi cũng bị trễ cuộc hẹn với Ka 30 phút. Tôi không có dự định hoãn cuộc hẹn này sang giờ khác, có thể để anh chờ một chút, nhưng anh sẽ vui và bất ngờ biết làm sao khi tôi mang cây đàn này tới. Khuôn mặt thể hiện sự nóng lòng muốn nhìn thấy tôi ngay lúc đấy chắc hẳn sẽ rất đáng yêu, tôi cười mỉm và ngắm nhìn bầu má đang hồng lên trong gương của mình.
6h tối rồi, nhưng tôi vẫn bị bó chặt trong dòng xe ì ạch tiến qua tiến lại. Tôi nhắn tin bảo Ka cố chờ thêm chút nữa. Phải khó lắm tôi mới luồn lách ra khỏi dòng người này. Trời đang mưa phùn nhè nhẹ, lành lạnh - cái tiết trời đáng yêu của Hà Nội mà Ka đặc biệt yêu. Giờ này có lẽ anh đang ngồi dựa lưng vào tường và xoay xoay cốc café của mình trên tay.
Ánh sáng vàng ấm áp của quán cà phê quen đã hiện ra trước mắt tôi. '’Có người nhờ tôi gửi lại cho chị cái này. Anh ấy tên là Kasube Takeshi.’’
Tôi đứng người, thở hổn hển sau quãng đường đầy khói và mưa bụi vừa qua. Ka hay đùa, chắc hẳn anh đang muốn dành một điều gì đó cho tôi.
'’Anh ấy vừa đi cách đây 15 phút.’’ Anh ấy bận đột xuất ư? Sao anh không gọi để báo cho tôi? Có cái gì đó không ổn, tôi không muốn mường tượng một điều gì đáng buồn như các cuộc chia tay không được gặp mặt nhau trên phim ảnh.
Tôi mở thư của Ka và nước mắt rơi xuống như mưa. “Đêm hôm trước anh đã nói lí do tại sao anh phải đi. Anh xin lỗi, rất xin lỗi nhưng anh không đủ can đảm để nói lời tạm biệt em. Tạm biệt.”
Đêm hôm trước... Đêm hôm trước... anh ấy đã nói điều gì đó, rất nhiều trong đêm hôm trước... Thật sự tôi không đủ bình tĩnh để hình dung chuyện gì đang xảy ra nữa.
Ka đã đi rồi, anh đi thật rồi, tôi hoảng hốt. Nhưng anh chỉ mới đi 15 phút thôi, 15 phút, chắc anh đi chưa xa, tôi có thể đuổi theo, gọi tên anh, nhưng đi hướng nào, anh ở đâu, giữa thành phố mấy triệu con người?
'’Cô ổn chứ?’’- cô phục vụ hỏi tôi ân cần, ánh mắt vồn vã.
''Em ổn chứ?” - trong lòng tôi xoáy lên câu hỏi của Ka tối hôm ấy. Anh đã quàng khăn bông to sụ và mang hộp bánh trôi kì công làm cả buổi tối đến cho tôi. Cô ấy, cô ấy cũng muốn biết tôi có ổn không?
'’Tôi… tôi… ổn. Cảm ơn.’’
Tôi đi ra cửa và quyết định bách bộ về nhà. Nước mắt không ngừng rơi, ướt đẫm cùng mưa suốt cả đường đi. Lúc chiều, vì vội quá, tôi không mang theo áo khoác, mà chỉ mặc mỗi chiếc áo len mỏng và quàng một chiếc khăn dài. Gió mùa đông cuốn xoáy lấy trái tim nhỏ bé yếu ớt của tôi và vẫn luôn hồn nhiên thổi. Cứ thế, tôi bước đi và mưa phùn phả vào mặt tôi lạnh giá. Tôi tự hỏi, từ giờ đến lúc về nhà, cây đàn có thể nặng dần lên không, mưa phùn rơi lấm tấm có thể phủ trắng xóa lên tóc mình như điểm những hạt kim sa lấp lánh không, sự hẫng hụt và trống rỗng trong lòng này có ăn mòn bước chân tôi không?
Giá như lúc này tôi có thể vừa đi trên đường vừa tự chơi Scarborough Fair cho chính tôi nghe…
Are you going to Scarborough Fair?
Parsley, sage, rosemary, and thyme
Remember me to one who lives there
She once was a true love of mine…
Bởi những bản nhạc luôn dở dang, theo cách riêng của nó...