Ông cố vấn - hồ sơ một điệp viên

4.

Dương Văn Hiếu tới nhà thờ Bình An đón Hai Long. Hắn vẫn chưa quen với bộ đồ lớn màu trắng oai vệ, cử chỉ thiếu vẻ tự nhiên.

Từ ngày về phủ tổng thống làm giám đốc cảnh sát đặc biệt, Hiếu càng vì nể Hai Long hơn. Hắn đã biết mối quan hệ mật thiết giữa Hai Long với Nhu. Hiếu được lĩnh nhiệm vụ mới này là do Cẩn tiến cử. Cẩn muốn ngoài Hai Long còn có một người thân tín thứ hai của mình ở kề cận với Nhu, trong khi Nhu lại không biết điều đó. Chỉ cần một câu nói của Hai Long là không biết số phận hắn ra sao. Hắn vẫn tiếp tục khẩn nài Hai Long chia sẻ cho hắn một ít tin tức. Không ai giàu có hơn Hai Long về mặt này. Trong sự kết giao với Hai Long, hắn không yên tâm, vì hắn đã là người có chức vị nhưng vẫn phải đến gặp Hai Long với tư thế của một kẻ cầu cạnh. Ngược lại, Hai Long không nhờ vả hắn bất cứ điều gì. Trong con người này có cái gì đó mà hắn chưa nắm được. Hắn phải cố tìm cho ra. Chừng nào hắn còn chưa nắm được nhược điểm của Hai Long, thì hắn còn phải phụ thuộc vào anh ta và bị anh ta khống chế. Hai Long cũng biết rất rõ Hiếu là một con dao hai lưỡi, hắn luôn luôn tìm cách gần anh để nhờ vả, nhưng cũng để theo dõi anh. Ngô Đình Nhu tuy rất tin anh, nhưng vẫn cho người bám sát anh, như vẫn thường xuyên chú ý đến Cẩn. Đó là một nguyên tắc bất di bất dịch của Nhu.

Hiếu nói:

- Tối nay anh gặp Đức cha thế nào cũng có trao đổi về chuyện ông Út.

- Ông Út có chuyện chi?

- Đức cha không bằng lòng về quan hệ của ông Út đối với Phật giáo Huế. Nếu Đức cha nói tới chuyện này, anh cũng lựa lời đỡ cho ông Út. Chúng mình đều là người của ông Út tiến cử.

- Anh nói phải quá! Giáo dân Phát Diệm chúng tôi mong gì hơn sự hòa hợp giữa Đức cha và các ông, các bà trong gia đình tổng thống.

Hai Long không muốn để hắn buộc chặt anh cũng như hắn với Cẩn.

Hiếu chuyển qua chuyện khác:

- Ông cố vấn trao cho tôi nhiệm vụ bám sát La Poăng[7]. Lão này luồn như rắn. Hắn hay tới Bình An. Tôi muốn nhờ anh tiếp tay cho tôi một chút được không?

- Đó là những việc tôi vẫn thường giúp anh.

- Tôi muốn chuyển cho anh máy ảnh và máy ghi âm của Đài Loan cung cấp cho ta, rất hiện đại, chỉ bằng cái cúc áo, nhờ anh ghi lại cho các cuộc tiếp xúc. Ông Nhu nói phải có những bằng chứng. Khi cần, ta sẽ lật mặt CIA trước công luận.

- Tôi hoàn toàn không biết sử dụng, cũng chưa nhìn thấy những thứ này bao giờ!

- Máy móc rất hiện đại, nhưng sử dụng lại rất đơn giản... Phải nhờ anh, vì chúng tôi không có điều kiện gần gũi Conien như anh. Anh ghi cho cả những cuộc tiếp xúc giữa Conien và cha Hoàng.

- Anh quên cha chánh xứ là cha đỡ đầu của tôi? Tôi không phải là mật vụ của ông cố vấn để theo dõi cha!

Hai Long làm mặt giận.

Hiếu luống cuống:

- Tôi..., tôi diễn đạt ý không rõ. Anh thứ lỗi cho. Tôi cần lời lẽ của Conien để làm bằng chứng, chứ có đâu dám nhờ anh theo dõi cha chánh xứ!

- Chắc anh vẫn thường xuyên theo dõi cả tôi? - Hai Long không buông tha - Thảo nào ông bà Nhu biết nhà tôi ở mấy thước vuông, hằng ngày tôi chở hàng ra chợ Thị Nghè cho vợ như thế nào, và khi vào thư viện tôi đọc những cuốn sách gì!...

Hiếu cầm lấy hai cánh tay Hai Long:

- Xin anh đừng giận, tôi về cảnh sát đặc biệt mới hơn một tháng mà? Trước đây là bọn thằng Tung nó làm. Đó là chuyện nguyên tắc. Chúng nó có nhiệm vụ bảo vệ anh mà! Còn anh em mình thì có chuyện chi? Tôi không bao giờ bảo lính tráng đi theo dõi anh. Biết nhau quá mà! Anh đừng giận oan tôi. Tôi phải dựa vào anh để làm việc. Ông cố vấn tin tôi một thì tin anh mười. Việc tối nhờ anh là nhiệm vụ ông cố vấn trao mà chúng tôi không làm nổi. Có tin cậy nhau hết mức mới dám thưa với anh.

Cặp môi mỏng của hắn dẻo kẹo. Những bắp thịt đôi bên quai hàm luôn luôn chuyển động.

Thấy chỉ cần chừng ấy là đủ, Hai Long nói:

- Chuyện đó sẽ trả lời anh sau. Thú thật tôi rất ghét làm những việc không đàng hoàng.

Hiếu không nói gì thêm, vội mời anh lên xe.


5.

Ba anh em Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu đã có mặt trong buồng của tổng thống. Chắc Thục và Nhu vừa mới tới, nên cả ba người còn đứng giữa nhà. Thục nổi bật lên với chiếc áo choàng bằng nỉ đen và cây thánh giá vàng lấp lánh trước ngực.

Hai Long chạy tới hôn nhẫn của Đức tổng giám mục.

Thục vuốt tóc Hai Long, vỗ nhẹ lên vai:

- Bây chừ mới biết kẻ trọc người thanh hỉ? Mỗi lần thay áo, mang áo của con là cha lại nhớ tới con. Ngoan đạo lắm hỉ? Có cầu nguyện nhiều cho tổng thống không?

Hai Long đáp:

- Dạ, điều này con không dám thưa trình với Đức cha, xin để ông cố vấn thưa giùm con.

Nhu nói:

- Suy nghĩ tới nay, không ai trong số người phò trợ cho tổng thống mà em so bằng Hoàng Long.

Thục lại vỗ vai Hai Long thêm mấy cái, và nhìn anh mỉm cười.

Diệm nói:

- Cách đây hai bữa, Hoàng Long đưa Đức cha Lê vô thăm em. Đức cha Lê cáo biệt để sang Roma.

Thục nói:

- Chú thuật lại lần nữa, tính coi lành dữ ra răng?

- Như em đã thưa, Đức cha quả quyết rằng người Mỹ nhất định loại chú Nhu ra ngoài Phủ tổng thống, trong trường hợp đó, Nhu cũng đi theo. Nếu ta không chấp thuận, họ sẽ hạ bệ luôn cả tổng thống Việt Nam cộng hòa! Đức cha Lê đã chào vĩnh biệt em, và tin rằng khi cha trở về sẽ không còn gặp em tại đây.

Mặt Thục đỏ bừng, mắt sáng lên, hất hàm về phía Hai Long:

- Việc này răng, Hoàng Long?

- Trình Đức cha, Đức cha Lê quả quyết như vậy. Con được diện kiến Đức khâm sai và cha François mới ở Pháp qua, cũng đều một nhận định. Tổng thống còn thì ông cố vấn Ngô Đình Nhu phải ra đi dứt khoát. Áp lực của họ quyết liệt lắm. Con nghĩ, họ nhắm ông bà cố vấn ngày nay là để nhắm tổng thống ngày mai. Nếu ông bà cố vấn đều đi, còn ai là người phò trợ tổng thống? Lúc đó, họ sẽ mặc sức bày ra mọi chuyện đẩy tổng thống tới chỗ phải từ chức.

Thục lắc đầu, môi mím lại, rồi nói:

- Vô lý!... Chi mà vô lý! Không thể như thế được. Mỹ không có lý nào lại hạ tổng thống lúc ni. Ai nói rứa là không biết chi hết. Ngô Đình Diệm vẫn cứ là tổng thống. Ngô Đình Nhu vẫn cứ là cố vấn. Tổng thống còn, cố vấn phải còn. Chú Diệm, chú Nhu phải còn, phải sống cùng nhau...

Thục hướng về phía Nhu:

- Anh còn thì chú phải cùng với anh, anh không thể bỏ chú! Dứt khoát như rứa mới đặng.

Nhu cung kính cúi đầu.

Thục quay lại phía Hai Long:

- Hoàng Long nghĩ rằng Đức cha Lê có ủng hộ tổng thống không?

- Trình Đức cha, Đức cha Lê và chúng con đối với tổng thống trước sau thủy chung như nhất. Năm 1945, 1946 thế nào, bây giờ vẫn thế. Chế độ đang có cơ lâm nguy. Nội bộ có khó khăn. Nhưng nguy hiểm lớn hiện nay là từ ngoài đem tới. Tình thế rất xấu. Nhưng tài trí con người, khí tiết con người phi thường có thể đảo ngược lại tình thế cũng nhiều. Sau lưng tổng thống còn hiến pháp, còn chúng con, còn dân nữa! Đức cha Lê đã dặn dò chúng con: "Tổng thống còn thì hết lòng ủng hộ tổng thống. Tổng thống có thế nào thì trả thù cho tổng thống".

Thục và Diệm nhìn nhau, cùng gật đầu, bộ mặt như đều nở ra, nhưng liền sau đó lại đanh lại. Thục chắp tay sau lưng, lững thững ra khỏi phòng. Diệm cũng làm theo anh, chắp tay sau lưng, lững thững đi theo. Nhu và Hai Long hiểu hai người muốn trao đổi riêng trước khi phát biểu những quyết định trong cuộc họp.

Nhu kéo Hai Long lại ngồi ở xa-lông. Y móc trong túi ra bao Bastos, rút một điếu rồi chìa cho Hai Long. Hai người ngồi im lặng hút thuốc chờ Thục và Diệm quay vào.

Người lão bộc mặc bộ quần áo bà ba xứ Huế khom lưng bước vào, lặng lẽ pha trà.

- Con kính mời hai ông dùng trà.

Nhu lơ đãng gật đầu.

Ông lão cúi đầu kính cẩn đi ra.

Hai Long liếc nhìn Nhu. Mặt mũi y xanh xao, môi thâm lại. Trong cái đầu kia chất chứa trăm mưu nghìn kế. Từ khi có chế độ này, Nhu đã suy nghĩ, đã chèo chống, đã làm tất cả và chịu trách nhiệm về tất cả những việc đã làm của chế độ. Nhu có trong đầu những ý nghĩ mà hai anh không hề biết tới, những suy nghĩ phức tạp mà y không thể trao đổi hết với những người trong gia đình. Có thể cả ý đồ một ngày kia y sẽ thay thế Diệm nếu thấy Diệm không còn khả năng đảm đương quyền lực. Nhưng tối nay, trong gia đình, Nhu sẽ phải ngoan ngoãn vâng theo ý các anh, dù đó chỉ là những quyết định rất thiển cận.

Tiếng quả lắc đồng hồ vang lên trong căn phòng im lặng như tiếng bánh xe thời gian đang đưa con tàu chạy gấp trên con dường dài vô tận.
 
6.

Thục và Diệm từ phía ngoài đi nào, vẻ mặt đều nặng nề. Diệm hất tay đẩy sập cánh cửa.

Nhu và Hai Long đứng dậy, chờ hai người ngồi yên trên ghế rồi mới ngồi xuống.

Thục cất cao giọng nói rè rè đầy uy quyền:

- Tôi và chú tổng thống vừa trao đổi mọi mặt tình hình, đi tới kết luận như ri. Ở Việt Nam cộng hòa ni, mình là chủ, Mỹ không có quyền quyết định giữ ai, bỏ ai. Ta có hiến pháp của ta. Chú Diệm cứ làm tổng thống, chú Nhu cứ giữ cố vấn. Sau này, chú Nhu có làm thủ tướng hay không, rồi ta sẽ bàn, chiếc thế thủ tướng để trống đó, không cho mấy thằng Caravelle tầm bậy xen vô. Người Mỹ vẫn còn coi trọng chú Diệm, họ gây áp lực với chú Nhu, vì họ không hiểu hoàn cảnh Việt Nam. Tôi qua Vatican ít ngày, sẽ tranh thủ qua Mỹ, nói chuyện làm cho họ thông cảm với ta, và hiểu chú Nhu hơn. Chưa có điều chi đáng lo ngại. Rứa được chưa?

- Dạ... - Diệm và Nhu đồng thanh đáp.

- Chừ nói tiếp. Biện pháp chú Nhu đã tính với Phật giáo, cũng không còn lối nào khác, cứ biện pháp ấy mà tiến hành. Làm cho tốt cho gọn, tình hình Phật giáo có thể yên. Vụ Phật giáo ở Huế, bé xé ra to là tại Hắc Long. Tôi đã nhắc Út Cẩn nhiều lần, không được kết thân với hòa thượng, sư sãi. Nhưng Hắc Long không nghe, muốn có nhiều người ủng hộ mình để gây thanh thế. Bọn kiêu tăng ở Huế dám chống lại lệnh của tỉnh trưởng, không chịu hạ cờ Phật vì có lời của Út Cẩn: "Người ta đã trót thì cho treo nốt ngày ni, ngày mốt sẽ hay!". Rứa là nối giáo cho giặc! Không tôn trọng lệnh của tổng thống, không nghe theo mệnh lệnh chính quyền mới sinh rối loạn. Cẩn quá dốt nát, không chịu học hành, lại không vâng lời người trên, giờ phải cách chức Cẩn, bỏ luôn văn phòng cố vấn miền Trung, tập trung quyền lực vô tổng thống, vô cố vấn chính trị... Cử cha Cao Văn Luận đi sứ sang Mỹ, không thuyết khách được chi, về còn lấy lời CIA để dung dọa ta, chắc là người của CIA mà ta chưa biết, phải cất chức khỏi Đại học Huế.

Trong khi Thục nói, cả gian phòng im phăng phắc. Dường như không ai dám thở mạnh.

Diệm như bị lây giọng nói đầy uy quyền của anh, nhân lúc Thục ngừng lời, cũng lên tiếng dõng dạc như một quan tòa:

- Kiến nghị của phong trào liên đới phụ nữ của Nhu lên án những phần tử phản loạn làm tay sai cho ngoại bang, phá rối an ninh, trật tự xã hội, và đồng thanh ủng hộ chính phủ là một hành động hợp pháp, hợp hiến. Có những phong trào hoạt động như vậy càng nhiều càng đáng khích lệ, nhưng phải tuân theo luật pháp. Hành động sai trật với hiến pháp, với pháp luật hiện hành lúc này đều gây thêm rối loạn trật tự xã hội.

Diệm đã thay đổi nhận xét về những việc làm của Lệ Xuân sau khi trao đổi ý kiến với Thục. Thục vốn quý cô em dâu khéo đón ý, khéo chiều chuộng mình. Thục còn quý Lệ Xuân vì Lệ Xuân đã sinh được hai con trai để nối dõi tông đường. Trong sáu anh em trai nhà họ Ngô, chỉ có vợ chồng Nhu sinh được hai con trai.

Nhu ngồi cúi mặt, không nhìn Diệm, mắt bỗng chớp chớp, miệng hơi nhếch một nụ cười nửa như cay đắng, nửa như châm biếm.

Thục tiếp lời Diệm với vẻ bao dung:

- Nhu nói năng còn câu được câu chăng, chú Diệm phê phán cũng phải. Nhưng đàn bà như vậy là can trường, là có lập trường dứt khoát, không giống Út Cẩn. Nhu còn làm được nhiều việc tốt cho chế độ. Tháng 9 tới, cho ấy đi dự cuộc họp các nghị sĩ ở Belgrade[8], sẽ nói cho mọi người trên thế giới nghe về tình hình Việt Nam. Sau đó, ấy qua Mỹ, nói cho người Mỹ biết rõ sự thật. Người Mỹ rất tôn trọng phụ nữ. Nhu có nhiều khả năng làm cho quốc tế thông cảm với lập trường chính phủ Việt Nam cộng hòa.

Hai Long rụt rè:

- Thưa Đức cha, con muốn mạo muội góp một ý kiến.

Thục nhìn Hai Long với cái nhìn thương yêu, khuyến khích:

- Đã coi Hoàng Long như người trong nhà, có điều chi cứ nói.

- Những quyết định của Đức cha và tổng thống rất sáng suốt. Riêng trường hợp cậu Út, nếu cứ để lại Huế, e Phật tử dựa vào lòng thương của cậu Út mà làm càn. Nhưng con vẫn xin Đức cha và tổng thống coi lại, có nên trao cho cậu Út một chức vụ chỉ ở Sài Gòn. Con nghĩ là cậu Út còn làm dược nhiều việc hữu ích cho chế độ.

- Hoàng Long rất nhân hậu - Thục khen - nhưng đã là việc nước không thể nể tình. Quân pháp vô thân. Dòng họ này đang chấp chính. Không nghiêm với người trong nhà, thì không giữ dược phép nước. Công việc của Út Càn, sẽ xét sau.

Hai Long biết trước lời mình sẽ không chuyển được quyết định của Thục đổi với Cẩn. Thục cần làm như vậy để trút mọi tội lỗi trong việc châm ngòi cho những rối ren về Phật giáo xuống đầu cậu Út. Phong trào cách mạng miền Trung đã bớt được một tên hung thần.

Thục đứng lên. Mọi người cùng đứng lên theo.

Thục đưa mắt nhìn từng người, rồi nói:

- Cha đi lần này lòng dạ ngổn ngang. Nhưng dòng họ Ngô nhà ta rất tốt phước. Cha tin rằng cũng giống như mọi lần, sẽ tai qua nạn khỏi, mọi sự rồi lại tốt lành.

Thục chụm hai bàn tay lại, rồi dang rộng hai cánh tay như khi làm lễ tại nhà thờ. Đức cha ngước mắt nhìn lên trần nhà như nhìn vào một cõi xa xăm vô tận để tìm một nguồn động viên an ủi tinh thần.

- Xin Chúa phù hộ chúng con!

- Cầu Chúa che chở cho chúng con! - Hai Long nói tiếp theo Đức cha.

Chuông đồng hồ điểm những tiếng ngân nga.

Mọi người đều đứng im chờ dứt tiếng chuông như lúc nghe tiếng chuông nhà thờ đang đổ hồi. ---

[1] mạng lưới

[2] hay

[3] MACV: Military Assistance Command, Vietnam

[4] Office of Strategic Services: Cục tình báo chiến lược, cơ quan tình báo quân đội Mỹ, tiền thân của CIA.

[5] Mũi nhọn

[6] nói riêng giữa chúng ta

[7] La Pointe, tức Lucien Conien

[8] Thủ đô Nam Tư
 
GIỮA HAI DÒNG NƯỚC

1.
Ngày 20-8-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên bố tình trạng thiết quân luật tại khắp Việt Nam cộng hòa, để lập lại trật tự an ninh và duy trì pháp luật; quân đội ở các nơi đều được lệnh cấm trại.

Buổi tối, cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu triệu tập tất cả cán bộ quân sự chỉ huy cao cấp ở Sài Gòn. Y nói về những cuộc biểu tình đấu tranh chính trị ở khắp các huyện lỵ, thị trấn miền Nam, do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam phát động, thu hút hàng triệu lượt người, và yêu cầu lực lượng quân đội phải tham gia đàn áp để chặn đứng lại. Nhu không hề đả động đến những cuộc biểu tình của Phật giáo ở Sài Gòn và các đô thị trong thời gian qua.

Lúc 1 giờ sáng ngày 21, trên đường phố Sài Gòn xanh biếc ánh đèn thủy ngân, về khuya vắng vẻ, bỗng ầm ầm xuất hiện hàng loạt xe quân sự chở đầy binh lính của lực lượng đặc biệt, cảnh sát và mật vụ tiến về những trung tâm lớn của phong trào Phật giáo như chùa Xá Lợi, Viện Hóa Đạo... Binh lính, cảnh sát, mật vụ từ trên xe nhảy xuống ào ào đổ vào khám xét, phá phách, tìm vũ khí. Nơi nào chúng cũng "tìm" ra được một số súng ngắn, vài quả lựu đạn (người ta nói là chính bọn chúng đã đem theo). Rồi chúng bắt tất cả những nhà sư, những Phật tử không kể bất cứ lý do nào có mặt ở trong chùa, dồn lên xe chở đi. Có những người chống lại không chịu để chúng bắt. Bọn chúng thẳng tay đàn áp. Số người bị thương lên tới vài chục.

Hòa thượng Thích Tịnh Khiết đứng đầu ủy ban liên phái Phật giáo miền Nam cùng nhiều nhà sư trong ủy ban đều bị bắt. Riêng thượng tọa Thích Trí Quang cùng với hai nhà sư khác vừa thấy động, kịp thời trốn khỏi chùa, chạy tới sứ quán Mỹ xin cư trú.

Những cuộc bắt bớ như trên cũng diễn ra tại Huế, Đà Nẵng và một số thành phố khác, những nơi thời gian qua đã có những cuộc đấu tranh của phong trào Phật giáo chống Diệm.

Lúc 5 giờ sáng ngày 21, những người đứng đầu các bộ máy trong chính quyền ngụy và các tướng lĩnh chỉ huy quân sự ở Sài Gòn được mời tới dinh tổng thống. Cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu, mặt mũi xanh xao, môi tím sẫm, thông báo cho họ biết về chiến dịch toàn quốc do tổng thống phát động, nhằm bắt giữ những người của Phật giáo đã cầm đầu những vụ gây rối trong hơn một tháng qua.

Trên lãnh thổ Việt Nam cộng hòa có 1.400 sư sãi và Phật tử bị bắt. Một số mất tích.

Tình trạng thiết quân luật sau đó vẫn được giữ nguyên trên khắp miền Nam. Nhiều người đã hiểu rằng lệnh thiết quân luật không phải được ban hành nhằm chống những cuộc biểu tình do Mặt trận Giải phóng lãnh đạo, mà chỉ là một mẹo của Ngô Đình Nhu, nhằm tách quân đội ra để không gây cản trở cho chiến dịch càn quét những người cấm dầu Phật giáo.

Phong trào chống Diệm đàn áp Phật giáo lắng hẳn xuống. Những con em nhà Phật mất người cầm đầu, lại e sợ bị khủng bố nên tạm ngừng đấu tranh.

Tuy nhiên, phản ứng đối với cuộc đàn áp Phật giáo mới này, một biện pháp mạnh của Ngô Đình Nhu, không phải không đáng kể.

Sau khi được thông báo về chiến dịch càn quét những sư sãi, bộ trưởng ngoại giao Vũ Văn Mẫu đã đệ đơn xin từ chức và cạo trọc đầu để phản đối. Trần Văn Chương, bố đẻ của Lệ Xuân, đang làm đại sứ tại Mỹ cũng lên tiếng phản đối vụ đàn áp Phật giáo mới. Lập tức Ngô Đình Diệm ra quyết định giải nhiệm Chương khỏi chức đại sứ. Việc giải nhiệm Chương cũng còn một lý do khác: có tin đồn Mỹ định vận động đưa Chương về làm thủ tướng để biến Diệm thành bù nhìn.

Phong trào Phật giáo trên thế giới tỏ ra rất bất bình trước hành động đàn áp Phật giáo của Diệm - Nhu tiếp sau việc 6 nhà sư nam, nữ liên tiếp tự thiêu. Liên hiệp quốc ra nghị quyết cử một đoàn gồm thành viên của 7 nước có nhiều người theo đạo Phật, tới miền Nam Việt Nam tiến hành điều tra. Tuy nhiên, Ngô Đình Nhu đã khéo léo giới thiệu bản thông cáo chung giữa Ngô Đình Diệm với hòa thượng Thích Tịnh Khiết, và phong trào đấu tranh Phật giáo đã lắng xuống, nên đoàn điều tra khi ra về đã tuyên bố là vụ Phật giáo ở Nam Việt Nam đang được giải quyết thỏa đáng.

Cũng thời gian này, chính phủ Pháp ra tuyên bố mong muốn Việt Nam cộng hòa độc lập đối với nước ngoài, hòa bình và thống nhất nội bộ, nếu được như vậy, Pháp sẽ sẵn sàng hợp tác chặt chẽ.

Ngô Đình Nhu coi như đã tháo được ngòi nổ trong vụ Phật giáo.

Nhưng phản ứng lớn nhất đối với chiến dịch đàn áp Phật giáo lần này, lại từ phía Mỹ, đồng minh chiến lược của Việt Nam cộng hòa. Nhà Trắng coi đây là sự tuyên chiến của Ngô Đình Nhu đối với Mỹ.

Ngày 24-8, bộ ngoại giao Mỹ điện cho Cabot Lodge: "Mỹ không thể tiếp tục cho Nhu nắm chính quyền, nếu Diệm không gạt Nhu thì Diệm cũng không được duy trì".

Ngày 29-8, sau khi nhận dược báo cáo của Cabot Lodge về những ý kiến khác nhau ở tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, với bức điện của bộ ngoại giao Mỹ, tổng thống Kennedy trả lời Cabot Lodge là tán thành ý kiến của Cabot Lodge hơn ý kiến của Harkin, người vẫn chủ trương duy trì Diệm - Nhu. Ý của tổng thống Mỹ là phải gạt ngay vợ chồng Nhu, còn có giữ Diệm hay không là tùy tình hình.

Nhà Trắng đã chính thức phát tín hiệu. 2.

Hàng ngày, Hai Long phải báo cáo những tin tức mới về Trung tâm. Ngoài những tin tức về quân sự, chính trị, điều quan tâm lớn nhất của Trung tâm lúc này là khả năng diễn ra một cuộc đảo chính quân sự lật đổ chế độ Diệm và thời gian nổ ra đảo chính. Hai Long biết một tình hình không ổn định kéo dài của chính quyền Diệm sẽ rất lợi cho việc xây dựng lực lượng của cách mạng miền Nam. Và thời điểm của cuộc đảo chính là cơ hội rất tốt để đập tan hàng ngàn ấp chiến lược, củng cố và mở rộng vùng giải phóng, đẩy phong trào cách mạng miền Nam tiến lên một bước phát triển mới. Trung tâm cũng đã nhiều lần nhắc anh phải chuẩn bị một thế mới để công tác không bị gián đoạn trong trường hợp chế độ Diệm bị lật đổ.

Từ sau ngày cha Lê đi Roma, nhà thờ Phát Diệm trở nên vắng vẻ. Những người thường lui tới nhà thờ Phát Diệm đã chuyển về Bình An. Cha Hoàng nổi bật lên như người đứng đầu của Công giáo Phát Diệm, công giáo miền Bắc di cư.

Hai Long thường xuyên vận động theo chu vi của một hình tam giác: nhà thờ Bình An, dinh Gia Long và Tòa Khâm sứ Tòa thánh Vatican ở Sài Gòn.

Tòa Khâm sứ là nơi có những tin tức nhanh nhất về thái độ của Mỹ, chỉ thua toà đại sứ Mỹ. hàng tuần, hai Long đến đây ít nhất một lần. Anh phải thay mặt cha Hoàng báo cáo tình hình chính trị ở Sài Gòn, đặc biệt là những chuyện xảy ra ở dinh Gia Long. Bí thư của Khâm sứ tòa thánh cũng cho anh biết những tin tức mới về Mỹ, Pháp và Vatican để anh về báo cáo lại với cha Hoàng. De Nittis nói Vatican đã vận động Diệm cho vợ chồng Nhu cùng xuất ngoại, nhưng gia đình Diệm không thống nhất, chỉ để mình Lệ Xuân ra đi một thời gian, giữ Nhu ở lại với Diệm. Giáo hoàng cũng đã khuyến cáo Diệm - Nhu không nên chống Phật giáo, nhưng Mỹ đã quyết định số phận của Diệm - Nhu rồi. Việc Vatican gọi Ngô Đình Thục sang Roma là để bảo vệ tính mạng của Thục, tránh những hậu quả xấu cho giáo hội Việt Nam sau khi Diệm đổ. De Nittis luôn luôn nhắc anh, theo khuyến cáo của giáo hoàng, giáo hội Việt Nam phải đứng ngoài cuộc tranh chấp hiện nay giữa Diệm - Nhu và Phật giáo, giữa Diệm - Nhu với Mỹ.

Hai Long nhận thấy cha Hoàng cử mình đến Tòa thánh chỉ cốt nắm chủ trương, nắm tình hình, để thực hiện ý đồ riêng của mình.

Cha Hoàng không đứng ngoài vụ Phật giáo. Nhà thờ Bình An từ trước đến giờ vẫn là một trung tâm thu hút những người cầm đầu Phật giáo chống Diệm. Người thường xuyên lui tới là Thích Tâm Châu. Thích Tâm Châu hiện đứng trong ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo, tổ chức đang lãnh đạo các Phật tử đấu tranh chống Diệm. Thích Tâm Châu trước đây tu ở chùa Đồng Đắc, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, chỉ cách Phát Diệm 3 km. Thích Tâm Châu cùng với cha Hoàng đều là thành viên ủa tổ chức Liên tôn diệt Cộng, đã được cha Lê che chở trong giáo khu Phát Diệm. Ngô Đình Nhu biết rõ cha Lê có quan hệ với Thích Tâm Châu, đã nhờ Hai Long nói với cha Lê, vận dộng Thích Tâm Châu hòa giải với Diệm - Nhu. Chạ Lê lờ đi. Trong khi đó, cha Hoàng đã cứ cha Lê Quang Oánh, nguyên là cố vấn của tổng bộ Phát Diệm, làm tham mưu cho Thích Tâm Châu để kích động quần chúng Phật tử đấu tranh chống Diệm.

Từ ngày cha Lê đi Roma và đánh hơi thấy Mỹ quyết tâm hạ bệ Diệm - Nhu, cha Hoàng như con ngựa sổ chuồng. Cha công khai tập hợp lại lực lượng cựu tự vệ Phát Diệm, cho rằng Diệm - Nhu không còn làm gì được mình. Cha không quên mối thù xưa đối với những kẻ đã đập tan tổ chức tự vệ Phát Diệm và đày ải cha về xứ đạo Bình An đầy sỏi đá và cỏ lác này.

Cha Hoàng nói với Hai Long:

- Phe cánh Công giáo Phát Diệm ta phải liên minh chặt chẽ với nhóm thân Pháp, nhóm chống Diệm và chống Mỹ, nhóm chống Cộng trong Phật giáo, và lợi dụng Mỹ và bọn thân Mỹ. Trong vụ Phật giáo này không phải chỉ có Mỹ và các phe phái chống Diệm mà cả Pháp cũng xen vào... Con có nhiệm vụ hợp đồng với tất cả người ta, phò tá Phật giáo chống Diệm - Nhu.

Những phe nhóm này đổ xô tới Bình An. Nhiều nhóm đã có liên hệ với Phát Diệm từ trước năm 1954 ở miền Bắc. Trong các nhóm đều có thêm những bộ mặt mới, một số đến nay mới xuất đầu lộ diện, cũng có những người trước đây rất thân thiết với Diệm - Nhu, nay thấy gió đổi chiều, nên vội trở cờ. Do bàn tay dắt dẫn khéo léo của cha Hoàng và cha Oánh, những nhóm này đã tập hợp chung quanh Thích Tâm Châu, dưới danh nghĩa ủng hộ ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo. Thích Tâm Châu, Lê Quang Oánh và Nguyễn Tường Tam hợp thành một bộ ba rất thân thiết, thường ngồi trao đổi ý hợp tâm đầu quanh những bữa nhậu lai rai. Thích Tâm Châu đã đặt tên cho Nguyễn Tường Tam là Thích Mạc Tiền (thích rượu Martell) và Lê Quang Oánh là Thích Diệu Đế (thích rượu đế). Sau ngày Nguyễn Tường Tam tự tử, bộ ba này chỉ còn có hai người.

Gần đây, đối với họ, số phận Diệm - Nhu không còn phải bàn cãi. Họ chỉ trao đổi xem người thay Ngô Đình Diệm sẽ là ai. Nhiều phe nhóm tự nhận là không có lãnh tụ chính trị. Thích Tâm Châu, người của nhóm lãnh đạo Phật giáo, cũng tự nhận như vậy, và tôn Lê Quang Oánh làm quân sư về vấn đề này. Nhưng Lê Quang Oánh tỏ vẻ rất kín tiếng.

Hai Long được cha Hoàng chính thức giới thiệu với các phe nhóm, là người thay mặt cho mình. Anh chú ý lắng nghe mọi ý kiến của họ. Nhưng anh vẫn chưa phát hiện ra người thay thế là ai trong trường hợp Diệm đổ. Đó là điều làm anh băn khoăn, vì anh phải có hướng chuẩn bị kịp thời một chỗ dựa mới.

Dương Văn Hiếu rất thèm cái kho tin tức ở nhà thờ Bình An. Mấy lần tới gặp Hai Long, Hiếu thử trà trộn vào những cuộc nói chuyện. Nhưng một số người đã biết hắn là người của Út Cẩn nay chuyển sang làm với Nhu. Họ rỉ tai nhau và lảng tránh. Có mặt Hiếu, mọi chuyện bàn bạc tạm ngừng, người ta chỉ trao đổi với nhau những câu vu vơ. Hiếu biết khó ăn, lại đành phải tiếp tục nhờ vả Hai Long. Hai Long khuyên hắn nên trực tiếp gặp cha Hoàng. Hiếu rất ngại cha Hoàng, vì cha là người sau cha Lê mà cả Diệm và Nhu đều phải e dè. Hiếu cử Tá Đen, đã trở thành phụ tá của y, xuống nhân danh mình gặp cha chánh xứ. Tá Đen lúc đầu khéo léo khen ngợi cha Hoàng đã xây trường mở lớp, biết nhìn xa trông rộng, lo việc đạo về lâu dài. Cha Hoàng ngồi nghe có vẻ bùi tai. Nhưng tới khi Tá đen thăm dò tin tức thì cha hiểu, nói bốp chát:

- Mỹ lật ông Diệm, ông Nhu tới nơi rồi, tin tức mà làm quái gì!... 3.

Cha Hoàng lên Tòa thánh gặp Khâm sứ Brini mới từ Roma trở về. Hai Long ngồi làm việc một mình ở văn phòng. Có người vào báo, một ông ở tòa đại sứ Mỹ đến tìm anh.

- Tìm cha Tổng hay tìm tôi? - Hai Long hỏi lại.

- Ông ta nói rõ là xin gặp ông Phi-líp[1] Vũ Đình Long.

- Mời ông ấy vào.

Hai Long đoán là Conien, người gần đây thỉnh thoảng lại tới gặp cha Hoàng. Gặp hắn là điều rất hay, vì Hai Long chưa có dịp móc nối với tòa đại sứ Mỹ.

Một người Mỹ lớn tuổi, mặt xương xương, cặp mắt nham hiểm bước vào. Hắn chính là Conien.

- Xin chào ông Philippe Vũ Đình Long. - Conien nói bằng tiếng Pháp như một người Pháp. - Tôi đến gặp ông có hơi đột ngột. Tôi là Lucien Conein.

- Hoàn toàn không đột ngột - Hai Long đáp lại bằng tiếng Anh - Tôi đã biết ông từ lần đầu khi ông đến thăm cha chánh xứ.

Đôi bên bắt tay nhau. Hai Long mời Conien ngồi.

- Tôi muốn gặp ông từ lâu - Conien vẫn nói bằng tiếng Pháp vì y muốn câu chuyện sẽ dễ dàng hơn - Tôi biết ông là một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng, cha Hoàng đã giới thiệu với tôi, ông là người đại diện có thẩm quyền của Đức cha.

- Về những vấn đề có liên quan đến giáo dân Phát Diệm. - Hai Long nhũn nhặn tiếp lời Conien.

- Hiện nay Phát Diệm là tất cả. - Conien mỉm cười, cặp mắt tinh quái nheo nheo - Mọi người đều tới nhà thờ Bình An, kể cả tôi.

Hai Long cũng mỉm cười, tỏ vẻ đôi bên đã hiểu nhau.

- Ông Philippe biết rất rõ về mối quan hệ đồng minh mật thiết giữa Mỹ với Việt Nam cộng hòa. Tòa đại sứ Mỹ chịu một trách nhiệm lớn về những việc xảy ra tại đây.

Hai Long ngồi im lắng nghe.

- Tôi muốn hỏi riêng ông về khả năng diễn ra một cuộc đảo chính?

- Mọi người đều nghĩ đó là một chuyện tất yếu sẽ xảy ra. Người ta chỉ còn chờ xem nó nổ ra vào lúc nào và ai sẽ là tác giả.

- Ông thường xuyên có quan hệ với Phủ tổng thống?

- Nếu không phải hàng ngày thì cũng là hàng tuần. Phát Diệm có quan hệ từ xa xưa với ông Diệm và ông Nhu.

- Cũng có thời gian mối quan hệ đó đã trở nên lạnh nhạt?

- Ông đã hiểu rõ vấn đề. - Hai Long nở một nụ cười tế nhị.

- Ông Ngô Đình Nhu có nghĩ đến một cuộc đảo chính sắp nổ ra?

- Tất nhiên... Nhưng đối với những câu hỏi cụ thể, ông cho phép tôi dược dè dặt.

- Điều đó không nên... Cha chánh xứ và tôi đã trao đổi với nhau như những người trong nhà. Vì cha và chúng tôi đều tự coi là có trách nhiệm với những chuyện sẽ xảy ra.

- Cha chánh xứ có cương vị của cha... Tôi sẽ nói với ông một điều rất thành thật: tôi chưa thực hiểu ông.

Conien xòe ngửa hai bàn tay với vẻ thất vọng như không rõ vì sao.

- Tôi biết ông là người có trách nhiệm ở tòa đại sứ Mỹ. Nhưng người Mỹ không có chung một quan điểm. Ngay trong tòa đại sứ Mỹ cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Ông Lodge không giống ông Nolting, ông Harkin không giống ông Lodge. Tôi không biết ông Richardson và ông có giống nhau không, mặc dù hai ông đều làm việc cho một nơi. Những người của CIA lại không hoàn toàn kín đáo như chúng tôi đã tưởng!

- Đó là một thực tế, - Conien gật gù - một điều rất đáng tiếc.

Hai Long dồn thêm:

- Nhiều tín hiệu từ phía Nhà Trắng tỏ ra rất bất bình với ông Diệm, đặc biệt là ông Nhu, đòi phải có sự thay đổi; nhưng ở đây, ông Harkin đã nói ở tòa đại sứ Anh, là rất ủng hộ ông Diệm, và hoàn toàn phản đối những âm mưu đảo chính?

Conien không xác nhận cũng không phủ định, ngồi trầm ngâm. Rồi y nói:

- Mỗi người có thể có những quan điểm khác nhau, nhưng đó là quan điểm cá nhân.

- Chúng tôi, những người không ở trong tòa đại sứ Mỹ, không phân biệt được đâu là quan điểm cá nhân của người Mỹ, đâu là quan điểm của chính phủ Mỹ?

- Giữa cha chánh xứ và tôi đã có sự đồng cảm, không biết cha chánh xứ có trao đổi lại với ông phụ tá?

- Tôi làm việc với cha chánh xứ hàng ngày.

- Vậy thì có thể nói thẳng với ông, lời phát biểu của tướng Harkin chỉ là quan điểm cá nhân. Tòa đại sứ Mỹ chúng tôi phải theo quan điểm của chính phủ Mỹ. Ông có thể cho tôi biết thái độ giáo phái Phát Diệm đối với tình hình hiện nay như thế nào?

- Để chúng ta dễ nói chuyện hơn... Ông muốn hỏi thái độ đối với một cuộc đảo chính?

- Coi là như vậy.

- Phát Diệm tuân theo lời khuyến cáo của Tòa thánh Vatican, chúng tôi đứng ngoài cuộc tranh chấp.

- Ông có bảo đảm dược điều đó không? Còn giáo hội Việt Nam như thế nào?

- Tôi không thể nói thay cho giáo hội. Nhưng về phía Phát Diệm thì chắc chắn là như vậy.

- Rất cảm ơn ông. Theo ông nghĩ thì ai sẽ tiến hành đảo chính?

- Chắc không ngoài giới quân sự, những người từ trước tới nay không tán thành ông Diệm và ông Nhu. Nhưng các ông phải biết hơn chúng tôi?

- Không hẳn vậy. Chủng tôi muốn có sự thay đổi, muốn Việt Nam cộng hòa có một chính phủ chống Cộng hữu hiệu hơn. Nhưng chúng tôi chưa biết rõ ai có khả năng này. Số tướng lĩnh tỏ vẻ bất bình với ông Diệm, ông Nhu không ít, nhưng không hiểu ai dám làm việc đó?

- Ông Diệm tin là có thần linh phù hộ. Còn ông Nhu có những biện pháp cứng rắn của mình. Đảo chính chắc sẽ nổ ra. Nhưng chưa chắc người làm đảo chính sẽ giành thắng lợi.

- Vì vậy họ còn e ngại? - Conien nhìn Hai Long chăm chú.

- Tôi nghĩ như vậy. Người ta sợ ông Nhu, người ta còn sợ cả phía người Mỹ. Phương ngôn Việt Nam có câu: "Qua cầu rút ván!". Người làm đảo chính lo nếu nửa chừng bị Mỹ bỏ rơi, họ sẽ không có đường về. Họ đã có những kinh nghiệm đau xót.

- A...! - Conien reo lên - Có tâm lý như vậy ư?

- Chắc chắn là có. Còn một điều quan trọng hơn... Nếu ông Diệm, ông Nhu đổ, ai sẽ là người thay thế? Mọi người đều chưa tìm ra lá bài. Như ý của chính phủ Mỹ: muốn có một chính phủ chống Cộng hữu hiệu hơn, người nào có khả năng làm được việc đó? Theo ông, có thể là ai?

Conien không trả lời, gật gù:

- Những vấn đề ông nêu lên rất hay. Xin hết sức cám ơn ông về cuộc gập gỡ bổ ích này. Nó sẽ giúp cho chúng tôi suy nghĩ thêm nhiều vấn đề. Nếu ông đồng ý, chúng ta sẽ còn những cuộc trao đổi...

Ngoài Bình An, Tòa thánh Vatican ở Sài Gòn, dinh Gia Long, Hai Long đã có thêm một mối quan hệ thứ tư: tòa đại sứ Mỹ.
 
4.

Sau khi xảy ra vụ Phật giáo, Ngô Đình Diệm mỗi ngày càng tỏ ra mệt mỏi và bấn loạn tinh thần. Cái chết của Nguyễn Tường Tam, vụ tiến công nửa đêm về sáng ngày 20-8 (Diệm đồng tình với Nhu về chủ trương nhưng không bằng lòng vì Nhu đã làm quá mạnh tay, huy dộng cả quân đội thường trực vào việc này) và gần đây nhất là thái độ dứt khoát của Mỹ. Những sự việc xảy ra, những vấn đề quá phức tạp đã vượt xa khả năng của Diệm, vốn xuất thân từ một viên quan lại hành chính thời bình.

Ngô Đình Nhu biết mình đã cưỡi trên lưng hổ, không thể nhảy xuống. Y lặng lẽ nắm hết công việc đối nội đối ngoại, quân sự và tự mình quyết định mọi biện pháp đối phó với tình hình.

Hồi Pháp thuộc, sau khi tốt nghiệp với điểm cao tại trường Bác cổ[2] Paris, một trường có những thể lệ thi cử ngặt nghèo, Nhu được thực dân Pháp chọn về làm việc ở Văn khố phủ toàn quyền Hà Nội. Nhiều người đã gọi Nhu là "mọt sách". Y tự hào về kiến thức, trí nhớ và tài tổ chức của mình. Nhu sống cô độc, không thích giao du, cho là chung quanh không hiểu được mình.

Nhu bắt đầu thực sự thi thố "tài năng" từ ngày Diệm làm tổng thống. Khi đã có quyền hành trong tay, Nhu nghiên cứu chủ nghĩa Marx không chỉ để chống lại mà còn để rút ra những gì có thể áp dụng vào công việc của mình. Nhu say sưa đọc những nghị quyết của ta. Sách gối đầu gi.ường của Nhu là mấy cuốn "Chiến tranh nhân dân", "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi", "Sửa đổi lề lối làm việc". Mặc dù có những đoàn chuyên gia của Mỹ sang giúp đỡ Diệm xây dựng chính quyền cộng hòa, nhưng chính thể do Nhu tổ chức ở Nam Việt Nam là một "bản sao nguyên si" chính thể miền Bắc, Nhu chỉ thay đi cái lõi bằng chủ thuyết Cần lao - Nhân vị với tổ chức nòng cốt của nó: đảng Cần lao - Nhân vị. Nhu nói không giấu giếm: "Cộng sản có gì hay ta phải học". Bộ máy lãnh đạo của Nhu giống ta cả tên gọi: cũng đảng đoàn, quân ủy, tỉnh ủy, chi ủy, quân ủy hội, khu bộ, chi bộ. Nhu tổ chức rất nhiều đoàn thể quần chúng: phụ nữ, thanh niên, công chức... Nhu quan tâm đến giới trí thức. Nhu cho lập làng Đại học, làng Báo chí để mua chuộc trí thức. Y đã cho tổ chức hội Văn bút và đưa tay chân vào đó nắm những người viết văn. Nhu coi trọng một đôi người như Nhất Linh, nhưng không gần. Với những người trí thức có tham gia hoạt động chính trị, Nhu đều không ưa, coi đó là loại người "xôi thịt". Nhu bố trí đảng viên đảng Cần lao - Nhân vị vào tất cả các vị trí bộ máy nhà nước, đưa đảng viên về từng huyện, từng xã, từng ấp. Đảng viên được tung đi nắm các phong trào. Bộ máy an ninh, mật vụ tổ chức rất chặt chẽ đến từng nhà, từng người. Kể cả người trong gia đình như Cẩn cũng đều chịu sự kiểm soát ngặt nghèo của mạng lưới chằng chịt, người nọ theo dõi người kia do Nhu lập ra.

Nhu tin vào chủ thuyết "vì con người" và tài tổ chức của mình, hy vọng một ngày kia chế độ Việt Nam cộng hòa sẽ "dân chủ hóa" được thể chế ở miền Bắc, đánh bại chủ thuyết cộng sản. Đây là tham vọng lớn nhất của y. Nhưng giờ đây, hy vọng đó đang tiêu tan. Những thứ Như tưởng như đã nắm chắc được, giống như cát tuột khỏi một bàn tay nắm chặt. Nhưng nếu Diệm lên làm tổng thống như nhận một thứ ân huệ do Chúa ban phát để hưởng thụ, thì Nhu gắn bó với chế độ này bằng máu thịt; y cho rằng mọi thứ đều được xây dựng bằng công sức của mình. Y sẽ sống chết với nó chứ không cam tâm để người khác giật khỏi tay mình.

Về Sài Gòn ít lâu, Hai Long hiểu sâu thêm về tính cách của Nhu. Nhu tự cao, tự tôn nhưng không hẹp hòi, cố chấp, cứng nhắc như Diệm. Nhu thâm trầm, ít nói, ít cười, kể cả khi gặp những chính khách Nhu cũng xẻn lời. Nhiều người nói Nhu thâm hiểm. Nhưng khi gặp câu chuyện tâm đắc, Nhu lại rất cởi mở. Nhu luôn luôn nghi ngờ mọi người, nhưng đôi lúc lại bộc bạch quá đáng. Nhu rất tự tin, không tổ chức bộ tham mưu, tự mình quyết định lấy mọi việc. Nhu chỉ lựa chọn người để trao đổi ý kiến riêng, số người này không nhiều. Mỗi lần gặp ai, Nhu vào việc ngay. Khi cảm thấy câu chuyện không bổ ích, Nhu lập tức cắt đứt, nhiều lúc bị coi là khinh người. Nhưng khi gặp người có những ý kiến đáng chú ý, Nhu không hề tiếc thời gian. Cách nói của Nhu luôn luôn tỏ ra áp đặt, buộc người nghe phải đồng ý với mình. Nhưng Nhu lại chấp nhận tranh luận, và khi đuối lý, Nhu không giận. Về điểm này, Nhu hoàn toàn khác với Diệm. Diệm không bao giờ chịu thua ai. Những người cãi lại Diệm đều bị Diệm ghét và khó tránh khỏi bị trả thù...

Hai Long biết Nhu chỉ gắn bó với mình chừng nào mình còn có ích cho y. Quan hệ giữa anh và Nhu sẽ nhạt dần nếu mỗi lần đến gặp, anh không đem lại cho y một điều gì mới có liên quan đến việc duy trì, bảo vệ chế độ mà Nhu coi như của riêng mình.

Lần này gặp, Hai Long thông báo cho Nhu những điều anh đã nghe được ở Tòa Khâm sứ và đặc biệt là cuộc nói chuyện với Conien.

Nhu nhíu mày nghe xong, mặt xạm lại. Rồi y nói:

- Tôi đã nghĩ đến chuyện này từ khi đại sứ Nolting bị triệu hồi. Gần đây lại thêm Richardson cũng bi gọi về. Cabot Lodge sẽ rảnh tay thực hiện ý đồ của Kennedy. Nhưng..., như anh nói, tất cả bọn họ đều chưa tìm ra con bài nào để thay thế tổng thống?

- Đến nay thì như vậy.

- Có ai nhắc đến Đán, đến Sửu không?

- Tôi không nghe. Sửu đã quá già. Đán thì không nắm được giới quân sự.

- Như vậy ta còn thời gian.

- Thời gian rất khẩn trương. Rất có thể, thấy Mỹ đã bật đèn xanh, bọn tướng lĩnh cứ làm liều. Sau đó, trong bó đũa chúng sẽ chọn cột cờ.

- Chính phủ Pháp đã tỏ thái độ sẵn sàng ủng hộ ta. Chắc Đức cha Lê và Vatican có góp phần. Giờ phải làm cho dư luận Mỹ đồng tình với ta. Nhung trước mắt vẫn là phải ngăn chặn một âm mưu đảo chính.

- Cần có lực lượng tin cậy ở ngay giáp Sài Gòn. Phải đập tan đảo chính từ trong trứng!

- Tôi đã bảo tướng Trần Văn Đôn hàng tuần họp các chỉ huy ở Sài Gòn, thông báo tình hình thiết quân luật. Tôi luôn luôn có mặt ở đó, giải thích những chủ trương và nghe luận điệu, xem thái độ các tướng lĩnh... Tôi đồng ý với anh, phải có lực lượng tin cậy ở chung quanh Sài Gòn và ngay tại Sài Gòn...

Rồi Nhu thở dài:

- Phải để bà Nhu đi thôi! Elle[3] có khả năng làm cho dư luận Mỹ ủng hộ ta. Đức cha không có điều kiện để tiếp xúc rộng với mọi người như elle.

Cuối thượng tuần tháng 9, Lệ Xuân lên đường để dự hội nghị ở Belgrade để sau đó qua Mỹ.
 
5.

Chuyến công cán của tổng giám mục Ngô Đình Thục ở Mỹ đã hoàn toàn thất bại. Hồng y giáo chủ Mỹ Spellman, người đỡ đầu Thục nhiều năm dài, đã khước từ gặp Thục. Thục lại xin gặp Mansfield, một trong những người đã tạo ra Ngô Đình Diệm. Đến lượt Mansfield cũng từ chối. Ngô Đình Thục đã thấy rõ tiếng nói của mình chỉ có giá trị giữa bốn bức tường trong gia đình. Ở đó ông là người thay mặt Chúa. Còn ở đây, không riêng gì Hồng y giáo chủ, thượng nghị sĩ quốc hội, mà người dân bình thường cũng không buồn nghe ông.

Lệ Xuân tới Mỹ sau Ngô Đình Thục, tỏ ra xuất sắc hơn.

Sau vụ Nhu tổ chức càn quét những chùa chiền, Kennedy đã tổ chức họp báo về Việt Nam, tuyên bố cảnh cáo tổng thống Ngô Đình Diệm, ra điều kiện cho Diệm phải thay đổi chính sách và không chừng phải thay đổi hệ thống nhân sự lãnh đạo ở Sài Gòn. Kennedy chĩa mũi nhọn vào vợ chồng Nhu, đe dọa một cuộc đảo chính có thể xảy ra vì những vụ đàn áp tôn giáo trên khắp Việt Nam cộng hòa, và Mỹ sẽ không chịu trách nhiệm.

Vừa tới Los Angeles, Lệ Xuân tổ chức ngay một cuộc họp báo để đáp lại. Đứng trước cử tọa đông đảo, những ống kính máy ảnh và vô tuyến truyền hình, Lệ Xuân công khai lên án Mỹ đang tổ chức một cuộc đảo chính lật đổ tổng thống hợp hiến và chế độ Việt Nam cộng hòa, rằng trừ trường họp được Mỹ xúi giục và hậu thuẫn, bất cứ cuộc đảo chính nào cũng không thể thành công. Lệ Xuân gay gắt mạt sát Mỹ, cột Mỹ vào trách nhiệm nếu có đảo chính. Lệ Xuân lớn tiếng tuyên bố Việt Nam cộng hòa đủ sức tự lực tự cường và thách thức bọn âm mưu đảo chính.

Chính tổng thống Mỹ cũng phải e ngại những lời nói táo bạo, phẫn uất của Lệ Xuân, và đã gọi Lệ Xuân là "con rồng cái".

Nhưng cuộc họp báo này, cũng như những hoạt động sau đó của Lệ Xuân, mặc dù gây được nhiều tiếng vang, vẫn không làm chậm tấn thảm kịch sắp diễn ra với gia đình họ Ngô, mà trái lại chỉ thúc đẩy nó đi mau hơn.

Hai Long sang buồng Lệ Thủy, trao chìa khóa trước khi ra về.

- Chú Hoàng Long! - Lệ Thủy nói - Chú ngồi nán thêm một lát được không? Cháu có chuyện muốn hỏi chú.

Hai Long kéo ghế ngồi bên bàn học của cô gái đang tuổi dậy th.ì, có bộ mặt hao hao giống mẹ, nhưng lành hiền hơn.

- Má cháu đi rồi, cháu không biết hỏi ai, chỉ còn hỏi chú.

- Có chuyện chi, nói chú nghe!

- Dạ, cháu lo quá chú à! Đài BBC họ nói đủ mọi chuyện. Đi ra đi vô đều nghe sắp đảo chánh! Ba cháu khi ở nhà chỉ ngồi im lặng, đốt hết điếu thuốc nầy lại đốt điếu khác. Ba má cháu đâu có hại ai? Nếu có chuyện chi là do nơi mấy chú an ninh, mật vụ...

- Cháu còn nhỏ tuổi, không nên nghĩ tới chuyện đó!

- Nhưng cháu sợ! Nhà cháu như nhà có ma. Đêm nào cháu cũng nằm mơ thấy quỷ nó về đòi rước chị em cháu đi.

- Vì cháu quá lo sợ nên mới mê hoảng.

- Nhiều đêm cháu không ngủ được. Cháu nghe rõ tiếng chân người đi đi lại lại. Cháu sợ rúm người. Tưởng đúng là quỷ về...

- Bác cháu đó chứ ai!

- Dạ. Một đêm nghe thấy tiếng ho. Cháu đánh liều mở hé cửa, thấy bác cháu. Nhưng cháu vẫn sợ, mặt bác cháu như có quỷ ám... Trường học đóng cửa. Đi ra ngoài cũng sợ. Chị em cháu ở nhà không biết làm chi!

- Ba cháu đang bận nhiều việc, không săn sóc các cháu được. Theo ý chú, mấy chị em cháu nên đi nghỉ ở Đà Lạt để ba cháu ở nhà an tâm hơn. Khi nào mẹ cháu trở về, các cháu lại về nhà.

- Nhưng chú thiệt cháu nghe, liệu ba cháu và bác cháu có sao không? Cả chúng cháu nữa? - Lệ Thủy gần như sắp khóc - Cháu chỉ muốn ba má cháu thôi hết! Không làm chi hết! Cháu nhìn các bạn cháu mà thèm. Bọn chúng không có điều chi phải lo cho ba má chúng. Còn cháu thì hết cái sợ nầy lại tới cái sợ khác! Chú nói thiệt với cháu đi, liệu ba cháu có sao không?

- Theo chú thì mọi việc rồi sẽ qua.

- Thiệt không chú?

- Cháu phải tin lời chú. Nhưng cả ba chị em cháu phải đi nghỉ một thời gian. Việc này ngày mai chú sẽ nói với ba cháu.

Lệ Thủy ngước cặp mắt bồ câu nhìn Hai Long không bớt vẻ lo lắng:

- Nhà này đúng là có ma! Ma đang ám vào người ba cháu, bác cháu và cả chúng cháu! Đầu óc cháu muốn điên. Hôm qua ba cháu gọi em Trác biểu: "Con là con trai lớn, sau này phải săn sóc má và gia đình". Sao ba cháu không nói với cháu? Có chuyện chi ba cháu phải nói với cháu, em cháu còn nhỏ nó đã biết chi?

- Như vậy là ba cháu lo xa tình hình sẽ phức tạp hơn. Chị em cháu cần phải lên Đà Lạt sớm...
 
6.

Những cuộc tiếp xúc với Tòa Khâm sứ và Conien chỉ giúp Hai Long biết thêm về mức độ khẩn trương và không tránh khỏi của một cuộc đảo chính đe dọa lật chìm chế độ Diệm, nhưng không làm sáng tỏ ai là kẻ cầm đầu đang tiến hành âm mưu chính trị này do sự giật dây của CIA.

Chế độ chuyên quyền, độc đoán, gia đình trị khắc nghiệt của Diệm, Nhu đã tạo nên quanh nó quá nhiều kẻ thù. Khi thấy thời cơ đến, tất cả nổi lên đông nhung nhúc. Không ít những kẻ đang nhắm nhe chiếc ghế dinh Gia Long. Nhưng kẻ nào có cơ thành đạt nhiều nhất còn chưa rõ. Những người chủ trương lật đổ Diệm, Nhu phải tiến hành mọi hoạt động rất bí mật, khôn khéo, vì họ biết Nhu tuy đang ở thế bí, nhưng còn nắm dược chính quyền và bộ máy đàn áp trong tay, có thể tiêu diệt bất cứ kẻ nào như trước đây Nhu đã từng tiêu diệt nhiều người chống đối. Những kẻ có âm mưu đảo chính thuộc nhiều phe nhóm khác nhau, vì quyền lợi riêng của từng nhóm, từng người, luôn luôn nghi kỵ nhau, tìm đủ mọi cách đưa người vào tổ chức của nhau để làm nội gián. Ngay đối với tòa đại sứ Mỹ, nơi đã bật đèn xanh cho một cuộc đảo chính, những phe nhóm này cũng e ngại, vì đã xảy ra chuyện một tên CIA nào đó bí mật tới tố cáo với Nhu một người đang có âm mưu đảo chính, và tai họa lập tức đổ xuống đầu người đó.

Một hôm, Dương Văn Hiếu gặp Hai Long, nhờ anh theo dõi hộ Mai Hữu Xuân, thiếu tướng giám đốc trung tâm huấn luyện Quang Trung, người hay đi lại với cha Hoàng ở nhà thờ Bình An. Hai Long chưa rõ nhân vật này thế nào. Anh cảm thấy có những điều cha Hoàng không nói cho anh biết. Cha Hoàng vẫn tin anh, nhưng anh thường hay tới dinh Gia Long, có thể vô tình để lộ, làm hại đến những kẻ đang có âm mưu. Hai Long thấy nên dùng chuyện này để thăm dò cha Hoàng, may ra có biết thêm được điều gì. Cha Hoàng nghe xong chỉ gật đầu lặng thinh.

Một bữa, Hai Long tình cờ gặp Mai Hữu Xuân trên đường Công Lý. Xuân nhảy từ trên xe xuống, kéo anh ra một chỗ vắng người, vồn vã:

- Tôi rất cảm ơn anh. Đúng là thằng Hiếu đang cho người bám sát tôi.

- Tôi đã nhờ cha chánh xứ báo sớm cho anh biết chuyện đó.

- Vì vậy mới phải tìm anh để cảm ơn. Hôm nay, may lại gặp ở đây... Anh xem ngoài tôi, nó còn nghi ai nữa.

- Tôi nghĩ Minh Lớn cũng bị để ý. - Hai Long ứng khẩu nói vì biết Mai Hữu Xuân thân với Minh Lớn.

Xuân tròn mắt:

- Thằng cha này hết sức nguy hiểm!... Nghi ngờ lung tung cả! Một lần nữa lại xin cảm ơn anh. Có chuyện chi liên quan đến anh em chúng tôi, nhờ anh báo cho kịp thời. Anh chỉ cần nói nhỏ với cha chánh xứ.

- Điều này anh chẳng cần nhắc. Đó là bổn phận của tôi.

Xuân thì thào:

- Không lâu nữa đâu anh!

Y mỉm cười, bắt tay Hai Long rất chặt rồi nhảy lên xe.

Hai Long biết Xuân có dính đến một âm mưu đảo chính, nhưng chắc Xuân không phải là người cầm đầu. Đằng sau Xuân là ai? Hay là Minh Lớn? Lực lượng Xuân ở trung tâm huấn luyện Quang Trung không đủ sức đương đầu với lực lượng đặc biệt của Nhu. Còn Minh Lớn không có quân trong tay. Hay là Xuân cũng chỉ như nhiều kẻ khác, chỉ tính chuyện đục nước béo cò?... Anh đã có mặt trong hàng ngũ những người đối lập với Diệm - Nhu. Nhưng anh cần phải có mặt ngay cả trong hàng ngũ những kẻ sẽ trực tiếp tiến hành cuộc đảo chính. Anh đã bám được những người chủ của dinh Gia Long. Nếu dinh Gia Long chuyển sang tay những người chủ mới thì anh cũng phải tiếp tục bám lấy nó.

Giữa tháng 9, cha Hoàng nói với Hai Long:

- Cha Cao Văn Luận (người vừa bị gia đình họ Ngô gạt bỏ) nói với mình, theo ý của Fishel, nhân vật cao cấp của CIA, thì "Mỹ đã thay đổi chiến lược ở Việt Nam, nên phải thay Diệm, Nhu. Diệm, Nhu có thể bị thủ tiêu!". Tổng thống và ông cố vấn phen này vô kế khả thi, nếu không "tẩu vi thượng sách" thì cứ đương đầu đến cùng và chịu chết trong tay Mỹ!

Bọn gián điệp nước ngoài nổi lên như rươi. Hình bóng chúng thấp thoáng khắp nơi. Tình báo Mỹ đang gấp rút tiến hành lật đổ Diệm, Nhu, tìm con bài mới để thay thế. Chúng phải cảnh giác với Pháp trong âm mưu này. Tình báo Pháp muốn lôi kéo Diệm, Nhu thoát khỏi vòng tay Mỹ, để gây lại chút ảnh hưởng của Pháp, và nếu đảo chính cứ nổ ra thì sẽ phải lợi dụng nó đến mức độ nào. Tình báo Anh vốn trước đây đã có quan hệ với Trần Kim Tuyến, giám đốc sở nghiên cứu chính trị - xã hội Phủ tổng thống, đang theo dõi sát tình hình Sài Gòn và khai thác vụ đảo chính cách nào có lợi cho Anh. Tình báo Đài Loan vốn có quan hệ chặt chẽ với chế độ Diệm - Nhu, đôi bên đã có những việc làm ăn riêng với nhau qua mặt cả Mỹ, nay chế độ này đang nghiêng ngửa, sinh mệnh người cầm đầu bị đe dọa, tất nhiên phải có kế hoạch, mưu tính...

Mỗi biến cố ở miền Nam Việt Nam từ năm 1954 đến nay, đều không lọt qua mắt bọn điệp viên quốc tế; bao giờ chúng cũng khai thác, tác động, lèo lái theo ý đồ riêng của chúng, và tranh chấp nhau giành phần lợi sau khi biến cố đã xảy ra. Những cuộc tranh chấp gay go, phức tạp không khoan nhượng, có khi đẫm máu trên chính trường miền Nam đều qua những điệp viên, tình báo đạo diễn và thực hiện. Bên nào giành phần thắng, bên nào trắng tay sau đó, đều chỉ biết ngầm với nhau, câm lặng để tính một âm mưu mới âm thầm và quyết liệt hơn.

Mình sẽ còn là người bạn "thủy chung" của gia đình họ Ngô cho đến bao giờ? Hai Long tự hỏi. Tình hình đang chuyển biến rất gấp. Trò chơi của anh trở nên cực kỳ nguy hiểm. Anh không được phép vội vàng rời khỏi dinh Gia Long. Vì một khi đã rời khỏi, nếu Diệm - Nhu vẫn duy trì được quyền lực thì anh không còn cơ hội quay trở lại. Nhưng nếu chậm rút chân ra, có lúc anh sẽ bị đặt giữa hai làn đạn.

Hai Long chưa muốn biến cố này xảy ra, và nếu nó vẫn xảy ra thì anh không muốn nó đi quá nhanh. Một tình hình rối loạn như hiện nay, càng kéo dài, càng có lợi cho cách mạng đang còn trong thời kỳ xây dựng lực lượng. Trong những ngày này, với việc Diệm - Nhu rút quân về chung quanh Sài Gòn và những đô thị, đề phòng một cuộc đảo chính, đồng bào ở những nông thôn miền Nam đang vùng lên phá kìm và đập tan thêm hàng loạt ấp chiến lược. So sánh lực lượng giữa ta và địch chưa có điều kiện lợi dụng một cuộc hất cẳng nhau trong nội bộ địch để tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Một ngụy quyền miền Nam có mâu thuẫn với Mỹ còn tốt hơn nhiều so với một ngụy quyền tay sai hoàn toàn theo đuôi Mỹ. Diệm - Nhu đang làm một việc có lợi là ngăn chặn, chưa chịu cho Mỹ đưa quân vào. Nhưng nếu một ngụy quyền mới do Mỹ dựng lên, ngoan ngoãn tuân theo sự chỉ đạo của Mỹ, quân Mỹ ồ ạt kéo vào, thì sẽ là một thời kỳ vô cùng khó khăn cho cách mạng miền Nam.

Mình đang bơi giữa hai dòng nước, phải luôn luôn lựa chiều cho xuôi dòng, thì mới khỏi bị những con xoáy nước nhấn chìm... ---

[1] Philippe: tên Pháp của Cố vấn Vũ Ngọc Nhạ.

[2] Ecole des Chartes

[3] cô ấy
 
ĐÊM ĐEN

1.

Từ ngày về nước, Diệm và Nhu đều thống nhất chủ trương dùng Thiên chúa giáo làm một vũ khi chống Cộng, dùng hữu thần chống vô thần. Trong hội nghị Liên minh chống cộng châu Á họp ở Sài Gòn năm 1957, Diệm đã phát biểu: "Đừng quên vũ khí chân lý sẵn có trong kho tàng tôn giáo... Sử dụng vũ khí đó là một mục tiêu của Liên minh chống cộng Á châu". Diệm rất sùng đạo, năng đi lễ nhà thờ, tin một cách mù quáng vào thần linh. Nhu duy tâm nhưng tỉnh táo hơn Diệm. Nhu tự nhận mình là catholique de coeur[1], rất ít đi lễ, xưng tội. Nhưng với "vũ khí tôn giáo", cụ thể là Thiên chúa giáo, thì Nhu là người sử dụng rất triệt để.

Về mặt xây dựng quân đội, ưu tiên số 1 để lựa chọn vào các sư đoàn là người theo Thiên chúa giáo. Hơn 70% binh lính các sư đoàn 1, 2, 60 là người theo đạo Thiên chúa. Sư đoàn 7, sư đoàn con nuôi của tổng thống, binh lính theo đạo Thiên chúa chiếm tới 90%. Các binh lính những đơn vị biệt kích đều theo Thiên chúa giáo.

Toàn bộ lực lượng đặc biệt bảo vệ Phủ tổng thống là giáo dân đạo Thiên chúa, được tuyển lựa trong hàng ngũ Công giáo miền Bắc di cư. Đại tá Lê Quang Tung, chỉ huy lực lượng này là một giáo dân. Lực lượng đặc biệt được trang bị tốt, thiện chiến, qua nhiều lần thử thách tỏ ra là đáng tin cậy.

Một kế hoạch chống đảo chính đã được Nhu chuẩn bị từ khá lâu.

Trong khi trao đổi với Nhu, Hai Long tránh không đụng đến vấn đề này. Anh biết Nhu đã sắp sẵn những lá bài cuối cùng để sử dụng khi cần thiết. Đó là vấn đề sinh tử của chế độ, không thể để lộ cho người khác biết. Chừng nào Nhu đủ tin anh, chắc y sẽ nói ra.

Hằng ngày, anh bỏ những giờ đọc sách buổi sáng ở thư viện, đến buồng riêng của Nhu làm việc một cách rất cần mẫn. Sự tổng hợp, phân tích những báo cáo, và những ý kiến do anh đề xuất làm Nhu hài lòng. Chỉ sau một thời gian, Hài Long đã nắm được cụ thể và khá sâu nhiều mặt tình hình của chế độ. Biết căn phòng này được bảo vệ bằng những phương pháp đặc biệt, Hai Long không bao giờ sao chụp tài liệu; anh để lại toàn bộ những ghi chép của mình trước khi ra về. Nhưng anh đã in vào trí nhớ những điều sẽ phải ghi lại. Những gì cần kiểm tra lại sẽ được tiến hành vào sáng hôm sau. Tất cả vẫn bằng trí nhớ. Cũng may, có rất ít sai sót. Nhiều tài liệu đã được anh ghi lại không sai một dấu chấm hay dấu phẩy. Trong những văn bản cơ mật này, một dấu chấm, dấu phẩy đôi khi cũng rất quan trọng, vì nó có thể làm hiểu sai nội dung. Anh không cho phép mình phạm những sai lầm đó, vì biết những tài liệu sẽ được chuyển tới những cơ quan nghiên cứu chiến lược cấp trên, kể cả những đồng chí lãnh đạo của Đảng.

Đến tháng 9, Nhu bắt đầu bàn bạc với anh về kế hoạch chống đảo chính. Y không thể không bàn bạc khi anh tổng hợp các nguồn tin báo cáo về tình hình quân đội, trong đó có điểm đến thái độ của những nhân vật chỉ huy quan trọng, kể cả những nghi vấn do cơ quan an ninh, mật vụ đặt ra với một số tướng lĩnh.

Một người khôn ngoan như Nhu, lại rất giỏi về công tác tổ chức, không thể không nắm chặt quân đội, lực lượng chủ yếu bảo vệ chế độ mà cũng dễ dàng lật đổ chế độ. Nhu ra sức tuyên truyền thuyết "nhân vị" để liên kết các sĩ quan và binh lính với mình bằng một "lý tưởng" chống Cộng mới. Nhưng rất ít hiệu quả. Đám sĩ quan có học, được đào tạo ở Pháp, ở Mỹ, biết rõ đây là sự cóp nhặt của Emmanuel Mounier, lai tạp thêm với một chút chủ nghĩa xã hội không tưởng, lại nghe nhiều người phương Tây chế giễu, nên coi đây là một trò hề. Binh lính thì càng nghe tuyên truyền về chủ thuyết càng thấy khó hiểu, vì nó không bắt rễ trong đời sống hàng ngày của họ. Như chỉ còn trông vào sức mạnh của tín ngưỡng tôn giáo, cụ thể là đạo Thiên chúa. Nhu đào tạo và dựa vào nhũng sĩ quan theo Thiên chúa giáo, gạt những người theo đạo Phật. Nhu lại không tin những sĩ quan đã gắn bó với quân đội của thực dân Pháp. Những viên tướng như Hinh, bị gạt từ đầu, những tướng như Minh Lớn bị vô hiệu hóa, những người khác buộc phải dùng thì Nhu tỏ ra nghi kỵ. Hàng ngũ quân đội mở rộng, "chất Thiên chúa giáo" loãng dần. Và ngay trong số những người theo đạo Thiên chúa, Nhu lại không được lòng những người gốc miền Nam, vì cha cố của họ gắn với giáo hội Pháp, có những cha đã bị Nhu bắt giữ hoặc đầy ải đến những vùng giáo dân xa xôi. Ngay trong hàng ngũ giáo dân miền Bắc di cư, cũng có nhiều người bất bình, vì những người cha tinh thần của họ như cha Lê, cha Hoàng bị chế độ ruồng bỏ. Cuối cùng, Nhu chỉ còn tin vào những giáo dân gốc miền Trung, và nắm giữ các tướng lĩnh bằng ân sủng. Nhưng ân sủng thì không biết thế nào cho vừa. Những người khi ở cấp thấp thì ước mơ một cấp cao hơn, khi đã được đưa lên cấp cao thì chỉ sau một thời gian ngắn, đã tự thấy mình còn xứng đáng với một cấp cao hơn thế nữa. Đặc biệt, ai cũng e sợ tính hay nghi kỵ của Nhu. Những người thân cận của Nhu luôn luôn cảm thấy họ bị theo dõi, chỉ một sơ suất, họ có thể bị Nhu hiểu lầm, và như vậy là danh vọng, cơ đồ tan tành.

Khi nghiên cứu tình hình tướng tá ngụy và qua trao đổi với Nhu, Hai Long nhận thấy số tướng tá còn được Nhu tin tưởng chỉ tính trên đầu ngón tay. Nhu chỉ còn tin vào Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, những người đã trực tiếp cứu nguy cho chế độ trong cuộc đảo chính ngày 11 tháng 11, Tôn Thất Đính, quê ở Huế, người được nhiều ân sủng của gia đình họ Ngô, Lê Quang Tung, chỉ huy lực lượng đặc biệt bảo vệ dinh tổng thống, Huỳnh Văn Cao, chỉ huy quân đoàn 4, người đã có lần cử Trần Thiện Khiêm về cứu nguy khi nổ ra đảo chính. Còn tất cả những người khác đều bị ít nhiều nghi ngờ. 2.

Hai Long một lần nữa khẳng định với Nhu, đảo chính chỉ còn là vấn đề ngày giờ.

Nhu nói:

- Tôi cũng tin nhất định xảy ra đảo chính. Lần này, chúng ta không thụ động. Có đảo chính thì sẽ có phản đảo chính. Chúng nó đảo chính được thì ta mất hết cả. Ta phản đảo chính thành công thì ta còn tất cả. Sau đó phải triệt hạ không thương tiếc mọi mầm mống đảo chính. Tôi đã có chuẩn bị.

- Tôi cũng nghĩ như vậy.

- Người của Hiếu và Tung, như anh thấy, qua những báo cáo, không xâm nhập sâu được vào cánh đối lập. Nguồn tin tức duy nhất để thực hiện kế hoạch chống đảo chính chỉ còn trông cậy vào anh. - Nhu nhìn Hai Long với vẻ cầu khẩn chân thành - Bây giờ, không còn ai đáng tin cậy hơn chính chúng ta.

- Tôi sẽ làm hết khả năng của mình. Nhưng vẫn e không kịp thời báo với anh những cái đột biến. Anh vẫn cho bám sát Mai Hữu Xuân, Minh Lớn?

- Mai Hữu Xuân không tốt, nhưng lực lượng của hắn không đáng kể. Minh Lớn không có lực lượng trong tay và chưa thấy có động tĩnh về phía hắn. Hiện vẫn cho người bám sát.

- Bọn đảo chính lần này sẽ rất khôn ngoan vì chúng có những kinh nghiệm thất bại. Chúng biết anh đã đề phòng, chúng phải chuẩn bị hết sức bí mật.

- Chắc hẳn là thế.

- Trong lúc chưa phát hiện đích xác kẻ chủ mưu, tốt nhất cứ chuẩn bị thật kỹ về phía ta.

- Tất nhiên rồi!... (Nhu ngập ngừng) Với Lê Quang Tung và lực lượng đặc biệt, khi đảo chính nổ ra, Phủ tổng thống có thể cầm cự trong nửa ngày, hoặc một ngày. Nhưng Tung không có khả năng tự mình dập tắt đảo chính. Như lần trước, phải có lực lượng cứu viện.

- Chắc anh cũng đã chuẩn bị kỹ?

- Đã chuẩn bị một số lá bài. Sư đoàn 7, sư đoàn 5 khi tham chiến có khả năng dập tắt đảo chính. Binh lính các sư đoàn này rất trung thành với tổng thống. Điều quan trọng là người chỉ huy họ lật lại thế cờ. Số người này không nhiều.

- Anh tin vào ai?

- Tôn Thất Đính và Nguyễn Khánh. Nhưng Tôn Thất Đính có khả năng nhiều hơn.

Nhu nhìn Hai Long chăm chú như muốn hỏi ý kiến. Hai Long lặng thinh, nét mặt trầm ngâm. Nhu xoắn những đầu ngón tay rồi nói tiếp:

- Tôi nghĩ rằng tốt nhất là đưa những lực lượng thân tín của ta tham gia hàng ngũ bọn đảo chính, nửa chừng ta lật lại thế cờ. Cách đó là gọn nhất. Nhưng làm được việc này phải có khả năng đi trước hai, ba bước.

- Và phải có những lực lượng rất trung thành.

- Tất nhiên... tất nhiên.

Rồi Nhu bỗng hỏi:

- Anh tin hay không tin Đính?

- Đính từ trước tới giờ rất gắn bó với ta. Nhưng từ giờ trở đi, không nên đặt cả lòng tin vào mỗi mình Đính, vì mất Đính là mất hết.

- Thằng Đính tốt, tin được. - Nhu vẫn giữ ý kiến - Cũng chỉ có nó mới có khả năng thực hiện kế hoạch phản đảo chính kết quả vào giờ phút quyết định.

- Sử dụng Đính cách này là chơi dao hai lưỡi!

- Gia đình Đính ở cả Huế, nằm trong tay ta. Ta đã nuôi dưỡng Đính. Đính đã có lúc là bí thư quân ủy đảng Cần lao nhân vị. Cho tới nay, Đính chưa hề bộc lộ bất cứ sự bất mãn nào.

- Đính không có gì để bất mãn vì ta cứ tiếp tục đưa Đính lên. Nhưng từ bây giờ; Đính sẽ đứng trước một sự lựa chọn mới: để tiến bước trên con đường danh vọng, Đính sẽ chọn ta hay Mỹ...? Nhưng người ở nhà Quận công[2] có khả năng trả giá Đính cao hơn ta nhiều! Xin lỗi anh, nếu tôi đặt vấn đề có hơi bi quan.

- Nhu thần người ra một lúc, nét mặt già đi.

Hai Long giải thích thêm:

- Không phải tôi mất lòng tin vào tất cả mọi người. Tôi chỉ muốn khuyên anh chớ phó thác vận mệnh của chế độ vào tay một người.

- Nhưng "moi" đã đặt lòng tin hoàn toàn vào "toi". - Nhu hỏi lại.

- Ở trường hợp tôi, có chỗ khác. Tôi chỉ là một người phụ tá bình thường của Đức cha Lê. Tôi đến với chế độ vì quyền lợi của giáo dân Phát Diệm, vì quyền lợi của giáo hội Việt Nam. Tôi không có hoài bão gì hơn ngoài một công trình nhỏ về học thuật mà tôi mong có sự giúp đỡ của anh khi tôi sắp hoàn tất. Vấn đề này được anh luôn luôn đích thân kiểm nghiệm... Còn trường hợp của Đính thì hoàn toàn khác. Và nếu tôi có phát biểu điều này, thì cũng chỉ là suy luận.

Nhu chăm chú lắng nghe, rồi nói rất nhanh:

- Mình rất thích phép biện chứng của Hegel. Mình không dễ tin ai hoàn toàn. Nhưng ở "toi" có sự tỉnh táo đến lạnh lùng! Mình hoan nghênh vấn đề "toi" vừa nêu ra. Không nên đặt tất cả vào một lá bài. Nhưng ngoài Đính là ai?

- Tôi không thể trả lời anh ngay điều đó. Từ trước tới giờ, tôi rất ít quan hệ với cánh tướng tá.

Nhu vứt mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn, rồi đi đi lại lại trong căn phòng.

Hồi lâu, y dừng lại, hỏi Hai Long:

- Còn vấn đề gì chung quanh đảo chính nữa không?

- Anh phải đề phòng ngày quốc khánh 26 tháng 10. Bọn chủ mưu đảo chính có thể lợi dụng việc điều động những đơn vị duyệt binh nhân ngày đó để làm bậy.

Nhu mím chặt môi một lát rồi nói:

- Quốc khánh năm nay sẽ làm thật đơn giản, không có duyệt binh gì cả, "toi" tính sao?

- Nên như vậy...

Có tiếng gõ cửa.

Nhu quay ra với vẻ ngạc nhiên. Khi Nhu đã làm việc hay nói chuyện với ai, bao giờ ngoài cửa cũng bật đèn đỏ. Nếu không có việc thật khẩn cấp, không ai được quấy rầy. Trước đây, chỉ có một người hay phá lệ này là Lệ Xuân. Nhưng Lệ Xuân không còn ở nhà.

Nhu bước nhanh ra mở cửa.

Ngô Đình Diệm đứng bên ngoài, lặng lẽ đi vào.

- Cho mấy đứa nhỏ đi chưa? - Diệm hỏi.

- Chưa. Em muốn để các cháu ở nhà thêm vài ngày nữa.

- Cho chúng nó đi thôi!

Gần đây, Hai Long bàn với Nhu tình hình những ngày tới sẽ khẩn trương, nên cho ba con rời Sài Gòn. Nhu đã tính cho ba chị em Lệ Thủy về Đà Lạt, nơi Lệ Xuân đã xây dựng một biệt thự rất lớn. Chắc Ngô Đình Diệm đang lo về người nối dõi tông đường sau này.

- Dạ... - Nhu đáp.

- Sao tôi thấy nhà mình nó vắng vẻ quá?

Bộ mặt Diệm như người ngẩn ngơ. Nhu liếc nhìn anh rồi đáp:

- Nay mai các cháu đi nữa, nhà còn vắng vẻ hơn.

Diệm nhìn Hai Long chòng chọc rồi hỏi Nhu:

- Các chú đang bàn bạc gì với nhau?

- Chúng em đang trao đổi nên tổ chức kỷ niệm quốc khánh năm nay như thế nào. Em định xin ý kiến anh, sẽ làm thật đơn giản, không có duyệt binh như mọi năm...

Diệm bỗng cắt ngang:

- Người Mỹ có biết gì về Việt Nam?... Lúc nào họ cũng thích hai viện, thích phe đối lập. Ở nước họ, đảng Cộng sản chỉ có một nhúm. Ở ta, toàn dân hầu như là Cộng sản cả. Một viện, không có đối lập, còn đối phó chưa xong. Giờ lại muốn dựng lên hai viện, đưa người về dựng thêm đối lập để tiêu diệt chế độ à?... Loại Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu thì làm nên trò trống gì.

Nói xong, Diệm lững thững đi ra không đóng cửa.

Nhu và Hai Long nhìn nhau.

- Ông cụ lẩn thẩn mất rồi! - Nhu lẩm bẩm.
 
3.

Chỉ sau ít ngày mà Nhu gầy sọm, xanh xao hẳn đi, đôi môi thâm sì. Lần nào Hai Long gặp Nhu ở phòng làm việc, cũng thấy cái gạt tàn đầy mẩu thuốc lá. Không còn Lệ Xuân ở nhà kiềm chế, dạo này Nhu hút thả cửa. Tuy vậy, y vẫn luôn luôn tỏ ra năng động, tỉnh táo và không bối rối.

Nhu nhanh nhẹn rời bàn làm việc, ra bắt tay Hai Long, nhìn vẻ mặt có chiều khẩn trương của anh, hỏi ngay:

- Có tình hình gì mới?

- Hôm qua Conein đến Bình An không gặp cha Hoàng, hắn nhờ tôi nhắn lại: Lực lượng Phát Diệm sẽ án binh bất động trong trường hợp các tướng lĩnh tiến hành đảo chính. Tôi hỏi hắn: bao giờ đảo chính sẽ nổ ra? Hắn bảo hắn không biết, vì đây là chuyện nội bộ giữa người Việt Nam với nhau.

- Nếu hắn không biết và coi là việc nội bộ thì hắn tới yêu cầu cha Hoàng án binh bất động làm gì?

- Chúng ta đều biết rõ Mỹ đứng sau lưng bọn đảo chính. Điều đáng chú ý qua cuộc gặp Conien ngày hôm qua, tôi thấy đảo chính sắp tới lúc bùng nổ.

- Mình cũng đã chờ đợi từ lâu.

Nhu làm ra vẻ bình tĩnh kéo Hai Long lại bàn rồi tự tay chế trà.

- Anh đã chuẩn bị giúp tôi những gì? - Nhu hỏi.

- Tôi đã sẵn sàng kế hoạch chính trị sát với kế hoạch chống đảo chính của anh. Có lực lượng chính trị tham gia đảo chính, ủng hộ đảo chính, và khi anh lật ngược thế cờ, là có lực lượng chính trị đả đảo bọn đảo chính ngay lập tức. Sẽ có sự phối hợp thật nhịp nhàng.

Đôi mắt Nhu bừng lên những tia sáng, nhưng nụ cười đã sớm tắt trên môi y chỉ để lộ nửa hàm răng.

- Chắc anh đã bàn bạc kỹ lưỡng với những lực lượng phản đảo chính? - Hai Long hỏi.

- Đã bàn đi bàn lại nhiều lần.

Nhu ngừng nói, trầm ngâm, nét mặt không vui.

Hai Long muốn hỏi Nhu về những lá bài dự trữ nhưng anh đã kịp kìm lại. Nhu là người nhận thức rất nhanh và quyết đoán. Nếu Nhu chưa nói ra thì chắc y còn những vướng mắc chưa giải quyết được. Vì vậy chưa nên dụng tới.

Nhu chậm rãi nói:

- Muốn chống đảo chính thành công, nhất định phải có hai lực lượng, một ở bên trong và một ở bên ngoài, để đặt quân đảo chính giữa hai làn đạn. Lê Quang Tung đã cam đoan với lực lượng hiện có, y sẽ bảo vệ được phủ tổng thống ít nhất trong một ngày, chờ viện binh tới. Như vậy không có gì đáng ngại về lực lượng trực tiếp bảo vệ phủ tổng thống. Vấn đề còn băn khoăn là lực lượng cứu viện từ bên ngoài. Anh đã nói với tôi, không nên chỉ dựa vào một mình Đính. Ý kiến đó rất đúng. Nhưng tôi không tìm được ai hơn Đính. Tổng thống đã điều Đính về làm tổng trấn Sài Gòn - Gia Định. Đó là một sự ủy thác, một vinh dự lớn đối với y. Tôi nghĩ rằng Đính sẽ xứng đáng vời lòng tin của tổng thống. Nhưng sauđó, xảy ra một sự việc. Bỗng dưng gần đây, Tôn Thất Đính và tướng Trần Văn Đôn cùng nhau mang tới trình tổng thống một bản kiến nghị. Họ đề nghị hủy bỏ lệnh thiết quân luật, và mở rộng thành phần chính phủ cho một số tướng lĩnh có uy tín tham gia vào những vị trí quan trọng... Cũng có thể đây chỉ là ý kiến của Đôn, vì Đôn thèm muốn một chức vị trong chính quyền. Còn Đính là một tướng trẻ xốc nổi, nghe Đôn xúi giục, bùi tai ký vào bản kiến nghị, tưởng làm như vậy là để góp phần giải quyết khó khăn. Tổng thống đã gọi hai người lên, bác bỏ tất cả những điều đề nghị, và phê bình họ là tham quyền vị. Gần đây, ông cụ hay nóng nảy. Sau đó, Đính cáo mệt và xin đi nghỉ ở Đà Lạt. Ông cụ và tôi buộc phải bố trí Trần Thiện Khiêm thay Đính.

- Anh có tin Khiêm không? - Hai Long hỏi.

- Khiêm không bằng Đính.

- Còn Đôn?

- Đôn ở Pháp về, nhưng là người biết điều, không nhiều tham vọng như Minh Lớn. Gần đây, Đôn mới được cất nhắc lên làm quyền tham mưu trưởng liên quân.

- Như vậy, kế hoạch phản đảo chính sẽ do Trần Thiện Khiêm thực hiện? - Hai Long hỏi lại.

- Không. Vẫn do Đính. Đính là người trực tiếp nhận kế hoạch. Đính vẫn chỉ huy vùng 3 chiến thuật. Nếu đảo chính nổ ra, trong một ngày Đính sẽ kịp đưa quân về.

- Ngoài Đính ra, còn ai là người biết kế hoạch này?

- chỉ có Tung và Đính được bàn về kế hoạch.

- Anh còn tin ai hơn Khiêm nữa không?

- Còn Nguyễn Khánh và Huỳnh Văn Cao, nhưng hai người này đều ở hơi xa, họ phải khẩn trương thì mới về kịp... Bây giờ không thể điều động, thuyên chuyển tướng tá được nữa, càng làm rối thêm. Thực ra, tôi vẫn hy vọng vào Đính... Tôi đã đề nghị với tổng thống, hay là chấp thuận mở rộng thành phần chính phủ, đưa một số người của mình vào tham gia và thêm một vài ghế tượng trưng để làm giảm nhẹ áp lực của Mỹ, nhưng ông cụ không nghe, ông cụ còn nổi nóng. Gần đây, ông cụ như người mắc bệnh tâm thần!...

Qua những câu nói nhát gừng của Nhu, Hai Long nhận thấy y đã dao động.
 
4.

Dinh Gia Long trở nên vắng vẻ sau ngày Lệ Xuân ra đi, nhất là từ khi ba đứa con của Nhu đã được đưa lên Đà Lạt.

Hai Long đi dọc hành lang không gặp một ai. Không khí oi ả của một buổi chiều tháng 10 không làm cho ngôi nhà bớt phần lạnh lẽo.

Đến phòng cuối cùng của dãy nhà, anh nhìn thấy De Jaegher ngồi một mình trong phòng. Đầu ông linh mục hói đến đỉnh, bóng láng, bộ mặt đầy đặn trông giống như một quả trứng được vẽ thành mặt người. Cặp kính tròn và nhỏ làm cho bộ mặt ông thêm ngộ nghĩnh. Ông linh mục ngồi ngây như một pho tượng.

De Jaegher đã ở sát bên Ngô Đình Diệm từ năm 1953, khi Diệm từ Mỹ qua Bỉ chuẩn bị trở về Nam Việt Nam cho đến nay. Ông là cha đỡ dầu, là cố vấn của tổng thống, nhưng điều quan trọng hơn, ông là một trùm tình báo của CIA. Hai Long đã chủ động làm quen với De Jaegher không lâu, sau khi anh lọt vào dinh Độc Lập. Điều hai bên cần đến nhau là những tình hình có liên quan đến chế độ Diệm. De Jaegher thích Hai Long vì thấy người phụ tá trẻ của cha Lê khét tiếng chống Cộng, là một giáo dân ngoan đạo, thực thà, nhưng đồng thời lại am hiểu tình hình chính trị và kinh tế, biết thưởng thức những câu đùa tế nhị khi ông vui miệng đưa ra những nhận xét hóm hỉnh về thuyết Nhân vị của ông cố vấn chính trị, cách nói năng bạt mạng của bà Nhu hay tính tình khác đời của ông tổng thống. De Jaegher rất quý Hai Long, không bỏ qua những dịp có thể chuyện trò với anh. Nhân viên phủ tổng thống nói De Jaegher và Hai Long lúc nào cũng cặp kè bên nhau như hình với bóng.

- Chào cha của con - Hai Long đánh tiếng.

- Chào con.

De Jaegher ngoảnh đầu nhìn ra thấy Hai Long, vẻ mặt vẫn lạnh lùng. Ông ta đang có điều gì bực dọc và hình như lúc này không muốn ai quấy rầy, kể cả Hai Long.

- Cha có thấy ông cố vấn đâu không?

- Tôi đoán là ông cố vấn xuống chỗ đại tá Lê Quang Tung.

Mặc dù không được mời, Hai Long cứ đi lại kéo ghế ngồi trước De Jaegher.

- Cha khuyến cáo tổng thống thế nào rồi? - Hai Long hỏi.

De Jaegher thở hắt ra rồi đáp:

- Khuyến cáo thế nào ông ấy cũng không nghe.

- Cha khuyến cáo tổng thống những gì?

- Dẹp Phật giáo là không được. Trót bắt sư sãi thì phải thả ngay ra. Trót ra lệnh giới nghiêm rồi thì phải rút đi...

- Cha vẫn mới chỉ nói có chừng đó thôi?

De Jaegher hơi ngập ngừng, nhưng rồi nói tiếp:

- Bớt gay gắt với Mỹ, và sang Pháp. Tôi sẽ giúp.

- Thế là không còn tổng thống? - Hai Long kêu lên - Ai sẽ thay?

De Jaegher giơ một ngón tay:

- Vấn đề thứ nhất bây giờ: Nhu rời khỏi chính quyền ngay lập tức! (giơ thêm một ngón tay) Vấn đề thứ hai: ông Diệm lựa chọn: tiếp tục làm hoặc nghỉ làm tổng thống.

- Thế còn gì nữa để chống Cộng?

- Có Mỹ là có chống Cộng. Không phải thiếu tổng thống Diệm là không chống Cộng được?

Thái độ De Jaegher bữa nay hoàn toàn khác lạ.

- Cha đã chứng kiến nhiều biến cố, - Hai Long nói - xin cha hãy chỉ cho con: tình hình sẽ ra sao? Chế độ Diệm và tương lai của nó?

- Tôi không giấu giếm gì! Ông Diệm biết rõ hơn ai hết thái độ và chính sách của Mỹ đối với ông ấy. Tin tức đầy rẫy.

- Chúng con nghe nhiều tin tức nên mới hỏi cha. Mong ở cha một sự giúp đỡ cho cộng đồng Công giáo Việt Nam, dù ông Diệm còn hay không còn.

- Ông chán ngán chính trị rồi sao?

- Với tình hình này thì không thể không chán ngán!

- Ông giáo sư Philippe khôn ngoan của tôi ơi! Cái chán chường nó sẽ không tha ông đâu! Nó sẽ còn bám ông lâu!

- Quỷ dữ nhiều quá! -Hai Long làm dấu thánh giá. - Nếu ông Diệm vẫn muốn ở ghế tổng thống, ông Nhu không chịu ra đi, thì rồi sẽ ra sao?

- Tôi không phải là tổng thống Mỹ để trả lời.

- Nhưng cha là người đỡ đầu ông Diệm, cha đã tạo dựng nên ông Diệm, cha là cố vấn của ông Diệm hơn chục năm nay, cha là người có trách nhiệm với ông Diệm?

- Tôi có trách nhiệm thực - De Jaegher nói dằn từng tiếng - nhưng tôi không có quyền năng gì đối với ông Diệm, cũng như không có quyền năng gì đối với tổng thống Mỹ.

- Cha đã từng nói với con, cha với ông Diệm là một, cha với Hồng y giáo chủ Spellman cũng là một.

- Ông giáo sư Philippe muốn buộc tội cả Hồng y giáo chủ Spellman và Jaegher của ông sao?

- Chúng con muốn biết rõ số mạng của con người Ngô Đình Diệm nằm trong vòng tay của Đức hồng y và của cha?

- "Hãy thức tỉnh!". Ông hãy nhớ điều chúng ta đọc hàng ngày trong Kinh thánh. Tôi xem chừng ông thiếu tỉnh táo, bấn loạn tinh thần rồi đó!

- Con vẫn nhớ là khi Chúa sắp bị kẻ dữ đóng đinh trên cây Thánh giá cùng với bọn kẻ cướp, Chúa đã cầu Đức Chúa Trời tha tội cho những kẻ ấy. Con người Ngô Đình Diệm sẽ bị đối xử ra sao? Tinh thần con đang bấn loạn: Xin cha hãy cầu nguyện cho chúng con được bình an trong tâm hồn.

- Chúng ta, tất cả chúng ta đều là những kẻ lữ hành.

Hai Long vẫn kiên trì đóng tiếp vai kịch:

- Thưa cha, cha vẫn chưa giải đáp lời cầu xin của con!

- Người ta sẽ phá bỏ bằng hết, san bằng hết! - De Jaegher nhún vai, trán lấm tấm mồ hôi, vỗ nhẹ hai bàn tay xuống mặt bàn - Table rase! Table rase.[3]

Bầu không khí trong căn phòng trở nên nặng trĩu.

De Jaegher lại uống thêm một ngụm nước suối. Trong lúc nói chuyện, ông uống nước suối nhiều lần, như cố nuốt trôi một vật gì mắc nơi cổ họng. Ông ta đã thú nhận mình đang muốn xóa ván cờ để chơi tiếp ván khác, Hai Lòng nghĩ thầm.

De Jaegher lại nói:

- Không tài nào tách ông Diệm ra khỏi ông Nhu, một ông em quá kiêu ngạo!

- Thưa cha, nếu bây giờ chúng con cố tách ông Nhu ra khỏi chính quyền? Và đề ông xuất ngoại?

- Chúng ta đang ở tháng 10. Mọi việc đã an bài. Giờ sắp điểm!
 
5.

Chiều 30 tháng 10, Hai Long đến nhà thờ Bình An.

Nhà khách khá đông người, nhưng cha Hoàng không có mặt. Người phục vụ ở nhà thờ nói cha Tổng bận, xin lỗi không tiếp khách. Nhưng khách đã cất công xuống tới đây không chịu về ngay. Họ ngồi nán lại nói chuyện với nhau. Vẫn là những chuyện chung quanh cuộc đảo chính sắp nổ ra, đã quá quen thuộc với mọi người.

Hai Long đứng loanh quanh ở nhà khách một lát rồi lảng sang văn phòng.

Cha Hoàng mái tóc bạc trắng, đeo kính, đang ngồi viết chăm chú. Nghe tiếng động, cha Hoàng ngẩng đầu lên, nhìn thay anh, ông buông bút, bỏ kính, mỉm cười.

- Con muốn trình cha một ít tình hình về dinh Gia Long. - Hai Long nói.

- Ngồi xuống đã, rồi nói đi... Mình cũng sẽ có chuyện nói đây.

Hai Long nói vắn tắt về trạng thái bấn loạn của Diệm và cuộc nói chuyện với De Jaegher.

Cha Hoàng ngồi với nét mặt thản nhiên và như chỉ muốn anh nói cho chóng xong. Anh vừa ngừng lời, cha hỏi:

- Con cái ông Nhu còn ở dinh Gia Long không?

- Các cháu đã lên Đà Lạt.

- Mình cần nói với thầy hôm nay, phúc lộc nhà họ Ngô đã hết. Đối với tổng thống và ông cố vấn, giờ tận thế đã điểm.

Cha Hoàng đưa mắt ra hiệu cho Hai Long nhìn tờ giấy đang được viết dở trên mặt bàn:

- Mình đang thảo bản tuyên ngôn của các tôn giáo ủng hộ Hội đồng các tướng lĩnh cách mạng. Mình phải làm gấp trong đêm nay. Để tới ngày mai, e không kịp.

- Nghe nói cha không tiếp khách, con biết cha đang bận. Cơn chỉ vào gặp cha ít phút, không dám làm mất việc của cha.

- Mình cũng đang mong gặp thầy, chỉ để nói một câu: Nay mai đây, tổng bộ sẽ làm gì? Cần nghĩ ngay đi. Ngày mai lại xuống đây, chắc sẽ có nhiều chuyện hay...

Hai Long ra đến cổng nhà thờ thì thấy Mai Hữu Xuân ngồi trên một chiếc xe Jeep đi vào. Mai Hữu Xuân tươi cười giơ tay vẫy anh. Như vậy là mọi chuyện đã rõ ràng. Một ý nghĩ chợt nảy ra, anh vẫy tay đáp lại và nói:

- Bonne chance![4]

Xuân ngoái đầu lại, nói to:

- Merci, bonne chance![5]
 
6.

Hai Long tới dinh Gia Long khi trời xẩm tối.

Những hàng rào kẽm gai cơ động đã được xếp kín quanh dinh. Binh lính đội mũ sắt đứng phía sau, bộ mặt tối sầm sầm như chỉ còn đợi giờ nổ súng. Những người lính của Lê Quang Tung đã quen mặt anh, để anh đi qua khoảng cách chỉ vừa lọt một người giữa hai chiếc cự mã.

Qua khỏi hàng rào binh lính canh gác, không khí trong dinh vắng vẻ, lạnh lẽo đến rợn người. Dinh Gia Long với những cửa lớn, cửa nhỏ đóng kín, im lìm như một nhà mồ.

Viên sĩ quan nội thất vẻ mặt lo lắng nói với anh, Nhu đang ngồi ở phòng khách. Gần đây, anh tới gặp Nhu không cần phải báo trước.

Mở cửa phòng khách, mùi khói thuốc khét lẹt xộc vào mũi anh. Nhu ngồi một mình với tách cà phê đen đang hút thuốc. Nhìn ra thấy anh. Nhu nhếch mép cười:

- Hoàng Long!

Mặt Nhu hốc hác vì lo lắng và ít ngủ.

Ngồi xuống ghế, Hai Long nói ngay:

- Theo cha Hoàng, sẽ là ngày mai. Phía đảo chính đã thành lập Hội đồng các tướng lĩnh cách mạng.

- Chủ xướng là ai? - Nhu hỏi với vẻ bình tĩnh.

- Tôi không dám hỏi cha Tổng, chắc là chính cha cũng chưa biết. Nhưng khi về, tôi gặp Mai Hữu Xuân đi vào. Nhất định Xuân có dính dáng vào chuyện này. Đã có Hội đồng tướng lĩnh thì ít nhất cũng phải là một nhóm. Nhưng chúng không dại gì để lộ sớm kẻ cầm đầu.

- Anh thử đoán xem, hắn là ai? - Nhu gặng hỏi.

- Rất khó đoán. Lần này tín hiệu được phát ra từ Bạch ốc nên tất cả đều nhoi nhoi lên. Họ tranh nhau lao tới như một bầy quạ đói lao vào...

-... Một cái xác chết! - Nhu xen ngang, nụ cười châm biếm quen thuộc của y lúc này đượm màu cay đắng.

-... Lao vào một miếng mồi béo bở. - Hai Long nói tiếp - Chúng sẽ tranh nhau xem ai nhanh chân trước để cướp được mồi.

- An ninh vẫn báo cáo chưa thấy có dấu hiệu chuyển quân. Binh lính ở các nơi đều sẵn sàng, nhưng đó là do lệnh thiết quân luật. Ngày mai, theo chương trình, 11 giờ tổng thống sẽ tiếp đô đốc Felt. Đại sứ Cabot Lodge cũng sẽ có mặt.

- Đảo chính có thể nổ ra sau khi Felt vừa đi khỏi. Nếu chúng có lệnh điều binh, chỉ cần 2 tiếng đồng hồ, phiến quân sẽ có mặt quanh dinh tổng thống.

Nhu trầm ngâm, rồi nói:

- Lần này, chắc anh vẫn đúng. Mấy ngày hôm nay tôi linh cảm thấy có một cái gì khác khi gặp các tướng lĩnh. Họ cố làm ra bình thường. Nhưng nhìn con mắt của họ, tôi biết họ đang giấu mình một điều gì.

- Anh còn tin vào những ai?

- Đến giờ phút này thì không nhiều.

Nhu xòe một bàn tay, rồi vừa bẻ gập dần dần từng ngón vừa nói:

- Tung, Đính, Vĩ, thủ lĩnh Thanh niên cộng hòa, Hiếu và Đường vừa thay chân Trần Kim Tuyến. Thế là hết.

- Tôi muốn hỏi riêng lực lượng chống đảo chính?

- Chỉ có Tung và Đính.

- Nếu như Đính thay đổi?

- Đó là thảm họa. Nhưng cũng đã tính đến. Vào giờ phút đó, Tung sẽ là người thực hiện Bravo[6] I.

- Bravo? - Hai Long hỏi lại với vẻ ngạc nhiên.

Nhu cười bi đát:

- Bravo I, đó là tên mình đặt cho kế hoạch phản đảo chính.

- Anh dã tính đến trường hợp xấu nhất chưa? - Hai Long hỏi lại.

- Cầu Chúa cho trường hợp đó đừng xảy ra.

Hai Long suy nghĩ rồi nói:

- Mọi việc cần phải quyết định trong đêm nay. Để tới ngày mai là quá muộn!

- Tôi đã nói: anh chưa lần nào sai khi báo nguy cho tôi. Tôi sẽ cho thực hiện Bravo I ngay bây giờ. Tôi sẽ ra lệnh cho Đính. Nếu không liên lạc được với Đính thì đành phải đưa Tung đi. Anh ngồi chờ tôi trong vòng nửa tiếng được không?

- Được.

Nhu vùng đứng lên, nhanh nhẹn đi ra khỏi phòng. 7.

Hai Long đứng thơ thẩn ở hành lang chờ Nhu quay trở về.

Người lão bộc bưng mâm cơm từ buồng của Diệm đi ra. Hình ảnh ông già tóc lốm đốm bạc, lưng gù, mặc bộ quần áo ba ba xứ Huế, thái độ lúc nào cũng sợ sệt, đã quá quen thuộc với anh. Nghe nói ông lão là người cùng quê với Diệm ở Quảng Bình. Nhìn ông lão thấy rõ ông không sống vì mình mà sống vì chủ. Cái vui, cái buồn của chủ cũng là cái vui, cái buồn của ông. Bộ mặt ông lão rầu rĩ. Ông lão ngừng đi, cúi đầu chào Hai Long:

- Bẩm ông mới tới? Nếu ông chưa dùng cơm chiều để con dọn.

- Cảm ơn bác, tôi ăn rồi.

Trên mâm cơm, dĩa thịt gà, đĩa cá bống kho, một bát canh chua nấu theo kiểu miền Trung hầu như còn nguyên. Hai Long nhìn theo tới khi ông lão đi khuất. Có lẽ đây là người cuối cùng còn giữ được lòng trung thành đối với Diệm.

Nhu hấp tấp quay về, bộ mặt xanh xao lộ vẻ khẩn trương.

Hai người trở lại phòng khách.

- Anh giải quyết xong công việc chưa?

- Tôi gọi điện cho Đính rồi. Đính sợ nếu nổ sớm, về không kịp, đề nghị cho Tung thực hiện Bravo I, Đính sẽ về tiếp ứng. Trong đêm nay, Tung đưa lực lượng đặc biệt ra khỏi nội đô. Binh lính ở trại Cộng hòa sẽ cầm cự trong một thời gian ngắn chờ Tung và Đính đánh vào. Lực lượng của Tung thiện chiến nhưng chỉ có 6 đại đội trang bị toàn vũ khí nhẹ. Phải trông vào Đính... còn Nguyễn Khánh, Huỳnh Văn Cao, còn những lực lượng trung thành với tổng thống ở sư đoàn 5, sư đoàn 7 và một vài sư đoàn khác. Không lẽ tất cả đều theo phe đảo chính? Bây giờ chỉ còn đợi đến ngày mai xem sao.

- Anh đã trao đổi với ông cụ chưa?

Nhu lắc đầu nhè nhẹ:

- Cũng không giải quyết được gì!

Nhu đã tự mình quyết định không hỏi ý kiến của Diệm. Những lực lượng thân tín cuối cùng đã rời khỏi tay y.

Nhu khoanh tay trước ngực, dựa đầu vào thành ghế xa-lông, mắt lim dim.

Hai Long hiểu là giữa hai người không còn gì để bàn bạc. Nhu đã cháy túi trước khi canh bạc lớn bắt đầu.

Một người như Nhu không dễ tin vào lòng "hào hiệp" của Mỹ. Nhu tin vào chủ nghĩa thực dụng, vào sự gặp gỡ của những hoàn cảnh đã đưa anh em y lên địa vị những người cầm đầu một quốc gia. Mỹ cần những người chống Cộng ở Việt Nam. Anh em y, Diệm và Nhu, sẽ đáp ứng yêu cầu đó. Nhu đã đổ bao tâm huyết thi thố tài ba chứng tỏ ở miền Nam Việt Nam không có ai hơn anh em y để đương đầu với những lãnh tụ Cộng sản ở miền Bắc, những nhân vật với những kỳ tích tưởng như huyền thoại. Y không quên người Mỹ đã đưa anh em y lên cương vị hiện thời. Nhưng y rất có ý thức ở chỗ anh em y là những người như thế nào thì mới được Mỹ lựa chọn. Y cho rằng để hoàn thành sứ mệnh chống Cộng ở Việt Nam, phải có những chiến sĩ chống Cộng có bản lĩnh, có tư cách, những lãnh tụ quốc gia thực sự chứ không phải những tên bù nhìn. Mỹ phải coi anh em y như những người bạn đồng minh xứng đáng được tôn trọng, được tin cậy, chứ không phải những tên tay sai chỉ biết thực thi những mệnh lệnh mù quáng của tòa Bạch ốc. Anh em y cần phải làm cho họ sớm muộn thấy rõ điều đó. Người Mỹ rồi sẽ nhận ra họ đang làm một việc dại dột, tự mình chém vào tay mình. Đến lúc đó, quan hệ giữa anh em y với họ sẽ trở lại tốt đẹp như xưa. Và y cũng tin rằng với gần 10 năm chấp chính, với quyền hành nắm được trong tay, người Mỹ không dễ gì gạt anh em y...

Nhưng giờ đây, y đã hiểu những khả năng của y không quá lớn như y tưởng. Nhà Trắng với bộ máy CIA hiện đang có mặt ở Nam Việt Nam, nguy hiểm hơn nhiều, và càng nguy hiểm hơn nữa là người cầm đầu của nó không dễ gì nhận ra sai lầm. Ba năm trước, khi nổ ra cuộc đảo chính tháng 11, trừ binh đoàn dù, tất cả quân lực Việt Nam cộng hòa đều đứng về phía anh em y; đó không phải là do Chúa phù hộ, mà do khi đó tòa Bạch ốc vẫn coi anh em y là người của mình. Chỉ mới vài tháng sau khi người cầm đầu Nhà Trắng phát ra một tín hiệu gạt bỏ anh em y, lúc này hầu như chung quanh y chẳng còn ai! Y chỉ còn trông chờ vào một điều mà y không mấy tin: đó là lòng chung thủy của một số tướng tá được những ân sủng đặc biệt của gia đình họ Ngô. Không thể đặt cọc vào một điều như vậy trong cuộc chơi này! Nhưng ngoài ra không còn cái gì khác...

Nhu bỗng thu hai chân lên ghế xa-lông, chống cằm lên đôi cánh tay bó gối. Hình như làn gió mát buổi tối từ sông Sài Gòn thổi về khiến cho y cảm thấy lạnh. Hai Long chưa bao giờ thấy y ngồi trong tư thế này. Nhu giống như con chó sói tử thương nghiến răng chịu đựng không buông tiếng kêu rên.

Người lão bộc đi vào, liếc nhìn ông chủ, cặp mắt già nua thoáng lộ vẻ ngỡ ngàng. Ông lão lặng lẽ pha trà rồi rón rén đi ra.

Nhu buột miệng đọc một câu thơ tiếng Pháp:

- Tout est noir, tout est froi, rien ne luit...[7]

Lần đầu, Hai Long thấy Nhu bộc lộ một sự ngã lòng như vậy.

Nhu lại ngồi im lặng, rồi bỗng nhiên lẩm bẩm:

- Không biết rồi elle sẽ ra sao?

Đôi mắt nhìn xa xăm, Nhu nói tiếp như người trong mơ:

- Ở nhà ông cụ thường mắng bà ấy lộng ngôn. Nhưng mấy tuần qua ở Mỹ, không ngờ bà ấy làm được những việc như vậy! Cũng còn câu được, câu chưa. Nhưng nhìn chung thế là tốt... Không ai làm hơn bà ấy ở hoàn cảnh này. Trên đất Mỹ, một mình đương đầu đối đáp từng câu với tổng thống Mỹ?... Nhưng rồi sẽ ra sao? Thật là khổ cho elle!...

Mẩu thuốc lá dính trên môi Nhu đã tắt từ lâu, y không còn nhớ đến chuyện vứt nó đi hoặc thay bằng một điếu thuốc khác.

Nhìn Nhu trong tư thế và thần thái lúc này, Hai Long cảm thấy mình đang chứng kiến nhưng giờ tàn cuối cùng của chế độ Diệm - Nhu. Tấn thảm kịch của gia đình họ Ngô đã đến lúc kết thúc. ---

[1] Công giáo tại tâm

[2] Các nhân viên CIA ở tại khách sạn Duke, Sài Gòn.

[3] Phá bỏ hết! Phá bỏ hết!

[4] Chúc may mắn!

[5] Cảm ơn, chúc may mắn!

[6] Hoan hô.

[7] "Tất cả đều tối đen, tất cả đều lạnh giá, không còn gì le lói...", một câu trong bài thơ "Người thuyền chài trên biển" của Victor Hugo (1802 - 1885), nhà thơ lớn của Pháp thế kỷ XIX.
 
BRAVO II

1.

Sáng sớm ngày 1 tháng 11, Hai Long phóng xe về phía Phú Lâm. Anh phải đi tìm liên lạc để báo cáo kịp thời với Trung tâm về cuộc đảo chính sắp bùng nổ.

Trong công tác, Hai Long có những người bạn rất gắn bó, rất thân thiết mà anh chưa hề biết mặt. Như người làm nhiệm vụ "hộp thư chết" này. Không biết là một chàng trai hay một cô gái. Hai Long nhận thấy đó là một con người cẩn thận và thông minh. Lần nào người đó cũng tạo cho anh sự bất ngờ. Có những lần đến khu vực đặt hòm thư, anh chưa xem ký hiệu chỉ dẫn, thử tìm xem nó nằm ở đâu. Anh đều bị lầm. Hộp thư bao giờ cũng đặt tại một nơi dễ tìm mà lại ít bị chú ý nhất. Người đặt hộp thư không chỉ ngụy trang thật cẩn thận hộp thư của mình, mà lại còn tạo nên những vật giả hấp dẫn những cặp mắt tò mò, một cách rất tự nhiên. Nhiều lúc người đó còn gửi gắm vào đây một chút tình cảm của mình, thường là một hình chữ V bằng những vật luôn luôn thay đổi mà chỉ anh mới nhận ra. Đó là lời nhắc nhở của Tổ quốc Việt Nam, lời chào chiến thắng. Đôi lúc Hai Long đã đáp lại.

Anh dừng xe trước một cột mốc cây số ven con đường nằm giữa cánh đồng vắng. Anh xuống xe, cởi áo treo lên ghi-đông. Anh bỏ bộ đồ phụ tùng xuống mặt đường, rồi tháo chiếc bu-gi ra xem. Đôi mắt anh không nhìn chiếc bu-gi, mà chăm chú nhìn mặt đất phía sau cột mốc. Nó kia rồi! Một hòn đá có hình thù giống như mũi tên (lại một chữ V quen thuộc) trỏ vào một hòn đá dẹp, nằm gắn trên mặt đất, chỉ cách anh ba bước chân.

Hai Long tới ngồi xuống cạnh hòn đá, nhìn trước nhìn sau, một tay vẫn cầm chiếc bu-gi, một tay bẩy nhẹ hòn đá. Hộp thư lần này là một chiếc vỏ đựng thuốc đánh răng. Anh nhẹ nhàng cạy đáy hộp thuốc, rút ra một mảnh giấy nhỏ, thay vào đó thư báo cáo của mình, rồi lại trả hộp thuốc về chỗ cũ, và đặt hòn đá lên trên.

Công việc thế là xong. Một giờ nữa, sẽ có người tới lấy thư. Chiều nay, thư sẽ tới căn cứ, và tối nay, Trung tâm sẽ nhận được tin của anh. Anh trở lại bên xe, lắp chiếc bu-gi vào, rồi đạp cần khởi động thử máy. Tiếng động cơ nổ giòn. Anh nhấc chiếc áo khoác trên ghi-đông, mặc vào người, rồi lên xe quay về.

Trở lại nội thành, Hai Long phóng xe về phía dinh Gia Long. Anh cảm thấy mình đang làm một việc vô ích và có thể tự chuốc lấy nguy hiểm. Nếu chế độ Diệm qua được cơn nguy hiểm này, thì cuộc viếng thăm của anh sáng nay sẽ đáng giá ngàn vàng. Nhưng khả năng đó đã trở nên hết sức mỏng manh.

Sự canh phòng chung quanh dinh dã khác hẳn chiều hôm trước. Những ngả đường vào dinh đều bị chặn bằng hàng rào sắt cơ động, có lính đứng gác. Những khẩu liên thanh được lắp những băng đạn vàng óng, hướng nòng kiểm soát mọi ngõ ngách dẫn tới Phủ tổng thống. Tuy vậy trong dinh các nhân viên vẫn tới làm việc bình thường. Buổi chiều họ mới được nghỉ việc, vì sáng nay có cuộc gặp giữa tổng thống Diệm với Felt, tổng tư lệnh Hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương.

Một chiếc xe du lịch cắm cờ Mỹ đỗ trước dinh. Nhân viên tòa đại sứ Mỹ tới để chuẩn bị cho cuộc tiếp kiến giữa đô đốc Felt và tổng thống Việt Nam cộng hòa. Một tên Mỹ vừa đi vừa đảo mắt nhìn quanh.

Hai Long cảm thấy yên tâm vì tiếng súng chỉ có thể nổ sau cuộc viếng thăm của viên đô đốc.

Hai Long tới thẳng phòng làm việc của Nhu. Đầu tóc y bơ phờ, mắt sâu trũng, có quầng thâm. Chắc y lại vừa qua thêm một đêm thức trắng. Đôi mắt y bừng sáng, lộ vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy Hai Long. Anh nói ngay:

- Đảo chính sẽ nổ vào buổi trưa. Anh chỉ còn thêm vài giờ để chuẩn bị đối phó.

Nhu nắm chặt tay Hai Long. Bàn tay y nóng như đang lên cơn sốt.

- Cảm ơn anh. Phút giây chân lý thật ra là bắt đầu từ cuộc gặp nhau ở Phú Cam cách đây 2 năm. Anh đã nói với tôi, người Mỹ chỉ vì quyền lợi của Mỹ, chứ không vì chế độ Việt Nam cộng hòa hay vì tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngày đó tôi còn hoài nghi. Tôi đã sai lầm vì không nghĩ là chủ nghĩa thực dụng của Mỹ lại thiển cận đến thế!... Anh em tôi phải chết vì người Mỹ thì cái giá của sai lầm này quá đắt! Tôi hiểu chân lý quá chậm... Tôi xin ghi ơn anh-.

Y sẽ chẳng bao giờ biết người cuối cùng đến gặp y trong giờ phút này, là một chiến sĩ cộng sản!

Hai Long nói:

- Tôi mong rằng ngày mai còn gặp lại anh. Cầu Chúa phù hộ cho tổng thống, cầu Chúa phù hộ cho anh...

Ra khỏi dinh Gia Long, Hai Long phóng xe xuống nhà thờ Bình An.

Cha Hoàng đã thảo xong bản tuyên ngôn của các tôn giáo ủng hộ Hội đồng các tướng lãnh cách mạng, như mọi lần, đang chờ Hai Long xuống để góp ý kiến.

Ngước mắt lên, nhìn thấy Hai Long, cha mừng rỡ:

- Mình đang mong. Bữa nay không nên ở Sài Gòn.

Hai Long thấy không nên giấu việc vừa vào dinh Gia Long:

- Thưa cha, con vừa ở Phủ tổng thống ra.

Cha Hoàng giương to mắt:

- Thầy đã làm một việc mạo hiểm.

- Cha Lê bảo con phải trước sau như nhất... - Anh cảm thấy cha Hoàng không bằng lòng, bèn nói tiếp - Cha Lê nói: Có vào hang cọp mới bắt được cọp con...

Hai Long thuật lại cuộc gặp Nhu tối qua và sáng nay. Anh nói Nhu đã tiến hành kế hoạch phản đảo chính Bravo I, làm ra vẻ như cung cấp cho cha một tin quan trọng, nhưng không kể nội dung.

Cha Hoàng mỉm cười như đã biết tất cả:

- Có Bravo I thì sẽ có Bravo II! Vài giờ nữa thì cả nước sẽ biết. Phen này sẽ hết đời cả tổng thống và cố vấn! Đúng như lời ông De Jaegher nói: Table rase! Đại tá Conien đứng sau Minh Lớn, Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim...
 
2.

Sáng ngày 1 tháng 11, tất cả những tướng, tá chỉ huy các đơn vị quân sự, an ninh ở Sài Gòn đều nhận được giấy mời của quyền tổng tham mưu trưởng Trần Văn Đôn, sau buổi họp hàng tuần, sẽ ở lại dự bữa cơm thân mật tại Câu lạc bộ sĩ quan Bộ Tổng tham mưu. Bữa ăn tổ chức ngày thứ sáu là không bình thường với những người theo đạo Thiên chúa.

Lúc 11 giờ trưa, sau khi tiếp đô đốc Felt, Diệm được Nhu báo tin nhiều khả năng đảo chính sắp nổ. Diệm đã nhiều lần nghe những tin như thế này. Nhưng hôm nay, Diệm cảm thấy có những triệu chứng khác thường. Y gọi dây nói cho Nguyễn Văn Lã, thiếu tướng tư lệnh khu Sài Gòn. Sĩ quan trực nhật báo cáo Lã không có mặt tại nhiệm sở. Y gọi tiếp cho quyền tổng tham mưu trưởng Trần Văn Đôn. Bộ Tổng tham mưu báo cáo Đôn ra sân bay Tân Sơn Nhất tiễn đô đốc Felt chưa về.

Lúc 12 giờ trưa, Trần Văn Đôn gọi điện thoại cho Diệm.

- Trình tổng thống, thiếu tướng Nguyễn Văn Lã được mời tới câu lạc bộ sĩ quan Bộ Tổng tham mưu dự cơm trưa, nhưng hiện thời vẫn chưa thấy tới.

- Rứa thì ông ta đi đâu?

- Có lẽ đang trên đường tới đây.

- Tôi cần gặp ông Lã, cần gấp! - Diệm nhấn mạnh.

- Dạ. Khi thiếu tướng Lã tới, tôi sẽ nói tới dinh ngay để gặp tổng thống.

- Tôi chờ.

- Dạ...

Thật ra, trong lúc này Nguyễn Văn Lã cũng như Dương Văn Minh (Minh lớn), Trần Thiện Khiêm, Lê Văn Kim, Nguyễn Giác Ngộ, Lê Văn Nghiêm, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Ngọc Lễ, Trần Văn Minh (Minh con), Trần Tử Oai, Đỗ Mậu... đã tề tựu đông đủ tại câu lạc bộ.

Xe thiết giáp đã thiết lập một hàng rào thép chung quanh cơ quan Bộ Tổng tham mưu, biến thành một nơi nội bất xuất, ngoại bất nhập.

Lúc 13 giờ, Trần Văn Đôn mời tất cả những người chỉ huy để lại tùy tùng và vũ khí ở bên ngoài, tới phòng họp riêng của mình.

Trần Văn Đôn là con một gia đình đại địa chủ, trước Cách mạng học ở Pháp, trong kháng chiến chống Pháp, Đôn theo đội quân viễn chinh, được Pháp tin dùng, cho đi đào tạo về quân sự ở Pháp. Dưới chế độ Diệm, Đôn được cử làm tư lệnh quân đoàn I ở miền Trung. Cũng như những tướng lĩnh đã gắn bó nhiều với Pháp trước đây, Đôn không được Diệm, Nhu thật tin. Sau cuộc đảo chính ngày 11 tháng 11, nhiều tướng tá bị nghi ngờ, Đôn bị đình chỉ công tác một thời gian. Lê Văn Kim, giám đốc Học viện quân sự Đà Lạt, một người bạn rất thân và cũng là anh rể của Đôn, bị bắt. Từ đó, Đôn đã nuôi ý định lật đổ Diệm - Nhu. Sau khi tiến hành điều tra, thấy Đôn và Kim đều không trực tiếp dính líu đến âm mưu đảo chính, Diệm, Nhu tha cho hai người, nhưng vẫn chưa hẳn tin. Kim trở về Học viện quân sự ở Đà Lạt, nhưng Đôn không được trở lại nắm quân đoàn. Đôn khôn ngoan biết cư xử mềm mỏng, khéo léo, không bao giờ để lộ thái độ bất bình, chống đối nên gần đây được Diệm, Nhu bổ nhiệm làm quyền tổng tham mưu trưởng, một chức vụ quan trọng nhưng không trực tiếp nắm quân trong tay. Diệm, Nhu không biết với cương vị mới, Đôn đã có những điều kiện rất thuận lợi để liên lạc tập hợp tất cả những tướng tá đang có sự bất bình với chế độ và dựa vào Mỹ tổ chức một cuộc đảo chính.

Trong phòng họp, ngồi bên cạnh Đôn là Minh Lớn và Lê Văn Kim. Minh Lớn nổi bật lên với thân hình đồ sộ và vẻ mặt kiên nghị. Minh Lớn cũng giống như Đôn, gia đình theo đạo Phật, đã ở trong đội quân viễn chinh Pháp suốt quá trình chiến tranh xâm lược Việt Nam, và còn vượt xa Đôn về mặt ít được Diệm, Nhu tin dùng. Ở trong quân đội viễn chinh Pháp, Minh Lớn là người thăng quan tiến chức rất nhanh. Sau ngày Diệm - Nhu lên cầm quyền, Minh Lớn có công với chế độ mới trong cuộc đấu tranh loại bỏ Nguyễn Văn Hinh, người gắn liền với Bảo Đại và được thăng cấp trung tướng ngay hồi đó. Minh Lớn trở thành một nhân vật nổi bật nên bị Diệm, Nhu e ngại, tước dần những nhiệm vụ quan trọng, và cuối cùng chỉ trao cho một chức vụ có tính danh nghĩa là tư lệnh bộ chỉ huy dã chiến. Minh Lớn đã bất bình với Diệm - Nhu từ lâu, chỉ chờ cơ hội này câu kết với Đôn tiến hành âm mưu đảo chính.

Viên đại tá tình báo Mỹ Lucien Conien không được giới thiệu vì sao cũng có mặt trong phòng họp. Bữa nay y bận quân phục Mỹ đàng hoàng, đeo bên sườn một khẩu Colt quay báng ngà. Y xách theo một chiếc túi lớn, bên trong có 3 triệu dollar để khi cần có thể chi ngay. Ngay tại phòng họp, đã được đặt riêng hai máy điện thoại của Conien, một đường dây chạy thẳng về tòa đại sứ Mỹ, một đường dây chạy tới nhà riêng. Trên chiếc xe Jeep chở y tới còn có nhiều máy bộ đàm..

Lê Quang Tung cũng về họp. Y ngơ ngác nhìn quang cảnh, biết là mình đã sa lưới.

Dương Văn Minh đứng dậy nhân danh chủ tịch Hội đồng các tướng lãnh cách mạng, kêu gọi mọi người gác bỏ mọi tình cảm riêng tư, cùng nhau đoàn kết lật đổ chế độ gia đình trị thối nát của Ngô Đình Diệm. Mặt Minh tái đi trước giờ phút nghiêm trọng. Y dọa nếu người nào chống lại nghị quyết của Hội đồng sẽ bị tạm thời cô lập ngay.

Số đông ngơ ngác, lúc này mới biết mình đang tham dự vào một âm mưu đảo chính.

Lê Quang Tung phản đối. Y tuyên bố kiên quyết chống lại mọi mưu toan phản nghịch đối với chính quyền dân cử hợp hiến. Minh gõ tay xuống bàn. Đại úy Nhung, viên sĩ quan cận vệ của Minh, lập tức cùng hai nhân viên an ninh tiến lại trước mặt Tung, nói:

- Theo lệnh của Hội đồng các tướng lãnh, mời đại tá đi theo tôi.

Hai ba người nữa tiếp tục phát biểu không tán thành đảo chính, trong đó có Cao Văn Viên, tư lệnh lữ đoàn dù, và Trần Văn Tư, giám đốc nha cảnh sát đô thành, đều bị lần lượt đưa ra khỏi phòng họp.

Những người còn lại vỗ tay để biểu lộ sự tán thành nghị quyết của Hội đồng tướng lãnh cách mạng.

Trần Văn Đôn bắt đầu điều khiển tiến trình đảo chính.

Ngay chiều hôm đó, Lê Quang Tung và em của y là thiếu tá Lê Quang Triệu bị còng tay trên một chiếc xe Jeep, do đại úy Nhung áp giải, chạy ra khỏi Bộ Tổng tham mưu. Tung luôn mồm chửi bới những tướng lãnh đảo chính là đồ phản chủ, vong ân bội nghĩa. Tiếng nói của Tung chỉ tắt đi khi những phát súng ngắn của Nhung vang lên kết liễu đời y.
 
3.

Lúc 13 giờ 30, quân lính từ trung tâm huấn luyện Quang Trung do Mai Hữu Xuân phụ trách, tiến ra chiếm sở chỉ huy của Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất và Đài phát thanh Sài Gòn.

Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, chỉ huy sư đoàn 5, một đơn vị được Diệm tin cậy, từ Biên Hòa tiến về Sài Gòn, và một lực lượng xung kích hỗn hợp từ Vũng Tàu về, tiến hành bao vây khu vực dinh Gia Long và trại lính Cộng hòa.

Pháo binh bắt đầu nã dạn đại bác 105 ly vào thành Cộng hòa. Tiếng súng nhỏ nổ ran ở nhiều nơi trong thành phố.

Những ngả đường tiến vào dinh Gia Long có những đơn vị của lữ đoàn Liên binh phòng vệ đóng quân, nên tình hình trong dinh vẫn yên tĩnh. Các sĩ quan cận vệ phải mời nhiều lần, Diệm mới chịu xuống hầm.

Hầm ở dinh Gia Long vừa được xây xong hồi cuối tháng 10, có thể chịu đựng được đại bác 105 ly. Hầm có đường ăn thông với phòng của Diệm và phòng của vợ chồng Nhu. Trong hầm có cả buồng ngủ, buồng tiếp khách và nhà tắm.

Giờ đầu, Diệm và Nhu đều tỏ ra bình tĩnh. Diệm gọi điện thoại cho Nguyễn Ngọc Thơ, phó tổng thống, khuyên tìm nơi ẩn náu. Nhu cũng lần lượt gọi điện thoại cho các bộ trưởng, nhắc cố gắng đừng để lọt vào tay quân đảo chính. Một số bộ trưởng, kể cả bộ trưởng phụ tá Quốc phòng đã nhanh chân trốn biến. Nhưng cũng có một số nhân vật thân cận nghe tiếng súng nổ, đã chạy vào dinh, như Cao Xuân Vỹ, Võ Văn Hải... Lát sau, Diệm cho Hải về, Nhu giữ Cao Xuân Vỹ lại.

Nhu cho bắt liên lạc với các nơi. Biệt khu thủ đô không có người trả lời. Quân đoàn 3, bộ tư lệnh Hải quân, không quân, Quân đoàn 4... đều không có người trả lời.

Nhu cảm thấy tình hình phẳng lảnh. Chỉ còn bắt liên lạc được với Quân đoàn 2 ở Nha Trang. Tướng Nguyễn Khánh tỏ ra sốt sắng: "Ông cố vấn cho lính ráng giữ. Mấy thằng hắn làm càn. Tôi sẽ cho Quân đoàn 2 phản công". Nhưng Khánh ở quá xa. Những lực lượng ở gần như Thủy quân lục chiến, lữ đoàn Dù, sư đoàn 5, sư đoàn 7 đều mất liên lạc. Lực lượng đặc biệt điều ra Long Thành đêm qua cũng mất tăm. Nhu bắt đầu bối rối.

Đại bác của quân đảo chính tiếp tục nã dữ dội vào thành Cộng hòa. Thiếu tá Duệ, tư lệnh lữ đoàn Liên binh phòng vệ báo cáo có nhiều người thương vong. Từ đài phát thanh Sài Gòn vang lên những khúc nhạc quân hành. Hội đồng tướng lãnh cách mạng và những người đã theo phe đảo chính lần lượt xưng đanh. Có tới trên 20 người. Nhu bảo viên sĩ quan cận vệ:

- Đưa ra-đi-ô xuống hầm và nối dây ăng ten cho ông Cụ nghe, để cụ nắm biết tình hình.

Nhu tiếp tục đi đi lại lại trên hành lang, đầu cúi gằm, mặt xạm đen. Lát sau, Nhu xuống hầm gặp Diệm.

Trong hầm, từ chiếc dài thu thanh bán dẫn nhỏ vẫn vang lên những tiếng nhạc quân hành. Diệm cho tắt máy, hỏi:

- Có tin Đính chưa?

- Vẫn không liên lạc được với Ba Đính? Em đã trao đổi kỹ kế hoạch với Đính từ tối qua.

- Hay lại có chuyện chi?

Nhu lặng thinh. Diệm nói tiếp:

- Các tướng lãnh bị chúng bắt làm con tin thôi, chứ đâu lại như rứa! Có liên lạc được với Huỳnh Văn Cao không?

- Vẫn không thấy Quân đoàn 4 trả lời. E dưới đó có biến...

Diệm sầm mặt, rồi hỏi:

- Chừ chú định tính răng?

- Em đã làm hết mọi việc em có thể làm. - Lần đầu, trước mặt anh, Nhu bộc lộ sự bất lực của mình. - Bây giờ mọi quyết định ở nơi anh, với trách nhiệm là tổng thống.

Diệm ngẩn mặt nhìn Nhu. Nhu ngồi ủ rũ, sẵn sàng đón đợi cơn thịnh nộ.

Diệm rời mắt khỏi Nhu, lặng lẽ đứng dậy, chắp tay sau lưng, đi di lại lại hồi lâu trong căn hầm.

Diệm quay lại nói với Nhu:

- Muốn thay đổi tình hình, phải chiếm ngay lại cái Đài. Cứ để hắn nói mãi, các nơi mắc lừa sẽ theo bọn hắn ráo.

Diệm bảo viên sĩ quan cận vệ:

- Lắp ngay một cuốn băng vô cát-xét để thu hiệu triệu.

Diệm cầm chiếc mi-crô nói mấy lời đại ý: "Một số phần tử quá khích đã có những hành động gây rối, chính phủ đang tiến hành vãn hồi trật tự. Đồng bào cần giữ bình tĩnh, quân đội hết sức tránh đổ máu. Các đơn vị quân đội ở đâu cứ ở đó, tuyệt đối dồn mọi nỗ lực đề phòng Cộng sản, chống sự xâm nhập của Cộng quân. Tất cả phải bình tĩnh đợi lệnh của thượng cấp".

Diệm nghe lại một lần, cho gỡ băng, trao cho một sĩ quan và ra lệnh:

- Mi cầm ngay vô thành Cộng hòa, trao tận tay ông thiếu tá Duệ, nói lệnh của tổng thống phải chiếm lại Đài phát thanh với bất cứ giá nào, và cho phát thanh liên tục lời hiệu triệu ni. Làm được là có công lớn lắm đó! 4.

Lúc 15 giờ, Diệm gọi điện thoại cho Trần Văn Đôn ở Bộ Tổng tham mưu.

Diệm nói:

- Cần chấm dứt ngay cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn nầy! Các tướng lĩnh muốn cái chi?

Đôn trả lời mềm mỏng:

- Thưa tổng thống, chúng tôi đã nhiều lần đề nghị tổng thống sửa đổi chính sách cho phù hợp với nguyện vọng của dân chúng, vẫn không được tổng thống chấp nhận... Nay đã tới lúc quân đội phải đáp ứng lại nguyện vọng của dân chúng. Xin tổng thống hiểu cho.

- Tại sao không ngồi lại với nhau? Các ông và tôi có thể cùng bàn cãi về những sự bất đồng, về những điểm mạnh, điểm yếu của chế độ, và tìm cách cải tiến.

- Lúc này đã quá trễ!

- Không bao giờ lại quá trễ. Tôi xin mời tất cả các ông tới dinh cùng thảo luận, và tìm một giải pháp đôi bên đều có thể chấp nhận.

- Việc này không tùy thuộc ở mình tôi. Tôi cần xin ý kiến các tướng lĩnh.

Nghe Đôn nhắc lại ý kiến của Diệm, nhiều người có mặt nhao nhao. Họ đều nói đây là mẹo Diệm đã quen dùng, nhằm kéo dài thời gian chờ quân cứu viện.

Minh Lớn giật ống nói từ trong tay Đôn:

- Dương Văn Minh đây! Nghe cho thiệt kỹ nghen! Quân lực Việt Nam cộng hòa đổ máu chiến đấu không phải để đưa ông lên làm trời, thu tóm mọi quyền hành vô tay anh em ông, họ hàng nhà ông, rồi thi nhau tàn phá đất nước, giết hại đồng bào. Anh chị em nhà ông tậu cửa hàng, xây nhà lầu, biệt thự, đưa vàng, "đôn"[1] ra gởi ngân hàng nước ngoài, là lấy tiền ở đâu, ông có biết không? Đó là tiền công quỹ do dân đen góp vô, tiền viện trợ của đồng minh cho những binh sĩ đang đổ máu trên chiến trường! Đồng bào Phật giáo treo cờ ngày Phật đản, tội tình chi mà anh em ông bắn giết? Người đấu tranh đòi mở rộng dân chủ, tội tình chi mà bị đày vô tù, bị nhục hình? Quân lực Việt Nam cộng hòa đang bị anh em nhà ông đẩy tới bên bờ vực thẳm. Chính quyền này đã quá mục ruỗng, quá thối nát, không thể tồn tại thêm một ngày, một giờ...

Minh Lớn đổ xuống đầu Diệm tất cả những căm hờn chất chứa trong lòng từ bao lâu nay.

Cuối cùng, Minh Lớn hét vào ống nói:

- Chỉ có đầu hàng! Đầu hàng vô điều kiện. Không có bàn bạc thảo luận gì hết trơn. Quân đảo chánh bao vây chặt dinh Gia Long và thành Cộng hòa rồi.

Diệm dằn giọng hỏi lại:

- Quân mô? Vây mô...?

Đúng là tới giờ phút này, chung quanh dinh Gia Long chưa xuất hiện bóng dáng của quân đảo chính.

Kế hoạch đảo chính lần này do chính quyền tổng tham mưu trưởng Trần Văn Đôn dự thảo, với sự tham gia của một số tướng dày dạn kinh nghiệm, nên đã được hoạch định chu đáo đến từng chi tiết nhỏ. Ngay từ giờ đầu, những lực lượng trung thành với Diệm, Nhu đều bị vô hiệu hóa. Lê Quang Tung, người cầm đầu lực lượng đặc biệt bị giết. Tôn Thất Đính, viên tướng trẻ đẹp trai kiêu hùng, người đã được Nhu đặt tất cả niềm hy vọng sẽ lật ngược thế cờ khi cần thiết bằng kế hoạch phản đảo chính Bravo I, đã ngả theo Đôn từ đầu tháng 10 mà Nhu không biết. Đính đã ngầm thông báo cho Đôn kế hoạch phản đảo chính của Nhu, để Đôn vạch ra kế hoạch đảo chính của mình một cách tỉ mỉ, lấy tên là Bravo II và trao cho Đính thực hiện. Người chỉ huy đánh chiếm dinh Gia Long và trại lính Cộng hòa lúc này lại chính là Đính. Huỳnh Văn Cao, tư lệnh Quân đoàn 4 được cả Diệm và Nhu rất tin, nghe tin đảo chính, trở về sư 7 của mình, thì sư này vừa chuyển sang tay tướng Nguyễn Hữu Có, người của phe đảo chính. Một số người được tin cậy khác như Cao Văn Viên, tư lệnh lữ đoàn Dù, bị bắt giữ ngay từ đầu, Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải quân, chỉ huy thủy quân lục chiến, trước khi đảo chính một giờ, đã bị một người bạn, theo phe đảo chính, hạ sát bằng một phát súng lục.

Tuy nhiên, phía đảo chính cũng không phải không còn những khó khăn.

Lực lượng Liên binh phòng vệ Phủ tổng thống tuy chỉ còn một số đại đội ở thành Cộng hòa và dinh Gia Long, nhưng đều là những lực lượng thiện chiến và trung thành với Diệm, mặc dù đã bị tổn thất vì đạn đại bác, vẫn không để cho quân đảo chính vượt qua vị trí của họ tiến vào dinh Gia Long. Lúc 4 giờ chiều hôm đó, lực lượng chính của quân đảo chính, là sư đoàn 5 của Nguyễn Văn Thiệu, vẫn chưa vượt được qua cầu Thị Nghè và cầu Phan Thanh Giản để tiến vào nội đô. Tôn Thất Đính phải gọi điện cho Trần Văn Đôn, yêu cầu dùng không quân chi viện cho quân đảo chính.

Trung tá Nguyễn Cao Kỳ, mới ngả theo phe đảo chính, cho hai máy bay cất cánh từ Tân Sơn Nhất, phóng tên lửa và quét trọng liên vào trại Cộng hòa. Nhưng những binh lính trong trại vẫn không chịu rời vị trí.

Vì phần lớn lực lượng của Nguyễn Văn Thiệu là sư đoàn 5 chưa vào nội đô, Đính phải trao cho Lâm Văn Phát chỉ huy lực lượng hỗn hợp từ Vũng Tàu về, thay Thiệu tiếp tục tiến công.

Hội đồng tướng lãnh bắt đầu dao động, lo Diệm, Nhu có thể lật lại thế cờ. Vợ con một số tướng lãnh vội vàng xách va-li tới tập trung tại sân golf gần sân bay Tân Sơn Nhất. Nguyễn Cao Kỳ đã chuẩn bị sẵn mấy chiếc Dakota của Liên đoàn vận tải, đưa các tướng tá và gia đình di tản sang Thái Lan trong trường hợp đảo chính thất bại.
 
. 5.

Lúc 16 giờ 30, tại đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn.

Cabot Lodge ngồi trước máy điện thoại, vẻ mặt đăm chiêu. Ông ta đã ngồi như vậy từ cách đây 3 tiếng đồng hồ, khi những tín hiệu với một loạt con số 9 được Conien từ Bộ Tổng tham mưu đánh đi báo hiệu cuộc đảo chính bắt đầu.

Từ tháng 6 năm nay, vấn đề Diệm - Nhu đã trở thành một nguy cơ chia rẽ trong nội bộ chính quyền Hoa Kỳ. Sự bất lực của Diệm trong việc ngăn cản cuộc đấu tranh cách mạng của Cộng sản ở Nam Việt Nam, đã rõ ràng. Diệm trở nên cực kỳ khó bảo. Chỉ cần một trong hai điểm này là đủ để xét lại tư cách một "đồng minh" của Mỹ. Ở Diệm, lại có cả hai. Kennedy đã dần dần đi tới ý định phải loại bỏ Diệm. Tổng thống được sự đồng tình của nhiều người lãnh đạo chính quyền. Nhưng lại vấp phải sự chống đối của một số phụ tá, phần đông những người này từ lâu đã có liên quan với chế độ Diệm. Kennedy cần có một người mới, để nhìn vấn đề bằng cặp mắt mới. Đúng hơn, tổng thống muốn có một người không dính líu đến những việc cũ, để thực thi ý định của ông ta. Kennedy đã nghĩ tới Cabot Lodge.

Hạ tuần tháng 8, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn là Nolting, người đã bảo vệ Diệm đến cùng, bị triệu hồi. Cabot Lodge sang thay. Tới Sài Gòn, y hiểu sứ mệnh của mình không dễ dàng. Cuộc tiếp xúc đầu tiên với Diệm, đã cho y thấy Diệm là một con người lỳ lợm, có gan chống lại quan thầy, và không dễ gì hòa giải. Em Diệm là Nhu, còn nguy hiểm hơn anh. Nhu có nhiều thủ đoạn khó lường, và đã công khai thách thức Mỹ. Sau vụ tiến công các chùa chiền, Nhu tiếp tục những cuộc bắt bớ, ngầm bảo những cơ quan chính quyền tẩy chay cố vấn Mỹ, và chính mình cũng lên tiếng bài xích Mỹ. Những người bất bình, chống đối chính quyền khá đông, nhưng ai cũng sợ bộ máy mật vụ của Nhu. Ngay cả Conien, một nhân viên CIA kỳ cựu, liều lĩnh, cũng lo Nhu có thể cho người hạ sát mình bất cứ lúc nào, rồi vu cho Việt Cộng. Trong khi đó, những người muốn duy trì Diệm, ở Sài Gòn cũng như ở Nhà Trắng, luôn luôn chơi trò thọc gậy bánh xe.

Trận đánh được chuẩn bị một cách chậm chạp và gặp hết khó khăn này qua khó khăn khác. CIA không tìm được những đối thủ xứng đáng với Diệm, Nhu. Những người đang định lật đổ chế độ, kém cả về tinh thần kiên định và trình độ tổ chức. Cách duy nhất để động viên, thúc đẩy họ, là nói cho họ rõ nhà cầm quyền Mỹ đã quyết tâm gạt bỏ Diệm, Nhu. Nhưng Lodge lại bị một số người Mỹ phá ngang. Nguy hiểm nhất là Harkin. Vào những ngày đảo chính sắp nổ ra, Harkin đã trực tiếp nói với những người đang âm mưu là đừng có làm việc này. Ác nhất là Harkin đã qua Taylor, nói với chính Kennedy: việc loại Diệm có thể phá hỏng những nỗ lực chiến tranh chống Cộng, và cuộc đảo chính có nhiều nguy cơ thất bại vì những địch thủ của Diệm quá yếu, không đủ sức đương đầu với lực lượng của Nhu. Tới những ngày cuối cùng, tổng thống Mỹ tỏ ra hết sức phân vân. Ông ta đã chỉ thị cho Lodge: nếu đảo chính không có khả năng thành công thì nên ngừng lại cho tới khi nào có cơ hội tốt hơn; nếu đảo chính đã khởi sự thì căn cứ theo quyền lợi của chính phủ Hoa Kỳ, nó phải thành công. Lodge biết rõ sự ranh ma của những người làm chính trị, họ muốn có thắng lợi nhưng lại muốn giũ bỏ trách nhiệm cho người khác khi bị thất bại!

Lodge buộc phải tính toán lại, vì người chơi trò đó lúc này lại chính là tổng thống. Lodge hiểu sứ mệnh của mình vẫn không thay đổi. Đây là việc trước sau mình vẫn phải làm. Nếu lùi vào lúc này, sẽ làm những kẻ nổi loạn vốn yếu kém về mặt tinh thần, càng nhụt chí, rất khó vực họ lên một lần nữa. Và, trong khi họ lùi lại, Diệm - Nhu sẽ không chịu ngồi yên. Đối thủ của họ sẽ tiến lên với những đòn thường là hiểm độc và bất ngờ... Canh bạc này có thể rủi ro. Nhưng cuối cùng, Lodge thấy mình cứ phải chơi, và tất nhiên, phải chịu trách nhiệm.

Từ khi nổ súng, Conien thường xuyên báo cáo bằng điện thoại mọi diễn biến của cuộc đảo chính. Những tin tức này được truyền ngay về Washington bằng sóng ngắn vô tuyến. Sự việc tiến triển theo chiều hướng khả quan. Nhưng Lodge vẫn cảm thấy lo. Cả cuộc đời chính trị của y đặt vào canh bạc này...

Chuông điện thoại réo. Lodge cầm máy. Đầu dây đằng kia là tiếng nói của Ngô Đình Diệm:

- Một số đơn vị đã nổi loạn, tôi muốn biết thái độ của Mỹ.

Lodge lảng tránh:

- Tôi cảm thấy chưa có đủ tin tức để thông báo cho ngài. Tôi đã nghe thấy tiếng súng nhưng chưa hiểu rõ tất cả sự thật. Cũng lúc này ở Washington là 4 giờ 30 sáng, chính phủ Mỹ không thể có một nhận xét nào.

- Nhưng ngài phải có một khái niệm chung. Xét cho cùng, tôi là quốc trưởng của một nước. Tôi đã cố gắng làm nhiệm vụ của tôi. Bây giờ tôi muốn làm bất cứ nhiệm vụ gì và bất cứ điều gì để tỏ thiện chí. Tôi tin rằng nhiệm vụ là trên hết.

Diệm đã tự hạ mình, tỏ ra sẵn sàng nhân nhượng, hy vọng Lodge mở cho mình một lối thoát khỏi tình thế khó khăn. Nhưng viên đại sứ Mỹ tiếp tục đánh trống lảng.

- Tất nhiên ngài đã làm nhiệm vụ của ngài... Như tôi đã nói với ngài sáng nay, tôi khâm phục lòng dũng cảm của ngài và những cống hiến to lớn của ngài cho đất nước. Không ai có thể cướp những công trạng mà ngài đã đạt được.. Bây giờ tôi lo lắng cho tính mạng của ngài. Tôi nhận được báo cáo là những người cầm đầu những hoạt động hiện hành sẽ cho phép anh em ngài ra nước ngoài an toàn nếu ngài từ chức. Ngài đã nghe thấy điều này chưa?

- Không. - Diện im lặng một lát sau khi buông ra lời phủ định, rồi lại nói tiếp - Ngài có số điện thoại của tôi chứ?

- Có. Nếu có thể làm gì để bảo đảm tính mạng cho ngài, xin ngài cứ gọi tôi.

Diệm hiểu rằng cả đến lời gợi ý Cabot Lodge có thể nghĩ lại và sẽ gọi điện thoại cho mình cũng đã bị khước từ...

- Tôi đang cố lập lại trật tự.

Diệm nói câu cuối cùng và bỏ máy.
 
6.

Việc chiếm lại Đài phát thanh Sài Gòn gặp khó khăn. Một chi đội thiết giáp với một đại đội bộ binh, do một trung úy chỉ huy, được phái đi làm nhiệm vụ. Gần tới mục tiêu, viên trung úy gặp một viên trung tá của binh chủng thiết giáp, rối rít vẫy tay gọi mình. Viên trung tá vừa là cấp trên, lại vừa là bí thư đảng Cần lao tại binh chủng thiết giáp thuộc quân ủy. Tưởng cấp trên cũng tới cứu nguy cho Phủ tổng thống, viên trung úy vội vàng chạy lại.Viên trung tá nói đảo chính đang kết thúc, bộ tư lệnh binh chủng thiết giáp đã đi với Hội đồng tướng lãnh, và yêu cầu viên trung úy theo mình. Hai đại đội đi chiếm lại Đài phát thanh phút chốc trở thành lực lượng tăng cường cho phía đảo chính. Tuy nhiên, có 2 xe thiết giáp tách ra khỏi hàng ngũ, quay đầu chạy về dinh Gia Long.

Diệm coi việc chiếm lại Đài phát thanh là quan trọng bậc nhất lúc này. Nhưng khi nghe báo cáo nếu muốn lấy lại vị trí này phải có đổ máu lớn, và Đài phát thanh có nguy cơ bị phá hủy, Diệm thôi không thúc giục nữa. Coi như lệnh đã được hủy.

Một sĩ quan tùy viên hớn hở bước vào hầm, tới báo cáo với Diệm:

- Bẩm cụ, thiếu tá Duệ dưới trại Cộng hòa vừa báo cáo lên: Ở Bộ Tổng tham mưu có người gọi điện về, nói mấy trự trên đó đang sợ xanh xám, tại dó lúc nầy chỉ có mấy thằng tân binh trại Quang Trung và mấy tay văn phòng, chỉ cần đưa một đại đội lên là xong. Anh em dưới trại đã bàn. Thiếu tá Duệ đề nghị cụ cho đưa một chi đội thiết giáp và một đại đội bộ binh, theo đường Công Lý lên, đột thẳng vô sào huyệt, hốt về đây trọn ổ. Chớ cứ thủ mãi như thế nầy thì có cơ nguy.

Diệm suy nghĩ rồi nói:

- Làm rứa không được. Biểu anh em cứ ở tại chỗ, tránh gây đổ máu, chỉ nổ súng khi bị tấn công.

Viên sĩ quan cụt hứng quay lên. Lát sau, y lại quay trở xuống.

- Trình với cụ, anh em thành Cộng hòa xin đề nghị cụ lần nữa, cụ cho anh em lên đó, anh em hết sức tránh đổ máu. Anh em sẽ nói là chỉ lên mời các tướng lãnh về dinh họp mà thôi.

Diệm nói ngay:

- Không thể được! Các tướng đang bị bắt làm con tin, chừ kéo thiết giáp lên rầm rộ, bọn hắn sẽ giết hết các tướng!

Như ngồi bó gối im lặng. Y không hiểu quyết định của anh mình như vậy trong giờ phút này, đúng hay sai. Tổng thống chỉ nghĩ: bọn cầm đầu đảo chính sẽ giết những tướng lãnh bị bắt làm con tin! Nhưng y lại nghĩ tới một chuyện khác. Việc lấy lại đài phát thanh đã mất không hai đại đội. Liệu việc đi "đón các tướng về" có làm mất tiếp hai đại đội nữa không...? Vào giờ phút này rất cần một người như Lệ Xuân!

Dưới chế độ gia đình trị của họ Ngô, mọi việc lớn của đất nước, lúc thường cũng như lúc biến, đều do anh em Diệm tự quyết định. Được hỏi ý kiến, chỉ là những người tâm phúc. Bộ máy dân cử, kể cả những bộ trưởng, đều thấy mình là người thừa. Từ khi có tiếng súng đảo chính, bộ trưởng Quốc phòng và bộ trưởng Nội vụ đã lặn mất tăm. Diệm và Như đều không cảm thấy thiếu họ. Với một số bộ trưởng khác, chính Diệm và Nhu còn bảo họ nên tạm tìm nơi ẩn náu. Trong hai anh em y, cả Diệm và Nhu, đều thiếu khả năng ứng biến trước những khó khăn đột xuất. Diệm bị chi phối bởi ý nghĩ muốn làm một "minh quân", nên những quyết định thường bị câu thúc vì những nguyên tắc đạo lý cổ hủ. Nhu có hiểu biết, có đầu óc thực tiễn, nhưng lại chỉ quen với những suy nghĩ tính toán chiến lược, đường dài. Vào trường hợp này, người quyền biến lại là Lệ Xuân. Trong cuộc đảo chính ngày 11 tháng 11, vào giờ phút nguy ngập, hai anh em cùng lúng túng, chính Lệ Xuân đã đưa ra những ý kiến kịp thời, được Diệm chấp thuận, và nhờ đó giải quyết được khó khăn.

Lúc này bà ấy lại không có mặt...! Nhu đau xót với ý nghĩ không biết có còn gặp lại vợ mình nữa không.

Căn hầm sực nức mùi khói thuốc lá. Hai anh em Diệm đốt thuốc liên tục. Diệm trước đây, chỉ cầm điếu thuốc lá hút vài hơi, rồi dụi đi. Ít ngày gần đây, đã hút thực sự và hút khá nhiều.

Ông bõ già mang xuống hai tô cháo gà. Ông lão biết rõ trong hoàn cảnh này, tổng thống và ông cố vấn không thể nào nuốt trọn miếng cơm.

Diệm nhìn bát cháo với vẻ thờ ơ, rồi bỗng nói:

- Mang thêm ra đây cho tất cả mọi người cùng ăn.

Nhu liếc mắt nhìn Diệm. Lần đầu, y bỗng thấy thương anh. Lúc này, người anh đầy uy quyền, khó tính khó nết của y, chỉ còn là một ông già tội nghiệp.

Bên ngoài, tiếng súng xen lẫn với tiếng đại bác vẫn tiếp tục nổ. Bầu trời đã ngả sang màu xám, đang nhanh chóng chuyển thành màu đen. Dinh Gia Long với những hàng cột có hình mặt người bất động và những rèm cửa sắt buông kín, đã thực sự trở thành nấm nhà mồ đang chìm vào bóng hoàng hôn của một ngày tận thế.

Bộ máy truyền tin của Phủ tổng thống vẫn tiếp tục những công việc tuyệt vọng, liên lạc với các quân khu, sư đoàn, các tỉnh, các đoàn thể, yêu cầu cứu viện.

- Bẩm cụ, đã liên lạc được với ông Đính.

Diệm vội vã đón chiếc ống nghe từ tay viên sĩ quan truyền tin, giọng mừng rỡ:

- Đính đó ư?

- Đính đây.

Diệm vẫn không nhận ra giọng nói đã hoàn toàn khác lạ của viên tướng trẻ thân tín.

- Gấp rồi. Làm gì đi chớ!

- Làm gì...? Tôi cứu các ông mấy hồi rồi, bây chừ thì khỏi! Các ông hết thời rồi. Đầu hàng đi thôi!

Ngồi ở trại Lê Văn Duyệt, Đính đang điên đầu vì sư đoàn 5 tiến vào nội đô quá chậm. Đính biết những người cầm đầu đảo chính chưa thực tin mình. Cái chết của Hồ Tấn Quyền trưa nay, làm cho y luôn luôn cảm thấy có những họng súng vô hình đang rình rập chung quanh mình. Nhân lúc này, y cần tỏ thái độ dứt khoát để giải quyết sự nghi kỵ.

Diệm vẫn cầm chắc ống nói trong tay, mặt thẫn thờ, miệng lẩm bẩm:

- Thằng Đính hỏng ròi...! ---

[1] "dollar", tiếng lóng.
 
NGƯỜI BỊ GIẾT VÀ KẺ GIẾT NGƯỜI

1.
Hy vọng cuối cùng của Nhu đã tắt. Trong ngày, Đài phát thanh Sài Gòn nhiều lần loan báo tên của Tôn Thất Đính nằm trong hàng ngũ những tướng lãnh đảo chính. Nhưng Nhu vẫn cho rằng Đính đang thực hiện kế hoạch cũ do Nhu đã hoạch định: hễ có kẻ nào móc nối đảo chính là cứ sáp vô, để tới phút cuối cùng sẽ lật lại thế cờ. Tới giờ phút này, rõ ràng là không phải như vậy.

Dinh Gia Long đã ở vào tình thế tuyệt vọng. Lực lượng bảo vệ khu vực chỉ còn thưa thớt. Đơn vị đóng tại Sở thú còn 80 người. Binh lính đóng trong thành Cộng hòa thương vong nhiều vì đại bác, cũng không còn hơn số đó. Một lực lượng nhỏ biệt động quân đóng tại nhà bưu điện. Mấy đơn vị trực tiếp bảo vệ dinh tuy còn nguyên vẹn, nhưng đều không có công sự chiến đấu. Toàn bộ những lực lượng này sẽ không đủ sức chống cự qua đêm nay nếu phía đảo chính tiếp tục sử dụng trọng pháo và cho quân ào ạt tiến vào. Phía đảo chính đã nắm được cả binh chủng không quân và thiết giáp. Họ có thể dùng trọng pháo bắn thẳng vào dinh Gia Long nếu cuộc chiến đấu kéo dài... Nhu thấy đành phải thực hiện đến kế sách cuối cùng, một điều mà y không hề muốn.

Nhu mở cánh cửa sắt ra khỏi hầm, lên lầu gặp Cao Xuân Vỹ. Suốt từ lúc tiếng súng bắt đầu nổ, chỉ còn viên phó tổng thủ lĩnh Thanh niên cộng hòa này vẫn gắn bó bên y.

Nhu hỏi Vỹ:

- Tình hình chung quanh dinh ra sao?

- Từ đây ra Sở thú và ra chợ Bến Thành vẫn yên.

- Phải đi thôi.

- Ông cố vấn đã trình với tổng thống chưa?

- Tôi sẽ nói với cụ ngay bây giờ. Anh chuẩn bị sẵn sàng nhé!

- Dạ... Ông cố vấn nói giùm với cụ dùng tạm xe chở hàng để rời khỏi dinh, đi một quãng sẽ thay xe.

- Không có chuyện chi.

Nhu quay xuống hầm bảo viên sĩ quan cận vệ của Diệm tạm ra ngoài. Diệm ngồi lặng thinh, hai má chảy xệ, vẻ chán nản tột độ.

Nhu ghé lại ngồi bên nói:

- Anh và em cần phải rời khỏi dinh Gia Long vài ngày. Lát nữa, quân đảo chính hạ xong thành Cộng hòa sẽ đánh vô đây. Chúng sẽ dùng pháo và thiết giáp, lực lượng phòng vệ không giữ nổi. Nếu giờ không đi ngay, lát nữa e kẹt.

Diệm ngồi nhìn Nhu chốc lát rồi hỏi:

- Đi mô?

- Vô Chợ Lớn. - Nhu ngập ngừng một lúc rồi nói tiếp - Em nghĩ, anh nên lánh tạm vô nhà thờ hay tu viện ít hôm, em đi tiếp lên Lâm Đồng. Trên đó đã gọi điện về, tình hình vẫn yên. Ta vẫn còn nắm được Quân khu 1 và Quân khu 2. Nguyễn Khánh và Đỗ Cao Trí đều cam kết trung thành. Với hai quân đoàn, các tướng sẽ dẹp yên bọn đảo chính, khôi phục lại tình hình như cũ.

Diệm ngồi thừ người, rồi lắc đầu:

- Vô nhà thờ không nên... êm không nói làm khi, có sao sau này sẽ phiền lụy tới các cha.

- Dạ, nếu vậy ta ở tạm một nhà dân. Em đã chuẩn bị một nơi rất kín đáo, không để ai biết. Ta phải đi ngay, trong chốc lát còn tạm yên.

- Đi thì đi... Nhưng tôi ở đâu thì chú cũng ở đó.

Nhu biết không thể thuyết phục Diệm ngay một lúc bèn quay lên lầu, bảo Vỹ:

- Cụ không chịu vô nhà thờ. Giờ cứ đến tạm một nhà dân rồi tính sau.

- Nếu vậy tôi phải gọi điện cho Phước chuẩn bị. Cụ và ông cố vấn di trước, tôi sẽ tới sau ngay.

Nhu gọi một sĩ quan lấy hành trang. Hành trang của Nhu đã được chuẩn bị từ trước, gồm một sồ quần áo cải trang để đi lại ở vùng nông thôn và miền núi. Nhu đã có kinh nghiệm từ những năm xưa khi trốn từ Hà Nội về Phát Diệm rồi qua Lào. Viên sĩ quan thực hiện lệnh của chủ một cách kín đáo. Nhưng khi Nhu trở lại hầm thì cả một không khí nhộn nhịp. Nhiều sĩ quan tùy viên cận vệ, bác sĩ, cả người lão bộc, đang vây quanh Diệm, bàn chuyện ai đi, ai ở lại.

Diệm nói:

- Đi một đứa thôi. Đi nhiều không nên.

Đại úy Thọ nói:

- Các anh đều có vợ, có con cả, tôi chỉ có một thân một mình, các anh ở lại, tôi đi theo cụ, có chết cũng không sao.

Ông bõ già đưa Diệm một chiếc cặp da lớn. Thọ vội đỡ chiếc cặp da từ tay Diệm. Ông bõ già lại đưa tiếp cho Diệm chiếc can. Diệm ngẩn ngơ như người mất hồn. Mọi người bịn rịn đứng nhìn theo Diệm, Nhu cùng với hai viên sĩ quan cận vệ rời khỏi dinh.

Để khỏi bị phát hiện, Diệm và Nhu được Vỹ bố trí đi trên một chiếc xe chở hàng nhỏ. Chiếc xe lăn qua cửa ngách của dinh phía đường Pasteur, rẽ qua đường Lê Thánh Tôn, rồi phóng về Chợ Lớn. Trung tá Phước, phó đô trưởng phụ trách nội an, theo điện thoại của Vỹ, đã chờ sẵn với một chiếc xe du lịch, mời mọi người chuyển xe rồi tự tay lái đưa về nhà một gia đình Hoa kiều.

Vì kế hoạch thay đổi nên tới giờ phút chót, Mã Tuyên mới biết sắp được đón những người cầm đầu Việt Nam cộng hòa tới lánh nạn tại gia đình mình. Diệm và Nhu trước đây chưa hề quen biết Mã Tuyên. Cao Xuân Vỹ bố trí cho họ tới gia đình này vì Mã Tuyên đã được Vỹ chọn làm thủ lãnh Thanh niên cộng hòa tại Chợ Lớn.

Mã Tuyên lật đật ra cửa rước khách vào nhà. Mã Tuyên xua vội vợ con khỏi tầng lầu, sửa soạn gi.ường mùng đón khách quý.

Diệm và Nhu hỏi thăm chủ nhân vài câu, rồi lên lầu. Mã Tuyên cấm vợ con không ai được tới nơi khách ở, tự mình thức suốt đêm pha trà ngon, bưng nước phục dịch khách. Ông "lãnh kiều" chưa hề biết gì về biến cố ngày hôm nay tại Sài Gòn vì mải mê công việc buôn bán. Lòng hiếu khách của Mã Tuyên đã mang lại cho ông ta sau đó 4 năm tù và toàn bộ tài sản bị tịch biên. Theo lời nói lại, trong suốt 4 năm ở tù, ông ta không có một lời oán thán.

Một xe trang bị máy truyền tin đỗ ở gần nhà Mã Tuyên, giữ liên lạc giữa Diệm với dinh Gia Long, thành Cộng hòa và những nơi khác. 2.

Lúc 12 giờ đêm, Lâm Văn Phát đưa quân vào chiếm thành Cộng hòa. Binh lính tại đây đã bị dội khoảng 400 trái đại bác, sau khi biết tổng thống đã rời khỏi dinh Gia Long, bèn bảo nhau "tùy nghi di tản" trước đó nửa giờ. Ngay trong đêm đó, Phát được Hội đồng tướng lĩnh đề bạt từ đại tá lên thiếu tướng.

Tôn Thất Đính thấy binh lính tham gia đảo chính đã quá mỏi mệt, đề nghị với Hội đồng tướng lĩnh cho nghỉ vài giờ đề bổ sung trang bị, đạn dược, chuẩn bị tiếp tục tiến công dinh Gia Long trước khi trời sáng. Hội đồng tướng lãnh đồng ý, nhưng nhắc Đính cần cố gắng giải quyết sớm vì trận đánh đã quá kéo dài.

Lúc 3 giờ sáng ngày 2 tháng 11, một sĩ quan từ dinh Gia Long gọi điện thoại cho Trần Thiện Khiêm, đề nghị đừng bắn phá dinh, vì tổng thống và ông cố vấn đã rời khỏi đây. Trong quá trình đảo chính, Khiêm đã có đôi lúc dao động vì thấy thương Diệm. Khiêm ngầm bảo trung tá Phạm Ngọc Thảo đi tìm Diệm, lát sau mới nói cho Hội đồng tướng lĩnh biết tin này.

Các tướng lĩnh sững sờ.

Viên đại tá Conien tức điên người:

- Các ông phải tìm ra Diệm và Nhu với bất kỳ giá nào!

Những sĩ quan ở dinh Gia Long nhiều lần được những người đảo chính gọi điện thoại khuyên đầu hàng.

Lúc 5 giờ sáng, phía trước dinh xuất hiện một lá cờ trắng.

Xe thiết giáp và bộ binh của quân đảo chính tiến vào. Hai chiếc xe đi đầu lần lượt bị bắn nổ tung. Một số lính đảo chính bị gục dưới làn đạn. Có những binh lính bảo vệ Phủ tổng thống đứng khuất, không nhìn thấy cờ trắng xuất hiện trước dinh, nên vẫn nổ súng. Cuộc chiến đấu diễn ra trong ít phút. Lính phòng vệ vội hạ súng khi đã rõ lệnh của những người chỉ huy. Trong số họ chỉ có một người chết. Đó là một viên trung úy sau khi thấy quân đảo chính tiến vào, tưởng mọi chuyện đã xong, tung tăng từ trong nhà đi ra hành lang, đã ngã gục vì mấy viên đạn súng ngắn của những sĩ quan còn bực dọc.

Nguyễn Văn Thiệu từ dinh Gia Long báo cáo về, không tìm thấy cả Diệm và Nhu. Theo nguồn tin tại chỗ, Diệm và Nhu có thể đã trốn sang nhà thờ Đức Bà hoặc vào Chợ Lớn.

Một số toán binh lính và sĩ quan lập tức được phái đi lùng sục ở những nơi này.

Không khí đại bản doanh của quân đảo chính đầy lo âu. Có người nói Diệm và Nhu đã cho đào một đường hầm bí mật thông từ dinh Gia Long sang nhà thờ Đức Bà. Nhiều người lo nếu anh em Diệm đã trốn vào Chợ Lớn, thì không dễ gì tìm ra giữa thành phố đầy người Hoa, đông như kiến và rất nhiều đường ngang, ngõ tắt này.

Nếu chiếm được dinh Gia Long mà không bắt được Diệm, Nhu thì tình thế của các tướng lãnh đảo chính vẫn còn rất chênh vênh.
 
3.

Cứ một lát, Diệm lại bảo Đỗ Thọ gọi điện về dinh Gia Long, lúc thì chuyển lời "tổng thống cảm ơn các con đã hết lòng bảo vệ tổng thống", lúc thì nhắc lại lệnh "chiến đấu đến cùng, không để dinh lọt vào tay quân đảo chính".

Nhu nói với Diệm:

- Lực lượng quân đảo chính rất mạnh. Thành Cộng hòa đã mất, dinh Gia Long chỉ còn mấy đại dội, giữ làm sao được!

Diệm thôi không nhắc lại lệnh này nữa.

Nhu lại khuyên Diệm nên tạm lánh ít ngày, Nhu sẽ lên cao nguyên, gấp rút tổ chức lực lượng phản công ngay để khôi phục lại tình hình. Nhu nói nếu Diệm không muốn vào tu viện thì có thể về quân đoàn 4, nương tựa tạm vào Huỳnh Văn Cao, chờ tới lúc tình hình biến chuyển. Nhu nghĩ là nếu chẳng may Diệm bị bắt, tính mạng của Diệm cũng sẽ được an toàn, còn mình rơi vào tay chúng, chắc sẽ bị trừ khử ngay. Nhưng Diệm nhất định không chịu vào nhà tu, chỉ nói:

- Anh em sống chết có nhau. Chú ở đâu, tôi ở đó!

Nhu đành bàn với Diệm, khuyên Diệm nên cải trang thành một người dân lao động, cùng với Nhu đi ngay trong đêm lên Lâm Đồng. Quần áo Nhu đã chuẩn bị sẵn. Người dẫn đường sẽ là trung tá Phước. Kế hoạch này Nhu đã bàn kỹ với Vỹ. Diệm một mực từ chối cải trang:

- Mình là tổng thống, hành vi phải đàng hoàng, trá hình, chui lủi coi sao được!

Rồi Diệm làm mặt giận dỗi.

Nhu bỏ ra đứng ngoài bao lơn, hồi lâu quay vào:

- Em đã trình bày hết mọi lẽ với anh, nhưng anh không ưng. Giờ mọi việc do nơi anh định đoạt.

Diệm trở nên vui vẻ, nhìn đồng hồ, rồi nói:

- Bữa ni là ngày lễ Các Thánh, chú và tôi tắm rửa, thay quần áo rồi vô nhà thờ.

Diệm quay lại hỏi đại úy Thọ:

- Gần đây có nhà thờ nào không?

Thọ đáp:

- Bẩm cụ, có nhà thờ Cha Tam.

Diệm tắm xong, giục Nhu đi tắm và thay quần áo.

Trời mờ mờ sáng, Diệm và Nhu đều mặc hai bộ đồ lớn màu xám. Diệm mời Mã Tuyên tới, ngỏ lời cảm ơn đã được gia đình tiếp đón rất chu đáo, rồi chào để ra di.

Viên đại úy cận vệ của Nhu đã được cho về từ tối hôm qua. Chỉ còn Thọ ở lại với hai người. Diệm bảo Thọ:

- Đánh xe tới nhà thờ.

Đường phố chưa có người qua lại.

Trong ngôi nhà thờ nhỏ, đèn nến đã sáng trưng vì bữa nay là ngày lễ trọng, nhưng chưa có một ai.

Cha chánh xứ bước ra, nhận ngay thấy Diệm và Nhu. Cha đã chăm chú theo dõi tình hình đảo chính, và hiểu rõ hoàn cảnh hiểm nghèo của hai người.

Cha chánh xứ mời tổng thống và ông cố vấn làm lễ trước.

Diệm và Như quỳ bên nhau ở hàng ghế thứ nhất, bắt đầu đọc kinh xưng tội. Vẫn như mọi lần, Đỗ Thọ đứng sau lưng. Anh ta theo đạo Phật nên không hiểu gì về kinh kệ.

Buổi lễ kéo dài khoảng 15 phút. Diệm đứng dậy, có vẻ thanh thản sau khi đã làm tròn nhiệm vụ đối với Chúa. Nhu uể oải đứng lên theo.

Diệm kéo nhẹ Nhu ra bên tường nhà thờ. Diệm nói:

- Đi đâu bây chừ cũng gây liên lụy. Ta sẽ gọi điện thoại cho Hội đồng tướng lãnh tới đón mình tại đây.

Nhu sầm mặt, cúi đầu, nói với vẻ miễn cưỡng:

- Việc này tùy ý anh.

Diệm lại rói:

- Anh nghe ý chú nhiều, nhưng anh cảm thấy mệt mỏi lắm rồi.

Nhu im lặng.

Phía ngoài nhà thờ, trên sân dã có người đi vào. Giáo dân bắt đầu tới làm lễ. Nhu đưa mắt nhìn qua cách cửa nhà thờ hé mở rồi nói với Diệm:

- Mình vào gặp cha chút xíu.

Không chờ ý kiến của Diệm, Nhu đi thẳng về phía bàn lễ nơi cha chánh xứ đang đứng. Diệm thong thả đi theo.

Khi tới chỗ cha chánh xứ, Nhu còn đang im lặng như để lựa lời thì Diệm đã nói:

- Ông cố vấn và tôi tới quá đường đột làm phiền cha. Xin thưa với cha là sau đây chúng tôi sẽ đi tiếp.

Cha chánh xứ chau mày rồi nói:

- Thưa tổng thống và ông cố vấn, không có gì phiền, xin đừng nghĩ điều đó. Nhà thờ là nước Chúa, ai tới cũng được, không cứ gì tổng thống và ông cố vấn. Xin mời hai ông yên tâm ở lại đây, ra đi lúc này lắm phần nguy hiểm.

Diệm nói:
- Cảm ơn cha, tôi không thấy có gì là nguy hiểm cả. Cá nhân tôi, tôi dâng trọn cho ý Chúa và Mẹ Ma-ri-a, nhưng tôi vẫn còn là nguyên thủ quốc gia, tôi còn trách nhiệm với dân.

- Xin tổng thống và ông cố vấn không nên e ngại. Tổng thống và ông cố vấn ra đi lúc này vô cùng nguy hiểm...

Giáo dân đã lục tục kéo vào trong nhà thờ. Cha chánh xứ mời Diệm và Nhu vào nhà xứ nghỉ tạm, chờ mình làm lễ xong sẽ quay lại.

Vào nhà xứ, Diệm tìm ngay chỗ đặt máy điện thoại, và quay số gọi về Bộ Tổng tham mưu.

Đầu dây đằng kia là tiếng của Trần Văn Đôn. Diệm nói:

- Tôi đã quyết định từ chức, nhưng đề nghị các ông làm theo dúng hiến pháp, tôi sẽ trao quyền lại cho phó tổng thống hoặc chủ tịch cơ quan lập pháp.

Đôến đáp:

- Tôi cần trao đổi việc này với Hội đồng tướng lãnh...

- Tôi sẽ chờ...

Một lát Đôn trả lời:

- Việc ông xin từ chức bây giờ là quá muộn. Hội đồng tướng lãnh cách mạng yêu cầu ông phải đầu hàng vô điều kiện. Sau đây, ông nên xin cùng gia đình ra cư trú tại nước ngoài. Chúng tôi sẽ bảo đảm an toàn tính mạng cho ông và gia đình.

- Tôi là một tổng thống được dân bầu ra. Tôi sẵn sàng từ chức công khai và sẵn sàng rời đất nước ra đi. Nhưng tôi yêu cầu dành cho tôi danh dự xứng đáng với một tổng thống hợp hiến.

- Hội đồng quân sự đã kiên quyết khước từ đề nghị này của ông.

Diệm im lặng giây lát rồi lại nói:

- Tôi đồng ý đầu hàng... Tôi đã nhiều năm làm tổng tư lệnh quân đội, tôi xin được đầu hàng quân đội theo nghi lễ nhà binh.

- Chúng tôi không thể thỏa mãn ông về điều đó. Ông đã treo cờ trắng ở dinh Gia Long trá hàng, làm hy sinh một số sĩ quan nên không có danh dự gì hết! Ông hiện giờ ở đâu?

- Tôi hoàn toàn không biết gì về chuyện đó... Thôi được rồi... Cảm ơn...

Diệm bỏ máy, vẻ mặt nặng nề.

Cha chánh xứ từ nhà thờ lật đật đi vào. Hình như cha đã rút ngắn buổi lễ.

Với thái độ lo lắng, cha chánh xứ nói:

- Xin tổng thống và ông cố vấn nghĩ lại. Chính tôi sẽ đưa tổng thống và ông cố vấn tới một nơi an toàn nhất. Không thể ra đi bây giờ...

Diệm và Nhu đều ngồi im lặng. Hồi lâu Nhu nói:

- Thưa cha, tổng thống nói vậy, nhưng chúng con không đi đâu nữa. Dầu sao cũng phải liên lạc với các tướng lãnh để bàn về việc ra đi của tổng thống cho đúng nghi lễ quốc gia.

Cha chánh xứ nói:

- Vào lúc này, tổng thống và ông cố vấn không nên gặp ngay các tướng lãnh, rất không có lợi. Nếu hai ông không đồng ý tỵ nạn trong tu viện hoặc nhà thờ, tôi xin đưa hai ông tới tỵ nạn tại tòa Đại sứ Pháp hoặc Đại sứ Trung Hoa dân quốc.

Khi đó Diệm mới nói với một thái độ kiên quyết:

- Xin cảm ơn cha, tôi không có tội gì với dân và quốc gia này, tôi thấy không có lý do gì phải lẩn tránh...

Mọi người ngồi đó đều hiểu rằng không thể nào lay chuyển được ý Diệm.
 
4.

Tại đại bản doanh của quân đảo chính. Tiếng chuông điện thoại réo.

Đại tá Đỗ Mậu cầm máy và xưng tên.

Đầu dây đằng kia, có tiếng người nói:

- Thọ đây, thưa chú.

Đại úy Thọ đang đi theo Diệm vốn là cháu ruột của Đỗ Mậu. Viên đại tá mừng rỡ:

- Chú mày ở đâu đó? Ông cụ đi đâu rồi?

- Thưa chú, tổng thống muốn nói chuyện với tướng lãnh. Tổng thống muốn gặp tướng Trần Thiện Khiêm.

Thọ đã nhận lệnh của Diệm là cố sao gặp cho được Trần Thiện Khiêm.

- Tướng Khiêm đang trực ở đây. Chú mày muốn nói gì thì nói.

Đỗ Mậu chuyển ngay máy cho Khiêm.

Thọ nói:

- Tôi được lệnh của tổng thống liên lạc và báo với Hội đồng tướng lãnh là tổng thống hiện đang ở tại nhà thờ Cha Tam, Chợ Lớn. Hội đồng tướng lãnh cử đại diện đem xe rước tổng thống về Bộ Tổng tham mưu.

Khiêm vội đáp:

- Được rồi, qua sẽ trình lên trung tướng chủ tịch. Nói với tổng thống yên tâm, sẽ có tướng lãnh xuống.

Cả sở chỉ huy xôn xao. Giờ nên xử trí với Diệm, Nhu cách nào?

Ý kiến rất khác nhau.

Tướng Đôn nói:

- Giữ lại một thời gian rồi trục xuất cả ra nước ngoài, như cách ở Nam Triều Tiên đã làm với Lý Thừa Vãn.

Trần Thiện Khiêm và Đỗ Mậu tán thành.

Có người nói:

- Chỉ nên tha Diệm, còn Nhu thì giữ lại, đưa ra tòa.

Một người khác:

- Phải đưa ra tòa cả hai.

Tướng Nguyễn Ngọc Lễ đưa ra một ý kiến khác:

- Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc!

Mai Hữu Xuân lập tức tán thành.

Đôn hỏi Conien:

- Bây giờ làm sao đưa họ ra khỏi đây? Ông có cách nào giúp chung tôi không?

Conien suy nghĩ rồi nói:

- Việc này rất phức tạp. Nếu muốn đưa Diệm ra nước ngoài, phải xin cấp một chiếc máy bay đường dài, có thể là ở căn cứ Mỹ tại Okinawa. Phải mất ít nhất 24 giờ. Rồi lại còn vấn đề là đưa anh em Diệm đi đâu? Chính quyền Kennedy khó có thể chấp nhận họ vì sợ dư luận Hoa Kỳ gây rắc rối. Nếu tìm một nơi khác thì cần thăm dò về ngoại giao. Sẽ phải mất thời gian. Các tướng lĩnh đảo chính phải giữ an toàn cho họ đến khi họ được đưa ra khỏi đất nước...

Minh Lớn từ đầu tới giờ vẫn ngồi im lặng, nêu ý kiến:

- Cứ bắt về đây đã. Xử trí cách nào sẽ tính sau.

Mọi người tán thành.

Minh Lớn đề cử đưa Mai Hữu Xuân đi bắt Diệm về. Số người đi cùng Mai Hữu Xuân khá đông, có đại tá Quán, đại tá Lãm, thiếu tá Nghĩa. Trước lúc khởi hành, Minh Lớn cử thêm viên sĩ quan cận vệ của mình là đại úy Nhung, người chiều hôm trước vừa bắn chết hai anh em Lê Quang Tung.

Trong đoàn xe đi đón Diệm, Nhu có hai xe bọc thép. Đại úy Nhung ngoái đầu nhìn Minh Lớn khi xe bắt đầu chuyển bánh. Minh Lớn kín đáo giơ hai ngón tay. 5.

Diệm và Nhu đang ngồi đọc kinh tại nhà thờ Cha Tam. Chợt có những tiếng súng vang lên phía ngoài.

Nhu ngoái đầu nhìn lại, thấy hai chiếc xe thiết giáp tiến vào sân nhà thờ, vội ngừng đọc kinh đứng dậy. Diệm vẫn quỳ đọc cho hết kinh rồi mới đứng lên.

Một sĩ quan tiến vào, mở rộng cánh cửa nhà thờ. Hai bên sân nhà thờ đã có hai hàng sĩ quan đứng túc trực, chĩa họng súng vào nhà thờ như sẵn sàng nhả đạn.

Đại tá Lắm bước vào trong lúc Diệm và Nhu cùng đi ra. Theo sau là cha chánh xứ. Lắm giơ tay chào theo kiểu nhà binh, rồi lễ phép tránh sang bên nhường bước.

Ra tới thềm, Diệm dừng bước nghe Lắm báo cáo ý kiến của Hội đồng tướng lãnh đón hai người về Bộ Tổng tham mưu. Lắm vẫn giữ thái độ cung kính. Diệm gật đầu rồi quay sang Nhu như muốn nhường lời. Nhu đưa mắt nhìn toàn bộ quang cảnh, nói với giọng giận dữ:

- Tổng thống là tổng thống của dân chứ có phải tù binh đâu, tại sao các anh lại đưa xe bọc thép đến đón?

Mặt Diệm bắt đầu đỏ gay. Lắm lúng túng không biết nói sao.

Mai Hữu Xuân từ phía ngoài tiến vào, nói đỡ:

- Chúng tôi phải đưa xe bọc thép tới đón tổng thống và ông cố vấn phòng ngừa những kẻ khiêu khích.

Diện nói:

- Thiếu tướng đưa ông cố vấn và tôi về qua dinh Gia Long rồi hãy lên Bộ Tổng tham mưu.

- Vì lý do an ninh, không thể chiều ý tổng thống được.

Diệm cúi đầu, mắt chớp chớp. Xuân giục:

- Mời cụ và ông cố vấn lên xe cho.

Dứt lời, Xuân quay lưng bước đi.

Hai sĩ quan lập tức tiến lại đẩy Diệm về phía xe thiết giáp.

Nhu ném ngay mẩu thuốc lá đang cầm trong tay vào mặt một viên đại úy, rồi lao tới xô tiếp một viên đại úy khác. Viên đại úy này lập tức rút khẩu ru-lô chĩa thẳng vào Nhu. Diệm quắc mắt nhìn, khiến viên đại úy vội nhét khẩu súng trở lại bao, nói dằn giọng:

- Chúng tôi mời quý vị lên xe. Giờ này không còn ai là tổng thống, cố vấn nữa. Nếu quý vị từ chối, chúng tôi buộc lòng phải dùng những biện pháp cứng rắn.

Thấy Nhu xô xát với mấy viên đại úy, những binh lính đi theo đã quây thành một vòng vây với những nòng súng carbin chĩa thẳng vào Nhu.

Diệm nắm vai áo Nhu:

- Thôi chú! Chúng mình đi hè!

Tướng Xuân lánh mặt, ngồi xa bên kia đường.

Khi cửa xe thiết giáp mở ra, nhìn thấy những xoong, nồi, đồ dùng để bừa bãi, mắt Nhu như tóe lửa. Nhu lại thét:

- Các anh để tổng thống đi xe nào? Sao lại xe này?

Nhu bị một viên sĩ quan đẩy ngã chúi vào trong xe. Diệm bước lên xe với vẻ từ tốn.

Những chiếc xe thiết giáp rú máy quay đầu rời nhà thờ.

Cha xứ đứng nhìn theo bàng hoàng như còn chưa tin những gì đã hiện ra ngay trước mắt mình.

Đoàn xe lao ầm ầm về phía Sài Gòn, bỗng dừng lại trên đường Hồng Thập Tự. Đại tá Lắm hét vào máy truyền tin:

- Ai cho lệnh dừng lại.

- Thưa đại tá, kẹt xe lửa - Xe đi đầu đáp lại.

Đại úy Nhung từ trên một chiếc xe Jeep bỗng tụt xuống, nhảy lên chiếc xe thiết giáp Diệm, Nhu đang ngồi.

Đoàn xe lửa ầm ầm chạy qua. Nghe đâu đây có những tiếng súng nổ mơ hồ.
 
6.

Trần Văn Đôn chuẩn bị hai căn phòng ở cạnh văn phòng của Bộ Tổng tham mưu cho Diệm và Nhu ở tạm.

Mọi người đều ngóng chờ đoàn xe đi đón tổng thống trở về. Chủ tịch Hội đồng tướng lãnh Dương Văn Minh chốc chốc lại ra bao lơn ngó xuống.

Cuối cùng, đoàn xe đã xuất hiện trước cổng Bộ Tổng tham mưu, rồi chạy vào dừng lại trên sân cờ.

Đại úy Nhung từ trên một chiếc M.113 nhảy xuống đầu tiên. Một cánh tay áo của y ướt đẫm máu. Y nhìn lên lầu. Minh Lớn đang đứng tại bao lơn, giơ cao hai tay chào mừng chiến thắng. Nhung rảo bước theo kịp Mai Hữu Xuân đang bệ vệ đi về phía bậc thềm ngôi nhà của Bộ Tổng tham mưu.

Mọi người đều ngơ ngác vì chưa thấy Diệm và Nhu. Một viên tướng nhìn ống tay áo đầy máu của Nhung, hất hàm hỏi Xuân:

- Sao vậy?

Xuân nhún vai đáp bằng tiếng Pháp:

- C⬙est comme ça![1]

Ngoài sân, một số tướng tá đã nhanh chóng xúm lại quanh một chiếc xe thiết giáp, cửa vừa được mở ra. Bất giác, một số người giơ tay lên vành mũ. Nằm trong xe là xác Diệm và xác Nhu, đều đẫm máu. Tướng Khiêm sa sầm mặt. Đỗ Mậu vùng vằng:

- Các anh phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.

Minh Lớn lạnh lùng nhún vai bỏ đi.

Trần Văn Đôn nghe tin Diệm vả Nhu đều đã chết, hấp tấp đi tìm Minh Lớn.

Đôn vào văn phòng, thấy Minh Lớn đang ngồi với mấy sĩ quan. Đại tá Quán, một người trong đoàn vừa đi về mặt tái xám, ngồi gục đầu xuống bàn.

Đôn hỏi:

- Vì sao cả tổng thống và ông cố vấn đều chết?

- Họ chết thì làm sao? - Minh Lớn đay lại.

Vừa lúc đó, Mai Hữu Xuân bước vào. Y nhìn Minh Lớn, rập mạnh gót giầy báo cáo:

- Mission accomplie![2]

Trên sân cờ, những binh lính thiết giáp đã khiêng hai cái xác từ trong xe đặt xuống nền đất, chuẩn bị ra về. Những đám máu trên người Diệm, Nhu đã trở thành màu đen. Một viên hạ sĩ móc túi lấy chiếc khăn tay, phủ lên mặt Diệm rồi lên xe. 7.

Sài Gòn sôi động. Dân chúng ùa vào dinh Gia Long tàn phá nốt những gì binh lính đảo chính còn để sót. Sinh viên, học sinh nô nức kéo nhau đi phá những trụ sở đảng Cần lao, Thanh niên cộng hòa, Phụ nữ liên đới... Ảnh của Diệm cùng với những khẩu hiệu bị xé nát vứt trên đường. Những ông chủ hộp đêm hân hoan vì được trở lại hành nghề công khai, không còn bị cấm đoán.

Xúc động lớn nhất về cái chết của Diệm lại xảy ra ở Nhà Trắng. Tổng thống Mỹ nhận được tin này trong lúc ông ta đang họp với Maxwell Taylor, một người vẫn ủng hộ Diệm, và một số trợ lý. Người ta thấy Kennedy mặt nhợt đi, hốt hoảng đứng dậy, nhảy bổ ra khỏi phòng họp. Ngay sau đó, tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn được lệnh báo cáo gấp cho tổng thống những chi tiết về cái chết của Diệm.

Cabot Lodge đang vui vẻ trước thắng lợi của cuộc đảo chính, vội gọi điện thoại cho Conien. Conien không còn ở đại bản doanh của quân đảo chính, đã trở về nhà riêng và đi ngủ. Y bật dậy sau khi nhận lệnh, lao vào Bộ Tổng tham mưu gặp Minh Lớn, nói luôn:

- Washington yêu cầu cho biết vì sao Diệm lại chết?

Minh Lớn mặc dù với thân hình hộ pháp và sức khỏe của một nhà thể thao, vẫn mệt rũ người, đang lo chưa biết nên giải quyết thế nào với hai cái xác còn nằm trước sở chỉ huy. Thoạt đầu, Minh Lớn ngơ ngác trước thái độ nghiêm trọng của Conien. Hắn đã có mặt ở đây từ đầu đến cuối. Hắn đâu mới chỉ gặp mình lần đầu? Ở trại Lê Văn Duyệt, hắn đã thúc giục mình làm sớm, phải chiến thắng bằng mọi giá vì danh dự của nước Mỹ nằm trong việc có lật đổ được Diệm hay không. Sáng nay, hắn vừa nói những gì... Bây giờ, hắn lại hỏi mình như một người mới ở đâu tới...? Nhưng rồi Minh Lớn cho là Conien đang đóng một vai kịch. Chính quyền Mỹ không muốn bị tai tiếng về cái việc làm thường được coi là "bẩn thỉu" này. Bề ngoài, họ vẫn nói là không can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam. Họ cần phải có bằng chứng là không dính líu vào cái chết của Diệm. Và họ muốn có mình trong màn kịch. Mình cũng nên nói một câu cho xong...

Minh Lớn đáp:

- Ông ta tự sát.

- Ở đâu?

Câu hỏi tiếp theo của Conien khiến Minh lúng túng, ậm ờ rồi đáp:

- Ở nhà thờ, và...

Conien dồn luôn:

- Tôi nghĩ không phải như vậy... Là một người Công giáo, tôi xin nói để ông biết, nếu hôm qua một linh mục đã làm lễ misa cho ông Diệm thì ông ta không thể nào tự sát! Đây chính là việc của ông...

Bị hoàn toàn bất ngờ, Minh Lớn không kịp phản ứng, nói quanh:

- Nếu ông không tin, ông có thể xuống nhìn mặt ông ta. Ông ta đang còn nằm ở đây.

- Tôi không cần xem. Người ta có thể dựng lên ngàn lẻ một những chứng cớ để giải thích. Nhưng tôi cho rằng không thể giấu được sự thật. Khi mọi người đã biết rõ sự thật này, xin ông đừng cho tôi là kẻ đã tiết lộ.

Minh Lớn hiểu đây không phải là một người bạn đến rủ mình cùng chơi một màn kịch, bắt đầu nổi đóa:

- Tôi không thể nói về một việc mà tôi không chứng kiến. Nếu những người thừa hành không làm đúng theo mệnh lệnh của tôi thì tôi không chịu trách nhiệm! Suốt thời gian đó, cả ông và tôi đều ngồi đây. Tôi nói chi, cũng như ông nói chi, chúng ta đều không phải là những người điếc! Nếu ông cứ tiếp tục hỏi theo cách vừa rồi thì tôi buộc phải nhắc lại với ông chuyện đứa con hoang giết cha để lấy tiền của Dostoyevski, chắc ông cũng đã đọc... - Minh ngần ngừ rồi lại nói tiếp - Khi người anh hỏi thằng em tại sao lại giết cha thì nó trả lời: chính anh đã xui tôi đó! Và khi ra tòa ra sao, chắc ông vẫn nhớ...

Conien tái mặt lại. Nhưng rất nhạy cảm, y biết nếu cũng nổi nóng lúc này sẽ chẳng giải quyết được gì, y đấu dịu:

- Washington cũng như chúng ta đều phải tìm một giải pháp trước những dư luận sẽ có thể có ở Mỹ cũng như những nơi khác. Chúng ta cần một sự giải thích mà mọi người có thể chấp nhận.

- Tôi không thể nói gì hơn những điều đã nói trước khi có kết luận của một cuộc điều tra. Ông biết... cuộc điều tra sẽ vô cùng phức tạp...

Sẽ không bao giờ có một phiên tòa xét xử vụ giết người này. 8.

Lúc 5 giờ sáng ngày 3 tháng 11, Conien gọi điện thoại cho Minh Lớn và Đôn. Y chuyển lời của Cabot Lodge mời Minh và Đôn, những nhà lãnh đạo của Hội đồng quân sự cách mạng, tới gặp ở đại sứ quán Mỹ.

Chuyện vặc nhau ngày hôm trước với Conien còn khiến cho Minh Lớn băn khoăn. Hai người bàn nhau cử Kim đi thay. Nếu Cabot Lodge hỏi, Kim chỉ cần nói mình không biết gì về việc đó.

Đại sứ Mỹ ra tận cửa đón Kim. Thái độ tươi vui của ông ta hứa hẹn một cuộc gặp gỡ không có gì căng thẳng.

Cabot Lodge đưa Kim vào phòng khách, rượu đã để sẵn. Hắn nâng cốc chúc mừng và ca ngợi thành công tốt đẹp của Hội đồng quân sự trong việc lật đổ chính quyền Diệm. Cabot Lodge nói đã báo cáo đầy đủ mọi hoạt động của Hội đồng với tổng thống Kennedy, và tin chắc chính quyền mới sẽ được Mỹ tiếp tục viện trợ. Cabot Lodge cũng nhắc qua, người Mỹ đã tỏ ra xúc động sâu sắc trước cái chết của Diệm và Nhu, nhưng không đưa ra lời trách cứ nào. Vẻ mặt Cabot Lodge hết sức hân hoan, phấn chấn. Đến lúc đó, Kim mới tin chắc không phải mình bị gọi tới để lục vấn, và mình đang ngồi trước đại sứ Mỹ với tư cách là người chiến thắng.

Cabot Lodge vừa hoàn tất một công vụ cực kỳ khó khăn.

Sự phản ứng của Nhà Trắng đối với cái chết của Diệm, Nhu không làm y phải lo lắng. Cái chính là danh dự của nước Mỹ đã được bảo vệ! Mấy anh tướng nổi loạn này có hơi quá tay. Nhưng vấn đề Diệm và Nhu do đó cũng được giải quyết một cách triệt để. Tổng thống Mỹ chắc cũng nghĩ như vậy. Cabot Lodge chỉ còn một chút băn khoăn. Cabot Lodge đã đoan chắc với Kennedy sau cuộc đảo chính, Nam Việt Nam sẽ có một chính phủ ít bí bét hơn. Lời nói ấy vào lúc đó chỉ nhằm củng cố quyết tâm của tổng thống. Nhưng lúc này, y thấy không dễ gì. Trong những người tiến hành cuộc đảo chính, không nhìn thấy ai hơn những kẻ họ vừa giết hại. Chẳng lẽ Nolting, Harkin, Taylor, Komer... đã nói đúng? Nhưng đó là vấn đề sẽ xét sau.

Cabot Lodge đang vui, rất vui, vì đã làm được một nhiệm vụ rất khó khăn do tổng thống ủy thác, vì đã chiến thắng những đối thủ sừng sỏ của mình ở đây cũng như ở chính quốc!... ---

[1] Như vậy đó!

[2] Nhiệm vụ hoàn thành!
 
×
Top Bottom