Ruồi trâu - E.L.Voinítsơ

- Vâng, già lắm. Nhưng không sao, anh cứ đeo tóc và râu giả vào là được. Còn những đặc điểm khác của lão ta thì anh giống như hệt. Lão ta là một lính phục viên chân khập khiễng, mặt cũng có vết sẹo như anh, quốc tịch Tây Ban Nha nếu anh gặp người Tây Ban Nha thì anh cũng có thể nói chuyện được.
- Vậy tôi sẽ gặp Đô-mi-ki-nô ở chỗ nào ?
- Chúng tôi sẽ chỉ cho anh một ngã tư đường trên bản đồ. Tới đây anh cứ nhập vào đoàn khách thập phương nói với họ rằng anh bị lạc trong núi. Khi tới thành phố thì anh cứ nhập bọn đi theo tới khu họp chợ trước cửa lâu đài của hồng y giáo chủ.
- Thế nghĩa là mặc ..mặc dù ông ta là thánh ông ta vẫn ở trong...trong lâu đài ư ?
- Ông ta ở một chái, chỗ còn lại thì làm nhà thương... Anh đợi tới khi Hồng y giáo chủ bước ra ban phép lành cho khách thập phương thì Đô-mi-ni-ki-nô cũng sẽ mang giỏ tới, anh ta hỏi " Thưa bố, bố có phải là khách thập phương không?"
Anh sẽ trả lời " lão là một kẻ không may có tội." Khi anh ta đặt giỏ xuống đất và lấy ống tay áo chùi mặt thì anh ta đưa sáu đồng scu-đô ra mua một tràng hạt.
- Và sẽ bàn ngay với anh ta về địa điểm gặp nhau để nói chuyện à ?
- Phải, trong khi mọi người đang dồn mắt cả về phía Hông y giáo chủ thì anh ta sẽ có thừa thời giờ để bảo cho anh biết chỗ gặp. Kế hoạch của chúng tôi như thế đấy, nhưng nếu anh không đồng ý thì chúng tôi có thể báo trước cho Đô-mi-ni-ki-nô biết và đổi kế hoạch khác.
- Không, kế hoạch ấy hay lắm. Nhưng các anh phải làm sao xoay được bộ râu tóc giả cho thật giống thì mới được.
- Thưa bố, bố có phải là khách thập phương không ?
Lúc ấy Ruồi trâu đang ngồi trên bậc thềm lâu đài của Hồng y giáo chủ. Anh ngẩng đầu lên với mái tóc bạc bù xù, giả giọng khàn khàn run run và lơ lớ nói lên mật hiệu định trước. Đô-mi-ni-ki-nô trật chiếc dây da ra khỏi vai, đặt giỏ tràng hạt và thánh giá xuống bậc thềm. Đám đông những người nông dân và khách thập phương ngồi kín cả bậc thềm và đứng đầy khu họp chợ không ai để ý cả, nhưng hai người vẫn cứ thận trọng, thỉnh thoảng mới nói một vài câu. Đô-mi-ni-ki-nô nói tiếng địa phương, còn Ruồi trâu thì nói tiếng Ý pha tiếng Tây Ban Nha.
Bỗng những người đứng ở cửa lâu đài kêu lên :
- Đức Hồng y đến ! Đức Hồng y đến ! Tránh ra cho người đi ! Ruồi trâu và Đô-mi-ni-ki-nô đứng dậy.
- Này, bố cầm lấy.
Nói đoạn, Đô-mi-ni-ki-nô giúi vào tay Ruồi trâu một chiếc ảnh thánh nhỏ gói giấy.
- Khi bố tới La mã thì xin bố cầu nguyện cho con.
Ruồi trâu nhét bức ảnh vào ngực và quay lại nhìn Hồng y giáo chủ. Mặc chiếc áo choàng màu tím nhạt, đội mũ đỏ tía, ông ta đứng trên bậc cao nhất để giơ tay ban phước cho mọi người. Mông-ta-ne-li từ từ bước xuống bậc thềm, khách thập phương xúm xít ung quanh để được hôn tay Hồng y giáo chủ. Nhiều người quỳ xuống, ghé môi hôn tà áo.
- Các con, cha cầu cho các con được bằng an !...
Nghe giọng nói trong như bạc ấy, Ruồi trâu bỗng cúi gục đầu làm cho những mớ tóc bạc xoã xuống mặt. Nhìn chiếc gậy run rẩy trong tay Ruồi trâu, Đô-mi-ni-ki-nô tấm tắc khen thầm" Thật là một tay đóng kịch có tài!"
Một người đàn bà đứng gần đó, cúi xuống nhấc đứa con lên khỏi bậc thềm rồi nói :
- Trếch-cô, đến gần đức Hồng y đi con. Người sẽ ban phước lành cho con như của chúa Giê-su ngày xưa đã chúc phước lành cho các trẻ em.
 
Ruồi trâu tiến lên một bước rồi dừng lại. Cuộc đời sao mà tàn nhẫn quá. Khách thập phương và những người dân miền núi tất cả những người ngoài cuộc ấy có thể tiến lại gần cha và nói chuyện với cha...cha sẽ xoa đầu các em bé..Và có lẽ cha sẽ gọi chú bé nông dân đó là "Carino" như cha đã từng gọi anh hồi nào.
Ruồi trâu lại ngồi thụp xuống bậc thềm và quay mặt đi để tránh nhìn cảnh tượng đó. Nếu có thể chui vào một xó nào, nút tai lại để không nghe thấy gì nữa thì tốt biết bao ! Thật là quá sức chịu đựng của con người... Ở gần, gần đến nỗi chỉ việc chìa tay ra là có thể mó vào bàn tay thân yêu đó...
Một giọng dịu dàng cất lên :
- Ông bạn ơi, có vào trong nhà nghỉ một chút không? Ông rét run lập cập rồi.
Trái tim Ruồi trâu như ngừng đập. Trong giây phút ấy, anh không thấy gì cả, chỉ thấy máu trào mạnh mẽ tưởng chừng như xé tan lồng ngực, từng đợt, từng đợt, máu nóng rừng rực chạy khắp toàn thân. Ruồi trâu ngẩng đầu. Và nhìn thấy mặt anh, đôi mắt nghiêm nghị và sâu xa của người đang đứng cúi xuống bên anh bỗng càng trở nên hiền dịu với một niềm trắc ẩn thiêng liêng.
Mông-ta-ne-li nói với đám đông :
- Các con hãy lui ra một chút để cha nói chuyện với ông cụ này.
Khách thập phương xì xào, từ từ lui ra. Còn Ruồi trâu thì ngồi im, môi mím chặt, mắt nhìn thẳng xuống đất. Anh cảm thấy tay Mông-ta-ne-li nhẹ nhàng đặt lên vai mình.
- Ông bạn có gì đau khổ lắm phải không ? Tôi có thể giúp ông một phần nào được chăng ?
Ruồi trâu lắc đầu im lặng.
- Ông là khách thập phương à ?
- Tôi là kẻ không may có tội.
Câu hỏi của Mông-ta-ne-li ngẫu nhiên trùng với mật hiệu làm cho Ruồi trâu dường như sắp chết đuối vớ được cọc. Anh trả như một cái máy. Tay Mông-ta-ne-li dịu dàng đặt lên vai anh làm cho anh cảm thấy d.a thịt nóng bỏng lên, toàn thân anh run lẩy bẩy.
Hồng y giáo chủ lại càng cúi sát xuống mặt anh :
- Có lẽ ông bạn muốn nói chuyện riêng với tôi chăng ? Nếu tôi có thể giúp ông bạn được phần nào.
Lần đầu tiên Ruồi trâu vững vàng nhìn thẳng vào mắt Mông-ta-ne-li . Bình tĩnh trở lại, anh nói :
- Không, không ai có thể giúp tôi được cả.
Một viên cảnh sát lách vào .
- Xin đức Hồng y tha tội để cho con được nói vài lời. Lão già này điên đấy. Lão ta lành lấm và có đủ giấy tờ nên chúng con vẫn để cho lão yên thân. Lão ta phạm tội nặng bị khổ sai. Bây giờ lão ta đang ăn năn để chuộc tội.
Ruồi trâu chậm chạp gạy đầu nhắc lại :
- Phạm tội nặng lắm.
Mông-ta-ne-li nói :
- Cám ơn đại uý. Xin đại uý lui ra xa một chút... Ông bạn của tôi ơi, người nào đã biết thật bụng ăn năn thì tôi đều có thể giúp được. Chiều nay ông bạn đến chỗ tôi nói chuyện có được không ?
- Đức cha liệu có thể tiếp chuyện một người phạm tội giết con đẻ của mình không ?
Câu hỏi có vẻ khiêu khích đó làm cho Mông-ta-ne-li giật mình, rúm người lại như bị một cơn gió lạnh.
Ông ta trịnh trọng trả lời :
- Dù cho ông bạn đã phạm tội gì, Đức chúa lời cũng không cho phép tôi buộc tội ông. Trước mặt Chúa, tất cả chúng ta đều là kẻ có tội và lòng chính trực của chúng ta cũng chỉ là một giẻ rách bẩn thỉu mà thôi. Nếu ông bạn đến cùng tôi thì tôi sẽ chịu lấy ông bạn như tôi hiện đang cầu nguyện Đức chúa lời chịu lấy tôi trong ngày ra khỏi thế gian.
 
Với một cử chỉ tha thiết đột nhiên, Ruồi trâu giơ hai tay ra phía trước nói :
- Đức Hồng y hãy nghe tôi ! Và bà con bổn đạo cũng hãy nghe tôi ! Nếu một kẻ đã giết chính đứa con đẻ duy nhất của mình, nếu một kẻ đã dùng sự gian dối mà lừa gạt để đưa con mình vào cạm bẫy thì liệu kẻ đó có hy vọng gì sống ở trên trái đất hoặc nơi thiên đàng được chăng ? Tôi đã nhận tội với Đức chúa lời và người thế gian. Tôi đã từng chịu phạt của người đời và người đời đã để cho tôi được yên lành. Nhưng đến bao giờ Chúa mới phán truyền cho tôi rằng như thế đã đủ rồi ? Ai có thể làm phúc cho tôi để linh hồn tôi khỏi bị Chúa nguyền rủa? Ơn tha thứ nào rửa sạch được tội lỗi của tôi ?
Một phút im lặng chết chóc nặng nề trôi qua. Mọi người nhìn Mông-ta-ne-li và thấy cây thánh giá phập phồng trên ngực ông ta. Cuối cùng Mông-ta-ne-li ngước mắt nhìn lên, tay run rẩy làm phép cho mọi người .
- Đức Chúa lời lòng lành vô cùng ! Ông bạn hãy đặt gánh nặng linh hồn của mình trước bàn thờ Chúa vì có lời Kinh thánh rằng :"Không nên chối bỏ một linh hồn sa ngã đã biết ăn năn tội lỗi".
Hồng y giáo chủ quay đi và bước dọc theo sân chợ. Cứ đi một lúc ông ta lại dừng lại nói chuyện với dân chúng hoặc bế trẻ em lên tay.
Ngay chiều hôm đó, theo đúng lời chỉ dẫn ghi trong giấy gói ảnh. Ruồi trâu đến nơi gặp gỡ đã định. Đó là nhà một người y sĩ địa phương, Đảng viên tích cực của nhóm "Thắt lưng đỏ". Số lớn những người công tác bí mật đều đã tập hợp đông đủ. Khi Ruồi trâu tới, mọi người hân hoan đón chào anh làm cho anh càng thấy rõ uy tín của mình như một lãnh tụ.
Người y sĩ nói :
- Chúng tôi rất vui mừng lại được gặp anh. Nhưng khi nào anh rời khỏi chốn này thì chúng tôi lại càng vui hơn vì việc anh tới đây thật là mạo hiểm hết sức. Tôi phản đối kế hoạch đó. Anh có dám chắc sáng nay anh chưa bị lọt vào mắt một con chuột cảnh sát nào ở chợ không ?
- Tất nhiên họ trông... trông thấy, nhưng họ không nhận ra. Đô-mi-ni-ki-nô bố trí mọi việc rất... rất tài tình. Anh ấy đâu? Sao không thấy anh ấy ở đây ?
- Anh ấy sắp đến bây giờ. Thế nghĩa là trôi chảy cả chứ ? Hồng y giáo chủ ban phép lành cho anh chưa ?
Tiếng Đô-mi-ni-ki-nô bỗng vang lên ngoài cửa :
- Ban phép lành à ? Cái đó có nghĩa lí gì đâu ! Ri-va-ret, anh thật nhiều phép lạ hơn cả mình Thánh trong lễ Nôen. Anh còn có tài gì nữa không ?
Ruồi trâu uể oải hỏi :
- Thế nghĩa là thế nào ?
Ruồi trâu ngả mình trên đi văng hút xì gà. Anh còn bận đồ khách thập phương, nhưng bộ râu giả đã bỏ sang bên cạnh.
- Tôi không ngờ anh lại là một kịch sĩ có tài như vậy. Trong đời tôi chưa hề thấy ai đóng kịch giỏi đến thế ! Anh làm cho ngài Hồng y cảm động đến rớt nước mắt.
- RI-va-rét, chuyện thế nào, anh kể cho chúng tôi nghe với !
Ruồi trâu nhún vai. Tối hôm ấy anh rất ít nói . Mọi người thấy hỏi mãi cũng nhàm bèn quay sang bắt chuyện với Đô-mi-ni-ki-nô. Khi nghe Đô-mi-ni-ki-nô kể lại quang cảnh ban sáng trên sân chợ thì một công nhân trẻ tuổi không hoà theo tiếng cười chung. Anh nói :
- Anh đóng khéo thật đấy, nhưng làm như thế có lợi ích gì không ?
Ruồi trâu trả lời :
- Có lợi nhiều chứ. Bây giờ thì tôi có thể đi lại tự do, muốn làm gì tuỳ ý và không bị kẻ nào ngờ vực cả, dù một nam phụ não ấu nào. Ngày mai khắp thành phố sẽ biết câu chuyện xảy ra hôm nay. Và mỗi khi gặp tôi mật thám sẽ nghĩ rằng : "À, đấy là lão già điên ĐI-ê-gô đã ăn năn tội lỗi ở sân chợ hôm nào !" Như thế có lợi lắm chứ !
- Tất nhiên là như thế. Nhưng dù sao làm khác một chút thì cũng vẫn hơn. Không cần lừa dối Hồng y giáo chủ. Ông ta là người tốt chơi khăm ông ta làm gì .
Ruồi trâu uể oải tán thành :
- Tôi cũng nghĩ ông ta là người đứng đắn
Đô-mi-ni-ki-nô nói :
- Xan-đơ-rô, cậu nói vớ vẩn lắm ! Ở đây chúng ta chẳng có ai cần đền Hồng y giáo chủ làm gì. Nếu Mông-ta-ne-li nhậm một chức tại La mã như người ta từng đề nghị với ngài thì đố Ri-va-ret lừa được ngài.
- Ông ta không nhậm chức như thế chỉ là vì ông ta không muốn bỏ công việc ở đay.
- Cũng có thể là tại ông ta không muốn bị tay sai của Lan-bơ-ru-tri-ni đầu độc. Bọn chúng phản đối ông ta về một số vấn đề, điều đó rõ như ban ngày. Nếu một Hồng y giáo chủ, nhất là một tay có uy tính như Mông-ta-ne-li lại cứ thích ở nơi khỉ ho cò gáy thì có ngày chúng ta cũng có thể đoán biết tại sao chứ, phải không Ri-va-ret ?
Ruồi trâu phà ra những cuộn khói tròn. Anh ngẩng đầu nhìn theo nhưng cuộn khói đó và nói :
- Có lẽ tại trái tim ông ta đã bị tan vỡ mà ông ta đang ăn năn tội lỗi đấy. Thôi, ta bàn việc đi !
Những người tham dự cuộc họp bắt đầu thảo luận tỉ mỉ các kế hoạch chuyên chở và cất giấu vũ khí. Ruồi trâu chăm chú nghe. Trong khi mọi người tranh luận nếu có những tin không chính xác hoặc những phương án đề ra có chỗ nào hớ hênh thì anh lại đưa ra những nhận xét sắc bén. Khi mọi người phát biểu ý kiến xong Ruồi trâu liền đưa ra một số đề nghị cụ thể. Phần lớn đề nghị ấy được thông qua không cần tranh cãi. Thế là buổi họp kết thúc. Hội nghị quyết định chừng nào Ruồi trâu chưa yên ổn về tới Tô-scan thì tránh họp ban đêm để cảnh sát khỏi chú ý.
Chưng hơn mười giờ, mọi người giải tán. Chỉ còn một tiểu ban ba người gồm người y sĩ, Ruồi trâu và Đô-mi-ni-ki-nô ở lại để bàn nốt một vài vấn đề đặc biệt.
Một cuộc tranh luận sôi nổi lại kéo dài. Cuối cùng Đô-mi-ni-ki-nô nhìn đồng hồ nói :
- Mười một giờ rưỡi rồi. Giải tán đi thôi, kẻo lại vấp phải lính tuần tra ban đêm.
- Mấy giờ đội tuần tra đi tua ?
- Độ mười hai giờ. Tôi định về tới nhà trước khi lính tuần tra đến. Thôi, chào Giooc đa-ni nhé!...
Có về cùng không, Ri-va-ret ?
- Không, đi từng người một an toàn hơn. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu ?
- Ở Bô-lô-ne-dơ, tôi cũng chưa biết đến đó nên trá hình thế nào . Nhưng mật hiệu anh đã rõ rồi. Sáng mai anh đi à ?
Ruồi trâu ra trước gương đeo râu tóc giả .
 
- Sáng mai tôi sẽ nhập vào đám khách thập phương. Đến ngày kia, tôi sẽ giả ốm nằm trong lều người chăn cừu. Ở đó tôi vượt thẳng qua núi và sẽ đến Bô-lô-ne-dơ trước anh. Chào anh !
Khi Ruồi trâu bước tới cửa vựa thóc thì đồng hồ gác chuông nhà thờ điểm mười hai tiếng. Vựa thóc bỏ không này nay đã trở thành nơi ngủ trọ của khách thập phương. Những thân hình kỳ dị nằm ngổn ngang khắp sàn nhà, tiếng ngáy vang lên tứ phía. Không khí ở đây hết sức ngột ngạt, nặng nề. Ruồi trâu giật mình ghê rợn, lùi lại. Nằm đây thì không tài nào ngủ được ! Tốt nhất là đi lang thang vài giờ rồi sẽ sà vào một mái lều hoặc một đống cỏ khô nào sạch sẽ và yên tĩnh hơn.
Đêm hôm ấy trời thật là đẹp, trăng tròn, toả ánh sáng rực rỡ trên bầu trời tím sẫm. Ruồi trâu đi lang thang qua các phố, và cay đắng nhớ lại cảnh ban sáng. Bây giờ anh thấy hơi tiếc tại sao đồng ý gặp Đô-mi-ni-ki-nô ở Bơ-ri-xi-ghê-la. Nếu nói ngay từ đầu rằng chỗ đó là nguy hiểm và chọn chỗ khác thì cả anh lẫn Mông-ta-ne-li đều thoát khỏi trò hề ghê tởm và kỳ cục ấy.
"Cha" khác trước nhiều quá ! Nhưng giọng nói vẫn như xưa, như hồi cha gọi mình là "Carino"...
Bỗng một chiếc đèn ló của lính tuần tra hiện ra đầu phố trước mặt. Ruồi trâu rẽ vào một ngõ hẻm ngoắt ngoéo. Đi được mấy bước thì tới sân nhà thờ, mé bên trái lâu đài giám mục. Ánh trăng tràn ngập trên sân nhà thờ trống trải. Ruồi trâu nhận thấy cửa ngách nhà thờ còn hé mở. CHắc người coi nhà thờ quên không đóng cửa . Đêm khuya thế này còn có ai vào đây làm gì nữa ! Bây giờ vào đó mà lăn kềnh trên ghế có lẽ tốt hơn là trở về vựa thóc ngột ngạt ấy. Đến sáng thì sẽ chuồn ra khỏi nhà thờ trước khi người coi nhà thờ tới. Và dù có bắt gặp anh chắc ông ta cũng chỉ nghĩ rằng lão già Đi-ê-gô điên rồ lại cầu nguyện ở xó xỉnh nào trong nhà thờ và đã bị nhốt suốt đêm qua.
Ruồi trâu đứng trước cửa nghe ngóng giây lát rồi khập khiễng rón rén bước vào, cố gắng hết sức yên lặng. Ánh trăng tràn vào cửa sổ, in thành vệt rộng trên sàn đá hoa. Nhất là ngôi điện thờ phía trong nhà thờ thì còn rõ lắm, rõ như ban ngày. Dưới bàn thờ, Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li đang quỳ gối một mình, đầu trần, chắp tay cầu khấn.
Ruồi trâu lần vào bóng tối. Có nên rời ngay khỏi chốn này khi Mông-ta-ne-li chưa kịp trông thấy không ? Làm như thế là sáng suốt nhất và có lẽ nhân đạo nhất đấy.
Nhưng nếu bước lại gần một chút thôi thì cũng đã sao đâu ? Lại gần một chút và nhìn mặt cha một lần nữa; bây giờ chung quanh có ai khác đâu mà phải giở trò đóng kịch xấu xa như ban sáng nữa. Có lẽ đây là dịp cuối cùng. Cũng không cần để cha nhìn thấy anh. Bước lại gần nào có ai hay, nhìn cha một lần này nữa thôi rồi ta trở về với công việc.
Nép mình trong bóng tối sau hàng cột, Ruồi trâu nhẹ nhàng bước tới chấn song nhà thờ. Anh ngừng lại giây lát bên cửa ngách, cách bàn thờ không xa. Bóng tối từ trên ghế Hồng y giáo chủ toả xuống quá rộng, trùm khắp người anh. Ruồi trâu ngồi trong bóng tối, nín thở :
- Con ơi, Lạy Chúa ! Khốn khổ cho con tôi !
Trong tiếng thì thầm dứt đoạn ấy chứa biết bao nhiêu là tuyệt vọng làm cho Ruồi trâu bất giác rùng mình. Tiếp theo là tiếng nức nở âm thầm não ruột, không nước mắt. Mông-ta-ne-li bóp chặt hai tay, như một người thể chất quá đau đớn.
Ruồi trâu không ngờ cha đau khổ đến thế. Nhiều lần anh tự tin một cách cay đắng mà nhủ mình rằng "Cần gì phải lo chuyện đó ! Vết thương của ông ta đã lành từ lâu rồi !". Và giờ đây sau bao năm trường, vết thương ấy vẫn còn sờ sờ ra đó và nó vẫn đang rỉ máu. Chữa vết thương ấy bây giờ dễ biết chừng nào ! Chỉ cần giơ tay lên, bước lại gần mà nói" Thưa cha, con đây !"
Nhưng Giê-ma còn cả một mớ tóc bạc. Trời, ước gì anh có thể tha thứ được ! Ước gì anh có thể xoá nhoà tất cả dĩ vãng, lãng quên hết người thuỷ thủ say khướt, cái đồn điền mía và gánh xiếc rong kia ! Đau khổ nào sánh được đau khổ này ! Muốn tha thứ đấy, cố tha thứ đấy, nhưng lại biết rằng tha thứ cũng chẳng ích gì, anh không dám và không thể nào tha thứ được.
Cuối cùng, Mông-ta-ne-li đứng dậy, làm dấu thánh giá và bước ra khỏi bàn thờ. Ruồi trâu nép hẳn vào bóng tối, sợ rằng Hồng y giáo chủ sẽ trông thấy mình nghe thấy tiếng đập của trái tim mình. Bỗng anh nhẹ nhàng thở hắt ra : Mông-ta-ne-li chỉ đi sát ngay bên cạnh, tà áo tím chạm vào má anh nhưng Mông-ta-ne-li không hề trong thấy anh.
Không trông thấy...Ồ , tại sao thế ! Tại sao thế ! Đó là cơ hội cuối cùng, là khoảnh khắc quý giá mà sao ta không biết nắm lấy. Ruồi trâu nhỏm dậy, tiến lên, bước ra chỗ sáng :
- Cha !
Tiếng nói của chính mình vang lên rồi lắng dần dưới những vòm nhà thờ cao vút làm cho Ruồi trâu kinh hoàng vô hạn.
Anh lùi lại vào bóng tối. Mông-ta-ne-li dừng bước bên cột, đứng im nghe ngóng, trố mắt nhìn khủng khiếp và ghê rợn. Im lặng kéo dài đến nỗi Ruồi trâu không thể lường được : có lẽ chỉ trong nháy mắt thôi mà sao dài vô tận. Nhưng rồi anh bừng tỉnh lại. Mông-ta-ne-li loạng choạng như muốn ngã, đôi môi chỉ run lên mấp máy.
Cuối cùng một tiếng thều thào bật ra :
- Ác-tơ... phải, nước sâu lắm...
Ruồi trâu tiến lên :
 
- Đức Hồng y tha lỗi, con tưởng là một vị giáo sĩ ở nhà thờ này.
- À, ông khách thập phương đấy phải không ?
Mông-ta-ne-li đã trấn tĩnh. Nhưng nhìn thấy ánh sáng ngọc xanh vẫn không ngừng lóng lánh trên tay. Ruồi trâu biết rằng ông ta vẫn còn run.
- Cần gì đây, ông bạn ? Đêm khuya rồi, nhà thờ đã đóng cửa từ lâu.
- Đức Hồng y lượng thứ cho. Cửa còn mở nên con định vào nguyện ngắm. Thấy Người đang cầm trí nguyện con tưởng là một vị giáo sĩ nào và định xin Người làm phép ảnh này cho.
Ruồi trâu giơ chiếc thánh giá bằng thiếc nhỏ xíu mà sáng nay Đô-mi-ni-ki-nô đã bán cho anh. Mông-ta-ne-li cầm lấy, bước vào đặt lên bàn thờ trong chốc lát.
Ông nói :
- Hỡi con, con hãy nhận lấy và nguyện cầu cho linh hồn con được yên lành , vì Chúa chúng ta nhân từ và lòng lành vô cùng. Con hãy dến La mã, xin Đức Thánh cha là sứ thần của Đức Chúa ban phước lành tha vạ cho con. Nguyện cho con được bằng an.
Ruồi trâu cúi đầu nhận lễ, rồi từ từ bước ra. Mông-ta-ne-li đứng cạnh bàn thờ, một tay nắm lấy chấn song nói theo :
- Khoan hãy đi. Khi nào ông bạn chịu Mình Thánh ở La mã thì xin ông bạn hay nguyện cầu cho một trái tim đầy đau thương, một linh hồn nặng chĩu cánh tay của Chúa.
Tiếng nói chứa đầy nước mắt của Hồng y giáo chủ làm cho ý chí quyết tâm của Ruồi trâu có phần xao xuyến. Chỉ suýt nữa thì anh đã tự phản bội mình. Nhưng hình ảnh đám xiếc rong lại hiện ra trong trí anh.
- Con là ai ? Là một thằng hủi, là một kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Liệu Chúa có nghe lời nguyện xin của một kẻ như thế hay không ? Nếu con làm được như đức cha, nếu con có thể hiến dâng cho bàn thờ Chúa một cuộc sống thiêng liêng, một linh hồn trong trắng không gợn chút nhơ nhuốc thầm kín...
Mông-ta-ne-li bỗng ngắt lời :
- Cha chỉ có thể hiến dâng trước bàn thờ Chúa trái tim tan nát này mà thôi.
Vài ngày sau Ruồi trâu lên xe ngựa từ Pis-tôi-a trở về Phơ-lo-răng-xơ. Trước hết anh đi thẳng tới nhà Giê-ma, nhưng không găp. Anh viết giấy để lại hẹn sáng hôm sau sẽ đến và trở về thầm mong Di-ta sẽ không đường đột xông vào phòng làm việc của mình như lần trước. Nếu tối nay anh lại phải nghe một lô những lời trách móc ghen tuông của nàng thì nó sẽ tác động tới thần kinh của anh như tiếng rũa răng ken két của bác sĩ nha khoa vậy.
Người con gái ra mở cửa.
- Chào Bi-an-ca. Hôm nay bà Rê-mi có đến không ?
Bi-an-ca trố mắt nhìn anh :
- Bà Rê-mi ? Bà ấy về rồi hả ông ?
Ruồi trâu cau mày dừng bước trước ngưỡng cửa.
- Chị nói thế nghĩa làm sao ?
- Khi ông đi thì bà ấy lập tức đi theo ngay. Không đem theo đồ đạc gì. Bà ấy cũng không hề báo cho biết là đi đâu.
- Đi theo tôi ? Cách đây hai tuần à ?
- Thưa ông, vâng. Bà ấy bỏ bữa bãi tất cả đồ đạc rồi đi ngay hôm đó. Bà con láng giềng bàn tán rất nhiều về chuyện này.
Ruồi trâu quay đi không nói một lời. Anh vội đảo qua một ngõ hẻm rồi bước nhanh tới nhà Di-ta. Trong phòng, mọi vật đều như cũ. Các quà tặng của anh vẫn ở nguyên các chỗ cũ. Không một bức thư, không một mẩu giấy nhỏ nào của Di-ta.
Bi-an-ca thò đầu vào cửa nói :
- Thưa ông, có một bà cụ đến.
Ruồi trâu quay phắt lại :
- Chị muốn gì ? Tại sao chị cứ bám sát tôi như thế ?
- Có một bà cụ muốn gặp ông.
- Bà ta cần hỏi gì ? Chị nói tôi không...không thể tiếp bà ấy được bây giờ. Tôi bận.
- Dạ thưa ông, từ khi ông đi hầu như chiều nào bà cụ cũng đến và cứ hỏi bao giờ ông về.
- Chị ra hỏi xem bà ta muốn gì... Thôi được, để tôi ra vậy.
Bà cụ đang ngồi ở phòng khách, ăn mặc rất tiều tuỵ mặt ngăm đen và răn rúm như chiếc bị, đầu quấn một chiếc khăn sặc sỡ. Bà đứng dậy tiến về phía anh chăm chú nhìn anh từ đầu đến chân với đôi mắt đen nhánh rồi nói :
- Vậy té ra ông là cái ông khập khiễng ấy à ? Di-ta Rê-ni nhờ tôi báo tin cho ông.
Ruồi trâu mời bà cụ vào phòng làm việc rồi bước theo sau, đóng cửa lại để Bi-an-ca khỏi nghe chuyện :
- Mời cụ ngồi. Cụ là..là ai ?
- Tôi là ai điều đó không quan hệ gì tới ông, tôi đến để nói cho ông biết Di-ta Rê-ni đã bỏ ông để đi với con trai tôi rồi.
- ĐI với con...con trai cụ à ?
- Thưa ông, vâng ! Ông đã vớ được người yêu như cô ta mà không biết đường giữ, để người khác cướp mất thì đó là lỗi ở ông không thể trách ai khác được. Trong mạch máu con tôi là máu chứ không phải sữa loãng . Nó là người Rô-ma (người tsi-gan tự tôn mình là dòng dõi dân tộc Rô-ma).
- À, té ra bà cụ là người tsi-gan ! Thế nghĩa là Di-ta đã trở về với bà con dòng giống của mình rồi ?
Bà cụ nhìn anh , vừa ngạc nhiên vừa khinh bỉ : Những người thiên chúa giáo này lạ thật, đàn ông gì mà người ta mắng cũng không biết đường giận !
- Ông là cái thá gì mà cô ta cứ phải bám lấy ông ? Con gái chúng tôi có đứa hiếu kỳ, có đứa vì tiền tài phải tìm đến hạng người như ông. Nhưng máu mủ Rô-ma bao giờ chẳng trở về với dòng giống Rô-ma.
Ruồi trâu vẫn giữ nét mặt lạnh lùng và bình tĩnh :
- Cô ta đi với cả đoàn hay là chỉ đi với con cụ thôi ?
Bà già cười rộ :
- Ông lại định đuổi theo lôi cô ta về chăng ? Không kịp đâu, ông ạ ! Ông phải tính cho sớm chứ !
- Không, tôi chỉ muốn biết đầu đuôi câu chuyện nếu cụ không muốn nói thì thôi.
Bà cụ nhún vai. Một người nhu nhược đến thế thì còn hoài hơi mắng mỏ làm gì nữa !
- Vâng, thì đầu đuôi như thế này : Ngay hôm ông bỏ Di-ta ra đi thì cô ta gặp con tôi ngoài phố. Di-ta nói chuyện với con tôi bằng tiếng Rô-ma. Mặc dù cô ấy ăn mặc bảnh bao nhưng con tôi cũng nhận ngay ra là người đồng tộc. Di-ta đẹp, nó liền yêu ngay, yêu mê mệt như mọi người đàn ông khác của chúng tôi. Rồi nó đưa Di-ta về nhập bọn. Con bé khốn khổ ấy kể cho chúng tôi nghe mọi nỗi niềm tâm sự. Cô ta khóc nức nở làm cho chúng tôi cứ trông thấy là tan nát cả cõi lòng. Chúng tôi hết sức dỗ dành. Rồi cô ta bỏ hết quần áo diêm dúa, mặc quần áo tsi-gan và thuận lấy con tôi làm chồng. Con tôi nó chẳng bao giờ nói " Tôi không yêu cô" với lại "tôi bận, tôi có việc đâu ". Con gái hơ hớ như thế ở một mình sao được. Còn ông, ông mà cũng là đàn ông à! Con gái xinh như thế, ôm lấy ông mà ông cũng chẳng biết đường hôn...
Ruồi trâu ngắt lời :
- À hình như cụ bảo Di-ta có nhắn tôi điều gì...
- Có, tôi nán lại đi sau chính là để chuyển lời của cô ta cho ông hay. Di-ta nhờ tôi nói rằng cô ta chán ngấy những kẻ tán nhăng tán cuội những kẻ trong mạch máu chẳng có máu mà chỉ có nước lã như các ông rồi. Cô ta trở về với dân tộc mình trở về để sống tự do. Di-ta nói "Tôi là một người đàn bà. Tôi yêu Rivarét nhưng không thể ở lại làm vợ lẽ ông ta được." Di-ta bỏ ông là phải. Con gái Rô-ma bán sắc đẹp lấy chút tiền điều đó chẳng có gì xấu cả. Nếu không thì sắc đẹp nó để làm gì ?Nhưng dù sao con gái Rô-ma cũng chẳng thể nào yêu được dòng giống các ông đâu.
Ruồi trâu đứng dậy :
- Hết rồi chứ ? Vậy thì nhờ cụ nói dùm cô ấy biết cô ấy làm như thế là đúng và tôi xin chúc Di-ta hạnh phúc. Tôi không có gì để nói nữa. Xin chào cụ !
Đợi bà cụ ra, đóng xong cửa vườn, Ruồi trâu mới vào ngồi xuống ghế bành, bưng lấy mặt.
Lại một cái tát nữa! Lẽ nào người ta không để lại cho anh một chút tự hào, tự trọng mà anh vẫn hằng có trong những ngày oanh liệt xưa kia ! Bao nhiêu đau khổ mà một con người có thể chịu đựng thì anh đã chịu cả rồi. Ngay cả trái tim anh cũng đã bị dấn chìm trong bùn và bị giày xéo dưới chân mọi khách qua đường. Tâm hồn anh không còn chỗ nào là không bị đốt cháy thui bởi sự khinh rẻ của người này hoặc sự nhạo báng của người khác. Và giờ đây đến cả cô gái tsi-gan mà anh nhặt được lề đường cũng lại cầm roi quất vào mặt anh !
Tiếng rền rĩ của con chó Sai tan vang lên ngoài phòng, Ruồi trâu đứng dậy mở cửa. Sai-tan nhảy xổ vào lòng chủ vui sướng sủa ầm lên như mọi khi. Nhưng nó hiểu ngay là hôm nay chủ nó không vui nó dúi mõm vào bàn tay không động đậy của Ruồi trâu và nằm phục dưới chân anh.
Một giờ sau, Giê-ma tới thăm Ruồi trâu. Chị gõ cửa nhưng không có tiếng ai thưa. Bi-an-ca nghe chừng ông chủ không muốn ăn cơm, đã lỉnh dang chơi bên nhà bếp bên hàng xóm rồi. Cửa chưa đóng và đèn vẫn chưa tắt ở hành lang. Giê-ma dừng lại vài phút rồi cả quyết bước vào. Chị cần bàn với Ruồi trâu về tin quan trọng mà Bây-li vừa gửi tới.
Giê-ma gõ cửa phòng làm việc và nghe tiếng Ruồi trâu nói :
- Bi-an-ca, chị có thể đi ra. Tôi không cần gì cả.
Giê-ma nhẹ nhàng hé cửa. Trong phòng tối như bưng, nhưng ngọn đèn ở lối đi đã dọi một vệt sáng vào Ruồi trâu. Anh đang ngồi một mình, đầu cúi gục, con chó cuộn ngủ dưới chân.
Giê-ma lên tiếng :
- Tôi đây mà.
 
Ruồi trâu nhỏm dậy :
- Giê-ma, Giê-ma ! Tôi đang mong chờ Giê-ma !
Giê-ma chưa kịp nói gì thì Ruồi trâu đã quỳ xuống và gục đầu vào lòng chị. Toàn thân anh run lên, trông đáng thương hơn cả nước mắt...
Giê-ma đứng lặng. Chị không thể nào giúp đỡ Ruồi trâu được gì cả, không giúp được một chút nào ! Cái đó mới thật là đau xót hơn cả ! Chị phải đứng bên cạnh Ruồi trâu, bó tay nhìn vẻ mặt đau khổ của anh ... Chị có thể vui lòng chết đi để chia sẻ nỗi đau khổ của Ruồi trâu ! Ồ, nếu có thể cúi xuống, ghì chặt Ruồi trâu vào lòng, lấy thân mình che chở cho Ruồi trâu khỏi mọi tai ương đang đe doạ anh ! Lúc ấy anh sẽ lại là Ac-tơ của chị như cũ và trong lòng chị mặt trời sẽ lại sáng bừng lên, xua tan hết bóng đêm dày đặc.
Không, không ! Có lẽ nào anh ấy lại quên đi như thế được ? Chính chị, chính bàn tay phải của chị đã đẩy anh xuống địa ngục rồi kia mà !
Và Giê-ma đã để cho khoảnh khắc ấy trôi qu. Ruồi trâu vụt đứng dậy ngồi vào bàn, tay bưng lấy mặt, răng cắn chặt như muốn nghiến đứt môi.
Rồi anh ngẩng đầu, giọng nói đã bình tĩnh trở lại :
- Giê-ma tha lỗi, có lẽ tôi đã làm cho Giê-ma phải sửng sốt.
Giê-ma chìa hai tay cho anh :
- Anh thân yêu, chẳng lẽ tình bạn hiện nay của chúng ta không làm cho anh tin Giê-ma được hay sao ? Cứ nói đi anh vì sao anh đau khổ ?
- Đó chỉ là nỗi khổ của riêng tôi, nói ra khiến Giê-ma phải lo lắng mà làm gì.
Hai tay Giê-ma nắm chặt lấy bàn tay run rẩy của Ruồi trâu.
- Anh hãy nghe Giê-ma . Giê-ma không muốn can thiệp vào chuyện mà Giê-ma không có quyền can thiệp. Nhưng anh đã tự ý thổ lộ nỗi lòng với Giê-ma . Vậy còn chút gì chưa nói hết thì xin anh cứ nói ra, tin cậy Giê-ma như một người em gái ! Anh cứ giữ lấy bức màn che trên mặt nếu nó sẽ làm anh dễ chịu hơn, nhưng xin anh hãy bỏ bức màn trong tâm hồn và hãy thương lấy bản thân !
Ruồi trâu càng cúi gục đầu. Anh nói :
- Mong Giê-ma hãy vì tôi mà hết sức nhẫn nại. Sợ rằng tôi chỉ là một người anh không xứng đáng. Nhưng nếu Giê-ma hiểu cho... Mấy ngày qua tôi suýt nữa mất lý trí. Tôi có cảm tưởng sống lại quãng đời ở Nam Mỹ. Ma quỷ như đã nhập vào người tôi và...
Ruồi trâu ngừng lại giữa chừng câu nói :
Giê-ma thủ thỉ :
- Mong anh có thể san sẻ bớt phần đau khổ cho em...
Ruồi trâu gục đầu vào cánh tay Giê-ma " bàn tay của Chúa thật nặng nề!".
 
Phần III:

Chương 1:

Sau đó năm tuần lễ liền, Ruồi trâu và Giê-ma dường như sống trong cơn lốc của lo âu, hồi hộp và công việc khẩn trương. Họ không còn thời giờ và hơi sức đâu nghĩ đến chuyện riêng nữa. Vũ khí đã được chở an toàn tới lãnh địa của Giáo hoàng. Nhưng nhiệm vụ trước mắt còn khó khăn và nguy hiểm hơn : phải kín đáo chuyên chở vũ khí từ các kho bí mật trong hang và các khe núi tới các trung tâm địa phương rồi phân phối tới các thôn xóm. Toàn khu rừng đầy rẫy mật thám. Ruồi trâu giao nhiệm vụ ấy cho Đô-mi-ni-ki-nô. Nhưng Đô-mi-ni-ki-nô đã phải viết thư về Phơ-lo-răng-xơ tha thiết yêu cầu giúp đỡ, nếu không thì phải gia thêm hạn.
Trái lại, Ruồi trâu vẫn kiên quyết chủ trương hoàn thành mọi công việc vào giữa tháng sáu, điều đó làm cho Đô-mi-ni-ki-nô rất thất vọng. Chuyên chở hàng nặng qua các ngả đường xấu không phải là chuyện dễ. Hơn nữa, lại phải thường xuyên trốn tránh việc tra xét nên cứ bị trắc trở luôn.
Thư Đô-mi-ni-ki-nô viết :
" Hiện nay tôi đang ở giữa Si-la và Kha-ri-ba (Scylla and Charybdis - Tên hai quái vật trong thần thoại Hy lạp, được đặt cho một mỏm đá và xoáy nước ở bên bở eo biển Mét-xi-na giữa nước Ý và đảo Xi-xin, thường gây hoạc cho những người đi biển. Câu này có nghĩa "Hiện nay tôi đang ở tình trạng "tiến thoái lưỡng nan" hoặc "tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa"), vừa không dám làm gấp sợ lộ vừa không thể kéo dài việc chuyên chở vì phải hoàn thành cho kịp thời hạn. Mong anh hoặc cho ngay một người giúp việc đắc lực đến, hoặc báo cho Vơ-ni-dơ biết chúng tôi không thể chuẩn bị xong trước thượng tuần tháng sáu được".
Ruồi trâu mang bức thư tới cho Giê-ma xem.
Giê-ma chăm chú đọc, còn anh thì cau mày , ngồi xuống sân, vuốt lông con mèo Pát.
Giê-ma nói :
- Hỏng bét. Nói làm sao cho những người ở Vơ-ni-dơ chờ suốt ba tuần lễ được.
- Tất nhiên là không nói được. Ý nghĩ kỳ quặc quá ! Đô-mi-ni-ki-nô cũng phải hiểu điều ấy chứ . Không phải người Vơ-di-nơ theo chúng ta mà chúng ta phải theo họ.
- Nhưng cũng không thể trách Đô-mi-ni-ki-nô được. Chắc là anh ấy đã cố hết sức nhưng không thể nào làm hơn được.
- Phải, không phải lỗi ở Đô-mi-ni-ki-nô. Khổ một nỗi là ở đấy chỉ có một người chứ không có đến hai. Lẽ ra một người phải coi kho còn một người nữa theo dõi việc chuyên chở. Đô-mi-ni-ki-nô nói rất đúng. Cần phải có một người giúp việc đắc lực cho anh ta.
- Nhưng cho ai đi bây giờ ?Ở Phơ-lo-răng-xơ này lấy cho ai mà đi ?
 
- Nếu thế thì chính...chính tôi phải đi .
Giê-ma ngả người vào ghế. Chị cau mày nhìn Ruồi trâu :
- Không, không đươc anh ạ. Như thế mạo hiểm lắm.
- Nếu không... Không còn cách nào khác thì đành phải mạo hiểm vậy.
- Tìm cho ra cách giải quyết nào khác là được chứ gì. Lúc này anh lại đi nữa thì không được đâu, đừng nghĩ tới ch.uyện ấy nữa.
Ruồi trâu mím môi lại một cách bướng bỉnh :
- Tôi...tôi không hiểu tại sao ?
- Anh cứ bình tĩnh nghĩ một tí thì hiểu. Anh mới về đây được có năm tuần. Cảnh sát đã đánh hơi được phần nào về ông khách thập phương già nua và bây giờ thì đang lùng riết. Em biết anh trá hình rất khéo. Nhưng anh thử nhớ lại xem, anh đã cải trang là Đi-ê-gô và nông dân bao nhiêu lần rồi. Còn dáng đi khập khiễng và vết sẹo của anh, anh không thể giấu được.
- Trên đời này thiếu...thiếu gì những người khập khiễng.
- Phải, nhưng ở Rô-ma-nha, những người khập khiễng có vết dao chém ở má, tay bị tật mắt xanh, da ngăm đen như anh không phải là nhiều.
- Mắt thì không thành vấn đề. Tôi có thể dùng thuốc ben-la-đôn để thay đổi màu sắc.
- Thế còn những đặc điểm khác ?...Không, không được đâu anh ạ. Nhận dạng như anh mà đi đến đó ngay lúc này thì sẽ là tự chui vào cạm bẫy. Chúng tôm anh ngay tức khắc.
- Nhưng... nhưng phải có người giúp đỡ Đô-mi-ni-ki-nô chứ !
- Nếu trong giờ phút gay go này anh bị bắt thì có giúp được gì cho Đô-mi-ni-ki-nô không ? Anh mà bị bắt thì tan vỡ cả.
Song, thuyết phục được Ruồi trâu không phải là dễ, và cuộc tranh luận cứ kéo dài không đem lại kết quả gì. Bây giờ Giê-ma mới thật thấy con người ấy có một kho ý chí kiên cường, bình tĩnh vô tận. Nếu đây là một vấn đề không quan trọng lắm thì có lẽ Giê-ma đã chịu lún rồi. Nhưng vấn đề này không thể nhượng bộ được : chị cho rằng không đáng mạo hiểm vì những lợi ích nhỏ mà chuyến đi của Ruồi trâu có thể mang lại. Giê-ma ngờ rằng Ruồi trâu có ý định đi giúp Đô-mi-ni-ki-nô chủ yếu không phải là một nhu cầu chính trị nghiêm trọng mà là vì Ruồi trâu say mê mạo hiểm. Liều mạng xông vào những nơi hiểm nghèo là một cách không cần thiết đã trở thành thói quen của Ruồi trâu. Anh say sưa lao vào nguy hiểm như con ma men thấy rượu. Vì thế chị cần phải đấu tranh bình tĩnh mà kiên quyết. Thấy mình không đủ lý lẽ để đẩy lùi quyết tâm sắt đá của Ruồi trâu, Giê-ma viện nốt lý do cuối cùng :
- Thế thì chúng ta đành thẳng thắn nói hết lẽ với nhau vậy. Không phải tại Đô-mi-ni-ki-nô gặp khó khăn mà anh kiên quyết đòi đi đâu, trái lại chính là tại anh yêu...
 
Ruồi trâu sôi nổi cắt ngang :
- Không phải thế đâu, Giê-ma ạ ! Ông ta đối với tôi chẳng có ý nghĩa gì cả. Dù suốt đời không gặp ông ta nữa cũng chẳng sao...
Và Ruồi trâu im bặt. Nhìn mặt chị, Ruồi trâu biết ngay rằng anh đã để lộ mình rồi.
Hai cặp mắt nhìn nhau và cả hai đều nhìn xuống. Họ cùng nghĩ đến tến một người nhưng không nói ra.
Ruồi trâu gục mặt vào bộ lông êm dịu của con mèo. Cuối cùng anh lẩm bẩm :
- Không phải tôi...tôi định đi cứu Đô-mi-ni-ki-nô. Nhưng tôi biết nếu không có người đến giúp Đô-mi-ni-ki-nô thì công việc sẽ nguy hiểm vô cùng.
Giê-ma không để ý đến những lời thanh minh tội nghiệp ấy, chị cứ nói tuồn tuột như không hề có ai ngắt lời :
- Không, đây chỉ vì anh say sưa mạo hiểm đó thôi. Khi nào tâm hồn anh không được bình tĩnh thì anh lăn vào gian nguy, như khi ốm lăn vào thuốc phiện vậy.
Ruồi trâu lại sôi lên :
- Có phải lúc đó tôi đòi thuốc phiện đâu ! Người ta bắt tôi uống đấy chứ !
- Tất nhiên ! Anh vẫn tự hào là anh chịu đựng giỏi, có khi nào anh lại xin thuốc uống. Nhưng liều mạng để cố làm cho cân não khỏi căng thẳng đó lại là chuyện khác hẳn !! Làm như vậy lòng tự hào của anh không bị thương tổn mà ! Nhưng xét đến cùng cả hai sự việc chỉ khác nhau ở bề ngoài thôi.
Ruồi trâu ngửa đầu con mèo lên và nhìn thẳng vào đôi mắt xanh tròn xoe của nó. Anh nói :
- Pat, mày nghĩ thế nào ? Những lời bà chủ mày nói xấu tao có đúng chút nào không ? Thế nghĩa là Mea culpa, mea maxima culpa ( câu trích trong kinh đạo, tiếng la tinh nghĩa là lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng) chứ gì ? Còn mèo này khôn, chắc chẳng bao giờ mày đòi thuốc phiện nhỉ ? Ở Ai cập người ta thờ tổ tiên mày. Nhưng nếu ta cầm một chân mày dí vào cây nến thì mày có giữ được thói bệ vệ khinh lờn mọi đau khổ ở chốn trần gian này không ? Chắc lúc ấy mày sẽ xin thuốc phiện chứ ? Phải không, Pát? Muốn thuốc phiên...hay là muốn chết ? Không, mèo ơi chúng ta không có quyền chết yểu nếu chết chỉ là một lối thoát tiện lợi nhất cho cá nhân mình. Nếu có thể tự an ủi được thì chúng ta hãy phỉ nhổ và nguyền rủa đôi chút đi nào! Nhưng đừng...đừng có giơ chân ra làm gì, Pát ạ !
Giê-ma giật lấy con mèo, đặt nó lên ghế đẩu.
- Thôi ! Những vấn đề ấy lần sau chúng ta sẽ bàn. Bây giờ hãy tính chuyện giúp Đô-mi-ni-ki-nô đã... Gì thế Kê-ti ? Có khách à ? Tôi đang bận.
- Thưa bà, có Rai-tơ cho người đem gói này đến !
Trong gói bọc kỹ có một bức thư đóng dấu lãnh địa Giáo cũ của Giêma vẫn ở Phơ-lo-răng-xơ và những thứ đặc biệt quan trọng thường được thận trọng gửi qua địa chỉ của những người bạn ấy.
Giê-ma đọc nhanh lá thư báo giá tiền học hè ở một trường có ký túc xá tại A-pe-nanh rồi trỏ hai vết mực ở góc trang giấy nói :
- Đây là ám hiệu của Mi-kê-lê. Anh ta viết bằng mực hoá học. Thuốc để thử cất trong bàn viết, ô kéo thứ ba... Phải, đúng nó đấy.
Ruồi trâu đặt thư lên bàn, lấy bút lông quệt thuốc lên. Khi dòng chữ xanh biết hiện lên trên tờ giấy thì anh ngả mình vào ghế phá lên cười .
 
Giê-ma vội hỏi :
- Cái gì thế hở anh ?
Ruồi trâu đưa cho chị bức thư.
"Đô-mi-ni-ki-nô bị bắt. Anh đến ngay."
Giê-ma gieo mình xuống ghế, tay không rời bức thư, nhìn Ruồi trâu một cách tuyệt vọng.
Buồn quá, bao giờ mới hết một tuần nhỉ?
Post giúp bạn silver light mấy đoạn nhé
Giê-ma gieo mình xuống ghế, tay không rời bức thư, nhìn Ruồi Trâu một cách tuyệt vọng.
Cuối cùng, với một giọng kéodài và chấm biếm, nhỏ nhẹ, anh nói:
- Thế nhé... Bây giờ Giê-ma thấy rõ tôi phải đi rồi chứ?
Giê-ma thở dài đáp:
- Vâng, anh phải đi thôi. Và cả em nữa.
Ruồi Trâu giật mình, ngước nhìn chị:
- Cả Giê-ma nữa? Nhưng...
- Tất nhiên. Không còn người nào ở lại Phơ-lô-răng-xơ thì đã đành là không tốt. Nhưng bây giờ mọi chuyện đều không quan trọng mà chỉ cốt ở đó có thêm một vài người nữa.
- Ở đó lấy thêm bao nhiêu người chẳng được!
- Nhưng không phải là những người có thể tin cậy được hoàn toàn. Chính anh nói ở đó cần ít nhất là hai người tin cẩn. Nếu một mình Đô-mi-ki-nô đã không làm nổi thì một mình anh cũng không làm nổi. Tính mệnh anh đang treo đầu sợi tóc, anh hoạt động bí mật rất khó, chính anh cần có người giúp đỡ hơn ai hết. Anh định làm việc với Đô-mi-ni-ki-nô, bây giờ em thay Đô-mi-ni-ki-nô làm việc với anh.
Ruồi Trâu cau mày nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
- Phải, Giê-ma nói đúng, và càng đi sớm chừng nào càng tốt. Nhưng chúng mình không nên đi cùng một lúc. Nếu tối nay tôi đi, thì Giê-ma nên đợi đến chiều mai chẳng hạn rồi hẵng lên xe ngựa.
- Thế em nên đi hướng nào?
- Việc đó cần bàn. Tôi thì tốt nhất là đi thẳng tới Pha-en-sta(1). Đêm nay tôi đi đến Xan Lô-ren-dô, cải trang ở đó rồi lại đi luôn.
Giê-ma cau mày lo lắng:
- Cũng chẳng có cách nào hay hơn nữa nhỉ? Đã đi gấp lại cải trang ở chỗ những người buôn lậu như thế thì rất là mạo hiểm. Ít nhất cũng phải vài ba ngày ròng rã anh mới tới được biên giới, vì phải đi vòng vèo cho khỏi lộ vết tích.
Ruồi Trâu mỉm cười đáp:
- Điều đó Giê-ma đừng sợ. Nếu chúng bắt tôi thì bắt ở xa hơn nữa kia, chứ không thể bắt ở biên giới được. Một khi đã ở trong núi thì tôi cũng an toàn chẳng kém gì ở đây. Không một người buôn lậu nào ở A-pe-nanh phản lại tôi đâu. Nhưng còn Giê-ma, tôi chưa hiểu Giê-ma sẽ vượt biên giới bằng cách nào.
- Việc ấy không khó gì! Em sẽ lấy hộ chiếu của Lu-i-da Rai-tơ để đi lên núi nghỉ m> Ở Rô-ma-nha, không ai không biết em, còn anh thì tên mật thám nào cũng rõ.
- Và may mắn thay người buôn lậu nào cũng biết tôi nữa.
Giê-ma nhìn đồng hồ:
 
- Hai rưỡi rồi. Nếu anh định đi ngay đêm nay thì chỉ còn chiều và tối nay nữa thôi.
- Vậy tôi phải về nhà sửa soạn ngay và phải tìm được một con ngựa cho tốt. Tôi sẽ đi ngựa tới Xan Lô-ren-dô. Như thế an toàn hơn.
-Thuê ngựa không phải là chuyện an toàn đâu anh ạ. Chủ ngựa sẽ...
- Không phải thuê. Một người tin cẩn sẽ cho tôi mượn ngựa. Người này trước đã từng giúp tôi. Hai tuần sau tôi sẽ cho một người chăn cừu mang ngựa về trả... vậy chừng năm giờ hoặc năm rưỡi thtôi sẽ trở lại đây. Trong thời gian ấy, Giê-ma nên đi tìm Mác-ti-ni và nói cho anh ấy rõ.
Giê-ma quay lại, ngạc nhiên nhìn anh:
- Mác-ti-ni à?
- Phải. Chúng mình cần cho anh ấy biết việc chúng mình làm nếu Giê-ma không tìm được người nào khác.
- Em không hiểu tại sao phải làm như thế?
- Chúng ta cần có người tin cẩn ở đây để đề phòng trường hợp khó khăn bất trắc. Trong những bạn bè ở đây, tôi tin Mác-ti-ni hơn hết. Dĩ nhiên Ri-các-đô cũng hết sức tận tâm, nhưng Mác-ti-ni chắc chắn hơn. Giê-ma biết Mác-ti-ni hơn tôi nhiều... Giê-ma quyết định đi.
- Em cũng tin chắc rằng Mác-ti-ni là người rất đáng tin cậy và có khả năng về mọi mặt. Và em chắc Mác-ti-ni cũng sẵn lòng giúp chúng ta. Nhưng...
Ruồi Trâu hiểu ngay:
- Giê ma thử nghĩ xem, nếu một đồng chí khác gặp cơn hoạn nạn nhưng không dám nhờ Giê-ma giúp đỡ vì sợ làm cho Giê-ma đau lòng, thì Giê-ma cảm thấy thế nào? Và liệu như thế có tốt hay không?
Giê-ma im lặng giây lát rồi nói:
- Thôi được, em cho Kê-ti mời ngay Mác-ti-ni đến. Còn em thì đến nhà Lu-i-da mượn hộ chiếu. Chị ấy đã hứa sẵn sàng cho mượn bất cứ lúc nào... Còn tiền nong thì sao hở anh? Em có phải ra ngân hàng lấy tiền không?
- Thôi, kẻo mất thì giờ. Tiền tôi cũng khá đủ cho cả hai chúng ta rồi, bao giờ cạn sẽ dùng tới tiền của Giê-ma. Vậy ta sẽ gặp nhau lúc năm giờ rưỡi nhé. Lúc ấy Giê-ma có nhà chứ?
- Tất nhiên. Em sẽ về sớm hơn anh nhiều.
Sáu giờ, Ruồi Trâu đến thì thấy Giê-ma và Mác-ti-ni ở ngoài hiên. Anh đoán biết câu chuyện giữa hai người rất nặng nề vì vẻ xúc động vẫn còn lộ rõ trên nét mặt của họ. Mác-ti-ni trầm lặng và không vui một cách khác thường.
Giê-ma ngước nhìn Ruồi Trâu hỏi:
- Xong cả rồi chứ, anh?
Ruồi Trâu đáp:
- Phải, tôi mang tiền đi đường lại cho Giê-ma đây. Một giờ đêm, ngựa sẽ chờ tôi ở trạm cầu Rô-xô.
- Như thế có muộn quá không anh? Anh phải tới Xan Lô-ren-dô trước khi trời sáng, trước khi mọi người ngủ dậy kia mà?
 
- Kịp chán. Ngựa tốt lắm. Vả lại tôi không muốn có người biết lúc tôi ra đi. Tôi không trở về nhà nữa. Bây giờ mật thám đang rình trước cửa nhà tôi, tưởng tôi vẫn còn ở nhà.
- Anh lén ra thế nào mà hắn không trông thấy?
- Tôi trèo qua cửa sổ nhà bếp tót ra vườn sau, rồi trèo qua tường sang vườn nhà bên cạnh. Vì thế tôi đến muộn một chút. Suốt tối nay người chủ ngựa sẽ thắp đèn ngồi trong phòng làm việc của tôi. Mật thám trông thấy ánh đèn và bóng người sẽ yên trí rằng tôi đang viết lách ở nhà.
- Vậy chưa đến giờ lên đường thì anh cứ ở lại đây nhé!
- Vâng, tôi cũng không muốn ra ngoài phố cho người ta trông thấy. Mác-ti-ni, ta hút với nhau một điếu xì gà nào. Tôi biết bà Bô-la không cấm chúng ta hút thuốc đâu.
- Tôi cũng chẳng ngồi đây nữa đâu mà cấm. Tôi phải giúp Kê-ti làm bếp đây.
Giê-ma vừa đi khỏi thì Mác-ti-ni đứng dậy, chắp tay sau lưng đi bách bộ trong phòng. Ruồi Trâu lặng lẽ hút thuốc nhìn mưa rơi lâm thâm ngoài cửa sổ.
- Ri-va-rét!
Mác-ti-ni dừng bước trước mặt Ruồi Trâu, nhưng mắt vẫn nhìn xuống đất:
- Anh định lôi kéo chị ấy vào chuyện gì thế?
Ruồi Trâu rút điếu xì gà khỏi môi, phà ra một làn khói dài và chậm rãi trả lời:
- Quyết định là ở chị ấy. Chẳng ai ép chị ấy làm chuyện gì cả.
- Phải, phải, tôi hiểu. Nhưng anh hãy cho tôi biết...
Rồi anh nín lặng.
- Cái gì có thể nói tôi sẽ nói hết với anh.
- Tôi rất ít biết chuyện anh làm ở trên núi. Nhưng tôi chỉ cần anh cho biết chị ấy có phải trải qua nhiều nguy hiểm lắm không?
- Anh muốn biết sự thật chứ?
- Lẽ dĩ nhiên.
- Phải, rất nguy hiểm.
Mác-ti-ni quay đi, hết bước ngang lại bước dọc. Rồi anh lại dừng bước:
- Còn một câu hỏi nữa. Câu hỏi này lẽ dĩ nhiên anh có thể không trả lời, nhưng nếu anh muốn trả lời thì xin hãy trả lời cho thật: Anh có yêu Giê-ma không?
Ruồi Trâu điềm nhiên vẩy tàn thuốc lá rồi lại lặng hút.
- Thế nghĩa là... anh không muốn trả lời câu hỏi của tôi?
- Không, tôi muốn trả lời. Nhưng tôi có quyền biết tại sao anh hỏi ch.uyện ấy?
- Trời ơi! Anh mà không hiểu tại sao?
Ruồi Trâu đặt điếu xì gà xuống, chăm chú nhìn thẳng vào mắt Mác-ti-ni:
- À, ra thế!
Rồi anh dịu dàng và chậm rãi nói tiếp:
- Phải, tôi yêu Giê-ma. Nhưng anh đừng tưởng tôi sẽ tỏ tình với Giê-ma hoặc bận tâm về chuyện đó đâu. Tôi chỉ sắp...
 
Những tiếng cuối cùng của anh tắt dần và nhẹ như một hơi thở. Mác-ti-ni tiến lại gần:
- Anh chỉ sắp làm sao?
- Chỉ sắp chết.
Ruồi Trâu nhìn thẳng về phía trước, đôi mắt lạnh lùng và đờ đẫn như đã chết rồi. Và khi anh cất tiếng nói tiếp thì giọng anh đều đều, mất hết sức sống.
- Anh không nên làm cho Giê-ma lo âu quá sớm. Tôi không hy vọng gì sẽ trở về được vẹn toan. Việc này nguy hiểm cho mọi người. Tôi hiểu và Giê-ma cũng thừa hiểu điều đó. Nhưng những người buôn lậu sẽ dùng mọi cách để Giê-ma khỏi bị bắt. Mặc dù hơi thô lỗ nhưng họ đều là những người đồng đội rất tốt. Còn tôi thì cổ tôi đã đút vào tròng từ lâu rồi. Vượt qua biên giới tôi chỉ còn việc rút thòng lọng mà thôi.
- Ri-va-rét! Thế là thế nào? Tất nhiên tôi biết việc này nguy hiểm, nhất là nguy hiểm cho anh. Nhưng anh qua lại biên giới luôn luôn, lần nào cũng trót lọt cả.
- Phải, nhưng lần này tôi sẽ sa lưới.
- Tại sao thế? Tại sao anh lại biết trước như vậy?
Ruồi Trâu nhăn nhó mỉm cười
- Anh còn nhớ câu chuyện thần thoại nước Đức không? Chuyện một người chết vì gặp người thứ hai giống hệt mình ấy mà! Không biết ? Chuyện như thế này: một đêm anh ta gặp người này ở một nơi vắng vẻ... người này đang hết sức đau đớn trong cơn tuyệt vọng và cái chết đã đến với anh ta. Vừa qua, tôi cũng gặp người giống y như tôi ở A-pe-nanh, vì thế lần này tôi vượt biên giới thì không hòng trở lại đâu.
Mác-ti-ni lại gần anh, tay đặt lên ghế.
- Ri-va-rét, anh nghe tôi. Tôi chẳng hiểu gì về câu chuyện siêu hình của anh cả, nhưng tôi tin chắc một điều là: nếu anh đã cảm thấy trước như thế thì anh không nên đi nữa. Chưa đi mà đã nghĩ rằng mình sẽ thất bại thì thế nào cũng bị sa lưới. Chắc anh ốm hoặc có điều gì lo lắng nên mới nghĩ vớ vẩn như thế. Thôi anh hãy ở lại đi, để tôi đi cho. Tôi sẽ làm việc đúng như ý anh. Anh chỉ việc viết cho tôi một bức thư giới thiệu với các đồng chí của anh...
- Để anh chết thay tôi à? Gớm, anh khôn quá nhỉ!
- Tôi không chết được đâu! Ở đó chúng có biết tôi như anh đâu! Mà nếu có chết chăng nữa thì...
Mác-ti-ni nín lặng, và Ruồi Trâu từ từ ngước mắt nhìn anh như muốn dò hỏi điều gì. Bàn tay Mác-ti-ni thõng xuống cạnh ghế. Anh nói một cách hết sức thực tế:
- Mất anh, Giê-ma sẽ khổ nhiều hơn là mất tôi. Hơn nữa, Ri-va-rét ạ, việc này là việc chung. Chỉ có một lối giải thoát duy nhất thôi, là làm sao đem lại lợi ích nhiều nhất cho tuyệt đại đa số người. Nói theo các nhà kinh tế học thì "giá trị cuối cùng" của anh cao hơn "giá trị cuối cùng" của tôi. Tôi cũng còn đủ thông minh để hiểu điều đó. Mặc dù tôi không thích anh lắm. Con người của anh lớn hơn con người của tôi. Anh và tôi ai tốt hơn, điều đó tôi chưa rõ, nhưng anh có nhiều ưu điểm hơn tôi, và nếu anh chết đi thì tổn thất nhiều hơn.
Mác-ti-ni nói những câu đó y như người mặc cả cổ phần trong thị trường chứng khoán. Ruồi Trâu nhìn anh, so vai như ớn lạnh:
- Anh muốn tôi cứ chờ đợi để nấm mồ đến cướp tôi đi hay sao?
Ví bằng ta phải chết
Thì ta sẽ đón chào bóng đêm như đón chào vị hôn thế (1).
Ông bạn của tôi ơi, chúng ta nói lăng nhăng nhiều quá rồi đấy!
Mác-ti-ni bực mình nói:
- Chính anh nói lăng nhăng thì có!
 
- Anh cũng thế. Thôi ta đừng học đòi gương xả thân của Đông Các-lốt và hầu tước Pô-da nữa.(2) Chúng ta đang sống ở thế kỷ mười chín. Nếu nhiệm vụ của tôi là phải chết thì tôi sẽ chết.
- Và nếu nhiệm vụ của tôi là phải sống thì tôi sẽ sống chứ gì? Anh thật là hạnh phúc, Ri-va-rét ạ!
- Phải, bao giờ tôi cũng gặp may.
Họ lặng lẽ hút thuốc rồi cùng nhau bàn bạc tỉ mỉ hành trình sắp tới; và khi Giê-ma đến, họ vẫn không để lộ ra tí gì tỏ ra rằng câu chuyện vừa rồi giữa họ không phải là một câu chuyện bình thường.
Ăn xong cả ba người lại quay ra bàn kế hoạch và chuẩn bị mọi việc cần thiết. Khi đồng hồ điểm mười một tiếng thì Mác-ti-ni đứng dậy cầm mũ.
- Tôi về lấy cho anh chiếc áo tơi đi đường, Ri-va-rét ạ. Anh mặc chiếc áo ấy vào thì sẽ kho nhận hơn là mặc bộ quần áo này. Tiện thể tôi sẽ dò xét xem có mật thám rình quanh nhà trước khi ta lên đường không
- Anh sẽ cùng đi với tôi đến trạm à?
- Vâng. Nếu có kẻ theo dõi thì bốn mắt chúng ta nhìn bảo đảm hơn. Khoảng mười hai giờ tôi sẽ trở lại. Chờ nhé, tôi chưa đến thì đừng đi vội nhé… Chị Giê-ma ạ, tôi mang chìa khóa đi để lúc trở lại khỏi gọi chuông phiền phức.
Khi Mác-ti-ni cầm chùm chìa khóa. Giê-ma ngước mắt nhìn anh. Chị hiểu rằng anh đã cố ý kiếm cớ để cho chị và Ruồi Trâu ở lại với nhau.
Chị nói:
- Mai tôi sẽ cùng anh nói chuyện. Mai tôi thu xếp xong chúng ta sẽ có thời giờ
- Vâng, còn có nhiều thời giờ… Và – Mác-ti-ni nói với Ruồi Trâu – Ri-va-rét ạ, tôi còn muốn hỏi anh vài việc nhỏ nữa, nhưng để trên đường ra trạm ta sẽ nói sau… Giê-ma, cho Kê-ti đi ngủ đi thôi và ả hai người nói khẽ chứ nhé. Thôi, xin chào, nửa đêm tôi sẽ trở lại.
Mác-ti-ni khẽ gật đầu chào và mỉm cười bước xuống thang gác. Anh đóng mạnh cửa ngoài để hàng xóm biết rằng khách của bà Bô-la đã ra về.
Sau khi xuống bếp cho Kê-ti về ngru, Giê-ma trở lại, tay bưng một khay cà phê đen…
Chị nói:
- Anh có muốn ngả lưng một chút không? Đêm nay anh sẽ phải suốt đêm không ngủ đấy.
- Không, chẳng sao đâu, Giê-ma thân yêu! Đến Xan Lô-ren-dô tôi sẽ ngủ để chờ lấy quần áo và đồ hóa trang.
- Thế anh uống cà phê nhé… Anh chò một chút em đi lấy bánh quy.
Chị quỳ gối trước mặt tủ thức ăn. Ruồi Trâu lại gần và bỗng cúi xuống cạnh chi.
- Giê-ma, có những gì thế? Sô-cô-la và kẹo ca-ra-men có phải không? Giê-ma sang trọng như bà hoàng ấy!
Giê-ma ngước nhìn bộ mặt tươi rói của Ruồi Trâu rồi mỉm cười:
- Anh cũng thích của ngọt cơ à? Bao giờ em cũng có kẹo để mời Xê-da. Anh ấy thích kẹo ngọt như trẻ con vậy.
- Thật… thật à? Thế mai… mai mua cho anh ấy kẹo khác, còn kẹo này Giê-ma cho tôi nhé. Tôi bỏ kẹo ca-ra-men vào túi. Nó sẽ an ủi tôi, một con người đã mất hết lạc thú ở đời. Tôi… tôi mong ước trước khi chúng đưa tôi đi treo cổ, tôi còn được một ít kẹo ca-ra-men để ngậm.
- Chờ em một chút nhé. Em đi lấy hộp đựng, kẻo ướt ra túi… Thôi, ngồi xuống đi anh, đừng bông đùa nữa. Chắc rằng từ nay cho đến khi một trong hai chúng ta bị giết, chúng ta chẳng còn lúc nào nói chuyện ung dung như thế này với nhau được nữa và…
Ruồi Trâu khẽ lẩm bẩm:
- À ra Giê-ma không… không thích sô-cô-la nhỉ!
Rồi anh nói tiếp
- Vậy thì tôi sẽ ăn một mình. Chẳng phải là bữa anư thỏa thích trước giờ xử tử đó sao? Đêm nay Giê-ma phải chiều mọi sự vòi vĩnh của tôi. Trước hết tôi muốn Giê-ma ngồi vào ghế bành này. Còn tôi thì ngả lưng xuống đây vì Giê-ma đã cho phép tôi. Như thế này dễ chịu hơn.
Ruồi Trâu nằm lên thảm trải dưới chân Giê-ma. Tựa tay vào ghế, anh nhìn thẳng vào mặt chị.
- Giê-ma, sao mặt Giê-ma tái đi thế! Chắc vì Giê-ma chỉ nhìn thấy mặt bi đát của cuộc sống và vì không thích sô-cô-la chứ gì…
- Anh hãy nghiêm chỉnh cho năm phút đi nào! Đây là chuyện sống chết chứ đâu phải chuyện đùa.
- Hai phút tôi cũng chẳng thể nghiêm chỉnh được đâu, Giê-ma thân yêu! Dù sống, dù chết cũng chẳng lúc nào nên nghiêm nghị.
Ruồi Trâu nắm lấy tay chị và vuốt ve đôi bàn tay ấy.
- Nữ thần Mi-néc-vơ (1), xin bà đừng nghiêm nghị như thế. Tôi khóc lên bây giờ thì bà sẽ phải thương tôi. Tôi muốn bà mỉm cười. Giê-ma có nụ cười vui, hồn nhiên lắm… Chớ, chớ có mắng tôi, Giê-ma thân yêu ạ! Ta ăn bánh đi, ăn như hai đứa trẻ ngoan ấy và đừng tranh giành nhau nhé, vì ngày mai chúng ta sẽ phải chết rồi.
Ruồi Trâu lấy một chiếc bánh chia hai thật đều và cố bẻ cho phần nào cũng có nhân đường
- Nào, chúng ta cùng nhau chịu lễ đi, như người ta vẫn thường thường chịu lễ trong nhà thờ vậy. “Này là mình tao, bay hãy nhận lấy mà ăn” (2). Và chúng ta phải uống… uống chung một cốc rượu… Phải, phải, như thế đấy. “Bay hãy làm việc này nhớ đến tao”.
Giê-ma đặt cốc len bàn và nói bằng một giọng gần như nức nở.
- Thôi, anh ơi!
Ruồi Trâu nhìn Giê-ma và nắm lấy tay chị
 
- Thế thôi nhé ! Yên tĩnh một lúc nhé! Nếu một trong hai ta chết đi thì người còn lại hãy nhớ lấy giây phút này nhé. Chúng ta hãy quên đi, quên thế giới huyên náo này, đừng để nó làm bận tai ta nữa, chúng ta sẽ dắt tay nhau tới những cung điện bí ẩn của thần chết, và sẽ ngả xuống yên nghỉ ngàn thu giữa những đóa hoa anh túc rắc đầy bốn phía. Ồ, lúc đó chúng ta mới thật là yên tĩnh.
Ruồi Trâu ngả đầu vào lòng chị và lấy tay bưng lấy mặt.
Giê-ma lặng lẽ cúi xuống vuốt mái tóc đen nhánh của anh. Thời gian cứ thế lặng lẽ trôi qua… hai người vẫn ngồi yên, không nói nửa lời.
Cuối cùng Giê-ma cất tiếng. Ruồi Trâu ngửng đầu lên.
- Anh thân yêu, sắp nửa đêm rồi. Chúng ta chỉ còn vài phút nữa thôi. Mác-ti-ni sắp trở lại. Có lẽ không bao giờ chúng ta còn được trông thấy nhau nữa. Chẳng lẽ lúc này anh không có gì để nói với em cả ư?
Ruồi Trâu từ từ đứng dậy, đi về phía cuối phòng. Họ im lặng trong giây lát.
Tiếng nói của Ruồi Trâu chỉ như một hơi thở:
- Tôi sẽ chỉ nói một điều thôi. Tôi sẽ nói với Giê-ma một điều…
Ruồi Trâu nghẹn lời, ngồi bên cửa sổ, hai tay bưng lấy mặt. Giê-ma dịu dàng nói:
- Mãi đến giờ đây anh mới thương em.
- Vì cuộc đời tôi cũng có mấy lúc được yêu thương đâu. Lúc đầu tôi… tôi tưởng Giê-ma… biết cũng chẳng để làm gì.
- Bây giờ anh không nghĩ như thế nữa chứ, hở anh?
Không đợi trả lời, Giê-ma tiến lại, đứng sát vào người anh. Chị thủ thỉ:
- Nói thật đi anh! Vì nếu như lúc anh chết, em không có mặt ở đó, thì đến phút hai tay buông xuôi em vẫn không tin chắc rằng…
Ruồi Trâu nắm tay chị và ghì chặt lấy:
- Nếu tôi chết… Giê-ma ơi, Giê-ma có biết không, lúc tôi đi sang Nam Mỹ… Ô kìa, Mác-ti-ni đã đến rồi!
Ruồi Trâu vùng dậy rời khỏi Giê-ma và mở rộng cửa phòng. Mác-ti-ni chùi giày cẩn thận vào chiếc thảm con.
- Con người lúc nào cũng đúng giờ, đúng… đúng từng phút một! Mác-ti-ni, anh thật là một chiếc đồng hồ sống. Áo tơi đi… đi đường của anh đây phải không?
- Phải, còn một vài thứ lặt vặt nữa. Tôi đã cố giữ cho khỏi ướt, nhưng trời cứ mưa tầm tã. Đêm nay anh đi vất vả lắm đấy!
- Có hề chi! Sao, ngoài phố thế nào anh, yên tĩnh cả chứ?
- Vâng. Chắc mật thám về ngủ cả rồi. Trời sao mà xấu thế này, lạ thật… Cà phê đấy à, chị Giê-ma? Chị phải cho anh Ri-va-rét uống cái gì thật nóng, kẻo đi mưa rất dễ bị cảm lạnh.
- Cà phê đen đấy. Đặc lắm. Để tôi đi đun ít sữa nhé.
Giê-ma lủi thủi xuống bếp. Chị nghiến chặt răng và nắm chặt hai tay để khỏi bật ra tiếng khóc. Khi Giê-ma mang sữa lên thì Ruồi Trâu đã khoác áo tơi và đang đi ủng da do Mác-ti-ni cho mượn. Ruồi Trâu đứng uống cạn chén cà phê rồi cầm lấy chiếc mũ rộng vành.
- Mác-ti-ni, đến giờ rồi. Chúng ta phải đi đường vòng để tới trạm cho chắc chắn… Thôi, xin tạm biệt Giê-ma. Nếu không có gì xảy ra, thứ sáu này tôi sẽ gặp Giê-ma ở Phoóc-li.(3) Chờ một chút nhé, địa… địa chỉ đây.
Ruồi Trâu giở sổ tay xé một tờ giấy và lấy bút chì viết mấy chữ.
Giê-ma trả lời, giọng đều đều, yếu ớt:
- Địa chỉ đó tôi có rồi, anh ạ.
- Thế à? Không… không sao, Giê-ma cứ cầm thêm cho chắc chắn… Nào chúng ta lên đường, Mác-ti-ni, suỵt, khẽ chứ! Đừng để cửa cọt kẹt một chút nào hết.
Họ thận trọng bước xuống đường. Cửa ngoài khép chặt. Khi trở về phòng, Giê-ma bất giác nhìn mẩu giấy Ruồi Trâu vừa dúi vào tay chị. Bên dưới địa chỉ viết:
“Khi gặp nhau tôi sẽ nói hết với Giê-ma”.
----------------------
(1) Pha-en-tsa - một thành phố lớn ở Ý nổi tiếng về làm đồ gốm
(1) Mi-néc-vơ – Trong thần thoại Hy Lạp, Mi-néc-vơ là nữ thần của trí khôn ngoan, nữ thần của nghệ thuật, khoa học và công nghệ, và cũng được coi như vị thần hướng dẫn người ta trong thảm họa chiến tranh.
(2) “Này là mình tao…” Câu nguyện khi làm phép bánh thánh
(3) Phoóc-li - một thành phố ở Rô-ma-nha.
 
Chương 2:


Hôm nay là phiên chợ ở Bơ-ri-xi-ghê-la. Nông dân các xóm làng lân cận nườm nượp đổ về khu chợ. Người thì mang lợn gà, người thì mang bơ, sữa, có người dong cả những đàn gia súc vùng núi ngang tàng. Từng đoàn lũ lượt đi lại trên sân chợ, cười đùa, mặc cả, mua những quả khô, bánh nước rẻ tiền và hạt quỳ. Những trẻ em da cháy nắng, chân không guốc dép, nằm sấp bụng giữa đường cái, dưới ánh nắng gay gắt, còn các bà mẹ của chúng thì ngồi cạnh những giỏ trứng và bơ dưới gốc cây.
Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li ra chợ để hỏi thăm giáo dân. Đám trẻ con ồn ào liền xúm lại. Chúng tranh nhau dâng cho Hồng y giáo chủ những bó hoa chim én, hoa anh túc thắm đỏ và thủy tiên trắng thơm ngát hái trên sườn núi. Ai cũng thông cảm tính yêu hoa dại của Hồng y giáo chủ, coi đó là một nhược điểm của sự ham chuộng mà người thông minh tài trí nào cũng thường mắc phải. Nếu một kẻ khác làm như Mông-ta-ne-li, chất cỏ hoa cây cối đầy nhà, thì chắc hẳn người ta đã chê cười. Nhưng “vị Hồng y giáo chủ tốt phúc” này thì được hưởng quyền có một vài sở thích lạ đời vô hại như thế.
- À, Ma-ru-tri-a!
Mông-ta-ne-li dừng bước cạnh một cô bé, xoa đầu nó.
- Mới từ dạo ấy đến nay mà con đã chóng lớn quá nhỉ! Thế bà con còn bị tê thấp nữa không?
- Trình đức cha, bà con đỡ rồi ạ. Nhưng mẹ con lại bị ốm.
- Khổ chưa! Bảo mẹ con hôm nào đến nhà ông y sĩ Goóc-đa-ni để ông ấy khám cho. Còn ta thì sẽ tìm cho mẹ con một chỗ ở đâu đây. May ra mà khỏi được. Lui-gi! Mắt con thế nào, đỡ rồi chứ?
Mông-ta-ne-li đảo khắp sân chợ, hỏi chuyện những người dân miền núi. Ông ta nhớ đến tên tuổi con cái họ, nhớ mọi điều không may và mọi nỗi đau khổ của họ, ân cần hỏi thăm cả con bồ mới ốm hôm lễ Nô-en, cả con búp bê bằng vải bị nghiến nát dưới bánh xe phiên chợ trước. Khi ông trở về lâu đài của mình thì phiên chợ đang giữa lúc náo nhiệt nhất. Một người chân khập khiễng, mình mặc áo sơ mi xanh, má có một vết sẹo, tóc đen nhánh xõa xuống mắt, bước tới một quầy hàng. Anh ta hỏi mua nước chanh bằng một thứ tiếng Ý lơ lớ.
Bà hàng nước vừa rót nước vừa liếc nhìn anh:
- Hình như ông không phải người ở đay?
- Không phải người ở đây. Tôi ở đảo Coóc-xơ (1) đến.
- Ông đi tìm công ăn việc làm à?
- Vâng, sắp đến mùa cắt cỏ rồi. Có một ông chủ ấp ở gần Ra-ve-na (2) mới đến Ba-sti-a (3) nói với tôi rằng ở đó có nhiều việc làm lắm.
- Tôi cũng cầu trời phù hộ cho ông. Ở đây đang thời buổi khó khăn lắm.
- Mẹ ơi, ở Coóc-xơ còn khó khăn gấp máy nữa ấy chứ. Chẳng biết dân nghèo chúng ta rồi sẽ ra sao…
- Ông đến đây có một mình thôi à?
- Không, còn một anh bạn nữa. Kìa, cái anh mặc áo sơ mi đỏ kia kìa… Hola, Paolo! (4)
 
Nghe gọi, Mi-ke-lê thọc hai tay vào túi, lê bước tới quầy hàng. Mặc dầu có bộ tóc giả hung hung phủ trên đầu, anh vẫn giống một người Coóc-xơ chính cồng. Còn Ruồi Trâu thì lại giống như đúc.
Hai người từ từ bước trên sân chợ. Mi-ke-lê khẽ huýt sáo miệng. Ruồi Trâu thì mang khăn gói nặng trên vai, đi lom khom và cố lê bước chân để giấu dáng khập khiễng. Hò nóng lòng chờ đợi một đồng chí đến để nhận những chỉ thị quan trọng mà họ sẽ truyền đạt. Bỗng Mi-ke-lê thì thầm:
- Kìa, Mác-cô-nê đi ngựa đến góc chợ kia kìa.
Ruồi Trâu vác khăn gói lê về phía đó.
Anh đưa tay lên chiếc mũ rách, rồi sờ vào cương ngựa, hỏi:
- Thưa ông, ông có mướn người cắt cỏ không ạ?
Đó là mật hiệu. Người cưỡi ngựa trông ra vẻ chủ ấp nhảy xuống đất, vắt cương lên cổ ngựa.
- Anh biết làm nghề gì?
Ruồi Trâu vò chiếc mũ trong tay.
- Thưa ông, cắt cỏ, xén bờ rào…
Và anh nói tiếp, không đổi giọng:
- Một giờ đêm nay ở cửa hang tròn. Cần hai con ngựa tốt và một chiếc xe. Tôi đợi ngay trong hang. Thưa ông, ngoài ra tôi còn biết đào đất… và…
- Thôi, được rồi. Tôi cần một người cắt cỏ. Anh đã từng đi làm ở tỉnh ngoài bao giờ chưa?
- Thưa ông, có đi một lần rồi ạ!… Phải trang bị cẩn thận nhé. Có thể gặp kỵ binh cơ động đấy. Đừng đi đường rừng, đi đường kia an toàn hơn. Nếu gặp mật thám thì bắn ngay, không cần nhiều lời… Thưa ông, đội ơn ông nhận cho vào làm việc, tôi mừng lắm,…
- Thôi, thế là được! Nhưng tôi cần người cắt cỏ cho tốt đấy… Hôm nay tôi không có tiền lẻ, ông lão ạ.
Một người ăn mặc rách rưới tiến gần lại họ, kéo dài giọng đều đều, thiểu não:
- Kính lạy đức Bà rất thánh, xin các ông các bà thương cho kẻ mù lòa… các đồng chí đi ngay thôi, kỵ binh đến đấy… Kính lạy nữ vương trên trời rất thành, kính lạy đức nữ đồng trinh… Ri-va-rét, chúng lùng bắt anh đấy, Ri-va-rét… hai phút nữa chúng sẽ ập đến đây… Xin các thánh phù hộ các ông các bà… Các đồng chí phải phá vòng vây mà ra, mật thám như rươi ấy, không lẻn ra được đâu.
Mác-cô-nê dúi cương ngựa vào tay Ruồi Trâu:
- Mau lên! Phóng ra phía cầu, vứt ngựa ở đấy rồi núp xuống vực. Chúng tôi có vũ khí cả, sẽ cản chúng lại trong mươi phút.
- Không, tôi không thể nào bỏ các đồng chí. Tập hợp ngay lại, bắn theo tôi. tiến về phía cửa lâu đài, ngựa đã buộc sẵn ở đấy. Và rút dao sẵn sàng ra. Ta vừa đánh vừa lui. Khi tôi vứt mũ xuống đất thì các đồng chí cắt dây thừng, nhảy lên yên ngay. Có lẽ tất cả chúng ta đều kịp chạy thoát tới rừng bằng cách đó.
Họ nói thầm với nhau rất bình tĩnh, bình tĩnh đến nỗi ngay những người đứng sát bên cạnh cũng không thể ngờ rằng họ đang bàn tán một chuyện khác quan trọng hơn chuyện cắt cỏ.
Mác-cô-nê cầm cương, dắt ngựa về phía cửa lâu đài, nơi buộc các con ngựa khác. Ruồi Trâu thất thểu đi bên cạnh, còn người ăn mày thì vẫn chìa tay, không ngớt mồm van lơn thiểu não và bước theo. Mi-ke-lê vừa huýt sáo miệng vừa đi theo kịp cả bọn. Lúc ấy người ăn mày vừa kịp rỉ tai với Mi-ke-lê và anh liền đi báo tin cho ba người nông dân đang ngồi ăn hành tây sống dưới gốc cây. Ba người này lập tức đứng dậy đi theo.
Thế là cả bảy người đã ra đứng ở bậc cửa lâu đài, không bị một ai ngờ vực. Người nào người nấy đều thủ sẵn súng ngắn trong ngực. Ngựa buộc ở cạnh cửa, chỉ cách họ có vài bước.
 
Ruồi Trâu nói khẽ khàng nhưng rành rọt từng lời:
- Tôi chưa ra hiệu thì chứ nên để lộ mặt. Rất có thể chúng không biết chúng ta. Hễ tôi bắn thì các đồng chí nổ súng ngay. Nhưng đừng bắn vào người, cứ nhằm vào ngựa mà bắn, thì chúng mới không thể nào đuổi được chúng ta. Ba người bắn còn ba người khác thì nạp đạn. Hễ tên nào đứng chắn ta và ngựa thì hạ thủ ngay lập tức. Tôi sẽ cưỡi con ngựa đốm kia. Thấy tôi vứt mũ xuống đất thì các đồng chí cứ việc rút lui theo kế hoạch, không cần chờ đợi gì cả.
Bỗng Mi-ke-lê nói:
- Chúng đến kia rồi
Phiên chợ bỗng dưng nhốn nháo. Ruồi Trâu quay lại, ngơ ngác. Mười lăm tên kỵ binh vũ trang từ một ngõ hẻm xông thẳng vào chợ. Chúng lách bừa giữa đám đông, và nếu không có lười mật thám bao vây thì bảy chiến sĩ cách mạng bí mật đã có thể rút lui dễ dàng, nhất là trong lúc đám đông còn mải nhìn đội kỵ binh.
Mi-ke-lê nhích lại gần Ruồi Trâu:
- Ta chạy thôi chứ?
- Không thể được, khó thoát lắm, chúng ta đã bị mật thám bủa vây. Một tên chó săn vừa nhận ra tôi. Kìa, hắn đã cho người đến báo viên đội trưởng rồi. Giờ chỉ còn một cách nổ súng bắn vào ngựa.
- Thằng chó săn ấy đâu hở anh?
- Tôi sẽ bắn nó trước nhất. Sẵn sàng cả chưa? Chúng đã tiến về phía chúng ta và sắp tấn công đấy.
Tên đội trưởng kỵ binh hét:
- Giãn ra! Nhân danh đức Thánh, ta ra lệnh giải tán.
Đám đông hoảng hốt giạt ra và đội lính xô vào nhóm người đứng trước cửa lâu đài. Ruồi Trâu rút súng ra khỏi áo, không bắn vào đội kỵ binh đang tiến đến mà bắn luôn vào tên mật thám đang mon men tới chỗ buộc ngựa. Xương quai xanh gẫy vụn, tên mật thám ngã lăn ra. Cùng lúc đó sáu phát súng thi nhau nổ, các chiến sĩ cách mạng tiến dần tới chỗ buộc ngựa.
Một con ngựa trong đội kỵ binh nhảy chồm lên và giạt sang một bên. Một con khác ngã lăn ra kêu rống lên. Những tiếng ầm ĩ trong đám đông rồi loạn ấy vẫn không át được tiếng tên sĩ quan đang oang oang ra lệnh. Hắn ta đứng lên bàn đạp rồi vung gươm:
- Lại đây! Theo ta!
Bỗng hắn loạng choạng trên yên ngựa rồi ngã gục xuống. Ruồi Trâu lại nổ súng và bắn không sai một phát. Một dòng máu nhỏ đã tuôn ra trên binh phục của tên đội trưởng, nhưng hắn ráng hết sức điên cuồng, tay bám chặt bờm ngựa, rướn người, gân cổ hét:
- Không bắt sống được thằng quỷ thọt kia thì giết nó đi! Chính nó là Ri-va-rét đấy!
Ruồi Trâu lên tiếng gọi các đồng chí của mình:
- Đưa súng đây, mau lên! Và lên ngựa!
 
Rồi anh ném mũ xuống đất. Rất đúng lúc. Những lưỡi gươm điên cuồng của kẻ địch đã loang loáng trên đầu anh.
- Mọi người bỏ cả vũ khí xuống!
Bóng Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li bỗng hiện ra giữa hai bên đang chiến đấu. Một tên lính hoảng hốt kêu lên:
- Đức Hồng y! Trời ơi, họ giết chết Người mất!
Nhưng Mông-ta-ne-li đã tiến lên bước nữa và đứng trước mũi súng của Ruồi Trâu.
Trong số bảy người, năm người đã lên ngựa và phóng ngược lên đường phố dốc. Mác-cô-nê vừa kịp nhảy lên yên. Nhưng trước khi thúc ngựa anh còn ngoảnh lại xem cần giúp đỡ gì thủ lãnh của mình không. Con ngựa đốm đứng ngay gần đó. Chỉ nháy mắt nữa là cả bảy người sẽ trốn thoát. Nhưng khi bóng người mặc áo choàng đỏ tiến lên thì Ruồi Trâu bỗng do dự, khẩu súng trong tay từ từ hạ xuống. Khoảnh khắc ấy quyết định hết thảy. Kỵ binh lập tức vây kín lấy anh, xô anh ngã xuống. Một tên lính lấy gươm chém bật khẩu súng khỏi tay Ruồi Trâu. Mác-cô-nê thúc ngựa. Tiếng vó ngựa dồn dập đuổi theo cách anh có vài bước. Ở lại không ích lợi gì nữa. Ngồi trên yên anh còn xoay người lại, bắn một phát cuối cùng vào giữa mặt tên lính đuổi sát sau anh. Giữa lúc đó, anh trông thấy Ruồi Trâu. Bộ mặt Ruồi Trâu đẫm máu. Ngựa, lính và mật thám nhảy xổ vào giày xéo người anh, Mác-cô-nê nghe rõ tiếng chửi rủa căm hờn xen lẫn tiếng reo đắc thắng. Mông-ta-ne-li không nhìn thấy sự việc vừa xảy ra trước mắt. Ông mải lo phủ dụ đám người đang nhốn nháo lên vì hoảng sợ, rồi cúi xuống nhìn tên mật thám bị thương. Nhưng đám người bỗng xôn xao làm cho ông ta phải ngẩng đầu lên.
Đội lính diễu qua chợ, kéo theo sau một người bị trói tay. Mặc dù mặt xám ngoét và thở hồng hộc gấp gáp vì đau đớn và mệt lả, người ấy vẫn ngoái lại phía Mông-ta-ne-li, đôi môi nhợt nhạt mỉm cười chua chát, người ấy khẽ nói:
- Thưa đức Hồng y, tôi… tôi chúc mừng ngài…!
Năm ngày sau Mác-ti-ni tới Phoóc-li. Giê-ma gửi cho anh một tập hình quảng cáo theo đường bưu điện. Mật hiệu ấy có nghĩa là tình hình đòi hỏi anh phải có mặt ngay tại chỗ. Mác-ti-ni sực nhớ tới buổi chuyện trò trên sân gác hôm nọ và đã đoán ngay được sự thật. Suốt dọc đường anh luôn nhủ mình không có lý do gì để lo lắng rằng Ruồi Trâu đã gặp nạn. Những ý nghĩ ngông cuồng, ngây ngô của con người nhiều tưởng tượng ấy thì chú ý làm gì? Nhưng càng tự an ủi mình bao nhiều thì anh lại càng nghĩ chính Ruồi Trâu đã gặp điều không may bấy nhiêu.
 
Bước vào phòng Giê-ma, anh hỏi:
- Tôi đoán biết là việc gì đã xảy ra, Ri-va-rét bị bắt rồi có phải không chị?
- Bị bắt hôm thứ năm vừa rồi ở Bơ-ri-xi-ghê-la. Trước khi bị bắt anh ấy chống cự đến phút cuối cùng, bắn bị thương tên đội trưởng kỵ binh và một thằng chó săn.
- Chống chọi bằng súng. Hỏng chuyện rồi!
- Điều đó không quan trọng. Anh ấy bị chúng theo dõi từ lâu. Dù có bắn thêm phát súng cũng chẳng can hệ gì.
- Chị có biết chúng định làm gì anh ta không?
Gương mặt Giê-ma càng tái xanh tái mét:
- Theo ý tôi, chúng ta không nên chờ xem chúng sẽ làm gì anh ấy.
- Chị cho rằng chúng ta có thể cứu thoát anh ấy phải không?
- Nhất định phải cứu thoát.
Mác-ti-ni quay đi, chắp tay sau lưng và huýt sáo miệng. Giê-ma để mặc cho anh nghĩ ngợi. Chị ngồi ngả đầu vào tựa ghế, mắt thờ thẫn, mơ hồ nhìn về phía trước. Vẻ mặt chị gợi cho người ta nhớ tới bức tranh “Bi thảm” của Đuy-rơ (1).
Mác-ti-ni dừng bước trước mặt chị, hỏi:
- Chị đã kịp nói chuyện với anh ấy chưa?
- Chưa, anh ấy định gặp tôi ở đây sáng hôm sau.
- Vâng, tôi cũng còn nhớ. Bây giờ anh ấy bị giam ở đâu?
- Trong pháo đài. Bị lính tráng canh phòng nghiêm ngặt và nghe nói chân tay bị cùm
Mác-ti-ni nhún vai:
- Điều đó không sao. Cùm nào cũng có thể dùng giũa mà phá. Miễn là Ruồi Trâu không bị thương…
- Hình như có bị thương nhẹ, nhưng bị như thế nào thì cũng chưa rõ… Bảo Mi-ke-lê kể lại thì rõ hơn vì hôm Ruồi Trâu bị bắt anh ấy cũng ở đấy.
- Mi-ke-lê làm sao chạy thoát được? Anh ta bỏ mặc Ri-va-rét hay sao?
- Không phải lỗi tại anh ấy. Anh ấy cũng nổ súng với cả đoàn và chấp hành đúng mọi mệnh lệnh. Không ai làm sai cả, chỉ trừ có Ri-va-rét. Hình như Ri-va-rét quên đi hoặc là phút cuối cùng đã sơ hở. Điều đó không thể hiểu được… Anh chờ một chút tôi đi gọi Mi-ke-lê.
Giê-ma bước ra khỏi ohòng. Một lát sau chị trở vào với Mi-ke-lê và một dân miền núi vai rộng.
 
×
Quay lại
Top Bottom