Ông cố vấn - hồ sơ một điệp viên

2.

Cẩn thong thả rót nước trà vào chén tống rồi san qua chén quân, hai tay nâng chiếc chén nhỏ xíu mời khách.

Y ngồi ngay ngắn trên ghế, giữ đúng lễ với kẻ sĩ.

Cô hầu gái mang hộp trầu và một hộp mây khảm đựng những điếu thuốc Cẩm Lệ đã vấn sẵn, vê hai đầu. Người ta còn gọi Cẩn là "Cậu Út trầu", vì Cẩn suốt ngày bỏm bẻm nhai trầu.

Cẩn mời Hai Long ăn trầu. Miếng trầu là đầu câu chuyện. Hai Long rất tiếc phải từ chối nói mình không biết ăn trầu. Cẩn lại mời Hai Long thuốc lá Cẩm Lệ. Anh lấy một điếu đánh diêm châm thuốc hút, chờ xem thái độ của chủ nhân.

Cẩn nhanh chóng nhai giập miếng trầu với đôi hàm răng chắc khỏe, cặp môi dày được nhuộm đỏ, cả mặt y hồng lên. Mặt mũi y nhìn kỹ cũng phương phi. Y không có râu. Riêng đôi mắt sâu của hắn làm Hai Long lo ngại. Đôi mắt có cặp đồng tử khi to khi nhỏ, luôn luôn thay đổi, từng lúc lại lóe lên những ánh tàn nhẫn và hiểm độc.

Y nói từ tốn:

- Tui đã đọc tờ trình của anh, và sau đó đã gửi vô Sài Gòn. Bữa ni, mời anh tới ta đàm luận thêm. Tui chưa thiệt biết rõ anh... Cộng sản hay không Cộng sản, nhưng đã nghĩ làm điều thiện mang lợi ích cho giáo hội thì đều là con chiên của Chúa phải không anh?

Cái nhìn của y làm anh ớn xương sống. Hai Long tự bảo mình phải trấn tĩnh. Anh nhấp một chút nước trà đậm chát rồi đáp:

- Thưa ông cố vấn, trước hết tôi xin cảm tạ ông cố vấn đã xếp đặt cho tôi buổi hạnh ngộ này. Đã phó hồn xác trong tay Chúa, tôi chỉ biết làm đẹp lòng Chúa từ lời nói đến việc làm. Hôm nay, được diện kiến ông cố vấn cũng là cơ duyên. Tôi mong làm đẹp lòng ông cố vấn hơn nữa.

Cẩn ngồi nghe, cặp mắt như mắt thú đang rình mồi, im lặng, với tay lấy một điếu thuốc.

Hai Long nói tiếp:

- Năm ngoái, Ban sáng lập Hội Khổng học chúng tôi ra Cửa Thuận, mang theo báo cáo của Hội, cá nhân tôi rất muốn xin yết kiến ông cố vấn để xin huấn thị về việc của Hội. Ngoài ra, còn muốn trình bày với ông cố vấn một vài vấn đề không nằm trong phạm vi văn hóa. Tiếc rằng tôi cùng đi với bốn anh em, không tiện tách riêng. Ngẫu nhiên, nay lại được ra Huế và đến Phú Cam một cách đặc biệt..., tôi không biết làm thế nào để hầu chuyện ông cố vấn được danh chính ngôn thuận...

Hai Long thẳng thắn nhìn đôi mắt Cẩn với quyết tâm không để bị uy hiếp.

- Ờ... ờ. - Cẩn hơi lúng túng - Bọn chúng chưa nói với anh răng? Bữa ni anh là khách quý của tui. Có chi anh cứ nói.

Hai Long như cố nén một tiếng thở dài:

- Chúa sắp đặt tất cả? Như vậy là Chúa đã thưởng công cho tôi. Tôi dã có diễm phúc tới vùng địa linh nhân kiệt này, nơi Ngô chí sĩ dựng nghiệp lớn. Tôi vừa được nhìn thấy nhà thờ Phú Cam xưa nhất xứ Huế. Tôi lại vừa được chiêm bái cụ cố ông, một đấng trung thần. Ai chẳng biết câu "Đày vua không Khả, đào mả không Bài!". Tôi đã được chiêm ngưỡng cụ cố bà là đức hiền mẫu của những vị đang "thừa thiên hành đạo" và vinh hạnh cho tôi là được diện kiến ông cố vấn, đạo đời nhất quán, Đức cha Lê vẫn thường nhắc...

Mặt Cẩn mỗi lúc một nở nang:

- Anh có thường gặp Đức cha Lê không? - Cẩn xen ngang.

- Dạ... thưa tôi là phụ tá của Người. Trong tờ trình tôi đã viết nhiều ý kiến là do tôi tiếp thụ của Đức cha.

- Đức cha có nói gì về tui không?

- Có chứ ạ. Người thường xuyên trao đổi với tôi về những nhà lãnh đạo Việt Nam cộng hòa, về ông cố vấn, Ngô tổng thống và ông bà Nhu.

- Đức cha nói những chi? - Cẩn tỏ vẻ sốt ruột.

- Xin ông cố vấn cho phép tôi nói thật.

- Răng chi mà ngại! Anh em trong nhà đóng cửa bảo nhau mà!

Hai Long vẫn ra vẻ ngập ngừng. Cẩn thúc giục:

- Đã nói không ngại chi mô! Hay dở cũng cứ nói!

- Đức cha nhận xét: tổng thống thanh liêm, đạo đức, nhưng cố chấp, không chịu nghe lời khuyên răn của bất cứ ai. Ông Nhu kiêu căng, coi trời bằng vung, chỉ nghe lời vợ. Mà bà Nhu thì đi quá xa phạm vi gia đình, vượt sang lĩnh vực chính trị, quốc gia, khiến thiên hạ dị nghị nhiều. Chỉ có ông Cẩn là người trực tính, thì lại ở xa. Ngài nói ông cố vấn biết cầu hiền, trọng nghĩa theo lối xử thế của người quân tử. Ngài chê ông Nhu không biết trọng hiền nên không tập hợp được lực lượng.

Cẩn bỏm bẻm nhai trầu, những đường gân, bắp thịt bên quai hàm chuyển động. Mặt y càng đỏ hồng. Đôi mắt y không chớp. Y lặng nghe như nuốt từng lời. Thấy Hai Long dừng lại, Cẩn hỏi:

- Đức cha còn nói chi về tổng thống?

- Đức cha nói Ngô chí sĩ là người có chí, có đức nhưng không thực việc, tất cả đều phó thác cho ông Nhu, ông Út Cẩn thì chỉ lo việc miền Trung, nên hiện nay quốc sự có nhiều điều dáng lo ngại.

Cặp mắt của Cẩn đã dịu lại, không còn ánh lên những cái nhìn xoi mói, độc ác.

- Bây chừ tui nói cho anh rõ vì sao có cuộc gặp gỡ ni. Thằng Hiếu bắt anh, thằng Dư nó giam anh, tui có biết chi mô! Tới khi tui coi báo cáo của anh, tui mới giựt mình là thằng Dư cũng coi báo cáo đó. Bọn hắn đâu là người được biết chuyện đại sự! Nếu coi anh là cán bộ Cộng sản, thì tui cứ mặc cho thằng Hiếu, thằng Dư mần chi thì mần. Nhưng tui đặc phái thằng Duyệt đến tận nơi, nhơn danh tui mời anh, thì không phải chuyện bình thường. Cũng là kỳ ngộ. Bữa ni, ta sẽ bàn đại cuộc...

Cẩn ngừng nói khi nhìn thấy cha Hồng từ ngoài đi vào. Cha thường lui tới nên bọn gia nhân canh gác đã coi cha như người nhà.

Cẩn đứng dậy hơi lúng túng.

Nhìn thấy Hai Long, cha vừa ngạc nhiên vừa tỏ vẻ vui mừng. Cha tiến lại bắt tay, rồi ngồi xuống cạnh anh.

Cha Hồng quay sang phía Cẩn:

- Bữa nay tôi định tới gặp ông cố vấn để nói chuyện về thầy phụ tá của Đức cha Lê, không ngờ lại gặp cả thầy ở đây... Tôi nghĩ là chuyện này chắc đã được ông cố vấn biết và giải quyết.

Cẩn vui vẻ:

- Thưa cha, con vừa nói cho anh Hai hay, việc bọn hắn bắt bớ anh Hai con có biết chi mô! Rứa là đánh nhau vỡ đầu mới nhận họ! Nhưng gặp được người của Đức cha Lê cũng là điều hay. Con đang bàn với anh Hai về chuyện Đức cha. Khi mô mà gia đình họ Ngô quên công ơn của Đức cha và giáo dân Phát Diệm.

- Thật là Chúa an bài!

- Con không hiểu tại sao lại có sự bất đồng kéo dài giữa tổng thống với Đức cha Lê? Cũng không hiểu tại sao, Tòa thánh lại lạnh nhạt với Việt Nam cộng hòa?

- Về việc chính trị thì ông cố vấn cứ bàn luận với thầy phụ tá của Đức cha, - Cha Hồng vui vẻ quay về phía Hai Long - Sáng mai, thầy Hai tới xem lễ rồi ghé lại dùng bữa với chúng tôi, mới có mấy ngày mà anh em cứ nhắc thầy Hai luôn.

Cha Hồng đứng dậy cáo từ ra về.

Mọi việc dang diễn ra như "Chúa đã an bài", Hai Long thầm nghĩ.


3.

Cẩn đi ra chỗ tủ đứng, mở cánh cửa lấy ra một bì thư lớn, đem lại đặt ở góc bàn. Y ngồi ngẫm nghĩ một lát như để nhớ lại một điều gì, rồi hỏi Hai Long:

- Cha Lê có nhận định tình hình đúng như bốn điều anh đã viết trong ni không?

Hai Long biết trong bì thư có tờ trình của anh.

- Bản nhận định của tôi là sự tổng hợp ý kiến của Đức cha Lê, cha Hoàng, và những điều tôi thu lượm được khi Đức cha cử tôi làm đại diện tiếp xúc với các nhân vật và đoàn thể thuộc nhiều khuynh hướng chính trị ở Việt Nam cộng hòa. Điều này tôi đã viết trong tờ trình.

- Rứa theo anh, bốn nguy cơ đã diễn biến đến đâu?

- Chế độ Việt Nam cộng hòa đã được củng cố nhiều nhưng đang gặp những nguy cơ lớn đe dọa do có sự rạn nứt ngay từ bên trong. Đức cha và tôi lo chế độ có thể lâm nguy, nhanh hay chậm là do sự phát triển của những nguy cơ và những biện pháp giải nguy của tổng thống.

- Anh trình bày rõ thêm về từng nguy cơ.

- Nguy cơ thứ nhất là lực lượng thân Pháp nằm ngay trong các giáo phái, các đảng quốc gia, trong guồng máy hành chính và quân đội. Lực lượng này còn nằm im chờ thời cơ. Họ đang muốn lôi kéo Đức cha đứng về phía họ. Đức cha hơi than phiền là tổng thống quá mạnh tay đối với lực lượng này.

- Anh nói tiếp nguy cơ thứ hai.

- Đó là lực lượng của Mỹ đối lập với tổng thống. Khi thời cơ đến, họ sẽ đứng lên thay thế tổng thống. Họ chính là những con bài của Mỹ. Tỷ dụ như Phan Quang Đán mà Mỹ đã đưa về nước cùng tham chính với tổng thống, là một lá bài dự trữ của Mỹ. Đán đã từng liên lạc với Đức cha từ năm 1945, và hiện nay Đán đang tìm sự hậu thuẫn của Đức cha và khối Công giáo. Cha đã cử tôi tiếp xúc với Đán. Đán rất lạc quan, cho tôi biết mối quan hệ chặt chẽ giữa Đán với đại sứ Durbrow ở Sài Gòn và nhiều nghị sĩ Mỹ đảng Dân chủ như Mansfield, Fulbright. Người Mỹ bảo Đán cứ chuẩn bị sẵn sàng để thay thế tổng thống. Cha Lê cho rằng, thế và lực của tổng thống hồi 1954 không lớn bằng thế và lực của Đán hiện nay. Vậy mà năm 1954 Mỹ đã đưa Ngô chí sĩ về chấp chính được, thì bây giờ nếu Mỹ dùng Đán, Đán sẽ nắm quyền được.

- Còn nguy cơ thứ ba?

- Nhiều đoàn thể quốc gia và những phần tử đã từng ủng hộ tổng thống tích cực ngay từ năm 1945, và từ năm 1954 đến nay, ở trong quân đội và trong chính phủ cộng hòa, nhưng họ đã bất mãn vì nhiều lẽ. Có người rút về sống ẩn dật. Nhiều người kết bè đảng với đám thân Pháp và bọn đối lập thân Mỹ. Có người đã ngang nhiên tỏ ra chống tổng thống. Những phần tử bất mãn này liên lạc với Đức cha và khối Công giáo...

- Họ là những ai? - Cẩn xen ngang.

- Số này không ít. Tạm kể nhóm Trần Văn Lắm, Nguyễn Văn Châu, Đỗ Mậu, v.v... Rất đáng tiếc một kẻ như Đỗ Mậu, tài hèn, sức mọn, được tổng thống thương yêu tin cậy cho làm đến giám đốc an ninh quân đội, mà đã không tri ân tổng thống lại còn bất mãn, âm mưu liên minh với bọn đối lập, dựa vào Công giáo để chống chế độ... Đây là ba mối lo ngại cho chế độ, mà Đức cha cho rằng ngày càng trầm trọng.

- Trong ba điều này, - Cẩn lại hỏi - Đức cha coi điều nào là quan trọng nhất?

- Ngài e ngại nhất là bọn đối lập được Mỹ yểm trợ. Mỹ dùng Đán khác nào gí mũi gươm vào sườn tổng thống. Bọn bất mãn với tổng thống như được khích lệ. Vô hình chung Đán tập hợp được lực lượng định chống đối lật đổ tổng thống. Cha Hoàng và tôi được Đức cha Lê trao nhiệm vụ tiếp xúc với ba lực lượng ấy, nắm vững tình hình báo cáo với Đức cha.

Cẩn ngồi thần người. Y chợt nhận ra điếu thuốc sâu kèn chỉ còn dính ở môi dưới sắp tắt, phải bập bập môi hai ba lần, chúm miệng hít mấy hơi dài lửa mới cháy đỏ.

Hai Long nói tiếp:

- Vẫn phải tính đến nguy cơ thứ tư. Nói ra sự thật này thì đau xót lắm! Ai ngờ đâu một nguy cơ lớn đối với chế độ lại xuất phát ngay từ giáo hội Công giáo ta. Xin ông cố vấn bình tâm mà nhận xét mới thấu suốt được. Việt Nam cộng hòa đã được 50 quốc gia trên thế giới công nhận và đặt ngoại giao trên hàng đại sứ, thế mà Tòa thánh La Mã chỉ đặt quan hệ với nước ta ở cấp lãnh sự. Phải gắng vận động Tòa thánh nâng cấp lên hàng đại sứ để tăng thêm thế lực ngoại giao của ta trên trường quốc tế. Tòa thánh ủng hộ đưa cha Cassaigne, rồi cha Hiền làm giám mục địa phận Sài Gòn, công khai chống đối tổng thống. Tòa thánh hậu thuẫn cho giáo phẩm Việt Nam chống đối chính phủ kiểm soát Chủng viện Sài Gòn, và còn trực tiếp can thiệp với tổng thống về việc này. Cha Vũ Đình Trác là cha di cư, chủ nhiệm báo Đường Sống, dùng ngay phương tiện báo đó để hạ uy tín của tổng thống. Cha Hồ Văn Vui, là cha trong Nam, công khai mạt sát chế độ và tổng thống ngay trên tòa giảng trong buổi lẽ sáng chủ nhật ở nhà thờ Đức Bà trước dinh Độc Lập. Cha Vui lại là cha có uy tín nhất đối với các linh mục và giáo dân ở miền Nam!

Cẩn ngừng nhai trầu, đôi môi đỏ quét trầu mím lại. Những động mạch hai bên thái dương y giật giật.

Hai Long tiếp tục nói với giọng rầu rĩ, than thở:

- Tòa thánh ngấm ngầm chống ta, bên ngoài thì lạnh nhạt gần như muốn cô lập hóa ta, bên trong thì phóng tay cho các đấng giám mục, linh mục và giáo dân Sài Gòn chống đối ta bàng lời nói và hành động cụ thể. Một số giám mục, linh mục di cư tiêu biểu cho Công giáo di cư cũng tỏ vẻ bất đồng với tổng thống. Giáo hội có thái độ như thế thì người ta sẽ nghĩ ra sao trong khi mọi thông điệp của tổng thống đều kết thúc bằng câu "Xin ơn trên phù hộ chúng ta!".

Cẩn vuột ngược tóc, bóp chặt hai bàn tay với nhau, buột miệng:

- Chà..! Dữ hỉ?

- Thái độ của giáo hội Công giáo quả thật đã gây bất lợi cho ta về mặt nội chính và ngoại giao, làm nội bộ nứt rạn, bạn bè nghi ngờ, làm tăng thế lực của kẻ thù. Cả ba lực lượng chồng đối đều thăm dò, theo dõi thái độ của Tòa thánh La Mã, của giáo hội Công giáo, nhất là Tòa giám mục Sài Gòn đối với tổng thống. Thậm chí họ còn liên lạc và dựa vào Công giáo, cụ thể là Đức cha Lê để âm mưu lật đổ tổng thống. Đó cũng là một nguy cơ rất trầm trọng.

Trán Cẩn lấm tấm mồ hôi. Y lẩm bẩm:

- Đán nó được nhiều phiếu nhất ở quận Nhì trong cuộc bầu cử quốc hội khóa V ở Sài Gòn vừa rồi. Phan Khắc Sửu, Nguyễn Châu cũng được nhiều phiếu. Toàn những kẻ đối lập!

Bỗng Cẩn ngước nhìn Hai Long, mắt lại lóe lên những tia độc ác:

- Còn Đức cha Lê...! Chả lẽ cứ bất đồng mãi với tổng thống ư?

Già néo đứt dây, Hai Long nghĩ. Chớ có dồn con thú đến đường cùng.

- Thưa ông cố vấn, chính đây cũng là một điều tôi mong mỏi được trình bày trong cuộc diện kiến này. Đây chính là chỗ hiểu lầm to lớn và tai hại nhất cho mối thân tình giữa Đức cha và tổng thống. Là người luôn luôn gần gũi Đức cha, tôi biết rõ Đức cha bất đồng với tổng thống chính vì muốn ủng hộ tổng thống. Đức cha sẽ ủng hộ tổng thống đến cùng. Đức Cha vừa phải tuân theo đường lối của Tòa thánh La mã, phải chăm lo quyền lợi lâu dài cho giáo hội Công giáo, vừa phải bảo vệ tổng thống là một chiến sĩ Công giáo mà ngài ủng hộ từ năm 45 đến nay. Ngài nhìn xa thấy rộng, nhiều lần khuyến cáo tổng thống nhưng tổng thống không quan tâm, nên ngài lo ngại và bất bình. Thật cũng đáng tiếc là những bất đồng này làm cho Tòa thánh La Mã càng xa cách tổng thống, giáo hội Việt Nam tách dần tổng thống...

Hai Long chắp hai tay:

- Thưa ông cố vấn, nhân tháng Đức Mẹ lên Trời, được thánh linh soi sáng, tôi cầu nguyện Chúa phù hộ cho tôi nói lên sự thật, và tôi đã viết lên sự thật. Lời nói và việc làm của tôi đã hoàn tất. Tôi xin cảm ơn Chúa, cảm ơn ông cố vấn về buổi hội ngộ này.

Cẩn vội giơ tay ngăn không cho Hai Long đứng dậy:

- Không lẽ anh chỉ vẽ cho tui thấy nguy cơ như trái núi trước mắt, rồi anh bình thản nói rằng đã hoàn tất công việc của anh? Rứa coi sao được! Câu chuyện bữa ni mới được một nửa... Bay đâu! Cho mang chè lên.

Dưới nhà, tiếng "dạ" ran.

Một lát, người hầu gái nhanh nhẹn bưng vào một khay chè đậu ván.

Cá đã cắn câu, Hai Long nghĩ.
 
4.

Cách đấy gần một tháng, Lê Vượng được lệnh mang theo toàn bộ hồ sơ của Hai Long lên gặp ông Cậu. Mấy hôm trước bọn tay chân báo cho hắn biết, Hai Long đã nhiều lần chuyện trò riêng với Dư.

Vụ Cầu Lửa tiếp đến việc này khiến cho hắn khá lo lắng.

Ông Cậu nằm trên chiếc ghế xích đu ở hàng hiên, bảo Vượng vào phòng khách, rồi quay đầu vào nhìn tập hồ sơ đặt trên bàn, hỏi:

- Răng các thầy lại bắt Vũ Đình Long?

- Trình ông Cậu, một nhân viên của ông Hiếu bắt gặp Hai Long ở Sài Gòn, nhận đúng là y đã phục vụ cho quân đội Bắc Việt, làm tới chức thị ủy trong Đảng. Không hiểu răng mà y lại chui vô đây, trở thành nhân viên Sở Công chính của ta, nên ông Hiếu cho bắt để tra hỏi. Chính Hai Long đã thú nhận tất cả. Theo lệnh của ông Cậu, bày tui có mang hồ sơ vô.

- Hắn là con cái Đức cha Lê mà lại là Cộng sản, lạ hỉ?

- Dạ... Khi ông Hiếu cho bắt thì chưa nắm được điều đó. Lúc hắn trình bày giấy tờ, chứng minh thư, giấy chứng nhận của Tổng bộ tự vệ Phát Diệm, ảnh chụp với Đức cha Lê..., qua sưu tra, ông Hiếu mới rõ y có quan hệ mật thiết với cha Hoàng và Đức cha Lê. Bày tui truy hỏi, thì y khai ngày trước theo Việt Minh kháng chiến mấy năm vì khi đó còn thanh niên bồng bột. Tới chỉnh huấn 1952 thấy rõ vấn đề kỳ thị giai cấp, kỳ thị tôn giáo, y bỏ Đảng, bỏ quân đội quay về Ninh Bình với Đức cha. Khi gia đình y ở vùng Việt Minh bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, y vô Hà Nội rồi xung vô quân đội Pháp.

- Đúng rứa thì có chi mà phải đưa ra đây?

- Dạ... Vấn đề của hắn khá phức tạp. Bày tui có nhờ ông Lê Quang Tung coi giùm cho ở nhà thờ Bình An, thì biết Hai Long còn có tên là Hoàng Đức Nhã, tên này do cha Hoàng đặt. Y được đưa từ Pháp về, có quan hệ với rất nhiều nhân vật, nhiều tổ chức đối lập với chế độ. Y chuyên đi các nơi móc nối xây dựng lại lực lượng tự vệ cho Phát Diệm... Những chuyện này y giấu nhẹm, mãi gần tới đây mới chịu khai ra. Nếu y không phải là Việt Cộng nằm vùng, thì cũng có nhiều khả năng là "đơ Bê"[1] của Pháp đưa về để cùng các cha phá chế độ. Bày tui dang tiếp tục điều tra.

Cẩn trầm ngâm rồi hỏi:

- Y có đúng là giáo dân không?

- Dạ, đúng giáo dân. Ở Bình An, giáo giáo dân gọi y là thầy Bốn. Y tỏ vẻ ngoan đạo. Cũng còn những điều phải gặp trực tiếp các cha hỏi mới rõ. Nhân viên của ông Hiếu thì nói giải phóng thị xã Thái Bình vẫn còn thấy y ở vùng Việt Minh, nhưng y lại có đủ giấy tờ, ảnh chụp chứng thực thời gian đó y đã ở trong quân đội Pháp. Chỉ có Đức cha Lê mới xác nhận được chuyện ni.

- Đức cha đã biết các thầy bắt người của Đức cha chưa?

- Dạ, chưa.

- Bắt mấy tháng rồi?

- Dạ, hơn chín tháng.

Cẩn lúc lắc đầu, rồi lại hỏi:

- Anh có biết trong Công giáo, thầy Bốn là chức chi không?

- Dạ, chuyện đạo bày tui không rành. - Vượng đáp với vẻ sượng sùng.

- Lên chức thầy Sáu thì sẽ thành linh mục đó. Các anh không nói chuyện với Đức cha được mô! Chuyện xin ý kiến Đức cha hãy để đó... Anh vẫn chưa tin Vũ Đình Long?

- Bày tui chưa thực yên dạ nếu chưa hỏi rõ được mọi chuyện.

- Để hồ sơ hắn đó, tui coi. Tạm thời cứ đối xử cho phải chăng. Thả lỏng y ra, theo dõi, thẩm tra... hỉ?

- Dạ, dạ... Bày tui hiểu ý ông Cậu...

Tờ trình của Hai Long được Cẩn đặc biệt chú ý vì nó chứa đựng một số điều y không biết. Đọc xong, Cẩn nảy ra ý định gửi vào Sài Gòn. Như vậy sẽ làm được cùng một lúc mấy việc. Một là, báo cáo một văn bản quan trọng. Hai là, để trong đó xác định Hai Long là người thế nào; bộ máy mật vụ của Ngô Đình Nhu theo dõi rất sát khối giáo dân Phát Diệm. Ba là, mượn người khác làm hộ mình một việc mình chưa làm được. Lâu nay, Cẩn muốn góp ý với hai anh một số vấn đề về lãnh đạo đất nước nhưng lần nào cũng bị Nhu gạt đi, viện cớ Cẩn ở xa không nắm được tình hình. Nghĩ tới điều này, Cẩn rất thích thú.

Khay chè đậu ván đã được bưng đi. Cô hầu mang trà mới.

Hai Long lại vui vẻ nhận điếu thuốc Cẩm Lệ từ tay ông Cậu. Mỗi lần hút một hơi, anh cảm thấy muốn nấc lên, người nôn nao.

Cẩn nói:

- Tui phải cảm ơn anh vì sự phò trợ của anh quý giá vô cùng. Không phải chỉ mình tôi nói rứa. Bản nhận định của anh, tui đã trình vô Sài Gòn. Ông Cụ và ông cố vấn Ngô Đình Nhu trong nớ cũng chú ý đặc biệt. Bây chừ ông Cụ và ông cố vấn cho người ra hỏi thêm chi tiết, anh phải giúp tui nữa chớ? Anh và tui còn nhiều duyên nợ. Mời anh qua bên ni, ngồi cạnh tui, tui chỉ cho anh coi.

Hai Long rời chiếc ghế của mình đi sang ngồi sánh vai với Cẩn.

Cẩn mở bì thư, lấy ra tờ trình của Hai Long, lật từng trang, ngón tay ngắn ngủi và bụ bẫm của y chỉ những chữ, những vòng khuyên, những dấu hỏi viết bằng hai loại chì màu đen và màu đỏ.

- Chữ màu đỏ là bút phê của ông Cụ. Chữ màu đen là của ông cố vấn Ngô Đình Nhu... Anh cũng đừng để tâm là ông cố vấn kiêu ngạo như lời trách của Đức cha.

Hai Long chăm chú xem. Ngô Đình Diệm lo ngại bọn đối lập dựa vào Mỹ và những hoạt động của cánh Phan Quang Đán. Ngô Đình Nhu muốn biết rõ nhiều điều. Y muốn nắm tình hình của lực lượng thân Pháp và thái độ của Pháp đối với tổng thống Diệm, đối với Mỹ. Y chú ý đến các cha cố Pháp dòng Thừa sai[2] và băn khoăn về thái độ của Tòa thánh La Mã.

Diệm gạch một nét chỉ đỏ dưới những chữ "bọn đối lập dựa vào Mỹ", và hai nét đậm dưới tên Phan Quang Đán kèm theo một dấu thập. Nhu khoanh ba vòng mấy chữ "Mỹ hóa giáo hội Công giáo Việt Nam" và tên của Cassaigne. Y khuyên hai vòng mấy chữ "sĩ quan thân Pháp nằm im chờ thời cơ", đồng thời lại gạch dưới và đánh thêm một dấu hỏi ở bên lề. Nhu đóng khung đoạn "thái độ lạnh nhạt của Tòa thánh Vatican, chống đối của Tòa giám mục Sài Gòn, Đức cha Lê bất đồng với tổng thống" và đánh ở bên lề ba dấu hỏi.

Cẩn nhắc Hai Long:

- Anh coi cho kỹ!

- Tôi đã nắm được những điều tổng thống và ông cố vấn ngô Đình Nhu cần làm rõ thêm.

- Ông Cụ và ông cố vấn biểu tui hỏi anh, rứa là trong nớ chú ý đặc biệt lắm đó? Bây chừ anh giúp tui làm một bản khác thật đầy đủ, chi tiết như anh nói chuyện với tui từ sáng đến chừ... Chừng nào anh sẽ giúp tui cho xong?

- Xin ông cố vấn 3 ngày.

- Rứa là tốt. Anh sẽ mang vô đưa tận tay tui. Không cho đứa mô coi! Ông cố vấn Nhu chưa biết chi về anh nên mới phê "hỏi thêm chi tiết", rứa không phải ông kiêu ngạo mô!

- Đến Chúa cũng phải đội mão gai nữa là...

Chợt nhận ra mình đang vui nên lỡ lời, Cẩn có thể cho mình là kiêu ngạo hoặc hỗn xược, Hai Long vội nói tiếp:

- Tôi tài sơ trí thiển được ông cố vấn quan tâm đến, cho tôi đóng góp vào đại cục, Chúa còn phải chịu cực hình vì quân Phi-la-tô[3] hung dữ để cứu rỗi loài người thì tôi dâu dám từ nan.

Cẩn cười xòa:

- Răng mà thằng Hiếu lại kiếm được anh, để rước về đây cho tui?

Câu nói của Càn vừa giống như một lời tán thưởng lại vừa giống như một câu hỏi.

- Trình ông cố vấn, lúc đầu tôi bị bắt vì tội kháng chiến, tội Cộng sản. Có người Việt Nam nào vào ngày đó mà lại chịu khoanh tay, khi quân Pháp kéo vào đã cướp xong Sài Gờn lại muốn giành luôn cả Hà Nội! Đức cha Lê còn nhận làm cố vấn cho Chính phủ Cụ Hồ!... Còn bây giờ thì các ổng giữ tôi, vì tôi là con cái của Đức cha Lê và cha Tổng. Tôi cứ nghĩ rằng, cái giá phải trả cho mấy năm đi với Việt Minh đã quá đủ rồi. Không ngờ có ngày lại phải nhắc tới những chuyện quá đau lòng.

Mặt Hai Long trở nên rầu rĩ.

Cẩn an ủi:

- Trong kháng chiến chống Pháp, gia đình tui còn phải tiếp tế cho bộ đội, Đức cha Thục hồi ở Vĩnh Long cũng phải ra thăm vùng Việt Minh. Những chuyện ngày đó bây chừ kể chi! Nhân gặp đây thì nói một câu cho vui, chớ chuyện của anh tui biết cả rồi... Chừ anh về gắng giúp tôi. Ba ngày nữa ta gặp lại nhau. Ông Cụ và ông Nhu đều rất trông đó...---

[1] 2e Bureau: Phòng Nhì, cơ quan mật vụ quân đội Pháp

[2] MEP: mission étrangère de Paris.

[3] Pilate
 
THÁNH PHÊ-RÔ

1.

Cuộc gặp Cẩn đã vượt sự mong đợi cửa Hai Long. Tờ trình của anh không chỉ tới tay Cẩn mà còn tới cả dinh Độc Lập. Sự biệt đãi Cẩn dành cho anh một phần là do những bút phê của Diệm và Nhu. Nhưng thái độ Cẩn còn làm anh e ngại. Cẩn đã im lặng khá lâu sau khi nhận được tờ trình. Chỉ tới lúc Diệm, Nhu cần hỏi lại, Cẩn mới gặp anh. Cẩn tuy có việc cần anh nhưng chưa thật tin anh. Không hiểu bọn Hiếu, Vượng đã báo cáo về anh với Cẩn như thế nào. Cha Hồng có đưa bức ảnh anh chụp chung với cha Lê và cuốn Kinh thánh do Cassaigne đề tặng cho Cẩn xem không, đây là một điều mà anh không tiện hỏi. Một người như Cẩn khó có thể tin vào những lời nói khi hắn chưa nhìn thấy gì trên thực tế. Anh nghĩ đến vai trò của cha Lê trong những ngày sắp tới. Nhưng trước mắt, cần có người tác động tốt cho mối quan hệ giữa anh và Cẩn, người đó là cha Hồng. Ngày hôm sau, Hai Long đến nhà thờ Françisco theo lời dặn của cha Hồng. Anh cảm ơn cha đã có tình thương cao cả đối với mình, mong giải quyết tốt trưởng hợp của mình. Anh đề nghị riêng với cha cố gắng có mặt cùng với anh trong cuộc gặp Cẩn sắp tới, để cho sự hợp tác giữa ông Cậu và anh tiến triền thuận lợi. Cha Hồng sốt sắng nhận lời.

Đúng ngày đã hẹn với Cẩn, Hai Long nhờ Lê Văn Dư đánh xe đưa mình đến Phú Cam. Anh rất vui khi thấy cha Hồng đang nói chuyện với Cẩn.

Sau khi đưa bản bờ sung tờ trình cho ông Cậu, Hai Long nói với cha Hồng:

- Thưa cha linh hưởng, con xin chia sẻ niềm ước vọng của cha và chung lời cầu nguyện Chúa phù hộ cho sự hợp tác giữa con cái của Chúa ở đây thành đạt kết quả tốt. Con đã được sự đón tiếp ân cần của cha và ông cố vấn. Con xin cảm tạ Chúa đã tạo nên cơ hội cho chúng con hợp tác với nhau trong tình thương yêu của Chúa. Sự hợp tác đó tuy mới buổi ban đầu, nhưng rất đáng khích lệ. Cá nhân con rất mong đóng góp vào đại sự quốc gia, tuy nhiên, không vượt ra ngoài mối quan hệ lâu năm giữa giáo khu Phát Diệm - Bùi Chu và đương kim tổng thống

Anh quay sang phía Cẩn:

- Với ông cố vấn, tôi xin nhấn mạnh một điểm, tôi không dám nói "cứu nguy" mà chỉ làm một công việc là "báo nguy" cho chế độ, vì hiện nay tôi đang sống trong một hoàn cảnh rất "đặc biệt"...

Cha Hồng ngắt lời:

- Chúa sắp đặt tất cả. Nếu thầy phụ tá vẫn ở Sài Gòn thì ông tổng thống và hai ông cố vấn làm sao biết được thầy?

- Con muốn nói việc hôm nay là như thế. Chúa đã phán: "Ngày mai có việc của ngày mai".

Câu nói của cha Hồng làm cho Hai Long đoán là trước đó cha đã trao đổi với Cẩn về chuyện của anh nhưng mình cũng chưa vội vồ vập.

Cẩn xịu mặt, nói với giọng trách móc:

- Khó khăn tựa núi! Thầy phụ tá chỉ nhận báo nguy mà không cùng ra sức cứu nguy thì mần răng? "Cứu bịnh như cứu hỏa" không thể chậm trễ. Mình không ra tay ngay không đặng mô? Khoanh tay ngồi đợi chỉ có thua thôi. Rối ren trăm bề tính răng?

- Chúa an bài - cha Hồng lặp lại câu nói thường ngày - Rồi đâu cũng vào đó. Tình hình sẽ êm ả thôi.

Cẩn nhìn Hai Long dằn giọng:

- Thầy phụ tá phải giúp tui mới đặng!

- Lạy Chúa! - Cha Hồng xuýt xoa - Xin Chúa phù hộ cho chúng con sống thương yêu bền vững bên nhau.

Sau buổi gặp này, Hai Long quyết định viết thư cho cha Lê. Trong bức thư tuy có nhắc qua đến hoàn cảnh oan khuất, bị giam cầm, nhưng hoàn toàn không mang tính chất cầu xin sự giúp đỡ. Anh tường thuật lại với cha những điểm chủ yếu trong tờ trình, những cuộc tiếp xúc với Cẩn, và mong sự chỉ dẫn của cha đối với một đệ tử chẳng may sa vào cảnh ngộ éo le. Anh đưa thư cho cha Hồng xem, và nhờ cha chuyển hộ. Anh cũng gợi ý cha Hồng nên viết thư cho cha Lê, nhằm góp phần xây dựng lại hòa hiếu giữa giáo khu Phát Diệm và gia đình họ Ngô. Cha Hồng nói là mình cũng đã có ý định đó.

Lần này Hai Long không phải chờ đợi lâu. Chỉ sau ít ngày, cha Hồng đã mời anh tới để chuyển lại tờ thiếp phúc đáp của cha Lê. Trong thiếp, cha Lê viết: "Cầu nguyện Chúa phù hộ cho thầy đủ sáng suốt làm nên việc cho giáo hội". Mối lo lớn đã vơi đi. Hai Long hiểu qua mấy lời ngắn ngủi, cha Lê không những đã công nhận mình là đệ tử của ngài, mà còn nhắn khéo mình phải hết sức khôn lanh trong quan hệ với Cẩn để nắm tình hình cho cha. Cha Hồng cũng khoe với Hai Long, cha Lê đã biên thư cho mình, nhờ chăm sóc giúp người đệ tử chẳng may lâm nạn, và hẹn một ngày gần đây sẽ ra thăm Thuận Hóa. Nhân dịp này, Hai Long thổ lộ với cha:

- Con thực lòng muốn giúp đỡ ông Cậu, nhưng chỉ e ông Cậu chưa tin.

Cha Hồng ngạc nhiên:

- Sao thầy lại có ý nghĩ như vậy? Ông Út rất tin thầy mà?

- Có thể con hiểu lầm ông Út. Con như con chim phải tên hễ thấy cây cong là sợ.

Cha Hồng nhìn anh với đôi mắt thông cảm:

- Cha đã hiểu tâm trạng của con. Những chuyện này cha sẽ nói lại với ông Út. Cha tin rằng mọi việc rồi sẽ tốt đẹp.

Cha Hồng không muốn nhúng tay vào việc đời để chuyên tâm lo việc đạo. Riêng với những việc làm nhằm siết chặt tình thương giữa những người con chiên của Chúa thì cha không bao giờ từ nan. Cha đã nói hộ Hai Long nhiều điều mà anh không thể hoặc không nên nói trực tiếp với Út Cẩn. Hai Long nhận thấy rõ nhờ có vị linh mục chân tu này, quan hệ giữa anh với Út Cẩn đã nhanh chóng chuyền biến theo chiều hướng có lợi.

Hai Long hiểu thêm về con người Ngô Đình Cẩn. Trong con người mang dòng máu địa chủ, quan lại phong kiến này, có nhiều cái rất trái ngược. Hiểm độc, xảo quyệt; nhưng lại nhiều lúc nhẹ dạ, cả tin. Uống máu người không tanh, vô nhân vô luân như một bạo chúa; nhưng lại có những lúc mềm yếu, nhu hòa dễ bảo, mau nước mắt. Sắc sảo, hoạt bát, tự phụ, tự mãn; nhưng nhiều lúc lại rất mù mờ, ngờ nghệch, tự nhận cái kém, cái dốt của mình. Luôn luôn kèn cựa với các linh mục nhưng lại rất vâng lời cha linh hưởng. Thiển cận, chặt chẽ, so đo; nhưng lại nhiều tham vọng, có lúc phóng tay, bốc rời. Cẩn say sưa với quyền lực và rất sợ mất quyền lực. Một nhược điểm lớn của Cẩn là ưa tâng bốc, phỉnh nịnh. Cẩn rất thích được khen là hiếu đễ. Khi Hai Long nói với y: "Hiếu đứng đầu trăm nét. Người hiếu là người có nhân, có nghĩa, lễ, trí, tín", anh thấy đôi mắt Cẩn rưng rưng.

Hai Long không còn e sợ đôi mắt của Cẩn như lần gặp đầu tiên. Cẩn đã tâm sự với anh những điều gan ruột. Y tỏ ra không thích người Mỹ. Cẩn chê người Mỹ không lịch sự, lễ phép bằng người Pháp; Mỹ kiểm soát từng đồng xu viện trợ. "Mỹ muốn nắm tất cả mà xem ra không thật lòng với ta", khi nói điều này, Cẩn tỏ vẻ cay đắng, hai má xệ xuống, mặt buồn thiu. Có lần Cẩn than thở với anh: "Tui dốt lắm vì không được ăn học đến nơi đến chốn. Giả sử tui giỏi như ông Trường Chinh thì tui chẳng để cho vợ chồng ông Nhu tác yêu tác quái bên cạnh tổng thống!". Khi nghe Hai Long bàn về những nguy cơ, Cẩn chỉ phụ họa theo hoặc tỏ vẻ bực tức hay lo lắng. Cẩn không tìm ra biện pháp gì để giải quyết ngoài những lời hăm hở: "Phải trừng trị ngay những tên chống đối". Hai Long nói lại, bọn này thường có lực lượng, nhiều kẻ được sự yểm trợ của Mỹ, nên không dễ trừng trị, thì Cẩm ngồi im. Cẩn muốn triệt ngay Đỗ Mậu, y tin là mình thừa sức làm việc ấy. Hai Long lặng lẽ ghi nhận.

Bản bổ sung của Hai Long đã được chuyển ngay về Sài Gòn. Khá lâu, vẫn không có hồi âm. Sự hào hứng của anh khi đọc những lời bút phê cửa Diệm vả Nhu nguội dần. Anh nghĩ rằng, tờ trình có lẽ chỉ cải thiện được vị trí hiện thời của anh ở Huế. Nó chưa đủ sức mạnh để tác động đến dinh Độc Lập. Nó đã rơi vào sự quên lãng cùng chung với rất nhiều những tờ trình, kiến nghị, báo cáo mà những kẻ cầm quyền nhận được hằng ngày.

Sự băn khoăn của Hai Long hiện giờ là không hiểu tại sao Cẩn chưa trả lại tự do cho mình. Cẩn đã có những bằng chứng rõ ràng về bọn tay sai của hắn đã bắt lầm người phụ tá của cha Lê. Cẩn biết rõ không nên đổ thêm dầu vào lửa trong mối quan hệ từ lâu đã xấu đi giữa gia đình họ Ngô với cha Lê. Hai Long vẫn không quên nhắc nhở với Cẩn về hoàn cảnh "đặc biệt" của anh. Nhưng Cẩn đều tìm cách đánh trống lảng. Chỉ có một lần, Cẩn ngỏ ý muốn chuyển anh về một nơi nào đó cùng mình làm việc, không thể cứ ở mãi tại Tòa Khâm là nơi cải huấn những người bị bắt, không có điều kiện chăm sóc anh về các mặt sinh hoạt. Hai Long đã từ chối, lấy cớ cứ ở trại để có thể giúp ích cho Cẩn được nhiều hơn. Cẩn tin ngay và không đả động tới chuyện này nữa.

Lê Văn Dư và Lê Khắc Duyệt trở thành những người lái xe cho Hai Long mỗi lần anh có việc đến nhà Cẩn. Lê Vượng đã gặp anh để vừa thanh minh vừa kể công: "Khi ông Cậu gọi lên hỏi về anh, tôi đã báo cáo rất kỹ về thái độ, tư cách của anh, và vì sao lại có sự lầm lẫn...". Bọn tay chân của chúng không dám gây phiền hà với anh, ngược lại còn nhìn anh với cặp mắt nể sợ.

Nhưng anh đã phải trả một giá rất đắt. Chung quanh bắt đầu xa lánh anh. Không ai tin rằng mỗi lần anh rời trại Tòa Khâm trên chiếc xe của giám đốc Nha công an Trung phần mà lại không có hại cho họ. Người nói bóng gió, người nhổ nước bọt khi nhìn thấy anh. Một bữa anh ngồi đọc kinh, nghe có người nói ở phòng ngoài: "Miệng na mô, bụng bồ dao găm". Cổ họng anh muốn tắc.

Nhưng đáng sợ nhất đối với anh vẫn là những câu nói vọng ra từ khu biệt giam. Lời khước từ sự dụ dỗ, lời mắng nhiếc những tên chuyển hướng, phản bội, lời kêu gọi giữ vững khí tiết của người cách mạng, chết vinh còn hơn sống nhục... Những cặp mắt liếc nhìn anh với vẻ hả hê. Lòng anh như dao cắt.

Anh chưa được phép chết lúc này. Vì anh chưa hoàn thành nhiệm vụ. Anh chỉ mới đi được nửa đường. Anh sẽ không bao giờ chịu đầu hàng. Anh chưa hề thoái chí, vẫn đang cố gắng vượt lên để đi tới đích. Anh vẫn nung nấu ý chí phục thù. Bao giờ thì những người chung quanh đây sẽ hiểu anh? Có thể chẳng bao giờ? Anh thầm ước, giá mà mình có một cái mặt nạ. Anh thương cho bộ mặt mình, bộ mặt do mẹ cha sinh thành. Bộ mặt đó đang chuốc lấy bao sự phỉ nhổ. Anh đang đóng một vai kịch đáng kinh tởm nhất bằng chính bộ mặt thực của mình. Trại Tòa Khâm không phải là sân khấu mà lại là cuộc đời ở vào một giai đoạn sóng gió nhất, khi con người cần bộc lộ phẩm chất đích thực, con người thực của mình!

Con người có thể làm nên việc lớn vì nó sống giữa một quần thể. Nhiều khi nó không sống vì mình mà sống vì người khác. Trong chiến tranh, trước bom đạn ác liệt, có những lúc anh cảm thấy sợ, có lúc rất sợ. Nhưng khi nghĩ đến nhiệm vụ, đến những người chung quanh, anh thường lấy lại được sự bình tĩnh vì biết là sự hy sinh của mình sẽ không vô ích, sẽ được biết đến, dù nó chỉ diễn ra trước mắt một số người xa lạ, thậm chí trước mắt kẻ thù. Nguồn động viên tinh thần đó nay không còn nữa. Đoàn thể, những người chỉ huy trực tiếp, vợ con anh, những người chung quanh anh không một ai biết đến nhưng toan tính của anh. Có thể anh phải mang nó xuống mồ! Có những lúc anh cảm thấy ghê tởm ngay ở cả bản thân mình, vì anh nghĩ về những hành vi của mình bằng ý nghĩ của những người đang theo dõi, phán xét anh.

Đây là những ngày cô đơn, tủi nhục nhất trong suốt cuộc đời anh. Không phải chỉ có như vậy. Anh còn phải bận tâm vì tính chất nguy hiểm của trò chơi hai mặt này. Sự việc xảy ra đêm ấy vẫn còn ám ảnh anh. Biết đâu, một đêm nào đó, một cái chăn bất chợt úp chụp xuống đầu anh, anh không kịp có một lời thanh minh, người ta sẽ đặt lên xác anh một bản án phản bội! Không đêm nào anh yên giấc. Phải gắng sống đến ngày ít nhất có một người biết rõ việc mình làm. Mình sẵn sàng hy sinh như một chiến sĩ vô danh, nhưng không thể chết như một tên phản bội...
 
2.

Cha Hồng báo tin cho Ngô Đình Cẩn biết, giám mục Lê vừa ra Huế, muốn được gặp người phụ tá của mình.

Cẩn vội vã ra lệnh cho Lê Văn Dư đánh xe đưa Hai Long đi gặp cha, và chở ngay Hai Long về Phú Cam sau buổi hội kiến.

Giữa gia đình họ Ngô và cha Lê vốn có một mối quan hệ khá đặc biệt.

Hồi đầu Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám, Ngô Đình Khôi, tổng đốc Quảng Nam thời Pháp thuộc, một người có nhiều nợ máu với cách mạng, đã bị nhân dân kết án tử hình. Hai em của Khôi là Diệm và Nhu rất sợ hãi, muốn trốn ra nước ngoài. Cha Lê khi đó là giám mục địa phận Phát Diệm, đã đón Nhu về đây, giấu Nhu ở Nhà Chung một thời gian, rồi cho người đưa trốn qua Lào.

Cho đến năm 1954, giám mục Lê vẫn ủng hộ Diệm, rất tán thành cái công thức ban đầu được Mỹ và Pháp lựa chọn sau khi Mỹ đưa Diệm về, là một chính quyền ở Nam Việt Nam với Bảo Đại làm quốc trưởng, Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Cha Lê muốn có một người cầm đầu chính quyền là Công giáo (Bảo Đại theo đạo Phật); hơn nữa, Diệm là ngươi có ân tình với cha Lê. Mỹ lại âm mưu gạt Pháp và lật Bảo Đại để đưa Ngô Đình Diệm lên thay. Cha Lê là người của Pháp, không tán thành chủ trương này. Nhưng Mỹ cứ làm. Và Diệm không chỉ dừng lại ở đó. Sau khi hất cẳng Pháp, truất phế Bảo Đại, Diệm ráo riết mở những đợt thanh trừng những lực lượng thân Pháp như Bình Xuyên, các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo... Tổng bộ tự vệ Phát Diệm do cha Hoàng chỉ huy cũng bị đập tan trong thời gian này.

Về mặt tôn giáo, cha Lê cũng như giáo hội Việt Nam gắn liền với giáo hội Pháp và Tòa thánh Vatican. Nhiều cha cố Pháp đã nói: "Giáo hội Pháp lả con cả của giáo hội La Mã, là mẹ đẻ của giáo hội Việt Nam". Cha Lê đúng là con đẻ của Pháp. Nhưng giám mục Ngô Đình Thục, anh của Ngô Đình Diệm, lại gắn liền với Hồng y giáo chủ Mỹ Spellman, tức là gắn liền với giáo hội Mỹ.

Khi đã lên cầm quyền, Ngô Đình Diệm yêu cầu Vatican phải cử đại sứ tới Sài Gòn, đối xử với Việt Nam cộng hòa bình đẳng như với những quốc gia độc lập khác. Vatican không chấp thuận, chỉ đặt tòa lãnh sự và cử tới một khâm sứ. Diệm phật ý. Diệm kiên quyết đòi Vatican không để một người Pháp, thuộc dòng Thừa sai Paris (MEP), là Jean Cassaigne làm giám mục địa phận Sài Gòn, mà phải thay bằng một ngươi Việt. Vatican thấy phải. Cha Lê rất muốn làm giám mục Sài Gòn, và được Vatican ủng hộ. Nhưng Diệm lại muốn giành chức này cho anh mình là Ngô Đình Thục. Cuộc tranh chấp diễn ra giữa Diệm và Vatican. Cuối cùng? Tòa thánh La Mã phải chọn một giải pháp thứ ba, thay Cassaigne bằng giám mục Simon Hòa Hiền. Mối bất hòa giữa cha Lê và anh em họ Ngô ngày càng sâu đậm.

Những giáo phái và những người thân Pháp, trong đó có nhiều người trước đây đã ủng hộ Diệm, giờ bị Diệm đàn áp, tụ lại chung quanh cha Lê, bàn cách chống Diệm và dần dần đi tới âm mưu lật đổ Diệm. Trước sự đe dọa của phong trào cách mạng miền Nam, Mỹ muốn mở rộng thành phần chính phủ Diệm để tăng cường sức mạnh chống Cộng. Nhưng Diệm, đứng sau là Nhu, không nghe.

Diệm, Nhu dần dần hiểu rằng nếu cứ tiếp tục chống cha Lê, không những sẽ mất đi sự ủng hộ của hơn 1 triệu giáo dân gốc Bắc, mà còn kéo theo rất nhiều người thuộc các phe phái đối lập khác, bèn thay đổi thái độ, tìm cách ve vãn. Diệm đã ra sắc lệnh coi những tự vệ Phát Diệm là những người có công chống Cộng, phải được đối xử như những cựu chiến binh trong quân đội. Ván bài này, Diệm - Nhu mới chơi được nửa chừng. Cha Lê chưa dễ nguôi giận ngay. Cha Lê tiếp tục xúi các cha cố gốc Bắc cũng như gốc Nam chống Diệm độc tài, gia đình trị, kiêu ngạo, đòi bình đẳng với Vatican, coi hồng y Spellman hơn cả giáo hoàng, âm mưu Mỹ hóa giáo hội Việt Nam... Tuy vậy, cha Lê vẫn cần Diệm, vì Diệm là đương kim tổng thống thu tóm mọi quyền hành trong tay. Cuộc sống của giáo dân Phát Diệm những năm qua gặp nhiều khó khăn, một phần cũng vì sự mâu thuẫn của những người chăn dắt họ đối với chính quyền. Cha Lê sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ nếu gia đình họ Ngô tỏ ra biết tôn trọng và chiều chuộng họ.

Đôi bên đang đứng nhìn nhau trên hai bờ của một con sông còn thiếu một cây cầu.

Sau khi nhận được tấm thiếp của cha Lê, Hai Long có nhiều hy vọng cha Lê sẽ ra Thuận Hóa. Chỉ có sự xuất hiện của cha Lê mới cải thiện được về cơ bản tình hình của anh ở đây. Theo suy luận của anh thì bất cứ một người giáo dân Phát Diệm nào ở vào vị trí hiện thời như anh, cũng xứng đáng được cha chăm sóc. Cha đang rất cần có một người vừa là tai mắt, vừa là môi giới cho những cuộc mặc cả giữa cha với gia đình họ Ngô đang cầm quyền.

Nhưng khi được tin cha Lê tới, anh vẫn bị bất ngờ. Vì anh không ngờ sớm như vậy.

Đây là lần đầu anh tiếp kiến chuyện trò với cha. Bức hình chụp với cha ở Hải Phòng, ít nhất cũng nhắc nhở cha, người giáo dân Phát Diệm trong quân đội Pháp đã hết lòng phục vụ đồng bào di cư và những cha cố có mặt tại đó. (Nhiều giáo dân hồi ấy vì muốn lấy lòng một người đang giúp đỡ mình, đã gọi anh là "ông quan ba người Phát Diệm"). Rất có thể cha cũng tưởng anh chính là người Phát Diệm. Cha có hàng chục vạn con cái, làm sao ngài có thể nhớ mặt tất cả mọi người. Và một khi cha đã cất công ra tận đây gặp anh, chắc ngài đã nghe cha Hoàng nói không ít những điều tốt lành về anh.

Hai Long cảm thấy hoàn toàn tự tin trên đường đến gặp cha Lê.

Cha Lê ngồi trong căn phòng khách vắng vẻ của nhà dòng Chúa Cứu thế. Thoáng nhìn, anh thấy ngay cha đang nóng ruột đợi mình.

Hai Long lao vội tới quỳ thụp hôn tay cha, một bàn tay mặc dù đã nhăn nheo vì tuổi tác nhưng vẫn rắn chắc và đỏ như son.

- Con khỏe chứ?

Cha Lê hỏi bằng một giọng thân mật, ngọt ngào nhưng vẫn trang trọng.

- Trình Đức cha, con khỏe - đôi mắt rớm lệ, Hai Long nói tiếp - chắc Đức cha vẫn chưa quên con. Con không bao giờ quên những ngày ở thánh địa Phát Diệm với Đức cha.

- Quên sao được. - Cha chăm chú nhìn Hai Long - So với ngày ấy thì anh thay đổi khá nhiều.

- Thưa Đức cha, đã 16 tháng, con sống trong cảnh giam cầm. Nếu không vì quyền lợi của giáo hội, của giáo dân Phát Diệm - Bùi Chu, con đã không chịu được cảnh tù túng này.

Cặp mắt cha chốc chốc lại nhìn anh chăm chú. Anh hiểu là cha đang ngầm so sánh người ngồi trước mặt mình với người trong bức ảnh cùng chụp với cha. Chắc cha đã nhận thấy hai người chỉ là một, vì 5 năm qua, về bề ngoài, anh chưa thay đổi nhiều.

Hai Long thuật lại cho cha nghe một cách đầy dủ và gọn gàng, anh dang làm việc cho Tổng bộ tự vệ thì bị người của ông Cẩn từ miền Trung vào bắt, họ vu cho anh là Việt Cộng nằm vùng, là "đơ Bê", nhưng không đưa ra được chứng cớ nào, anh nghĩ họ chỉ tìm một cái cớ để điều tra tình hình lực lượng vũ trang Công giáo Phát Diệm, hoặc làm việc gì đó mà anh chưa biết... Anh đã viết một tờ trình gửi ông Cẩn, và yêu cầu được gặp. Khi gặp ông Cẩn, anh đã lựa lời nói cho ông hiểu, ông đã dựa vào mấy tên hồi chánh để chúng làm điều xằng bậy, đánh vào người nhà. Con cháu cha Lê đều tự hào là những chiến sĩ chống Cộng kiên quyết nhất từ năm 1946 tới nay (Hai Long nhấn mạnh), điều này đã được chính tổng thống Diệm thừa nhận. Ông Cẩn đã nhận lỗi để bọn tay chân sơ xuất bắt lầm anh, rất cảm ơn những ý kiến anh đã đóng góp, và đã gửi tờ trình vào Sài Gòn để ông Diệm, ông Nhu cùng xem. Hai ông vội cử người ra Huế, đề nghị anh nói rõ thêm một số điểm. Thái độ của ông Cẩn đối với anh hiện giờ rất tốt. Ông Cẩn nói gia đình họ Ngô mang ơn Đức cha nhiều mà chưa trả được, lại đang rất cần sự hỗ trợ của Đức cha... Nhưng anh không hiểu vì sao ông chưa trả tự do cho anh, đề anh trở về tiếp tục giúp cha Hoàng làm công việc Tổng bộ. Trong những ngày còn ở Thuận Hóa, anh có thể làm gì có ích cho giáo hội...

Bộ mặt uy nghiêm, khắc khổ của cha dần dần tươi lên.

- Cha rất đẹp lòng vì cách xử sự của anh. Rất xứng đáng là người chiến sĩ Công giáo Phát Diệm. Dù ở trong hoàn cảnh nào không được để cho người ta khinh nhờn.

- Con luôn luôn tâm niệm con là người của cha Hoàng và của Đức cha.

- Ông Út như vậy... là cũng biết điều.

- Ông Út luôn luôn ca ngợi Đức cha. Ông nói không có Đức cha thì gia đình họ Ngô làm sao được như ngày nay. Ơn đó đã trả được đâu!

Cha Lê nhếch mép cười:

- Anh nói với ông Út: "Người không phụ ta thì ta cũng không phụ người!". Đều là con chiên của Chúa cả. Nếu ông Út đang tin cậy, trọng nể anh, và cần có anh, thì sẽ để anh ở lại đây thêm một thời gian. Anh là người am hiểu tình hình giáo hội, cha cũng không phải dặn dò gì. Cứ nghĩ đến quyền lợi của giáo hội mà hành động. Khi có điều gì cần, cha sẽ tin cho anh ngay.

Hai Long hiểu cuộc viếng thăm của cha chỉ nhằm nắm tình hình. Anh nói:

- Thưa Đức cha, con ở đây sống cảnh cá chậu chim lồng, không biết gì về tình hình trong đó từ ngày ra đi. Có điều gì mới, Đức cha cho con rõ. Người ta coi con là người phụ tá của Đức cha, nên ông Út thường mời con đến hỏi ý kiến.

Cha Lê trầm ngâm, rồi nói:

- Cộng sản đã tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Đài phát thanh Bắc Việt đưa tin nhiều nhưng ở Sài Gòn báo chí chưa đả động gì...

Hai Long dỏng tai nghe, nhưng cha không bình luận thêm mà nói tiếp:

- Bốn nguy cơ mà anh trình bày bữa trước với ông Cẩn, đều đúng cả. Chỉ có điều là đến nay trầm trọng hơn nhiều. Phe đối lập đang hoạt động mạnh, người Mỹ và cả người Pháp đứng sau lưng họ. Biến cố chính trị sẽ xảy ra nay mai. Ông Diệm, ông Nhu phải khéo léo lắm thì mới đứng vững được... Cha nói chừng ấy chắc anh đã hiểu. Cha Hoàng gửi lời thăm anh.

- Đức cha cho rằng sẽ có đảo chính?

Cha Lê im lặng giây lát rồi hơi gật đầu.

- Con không bao giờ quên ơn Đức cha, quên ơn cha Hoàng, không bao giờ quên mình là một giáo dân Phát Diệm. Con rất lo cho sức khỏe của Đức cha. Đức cha cần giữ gìn mình vàng để chăn dắt giáo dân Phát Diệm, không để chúng con phải bơ vơ.

- Cha rất khỏe... Cầu Chúa phù hộ cho anh.
 
3.

Cậu Út với chiếc áo cộc tay, cái quần lá tọa, chân đi guốc mộc đã đứng chờ trước cửa. Gần đây, cậu không coi Hai Long như kẻ sĩ, mà coi như người nhà.

Chiếc ô-tô vừa dừng lại, cậu mở cửa xe, lùa hẳn cánh tay trắng và mập vào trong, quàng lưng Hai Long đón ra. Chưa bao giờ cậu chầu chực ngoài cổng để đón Hai Long như lần này.

Hai Long rảo bước đi theo Cẩn vào nhà.

Cẩn vừa ngồi xuống ghế, không kịp rót nước, mời thuốc như thường lệ, cũng không rào trước đón sau, hỏi dồn dập.

Hai Long tự bảo mình phải thận trọng nhưng miệng vẫn nói thao thao, tỏ ra anh mong thuật lại tất cả những điều đã thu lượm được qua cuộc gặp cha Lê, làm như cha ra Huế chỉ cốt gặp mình để trút hết bầu tâm sự.

Cuối cùng, anh làm bộ mặt nghiêm trọng:

- Đức cha dự đoán nay mai sẽ có chính biến. Tôi nói có phải là đang có âm mưu đảo chính không, ngài gật đầu.

Cẩn sửng sốt:

- Đảo chánh?

- Dạ.

- Đứa mô dám đảo chánh?

- Bọn đối lập dựa vào Mỹ và cả vào Pháp.

- Nhưng thằng mô?

- Tôi gặng hỏi, ngài không nói. Chắc ngài e trách nhiệm vì vách có tai! Nhưng ngài cho biết là chúng đang chuẩn bị rất khẩn trương... Nếu tôi ở Sài Gòn thì có thể báo cáo ngay với ông cố vấn đó là ai. Đức cha rất tiếc là tôi không có mặt trong đó. Tôi vốn là người vẫn đi nắm tình hình cho Đức cha.

Cẩn tảng lờ như không nghe thấy điều Hai Long vừa nhấn mạnh, y lầu bầu:

- Chỉ tại bà Lệ Xuân mới sinh lắm chuyện. Rứa mà tổng thống vẫn dùng thằng Đỗ Mậu! Chính hắn liên kết với nhiều người để chống lại vợ chồng ông Nhu chớ còn ai?

- Tôi đồng ý với ông cố vấn,. phải chú ý ngay tới giới quân sự, những kẻ thân Mỹ, thân Pháp; ngoài Đỗ Mậu ra, xem còn những ai nữa? Bọn có âm mưu đảo chính nhất định phải nắm một lực lượng quân sự.

- Anh sang phòng bên, mần ngay cho một bản báo cáo về tất cả những điều Đức cha đã nói với anh. Anh viết gởi cho tui. Tui sẽ cho người vô ngay Sài Gòn.

Buổi chiều, Hai Long làm xong việc đó. Bản báo cáo toát lên sự tin cậy của cha Lê với cá nhân anh. "Cha Lê khẳng định sẽ có biến cố chính trị ở thủ đô Việt Nam cộng hòa trong thời gian sắp tới". Anh khuyên ông cố vấn nên thận trọng, chú ý đến bọn đối lập thân Mỹ, thân Pháp, đặc biệt trong giới quân sự. Và anh "rất tiếc về thái độ không rõ ràng của cha Lê đối với bọn đang âm mưu lật đổ chính quyền Việt Nam cộng hòa".


4.

Trưa 11-11-1960, trưởng trại Tòa Khâm Lê Văn Dư cho Hai Long biết tin nhóm đảo chính quân sự đã chiếm đài phát thanh Sài Gòn.

Ngoài đường, xe nhà binh chạy ầm ầm. Nhiều nhà đóng kín cửa. Binh lính từng toán đi tuần rầm rập. Xe tăng trấn giữ hai đầu cầu Tràng Tiền.

Một không khí hân hoan lan truyền trong lòng người đang bị giam cầm. Họ đã sống qua những ngày dài vô vọng. Ai cũng biết đây chỉ là cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ bọn chúng. Nhưng biết đâu nó lại chẳng mang tới cho họ một cái gì. Hy vọng rất mỏng manh, nhưng vẫn là hy vọng. Nhưng tia hy vọng vừa nhen nhóm này không kéo dài được bao lâu. Ngay hôm sau đã có tin âm mưu đảo chính bị đập tan, bọn sĩ quan dù Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông cầm đầu cuộc đảo chính đã trốn chạy sang Nam Vang.

Hai Long khấp khởi mừng thầm. Một sự thay thầy đổi chủ lúc này sẽ làm uổng phí tất cả những nước cờ mở đầu mà anh đã phải đổ bao tâm huyết, và phải trả giá bằng những ngày vô cùng đau đớn ở đây.

Ngay khi tình hình vừa yên, Cẩn cho mời Hai Long đến nhà.

Cặp mắt rưng rưng, ông Cậu cầm hai tay Hai Long rung rung hồi lâu:

- Chỉ có phép lạ rất mầu nhiệm của Chúa mới cải nguy thành an cho tổng thống. Rất cảm phục thầy đã nói trúng như Thánh tiên tri. Từ bây chừ, thầy là ân nhân của gia đình họ Ngô.

Hai Long khiêm tốn:

- Đó là hồng phúc của tổng thống, của gia đình họ Ngô, và cũng là hồng phúc của quốc gia. Tôi có làm được việc chi?

- Thầy quá khiêm nhường. Báo cáo của thầy gửi tui, tui đã chuyển ngay tới ông Cụ và ông Nhu. Chắc chắn tổng thống và ông cố vấn chính trị không bỏ qua, nên đã có phòng ngừa.

- Đó là ý kiến của Đức cha Lê.

- Nhưng nếu không có thầy hết lòng, bầy tui khi mô biết mà liệu trước? Từ bữa ni, gia đình tui coi thầy thân thiết như người trong nhả.

- Ông cố vấn định khi nào làm lễ tạ ơn?

- Cũng vì cả việc nớ mà bữa ni mời thầy vô. Bầy tui sẽ làm lễ tạ ơn thật trọng thể tại nhà thờ của họ Ngô. Tui có ý định nhờ thầy tổ chức giúp. Tui biết thầy thông thạo việc lễ.

- Tôi rất đội ơn ông cố vấn đã dành cho vinh dự lớn, nhưng nếu nhận e không tiện. Công việc chủ trì một lễ lớn tại gia đình cố vấn phải do một vị cao niên hoặc đạo đức thánh thiện của gia đình đứng ra đảm nhiệm. Tôi có biết đôi chút kinh lễ, nhưng còn nhỏ tuổi, lại không phải là người trong nhà...

- Thầy là người trong nhà, - Cẩn dằn giọng - tui đã nói rồi. Đó là tấm lòng tui quý hóa thầy, thầy đừng phụ lòng tui.

Biết đâu Cẩn cũng muốn nhân đây thử mình có đúng là một giáo dân gốc đạo hay không, Hai Long nhận lời. Cẩn rất mừng.

Uống cạn tuần trà, Cẩn ngồi tư lự, rồi nói:

- Tui muốn hỏi thầy, thực lực quân sự của Đức cha Lê hiện chừ ra răng? Tổng bộ tự vệ có bao nhiêu người?

- Hiện nay, chừng hơn một vạn, khi cần huy động sẽ lên tới vài ba vạn. Số khá đông đã trực tiếp chiến đấu chống Cộng hồi còn ở miền Bắc. Nếu được tổ chức lại và vũ trang đầy đủ, sẽ là một lực lượng đáng kể. Nhưng Đức cha còn một chỗ mạnh hơn nhiều. Cha Lê và cha Hoàng là một trung tâm thu hút những người có ý kiến bất đồng với tổng thống, trong đó có nhiều sĩ quan cao cấp của quân đội. Họ tự tìm đến các cha để giãi bày sự bất đồng với tổng thống...

Trong khi trả lời, Hai Long chưa hiểu vì sao bữa nay Cẩn lại hỏi về lực lượng tự vệ của Tổng bộ Phát Diệm với một vẻ cân nhắc khác thường.

Cẩn vẫn trầm ngâm, rồi lại hỏi:

- Thầy nói Đức cha có thiện chí với tui?

- Dạ. Không phải chỉ lần này ra Thuận Hóa, Đức cha mới nói với tôi điều đó.

- Nghe những lời của Đức Cha, tui rất ý hiệp tâm đầu. Nếu bây chừ Đức cha hiệp lực với lực lượng của ta...

Hai Long chưa hiểu Cẩn định nói đến lực lượng của Việt Nam cộng hòa nói chung, hay lực lượng của riêng Cẩn ở miền Trung, anh lựa lời đưa đà:

- Được như vậy là hồng phúc cho giáo hội, cho quốc gia.

Đôi mắt Cẩn mở to, sáng lên:

- Thầy gắng giúp tui được không?

- Từ lâu tôi đã mong như vậy.

Cẩn thở phào như vừa cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng.

- Quốc gia đang gặp khó khăn, tổng thống bị áp lực tứ phía, nhiều khi tui có ý kiến muốn góp với ông Cụ, nhưng ông bà Nhu không nghe, nhất là bà Nhu. Nếu bây chừ có thêm lực lượng của Đức cha, mình nói chi ông Nhu sẽ không dám coi thường. Rứa mới mong củng cố được sức mạnh của chế độ. Ông Nhu đã nhắc tui trả thầy về Sài Còn với Đức cha, nhưng tui vẫn muốn lưu thầy lại Huế vì chuyện nớ. Thầy mần được là giúp tui lớn lắm đó?

Cẩn đã để lộ lòng ruột.

Đang đà thổ lộ, y dốc nốt tâm sự:

- Bà Nhu rất lộng hành... Ông Nhu lại là anh sợ vợ. Cứ đà này thì bà Nhu sẽ chi phối ông Nhu, đi đến choán quyền của ông Cụ thì tai vạ cho cả nước và cả giáo hội. Mấy ngày qua, mấy thằng lính dù dám làm việc tầy trời, là do ông Nhu nghe vợ cả? Thầy xem ở miền Trung này có thằng mô dám nho nhoe? Bọn hắn mà nằm trong tay tui, tui đem đầu chúng bón vô gốc cam tự lâu rồi!

- Ông Nhu là người mưu lược nhưng hơi nhu nhược. Người làm tướng cần có ân, có uy. Ông Cậu nói rất phải. Nhưng tình hình đang rối, trước mắt, ông cố vấn nên khoan dung, hòa giải với vợ chồng ông Nhu. Phương ngôn có câu: "Thương em anh để trong lòng, việc quan anh cứ phép công anh làm!". Phải nghiêm khắc với những hành động có hại cho quốc gia, cho giáo hội.

- Thầy là người nhân nghĩa và sâu sắc lắm!

Vẫn còn bực dọc, Cẩn lại nói tiếp:

- Ông Nhu nói "duy linh" nhưng thiệt ra lả duy vật. Có khi mô thấy ông Nhu đọc kinh hay vô nhà thờ...!
 
5.

Hai Long chủ trì những buổi lễ tạ ơn kéo dài suốt một tuần tại nhà thờ riêng của Ngô Đình Cẩn.

Nhân dịp này, anh gợi ý với Cẩn nên tổ chức lễ Đồng tế để tạ ơn Chúa. Anh đã trao đổi với cha Hồng về chuyện này trước khi nói với Cẩn. Cha Hồng mừng rỡ tán thành. Đồng tế là lễ lớn nhất do Tổng giám mục đứng làm chủ lễ và nhiều linh mục làm phó lễ. Cẩn nói cũng đã có ý định đó. Hai Long bàn nên nhờ cha Hồng tổ chức tại nhà thờ Phú Cam. Cẩn rất tán thành

Con đường trở về Sài Gòn đã được khai thông. Nhưng Hai Long lại bắt đầu lo vì Ngô Đình Cẩn mà anh sẽ bị mắc kẹt thêm một thời gian dài nữa ở miền Trung.

Sau ngày lễ Đồng tế, Cẩn lại cho Duyệt đến mời Hai Long vào gấp.

Nét mặt Cẩn lộ vẻ rất băn khoăn:

- Ông Nhu vừa cho người ra Huế nói tình hình ở Sài Gòn rất nghiêm trọng, phải trả ngay thầy về chỗ Đức cha. Ông Nhu muốn gặp thầy trước khi thầy vô. Bây chừ giải quyết ra răng?

Đôi bên cùng ngồi lặng một lát.

- Tôi thấy ông cố vấn nên làm kế hoãn binh. Một mặt ông cố vấn nói đang chỉ thị cho tôi tiến hành tổng hợp tình hình và dự thảo một kế hoạch chống đảo chính để ông cố vấn đệ trình lên tổng thống. Như vậy trước mắt tôi vẫn ở lại. Đồng thời, ông cố vấn làm giấy tiến cử tôi với Phủ tổng thống, coi việc tôi về Sài Gòn là chuyện sau này. Trong trường hợp vì yêu cầu cấp bách của ông Nhu không thể trì hoãn, ông cố vấn sẽ cùng tôi bàn bạc kỹ, khi về đó tôi tiếp tục làm những việc gì để giúp ông cố vấn.

- Trước mắt, hãy theo ý thầy.

Bộ mặt Cẩn vẫn rầu rĩ, lo lắng.

Hai Long hỏi:

- Dường như ông cố vấn còn băn khoăn điều chi?

Cân thở dài, rồi tuôn ra một hơi:

- Bây chừ ông Nhu mới kêu tình hình nghiêm trọng, tui e muộn. Tui biết thằng Mỹ từ lâu. Quân xảo quyệt! Chó má! Gian hùng! Phản bạn! Trước mặt ủng hộ, sau lưng lật đổ... Ông Cụ thì quá tin nên bị lừa. Ông Nhu làm cố vần chính trị không ra hồn. Công an, mật vụ, an ninh quân đội... thằng Trần Kim Tuyến, thằng Đỗ Mậu... toàn những quân ăn hại, đui mù, phản bội! Xây dựng bao nhiêu lâu rồi! Phá đổ mấy hồi? Xưa nay nghiệp vương bá đều sụp đổ từ trong mà ra! Bọn hắn như rứa đó! Mỹ như rứa đó! Ta biết lối nào mà đi!

Để làm nguôi cơn giận của Cẩn, Hai Long giơ hai tay, vừa nói vừa cười:

- Cậu Út đi với tui!

Một điều bất ngờ đối với Hai Long... Đôi mắt Cẩn đang phóng ra những tia hiểm độc, đầy sát khí, bỗng dịu hẳn xuống ngước nhìn anh, hiền lành, bé bỏng, chờ đợi như mắt trẻ thơ. Anh hiểu là Cẩn thực sự bối rối, hoang mang, cần có một nơi bấu víu, chìa tay ra với mình khi hắn đang rơi vào xoáy nước.

- Chúa đã cho tôi đi với cậu Út đến ngày tận thế. Biết đi thì lối nào cũng thông, cậu Út chớ ngại chi không có đường đi nước bước. Cậu Út và tôi cùng dốc lòng cầu Chúa ban cho bằng an, cậu Út và tôi sẽ đi đến cửa Thiên đàng.

Hai Long đặt một tay lên trái tim. Mặt Cẩn tái xanh. Hai Long cũng cảm thấy gai gai trên mặt. Sự xúc động của Cẩn đã lan truyền sang anh, làm cho anh đang chủ động đóng vai kịch bỗng cảm thấy mất thăng bằng. Tuy vậy không thể dừng lại nửa chừng.

- Cậu Út đã biết tên thánh của tôi. Tôi là Pierre Vũ Đình Long. Cậu có nhớ hình ảnh Thánh Phê-rô[1] tay cầm gậy chỉ đường, tay cầm chìa khóa mở cửa Thiên đàng không?... Cậu Út tính kỹ chưa? Tôi sẵn sàng đi trước dò đường.

Cẩn lập bập:

- Mấy bữa ni tui như người sống trong hỏa ngục, cực khổ muôn vàn. Tui trông cậy nơi anh...---

[1] cũng là phiên âm latin của Pierre
 
BỘ NÃO CỦA CHẾ ĐỘ

1.

Mùa mưa kéo dài suốt những tháng cuối năm ở miền Trung. Lúc nào cũng nghe tiếng mưa rơi. Khi rỉ rả, thầm thì. Khi ầm ầm, nạt nộ. Tiếng mưa rơi đều đều buồn rứt ruột. Không gian chỉ còn là một tấm màn trắng đục. Mọi vật đều như tan thành nước. Mưa đem theo cái lạnh về. Cuối năm trời càng rét.

Cái lạnh làm cho Hai Long nhiều lúc nhớ miền Bắc da diết. Miền Bắc lúc này rất gần mà cũng rất xa. Đã 6 năm anh xa quê hương, một làng quê tỉnh Thái Bình. Nhớ ngôi chùa mái ngói phủ rêu, nhớ cái vọng, cái miễu ở đầu làng, nhớ cây đa cổ thụ mọc giữa cánh đồng. Nhớ những buồi chăn trâu, thả diều ngày còn nhỏ. Dưới con mắt của những người ở quê hương, anh đã trở thành một kẻ phản bội. Mọi người chỉ sẽ hiểu anh nếu anh có ngày chiến thắng trở về. Ngày ấy có tới với anh không? Không ai dám nói chắc điều đó. Nhưng anh bao giờ cũng có một niềm tin. Niềm tin đó bắt đầu từ ngài Hà Nội đang chìm trong bóng đen của nạn đói và dịch bệnh, bỗng đỏ rực lên vì một biển cờ. Ngọn lửa của Cách mạng tháng Tám đã xua tan bóng tối, xua tan chết chóc, mở ra một cuộc đời mới, con người đứng lên làm chủ vận mệnh của mình. Cậu học sinh mới lớn là anh, đã hòa ngay vào với cách mạng, với kháng chiến, và đã vượt qua những thử thách trong những năm quê hương anh bị cày đi bừa lại bởi hàng chục trận càn. Anh không bao giờ hoài nghi ở ngày mai chiến thắng. Vì cuộc cách mạng này có một ngôi sao chói lọi chỉ đường, đó là Đảng với những tinh hoa kết tụ ở lãnh tụ Hồ Chí Minh. Niềm tin đó ngày một thêm vững chắc qua những chiến thắng mỗi năm càng lớn, qua sự trưởng thành nhanh chóng của quân đội, qua sự cuồng bạo trở dần thành hốt hoảng của kẻ thù. Hình ảnh Bác Hồ trở thành thiêng liêng. Đó là ánh hào quang bóc trần bộ mặt thực của những kẻ mượn màu cách mạng dân tộc ở đây. Triều đình họ Ngô cùng với bộ máy cường quyền ghê gớm của nó, không sao sánh được với Bác và cả một dân tộc đứng sau lưng Người. Người đang chỉ dạo cách mạng miền Nam. Cách mạng miền Nam có Người không thể nào không chiến thắng.

Cái nhớ về miền Bắc xua đi những nỗi lo, xua đi cái buồn của tiếng mưa rơi rả rích những đêm dài gặm nhấm tâm hồn. Ôi, ước gì lúc này lại được nghe tiếng nói từ Hà Nội, một bản tin, một bài thơ, một câu hát... Từ ngày vào đây, anh dần mất đi nguồn tiếp sức đó, đêm đêm áp chiếc máy thu thanh bán dẫn nhỏ vào tai lắng nghe những buổi phát thanh của đài Tiếng nói Việt Nam. Nhiều năm nay, đối với anh, đó là một nguồn dinh dưỡng về tinh thần. Thế hệ này do cách mạng tạo nên, với những con người đã chiến thắng quân Pháp, đã làm nên những bài hát bài thơ như vậy, không thể nào không tiếp tục chiến thắng. Những cảnh xa hoa, tráng lệ ở Paris, ở Sài Gòn, cảnh thanh bình, êm đẹp ở đây, không thể nào đánh đổi được với những gì mà anh đã có.

Từ khi mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam rõ ràng đã chuyển qua một thời kỳ mới. Mặc dù địch cố bưng bít, nhưng qua báo chí hàng ngày của chúng, vẫn thấy được điều đó. Nội bộ ngụy quyền rối ren, lục đục là thời cơ thuận lợi cho ta. Tình hình này đang thôi thúc anh tìm mọi cách đề trở về. Anh không thể cứ nằm đây trong khi tiếng súng chiến đấu đã nổi dậy khắp toàn miền.

Cẩn đã coi Hai Long là "Thánh Phê-rô" cùng đi cặp đôi với mình. Nhưng Huế và Phú Cam không phải là mục tiêu của anh. Trong tình hình chính cuộc ở miền Nam, Cẩn tuy nhiều tham vọng, nhưng chỉ giữ một vai trò hạn chế. Cẩn không có khả năng đi xa hơn. Và ở đây, Hai Long rất khó liên hệ với tổ chức. Cơ quan chỉ đạo của anh ở Sài Gòn. Chỉ về đó anh mới có thể tính đến việc bắt lại liên lạc. Cẩn rời Huế sớm. Nhưng làm cách nào êm đẹp để thoát khỏi vòng tay của Cẩn đang cố níu lấy anh? Anh đang chờ và đang tạo ra những áp lực mới từ phía Ngô Đình Nhu ở Sài Gòn. Việc anh trở về Sài Gòn sẽ rất có ý nghĩa nếu đó là yêu cầu của chính Ngô Đình Nhu.

Sau lễ Giáng sinh năm 1960 bỗng có mấy ngày tạnh ráo. Bầu trời nhẹ nhõm hơn với những khoảng xanh thẫm và những đám mây chuyển động. Thời tiết khô và lạnh.

Đột ngột có tin giám mục Lê ra Huế và muốn gặp Hai Long. Sao cha Lê lại ra đi vào dịp này? Được cha tới thăm vào những ngày này là một ân sủng đặc biệt của vị chủ chăn dành cho con chiên ngoan đạo. Hai Long cảm thấy quan hệ giữa cha với mình đã chuyển qua một thời kỳ mới. Nhưng anh cũng nghĩ chắc có chuyện gì gấp nên cha mới phải tới Huế trong lúc thời tiết đang lạnh giá.

Hai Long hôn tay giám mục, và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc cha đã dành cho mình một vinh dự hiếm có. Cha Lê nhìn anh bỗng cặp mắt lấp lánh chứa đựng những suy nghĩ thâm trầm, nụ cười bao dung, thương mến nở trên môi.

Sau vài lời hàn huyên, Hai Long báo cáo với cha Lê những diễn biến mới trong tâm tư Ngô Đình Cẩn từ ngày xảy ra cuộc đảo chính. Cha ngồi lắng nghe, nét mặt không đổi, tỏ ra đã đoán biết mọi chuyện. Chỉ tới lúc Hai Long nói Ngô Đình Cẩn muốn liên kết lực lượng giáo khu Phát Diệm với lực lượng của Cẩn ở miền Trung, cha Lê mới đưa mắt nhìn quanh, rồi nói:

- Bây giờ thuyền sắp đắm, ông Út mới nghĩ đến ta ư? Mới biết rằng ta cũng có lực lượng ư?

- Thưa Đức cha, Đức cha tiên tri mọi việc, những gì xảy ra, Đức cha đều nói trước, ông Út rất phục.

Với vẻ đắc chí, cha Lê kể lại cho Hai Long nghe vụ đảo chính ngày 11 tháng 11 từ khi nhen nhóm tới lúc nổ tung.

Hai Long hỏi:

- Thưa Đức cha, Mỹ đứng sau vụ này sao lại chịu để cho đảo chính bị dập tắt quá nhanh chóng?

- Cha chưa nói hết với anh. Tổng thống còn đứng được vì người Mỹ chưa chủ trương phế bỏ, họ chưa tìm được con bài nào ra hồn nên phải tiếp tục dùng ông Diệm. CIA được chỉ thị làm fausse manoeuvre[1], tổ chức đảo chính giả đề cảnh cáo ông Diệm, buộc ông phải mở rộng thành phần chính phủ quốc gia cho phe đối lập. Họ muốn tăng cường sức chống Cộng. Mới làm chừng ấy thôi. Người Mỹ chỉ cần trước mắt tách ông Nhu ra khỏi Phủ tổng thống. Người Pháp và những người thân Pháp căm giận cả Mỹ lẫn ông Diệm và ông Nhu, định nhân cơ hội này thúc đẩy quá trình đảo chính, lật luôn cả hai người. Các đảng phái quốc gia cũng bám theo ông Phan Quang Đán toan tính chuyện có lợi cho phe nhóm. Nhưng tất cả bọn họ đều không biết mọi việc do CIA sắp đặt hết. Khi CIA lật ngược thế cờ thì cả cánh đảo chính bị dập ngay, trừ mấy người trốn thoát sang Nam Vang, tất cả đều bị bắt. Đó là thực chất của vụ 11 tháng 11.

Vẻ mặt đắc chí của cha Lê chuyển thành đăm chiêu:

- Vụ này cũng gây những chuyện phức tạp cho giáo hội. Cha Lộc và một số cha gốc Nam đã bị bắt. Phía Phát Diệm ta, cha Hoàng và cha Lê Quang Oánh đang bị theo dõi.

- Con tin rằng, ông Nhu chưa đụng đến Phát Diệm ta. Qua ông Cẩn, con biết cả gia đình họ Ngô đều rất kính nể uy tín của Đức cha.

- Con nói đúng! - Cha Lê mỉm cười - Họ đang muốn cầu hòa. Vừa rồi họ đã cử tướng Phạm Xuân Chiểu làm sứ giả mang tặng vật quý của tổng thống đến chúc mừng cha nhân dịp lễ Giáng sinh. Trong tờ thiếp tổng thống viết, đập tan chính biến vừa rồi là "một thắng lợi của Phát Diệm ta"! Họ đã hiểu họ đang ngồi trên lửa. Ông Diệm và ông Nhu đều thực sự dao dộng vì các cơ quan an ninh của ông Nhu không biết gì về cuộc đảo chính. Cả hai người đều rất căm giận Mỹ. Các ông đang cho người chạy khắp nơi tìm sự ủng hộ. Người ta đang gõ cửa Tòa thánh Vatican ở Sài Gòn... Nguy cơ thứ năm mà con chưa trình bày trong tờ trình bữa trước, giờ đang nổi lên. Cộng sản đã hoạt động nhiều từ mấy năm rồi. Đây chỉ là thời cơ để họ đưa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam công khai xuất hiện. Biểu tình, chống đối lan tràn khắp nơi. Lực lượng vũ trang cộng sản cũng hoạt động mạnh... Khó khăn tứ bề... Không chỉ Cẩn, mà Nhu, Diệm lúc này, ông nào cũng cần đến ta. Ta có giá của ta! Không phải họ cứ chìa tay ra là ta vội vàng nắm lấy.

Hai Long băn khoăn:

- Ông Cẩn càng tin cậy, tha thiết giữ con lại Huế bao nhiêu, thì ông Nhu càng muốn lôi kéo con về Sài Gòn bấy nhiêu. Con chưa biết xử trí cách nào cho phải phép?

"Phải phép" là hai tiếng mà cha hay dùng.

Cha Lê xoa tay, nói rất ngọt:

- Phải làm đẹp lòng người ta chứ! Mà làm hài lòng cả hai mới là thủy chung như nhất chớ! Người ta ai cũng như ai, muốn điều gì thì chỉ thích được điều đấy.

Cha Lê nhìn Hai Long với cặp mắt ý nhị và nụ cười nhếch môi.

- Con định cứ ở lại Huế theo lời khuyến dụ của Đức cha lần trước? - Hai Long nói.

Cha Lê xua tay:

- Cũng tới lúc ta phải tính việc của ta chớ! Tình hình còn biến chuyển nhiều. Ông Nhu sẽ chẳng yên đâu! Cũng phải liệu mà trở về Sài Gòn sơm sớm, mới kịp tạo nên thời thế, chẳng lẽ chịu làm thầy dòng ở cố đô này sao? Cha Hoàng có ý mong anh.

Hai Long hiểu rằng cha Lê không phải chỉ công nhận mình, mà những ngày sắp tới còn ủy thác cho mình những việc quan trọng.

- Mình cứ nói là mình có về Sài Gòn thì mới phò trợ cho "người ta" được hữu hiệu, kịp thời, hàng tháng cứ cho tàu bay vào đón mình ra.

Hai Long cúi đầu tỏ ra đã hiểu ý.

- Cha ra Huế chuyến này gặp anh chỉ có bấy nhiêu lời thôi.

- Ý cha là ý Chúa Trời, con nguyện làm đẹp ý Chúa.

Bộ mặt khổ hạnh của cha Lê bỗng bừng lên rạng rỡ.
 
2.

Hai Long ở nhà thờ Françisco về Tòa Khâm chờ cả buổi sáng không thấy Cẩn gọi. Anh không hiểu vì sao lại có sự chậm trễ so với lần trước.

Buổi chiều, Lê Khắc Duyệt mới phóng xe đến mời Hai Long sang gặp ông cố vấn.

Tòa nhà của Cẩn ở Phú Cam được canh gác cẩn mật hơn mọi ngày. Cảnh sát mặc thường phục, súng ngắn giấu trong người, mật vụ rải khắp chung quanh. Hai Long đoán ở đây hẳn có một cuộc họp quan trọng.

Ông Cậu quần chùng áo dài nghiêm chỉnh, lại đội thêm cả chiếc khăn xếp, đang đi dạo trong sân, vẻ mặt đăm chiêu, thấy Hai Long y không vồ vập nôn nóng hỏi chuyện gặp cha như lần trước. Y cùng đi với anh vào nhà và nói nhỏ:

- Ông Nhu mới ở Sài Gòn ra. Ông đòi gặp anh ngay. Anh liệu kế hoãn binh để ở lại Huế. Ông Nhu đã gặp cha Lê ở sân bay Phú Bài. Chuyện anh gặp cha, ta sẽ nói sau.

- Dạ... Việc tôi ở lại đây như tôi đã bàn với cậu Út, cậu cũng sẽ nói như vậy.

Cẩn gật dầu nhưng mặt vẫn khó đăm đăm. Chắc hắn ngại không nói.

- Anh ngồi một lát chờ ông Nhu. Ông vô vấn an cụ cố.

Cẩn nói rồi quay ra.

Chỉ còn mình Hai Long ở lại phòng khách.

Anh chọn chiếc ghế quay mặt về phía ngôi nhà cụ cố để có thể nhìn ngay thấy Nhu khi y từ đó đi ra.

Hai Long cảm thấy bàng hoàng. Ngày Chúa hài đồng ra đời trên máng cỏ năm nay là một ngày kỳ lạ! Cùng một lúc, anh đạt tới cả hai mục tiêu. Mục tiêu sau còn bội phần quan trọng hơn mục tiêu trước. Đây là cái đích mà anh đã nhắm nhiều năm nay, nhưng chưa lần nào đến được gần. Chính Nhu chứ không phải Diệm, là người cấu trúc quyết định mọi đường lối, chính sách của chính quyền ở miền Nam. Nhu là "bộ não của chế độ". Y là cha đẻ của cái thuyết hổ lốn "cần lao - nhân vị". Nhu là lãnh tụ của đảng Cần lao - Nhân vị. Người ta chê Nhu kiêu ngạo, sợ vợ. Nhưng cũng nhiều người khen Nhu có học, thông minh, sắc sảo. Nhu còn nổi tiếng là người có bản lĩnh chiến lược, chuyên dùng những đòn hiểm độc... Chạm trán với Cẩn là đụng đầu với hung thần. Nhưng chạm trán với Nhu là đụng đầu với tử thần. Anh đã chế ngự được hung thần, nhưng với tử thần thì sao? Anh cảm thấy mình đơn thương độc mã.

Gió chiều đông từ phía sông An Cựu thổi về lùa vào ngôi nhà họ Ngô trầm lặng mênh mông như một âm cung. Hơi lạnh thấm vào d.a thịt, Hai Long như người đã dốc hết sức lực leo lên một đỉnh tháp cao, đến lúc dừng lại, nhìn xuống. Anh cảm thấy ngợp vì tình thế chênh vênh của mình.

Tại sao Nhu lại phải ra tận Huế gặp mình? Cha Lê đã nói chế độ Diệm đang lung lay, Diệm và Nhu đều dao động trước quá nhiều mâu thuẫn nan giải. Riêng với Nhu càng gay gắt, âm mưu của Mỹ lúc này trực tiếp nhằm vào Nhu, chúng muốn gạt Nhu để tách Nhu khỏi Diệm. Nhu muốn đi tìm ánh sáng trong đường hầm ư? Nhu muốn tìm hiểu thêm về phía đối lập mà y cho rằng anh có nhiều nguồn tin? Nhu muốn dùng Hai Long làm trung gian hòa giải với cha Lê ư? Nhu muốn sử dụng vai trò của Hai Long trong cánh đối lập ư?... Hay là vì tất cả những lẽ đó...?

Gặp y vào thời điểm này rất có lợi cho mình. Mình đã tạo cho mình một cái thế - mặc dù đây chỉ là thế mượn - để đối thoại với y. Mình hoàn toàn chủ động vì đã có đủ thời giờ chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ. Còn Nhu đang ở thế kẻ phải đi tìm mình, tâm thần y chắc vẫn còn chưa ổn định sau cuộc đảo chính, y sẽ dễ bộc lộ những sơ hở... Nghĩ như vậy, đầu óc anh trở lại bình tĩnh và còn cảm thấy phấn chấn.

Y kia rồi!... Một người từ căn nhà cụ cố đi ra. Khác hẳn với Diệm và Cẩn, y có tầm vóc cao lớn. Y mặc một bộ đồ len sẫm màu, chiếc áo len cổ lọ kéo lên tận mang tai. Nhu đi lao đầu về phía trước, hai bàn tay để giáp ngực, những ngón tay đan vào nhau. Thoạt trông y như đang chống với cái lạnh từ luồng gió ngoài sông thổi về. Nhưng anh lại thấy hai bàn tay Nhu rời nhau, bàn tay phải nắm chắc lại, đập vào lòng bàn tay trái. Anh biết Nhu đang bận tâm suy nghĩ và trong óc y vừa chợt nảy ra một điều gì.

Hai Long vội đứng lên trong khi Nhu chưa kịp nhìn thấy anh. Anh cần phải chuẩn bị cho mình một tư thế trong những giây phút tiếp xúc đầu tiên. Anh chắp hai tay sau lưng ung dung đi bách bộ về phía cuối gian nhà. Anh tính toán khi Nhu tới cửa phòng khách thì chỉ trông thấy phía lưng anh, mình đang khoan thai dạo bước như một người thân thuộc trong gia đình. Khi Nhu bước vào phòng khách thì anh vừa đi đến cuối nhà quay lại. Anh sẽ có thời giờ trực tiếp quan sát thái độ của Nhu. Mình cần phải rất tự nhiên, ứng phó một cách bình tĩnh, linh hoạt như mọt người đại diện có thẩm quyền của cha Lê.

Từ xa, Nhu đã nhìn thấy anh. Y rảo bước tiến lại như muốn nhanh chóng thu ngắn khoảng cách. Vóc dáng cao lớn, lanh lẹn. Mái tóc đen dày làm che cái đầu đã to càng to thêm. Bộ mặt vuông vức đã mang dấu nhiều nếp nhăn suy tư, hơi bị bóp lại phía dưới vì cái cằm nhỏ và nhọn. Dưới cặp lông mày nằm ngang nổi lên một cặp mắt rất sắc.

Cảm giác đầu tiên của anh, Nhu không có dáng dấp của một nhà lãnh đạo quốc gia. Y giống như một tài tử nước ngoài, xuất hiện trên phim ảnh với vai trò của một nhà quý tộc châu Âu ra đón người thân thuộc đẳng cấp của mình. Và Hai Long cảm thấy với tầm vóc bé nhỏ, bộ quần áo sờn cũ, cái áo len bạc màu, mình là một nhà quý tộc đã sa sút, đang cố làm sao để biểu lộ sự tự trọng...
 
Truyện trinh thám, hình sự » Ông cố vấn - Hồ sơ một điệp viên
Xem với kích thước font khác: 12px 14px 16px 18px 20px 24px 26px 30px
Share on ketnooiShare on facebook
mail.png



ÔNG CỐ VẤN - HỒ SƠ MỘT ĐIỆP VIÊNHữu Mai
BỘ NÃO CỦA CHẾ ĐỘ

1.

Mùa mưa kéo dài suốt những tháng cuối năm ở miền Trung. Lúc nào cũng nghe tiếng mưa rơi. Khi rỉ rả, thầm thì. Khi ầm ầm, nạt nộ. Tiếng mưa rơi đều đều buồn rứt ruột. Không gian chỉ còn là một tấm màn trắng đục. Mọi vật đều như tan thành nước. Mưa đem theo cái lạnh về. Cuối năm trời càng rét.

Cái lạnh làm cho Hai Long nhiều lúc nhớ miền Bắc da diết. Miền Bắc lúc này rất gần mà cũng rất xa. Đã 6 năm anh xa quê hương, một làng quê tỉnh Thái Bình. Nhớ ngôi chùa mái ngói phủ rêu, nhớ cái vọng, cái miễu ở đầu làng, nhớ cây đa cổ thụ mọc giữa cánh đồng. Nhớ những buồi chăn trâu, thả diều ngày còn nhỏ. Dưới con mắt của những người ở quê hương, anh đã trở thành một kẻ phản bội. Mọi người chỉ sẽ hiểu anh nếu anh có ngày chiến thắng trở về. Ngày ấy có tới với anh không? Không ai dám nói chắc điều đó. Nhưng anh bao giờ cũng có một niềm tin. Niềm tin đó bắt đầu từ ngài Hà Nội đang chìm trong bóng đen của nạn đói và dịch bệnh, bỗng đỏ rực lên vì một biển cờ. Ngọn lửa của Cách mạng tháng Tám đã xua tan bóng tối, xua tan chết chóc, mở ra một cuộc đời mới, con người đứng lên làm chủ vận mệnh của mình. Cậu học sinh mới lớn là anh, đã hòa ngay vào với cách mạng, với kháng chiến, và đã vượt qua những thử thách trong những năm quê hương anh bị cày đi bừa lại bởi hàng chục trận càn. Anh không bao giờ hoài nghi ở ngày mai chiến thắng. Vì cuộc cách mạng này có một ngôi sao chói lọi chỉ đường, đó là Đảng với những tinh hoa kết tụ ở lãnh tụ Hồ Chí Minh. Niềm tin đó ngày một thêm vững chắc qua những chiến thắng mỗi năm càng lớn, qua sự trưởng thành nhanh chóng của quân đội, qua sự cuồng bạo trở dần thành hốt hoảng của kẻ thù. Hình ảnh Bác Hồ trở thành thiêng liêng. Đó là ánh hào quang bóc trần bộ mặt thực của những kẻ mượn màu cách mạng dân tộc ở đây. Triều đình họ Ngô cùng với bộ máy cường quyền ghê gớm của nó, không sao sánh được với Bác và cả một dân tộc đứng sau lưng Người. Người đang chỉ dạo cách mạng miền Nam. Cách mạng miền Nam có Người không thể nào không chiến thắng.

Cái nhớ về miền Bắc xua đi những nỗi lo, xua đi cái buồn của tiếng mưa rơi rả rích những đêm dài gặm nhấm tâm hồn. Ôi, ước gì lúc này lại được nghe tiếng nói từ Hà Nội, một bản tin, một bài thơ, một câu hát... Từ ngày vào đây, anh dần mất đi nguồn tiếp sức đó, đêm đêm áp chiếc máy thu thanh bán dẫn nhỏ vào tai lắng nghe những buổi phát thanh của đài Tiếng nói Việt Nam. Nhiều năm nay, đối với anh, đó là một nguồn dinh dưỡng về tinh thần. Thế hệ này do cách mạng tạo nên, với những con người đã chiến thắng quân Pháp, đã làm nên những bài hát bài thơ như vậy, không thể nào không tiếp tục chiến thắng. Những cảnh xa hoa, tráng lệ ở Paris, ở Sài Gòn, cảnh thanh bình, êm đẹp ở đây, không thể nào đánh đổi được với những gì mà anh đã có.

Từ khi mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam rõ ràng đã chuyển qua một thời kỳ mới. Mặc dù địch cố bưng bít, nhưng qua báo chí hàng ngày của chúng, vẫn thấy được điều đó. Nội bộ ngụy quyền rối ren, lục đục là thời cơ thuận lợi cho ta. Tình hình này đang thôi thúc anh tìm mọi cách đề trở về. Anh không thể cứ nằm đây trong khi tiếng súng chiến đấu đã nổi dậy khắp toàn miền.

Cẩn đã coi Hai Long là "Thánh Phê-rô" cùng đi cặp đôi với mình. Nhưng Huế và Phú Cam không phải là mục tiêu của anh. Trong tình hình chính cuộc ở miền Nam, Cẩn tuy nhiều tham vọng, nhưng chỉ giữ một vai trò hạn chế. Cẩn không có khả năng đi xa hơn. Và ở đây, Hai Long rất khó liên hệ với tổ chức. Cơ quan chỉ đạo của anh ở Sài Gòn. Chỉ về đó anh mới có thể tính đến việc bắt lại liên lạc. Cẩn rời Huế sớm. Nhưng làm cách nào êm đẹp để thoát khỏi vòng tay của Cẩn đang cố níu lấy anh? Anh đang chờ và đang tạo ra những áp lực mới từ phía Ngô Đình Nhu ở Sài Gòn. Việc anh trở về Sài Gòn sẽ rất có ý nghĩa nếu đó là yêu cầu của chính Ngô Đình Nhu.

Sau lễ Giáng sinh năm 1960 bỗng có mấy ngày tạnh ráo. Bầu trời nhẹ nhõm hơn với những khoảng xanh thẫm và những đám mây chuyển động. Thời tiết khô và lạnh.

Đột ngột có tin giám mục Lê ra Huế và muốn gặp Hai Long. Sao cha Lê lại ra đi vào dịp này? Được cha tới thăm vào những ngày này là một ân sủng đặc biệt của vị chủ chăn dành cho con chiên ngoan đạo. Hai Long cảm thấy quan hệ giữa cha với mình đã chuyển qua một thời kỳ mới. Nhưng anh cũng nghĩ chắc có chuyện gì gấp nên cha mới phải tới Huế trong lúc thời tiết đang lạnh giá.

Hai Long hôn tay giám mục, và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc cha đã dành cho mình một vinh dự hiếm có. Cha Lê nhìn anh bỗng cặp mắt lấp lánh chứa đựng những suy nghĩ thâm trầm, nụ cười bao dung, thương mến nở trên môi.

Sau vài lời hàn huyên, Hai Long báo cáo với cha Lê những diễn biến mới trong tâm tư Ngô Đình Cẩn từ ngày xảy ra cuộc đảo chính. Cha ngồi lắng nghe, nét mặt không đổi, tỏ ra đã đoán biết mọi chuyện. Chỉ tới lúc Hai Long nói Ngô Đình Cẩn muốn liên kết lực lượng giáo khu Phát Diệm với lực lượng của Cẩn ở miền Trung, cha Lê mới đưa mắt nhìn quanh, rồi nói:

- Bây giờ thuyền sắp đắm, ông Út mới nghĩ đến ta ư? Mới biết rằng ta cũng có lực lượng ư?

- Thưa Đức cha, Đức cha tiên tri mọi việc, những gì xảy ra, Đức cha đều nói trước, ông Út rất phục.

Với vẻ đắc chí, cha Lê kể lại cho Hai Long nghe vụ đảo chính ngày 11 tháng 11 từ khi nhen nhóm tới lúc nổ tung.

Hai Long hỏi:

- Thưa Đức cha, Mỹ đứng sau vụ này sao lại chịu để cho đảo chính bị dập tắt quá nhanh chóng?

- Cha chưa nói hết với anh. Tổng thống còn đứng được vì người Mỹ chưa chủ trương phế bỏ, họ chưa tìm được con bài nào ra hồn nên phải tiếp tục dùng ông Diệm. CIA được chỉ thị làm fausse manoeuvre[1], tổ chức đảo chính giả đề cảnh cáo ông Diệm, buộc ông phải mở rộng thành phần chính phủ quốc gia cho phe đối lập. Họ muốn tăng cường sức chống Cộng. Mới làm chừng ấy thôi. Người Mỹ chỉ cần trước mắt tách ông Nhu ra khỏi Phủ tổng thống. Người Pháp và những người thân Pháp căm giận cả Mỹ lẫn ông Diệm và ông Nhu, định nhân cơ hội này thúc đẩy quá trình đảo chính, lật luôn cả hai người. Các đảng phái quốc gia cũng bám theo ông Phan Quang Đán toan tính chuyện có lợi cho phe nhóm. Nhưng tất cả bọn họ đều không biết mọi việc do CIA sắp đặt hết. Khi CIA lật ngược thế cờ thì cả cánh đảo chính bị dập ngay, trừ mấy người trốn thoát sang Nam Vang, tất cả đều bị bắt. Đó là thực chất của vụ 11 tháng 11.

Vẻ mặt đắc chí của cha Lê chuyển thành đăm chiêu:

- Vụ này cũng gây những chuyện phức tạp cho giáo hội. Cha Lộc và một số cha gốc Nam đã bị bắt. Phía Phát Diệm ta, cha Hoàng và cha Lê Quang Oánh đang bị theo dõi.

- Con tin rằng, ông Nhu chưa đụng đến Phát Diệm ta. Qua ông Cẩn, con biết cả gia đình họ Ngô đều rất kính nể uy tín của Đức cha.

- Con nói đúng! - Cha Lê mỉm cười - Họ đang muốn cầu hòa. Vừa rồi họ đã cử tướng Phạm Xuân Chiểu làm sứ giả mang tặng vật quý của tổng thống đến chúc mừng cha nhân dịp lễ Giáng sinh. Trong tờ thiếp tổng thống viết, đập tan chính biến vừa rồi là "một thắng lợi của Phát Diệm ta"! Họ đã hiểu họ đang ngồi trên lửa. Ông Diệm và ông Nhu đều thực sự dao dộng vì các cơ quan an ninh của ông Nhu không biết gì về cuộc đảo chính. Cả hai người đều rất căm giận Mỹ. Các ông đang cho người chạy khắp nơi tìm sự ủng hộ. Người ta đang gõ cửa Tòa thánh Vatican ở Sài Gòn... Nguy cơ thứ năm mà con chưa trình bày trong tờ trình bữa trước, giờ đang nổi lên. Cộng sản đã hoạt động nhiều từ mấy năm rồi. Đây chỉ là thời cơ để họ đưa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam công khai xuất hiện. Biểu tình, chống đối lan tràn khắp nơi. Lực lượng vũ trang cộng sản cũng hoạt động mạnh... Khó khăn tứ bề... Không chỉ Cẩn, mà Nhu, Diệm lúc này, ông nào cũng cần đến ta. Ta có giá của ta! Không phải họ cứ chìa tay ra là ta vội vàng nắm lấy.

Hai Long băn khoăn:

- Ông Cẩn càng tin cậy, tha thiết giữ con lại Huế bao nhiêu, thì ông Nhu càng muốn lôi kéo con về Sài Gòn bấy nhiêu. Con chưa biết xử trí cách nào cho phải phép?

"Phải phép" là hai tiếng mà cha hay dùng.

Cha Lê xoa tay, nói rất ngọt:

- Phải làm đẹp lòng người ta chứ! Mà làm hài lòng cả hai mới là thủy chung như nhất chớ! Người ta ai cũng như ai, muốn điều gì thì chỉ thích được điều đấy.

Cha Lê nhìn Hai Long với cặp mắt ý nhị và nụ cười nhếch môi.

- Con định cứ ở lại Huế theo lời khuyến dụ của Đức cha lần trước? - Hai Long nói.

Cha Lê xua tay:

- Cũng tới lúc ta phải tính việc của ta chớ! Tình hình còn biến chuyển nhiều. Ông Nhu sẽ chẳng yên đâu! Cũng phải liệu mà trở về Sài Gòn sơm sớm, mới kịp tạo nên thời thế, chẳng lẽ chịu làm thầy dòng ở cố đô này sao? Cha Hoàng có ý mong anh.

Hai Long hiểu rằng cha Lê không phải chỉ công nhận mình, mà những ngày sắp tới còn ủy thác cho mình những việc quan trọng.

- Mình cứ nói là mình có về Sài Gòn thì mới phò trợ cho "người ta" được hữu hiệu, kịp thời, hàng tháng cứ cho tàu bay vào đón mình ra.

Hai Long cúi đầu tỏ ra đã hiểu ý.

- Cha ra Huế chuyến này gặp anh chỉ có bấy nhiêu lời thôi.

- Ý cha là ý Chúa Trời, con nguyện làm đẹp ý Chúa.

Bộ mặt khổ hạnh của cha Lê bỗng bừng lên rạng rỡ.


2.

Hai Long ở nhà thờ Françisco về Tòa Khâm chờ cả buổi sáng không thấy Cẩn gọi. Anh không hiểu vì sao lại có sự chậm trễ so với lần trước.

Buổi chiều, Lê Khắc Duyệt mới phóng xe đến mời Hai Long sang gặp ông cố vấn.

Tòa nhà của Cẩn ở Phú Cam được canh gác cẩn mật hơn mọi ngày. Cảnh sát mặc thường phục, súng ngắn giấu trong người, mật vụ rải khắp chung quanh. Hai Long đoán ở đây hẳn có một cuộc họp quan trọng.

Ông Cậu quần chùng áo dài nghiêm chỉnh, lại đội thêm cả chiếc khăn xếp, đang đi dạo trong sân, vẻ mặt đăm chiêu, thấy Hai Long y không vồ vập nôn nóng hỏi chuyện gặp cha như lần trước. Y cùng đi với anh vào nhà và nói nhỏ:

- Ông Nhu mới ở Sài Gòn ra. Ông đòi gặp anh ngay. Anh liệu kế hoãn binh để ở lại Huế. Ông Nhu đã gặp cha Lê ở sân bay Phú Bài. Chuyện anh gặp cha, ta sẽ nói sau.

- Dạ... Việc tôi ở lại đây như tôi đã bàn với cậu Út, cậu cũng sẽ nói như vậy.

Cẩn gật dầu nhưng mặt vẫn khó đăm đăm. Chắc hắn ngại không nói.

- Anh ngồi một lát chờ ông Nhu. Ông vô vấn an cụ cố.

Cẩn nói rồi quay ra.

Chỉ còn mình Hai Long ở lại phòng khách.

Anh chọn chiếc ghế quay mặt về phía ngôi nhà cụ cố để có thể nhìn ngay thấy Nhu khi y từ đó đi ra.

Hai Long cảm thấy bàng hoàng. Ngày Chúa hài đồng ra đời trên máng cỏ năm nay là một ngày kỳ lạ! Cùng một lúc, anh đạt tới cả hai mục tiêu. Mục tiêu sau còn bội phần quan trọng hơn mục tiêu trước. Đây là cái đích mà anh đã nhắm nhiều năm nay, nhưng chưa lần nào đến được gần. Chính Nhu chứ không phải Diệm, là người cấu trúc quyết định mọi đường lối, chính sách của chính quyền ở miền Nam. Nhu là "bộ não của chế độ". Y là cha đẻ của cái thuyết hổ lốn "cần lao - nhân vị". Nhu là lãnh tụ của đảng Cần lao - Nhân vị. Người ta chê Nhu kiêu ngạo, sợ vợ. Nhưng cũng nhiều người khen Nhu có học, thông minh, sắc sảo. Nhu còn nổi tiếng là người có bản lĩnh chiến lược, chuyên dùng những đòn hiểm độc... Chạm trán với Cẩn là đụng đầu với hung thần. Nhưng chạm trán với Nhu là đụng đầu với tử thần. Anh đã chế ngự được hung thần, nhưng với tử thần thì sao? Anh cảm thấy mình đơn thương độc mã.

Gió chiều đông từ phía sông An Cựu thổi về lùa vào ngôi nhà họ Ngô trầm lặng mênh mông như một âm cung. Hơi lạnh thấm vào d.a thịt, Hai Long như người đã dốc hết sức lực leo lên một đỉnh tháp cao, đến lúc dừng lại, nhìn xuống. Anh cảm thấy ngợp vì tình thế chênh vênh của mình.

Tại sao Nhu lại phải ra tận Huế gặp mình? Cha Lê đã nói chế độ Diệm đang lung lay, Diệm và Nhu đều dao động trước quá nhiều mâu thuẫn nan giải. Riêng với Nhu càng gay gắt, âm mưu của Mỹ lúc này trực tiếp nhằm vào Nhu, chúng muốn gạt Nhu để tách Nhu khỏi Diệm. Nhu muốn đi tìm ánh sáng trong đường hầm ư? Nhu muốn tìm hiểu thêm về phía đối lập mà y cho rằng anh có nhiều nguồn tin? Nhu muốn dùng Hai Long làm trung gian hòa giải với cha Lê ư? Nhu muốn sử dụng vai trò của Hai Long trong cánh đối lập ư?... Hay là vì tất cả những lẽ đó...?

Gặp y vào thời điểm này rất có lợi cho mình. Mình đã tạo cho mình một cái thế - mặc dù đây chỉ là thế mượn - để đối thoại với y. Mình hoàn toàn chủ động vì đã có đủ thời giờ chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ. Còn Nhu đang ở thế kẻ phải đi tìm mình, tâm thần y chắc vẫn còn chưa ổn định sau cuộc đảo chính, y sẽ dễ bộc lộ những sơ hở... Nghĩ như vậy, đầu óc anh trở lại bình tĩnh và còn cảm thấy phấn chấn.

Y kia rồi!... Một người từ căn nhà cụ cố đi ra. Khác hẳn với Diệm và Cẩn, y có tầm vóc cao lớn. Y mặc một bộ đồ len sẫm màu, chiếc áo len cổ lọ kéo lên tận mang tai. Nhu đi lao đầu về phía trước, hai bàn tay để giáp ngực, những ngón tay đan vào nhau. Thoạt trông y như đang chống với cái lạnh từ luồng gió ngoài sông thổi về. Nhưng anh lại thấy hai bàn tay Nhu rời nhau, bàn tay phải nắm chắc lại, đập vào lòng bàn tay trái. Anh biết Nhu đang bận tâm suy nghĩ và trong óc y vừa chợt nảy ra một điều gì.

Hai Long vội đứng lên trong khi Nhu chưa kịp nhìn thấy anh. Anh cần phải chuẩn bị cho mình một tư thế trong những giây phút tiếp xúc đầu tiên. Anh chắp hai tay sau lưng ung dung đi bách bộ về phía cuối gian nhà. Anh tính toán khi Nhu tới cửa phòng khách thì chỉ trông thấy phía lưng anh, mình đang khoan thai dạo bước như một người thân thuộc trong gia đình. Khi Nhu bước vào phòng khách thì anh vừa đi đến cuối nhà quay lại. Anh sẽ có thời giờ trực tiếp quan sát thái độ của Nhu. Mình cần phải rất tự nhiên, ứng phó một cách bình tĩnh, linh hoạt như mọt người đại diện có thẩm quyền của cha Lê.

Từ xa, Nhu đã nhìn thấy anh. Y rảo bước tiến lại như muốn nhanh chóng thu ngắn khoảng cách. Vóc dáng cao lớn, lanh lẹn. Mái tóc đen dày làm che cái đầu đã to càng to thêm. Bộ mặt vuông vức đã mang dấu nhiều nếp nhăn suy tư, hơi bị bóp lại phía dưới vì cái cằm nhỏ và nhọn. Dưới cặp lông mày nằm ngang nổi lên một cặp mắt rất sắc.

Cảm giác đầu tiên của anh, Nhu không có dáng dấp của một nhà lãnh đạo quốc gia. Y giống như một tài tử nước ngoài, xuất hiện trên phim ảnh với vai trò của một nhà quý tộc châu Âu ra đón người thân thuộc đẳng cấp của mình. Và Hai Long cảm thấy với tầm vóc bé nhỏ, bộ quần áo sờn cũ, cái áo len bạc màu, mình là một nhà quý tộc đã sa sút, đang cố làm sao để biểu lộ sự tự trọng...
 
4.

Hai Long có khoảng nửa giờ sau bữa cơm đi dạo quanh sân trước nhà từ đường của họ Ngô để suy nghĩ về cuộc trao đổi ban chiều, và chuẩn bị cho cuộc gặp buổi tối.

Cuối cùng, anh đã hiểu vì sao Nhu rất vồn vã khi mới gặp anh, nhưng sau đó đã trở thành giận dữ. Đó là do hậu quả của cuộc tiếp xúc lạnh nhạt giữa y và cha Lê sáng nay tại sân bay. Y đã trút cả sự giận dữ không riêng với cha Lê mà cả với nhiều cha cố Phát Diệm xuống đầu anh. Anh đã nhận thấy những nhược điểm của mình trong buồi đối đầu lần thứ nhất với y. Anh còn chưa chế ngự được sự xúc động trong khi tiếp xúc. Những chuyển biển quá mau lẹ trong suy nghĩ và trong thái độ của đối tượng có những lúc khiến anh bối rối. Anh chưa kịp thời phát hiện được những nhược điểm của y, tâm trạng của y, y đang cần gì?... Qua vài giờ trao đổi, có thể thấy Nhu là một con người đã quá quen với quyền lực, và quyền lực đã tăng thêm sự tự tin của y. Y có kiến thức, nhạy cảm và thông minh. Nhưng y cũng đã để lộ rõ nhược điểm về sự am hiểu tình hình thực tế chính trị ở miền Nam, tình hình thực tiễn chiến tranh ở Việt Nam (y chỉ hiểu qua sách vở và suy luận), và sự hiểu biết về con người. Đó là những cái anh có thể khai thác trong cuộc gặp gỡ tối nay. Cũng thấy rõ là y đang ở trong một trạng thái mất thăng bằng, y nổi nóng vì những chuyện không quan trọng... Mình phải cố làm cho y không thất vọng về chuyến đi, mình có thể đáp ứng một số yêu cầu hiện thời của y, y cần phải có mình. Nếu không là thất bại...

Trên bàn trà thiếu hai vật quen thuộc: hộp thuốc lá Cẩm Lệ và hộp khảm đựng trầu. Thế vào đó là một bao Camel và hai tách cà phê, nói lên cuộc chuyện trò sẽ kéo dài tới khuya.

Nhu xé bao thuốc lá thơm mời khách rồi rút trong túi ra một bao Bastos màu xanh. Nhu cười nói với Hai Long:

- Mình quen dùng thứ nặng này. Ở nhà bà Lệ Xuân chỉ cho hút một ngày đúng bốn điếu, bữa nay đã dùng hết nửa gói... Toi bật đầu đi. Thời giờ tối nay hoàn toàn thuộc về toi.

Nhu nói rất nhanh. Thái độ của y lúc nào cũng khẩn trương.

Hai Long giữ vẻ từ tốn vốn có của mình:

- Tôi xin trả lời những câu ông cố vấn đã nêu ra ban chiều. Trước hết, về thái độ của Đức cha với ông cố vấn. Thoạt nghe, tôi hơi ngỡ ngàng. Cha ra Huế với thiện chí đối với tổng thống với chế độ. Nhưng tại sao khi gặp ông cố vấn, ngài vẫn tỏ ra lạnh nhạt? Thái độ này có liên quan đến cá tính của cha. Ông cố vấn chắc hiểu cha từ ngày ở Phát Diệm, ngài đã quen được những nhà lãnh đạo quốc gia đón mời. Ngài chờ Cụ Hồ cử người mời, mới tới Phủ Chủ tịch. Ngài không bao giờ tới dinh quốc trưởng Bảo Đại cũng như cao ủy Pháp ở Đông Dương. Chi có Bảo Đại, Pignon[5], De Lattre De Tassigny[6], Henri Navarre[7] tới yết kiến cha ở Phát Diệm. Bởi vì tính ngài rất tự cao tự đại. Ngài lo cho chế độ, ngài thương tổng thống nhưng không vào Phủ tổng thống là do tính nết của ngài. Ngoài ra, còn do vị trí của ngài ở chính trường miền Nam. Ngài mới nhắc: "Dù tổng thống ra thế nào, thì ngài và giáo hội vẫn còn!". Gần đây chắc tổng thống cũng nhận thấy điều đó, nên đã có một cử chỉ rất đẹp là gửi thiệp và tặng vật quý đến chúc mừng Đức cha nhân lễ Giáng sinh. Trong thiệp, tổng thống còn viết thắng lợi vừa qua là "thắng lợi của Phát Diệm ta". Ngài rất cảm dộng, chính ngài đã nói với tôi sáng nay.

Nhu gật gù, miệng cười nụ:

- Mình biết việc đó.

Hai Long thừa hiểu việc này do Nhu đạo diễn, nhưng cũng nhân đây vạch cho y một sơ xuất:

- Kể ra tổng thống cử một người khác đi gặp Đức cha thì hơn là tướng Phạm Xuân Chiểu. Ông Chiểu dù sao cũng gợi cho cha nghĩ đến thất bại trong việc dùng người.

Tướng Chiểu trước kia là người của cha Lê, sau khi lực lượng tự vệ Phát Diệm bị đàn áp, chạy sang quy thuận Diệm - Nhu.

Nụ cười của Nhu trở thành gượng gạo. Hai Long làm như không biết, thản nhiên nói tiếp:

- Cha ra Huế ngoài mục đích thăm tôi, còn muốn qua tôi báo cho tổng thống và ông cố vấn một số vấn đề trọng đại và khẩn trương. Ở cương vị của ngài, ngài luôn luôn phải thận trọng, tế nhị mới giành được sự tín nhiệm của cả Mỹ và Pháp, nếu không thì khó biết rõ họ muốn gì, họ đang làm gì với đất nước. Đối với vụ đảo chính vừa qua, cha quy trách nhiệm về phần tổng thống, vì ngài dã thông báo trước mà không có biện pháp ngăn ngừa. Các cơ quan an ninh của ta hoàn toàn không biết về việc Mỹ, Pháp sử dựng quân dù gây biến cố. Dân chúng càng dao động khi thấy binh chủng nhảy dù, con cưng của tổng thống, đã quay mũi súng chống tổng thống, họ sẽ đặt vấn đề tin tưởng đối với tổng thống...

Hai Long ngừng nói, nhìn Nhu chờ xem phản ứng. Nhu khuyến khích:

- Anh cứ nói tiếp, chớ có điều chi phải e ngại.

- Ông cố vấn có cái nhìn toàn cục chiến lược đối với tình hình đất nước hiện nay. Tôi rất tán đồng chiến lược chống chiến tranh du kích của ông cố vấn, đặc biệt là ông cố vấn đã rất coi trọng những kinh nghiệm chiến đấu của bản thân giáo dân ta ở Phát Diệm - Bùi Chu. Nhưng hiện nay, xét cho cùng thì nguy cơ cộng sản tuy là rất lớn, lớn nhất đó, nhưng hãy còn xa. Vì Cộng sản chỉ mới làm chủ được rừng núi và vùng nông thôn hẻo lánh, có phát triển lực lượng và chiếm đất theo chiến thuật "vết dầu loang" nhanh cách nào, cũng phải vài ba năm mới đủ lực lượng tiến vào thành thị, lật đổ chế độ cộng hòa ở Sài Gòn. Biến cố ấy không thể nào là biến cố bất ngờ! (Hai Long nhấn mạnh)! Đức cha chưa bận tâm nhiều đến nguy cơ cộng sản, vì còn lâu mới xảy ra, ta còn thời gian để lo liệu. Pháp và Mỹ chính là nguy cơ trước mắt. Vụ đảo chính vừa qua đã chứng tỏ rõ, Vương Văn Đông được Pháp chuẩn bị từ lâu, đã tổ chức lực lượng sẵn sàng, chờ Mỹ có hành động áp lực với tổng thống là "mượn gió bẻ măng", thừa cơ lật đổ tổng thống. Nếu Đông không nghe lời khuyến cáo của cố vấn Mỹ ở tại chỗ, để đại tá Khiêm kịp đưa viện binh từ Mỹ Tho lên cứu nguy cho tổng thống thì cục diện hôm nay sẽ ra thế nào?...

Nhu vẫn lặng thinh ngồi nghe, mắt không nhìn Hai Long, tay mân mê bao thuốc lá.

Hai Long ung dung nói tiếp:

- Còn về Mỹ thì sao? Theo ý Đức cha: Mỹ cần mảnh đất Nam Việt Nam này hơn chế độ cộng hòa cùng với nhân vật lãnh đạo chế độ hiện nay! Mỹ đã thật sự đưa Phan Quang Đán ra uy hiếp tổng thống. Mỹ đã có âm mưu muốn thay thế tổng thống. Đán thường xuyên liên lạc với đại sứ Mỹ Durbrow ở Sài Gòn, trong khi đó, em của Đán, Phan Huy Đức luôn luôn bám giám mục Nguyễn Văn Hiền. Biến cố 11 tháng 11 chứng minh rõ ràng chỉ trong khoảnh khắc, chế độ và tổng thống có thể bị lật đổ do bàn tay của Mỹ và Pháp, với lực lượng quân sự, chính trị ở ngay thủ đô Sài Gòn, nằm sẵn trong chế độ cộng hòa. Cộng sản với lực lượng quân sự nhỏ yếu hiện nay, dù có muốn lợi dụng tình hình chính trị khó khăn của ta, cũng không thể nhanh và kịp thời bằng Pháp được!

Nhu gật gù, xoa tay như sắp buột ra một lời đánh giá, nhưng y đã kịp ghìm lại, chuyển qua chuyện khác.

- Tiện đây, moi[8] trở lại bản tham luận của toi. Toi viết theo style acdémique[9]; nó trang trọng, khúc chiết, nhưng nội dung khập khiễng vả thiếu phần thực dụng. Có nhận định, suy luận còn phải có phần tổ chức, biện pháp nữa chứ? Tại sao toi không đứng hẳn về phía cha Lê hay đứng vào vị trí những người cầm quyền mà đưa ra ý kiến này, ý kiến khác ứng phó với tình hình? Nói nguy cơ trầm trọng mà không chịu lộ biện pháp giải quyết, thì khác nào gây áp lực với tổng thống?

Nhu vung tay nói tiếp:

- Phải quét sạch bọn xôi thịt gây rối loạn, phải chặn đứng Cộng sản, đề phòng Pháp, dè chừng Mỹ.

Hai Long gật đầu. Nhu tưởng anh tán đồng, nói tiếp:

- Cha Lê có vị trí đặc biệt hiếm có ở miền Nam, Ngài đi hàng hai, hàng ba, hàng tư. Ngài biết rộng, hiểu sâu nhiều vấn đề, nhiều người, nhiều nước. Sự hiểu biết của ngài thật quý giá đối với tổng thống. Anh làm cách nào hiểu hết được những suy nghĩ nhận xét của ngài rồi anh phân tích, tổng hợp tất cả để giúp tôi hiểu được ngài như anh hiểu. Cha bàn cách giải quyết thế nào, và riêng ý kiến anh ra sao, cũng thẳng thắn cho tôi biết để tôi rộng đường nghiên cứu đối sách... Tôi công nhận anh là người có nhiều khả năng phân tích... Anh hãy vận động, hối thúc cha lui với thăm tổng thống. Về phần tôi, sẽ tạo điều kiện để tổng thống gần cha hơn. Chúng ta không thể để tình trạng lạnh nhạt kéo dài giữa hai vị lãnh tụ. Người trong nhà ly tán, kẻ ngoài dòm ngó, xen lẫn nội bộ ta, can thiệp vào công việc nội trị, ngoại giao của ta.

Cái đích của buổi gặp gỡ đã đạt được.

Hai Long muốn nhân đây khoét thêm mâu thuẫn giữa Mỹ và Diệm - Nhu, nhưng lại e vội vàng.

Đúng lúc ấy, Nhu hỏi:

- Anh xem ý kiến Đức cha đối với Pháp, Mỹ hiện thời ra sao?

- Cha cho rằng Mỹ ủng hộ hoặc gây áp lực với tổng thống đều vì đường lối, chính sách của Mỹ đối với Việt Nam, vì quyền lợi của Mỹ, tuyệt nhiên không vì tổng thống. Nếu khi quyền lợi của họ bị trở ngại, họ sẽ không từ điều gì không làm để phá bỏ trở ngại. Đức cha thường căn dặn tôi: Người Mỹ theo chủ thuyết thực dụng, không theo thuyết "duy linh", nên họ coi trọng quyền lợi vật chất, xem nhẹ đạo đức tình nghĩa. Cái lý của họ là lý của kẻ mạnh. Họ trở mặt ngay với bất kể bè bạn, đồng minh. Roosevelt[10] dối với De Gaulle[11] là một ví dụ. De Gaulle đến nay vẫn còn mang hận. Trái lại, Pháp trọng tình nghĩa, đạo đức hon, đối xử có thủy có chung với những người đã hợp tác với họ. Họ vẫn không ngừng liên lạc và giúp đỡ Đức cha... Gần cha từ lâu, tôi cứ đinh ninh cha thân Pháp, xử lý theo quan điểm của Pháp. Nhưng biến cố 11 tháng 11 đã làm tôi tỉnh ngộ.

- Toi sửa soạn về Sài Gòn ngay! Giữ bí mật để tránh mọi quấy phá và chuẩn bị đương đầu...

Mỗi lần cậu Út đi ngang, Nhu lại chuyển sang nói bằng tiếng Pháp. Cậu Út đáp lại bằng những bước đi nặng trịch.

Một lần cậu Út đi khỏi, Nhu nói thì thầm:

- Toi lưu ý khi trao đổi với ông Cẩn, chỉ bàn bạc những vấn đề thuộc phạm vi địa phương miền Trung. Phải nhớ điều đó, ông Cẩn đôi khi nông cạn... Về phần các cha thì cha nào cũng ham chạp áp-phe. Toi nghiên cứu cho các ông ấy trúng một vài áp-phe thì ta nhờ cậy việc gì cũng xong. Mình sẽ bàn với ới ông Cẩn đưa toi về Sài Gòn sớm. Phải chạy đua với thời gian...

Hai Long hiểu thêm một lý do hối thúc Nhu phải đưa anh về sớm Sài Gòn vì y e ngại quan hệ mật thiết giữa anh với cậu Út.

- Ông Cẩn có nói cần toi ở lại đây để hoàn tất bản dự thảo kế hoạch chống đảo chính. Việc đó không thể làm ở đây. Moi sẽ cùng bàn bạc với toi khi toi đã về Sài Gòn.
 
5.

Cậu Út đích thân đứng coi người nhà trải đèn chăng mùng, xếp chăn cho anh và khách. Nhu đã nói với Cẩn để hai người ngủ cùng một phòng cho tiện trao đổi vì sớm hôm sau đã phải ra máy bay.

Hai Long ngỡ ngàng trước cảnh tượng này. Đêm qua anh còn nằm ở một góc nhà giam lạnh lẽo, trên tấm phản gỗ với chiếc chăn chiên. Tối nay, anh đã ngủ trong nhà vị cố đại thần triều Nguyễn, gi.ường cao, chiếu sạch, chăn ấm, nệm êm. gi.ường bên kia là người nắm trong tay vận mệnh của chế độ. Những người chiến sĩ tình báo phải giàu óc tưởng tượng. Nhưng anh không thể nào nghĩ được có một đêm anh và Nhu lại ngủ trong cùng một căn buồng! Nhu chính là kẻ đã thảo ra luật 10/59, đặt những người như anh ra ngoài vòng pháp luật, cho kéo lê máy chém khắp miền Nam để chặt đầu Cộng sản nằm vùng. Đêm nay, anh nằm cạnh tử thần. Nếu Nhu nhận ra anh qua một câu nói trong cơn mê, đầu anh chắc chắn sẽ nằm dưới gốc cam trong vườn của Ngô Đình Cẩn! Sự biệt đãi đó chứng tỏ Nhu đã coi anh như một "chiến hữu", một kẻ tâm phúc của mình. Điều này, Nhu đã kín đáo nói ra trong cuộc trao đổi buổi tối. Nhu đã trao cho anh nhiệm vụ "theo dõi" Đức cha để báo cáo với Nhu. Nhu không cần hỏi anh có ưng thuận hay không, vì Nhu tin ở quyền lực của mình, tin ở vị trí con người của mình. Giữa Nhu và cha Lê, anh sẽ phải chọn Nhu. Nhưng Nhu không biết rằng chính anh đang rất cần đến y. Anh đã phải vượt qua bao nhiêu con đường quanh co, hiểm nghèo, phải trả giá bằng những tủi nhục quá sức chịu đựng của mình và nếu cần, anh sẵn sàng hy sinh nhiều hơn thế nữa để được đến gần con người này vì lý tưởng chiến đấu của mình.

Mục tiêu đã đạt được. Người anh lâng lâng bay bổng.

Bên ngoài trăng sáng. Ánh trăng bát ngát trải trên vườn chè ướt át sương đêm. Như có những ánh mắt lúng liếng của những cô thiếu nữ đang cười. Một đêm trăng đẹp lạ lùng.

Nhu cũng đang nhìn ra vườn. Phải chăng y cũng đang ngắm ánh trăng.

- Ông cố vấn ngày xưa có đọc thơ Nguyễn Bính không?

Trước khi vào học tại trường Bác cổ[12] Paris, Nhu đã tốt nghiệp cử nhân Văn chương.

Nhu đáp:

- Mình làm chính trị không còn thời giờ đến với thi ca. Tại sao anh lại hỏi thế?

- Tôi vừa nhớ tới mấy câu thơ của ông ta:

Đêm nay mới gọi là đêm

Ai đem trăng sáng đãi trên vườn chè.

Trăng đêm nay đẹp quá!

- Anh bao nhiêu tuổi rồi?

- Tôi đã bước vào tuổi 32.

- Vẫn là tuổi thanh niên, còn nhiều mơ mộng.

Nhu lại im lặng. Anh biết y nhìn ra vườn nhưng không phải để ngắm ánh trăng. Đôi mắt y đang chìm đắm trong những suy tư. Y không còn giây phút nào thảnh thơi. Cuộc trao đổi với anh ngày hôm nay chắc đã đem lại cho y thêm nhiều lo lắng. Y đang tính toán. Lại một ý đồ, một mưu toan nào đó đang hình thành trong đầu y. Bộ mặt trầm tư, kín đáo của y nhắc nhở anh, mình vừa mất cảnh giác. Suýt nữa thì mình lột tuột bộ áo thầy dòng trước ước mắt lão ta...

Anh bỗng thấy y rất cô đơn.

Y không sung sướng gì trong cương vị hiện nay. Y ra đây với trăm ngàn nỗi lo vò xé. Y biết rõ mình đang sống giữa những họng súng vô hình... Mình còn hạnh phúc hơn y rất nhiều.

Trước khi lên gi.ường ngủ, Nhu quay sang bảo Hai Long:

- Ménage ta monture![13]

Để xem y vội vàng đến đâu, Hai Long làm như buột miệng đọc một câu ngạn ngữ của người Ý:

- Chi va piano, va sano...[14]

Tốt nghiệp trường Bác cổ, Nhu rất giỏi liếng Latin. Nhu nghiêm mặt nói:

- Le temps presse![15]

Suốt đêm, Hai Long không ngủ. Quá lâu ngày anh mới uống một tách cà phê. Như vậy cũng hay. Anh rất sợ giấc mơ của mình đêm nay. Ở gi.ường bên kia, thỉnh thoảng Nhu lại trở mình. Y cũng đang trằn trọc.---

[1] Động tác giả.

[2] Chào bạn! (tiếng Pháp)

[3] Rất tốt! (tiếng Pháp)

[4] Anh (tiếng Pháp)

[5] Léon Pignon: Cao ủy Pháp tại Đông Dương (1948-1950)

[6] Jean De Lattre De Tassigny: Cao ủy Pháp kiêm Tổng chỉ huy quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương (1950-1952).

[7] Henri Eugène Navarre: Tổng chỉ huy quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương (1953-1954)

[8] Tôi (tiếng Pháp)

[9] thể văn hàn lâm.

[10] Franklin Roosevelt: tổng thống Mỹ (1936-1945)

[11] Charles A.J.M De Gaulle: thủ lĩnh chính phủ Lâm thời cộng hòa Pháp (1945), tổng thống Pháp (1959-1969)

[12] Ecole des Chartes

[13] "Hãy chuẩn bị yên cương!". Nhu mượn cách nói trong một câu thơ của Jean Racin (1639 - 1699), nhà thơ Pháp: Qui veut voyager loin, ménage sa monture. (Ai muốn đi xa, thì phải chuẩn bị yên cương).

[14] Bước chậm, bước chắc...

[15] Thời giờ gấp rồi!
 
TRỞ VỀ

1.

"Mình đã chuẩn bị tốt yên cương", Hai Long đánh giá tình hình sau cuộc gặp Ngô Đình Nhu. Anh đã trở thành đệ tử trung thành của cha Lê, người thân thiết của gia đình cậu Út, người giúp việc "đặc biệt" của ông cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu. Ba thế mới này đều rất lợi cho công tác khi anh trở về Sài Gòn.

Mấy tuần sau lễ Giáng sinh, rồi Tết Nguyên đán qua, vẫn chưa thấy Cẩn đả động gì. Anh hiểu Cẩn không muốn để mình tuột khỏi tay, khi hắn đã có ý dùng mình làm sợi dây liên kết với cha Lê, tạo thành một lực lượng mới làm áp lực với Nhu. Cẩn không cam tâm với chức cố vấn đặc trách miền Trung. Hắn muốn thay vị trí của Ngô Đình Nhu bên cạnh "ông Cụ". Cẩn biết mình kém xa Nhu về mặt văn hóa, nhưng hắn có cái mà Nhu không có, là đôi bàn tay sắt. Giờ lại được thêm Hai Long, "Thánh Phê-rô" dẫn đường, hắn đã có đủ điều kiện thay thế Nhu. Cẩn sẽ không để anh ra đi dễ dàng. Không biết hắn đã làm cách nào dây dưa với Nhu. Nhưng anh tin rằng Cẩn chẳng thể kéo dài mãi tình trạng này.

Gần 3 tháng sau ngày anh gặp Nhu, trong một bữa cơm đầu xuân, Cẩn mới nói:

- Từ hôm ở Huế về, ông Nhu thúc ra mấy lần phải trả anh vô Sài Gòn cho cha Lê. Tui biết nếu ông Nhu đã gặp anh, ổng sẽ bắt anh vô trong nớ, giúp vợ chồng ổng mần những việc chi với tổng thống tui chưa rõ. Tui không muốn anh vô, nhưng không còn cách chi giữ anh. Và nếu cứ giữ rịt anh ở đây, Đức cha cũng sẽ hiểu lầm tui. Bữa ni, ta bàn với nhau thiệt kỹ lưỡng rồi để anh vô.

Hai Long tỏ vẻ bùi ngùi:

- Tôi thực lòng muốn ở lâu dài với cậu Út để đền ơn tri ngộ, chưa làm được việc gì giúp cậu Út thì đã phải đi!

- Chỉ đi phần xác, còn phần hồn vẫn ở bên nhau! Anh vô trong nớ tiếp tục cộng tác chặt chẽ với tui. Tui vẫn để thằng Dương Văn Hiếu ở đó, có chuyện chi anh biên thơ ngay biểu thằng Hiếu mang cho tui. Nếu có điều chi hệ trọng, anh đáp máy bay ra, lên thẳng Phú Cam, không nói với ai ngoài tui.

- Những việc cậu Út dặn, tôi ghi nhớ.

- Ta đã coi nhau như người trong nhà, rứa ni tui nói rất thiệt. Anh giúp tui, không khi mô tui quên anh! Anh muốn chi cũng có. Anh cần tiền, cần chức vụ chi để làm nên việc lớn, anh cứ nói. Trước mắt, anh giúp tui mấy việc. Anh mần răng cho quan hệ giữa Đức cha với tui ngày càng mật thiết, và cố thúc đẩy Đức cha xích lại gần tổng thống. Anh nắm chắc tình hình cha cố di cư, hoạt động của bọn đối lập, tin cho tui kịp thời. Còn việc trong nhà, nếu ông bà Nhu có ý chi khác với tổng thống, anh phải cho tui biết ngay... Nói chừng nớ là coi anh hơn ruột thịt rồi đó. Nguy cơ phản loạn khi mô cũng có thể xảy ra. Phải trông chừng ngay từ nội bộ. Có làm được rứa may ra mới yên.

Hai Long sốt sắng nhận lời, nhưng vẫn tỏ ra rầu rĩ vì hai người sắp phải xa nhau. Cẩn cũng lộ vẻ cảm động.

- Ngày mới gặp anh, trông người, tui đoán được ngay mà! Anh chưa biết, tui có học coi tướng. Tui dùng người chưa sai thằng mô! Bao nhiêu thằng phản ông Diệm, ông Nhu, chớ có đứa mô phản tui? Anh có quý tướng, ngũ đoản giống tổng thống, trán rộng, mũi lân, long tu, nốt ruồi giữa mày, gáy rộng, môi dày... đó lả tướng cao sang, phúc hậu. Phương ngôn nói: Chọn bạn mà chơi! Dùng người phải biết xem tướng từ nét mặt, dáng đi, điệu nói... Ta gặp nhau cũng là duyên kỳ ngộ.

Điều Cẩn nói khá bất ngờ với Hai Long. Anh thường oán trách vóc người nhỏ bé của mình. Không ngờ cái tầm vóc đó, vầng trán, cái mũi, kề cả cái nốt ruồi trời sinh... đã tạo những thuận lợi rất đáng kể trong trường hợp này.

Hai Long cố nhịn cười, ngồi bần thần một lát, rồi thở dài:

- Việc đi thì phải đi. Nhưng tôi vẫn muốn nấn ná ở thêm ít ngày với cậu Út.

- Không được nữa mô?

- Tôi qua lại Phú Cam đã lâu ngày, Đức Tổng giám mục ở ngay tại đây, mà vẫn chưa có dịp tới chúc phúc. Đã là người trong gia đình họ Ngô, lẽ nào lại ra đi mà chưa gặp mặt cha, người anh thứ hai của cậu Út, bây giờ lại là người cao niên nhất, đứng đầu gia đình.

Mặt Cẩn hơi đờ ra.

- Anh nghĩ rất phải. Trước khi anh vô, tui sẽ đưa anh tới viếng cha. Cần phải trình cha trước. Bây chừ, anh chờ tui một lát.

Cẩn sang nhà bên rồi quay lại, tay cầm hai chiếc phong bì dày cộng. Cẩn đặt từng chiếc phong bì xuống bàn trước mặt Hai Long.

- Trong bì thư ni có 1 vạn đồng, anh cầm về mua quà cho gia đình; trong bì thư tê có 2 vạn đồng, nhờ anh mua quà cho cha Lê và mấy cha di cư.

Hai Long chối từ:

- Cảm ơn cậu Út đã chú ý đến vợ con tôi, nhưng số tiền này tôi chưa dùng tới, nhờ cậu Út giữ hộ, khi nào cần, tôi sẽ xin. Còn cậu Út định mua quà cho các cha thì chưa nên làm ngay, ta sẽ tính đến chuyện đó vào dịp khác. Tôi không muốn các cha nghĩ về tôi trong quan hệ với cậu Út có dính đến chuyện tiền nong.

- Rứa là tui hiểu hết lòng anh...
 
2.

Ngô Đình Khả, ông quan to cuối triều Nguyễn, sinh được 7 người con, sáu trai, một gái. Người con gái đã đi lấy chồng, thường gọi là bà Cả Lễ. Trừ Cẩn, 5 con trai đều được học hành tới nơi tới chốn. Các anh, người đi tu, người đi làm xa, Út Cẩn phải ở nhà nuôi mẹ, được coi là người hiếu đễ.

Ngô Đình Khôi lả anh cả, làm tổng đốc tỉnh Quảng Nam, chết hồi tổng khởi nghĩa năm 1945. Diệm làm thượng thư bộ Lại được một năm thì bất đồng với Pháp, xin cáo quan. Nhu làm ở Văn khố phủ Toàn quyền, mất việc sau Cách mạng tháng Tám, trốn qua Lào một thời gian rồi quay về Đà Lạt, sống ẩn dật đợi thời. Diệm và Cẩn, không hiểu tại sao đều không lấy vợ. Đời sống anh em Diệm lúc ấy không có gì sung túc.

Cuối những năm 1940, Thục bắt mối được với Spellman, hồng y giáo chủ ở địa phận New York tại Mỹ, một người đã cùng học với Thục tại Vatican. Spellman cũng là tổng tuyên úy của quân đội Mỹ và là một nhân vật khá tiêu biểu của giáo hội Mỹ. Nhờ có quan hệ giữa Thục và Spellman, Diệm được đưa sang Nhật Bản rồi qua Mỹ, vào tu viện dòng Tên[1] Maryknoll, bang Ossining, sau đó chuyển qua tu viện Lakewood, bang New Jersey. CIA đã nhìn thấy ở Diệm một lá bài có thể sử dụng sau này.

Từ lâu, Mỹ đã muốn can thiệp vào Đông Dương. Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, vấn đề Đông Dương đối với Mỹ càng trở nên quan trọng. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm tan rã ý chí xâm lược của thực dân Pháp. Pháp buộc phải ký Hiệp định Genève năm 1954, chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương. Ở Việt Nam, lực lượng vũ trang đôi bên tham chiến tập kết ở hai miền Nam, Bắc vĩ tuyến 17; sau 2 năm, nước Việt Nam sẽ thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử. Mỹ không tán thành hiệp định này. Mỹ tin rằng nếu tổ chức tổng tuyển cử, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất định sẽ giành thắng lợi. Từ đầu năm 1954, tổng thống Eisenhower và Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ đã nhận định: "Mất một nước nào đó ở Đông Nam Á thì cuối cùng sẽ dẫn đến mất cả Đông Nam Á, rồi mất cả Ấn Độ và Nhật Bản, và rốt cuộc: làm nguy hại đến sự ổn định và nền an ninh của châu Âu!". Mỹ đánh giá "giải pháp Genève là một thảm họa đã hoàn thành một bước tiến quan trọng của chủ nghĩa cộng sản có thể dẫn đến việc mất cả Đông Nam Á". Từ những nhận định mà khá lâu sau này Mỹ mới thấy là sai lầm, Mỹ đã quyết tâm hất cẳng Pháp, nhảy vào Đông Dương, tung ra bàn cờ lá bài mà CIA đã chuẩn bị từ lâu. Cũng là lúc mở đầu vận hội mới của anh em nhà họ Ngô.

Chế độ cộng hòa của Ngô Đình Diệm thực chất là chế độ quân chủ độc đoán không có vua. Trong "triều đình" Diệm, Ngô Đình Thục vừa là anh lớn, vừa là người bề trên về mặt đạo, vừa là người đã dìu dắt Diệm lên vị trí hiện thời, được coi như "thái thượng hoàng". Thục không thường xuyên bàn bạc công việc, nhưng khi đã có một quyết định, thì tất cả các em đều phải tuân theo. Những ai được coi là người của "Đức cha", của "ông Cụ", của "ông cố vấn", "ông Cậu", "bà Cả Lễ" đều được mọi người quyền cao chức trọng, kể cả những cơ quan an ninh, mật vụ nể sợ.

Hai Long thấy mình chưa nên rời Huế khi chưa được gặp Ngô Đình Thục. Trong kháng chiến chống Pháp, khi còn là giám mục khu Vĩnh Long, Thục cũng như Cẩn đã có thời gian liên lạc với ta.

Đầu tháng 4-1961, Cẩn đi cùng Hai Long đến nhà thờ Phú Cam dự lễ, và sau đó đưa Hai Long tới tòa Tổng giám mục ở bên kia sông, gặp Ngô Đình Thục.

Cẩn giới thiệu với Thục:

- Thưa Đức cha, như em đã thưa trước, đây là thầy Hai Long, phụ tá đặc biệt của Đức cha Lê.

Hai Long tới hôn nhẫn và tự giới thiệu mình là con chiên của Phát Diệm, có lòng ngưỡng mộ Đức Tổng giám mục từ lâu, đáng lẽ đã phải vào Sài Gòn theo lệnh ông cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu, nhưng xin nán lại để được tới chúc phúc Đức Tổng giám mục trước khi rời Thánh địa của ngài.

Thục vừa được phong Tổng giám mục, một trong ba chức vụ lớn nhất do Tòa thánh Vatican tấn phong ở Việt Nam, nên rất phấn chấn. Thục ngắm Hai Long từ đầu đến chân, rồi vỗ nhẹ lên vai:

- Cậu Út đã nói chuyện về thầy nhiều. Tốt đạo lắm. Sức khỏe cha Lê trong nớ ra sao. Đã lâu ngày chưa gặp cha.

- Nhờ ơn Chúa, sức khỏe của cha rất tốt.

- Mừng cho cha. Cha là người khôn lanh nhất trong hàng giám mục Việt Nam.

Lời khen của Thục đượm giọng mỉa mai.

Thục nói tiếp:

- Cậu Út khen con là người phúc hậu, thánh thiện. Để rồi cha sẽ giới thiệu con với tổng thống hỉ?

- Thưa Đức cha, con rất đội ơn Đức cha, con mạn phép xin Đức cha giới thiệu cho con trình diện với ông cố vấn chính trị thôi ạ.

Thục gật đầu với vẻ bao dung:

- Thì giới thiệu với cả hai vậy. Cha chiều ý con. Con phải vào phủ tổng thống. Con đừng ngại. Tổng thống sẽ đón mừng con. Con là phụ tá của Đức cha Lê mà!

Hai Long cảm thấy Ngô Đình Thục ăn ý với Ngô Đình Cẩn, không muốn anh chỉ là người giúp việc riêng cho Nhu.

- Con đội ơn Đức cha đã dành cho con vinh dự quá lớn.

- Dòng họ Ngô rất tốt phước, Chúa thương nên tất cả mới được thành đạt. Con về trong nớ siêng năng cầu nguyện, dốc lòng thờ Chúa, phò trợ tổng thống, xây dựng chế độ Cần lao - nhân vị được vững bền.

Hôm sau, Cẩn trao cho Hai Long hai tấm thiếp của Ngô Đình Thục giới thiệu anh với Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Trong tấm thiếp gửi cho Ngô Đình Diệm, Thục viết: "Thầy Long là người tốt đạo, thuần hậu, cương trực; rất hợp với ý cha...".
 
3.

Xuống sân bay Tân Sơn Nhất, Hai Long lên xe tắc-xi đi thẳng về nhà thờ Phát Diệm gặp cha Lê.

Anh báo cáo với cha Lê cuộc tiếp xúc với Nhu, sự hối thúc của Cẩn đối với việc liên kết hai lực lượng Phát Diệm và miền Trung.

Cha Lê ngồi nghe, thái độ thản nhiên. Cha thấy mình đã có giá, nên càng làm cao. Hai Long kể đến chuyện gặp Ngô Đình Thục trước khi rời Huế.

Cha Lê hỏi:

- Cha Thục chắc vui lắm hả?

- Con gặp cha sau lễ tấn phong, cha có vẻ rất hài lòng.

Cha Lê cười mũi:

- Chưa hài lòng lắm đâu! Cha còn muốn kiếm cái áo đỏ.

- Cha Thục có viết hai tấm thiếp giới thiệu con với tổng thống và ông Nhu. Con có nên tin cho ông Nhu biết là đã về với Đức cha chưa? Trước đây, ông Nhu đã cho con số điện thoại, hẹn khi về thì báo tin ngay. Con có nên nói là con đang ở đây cùng Đức cha?

- Thì anh phải nói mình ở đây chứ ở đâu! Nhưng chớ để họ tưởng là mình cần họ. Bấy lâu mình chẳng gặp họ có sao?

- Con cũng tính như vậy. Con đang định xin cha cho về thăm gia đình ít ngày.

- Anh chưa qua nhà ư? - Cha Lê hỏi với vẻ ngạc nhiên.

- Dạ...

Hai Long ra máy điện thoại, quay số máy của Ngô Đình Nhu. Người trực máy nói ông cố vấn dở cuộc họp. Hai Long xưng tên, nhờ báo tin mình đã về Sài Gòn và đang ở chỗ cha Lê.

Buổi chiều, Hai Long ngồi với cha Lê thì có người vào báo, ông cố vấn Ngô Đình Nhu cử người đến xin gặp ông phụ tá của Đức cha, đang chờ bên ngoài. Cha Lê cứ ngồi nói chuyện với Hai Long thêm một lúc, rồi mới lánh vào buồng trong, nhường chỗ cho anh tiếp sứ giả của ông cố vấn.

Một người mặt vuông, trán thấp, tóc cắt ngắn, thân hình lực lưỡng rắn chắc như một đô vật, bước vào, hai tay rất thẳng, bàn tay đặt sát nẹp quần, cúi đầu chào:

- Tôi xin tự giới thiệu: đại tá Lê Quang Tung, được ông cố vấn chính trị cử đến gặp ông phụ tá của Đức cha.

Viên đại tá có dáng dấp một vệ sĩ trung thành hơn một người chỉ huy.

Khi đã ngồi vào bàn, y kể là mình đã có dịp làm việc với cha Hoàng năm trước, xin tuyển mộ lính biệt kích tung ra miền Bắc. Rồi y nói:

- Ông phụ tá có điều chi cần chuyển tới ông cố vấn, xin cứ biểu tôi về thưa lại. Ngày hôm nay, ông cố vấn mắc việc, chưa gặp được ông.

- Nhờ đại tá về trình với ông cố vấn, ngày mai tôi về thăm gia đình ít hôm; khi quay trở lại chỗ Đức cha, sẽ báo lại với ông cố vấn. Có thư của Đức cha Ngô Đình Thục gửi tổng thống và ông cố vấn chính trị, cảm phiền đại tá chuyển giùm.

Viên đại tá giơ hai tay đón những phong thư rồi cáo lui.

Hai Long cảm thấy những tờ thiếp đã nâng cao thêm giá trị của anh trước mắt viên đại tá.

Cha Lê đi ra, nói với vẻ tán đồng:

- Phải làm như vậy. Thằng Tung này là trùm mật vụ của Ngô Đình Nhu...
 
4.

Từ ngày vào Sài Gòn, cuộc sống của Hai Long có hai phần tách bạch. Một là xâm nhập vào những tổ chức chính trị, tôn giáo, những cơ quan chính quyền, quân sự của địch, mưu toan những việc động trời. Hai là vật lộn để kiếm miếng ăn hằng ngày cho hai vợ chồng và mấy đứa con hay yếu đau, rất cụ thể, rất tầm thường, phải tính từ hạt gạo, mớ rau, tiền đi bệnh viện cho vợ những ngày sinh nở, viên kháng sinh cho con những lúc trở trời. Cả hai phần đó của cuộc sống đều khắc nghiệt.

Trên đường trở về nhà, ngồi trên xe buýt người nêm chặt cứng, lòng anh pha trộn vui, buồn, lo lắng.

Nhiều năm qua, cả gia đình Hai Long phải sống bằng nghề bán rau quả của vợ anh. Nơi ở là một căn hộ chung cho hai gia đình di cư. Nửa ngoài, gia đình bác Kỳ bày một xe giải khát, trên để ít chai la-ve, nước ngọt, bình chè đậu đen, một cái bàn con bào nước đá, và một cái bàn lớn hơn với mấy chiếc ghế đểu dành cho khách. Sau cái rèm, vợ chồng bác Kỳ và ba đứa con nhỏ chỉ có chung một chiếc gi.ường. Căn nhà trong vốn là gian bếp, rộng khoảng mười mét vuông, đã có một cầu tiêu, hai bếp đun củi của hai gia đình, phần còn lại cũng chỉ vừa một cái gi.ường chung cho vợ chồng anh cùng với ba đứa con. Dưới gầm gi.ường, chuột đào hang, luôn luôn đùn lên từng đống đất. Nền căn nhà bếp lại thấp, mỗi khi trời mưa to, cống rãnh tắc, nước tràn vào ngập đến bắp chân. Những đêm mưa, chuột lội lõm bõm, leo cả lên bếp, lên gi.ường.

Hằng ngày, vợ anh đầu tắt mặt tối với ba buổi chợ. Sau mỗi lần sinh nở và nuôi con, sức khỏe của chị kém dần, không còn xốc vác được như xưa. Hai năm qua anh bị bắt, chị phần lo cho chồng, phần thiếu người giúp đỡ. Chắc không có điều gì tốt đẹp hơn đang chờ anh ở nhà.

Niềm vui thoát cảnh tù đày gắn liền với một nỗi lo day dứt đã có từ lâu, nhưng lúc này đang choán ngợp đầu óc anh: làm cách nào để liên lạc được với tổ chức...?

Theo nguyên tắc, tổ chức sẽ không bắt liên lạc với những người sa vào tay địch được chúng thả ra, trước khi chưa thẩm tra kỹ càng. Thời gian ở trại Tòa Khâm, anh chỉ liên lạc với anh Mười, và nhận một số chỉ thị của anh. Ít ngày sau, bọn địch chuyển anh Mười đi khỏi Ty Công an. Từ đó, coi như anh hoàn toàn mất liên lạc với tổ chức. Ở đây cũng có khả năng có một tổ chức bí mật của ta. Với chủ định đã có, anh không tìm hiểu để bắt liên lạc với tổ chức này. Nguyên tắc hoạt động đơn tuyến không cho phép anh có quan hệ với những người không cùng chung nhiệm vụ công tác. Trong thời gian bị bắt, trước mắt mọi người, anh đã có những hành vi khó hiểu. Anh chỉ có thể trình bày những điều này với người trực tiếp chỉ đạo công tác của mình.

Ngay với tổ chức, nếu anh có bị nghi ngờ, thì đó cũng là một điều dễ hiểu. Đã không thiếu những người dũng cảm nhưng khi bị địch bắt, trở thành những kẻ đớn hèn. Cũng không ít kẻ đầu hàng, phản bội. Một thủ đoạn quen thuộc của địch là tung những phần tử phản bội trở lại hàng ngũ của ta, phá từ trong phá ra. Đây là trường hợp nguy hiểm nhất mà ta luôn luôn phải phòng ngừa. Liệu khi bắt liên lạc với tổ chức rồi, các đồng chí có tin những điều anh sẽ trình bày hay không? Anh đã nghĩ, dù tổ chức chưa tin ngay, anh cũng sẽ lấy lại lòng tin bằng những việc làm sau đó. Nhưng điều quan trọng bây giờ là làm cách nào sớm bắt liên lạc với tổ chức. Nếu không làm được việc đó, thì những gì anh đã đạt được trong 2 năm qua, và những gì anh đang cố gắng phấn đấu để đạt tới, đều trở thành vô nghĩa...

Bác Kỳ, người ở chung nhà với anh, đang đứng bào nước đá, ngẩng đầu lên, ngỡ ngàng khi thấy người khách vừa bước vào lại chính là Hai Long.

- Chú làm cách nào mà về được?

Hai Long mỉm cười:

- Họ giam mãi chán thì cũng phải thả cho về.

- Vợ chồng tôi cứ khuyên mãi Hai yên phận làm ăn, nuôi các cháu nên người, chú còn lâu mới ra.

- Em cũng tưởng vậy.

Rồi bác Kỳ kể, vợ anh ở nhà 2 năm qua đau yếu luôn, hàng tháng phải đi khám phổi, mỗi ngày vẫn ba buổi chợ kiếm rau cháo nuôi con. Anh đi được mấy tháng, con bé lên kinh giật phải đi bệnh viện cấp cứu. Thằng nhỏ ở nhà ỉa chảy, phân trát đầy người, thằng anh chạy ra tìm bác cầu cứu. Hai, con ốm vốn hết, không còn tiền mua hàng. Chị em bán hàng rau thương tình, gom góp kẻ ít người nhiều mới lại có được sọt rau đem ra chợ. Khốn nỗi, có thằng cảnh sát ở bốt Thị Nghè, thấy Hai Long bị bắt, theo đuổi, dọa nạt, tán tỉnh. Hai sợ không dám đi chợ. Chị em lại phải tới nhà bàn bạc, phân công nhau kèm những lúc đi mua hàng khuya và thay phiên nhau canh chừng suốt buổi chợ...

Anh chỉ chờ bác Kỳ ngừng nói để hỏi:

- Vợ em và các cháu đâu?

- Hai đi chợ Thị Nghè, tối mịt mới về. Con bé đi học. Thằng nhỏ sốt mấy hôm nay, thằng lớn phải ở nhà trông em.

Hai Long vội vàng lao vào trong nhà.

Chiếc màn màu nước dưa vẫn buông trên gi.ường. Anh vén lên, thấy đứa con nhỏ nằm chúi một góc, thằng anh nằm trông em chắc ngủ quên, gác chân lên người em. Anh nhẹ nhàng kéo chân đứa con lớn đặt xuống gi.ường. Khi sờ đầu đứa nhỏ, thấy nóng như củ khoai lùi.

Anh vội quay ra hỏi thăm bác Kỳ, ông y sĩ cùng phố có còn ở chỗ cũ nữa không. Anh trở vào đánh thức đứa con lớn, đưa nó gói kẹo mè xửng mang từ Huế ra và bồng đứa con nhỏ đi khám bệnh. Thằng lớn tay cầm gói kẹo, tay níu quần bố, bám theo không rời nửa bước.
 
5.

Chị Hai không bao giờ hỏi han chồng về những việc mà anh đang làm. Chị chỉ hiểu đó là một công tác rất khó khăn mà Đảng và Quân đội đã giao cho anh. Giữa những ngày quê hương vừa được giải phóng, không còn tiếng bom đạn, không còn phải lo những trận càn, mọi người trở về làng cũ dựng lại nhà, cày bừa lại ruộng đồng từ lâu bị bỏ hóa; thì chị bồng con theo chồng rời xóm làng ra đi. Theo anh, 2 năm nữa khi nước nhà thống nhất, họ sẽ trở về. Đã chịu đựng được 9 năm kháng chiến gian khó, thêm 2 năm nữa có là bao! Họ không giống những người bị lừa gạt, bỏ quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn đi theo quân giặc, không còn ngày trở lại. Đôi vợ chồng trẻ tươi cười bế con lên cầu tàu. Sẽ được biết thêm những miền đất đai xa xôi của Tổ quốc. Họ ra đi vì một nhiệm vụ thiêng liêng. Một ngày mai xán lạn không xa, chờ đón họ khi trở về.

Chị vui vẻ chịu đựng cuộc sống khó khăn ở một thành phố xa lạ, vì coi nó chỉ là tạm thời. Khó khăn này dù sao cũng không hơn những ngày đi dân công chiến dịch, chạy giặc luồn càn hồi kháng chiến. Chị chỉ lo cho chồng. Chị biết nguy hiểm có thể ập đến với anh bất cứ lúc nào. Đến lúc đó, chị đành phải chịu dựng. Đó là số phận không may. Cũng như bao nhiêu gia đình đã phải chịu đựng những mất mát trong kháng chiến. Chị không hỏi công việc của chồng, vì hiểu đó là những việc rất quan trọng mà chị không có quyền được hỏi. Chị cũng biết giữ được như vậy, sẽ tốt cho công tác của anh hơn.

Khi thấy chồng đi làm không trở về, chị hiểu rằng tai biến đã tới. Chị đã ứng phó như một người biết ứng phó trong trường hợp này. Chị chạy tới sở, chạy tới những bạn bè, người quen, "hỏi thăm" có thấy anh ở đâu không, hy vọng làm như vậy sẽ báo được tin anh bị bắt cho những "người cần biết" mà chị không rõ họ là ai. Một mặt khác, chị làm giấy đưa trình tất cả những nơi cầm trình báo, yêu cầu họ phải trả lời, phải cho chị gặp nếu chồng chị bị họ bắt, phải mở cuộc điều tra trong trường hợp anh bỗng dưng mất tích. Chị đã làm đơn trình lên cả nghị viện. Chị biết tất cả những việc mình làm sẽ không giúp cho anh được trở về. Chị sẽ gặp lại anh khi nào Bắc Nam thống nhất, hay ít ra là chính quyền này sụp đổ. Và chỉ còn một mình chị trong cuộc vật lộn để nuôi các con nên người, như bà con xóm giềng, chị em bạn hàng khuyên nhủ.

Bất thần anh trở về! Như người từ thế giới bên kia trở về. Không mừng, không vui sao được. Chị sững sờ rồi trào nước mắt khi nhìn thấy chồng đang ngồi cho con uống thuốc. Từ nay, lại có người đỡ vực, không khí gia đình lại ấm cúng. Có lúc chị đã nghĩ, mình sẵn sàng đánh đổi nửa cuộc đời để được thấy mặt anh. Nhưng sau những giờ phút vui mừng kéo dài không lâu, chị bỗng cảm thấy có điều gì không ổn trong việc anh đột ngột trở về. Tại sao chúng lại thả anh?... Chị đưa mắt ngắm trộm chồng. Anh ấy già đi sau 2 năm bị giam cầm, nhưng vẫn mạnh khỏe. Anh ấy có phần mập ra? Tại sao lại như vậy?... Sự nghi ngờ cứ lớn dần, giày vò chị. Nếu đúng như vậy, thì không còn gì hết. Những năm qua chị sống bằng hy vọng và chờ đợi. Sẽ không bao giờ chị được trở về miền Bắc, trở lại quê hương. Bạn bè của anh ấy, những người chị kính trọng, quý mến nhất, sẽ không bao giờ trở lại đây. Anh ấy đã trở thành kẻ thù của họ. Chị cũng trở thành một người khác. Chị không còn xứng đáng với sự cưu mang của xóm giềng, của nhiều bạn hàng trong mấy năm qua! Mọi người sẽ nhìn chị bằng con mắt khác. Những sự chịu đựng, hy sinh của chị trở thành vô nghĩa. Không còn gì để hy vọng, để đợi chờ!

Nửa đêm hôm đó, chờ mọi người đã ngủ yên, chị mới thì thầm hỏi anh:

- Tại sao anh lại được tha?

- Chúng không tìm được chứng cớ để buộc tội anh.

Nhưng còn vì sao anh lại béo tốt, mạnh khỏe..., những điều đó khó nói hơn. Cổ họng chị tắc lại. Hồi lâu chị nghẹn ngào:

- Có điều gì, anh cứ nói thật với em... Xưa nay, anh làm gì, em không bao giờ hỏi. Nhưng bây giờ em cần biết. Dù thế nào, em vẫn là vợ anh.

Đến lúc đó Hai Long mới hiểu ra... Lại còn đến cả chuyện này nữa? Miệng anh đắng ngắt.

- Nhiều việc chưa thể nói với em. Chỉ cần em biết một điều: anh dù phải chết cũng không thay lòng đổi dạ.

Chị Hai ôm riết lấy anh. Những giọt nước mắt ấm nóng của chị lan sang má chồng. Hình như từ lâu lắm, qua bao ngày tháng cô đơn, anh mới tìm được ở đây, trong căn phòng tồi tàn giữa thành phố xa hoa, đông đúc này, một trái tim cùng chung nhịp đập với trái tim mình.

Chị Hai thủ thỉ với chồng:

- Anh bị bắt hôm trước, thì ngày hôm sau có mấy thằng lạ mặt lảng vảng trước cửa. Một thằng thỉnh thoảng vẫn còn tới đây, nó ngồi rất lâu ở hàng bác Kỳ.

Hai Long biết những tên tay sai của Dương Văn Hiếu vẫn tiếp tục theo dõi mình.

- Sau ngày anh đi, có ai tới tìm không?

- Có mấy anh ở Sở, hơn một tuần, cha Hoàng ở Bình An cho người lên hỏi vì sao không thấy anh xuống. Mấy ngày sau, cha lại cho người tới hỏi em, đã làm đơn trình báo các nơi chưa, nếu chưa thì phải làm ngay, trình cả lên quốc hội, không thể để cho họ vô cớ bắt người như vậy; nếu không biết viết đơn thì cha sẽ cho người viết hộ... Lễ Giáng sinh và ngày Thánh bổn mạng của anh, lần nào cha cũng cho người đưa quà ra và động viên, an ủi mẹ con em giữ vững lòng tin nơi Chúa, luôn luôn cầu nguyện cho anh, sớm muộn anh sẽ trở về... Mẹ con em ra đường cũng có kẻ chửi xéo: "Đáng đời cho quân Bắc kỳ, tay sai của Việt Cộng!". Nhưng bà con lối xóm thì rất nhiều người thương, nếu không được các cô bác cưu mang thì khó sống nổi tới ngày nay...

Hai Long hiểu là nếu tổ chức có cho người tới, chị Hai cũng không thể biết. Anh làm việc theo kiểu đơn tuyến. Để bảo đảm nguyên tắc bí mật, không người nào tới liên lạc với anh tại gia đình. Trước đây, người duy nhất trực tiếp quan hệ với anh là anh Mười.

Anh tính có 4 công việc phải làm trong thời gian tới. Một là, nhanh chóng móc nối lại với tổ chức. Hai là, tiếp tục xây dựng và củng cố bình phong. Ba là, sớm nắm được tình hình quân sự của địch. Bốn là, phải xây dựng lại lưới, một lưới thật lý tưởng... Việc khó khăn nhất, cần làm gấp, là bắt liên lạc với tổ chức. Tìm tổ chức ở đâu bây giờ...?.
 
6.

Trời chưa sáng, chị Hai đã dậy chuẩn bị đi chợ. Hai Long cũng dậy theo. Chị Hai bảo chồng:

- Anh mới về, ngủ tiếp đi với các con, mặc em.

- Suốt hai năm, anh ngủ nhiều rồi. Anh đưa hàng ra chợ cho em.

Từ ngoài dường, một giọng nói đặc sệt Nam Bộ vọng vào:

- Hai có chở hàng vô chợ không? Đi mở hàng đây.

Mặt chị Hai tươi lên:

- Bác chờ cho một chút, em đưa hàng ra ngay.

- Để đó, ông già đỡ cho một tay.

Một người cao gầy, tóc hoa râm, mặc bộ quần áo xanh bạc màu, nhanh nhẹn bước vào. Bác chăm chú nhìn Hai Long, rồi hỏi:

- Chú Hai đó ư? Chú được về khi nào?

Hai Long dang lúng túng thì chị Hai nói:

- Đây là bác Bảy Lai, mấy năm anh bị bắt, bác giúp đỡ mẹ con em nhiều lắm.

Bác Bảy cười xòa:

- Có giúp được cái chi! Bà con dân nghèo, gặp lúc hoạn nạn thì cũng phải thương nhau chớ.

Chị Hai nói:

- Anh gửi hàng cô Út ở bên cho em, rồi có đi ăn sáng thì đi. Em ra sau.

Hai Long cùng với bác Bảy khiêng những sọt rau từ trong nhà ra, đặt lên xích-lô.

Chiếc xe từ từ chuyển bánh, rồi bon nhanh.

Bác Bảy vừa đạp xe vừa thủ thỉ:

- Những ngày chú ở xa, Hai vất vả quá trời! Lo kiện cáo, lo thằng nhỏ bịnh, lo chạy ăn, người ốm tong ốm teo, bà con ai nhìn cũng thương. Giờ chú về được, Hai cũng đỡ vất vả. Nhưng về rồi, liệu bọn hắn có để cho yên mà mần ăn không? Lắm người hắn thả ra ít ngày rồi bắt trở vô, khi đó thì đi biệt.

Hai Long lựa lời nói cho qua. Mấy năm qua, vợ con anh còn sống được là nhờ những người có tấm lòng vàng như thế này. Nhưng anh không thể nói cho bác yên tâm là chúng không dễ gì bắt lại anh. Anh lảng sang chuyện khác:

- Bác có được đông các anh, các chị không? Nhìn bác không được khỏe, mà lại sống bằng nghề vất vả này.

- Suốt thời trẻ, sống ở đồn điền cao su, con cái hiếm hoi, bà nhà tôi mất tại đó. Còn một thân một mình, tôi bỏ đồn điền vô Sài Gòn, kiếm chiếc xích-lô chạy kiếm ăn qua ngày...Chú về liệu hắn có cho trở vô Sở làm việc nữa không?

- Về Sở lại chắc khó. Tôi định kiếm chỗ dạy học...

Khi từ chợ quay về nhà, Hai Long mở hòm, lục tìm gói bưu thiếp. Suốt mấy năm qua, mối liên hệ giữa anh với gia đình ở miền Bắc chỉ qua những đòng nhắn tin ngắn ngủi này. Anh xem kỹ những dấu bưu diện. Tờ bưu thiếp được chuyển nhanh nhất mất một tháng. Tờ chậm nhất, tám tháng! Anh cảm thấy ngán ngẩm. Mỗi ngày đối với anh lúc này dài bằng một năm. Nhưng cũng chẳng còn cách nào khác. Anh chọn hai tờ bưu thiếp mới, và

bảo đứa con gái nhỏ:

- Con ngồi xuống đây, ba đọc cho con viết thư thăm ông bà.

Đứa bé ngoan ngoãn ngồi xuống cạnh gi.ường, không hỏi lại vì sao ba nó không tự viết, mà lại bảo nó làm công việc này. Nó đã biết không nên hỏi gì về công việc của ba. Bộ mặt nó trở nên nghiêm trang như một người lớn.

Hai Long đọc cho con viết: "Con báo tin để thầy mẹ mừng, nhà con mấy năm qua mắc bệnh đau đầu, nay đã khỏi, lại sắp đi dạy học. Đã lâu không có tin nhà ngoài đó, chúng con rất trông. Thầy mẹ cho con biết tin ngay".

Tờ bưu thiếp ký tên vợ anh, được gửi tới hai địa chỉ.

Trung tâm sẽ nhận được tin này. Nhưng vào thời gian nào là điều anh chưa thể biết trước.
 
7.

Bác Kỳ từ nhà ngoài đi vào, ghé tai Hai Long nói nhỏ:

- Cái thằng hồi chú mới bị bắt hay tới ngồi ở cửa hàng này, bữa nay lại tới. Hắn cùng đi với một tên lạ mặt. Chú coi chừng. Bọn chúng vẫn còn ngồi ở quán cà phê xế cửa.

Hai Long cảm ơn bác. Tên mật vụ mà bác Kỳ quen mặt là người của Hiếu, còn tên đi cùng, chắc là người của Nhu. Chúng cùng tới để ban giao.

Chiếc xe đạp khi anh từ chợ về, vẫn còn dựng bên vỉa hè. Hai Long mượn bác Kỳ vịt dầu, rồi ra hè ngồi rất lâu vừa lau xe, vừa lần lượt nhỏ dầu vào xích và những ổ líp. Anh muốn chúng nhận mặt cho kỹ, để mà đi theo.

Hai Long quay vào nhà, thay một bộ quần áo sạch sẽ, rồi ra nhảy lên xe đàng hoàng phóng di. Chẳng cần ngoái đầu lại, anh cũng biết có một cái đuôi đang bám phía sau.

Hai Long vào Trung tâm Văn hóa Pháp, mượn một cuốn sách về thần học, ngồi đọc cho đến trưa. Anh chẳng buồn để ý tới một tên đeo kính mát, ngồi cách mấy hàng ghế, đang làm một công việc vô bổ là lật đi lật lại một tờ báo Pháp, chắc chỉ để xem tranh ảnh. Hai Long đã dự tính một chương trình đọc sách khi anh trở về Sài Gòn. Hai năm ở Tòa Khâm, với những cuốn sách cha Hồng cho mượn, anh đã biết thêm khá nhiều về giáo lý. Nhưng công tác sắp tới buộc anh phải nhanh chóng bồi bổ thêm vốn kiến thức của mình.

Hàng ngày, Hai Long thực hiện đều dặn thời gian biểu, tối và sáng sớm đi chợ cùng với vợ, buổi sáng vào thư viện, buổi chiều đưa đứa con ốm tới nhà ông y sĩ ở cuối phố tiêm thuốc. Tên mật vụ theo dõi sát anh. Nó đã thuộc quy luật hoạt động của anh. Có buổi anh tới thư viện, đã thấy hắn ngồi chờ với một cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Việt chắc do hắn đem theo. Rồi có buổi không thấy hắn tới nữa.

Một buổi chiều, Hai Long từ nhà ông y sĩ về, đang dắt tay đứa con nhỏ sang đường đi vào nhà thì nghe tiếng người gọi to phía sau:

- Anh Hai!

Hai Long quay lại, thấy một người nhảy từ trên chiếc xe máy xuống, lao tới, ôm chầm lấy mình. Đó chính là Hòe, người đồng chí của Hoàng, đã cùng ở với anh một thời gian tại trại Tòa Khâm.

- Trời xui khiến nên lại gặp anh Hai ở đây! Anh ra khi mô? Nhà anh Hai ở đây ư? Sao thằng cháu xanh xao rứa?

Vài tháng sau khi bọn chúng đưa Hoàng khỏi trại Tòa Khâm, Hòe được tha. Hòe là người miền Trung, hoạt động ở Huế. Hai Long cũng cảm thấy bất ngờ khi gặp lại anh ngay trước cửa nhà mình. Liếc nhìn sang quán cà phê bên kia đường, không thấy bóng bọn chúng, Hai Long đưa Hòe vào nhà. Anh biết đây là một việc không nên làm. Anh vẫn bị chúng theo dõi. Có lẽ cả Hòe cũng vậy. Hai người cùng được chúng thả ra, giờ lại gặp gỡ nhau. Nếu bọn chúng biết, sẽ là một điều phiền phức. Nhưng anh đã nhận thấy thái độ mừng rỡ thực sự của Hòe. Anh đã biết Hòe là người ở vùng tạm chiếm, được giác ngộ, mới được kết nạp vào Đảng, chưa qua huấn luyện nhiều về công tác bí mật; nếu anh tìm cách lảng tránh sẽ làm cho Hòe hiểu lầm. Và trong đầu anh cũng nảy ra một hy vọng: biết đâu Hòe về trước mình, đã bắt liên lạc được với tổ chức? Như vậy thì đây chính là một dịp may cho anh...

Hòe hơi ngẩn ra trước cảnh nhà quá bần bách của Hai Long. Mặt anh thoáng lộ vẻ ái ngại. Anh ngồi ghé xuống gi.ường, rồi hỏi Hai Long:

- Anh Hai hay tin anh Hoàng tôi chưa?

Nhìn thái độ của Hòe, Hai Long giật mình hỏi lại:

- Anh Hoàng sao? Sau khi bọn chúng đưa anh Hoàng đi, không nghe ai nói chi?

- Anh Hoàng tôi mất ở Chín Hầm rồi!

- Tin có chính xác không?

- Tôi nghĩ là chính xác. Từ ngày được ra ngoài, gia đình chúng tôi vẫn làm nhiệm vụ tiếp tế cho anh. Khó khăn lắm. Phải nhờ người của chúng ở Ty Công an. Gởi vô mười, không chắc ảnh nhận được một. Nhưng cách đây một tháng, người nhà từ ngoài nớ báo vô ảnh mất rồi. Nếu anh còn sống, bọn hắn không dại nói ảnh chết để hết moi tiền gia đình tôi. Ngày đưa ảnh ở Tòa Khâm đi, Ảnh đã yếu lắm. Ảnh chịu chết để cho tôi sống đó, anh Hai ạ. Tôi còn được tin ông Đẩu bịnh rất nặng, bọn chúng đã chuyển về Mang Cá, không biết có qua khỏi được không?

Hai Long ngồi lặng đi.

Một lát, anh hỏi Hòe:

- Tại sao anh lại vào trong này?

- Mọi tội anh Hoàng đã nhận hết cho tôi. Về phần tôi, bọn hắn không moi được chi. Nhưng tên phó trưởng Ty công an đòi tôi phải bán rẻ cho hắn ngôi nhà ở Huế thì mới chịu chạy cho tôi ra. Tôi cũng nghĩ, ở lại Huế chẳng còn mần ăn được chi, phải chuyển vô trong ni thôi, may ra có gặp được bạn bà... Không ngờ bữa ni lại gặp anh Hai. Rứa là vong hồn anh Hoàng linh thiêng lắm đó.

- Hiện nay anh đã làm việc chi chưa?

- Tôi vô tạm Tổng đoàn Công kỹ nghệ Việt Nam, làm chánh sự vụ. Nghề ni hợp với chuyên môn của tôi, bọn hắn đỡ nghi... Anh Hai ơi..., mần răng bây chừ? Tôi phải mần chi để trả thù cho anh Hoàng chớ...

Hai Long thấy cay cay ở khóe mắt.

Anh an ủi Hòe, và khuyên Hòe phải hết sức cảnh giác, ẩn nhẫn đợi thời.

Họ đã trở về, nhưng đây là cuộc gặp gỡ giữa những con người đơn côi. ---

[1] Jésuite
 
DINH ĐỘC LẬP

1.

Hai Long ở nhà một tuần rồi trở lại nhà thờ Phát Diệm.

Thời gian 7 ngày trôi qua chắc cũng đủ để Ngô Đình Nhu thấy anh không có gì là vội vàng.

Cha Lê đồng ý để Hai Long gọi điện cho Nhu.

Đầu dây bên kia, giọng Nhu vang lên:

- Tôi nghe đây.

- Kính chào ông cố vấn. Tôi là Hai Long.

- Chào anh. Anh ở mô đó?

- Tôi đã trở về chỗ Đức cha. Cách đây một tuần, tôi đã nhờ đại tá Tung chuyển tới tổng thống và ông cố vấn hai lá thiệp của Đức cha Ngô Đình Thục.

- Tôi đã nhận được. Đức cha có mạnh giỏi không?

- Ngài rất khỏe.

- Mai mốt sẽ gặp anh. Tôi hiện chừ rất bận. Anh vẫn ở luôn chỗ Đức cha chớ?

- Dạ...

- Chúc anh khỏe.

- Chúc ông cố vấn khỏe.

Nhu buông máy.

Tại sao y có vẻ hững hờ...? Không phải chỉ có anh, mà y cũng tỏ ra không vội vàng. Y đã giục giã mình về sớm, bây giờ lại tỏ ra thủng thẳng. Vì sao? Anh không tìm được câu trả lời. Đã vậy mình cũng không cần chờ đợi ở đây. Ngay chiều hôm đó, Hai Long rời nhà thờ Phát Diệm sang Bình An.


2.

Từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, giám mục Lê[1] đã liên kết với quân đội viễn chinh Pháp, biến vùng đồng bào Công giáo ở Bùi Chu, Phát Diệm thành những pháo đài chống lại kháng chiến.

Hai giáo khu Bùi Chu - Phát Diệm có lực lượng vũ trang riêng, do quân đội Pháp trang bị vũ khí. Linh mục Hoàng[2] được giám mục Lê phong làm Tổng chỉ huy Tổng bộ tự vệ Công giáo Bùi Chu - Phát Diệm.

Cha Hoàng là người đứng ra làm "phép chết lành" cho đội quân tự vệ áo đen, được tổ chức chiến đấu để "mở rộng nước Chúa". Cha Hoàng thường lui tới với Cao ủy Pháp ở Hà Nội, quốc trưởng Bảo Đại hoặc thủ hiến Bắc Việt, bàn bạc những kế hoạch chống phá kháng chiến. Linh mục Hoàng và nhà sư Tuệ Chiếu là thủ lĩnh "Mặt trận liên tôn chống Cộng", âm mưu biến nhà thờ, chùa chiền thành những ổ gián điệp cho quân đội Pháp. Pháp và ngụy quyền đã cử cha Hoàng vào đoàn chủ tịch của "Ủy ban vận động Đại hội nhân dân toàn quốc" năm 1953. Cha Hoàng là thành viên trong ban cố vấn của phái đoàn "Quốc gia Việt Nam" tham dự Hội nghị Genève về Đông Dương năm 1954.

Trước ngày miền Bắc dược hoàn toàn giải phóng, cha Lê và cha Hoàng đã vận động hàng triệu đồng bào Công giáo ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, di cư vào Nam. Vào tới Nam Bộ, cha Hoàng liên kết ngay với Bảy Viễn, người cầm đầu lực lượng Bình Xuyên thân Pháp, kéo một số đông tự vệ Công giáo Bùi Chu - Phát Diệm cùng với khá đông tín đồ, về vùng Bình Xuyên, âm mưu lập vùng này thành một vùng có quân đội riêng như kiểu giáo khu Bùi Chu - Phát Diệm ở miền Bắc.

Diệm - Nhu thấy ngay mưu đồ nguy hiểm của cha Hoàng. Trong khi dẹp Bình Xuyên và cánh thân Pháp, Diệm ra lệnh bắt luôn cha Hoàng, đưa về quản thúc ở Bình An, một xứ đạo gần Chợ Lớn, luôn luôn cho người giám sát, theo dõi.

Trước sự đàn áp thẳng tay của Diệm, giáo dân đi theo cha, chạy thất tán, vệ sĩ bỏ cha Tổng chỉ huy. Cha Hoàng bắt đầu những ngày tàn tại một vùng đồng đất khô cằn, cỏ lác mọc đầy, không trồng trọt được cây trái, ít người lai vãng. Cha sống một cuộc đời trầm lặng, cô đơn và đầy uất hận.

Hai Long đến với cha Hoàng sau ngày Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh, lực lượng tự vệ Bùi Chu - Phát Diệm đã tham gia chiến dấu chống Cộng, được coi là "cựu chiến binh Việt Nam". Cha Lê và cha Hoànng không bỏ lỡ cơ hội, lập tức tổ chức ra "Hội cựu tự vệ Công giáo Phát Diệm và cựu chiến binh Việt Nam". Những giáo dân đã theo cha Hoàng trước đây, những vệ sĩ áo đen lưu lạc khắp nơi kiếm sống, lục tục kéo về ghi tên nhập Hội. Cha Hoàng đang cần có nhiều cựu chiến binh để phô trương thanh thế, nên hễ là giáo dân di cư, ai muốn vào Hội cũng nhận, cũng cấp giấy tờ một cách không khó khăn. Nhiều giáo dân Phát Diệm vẫn chưa quên Hai Long, người thường có mặt bên các cha cố ở Hải Phòng, người đã tận tình giúp đỡ họ trong những ngày chờ đợi xuống tàu. Họ đều nghĩ Hai Long tất nhiên phải là người trong Hội để tiếp tục giúp đỡ cho giáo dân.

Hai Long nhanh chóng trở thành người ý hợp tâm đầu của cha Hoàng. Cha quý anh vì anh am hiểu giáo lý, kinh lễ, anh là người "biết làm chính trị", lại biết chuyện trò, hiểu tâm lý, và rất trọng, rất thương cha. Hai Long mang những trái cây ngon từ Sài Gòn vào biếu cha. Chiếc áo soutane đứt khuy, đôi bít tất rách của cha để vứt xó, được Hai Long đưa về nhà giặt giũ, khâu mạng lại, là ủi cẩn thận rồi đem lại cho cha dùng. Khi tuổi đã về chiều, con người thường nuối tiếc những ngày đã qua không bao giờ trở lại. Cha Hoàng không tìm được ai hơn Hai Long, để nghe cha ôn lại quá khứ. Hai Long ngồi nhìn cha với cặp mắt ngưỡng mộ, sùng kính, lắng nghe với niềm say mê không mệt mỏi những chuyện cha kể buổi này qua buổi khác, về thời kỳ vàng son của cha ở Bùi Chu - Phát Diệm.

Thấy người ùn ùn kéo về, tấp nập vào ra nhà thờ Bình An trước đây vắng vẻ, Hai Long bàn với cha:

- Cha đang bị bao vây, không nên để cựu chiến binh đi lại quá nhiều e liên lụy mà hỏng việc lớn.

Cha Hoàng nói:

- Cha chỉ có nguyện ước gom góp lại lực lượng tự vệ thành một tổ chức có vị trí trên chính trường miền Nam, buộc chính quyền Sài Gòn phải kiêng dè. Trước đây, họ lấn ép mình quá đáng.

- Con nghĩ rằng thời thế sẽ thay đổi, với lực lượng này, cha còn có thể đi xa hơn. Nhưng trước mắt, cần làm kín đáo để chờ thời cơ.

Cha Hoàng khen ý đó, khuyên giáo dân không nên lui tới nhiều, và trao cho Hai Long nhiệm vụ đi các nơi, bí mật móc nối những lực lượng cũ của mình...

Giữa lúc đó, Hai Long bị bọn Hiếu bắt.

Qua những lời chị Hai kể lại, Hai Long đã biết cha Hoàng những năm qua không hề quên mình. Đức cha Lê hai lần ra Huế vì việc của anh, chắc chắn là có sự bàn bạc của cha Hoàng. Lần này gặp lại cha, anh đem tới một món quà chắc chắn sẽ làm cha hài lòng: đó là đề nghị cầu thân của Ngô Đình Cẩn, muốn liên kết lực lượng của y với lực lượng Phát Diệm thành một sức mạnh nói chuyện với Ngô Đình Nhu. Anh sẽ trình bày để cha thấy là thời cơ sắp tới, ngôi sao "cha Tổng" sẽ xuất hiện trở lại trên chính trường rực rỡ không kém ngày xưa...

Hai Long ở nhà thờ Bình An được hai ngày, câu chuyện giữa anh và cha Hoàng dường như chỉ mới bắt đầu thì Lê Quang Tung đến tìm. Y xuất hiện với bộ quân phục đại tá, vẻ hấp tấp:

- Tôi từ nhà thờ Phát Diệm sang, đang lo không gặp ông phụ tá. Ông cố vấn cho tôi tới mời ông đến quan sát tại chỗ buổi gặp gỡ giữa ông cố vấn chính trị với phó tổng thống Mỹ Johnson, để ông phụ tá về báo cáo lại với cha Lê. Thời gian rất gấp! Nếu ông đồng ý, xin mời đi ngay cùng tôi. Tại đó bữa nay canh phòng rất cẩn mật.

Nhà thờ Bình An không có điện thoại, không thể xin ý kiến cha Lê. Hai Long vào báo cáo với cha Hoàng. Cha Hoàng nói:

- Người ta mời thì đi coi! Nhu có găng trì mấy cũng thua cha Lê.

Chiếc xe jeep lao nhanh về phía sân bay Tân Sơn Nhất. Thời gian qua chắc Nhu bận chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này, Hai Long nghĩ, Johnson sang lần này có âm mưu gì...?

Cờ "ba sọc" và cờ "sọc và sao" treo rợp nhà ga sân bay. Cảnh sát canh gác vòng trong vòng ngoài. Chúng giơ tay chào khi chiếc xe của Lê Quang Tung phóng qua. Sân bay đông nghịt người ra dón. Thảm nhung đỏ trải dài từ nhà ga ra tới chỗ máy bay hạ cánh.

Tung đưa Hai Long tới đứng cùng với những người đi tháp tùng cố vấn chính trị. Thoáng nhìn thấy Hai Long, Nhu rảo bước tới gặp. Bà Nhu, không hiểu sao, cũng nối gót đi theo chồng.

Hai Long đã nhiều lần nhìn thấy Lệ Xuân giữa đám đông, trên màn ảnh, hoặc trên báo chí. Nhưng đây là lần đầu anh giáp mặt với "đệ nhất phu nhân" của miền Nam. Bà ta quá trẻ so với chồng, đang ở tuổi hồi xuân, lộng lẫy trong bộ quần áo tiếp khách quý, đẹp một cách kiêu kỳ.

Hai Long cúi đầu chào Lệ Xuân rời quay lại bắt bàn tay ông cố vấn dang chìa ra.

Nhu nói rất nhanh:

- Anh theo dõi quan sát, rồi về trình với Đức cha. Ngày mai, tôi phải làm việc với phó tổng thống Mỹ. Bà nhà tôi sẽ cùng đi với bà phó tổng thống. Tôi nhờ anh đi theo giúp bà, có chuyện chi anh cứ trao đổi với bà.

Lệ Xuân đang chăm chú nhìn Hai Long, nghe chồng nhắc đến mình, bà ta vờ quay đi. Bà ta chắc anh phụ tá trẻ của Đức cha Lê sẽ sướng mê với ý kiến cửa ông chồng.

Nhu nói tiếp:

- Tôi sẽ lại cho Lê Quang Tung tới đón anh.

- Việc ngày mai, ông cố vấn cho tôi xin ý kiến cha.

Hai Long thoáng nhìn thấy Lệ Xuân, tuy qua quay đi nhưng vẫn theo dõi câu chuyện, hơi bĩu môi.

- OK! Tối nay, Tung sẽ liên lạc với anh. Vẫn ở chỗ cha chứ?

- Dạ.

Vợ chồng Nhu cùng quay ra chuẩn bị đón khách.

Buổi đón tiếp tại sân bay diễn ra một cách nồng nhiệt. Chủ khách đều tươi cười, thân thiết siết tay nhau. Hai phu nhân cũng vậy. Nhu sánh vai cùng Johnson đi duyệt đội quân danh dự. Lệ Xuân đứng bên bà phó tổng thống cao lớn, già nua trông giống như con búp bê xinh xắn đặt bên con bù nhìn thô kệch. Bà ta chuyện trò với bà phó tổng thống một cách hoạt bát và tự tin. Nhu dẫn phó tổng thống Mỹ đi giới thiệu với các quan chức ra đón. Johnson bắt tay khắp lượt rồi tươi cười giơ tay vẫy chào dân chúng đứng xếp hàng với những lá cờ Việt Nam cộng hòa và cờ Mỹ dọc sân bay.

Buổi tiếp đón tuy trọng thể nhưng cũng chỉ là những nghi lễ thông thường. Không biết Nhu có dụng ý gì mà lại mời mình tới, Hai Long tự hỏi trên đường trở về nhà thờ Phát Diệm.

Anh thuật lại với cha Lê những điều đã thấy ở sân bay, rồi hỏi:

- Con có nên đi cùng bà Nhu ngày mai không?

- Nhu mời đi cùng hắn thì đi chơi, còn đi với vợ hắn thì đi làm gì?

Buổi tối, khi Tung gọi điện thoại, Hai Long trả lời khước từ. Anh chắc việc này làm phật ý Nhu.

Mấy ngày sau, Lê Quang Tung mang tới cho Hai Long toàn bộ những văn bản cuộc hội đàm Diệm - Johnson, trong đó phó tổng thống Mỹ long trọng hứa sẽ tăng cường viện trợ mọi mặt cho Việt Nam cộng hòa, kèm theo một bộ ảnh ghi lại quá trình gặp gỡ giữa vợ chồng Nhu với vợ chồng Johnson. Hai Long thấy cũng có mình trong một vài tấm ảnh. Anh đã hiểu dụng ý của Nhu. Nhu muốn khoe quan hệ Diệm - Nhu với Mỹ vẫn đằm thắm, chứ không phải như cha Lê đã nhận xét.

Cha Lê xem xong, cười nhạt:

- Đón tiếp hữu nghị thế này, hội đàm thân mật thế này mà lật nhau lúc nào không hay đâu!... Đây là cái người ta đem cho mình, cái này cũng sẽ đăng báo. Còn cái người ta chưa cho mình, cái ấy mới quan trọng.
 
3.

Hai Long đã đánh giá được thái độ của Nhu đối với anh sau khi anh về Sài Gòn, không phải là sự hờ hững.

Y đã cho người thân tín đến gặp mình không chỉ một lần. Y đang rất cần đến sự giúp đỡ của anh. Y đã mời anh đến sân bay trong cuộc tiếp đón Johnson, vì y nghĩ khi về gặp cha Lê, anh sẽ nói lại những điều có lợi cho y. Việc y nhờ anh đi cùng Lệ Xuân, là một cử chỉ tỏ sự tin cậy, gây cảm tình. Nhưng điều quan trọng là Nhu đang làm ngược lại những lời khuyên cáo của anh. Nhu đang tìm mọi cách để cải thiện mối quan hệ giữa Việt Nam cộng hòa với Mỹ, cụ thể là quan hệ giữa Diệm - Nhu với Mỹ, và trước hết giữa Nhu với Mỹ. Anh đã nói với Nhu bữa trước, theo ý Đức cha, người Mỹ đang muốn gạt Nhu. Mời được phó tổng thống Mỹ sang đúng vào dịp này rất có lợi cho cá nhân của y. Trong triều đình họ Ngô, y là nhân vật số 2. Chính vợ chồng y, chứ không thể là ai khác, sẽ tiếp đón vợ chồng phó tổng thống Mỹ. Không những người trong nước mà cả thể giới sẽ biết ngay chuyện này. Những tin tức, tranh ảnh, văn kiện của cuộc hội đàm sẽ cải thiện vị trí của y trước mắt mọi người, sẽ là một đòn mạnh đánh vào cánh đối lập muốn lật đổ y, vì nghĩ là y không còn được Mỹ tin dùng. Y đã tính một nước cờ khá đúng. Dư luận chống đối ở Sài Gòn nhắm vào Nhu đã có phần xẹp đi trong những ngày qua. Anh dự tính sẽ làm gì trong cuộc gặp y mà anh tin rằng sẽ diễn ra nay mai.

Quả nhiên, chỉ mấy ngày sau, Lê Quang Tung lại đến nhà thờ Phát Diệm, tìm Hai Long. Lần này, y mời anh tới gặp ông cố vấn chính trị tại nơi làm việc. Trước khi đi, Hai Long nói với cha Lê:

- Con cần có danh nghĩa rõ ràng khi gặp ông Nhu. Mặc dù ông đã biết rõ con, nhưng con muốn xin Đức cha một thư giới thiệu con là người phụ tá của Đức cha.

- Cha nghĩ chẳng cần. Đối với cha, ông cố vấn chính trị chẳng là cái gì. Nhưng con đã muốn vậy, cha sẽ chiều ý.

Cha Lê viết một lá thư ngắn, bỏ phong bì dán lại, rồi trao cho Hai Long. Từ giờ phút này, anh đã chính thức là người phụ tá của cha Lê. Cha nhìn anh rồi bảo:

- Đến gặp "người ta" cũng nên ăn mặc cho đàng hoàng.

Hai Long về nhà, thay sơ mi trắng, đeo thêm chiếc cravat rồi lên xe đi với Tung.


4.

Lâu dài Norodom, do những viên đô đốc - toàn quyền Pháp xây dựng từ thế kỷ trước, nằm sâu trong một khuôn viên rộng, cây cối xanh tốt, với những ô cửa cuốn nặng nề, đã trở thành món quà của thực dân Pháp tặng cho chính quyền Sài Gòn sau ngày đội quân viễn chinh Pháp bại trận rút về nước. Ngô Đình Diệm đã đặt cho nó một cái tên mới là Dinh Độc Lập.

Đã bao lần Hai Long đi qua đây, ngắm nhìn cái vẻ thâm nghiêm của nó qua hàng rào sắt, với ước muốn một ngày kia mình sẽ lọt vào đây để làm những việc động trời. Người anh lâng lâng khi ngồi trên chiếc xe phóng qua những cánh cửa sắt đã được mở rộng, với những tên lính gác đứng nghiêm giơ tay chào. Một ý nghĩ chợt nhói lên: mình vẫn chưa bắt được liên lạc...

Viên đại tá dẫn Hai Long bước lên những bậc thềm đá qua một cái sân rộng, rồi vào một căn buồng ở phía bên trái của ngôi nhà. Đây là phòng tiếp khách riêng của ông cố vấn chính trị. Vẫn là những đồ đạc cũ của phủ Toàn quyền ngày xưa. Tủ và bàn ghế được đóng theo kiểu cung đình thời vua Louis, chạm trổ tinh vi, bóng lộn. Bức ảnh bà cố vấn với mái tóc bới cao, buông rèm trên trán, lồng khung kính treo trên tường, hơi lạc lõng. Về sau, Hai Long biết ông cố vấn mới cho treo tấm ảnh này khoảng một năm, khi bà cố vấn chê ông chồng có tuổi, không galant[3].

Chủ nhân chưa có mặt trong phòng. Viên sĩ quan nội thất, quần áo trắng bong như vừa lấy trong hộp ra, lễ phép báo cáo:

- Mời ngài ngồi chờ một chút. Ông cố vấn đang mắc việc.

Không biết có phải y bắt mình chờ đợi để xác định uy quyền không, Hai Long nghĩ. Anh rút lá thư của cha Lê đưa cho viên sĩ quan:

- Nhờ ông chuyền trước cho ông cố vấn thư giới thiệu của Đức cha Lê.

Anh lại tự xác định danh nghĩa của mình là người phụ tá của cha Lê trong cuộc nói chuyện. Về phẩm hàm tôn giáo, cha Lê ngang hàng với Thục, lại còn có uy tín và được nhiều người biết hơn cả Thục.

Nhu từ buồng trong bước ra, mặc chiếc áo nịt ngắn tay. Cách ăn mặc này làm y trẻ ra. Thái độ y cũng tươi tỉnh hơn ngày anh gặp ở gia đình Cẩn. Rõ ràng y tiếp Hai Long theo kiểu người nhà.

Nhu bỏ qua những thủ tục xã giao, vào việc ngay:

- Sau cuộc viếng thăm Việt Nam cộng hòa của phó tổng thống Mỹ, anh thấy có gì mới?

- Ông cố vấn đã đạt được một kết quả rất ngoạn mục. Dư luận về người Mỹ sắp bỏ rơi tổng thống và ông cố vấn xẹp đi. Một số người ở phía đối lập thấy phải xem xét lại chủ trương và hành động của mình.

- Chúng tôi mới giải quyết những vấn đề cơ bản ở thượng đỉnh. Trong năm nay, sẽ nhanh chóng cụ thể hóa thêm. Mỹ sắp cử sang nhiều phái đoàn để thực thi những thỏa thuận giữa tôi và phó tổng thống Mỹ.

- Ai cũng nghĩ là sẽ như vậy

- Như anh nói, đó là dư luận chung, còn ý kiến cha Lê? Những tài liệu tôi bảo Lê Quang Tung mang tới, anh có đưa trình cha không?

- Ngài đã xem toàn bộ tài liệu, kể cả những tấm ảnh...

Hai Long ngập ngừng, tỏ ra đang còn phân vân, muốn lựa lời. Làm cho y vui đủ rồi, giờ phải dội cho y một gáo nước lạnh.

- Ý cha có chỗ hơi khác...

- Khác thế nào, anh cứ nói. Tôi rất cần biết.

- Cha vẫn không tin là Mỹ thành thật. Đã hợp tác với Mỹ thì phải luôn luôn đề phòng... Nay phó tổng thống Mỹ qua Sài Gòn, có cam kết ủng hộ tổng thống chăng nữa, cũng là để xác định uy quyền của kẻ chi tiền. Kẻ nào chi tiền, kẻ ấy điều khiển. Mỹ sẽ trói buộc tổng thống chặt chẽ hơn nữa trong khi tổng thống và ông cố vấn lại không muốn hoàn toàn nộp mình cho Mỹ. Mâu thuẫn giữa Mỹ với tổng thống chưa phải đã được giải quyết. Ngài bảo những văn bản đã ký kết là để đăng báo, còn phía sau thế nào, chưa biết. Để rồi coi...

Nhu ngồi tay chống cằm, chăm chú lắng nghe.

- Trước sau, cha vẫn không tin người Mỹ. - Hai Long kết thúc.

Nhu ngồi ngay người lại, xoa xoa lòng bàn tay vào nhau.

- Cha rất sâu sắc... Nhưng tôi hỏi anh: chống Cộng mà không dựa vào Mỹ thì chống sao nổi?

- Ý cha là muốn chống Cộng kết quả, phải giữ đường lối trung lập. Nhiều quốc gia trên thế giới đã làm thế.

- Cha chủ trương trung lập ư?

- Từ lâu Đức cha vẫn chủ trương trung lập. Ngài đã từng khuyến cáo Bảo Đại theo đường lối trung lập, thân Pháp mà không chống Mỹ, còn tổng thống thân Mỹ lại chống Pháp. Như thế thì lực lượng chống Cộng của tổng thống không thể nào lớn mạnh. Nay tổng thống có sửa lại đường lối, thái độ đối với Pháp cũng muộn rồi!

- Theo ý cha thì nên chuyển theo hướng trung lập hay sửa thái độ đối với Pháp?

- Hai vấn đề ông cố vấn nói, theo cha chỉ là một. Đa số trong hàng giáo phẩm Việt Nam kiên nhẫn vận động tổng thống xét lại đường lối chống Pháp từ năm 1954 đến nay. Các linh mục dòng Thừa sai và Tòa thánh Vatican cũng vận động chính phủ Pháp nối tiếp mối quan hệ giữa hai bên Pháp và Việt Nam cộng hòa. Ông đã biết nhiều người như giám mục Jean Cassaigne ở Sài Gòn, giám mục Joseph Smith ở Métz, đức Hồng y Vio ở Vatican... đều có ý kiến dó. Cha Lê nói hình như ông cố vấn cũng đang cứu xét vấn đề này nhưng còn do dự nên về phía người Pháp, người ta cũng phải thận trọng. Tuy nhiên, Tòa thánh Vatican vẫn kiên trì khuyên Đức cha hòa giải với tổng thống để tạo điều kiện cho tổng thống xích lại gần Pháp và Tòa thánh... Cha đã chính thức giới thiệu tôi tiếp xúc với ông cố vấn hôm nay, để liệu bề khuyên ông cố vấn theo đường lối giáo hội.

Nhu chăm chăm nhìn một khoảng trống trên tường, vầng trán nhíu lại. Hai Long biết y vừa lắng nghe vừa tính toán giải quyết những vấn đề anh đang đặt ra.

- Những diều anh vừa cho biết rất quý. Anh cần làm cho cha thông cảm với tổng thống hơn nữa. Làm theo cách nào thì chắc anh biết rồi. Tuy nhiên, tôi còn muốn yêu cầu ở anh hơn. Anh phải giúp tôi nắm vững những vấn đề cụ thể. Cha vẫn cho rằng Mỹ không thành thật, chống chúng tôi, thì họ đang muốn gì, đang làm gì cụ thể? Họ có thể làm gì trong thời gian tới? Còn cha chủ trương trung lập, thì cha đang mưu tính gì ngoài việc trao cho anh tới đây tác động tôi và tổng thống? Thái độ của cha cố Pháp dòng Thừa sai Paris, của Vatican có thật đúng như cha đánh giá không? Nếu đúng, họ sẽ hành động tới đâu? Tôi muốn biết kịp thời tất cả những điều đó. Có tin gì gấp, anh gọi điện thoại ngay cho tôi, hoặc tới trực tiếp gặp tôi bất cứ lúc nào. Tôi sẽ trao nhiệm vụ cho Tung.

Nhu đã tự coi Hai Long như là người của mình. Y chỉ muốn biết thêm, mà không để lộ những suy tính của mình. Y đang cần lấp những lỗ hổng mà những cơ quan an ninh, mật vụ của y còn chưa lấp được.

Nhu nói tiếp:

- Về phần tôi, tôi cam kết yểm trợ cho anh tất cả những gì anh cần, để đạt những yêu cầu vừa rồi. Anh được tự do hành động, miễn sao hành động có kết quả.
 
×
Top Bottom