Ông cố vấn - hồ sơ một điệp viên

5.

Hơn một tháng đã trôi qua kể từ ngày những tấm bưu thiếp được gửi đi.

Hai Long biết việc bắt liên lạc với trung tâm không thể nhanh chóng nhưng anh vẫn cảm thấy sốt ruột. Anh đã thực sự lọt vào cái mục tiêu mà từ lâu Trung tâm mong đợi. Nhưng bây giờ tổ chức đang cần gì ở anh, và anh làm cách nào di chuyển tới cấp trên những gì anh đã nắm được trong hai năm qua. Anh nghĩ rằng có nhiều điều cấp trên đang cần biết. Mỗi tin tức đều chỉ có giá trị trong thời gian nhất định, nhiều khi phải tính bằng từng ngày, từng giờ. Một tin tức quan trọng nhất cũng trở thành vô nghĩa nếu đã mất tính thời gian.

Hằng ngày, Hai Long lại tiếp tục những công việc giúp đỡ gia đình kiếm sống như trước đây. Sáng sớm, nếu bác Bảy không tới, anh dùng xe đạp đèo giúp vợ hai sọt rau ra chợ Thị Nghè. Buổi tối, anh chở vợ đi chợ Cầu Ông Lãnh, chờ chị mua rau quả chất đầy lên xe xích lô, hai vợ chồng theo xe cùng trở về nhà. Thời giờ còn lại, nếu không tới nhà thờ Phát Diệm, nhà thờ Bình An hay vào dinh Độc Lập, thì anh ra thư viện đọc sách. Anh cũng tranh thủ tự học củng cố thêm tiếng Anh, vì biết chỉ nay mai sẽ phải dùng nhiều ngoại ngữ này.

Hòe lại tới tìm anh. Lần này, họ gặp nhau tại một quán cà phê. Anh đã hiểu tâm trạng của một người ở vùng tạm chiếm, đã được tiếp xúc với cách mạng và tự mình đã có nhiều cống hiến. Hòe không muốn bỏ lỡ cơ hội của mình sau khi Hoàng đã hy sinh. Anh nhìn cách mạng bằng cặp mắt chân thành và ngây thơ. Anh chưa hiểu cuộc đấu tranh này vô cùng khắc nghiệt, và những nguyên tắc bí mật cần phải tuân thủ. Hòe muốn dược Hai Long trao ngay công tác. Hòe còn ngỏ ý muốn giúp đỡ Hai Long một ít tiền, vì anh mới được tha về, gia đình còn gặp quá nhiều khó khăn. Hai Long không muốn nói với Hòe bản thân mình cũng đang mất liên lạc, mình không được sử dụng người vào công tác khi chưa có quyết định của tổ chức, và mặc dù anh đã biết Hòe là đảng viên, nhưng trước khi nhận công tác này, Hòe vẫn phải được thẩm tra và tiếp tục thử thách. Anh chỉ nói với Hòe cứ củng cố chỗ đứng chân và chờ đợi. Anh lựa lời từ chối sự giúp đỡ về vật chất của Hòe, cố không để làm Hòe buồn. Anh đã biết Hòe cũng không dư dật gì. Ngày hai buổi đi làm về, Hòe vẫn phải tranh thủ viết báo thêm kiếm tiền chi tiêu cho gia đình. Nhưng anh cũng nhận thấy Hòe có một hoàn cảnh khá thuận lợi cho công tác. Đối với địch, lý lịch của Hòe rất rõ ràng. Hòe tuy đã bị bắt, nhưng những việc Hòe đã làm chỉ là vô tình. Hòe lại quen biết rất nhiều nhân vật cao cấp trong chính quyền, cũng như trong giới công thương. Anh hy vọng một ngày kia Hòe sẽ trở thành người cộng sự với mình trong công tác.

Hai Long cột mấy khúc gỗ vào xe đạp, treo những sọt rau đưa ra chợ. Chị Hai nhìn chồng với cặp mắt ái ngại:

- Bác Bảy mấy ngày nay lại yếu đau gì, không thấy đâu. Hay anh bỏ đó, ra cửa thấy chiếc xích lô nào đi qua thì thuê.

- Để mặc anh, mỗi sáng làm một cuốc thể dục thế này, cả ngày người lại thấy khỏe.

Vừa lúc đó, có tiếng bác Bảy ngoài cửa. Chị Hai mừng rỡ:

- Nhà em ra ngay đó!

Bác Bảy đi vào nhà. Chị Hai nói:

- Bác thiêng quá! Em vừa nhắc đến bác xong. Chỉ lo bác bệnh không đi hàng.

- Mấy ngày qua vô cao su. Năm nào dịp này cũng vô đó thăm mộ bà nó.

- Bác đi thăm mộ mà không nói để chúng em gửi cho bác gái nén hương.

- Cũng không tính trước đi ngày dó. Nhân cái xe hư phải đưa sửa mấy ngày, rãnh việc là đi luôn.

Chị Hai đã nói với Hai Long, mấy năm qua chị coi bác Bảy như người ruột thịt. Bác chở hàng cho chị bao giờ cũng chỉ lấy nửa tiền. Có khi bác cho chịu. Khi chị ốm, bác mang quà vào tận bệnh viện thăm. Bác còn cho vay cả tiền. Lúc trả nợ, bác nói cứ giữ lấy mà chi dùng, vì bác chưa cần tới. Chị nói: "Lúc gặp khó khăn mới thấy nhiều người tốt". Một lần Hai Long ngỏ lời cảm ơn, bác gạt đi: "Chú phải hy sinh nhiều, chớ tôi làm được cái chi?".

Trên đường ra chợ, tới một đoạn vắng người, những ngôi nhà hai bên hè cửa còn đóng kín mít, bác Bảy ngồi phía sau bỗng ghé đầu vào tai Hai Long nói nhỏ:

- Chú Hai mấy năm qua bị bệnh đau đầu đã chữa lành rồi hả? Chú lại tiếp tục đi dạy học chớ?

Hai Long sững sờ... Thì ra người anh cần tìm vẫn ở ngay bên cạnh!

- Dạ..., hết đau đầu rồi. Và lại tiếp tục đi dậy học.

Bác Bảy chạm tay vào vai anh, rồi áp vào ngực anh một mảnh giấy nhỏ.
 
6.

Tới đầu đường Trương Tấn Bửu, Hai Long dừng lại mua một bao thuốc lá. Đây là lần thứ ba, anh kiểm tra "đuôi".

Anh chuyển cái túi từ vai phải qua vai trái, báo dấu hiệu an toàn.

Anh tiếp tục đi thêm một quãng, đưa mắt tìm một ngôi nhà số lẻ bên kia đường. Đó là một ngôi nhà nhỏ hai tầng, ở hơi thụt vào bên trong so với những nhà khác, phía trước có hàng rào sắt. Mảnh giấy bác Bảy đưa cho anh sáng hôm qua, sau khi được xử lý kỹ thuật đã hiện lên nhưng quy ước và tín hiệu của cuộc gặp gỡ ngày hôm nay.

Hai Long nhìn lên lầu, nhận ra cánh của sổ mở một bên, phía trong có tấm màn gió mầu hồng. Dấu hiệu an toàn ở điểm hẹn. Hai Long kiểm tra "đuôi" một lần nữa trước khi sang đường.

Hai Long dừng lại trước cổng sắt, bỏ mũ cầm bên tay trái rồi bấm chuông.

Một cô gái mặc bộ đồ soa màu mận chín từ trong nhà đi ra, mắt liếc rất nhanh vào chiếc mũ và cái túi đeo bên vai trái anh, rồi hỏi:

- Thưa ông tìm ai?

- Đây có phải là nhà em Thanh không ạ?

- Ông dạy ở trường Hưng Đạo?

- Thưa, tôi dậy ở trường Bình An.

Cô gái bật đầu mở khóa cửa:

- Xin mời ông vô nhà.

Khi cả cánh cổng sắt và cửa ra vào của ngôi nhà đã khóa lại rồi, cô gái quay lại nói nhỏ với Hai Long:

- Anh đi thẳng vô buồng trong cùng, ổng đang chờ anh.

Một người đã hơi đứng tuổi, da ngăm ngăm, tóc vuốt ngược về phía sau, còn dáng dấp ngang tàng của một anh Hai Nam Bộ, đang ngồi uống trà trong căn buồng xép có cửa mở ra vườn.

- Tôi là A.22. - Hai Long tự giới thiệu.

Anh vội đứng dậy, bước ra ôm chầm lấy Hai Long rồi kéo lại bên bàn:

- Ngồi xuống dây, đồng chí Hai Long. Chúng tôi mong anh muốn chết luôn! Trung tâm vừa điện vô, anh viết bưu thiếp bắt liên lạc. Nhưng ở đây, chúng tôi vẫn theo dõi anh hàng ngày. Biết anh sốt ruột nhiều, nhưng cái trò công việc này vẫn phải có những bước không thể bỏ qua. Chúng tôi cũng rất trông mọi chuyện cho chóng xong, xong khi nào là lao vô kiếm anh luôn. Các cơ sở của ta đã báo cáo về anh, đã liên lạc được với cả anh Mười. Báo cáo xong với Trung tâm là tôi vô đây ngay. Tôi là Tám, Trung tâm biệt phái vô cứ sau khi anh Mười bị bắt. Uống trà đi, rồi chúng ta nói chuyện dài dài. Nghe các nơi báo cáo về anh, thì cũng chỉ chừng chừng. Không gặp nhau thế này làm sao hiểu rõ ngọn ngành.

Hai Long có câm giặc lúc này mình mới thật sự "trở về".

Anh báo cáo lại với đồng chí Tám toàn bộ quá trình từ khi bị bắt, lý do bị bắt, những chỉ thị của anh Mười đã được anh hiểu và vận dụng như thế nào để vừa thoát khỏi tình trạng giam cầm, vừa tạo thế mới tiếp tục đánh địch. Anh báo cáo về những mâu thuẫn trong lòng chế độ Sài Gòn, những mâu thuẫn giữa anh em nhà họ Ngô, âm mưu của Mỹ định đưa quân vào miền Nam Việt Nam, những mâu thuẫn đang nảy nở và phát triển giữa đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Anh báo cáo về tình hình bình phong của mình hiện nay, và tin rằng đã có điều kiện thu thập những tin tức chiến lược như nhiệm vụ của Trung tâm đã trao.

Đồng chí Tám hỏi kỹ về thái độ của Nhu, Cẩn, cha Lê và cha Hoàng đối với anh, về những gì còn đang đe dọa sự an toàn cửa anh. Sau đó, anh tập trung hỏi về những ý đồ và kế hoạch chiến lược mà Nhu đang dự định.

Anh Tám nói:

- Khi Trung tân đưa đồng chí về Tổng bộ tự vệ Phát Diệm là tính chuyện lâu dài, đợi thời. Tưởng ở với cha Lê và cha Hoàng thì yên, ngờ đâu đồng chí lại bị bắt. Nhưng trong cái rủi cũng có cái may. Vì bị bắt mà lại có cơ hội lọt sớm vô dinh Độc Lập. Gặp khó khăn, biết vận dụng có sáng tạo chỉ thị của trên, xoay xở được như vậy là phải có tâm huyết, có nhiệt tình và có bản lãnh đó. Tuy bị bắt và bị lộ một phần, nhưng an toàn của đồng chí vẫn còn chưa bị uy hiếp, vì có bình phong tốt, và chỗ dựa trước mắt là Nhu, Cẩn. Nhiệm vụ của Trung tâm trao cho đồng chí bây giờ là tiếp tục đi sâu, thu thập tài liệu tin tức phục vụ cho chỉ đạo về chiến lược, và cả về chiến dịch. Đảng ta đã công khai phát động toàn dân chiến đấu để giải phóng miền Nam. Bộ Chính trị nhận định Mỹ sẽ tiến thêm một bước can thiệp vũ trang vào miền Nam. Ta phải đẩy cuộc cách mạng tiến lên trong tình hình gay go phức tạp, cũng như trong tình hình có những chuyển biến mới có lợi. Nếu bám chắc được Nhu, Nhu chứ không phải Diệm, là sẽ biết địch đang muốn gì. Từ lâu, Nhu đã có ý đồ xây dựng những ấp chiến đấu theo kiểu Phát Diệm, Đồng Quan. Hắn đã làm thí điểm ở một số nơi. Ý đồ này rất nguy hiểm. Làm sao phải nắm vững ý đồ này, nhất là khi đã hình thành kế hoạch. Mâu thuẫn giữa Mỹ và ngụy quyền đang phát triển, cần làm sao khơi sâu thêm, kịp thời nắm khả năng chính biến sắp xảy ra, để ta tính việc của ta. Nhiệm vụ cụ thể trước mắt là như vậy. Có yêu cầu gì mới, Trung tâm sẽ chỉ thị thêm. Liệu Nhu có cho người theo dõi cậu không?

Chắc đồng chí ấy thử mình, Hai Long đáp:

- Những người đã vào dinh Độc Lập, không ai qua khỏi sự kiểm soát chặt chẽ hàng ngày của mật vụ, đối với Nhu đó là nguyên tắc.

- Cậu có cần phương tiện gì không, máy chụp ảnh, máy ghi âm cỡ nhỏ..., để bọn mình lo.

- Có lẽ chưa cần. Bọn mật vụ của Nhu, CIA thành thuộc những phương tiện này hơn ta. Tôi sẽ cố sử dụng trí nhớ.

- Gay đó! Loại văn bản này, sai một chữ, một dấu phết, cũng có thể trở thành rất nguy hiểm.

- Tôi đã hiểu tốt nhất là lấy được tờ sao nguyên bản, còn khi đã phải ghi chép lại, thì người cán bộ phải có trách nhiệm lớn với mỗi sai sót.

Đồng chí Tám nhìn Hai Long giây lát, rồi chuyển qua chuyện khác:

- Cậu nói bài học thời gian qua là lợi dụng và khai thác những mâu thuẫn trong hàng ngũ đối tượng, dùng toàn những thế "hờ" và lực "mượn" của các đối tượng mà đi lên, hay đó! Nhưng phải bám và dựa chắc vào Bình An và Phát Diệm. Cha Lê nói đúng: "tổng thống có đổ, đức cha vẫn còn!". Nhớ đây là một chủ trương lâu dài của Trung tâm.

Rồi đồng chí Tám nheo nheo mắt nhìn Hai Long, miệng hơi mỉm cười:

- Cậu làm lễ dược ở nhà thờ ông Cậu, thì "đường tu" tiến bộ nhiều rồi đó! Phải cố tu cho tròn quả phúc. Năng vô dinh Độc Lập, dừng có mà mê bà cố vấn chính trị đó. "Tu là cõi phúc, tình là dây oan"; cậu có thuộc Kiều không?

- Dạ, thuộc nằm lòng.

Đã khá lâu rồi, Hai Long mới có những giờ phút thực sự sống trong tình đồng chí.


---

[1] Tức Giám mục Lê Hữu Từ

[2] Tức Linh mục Hoàng Quỳnh

[3] hào hoa
 
CHA HOÀNG

1.

Cha Lê nhắc Hai Long nên dành nhiều thời giờ tới Bình An vì công việc ở đó đang nhiều. Điều này do chính anh đã gợi ý cha Hoàng nên nói với cha Lê.

Giám mục Lê là người đứng đầu giáo dân di cư, hiểu biết rộng và tinh khôn, nhưng vì phẩm hàm quá cao, tính tình lại cao ngạo nên nhiều người e ngại không dám gần. Cha Lê cũng không trực tiếp điều hành mọi việc của giáo phái, mà giao cho cha Hoàng. Cha Hoàng không phải là người thừa hành, mà là người thực sự điều hành, quyết định mọi việc dưới sự chỉ đạo về đường lối của cha Lê. Khách lui tới nhà thờ Bình An nhiều hơn nhà thờ Phát Diệm. Đặc biệt, những tướng tá chống đối Diệm - Nhu hay tìm đến cha Hoàng, vì cha đã có thời là "tổng tư lệnh" tự vệ Bùi Chu - Phát Diệm, hiện nay lại đứng đầu Hội cựu chiến binh Phát Diệm. Hai Long đã có danh nghĩa là người phụ tá của cha Lê, được ủy nhiệm giao tiếp với chính quyền về những vấn đề có liên quan đến khối giáo dân di cư. Nhưng anh không có nhiều việc để làm ở Phát Diệm. Ở Bình An, có lợi cho công tác của anh hơn.

Cha Hoàng rất vui mừng khi thấy cha Lê bảo Hai Long trở về với mình. Hai Long không chỉ còn là người để cha tâm sự, một người "biết làn chính trị", mà đã có một vị trí mới trong gia đình họ Ngô đang cầm quyền. Hai Long chỉ xin nhận làm cố vấn cho Văn phòng Hội cựu chiến binh Phát Diệm. Anh không muốn gây sự đố kỵ trong những người đang giúp việc cho cha. Cha Hoàng cũng đồng ý vì hoạt động của Hai Long ngày nay đã rộng lớn hơn nhiều, và cần phải rất "tế nhị".

Hai năm qua, cha Hoàng đã không bỏ lỡ cơ hội Diệm - Nhu đang gặp những khó khăn. Ông đã tổ chức ra Văn phòng Hội tự vệ Công giáo, cử người tới các khu giáo dân di cư công khai kêu gọi về Bình An ghi tên gia nhập Hội. Ông gây quỹ cho Hội, lo công ăn việc làm cho hội viên, đòi hỏi những quyền ưu tiên ưu đãi của chính quyền dành cho cựu chiến binh. Ông trực tiếp tới gặp "Ủy ban chấp hành trung ương Hội cựu chiến binh Việt Nam", đòi công nhận tổ chức của mình là một phân hội, và phải chia những quyền lợi của Hội này cho tổ chức của mình. Thấy cha làm ăn được, những cựu tự vệ càng năng lui tới. Những phe nhóm chống Cộng khác, những người chống Diệm - Nhu, những người thân Pháp trước đây còn e ngại, nay thấy cha Hoàng lại tập hợp được lực lượng, cũng bắt đầu kéo tới móc nối, tính chuyện làm ăn.

Cha Hoàng phấn chấn kể lại những việc mình đã làm. Hai Long ngồi nghe tỏ vẻ vui mừng. Nhưng rồi bộ mặt của anh lại trở nên rầu rĩ.

- Mấy năm qua, cha Tổng tuổi cao sức yếu mà đã làm được quá nhiều việc, nhưng trở lại Bình An, con chẳng khỏi cảm thấy đau lòng. Bà con giáo dân xứ đạo ta sống cực quá. Quanh quẩn chỉ sống bằng mấy cây cói. Cha chánh xứ ngày xưa ở nhà thờ Phát Diệm nguy nga, bây giờ về đây, nơi thờ Chúa tường cây, mái tôn. Nhìn cảnh này con chẳng yên lòng. Lại còn việc học hành của con em giáo dân. Cả xứ đo chỉ có một trường tiểu học hoang hủy. Con nghĩ không thể để như thế này. Phải tính ngay tới chuyện đào tạo, xây dựng lực lượng của ta lâu dài không e muộn.

Một đám mây u ám che phủ bộ mặt đang vui của cha Hoàng. Điều Hai Long vừa nói, đã dụng tới một nỗi đau của cha. Cha rất căm chính quyền đã đày mình và giáo dân tới vùng đất khô cằn này. Cha rất rầu lòng khi nhìn ngôi trường tiểu học mái tôn, vách ván tối tăm. Con em xứ đạo muốn học tiếp trung học, phải đi sang xứ đạo khác ở khá xa. Từ lâu, cha đã có mơ ước xây cho xứ đạo Bình An một trường trung học, thậm chí cha đã đặt cả tên cho nó là Hoa Lư, để tưởng nhớ tới Ninh Bình, quê hương gốc gác của mình. Nhưng không biết kiếm đâu ra tiền vì xứ đạo này quá nghèo.

- Mình nghĩ mãi rồi... Chẳng có cách nào kiếm ra tiền xây trường!

- Trình cha, sao lại không có cách? Nếu danh tiếng của Phát Diệm được phục hồi, thì không phải chỉ có xây trường khang trang, mà ta còn xây lại cả nhà thờ. Riêng việc xây trường, ta có thể xin tổ chức Công giáo quốc tế về phát triển trường tư thục Công giáo trợ giúp. Và phải bắt chính những kẻ đã đày giáo dân tới cảnh lầm than này, bỏ tiền ra để ta xây dựng trường cho con em.

Nét mặt cha Hoàng vui hẳn lên, nhưng cha vẫn nhìn anh với cặp mắt còn như chưa hiểu hết những lời anh nói.

- Việc này cha để con lo. Mai mốt con sẽ thưa lại.

- Thầy Bốn mà làm được việc đó thì cả xứ đạo không bao giờ quên ơn.

- Không phải con làm được việc này, chỉ cha Tổng mới làm được, có điều là cha chưa nghĩ tới đó thôi.
 
2.

Từ ngày về Sài Gòn, Hai Long đã đôi lần gặp lại Dương Văn Hiếu và Tá đen.

Đoàn cán bộ công tác đặc biệt miền Trung của Cẩn vẫn nằm ở ngôi nhà phố Vân Đồn và trại Lê Văn Duyệt, Sài Gòn, tiếp tục tác yêu tác quái. Anh đã nhận thấy ở Tá đen vẻ cay cú pha trộn với sợ hãi. Thường thì hắn đảo cặp mắt rắn ráo nhìn anh rồi lẩn luôn. Hiếu biết che giấu hơn. Hắn đã được Cẩn dặn dò về quan hệ với anh. Hắn chủ động nói trước: "Anh em ta thông cảm nhau, vì cùng là giáo dân di cư, cùng là cán bộ của ông Cậu, cùng lý tưởng chống Cộng. Ông Cậu đã chỉ thị cho tôi phải giúp đỡ anh tất cả những gì cần để thực hiện nhiệm vụ ông Cậu giao...". Nhưng qua vẻ vừa trọng nể vừa thân tình của hắn, Hai Long vẫn cảm thấy sự giả dối. Hiếu và Tá đen là những vật chướng ngại trên con đường đi vừa mở ra thênh thang. Đối với anh, đây là những phần tử rất nguy hiểm. Cần phải tìm mọi cách hạn chế chúng. Anh đã nghĩ tới khi cần, buộc phải xử án chúng, hoặc mượn tay Cẩn, tay Nhu, hay nhờ đội đặc biệt. Nhưng chúng sẽ không làm gì được anh, chừng nào anh còn nắm chắc được Nhu và Cẩn.

Hai Long quyết định ra Huế.

Xuống sân bay Phú Bài, anh đi thẳng về nhà Cẩn ở Phú Cam.

Nghe người nhà báo tin anh tới, ông Cậu lật đật ra cửa, ôm lấy anh, rồi khoác vai đưa vào nhà.

Cẩn hỏi về cuộc hội đàm với Johnson và thái độ của vợ chồng Nhu đối với ông Cụ.

Hai Long nói, anh được Nhu mời đi tháp tùng vợ Nhu trong cuộc tiếp đón vợ chồng phó tổng thống Mỹ, nhưng Đức cha không cho đi. Nhu chưa cho anh biết gì hơn ngoài những điều đã thông báo trên báo chí, nhưng theo dư luận thì không phải chỉ có như vậy.

Cẩn lầm bầm:

- Hắn muốn ép mình để đưa quân Mỹ vô, nhưng quân Mỹ chưa vô, hắn đã xúi người lật đổ mình. Quân Mỹ vô rồi thì mần răng mà yên với hắn!

Về chuyện trong phủ tổng thống, Hai Long nói, anh mới ra vào vài lần, thì thấy đúng như điều Cẩn đã nhận xét trước đây, ông Cụ quá tốt, quá tin người, đã chót dùng ai thì dù người đó có xấu cũng cứ dùng cho tới cùng, vì không có người nói sự thật, nên ông Cụ vẫn cho rằng mọi chuyện đều tốt. Ông Nhu uyên bác, tài cao, nhưng phải làm mọi việc, lại không thích giao du, chung quanh không có ai, nên chủ trương thì hay, nhưng không có người thực hiện.

- Có đó chớ... bà Nhu! Hai người là đủ quá rồi! - Cẩn nói mát mẻ, vẻ mặt cay cú.

- Tiếc là Đức cha Thục đã ra Huế rồi. Nếu như cha còn ở Vĩnh Long, thỉnh thoảng người lên cho ý kiến, thì tốt cho tổng thống hơn.

Cẩn ngồi trầm ngâm, rồi nói:

- Anh chưa biết hết chuyện nhà ni. Cha Thục rất nghe bà Lệ Xuân. Một mụ Đắc Kỷ!... Việc tui nhờ anh, anh đã lựa dịp bàn với hai cha chưa?

- Dạ, tôi đã làm ngay từ khi về. Cha Lê vẫn im lặng, chỉ khen cậu Út là người thủy chung. Nhưng cha Hoàng thì rất sốt sắng. Tôi dã bàn luận với cha Hoàng nhiều lần. Chuyện tổng bộ, thì cha Hoàng mới là người thực việc. Lực lượng của cha Tổng hiện nay đã tập hợp lại, đông lắm. Uy tín của cha Hoàng trong giáo dân và các đoàn thể chính trị lên rất cao... Ra Huế lần này, tôi muốn bàn với ông Cậu tìm cách xúc tiến thêm mối quan hệ...

- Anh có cách chi?

- Tôi cũng thấy việc này rất khó, vì phải đi từng bước, mà rất kín đáo...

Cẩn gật đầu. Hai Long nói tiếp:

- Thực ra, cha Tổng còn hận ông Nhu nhiều, vì cha thừa biết chính ông Nhu đã đày cha về xứ Bình An. Còn đối với tổng thống và ông Cậu, thì cha vẫn rất quý trọng. Gần đây, cha Tổng đang quyên góp tiền để xây một trường trung học ở xứ đạo của cha. Có lẽ nhân dịp này, ông cố vấn nên gửi tặng xứ đạo một số tiền dưới danh nghĩa là góp vào việc công ích cho giáo dân. Nếu cha Tổng vui lòng nhận, thì có thể coi là giữa cha và ông Cậu đã có sự cam kết.

- Liệu cha Tổng có chịu nhận không?

- Chắc chắn tôi sẽ không đề nghị ông Cậu làm việc này, nếu lễ vật của ông Cậu có thể bị trả lại.

Thấy Cẩn tỏ ra rất sốt sắng, Hai Long dấn thêm:

- Đây là việc công ích, còn nếu ông Cậu có ý định tặng quà riêng cho cha Tổng, tôi cũng có cách làm cho cha vui lòng nhận.

- Biết tặng cha cái chi?

- Cha Tổng đã cao tuổi, ở xa Sài Gòn, đi lại toàn phải dùng xe đò, xe tắc-xi; nếu bây giờ ông Cậu tặng cha một chiếc xe du lịch, chắc là cha sẽ rất cảm động.

- Tui có một chiếc Peugeot 203 dùng rồi, nhưng còn rất tốt, tặng cha liệu cha có nhận không?

- Tôi nghĩ như vậy càng thân, tôi sẽ nói rằng ông Cậu đưa xe của mình đang dùng cho cha đi.

- Tui cho thằng Dư đánh xe đưa anh vô luôn, để xe lại cho cha, nó đáp máy bay ra. Còn tiền xây trường, năm chục vạn được không? Anh cầm vô luôn.

Biết rằng đối với Cẩn một món tiền như vậy là to, Hai Long nói:

- Ông Cậu tặng giáo dân chừng dó là hậu hĩ. Nhưng tôi xin đề nghị ông Cậu cử người đưa xe và tiền vào sau khi tôi về, kèm theo thư của ông Cậu. Tôi không muốn cha Tổng hiểu lầm là ra Thuận Hóa xin tiền ông Cậu...

Hai Long nói xong mỉm cười.

Nghe Hai Long nói trước khi vào, sẽ tới Tòa Tổng giám mục chào cha Thục, Cẩn liền nói:

- Tui muốn trao đổi với anh chuyện ni, giữa tui và cha Thục còn có chỗ bất đồng. Anh thấy mình nên có thái độ ra răng với lực lượng Phật giáo ở miền Trung ni?

- Phật giáo chiếm 90 % dân số ở miền Nam; theo tôi, không nắm được lực lượng Phật giáo không thể làm nên việc lớn. Ở miền Trung, Phật giáo càng quan trọng.

Cẩn ngồi im không nói gì. Hai Long cảm thấy Cẩn đồng ý với mình.

Sáng hôm sau, Hai Long tới Tòa tổng giám mục.

Cha Thục đón anh một cách đặc biệt sốt sắng. Anh đã biết cha Thục đang vận động Tòa thánh Vatican phong cho chức Hồng y giáo chủ, để có uy quyền lẫm liệt cả phần đạo lẫn phần đời. Cha rất sợ cha Lê phá ngang kế hoạch của mình.

Sự có mặt của Hai Long là một dịp tốt để cha Thục thăm dò thái độ của cha Lê, và đồng thời, qua anh, tác động tới cha Lê những gì có lợi cho mình. Biết vậy, Hai Long lựa lời nói cho cha vui.

Hai Long đưa tặng cha một cái áo choàng bằng nỉ đen. Áo soutane, mũ thầy tu và giày là ba vật quý trọng nhất con chiên mang tới tỏ lòng cung kính thần phục vị cha cố thân thiết nhất của mình.

Nhận món quà này từ tay con cái cha Lê, cha Thục rất hỉ hả. Không biết làm gì đề tỏ lòng quý mến Hai Long, cha Thục lại viết thư giới thiệu anh với Nhu một lần nữa, với nhiều lời khen đức độ của người con chiên thánh thiện.

Cha Thục dặn di dặn lại Hai Long:

- Cần bất cứ điều chi, cứ nói để ông cố vấn chính trị lo cho chu đáo. Nhớ chuyển lời thăm sức khỏe của cha đến cha Lê, nếu ngài có dạy bảo điều chi thì con ra ngay báo cho cha hay...
 
3.

Vào dinh Độc Lập lần này, Hai Long báo với Nhu, mình dành một số thời gian làm việc ở Bình An với cha Hoàng, vì ở đây có lợi cho anh để nắm sớm nguồn tin của những phe phái, nhất là cánh quân sự đối lập với chế độ. Anh kể cho Nhu những nhân vật quân sự thường xuất hiện ở chỗ cha Hoàng; anh biết Nhu đã nắm được vì bọn mật vụ của Lê Quang Tung không khi nào rời khỏi nhà thờ Bình An. Nhu rất tán thành việc làm của anh. Nhu để lộ trong cuộc hội đàm với phó tổng thống Mỹ, Johnson đã ngỏ ý muốn gửi những đơn vị quân chiến đấu Mỹ sang Việt Nam chống lại hoạt động vũ trang ngày càng tăng của cộng sản, nhưng tổng thống đã khước từ, nói chỉ cần đến quân chiến đấu Mỹ trong trường hợp xảy ra một cuộc xâm lăng công khai của Bắc Việt.

Nhu nói rất tự tin:

- Tôi đã đoan chắc với ông Johnson, Việt Nam cộng hòa có đủ khả năng tự bảo vệ nếu được Mỹ tăng cường viện trợ. Phó tổng thống Mỹ rất tán thành chiến lược phòng vệ của ta. Chương trình ấp chiến lược sẽ trở thành quốc sách. Quân chính quy sẽ tăng lên ba chục vạn. Sẽ không để những quân khu như hiện nay, mà tổ chức lại cho thích hợp với chiến lược chống chiến tranh du kích của cộng sản. Tháng tới, một phái đoàn kinh tế Mỹ sẽ sang, sau đó là phái đoàn quân sự. Những chuyên gia về chống chiến tranh du kích sẽ sang trước. Người Mỹ đã mời cho chúng ta những tinh hoa về chống chiến tranh du kích. Họ sẽ tới vài đầu tháng 6.

- Tôi tán thành ý kiến ông cố vấn đã nói bữa trước: kinh nghiệm chống chiến tranh du kích quý báu nhất, quyết định nhất là kinh nghiệm của ta!

- Đúng như vậy! - Nhu giơ tay, nhấn ngón tay trỏ trước mặt anh - Chiến lược "ấp chiến lược" là do chính ta đề ra, không phải họ. Nhưng ta cần những kinh nghiệm cụ thể của Dayan, của Robert Thompson.

- Như vậy, cần hơn vẫn là kinh nghiệm của Bùi Chu - Phát Diệm. Cha Hoàng là một pho sách đồ sộ về chống chiến tranh du kích của cộng sản.

Nhu nhận ra vẻ hăng hái của Hai Long, chăm chú nhìn anh, rồi giảng giải:

- Tôi nhớ dã nói với anh những chuyện này từ ngày ở Phú Cam. Riêng hai giáo khu Bùi Chu, Phát Diệm, các tướng tá gốc từ Phát Diệm, đã làm cho ta một bản tổng kết khá đầy đủ. Ngoài ra, ta còn một bản tổng kết về đại xã Đồng Quan, và những kinh nghiệm mới nhất về xây dựng khu trù mật ở Vị Thanh, Hải Yến ở miền Tây Nam Việt. Việc này cha Nguyễn Lạc Hóa đã làm từ mấy năm nay, dịp này ông sẽ báo cáo. Có phải đâu tới hôm nay mọi việc mới bắt đầu?

Hai Long biết Nhu ghét những cuộc tranh luận kéo dài vô ích, nhưng đã có chủ định, anh tiếp tục nói:

- Tôi biết ông cố vấn đã chuẩn bị từ lâu, nhưng tôi vẫn muốn nói, không thể quên cha Hoàng, cha tổng tư lệnh của lực lượng tự vệ giáo dân ở đồng bằng Bắc Việt trong suốt kháng chiến... Tại sao ông cố vấn không nghĩ đến chuyện mời các chuyên gia nước ngoài, mời tất cả những vị có kinh nghiệm về chống chiến tranh du kích tới Bình An cùng cha Hoàng trao đổi kinh nghiệm, xây dựng thành một bản kế hoạch.

- Đây là một ý kiến mới. - Nhu gật gù - Nhưng liệu cha Hoàng có chịu hợp tác với ta không?

- Cha là một người kiên quyết chống Cộng, tôi tin ràng cha sẽ không thoái thác.

- Mình sẽ bàn với các chuyên gia khi họ sang đây. Họ làm việc này theo hợp đồng với người Mỹ. Khi hoàn tất kế hoạch, họ sẽ đem về Mỹ báo cáo, chuẩn bị cho một phái đoàn quân sự mang kế hoạch sang làm việc với ta.

- Nếu vậy, nhất thiết nên mời họ về Bình An. Tôi sẽ giúp ông cố vấn nắm trước bản dự thảo kế hoạch của họ. Mặt khác, tôi cũng muốn nhân đây khôi phục lại mối quan hệ tốt giữa cha Tổng với chính quyền quốc gia.

- Nếu "toi" đồng thời làm được cả mấy việc, thì đó là quá tốt.

Không nên để Nhu hiểu việc mình làm quá dễ dàng, Hai Long nói:

- Cha Hoàng thường nghe ý kiến tôi, nên tôi tin và sẽ cố gắng đạt được điều mong muốn của ông cố vấn.
 
4.

Cẩn đã cho người đưa tới Bình An chiếc xe du lịch Peugeot 203 được sửa lại như mới và 50 vạn đồng kèm theo một bức thư gửi cha Hoàng với những lời thân thiết. Từ một lời nói tưởng như buông trôi của Hai Long, đã dẫn tới những kết quả nhanh chóng và bất ngờ, khiến cho cha cảm thấy như là một giấc mơ.

Khi Hai Long vào Bình An, cha Hoàng trỏ chiếc xe nằm choán gần nửa cái sân nhà thờ bé nhỏ, nói:

- Xe của thầy đó, đâu phải là của tôi, thầy đưa về nhà mà đi.

Hai Long mỉm cười, rồi cùng cha Hoàng đi vòng quanh nhà thờ, về căn phòng nhỏ tồi tàn của cha chánh xứ.

- Con đã thưa với cha, nhà thờ Bình An tuy nhỏ nhưng uy tín của cha không nhỏ. Con còn đang lo những chuyện lớn hơn nhiều. Không thể để cho uy danh của cha Tổng mỗi ngày mai một đi.

Hai Long thuật lại chuyện anh đã bàn với Nhu và khuyên cha Hoàng nên nhận lời cùng làm việc với các chuyên gia nước ngoài và trong nước, xây dựng bản kế hoạch ấp chiến lược. Anh nhấn mạnh đây là một dịp rất tốt không nên bỏ qua, để gây lại thanh thế của Bùi Chu - Phát Diệm và cha Tổng không những ở trong nước mà còn cả trên trường quốc tế.

Cha Hoàng nhận thấy lời anh nói là đúng, nhưng vẫn phân vân.

- Làm được cái gì, họ nói cả rồi, mình còn gì mà nói?

Hai Long nói:

- Họ tự xin tới nhà thờ Bình An để gặp cha Tổng, thì cha là chủ mà họ là khách. Cha muốn nói kinh nghiệm của mình thì nói, không nói thì thôi. Con nghĩ tốt nhất là mình bảo họ trình này trước, rồi cha nhận xét. Mình rút ruột họ, chứ không để cho họ rút ruột mình. Họ nhất định phải tôn trọng và nghe lời cha, vì trong bọn họ chưa hề có ai chiến đấu ở Việt Nam, chưa có ai đã từng đương đầu với một địch thủ ghê gớm như Việt Cộng đã đánh thắng cả quân đội viễn chinh Pháp...

Cha Hoàng bắt đầu có hào hứng và cuối cùng, cha nhận lời.

Đầu tháng 6, nhóm chuyên viên người Do Thái và người Anh về chống chiến tranh du kích lần lượt kéo tới nhà thờ Bình An, xin gặp cha Tổng. Nhóm chuyên gia Do Thái của Dayan trình bày kinh nghiệm về xây dựng nông trang Do Thái Kibbutz của Israel. Nhóm chuyên gia Anh của Robert Thompson trình bày những kinh nghiệm về xây dựng ấp tự vệ Homeguard ở Mã Lai.

Kế đó, những chuyên viên về chống chiến tranh du kích của phủ tổng thống được Nhu phái tới, xin gặp cha Hoàng qua sự trung gian của Hai Long. Nhờ đó, Hai Long có điều kiện trực tiếp gây ảnh hưởng với những người thân cận của Diệm và Nhu. Số này chia làm nhiều nhóm. Nhóm của cha Raymond De Jaegher, nguyên cố vấn của Tưởng Giới Thạch, được Mỹ chuyển sang giúp Ngô Đình Diệm về công việc hành chính. Nhóm Nguyễn Lạc Hóa, một linh mục người Hoa, đã xây dựng khu Hải Yến và khu trù mật Vị Thanh, Hòa Lưu ở miền Tây Nam Việt, nhóm Nguyễn Viết Khai, người thường làm lễ trong dinh tổng thống, rất thân cận. với Ngô Đình Diệm. Nhóm Nguyễn Văn Khoa, người vừa là bạn vừa là cố vấn của Ngô Đình Nhu. Nhóm Lê Quang Tung, mật vụ của Ngô Đình Nhu cũng công khai xuất hiện.

Chưa bao giờ xứ đạo Bình An nghèo nàn, vắng vẻ lại trở thành nơi lui tới tấp nập nhiều phái đoàn quan trọng của chính quyền đến như vậy. Uy tín của cha Hoàng lên như cồn. Hai Long nhận thấy vẻ hài lòng rõ rệt của cha chánh xứ đối với mình.

Anh đã nắm được chiến lược chiến tranh chống du kích từ khi còn là bào thai.

Một nhân vật mới xuất hiện làm cho Hai Long chú ý.

Gần đây vào thư viện, Hai Long thường gặp một người đeo kính trắng, có dáng dấp một viên chức, ngồi đọc sách ngay bên cạnh mình. Anh ta chủ động làm quen với Hai Long. Anh tự giới thiệu tên là Thắng, làm việc ở An ninh quân đội, khi viết báo ký bút danh là Nhị Hà. Tờ báo Thắng thường viết là tờ Sinh Lực, chịu ảnh hưởng của Đỗ Mậu, có khuynh hướng bảo vệ Diệm nhưng lại chống Nhu, Cẩn. Thắng nói đã biết Hai Long từ lâu là người thân cận của cha Lê và cha Hoàng. Đôi lần, anh ta rủ Hai Long đi ăn sáng hoặc uống cà phê, Hai Long khi nhận lời, khi khéo léo chối từ.

Hai Long dò hỏi, biết Thắng chính là bí thư của Đỗ Mậu. Có quan hệ với một nhân vật như thế này, rất lợi cho công tác của anh. Nhưng vì sao anh ta lại rất chủ động làm quen với mình, đó là điều Hai Long còn chưa rõ. Anh ta đang cần ở mình cái gì? Thực ra, với cương vị hiện tại, về một số mặt nào đó, Hai Long cũng có thể có ích cho anh ta. Hãy để cho chính anh ta nói ra. Chuyện trò với Thắng khá bổ ích. Thắng am hiểu các giáo phái ở miền Nam, biết sâu về giáo lý, quen nhiều nhân vật trong chính quyền và giới báo chí.

Cuối cùng Tháng ngỏ ý nhờ Hai Long kiếm cho mình mượn một bản Dự thảo Kế hoạch Ấp chiến lược, vì biết việc này nằm trong tầm tay của Hai Long. Những lý do anh ta đưa ra có vẻ xác đáng: Đỗ Mậu muốn đọc trước bản này để chuẩn bị làm việc với Nhu; là một ký giả, anh cũng muốn đọc để nắm một vấn đề chiến lược quan trọng. Nhưng Hai Long biết rất rõ cả vợ chồng Nhu đều không tin và ghét Đỗ Mậu. Người cần kế hoạch này chính là anh ta! Hai Long cười thầm. Trung tâm đã chỉ thị cho anh phải tìm mọi cách có sớm bản kế hoạch. Chắc không phải chỉ riêng anh nhận được chỉ thị đó. Rất nhiều người như anh, đang lao đi tìm nó. Anh báo cáo chuyện này về Trung tâm. Trung tâm chỉ thị tránh quan hệ với Thắng. Như vậy đã rõ Thắng là ai. Anh cũng tự bảo mình phải rút kinh nghiệm trong trường hợp này.
 
5.

Đã có xe, cha Hoàng bắt đầu năng đi lại.

Ngày nào cha Hoàng cũng cùng với Hai Long phóng chiếc Peugeot từ Bình An vào Sài Gòn kiếm nhà cao tầng làm trường học, và gặp gỡ các tổ chức tôn giáo, các đảng phái, bàn việc giúp đỡ giáo dân di cư miền Bắc xây dựng một ngôi trường. Đi tới đâu, cha Hoàng cũng giới thiệu Hai Long là phụ tá của giám mục Lê, giáo sư của địa phận Phát Diệm cũ, được cha Lê ủy nhiệm xây dựng một trường lớn cho con em giáo dân. Một số khá đông đảng phái ở Sài Gòn biết Hai Long qua lời giới thiệu của cha Hoàng. Cha Hoàng còn dẫn Hai Long đến gặp Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, Khâm sứ Tòa thánh Vatican, Tổng giám mục Palmas đề nghị xin sự giúp đỡ của tổ chức Công giáo.

Hai Long giúp cha Hoàng xây dựng một trường trung học đệ nhất cấp ở Bình An. Cha Hoàng bỏ cái tên Hoa Lư đã dự kiến trước đây, đặt tên là trường Đồng Tâm, có ý nghĩa rộng hơn tên cũ. Hai Long mời nhiều giáo sư nổi tiếng từ Sài Gòn vào dạy giờ. Anh nhận phần dạy giáo lý, Việt văn và Pháp văn.

Tên Hai Long bắt đầu được gọi theo nhiều chức vụ mới: phụ tá của cha Lê, cố vấn của cha Tổng, ông giáo, ông giám học trường trung học tư thục Đồng Tâm. Anh thường được cha Lê, cha Hoàng cử làm người thay mặt tiếp xúc với các phe phái.

Hai Long nhanh chóng quan hệ được với giới giáo sư những trường Công giáo lớn ở Sài Gòn và những trường tư của những đảng phái chính trị, tôn giáo khác. Nhiều người muốn cộng tác với Hai Long, vì hâm mộ danh tiếng của cha Lê và cha Hoàng, muốn nhân đó liên kết cùng làm chính trị. Một giáo sư, quê ở Phát Diệm, bàn với anh mở chung một ngôi trường trung học ở đường Phạm Hồng Thái, Sài Gòn, với một ban giáo sư gồm những người nổi tiếng nhất. Hai Long tán thành ý kiến này, hy vọng có một trung tâm hoạt động của mình ngay tại Sài Gòn.

Một bữa, Hòe tìm anh định nói điều gì, nhưng có vẻ ngập ngừng, cân nhắc. Hai Long đã đề nghị với Trung tâm tiến hành thẩm tra và bổ sung Hòe vào lưới của mình. Trung tâm chỉ thị tiếp tục thử thách, chờ quyết định sau. Hồi lâu, Hòe nói:

- Anh Hai..., tôi thấy anh Hai phải đi lại quá nhiều, ra vào toàn những nơi quan trọng, mà khi nào cũng chỉ có chiếc xe đạp với cái sơ mi trắng, thiệt không tiện cho công việc. Tôi đã may cho anh Hai vài bộ quần áo và kiếm được một chiếc mô-bi-lét để anh Hai dùng tạm. Mong anh Hai không từ chối...

Trước thái độ hết sức chân tình của Hòe, Hai Long đành phải nhận.

Mối quan hệ giữa Hai Long và cha Hoàng đã phát triển tới mức như lời cha nói "corps et âme"[1].

Anh tiếp tục chăm sóc sức khỏe cha chánh xứ một cách rất chu đáo. Anh kiếm rượu Quinquina la Roche để cha trị sốt rét, thuốc xịt chống hen suyễn đề phòng khi cha lên cơn, đồng hồ đo huyết áp và thuốc trị bệnh huyết áp cao. Thỉnh thoảng, anh mang vào cho cha một đôi món ăn không đắt tiền, nhưng hợp khẩu vị của cha. Cần hơn đối với cha là những món ăn tinh thần. Hai Long thu thập những tin tức chính trị từ Sài Gòn, từ chỗ Đức cha Lê, hay có khi từ những người lui tới nhà thờ Bình An để thuật lại cha nghe.

Mỗi lần anh đến, cha Hoàng đều mừng rỡ, thường dẫn ngay vào văn phòng riêng, tự tay đốt ngọn đèn dầu đun nước pha trà, rang lạc cả vỏ, rồi cùng ngồi đối ẩm. Có trái cây ngon của con chiên mang biếu, bao giờ cha Hoàng cũng cất để dành, chờ khi anh đến, cùng "thụ lộc".

Trong những buổi nói chuyện tay đôi như vậy, cha Hoàng dường như không giấu Hai Long điều gì. Ông kể là bản thân mình đã có lúc đi với cách mạng trước Tổng khởi nghĩa, ông đã liên lạc với Việt Minh lập chiến khu chống Nhật, đã kết hợp với Việt Minh khởi nghĩa cướp chính quyền ở Kim Sơn, Phát Diệm. Ông nói chính cha Lê, khi còn là cố vấn cho Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã che giấu cho ông lập tự vệ Công giáo chống cách mạng, núp dưới danh nghĩa tự vệ Cứu quốc. Ông kể chuyện đã chuẩn bị cho quân đội Pháp vào Phát Diệm năm 1949 như thế nào.

Nhiều lúc ông quên cả mình là người tu hành, là cha chánh xứ, say sưa kể lại những trò nghịch ngợm quấy phá cố Pháp, cố Bỉ ở chủng viện, kể cả có thời kỳ chính ông đã toan phá giới, trút bộ áo nhà tu để chạy theo một bóng hồng.

Cha Hoàng tự nhận là mình chịu ảnh hưởng sâu sắc của giáo hoàng Pierre XII, các Tổng giám mục Drapier và Durlay. Ông không có chút khoan nhượng nào với chủ nghĩa cộng sản. Ông nói là "Đức mẹ Maria sẽ thắng, nước Nga xã hội chủ nghĩa sẽ trở về với nước Nga trước 1917".

Cha Hoàng ham hiểu biết, chịu khó đọc sách. Ông nói với Hai Long: "Muốn thuyết phục người ta thì phải thông hiểu nhiều hơn người ta. Cha Lê, Khâm sứ Tòa thánh biết rộng, biết nhiều. Ngô Đình Nhu không biết nhiều nhưng biết rộng. Ngô Đình Diệm không biết rộng cũng không biết nhiều!".

Qua những câu chuyện, cha Hoàng bộc lộ rõ là một người độc tài, gia trưởng, tàn bạo như một lãnh chúa thời phong kiến. Về mặt chính trị, cha gian hùng, xảo quyệt, nhiều mưu kế hại người. Về cá tính, cha hay đố kỵ, nhiều định kiến, nóng nảy, hiếu thắng, đã ghét ai là chửi thẳng, không muốn nhìn mặt. Nhưng về mặt đạo, đối với con chiên, cha là một cha xứ hiền hòa, bao dung và độ lượng, luôn nghĩ đến quyền lợi giáo dân.

Hai Long tìm thấy ở cha Hoàng một người thầy phản diện mà anh không thể thiếu trong hoàn cảnh hiện thời.
 
6.

Hai Long đạp xe tới gần cửa nhà thờ Bình An thì trời đổ mưa to. Anh chạy vào nhà một giáo dân, đứng trú chân. Anh hỏi ông chủ nhà:

- Cha xứ có nhà không bác?

- Cha có nhà.

- Cha ở văn phòng hay ở đâu?

- Cha đứng kia, ở cửa nhà thờ.

Hai Long nhìn qua cửa sổ thấy cha Hoàng mặc áo chùng đen, chắp tay sau lưng, đứng trước cửa ngách của nhà thờ, giống như một pho tượng. Dường như ông đang thẫn thờ nhìn hạt mưa rơi. Có lẽ ông chưa nhìn thấy anh nên không gọi. Anh lại hỏi ông chủ nhà:

- Cha đứng đó lâu chưa?

- Lâu lắm rồi, từ lúc trời chưa mưa.

Hai Long theo dõi một hồi, thấy cha Hoàng vẫn đứng im.

Anh đã nhiều lần bắt gặp dáng vẻ cô đơn của ông như lúc này. Có buổi trưa hè tĩnh mịch, trong lúc mọi người nằm ngủ, ông đứng thơ thẩn một mình bên bờ ao. Có buổi sớm mai đẹp trời, ông đứng nhìn ngọn núi Bà Đen như người mất hồn, không nghe rõ lời chào "Lạy cha!" của người giáo dân đi ngang. Thường thường, ông ngồi trầm ngâm bên bàn nước, con ruồi đậu trên má cũng không buồn đuổi, chẳng biết là đang mải mê suy nghĩ gì.

Mưa hơi ngớt, Hai Long chạy ngang đường vào nhà thờ.

Nhận ra anh, cha Hoàng như vừa tỉnh giấc mơ, miệng mỉm cười, đưa anh về văn phòng.

Khi hai người đã ngồi đối ẩm, Hai Long báo với cha một tin vui:

- Sáng nay con gặp ông linh mục De Jaegher ở dinh Gia Long. Ông rất ca ngợi cha xứ, ông nói ở Việt Nam không có một người thứ hai như cha. Cha hiểu rất sâu sắc về chiến tranh.

- Mình lại buồn phiền về lời khen đó.

- Linh mục nói rất thành thật. Nhiều người ở phủ tổng thống đến làm việc với cha xứ về đều có ý kiến như vậy.

- Đó chính là điều đáng buồn. Mình hy vọng được nghe nhiều ý kiến sâu sắc của họ, mình muốn họ chê bai mình dã làm hỏng mọi chuyện, nhưng họ lại khen mình. Họ chẳng biết gì hơn mình. Vậy mà lại toàn là những chuyên gia quân sự cự phách, những cố vấn của tổng thống!

- Linh mục De Jaegher nhờ con chuyển đạt tới cha, ông muốn mời cha tham gia Ban cố vấn về ấp chiến lược. Nếu được cha chấp thuận, ông linh mục sẽ nói với ông cố vấn chính trị hoặc đích thân tổng thống đặt lời mời.

- Vào cái Ban cố vấn đó làm chi!.. Khi mình biết rồi họ sẽ thất bại. Không kể De Jaegher, ông ta là cố vấn giúp Tưởng Giới Thạch, nhưng Tưởng đã phải bỏ chạy ra Đài Loan, cả Dayan, Thompson cũng sẽ không làm được gì! Phải nhận là họ thông minh, nhưng họ không hiểu chút gì về du kích cộng sản Việt Nam! De Linaret đã lập đại xã Đồng Quan, nhưng chống cự được bao lâu?... Mình không tin là mình đã đánh thắng du kích cộng sản. Khu tự trị Bùi Chu - Phát Diệm còn yên lành, vì nó là một khu Công giáo toàn tòng, Cộng sản chưa muốn đụng đến! Đó là do chính sách của ông Hồ Chí Minh. Nếu cộng sản cứ đụng, mình không tin là sẽ giữ được!

Mặt cha Hoàng buồn thiu.

Hai chén trà trên bàn và cả ấm trà cũng đã nguội ngắt.

Cha Hoàng cầm ấm trà đứng lên, Hai Long toan giành lấy:

- Cha đưa con làm.

Cha Hoàng kiên quyết gạt tay anh:

- Để mặc mình!

Cha xứ lọm khọm cầm ấm trà đi đổ bã, cái lưng còng xuống. Lần đầu, cha tự thú sự bất lực của mình. Bệnh tật tuổi già đã không cho phép cha làm lại tất cả từ đầu.

Cha quay vào nhìn Hai Long đang ngồi thẫn thờ, với đôi mắt già nua đầy thương cảm:

- Toàn chuyện tranh chấp... Nội bộ quốc gia rối bét! Khó tin vào Pháp! Chán ngán đường lối chống Cộng của Mỹ! Chỉ còn tin ở phép mầu nhiệm của Chúa mà thôi... ---

[1] cả thể xác lẫn tinh thần
 
SỰ BIẾN

1.

Chừng nửa năm nay, những quan chức, nhân viên và lính gác ở phủ tổng thống đã quen mặt ông phụ tá của cha Lê.

Lúc đầu, ai cũng chú ý đến người trung niên bé nhỏ, vầng trán cao, mắt nhìn thẳng, quần áo giải dị, dáng vẻ khiêm nhường, hay ra vào nơi làm việc của ông cố vấn chính trị. Ông ta ít quan tâm đến xung quanh, không gần ai, nhưng cũng không làm ai khó chịu. Có người nói đó là một ông giáo. Có người bảo ông là thầy tu không mặc áo chùng đen. Bề ngoài, ông giống cả hai loại người này, những người nặng về cuộc sống tinh thần, không biết những chuyện xoay xỏa trong cuộc đời. Sự có mặt thường xuyên của ông ở phủ tổng thống, báo hiệu quan hệ giữa tổng thống với cha Lê lúc đầu là đối địch, rồi lạnh nhạt, nay dần dần được cải thiện. Sau đó, không mấy ai để tâm đến ông nữa. Vì hình ảnh rất ít thay đổi của ông đã trở thành quá quen thuộc với mọi người.

Riêng Ngô Đình Nhu vẫn thấy mình chưa hiểu được người phụ tá của cha Lê.

Tờ trình của anh ta, do Ngô Đình Cẩn gửi từ Huế vào, thuộc loại giấy tờ lần đầu xuất hiện ở Phủ tổng thống. Đã có nhiều người công kích chế độ, nhưng chưa ai dám thẳng thừng, vạch ra những nhược điểm có thực của chế độ như anh ta. Có phải vì muốn làm một việc thiện nhân ngày Đức Mẹ lên Trời, và vì trách nhiệm đối với quốc gia, với giáo hội, mà anh ta nêu ra bốn nguy cơ của chế độ không? Cha Lê không có thiện chí với chính quyền hiện nay như vậy, mà anh ta lại là phụ tá của cha Lê. Hay anh ta định làm áp lực với tổng thống và mình, như cha Lê vẫn thường làm...? Rất khó tin đây là một việc làm thiện chí như anh ta nói.

Cơ quan mật vụ của Nhu đã nhanh chóng báo cáo, Vũ Đình Long, Vũ Ngọc Nhạ, Hoàng Đức Nhã chỉ là một người mà giáo dân Bình An hay gọi là thầy Bốn. Anh ta là người thân tín của cha Hoàng, có hoạt động rất rộng trong giáo dân di cư, và những đoàn thể tôn giáo. Nhu định bụng nhắc cậu Út, đừng để bọn tay chân làm càn, bạ ai cũng nghi là tình báo, là Việt Cộng. Lúc đầu, Nhu chỉ định khai thác ở Hai Long một số thông tin cần thiết, rồi bảo Cần đã biết là bắt lầm thì thả anh ta về, không cần gây sự gì thêm với cánh Phát Diệm...

Nhưng khi nhận dược bản báo cáo một âm mưu đảo chính là nguy cơ trước mắt, và sau đó cuộc đảo chính đã nổ ra, thì Nhu thấy không thể bỏ qua con người này. Chính vì anh ta mà Nhu phải ra Huế. Trong cuộc trao đổi, Nhu nhận thấy anh ta, mặc dù với cách nói năng lễ độ, đã ngang nhiên bác bỏ một số ý kiến của mình bằng sự lý giải và lập luận khá chặt chẽ. Nhu ít gặp những con người như vậy. Và cuộc trao đổi rõ ràng là bổ ích. Tuy anh ta luôn nhắc nhiều ý kiến là của Đức cha Lê, nhưng những lập luận này, là của chính anh ta. Không thể khác được. Trong đó, có những điều quan trọng mà anh ta nói dối. Cha Lê không ra Huế để dùng anh ta "báo nguy" cho chế độ. Cha chỉ nói cho người phụ tá của mình biết đang có một âm mưu đảo chính. Và anh ta đã tự ý nói cho Cẩn, để Cẩn báo cho mình phải đề phòng. Vì sao anh ta làm việc đó? Thậm chí trong bản báo cáo, anh ta còn nói những lời bất lợi cho cha Lê: "Cha có thái độ bàng quan đối với cuộc đảo chính". Như vậy tức là trái tim của anh phụ tá náy không còn thuộc về cha. Anh ta vẫn đề cao thiện chí của cha đối với chế độ, nhưng trong thực tế anh ta đã phản cha!... Có lẽ Cẩn đã mua chuộc được anh ta. Cẩn giỏi về mặt đó. Phần lớn những người Cẩn dùng là bọn chiêu hồi. Nhưng Cẩn không có điều kiện để khai thác tối đa con bài này. Mà có thể y còn làm hỏng việc. Vậy thì mình phải nắm ngay lấy anh ta... Nhu đã nhanh chóng quyết định đưa ngay Hai Long về Sài Gòn, Hai Long sẽ "nằm vùng" ở chỗ cha Lê để thông báo kịp thời những âm mưu của bọn đối lập, kể cả của Đức cha.

Từ ngày Hai Long về Sài Gòn, Nhu nhận thấy người phụ tá của cha Lê tiếp tục giúp đỡ mình nhiều việc có ích. Nhu đã trực tiếp nói sẽ thỏa mãn mọi yêu cầu, tạo điều kiện tốt cho anh ta hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng anh ta chưa hề đề nghị y giúp đỡ bất cứ điều gì. Và trong khi làm những việc cho y, anh ta vẫn giữ đúng cương vị là người phụ tá của cha Lê, không hề nhích lại gần y hơn trước. Tại sao lại như vậy? Nếu y đã nhận xét lầm, anh ta vẫn một lòng một dạ với cha Lê, anh ta không cần chi ở mình, thì sao anh ta cứ làm đủ mọi việc, cố tình lập công với chế độ?

Bọn mật vụ của Lê Quang Tung vẫn theo sát Hai Long, như chúng đã thường xuyên bám sát những nhân vật quan trọng có quan hệ với cha Lê và cha Hoàng. Theo báo cáo của chúng: gia đình Hai Long rất nghèo, hàng ngày anh phải chở hàng ra chợ cho vợ bán rau quả để sinh sống. Ngày nào anh cũng vào thư viện đọc sách về thần học. Anh ta cùng với cha Hoàng đi khắp nơi, gặp các đảng phái tôn giáo, vào Tòa Tổng giám mục, vào Tòa Khâm sứ. Anh ta có quan hệ rất rộng rãi với những phe nhóm đối lập...

Đôi lúc, Nhu đã có ý nghĩ: hay hắn ta là một tên khiêu khích do cha Lê cử tới để dò la mình? Cha Lê, một con cáo già, người của Pháp và Vatican, không thể nào hòa giải với mình chừng nào mình còn dựa vào Mỹ? Cha Hoàng còn hơn thế. Ông không bao giờ quên mối thù mình đã bắt và quản thúc ông. Ông thừa biết người của Lê Quang Tung vẫn bám quanh nhà thờ Bình An... Nhưng Nhu đã gạt sự nghi ngờ này. Giả dụ cha Lê có trao cho Hai Long nhiệm vụ đó, và anh ta có nhận, nhưng vào việc anh ta đã không làm như vậy. Anh ta đã giúp mình những việc rất lớn mà bọn an ninh, mật vụ của mình không thể làm được.

Hay hắn ta là Cộng sản, đích thực là một tên tình báo của Bắc Việt, chứ không phải bọn Dương Văn Hiếu đã bắt lầm? Nhưng sự nghi ngờ này còn tan nhanh hơn những nghi ngờ khác. Cha Thục có thể nhận lầm một tên Cộng sản. Nhưng Cẩn không thể lầm. Và cha Lê, cha Hoàng càng không thể lầm!

Vậy cái gì đã thúc đẩy anh ta đến với mình?... Anh ta muốn một ghế tổng trưởng hay một vị trí lãnh tụ trong khối Công giáo?... Mình sẵn sàng giúp anh ta thành đạt những tham vọng đó, nếu anh ta chính thức trở thành người của mình. Nhưng đến cả điều này cũng chưa rõ...
 
2.

Lệ Xuân hỏi chồng:

- Hai Long ngày trước là sinh viên?

- Đang học tú tài năm thứ nhất thì vào quân đội Pháp. - Nhu đáp.

- Bữa nọ anh ta nói, hồi ở Pháp, làm gérant[1] cho một nông trang trồng nho. Anh ta quen biết nhiều cha cố và sĩ quan Pháp, kể cả linh mục Jean Cassaigne.

- Phần lý lịch của Hai Long, Lê Quang Tung đã xác minh. Năm 1952, bỏ bộ đội Việt Minh về Hà Nội học. 1953, vào quân đội Pháp, làm secrétaire comptable[2] cho 22e Bataillon Génie[3], đã cùng quân đội Pháp vào Nam, sau đó sang Pháp, được hai năm thì trở về nước. Anh ta đang làm những gì cho cha Lê và cha Hoàng, còn chưa biết. Hai Long có đầu óc analytique[4].

- Đầu óc lộn xộn, - Lệ Xuân vừa nói vừa cười - phần tinh khôn, những lý lẽ phân tích anh ta mượn của các cha Lê, cha Hoàng, còn chính anh ta thì toqué[5].

Bà cố vấn thấy anh chàng trẻ tuổi, phụ tá của cha Lê này rất buồn cười. Lúc nào cũng chỉ nói chuyện chính trị, chuyện giáo hội một cách khôn ngoan, rất mê say. Ngoài ra, không còn gì hết. Anh ta không phải là một người đàn ông! Đang ở độ tuổi hồi xuân, bà ta tự biết mình là một con người rất hấp dẫn. Nhan sắc của bà được chăm sóc một cách hoàn hảo. Từ những nhân viên hạng bét của Phủ tổng thống cho đến những chính khách, những cha cố có dịp đến đây, đều phải công khai hoặc lén lút ngắm nhìn bà. Bà ta muốn kích thích mọi người, buộc người ta phải thừa nhận, phải ngưỡng mộ nhan sắc của mình. Tuy nhiên, khi đã là "đệ nhất phu nhân" của miền Nam, bà ta cũng biết tự chế ngự để không đi quá xa, để giữ giá. Nhưng bà ta chưa hề bắt gặp anh chàng đàn ông trẻ tuổi, khỏe mạnh, bộ mặt cũng dễ coi này, nhìn ngắm mình bao giờ. Dường như anh ta không thấy mình là đàn bà, hơn nữa lại là một người đàn bà đẹp.

Không muốn để chồng đoán biết ý nghĩ của mình, Lệ Xuân nói tiếp:

- Có anh nào làm chính trị mà lúc nào cũng chỉ nghĩ là vì Chúa không?

Quan hệ giữa Nhu và Lệ Xuân vừa là vợ chồng, vừa giống như cha con. Luật sư Trần Văn Chương, bố của Lệ Xuân, là bạn của Nhu. Lệ Xuân kém Nhu 15 tuổi. Ngày mới lấy nhau, Nhu đang còn là một kẻ thất cơ lỡ vận, cô gái mới 16 tuổi không những thương yêu người chồng "hàn sĩ", mà còn bán cả tư trang của mình để lo việc gia đình. Tình yêu của Nhu với Lệ Xuân luôn luôn kèm theo sự hàm ơn. Nhưng tính tình sôi nổi, trẻ trưng, hiếu thắng, nhiều lúc đành hanh của Lệ Xuân, khiến cho y nghĩ vợ bao giờ cũng là một đứa trẻ mà y phải chiều chuộng, rộng lượng. Như rất ít bác bỏ những ý nghĩ, những lời nói sai trái của vợ, để tránh những cuộc tranh luận vô ích, vì Lệ Xuân không bao giờ chịu thua. Nhu cũng không để ý từ lúc nào vợ mình đã bắt đầu tham gia vào những hoạt động chính trị. Mọi việc hệ trọng của quốc gia đều do mấy anh em Nhu lo toan. Lệ Xuân, vợ y, tham gia vào đó cũng là việc tự nhiên. Mới đầu, Lệ Xuân chỉ đi theo chồng dự những cuộc tiếp tân. Sau đó, Lệ Xuân chuyển sang hoạt động phụ vận. Bà ta nhanh chóng trở thành lãnh tụ của phong trào đoàn kết phụ nữ. Trúng cử vào quốc hội, bà ta đã đề nghị thông qua những đạo luật có liên quan đến phụ nữ, tạo nên những cuộc tranh luận sôi nổi, và bao giờ cũng giành phần thắng. Bây giờ Lệ Xuân tham gia ý kiến với chồng về tất cả những việc quốc gia đại sự mà bà ta biết. Bà ta làm khá lộ liễu, gây những khó khăn cho chồng trước dư luận. Nhưng không có cách nào để ngăn bà ta lại. Nhu chỉ còn làm ngơ và cố gắng hạn chế những việc làm có thể rất dại dột của vợ do tính nóng nảy, xốc nổi bằng cách giấu kín những chuyện quan trọng mà bà ta còn chưa biết. Nhưng nếu vợ đã biết rồi, Nhu cũng đành chịu.

- Em muốn nói Hai Long là đạo đức giả ư? - Nhu hỏi lại vợ.

- Không hẳn thế. Em đã nói y là một anh chàng toqué... Làm chính trị là để đạt được một cái gì.., địa vị danh vọng, tiền tài, chứ đây lại không vì cái gì cả! Chỉ vì Chúa! Mà anh chàng có vẻ thành. Vì thế nên em bảo đầu óc anh ta lộn xộn, anh thấy đúng không?

- Một nhận xét hay!

Nhu mỉm cười nhìn vợ với cặp mắt thương yêu. Lệ Xuân ngoẹo đầu, chìa má cho chồng đón một cái hôn. Nếu có điều gì khiến cho bà ta chưa thỏa mãn trong hạnh phúc gia đình, thì đó chính là ở chỗ ông chồng luôn luôn chìm đắm, say mê với những suy tư về chính trị, thường quên mình đang độ hồi xuân, cần được vuốt ve chăm sóc.

Nhu tin vào trực giác của vợ. Suy nghĩ của Lệ Xuân lúc nào cũng tự do, không vào khuôn phép, nên đôi lúc Lệ Xuân có những phát kiến bất ngờ, chính xác khiến Nhu phải giật mình.

Chính cái điều Lệ Xuân vừa nói, đang làm Nhu gần đây phải bận tâm. Nhưng Như vui vì thấy vợ mình không có ác cảm với Hai Long. Lệ Xuân rất ghét cha cố di cư. Nếu bà ta ghét lây cả Hai Long, thì sẽ phá quấy làm hỏng những việc y đang dự tính. Nhưng y cũng không đồng ý với nhận xét của vợ, anh ta là một anh chàng gàn, hay một người lập dị. Về anh ta có những câu hỏi chưa được trả lời. Vấn đề là ở chỗ cần tiếp tục theo dõi.

Có tiếng gõ cửa.

- Cứ vào!

Viên sĩ quan nội thất xuất hiện:

- Thưa ngài cố vấn, ông phụ tá của Đức cha Lê đã tới.

- Mời vào phòng khách, tôi sẽ ra ngay.

Cách đây nửa giờ, Hai Long đã gọi điện thoại từ nhà thờ Phát Diệm, xin được gặp Nhu.3.

Ngô Đình Nhu bắt tay Hai Long, vui vẻ nói:

- Bà nhà tôi vừa nhắc đến anh xong.

- Thưa, bà cố vấn vẫn khỏe?

- Cảm ơn anh, vẫn khỏe.

Hai Long tự hỏi, câu nói xã giao của Nhu là để tỏ tình thân mật hay một cách nói gián tiếp: vợ chồng Nhu vừa trao đổi về mình.

- Anh thường ngày vẫn đến Trung tâm văn hóa Pháp đọc sách à? - Nhu hỏi.

Hai Long hiểu Nhu muốn nói cho anh biết, anh vẫn được theo dõi cẩn mật.

- Cảm ơn ông cố vấn quan tâm, về lâu dài, tôi có ý định làm một cái thèse[6] về thần học. Cuộc đấu tranh giữa các chủ thuyết còn gay gắt. Muốn thắng phải làm chủ được những lý thuyết cơ bản.

- Anh có nhiều năng khiếu về phân tích. Chúc anh thành công... Anh thấy chủ thuyết Nhân vị thế nào? Có nhiều người tán thành nhưng cũng không ít người phản đối.

Trong chủ trương, hành động, Nhu là một con người rất thực dụng, nhưng chủ thuyết của y thì lại hoàn toàn mang màu sắc duy tâm, gần như một thứ tôn giáo. Nhu rất say sưa với chủ thuyết "Nhân vị". Cũng không nên tiếc y một lời khen, Hai Long nghĩ.

- Tôi cho rằng tác giả của nó đã xuất phát từ một ý tưởng nhân đạo, đã hiện dại hóa và cụ thể hóa chủ nghĩa nhân đạo cổ điển trong hoàn cảnh ngày nay.

- Cảm ơn lời khen của anh. Khi xây dựng chủ thuyết này, tôi đã nghĩ đến sự tự do và hạnh phúc của con người. Dân chủ là cái không thể thiếu được đối với mọi quốc gia ngày nay. Chủ nghĩa Cộng sản, như chính những nhà kinh điển của chủ nghĩa này đã tuyên bố, là vô sản chuyên chính, là độc tài. Con người không thể chấp nhận được độc tài đảng trị, vô thần, không có tự do. Cộng sản đòi hỏi hy sinh cá nhân, dẹp cá nhân, là điều cực kỳ phi lý. Chủ nghĩa tư bản có cái hay của nó, nhưng cũng có những cái dở. Cái dở của nó là bóc lột, là chỉ chú ý đến cá nhân mà không chú ý đến tập thể. Khi nó phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, thì nó trở nên rất vô nhân đạo, không thể nào chấp nhận. Việt Nam không thể theo ai. Ta chống cả Cộng sản, cả Tư bản. Ta chủ trương coi trọng con người: con người cá nhân cũng như con người tập thể. Có người Mỹ bảo tôi là không tưởng, hỗn tạp, pha tôn giáo, khó hiểu, từ trước đến giờ không ai làm như vậy... Họ không thuyết phục được tôi. Ít nhất cũng có một người đã làm: Marx. Marx đã tổng hợp hai chủ nghĩa duy tâm và duy vật. Tôi vẫn thấy mình đúng.

Không nên tranh luận với y chuyện này mà lỡ việc đang cần làm, Hai Long nghĩ.

- Đi vào triết học như đi vào một cái rừng mênh mang vô tận, khó tìm được lối ra. Tôi đã nói một chủ thuyết vì con người là rất nhân đạo, một tư tưởng lớn... nhưng rất khó thực hiện.

- Nếu có lòng tin, giữ vững lòng tin, thì sẽ thực hiện được, con người không thể không phấn đấu cho tự do, hạnh phúc của mình... Nhìn anh hôm nay, tôi thấy anh rất khởi sắc, có lẽ anh đem đến cho tôi một tin vui mới?

Hai Long mỉm cười:

- Tôi mang tới cho ông cố vấn một tài liệu, không hiểu ông cố vấn có cần hay không?

Sao 3 tháng nghiên cứu, hai nhóm chuyên gia Anh và Israel đã soạn xong bản dự thảo kế hoạch lập ấp chiến lược ở miền Nam Việt Nam, để mang về nộp cho người Mỹ theo đúng hợp đồng. Họ đưa cha Hoàng 2 bản, một bằng tiếng Anh, một bằng tiếng Việt với lời đề tặng và chữ ký của các tác giả. Họ cũng đề nghị cha Hoàng trực tiếp sửa chữa hoặc góp ý kiến thêm. Hai Long đã sao ngay mấy bản, một chuyển về trung tâm, một mang đến cho Nhu. Anh cần đưa đến sớm vì thấy các viên tướng Phạm Văn Đổng, Phạm Xuân Chiểu đã đến đề nghị với cha Hoàng cho mượn xem, chắc chắn họ cũng sẽ sao lại mang tới cho Nhu để tâng công.

Anh rút trong cặp ra đưa Nhu hai bản dự thảo bằng hai thứ tiếng Anh, Việt.

Nhu cầm lên xem rất mừng rỡ:

- Quý vô chừng! Rất cảm ơn anh. Thế nào Mỹ cũng cử người sang thảo luận. Mình có kế hoạch này nghiên cứu trước để trao đổi với họ, hết sức tốt!

Nhu thực sự tươi tỉnh. Y đốt một điếu thuốc và khoan khoái nhả khói, cặp mắt mơ màng. Chắc y đang nghĩ tới những ý kiến sâu sắc của mình sẽ đóng góp trong cuộc thảo luận với người Mỹ, y là người chủ xướng của quốc sách ấp chiến lược, và nghĩ đến một ngày không xa toàn thể dân quê Nam Việt Nam bị dồn vào bên trong những hào sâu và dây thép gai, mỗi ấp trở thành một pháo đài bất khả xâm phạm đối với Việt Cộng.

Chờ y tận hưởng hết những phút vui, Hai Long nói:

- Tôi đã chuyển đạt ý kiến của cha cố vấn De Jaegher với cha Hoàng, mời cha tham gia Ban cố vấn về ấp chiến lược, nhưng cha cáo từ.

- Vì sao?

- Cha nói đã đóng góp hết ý kiến của mình, hiện nay cha tuổi già sức yếu, chỉ muốn tập trung sức lo cho giáo dân, lo công ăn việc làm, lo xây trường học.

- Liệu cha có chịu chỉ làm mấy việc đó! Ý kiến anh ra sao?

Hai Long mỉm cười thay câu trả lời.

Nhu tỏ vẻ thông cảm, không dồn ép, chuyển sang vấn đề khác:

- Cha Lê gần đây thế nào?

- Cha vẫn tỏ ra lo lắng.

- Lúc nào cha cũng lo người Mỹ phản! Cha chỉ tin có Pháp. Cha nói chi?

- Cha đã biết ông Johnson sang hổi tháng 5 đã yêu cầu tổng thống chấp thuận việc đưa quân chiến đấu Mỹ sang Việt Nam. Cha nói: việc cho quân Mỹ vào, sẽ tạo ra một tình thế rất nguy hiểm. Nhóm thân Mỹ sẽ lợi dụng. Và chính người Mỹ sẽ sử dụng lực lượng này khi họ cần gây áp lực với tổng thống! - Hai Long mượn lời cha Lê để hỏi về việc Mỹ định đưa quân vào.

- Không phải họ yêu cầu tổng thống cho quân Mỹ vào, mà đó chỉ là một sự gợi ý.

Hai Long hơi nhún vai.

Nhu nhấn mạnh:

- Chính tổng thống đã bác bỏ. Tổng thống đã nói: "Việt Nam cộng hòa chỉ cần quân chiến đấu Mỹ trong trường hợp Bắc Việt công khai xâm lăng miền Nam". Và anh thấy trong bản thông cáo chung đã không hề đề cập tới vấn đề đó... Quân giải phóng miền Nam của Việt Cộng hiện nay chỉ có khoảng ba vạn người. Mới đây, Mỹ đã đồng ý tăng viện trợ và vũ khí cho ta xây dựng một đạo quân chính quy 30 vạn người. Khi cần có thể tăng gấp dôi số đó. Việt Cộng chỉ mới đủ sức đánh những trận nhỏ. Ta không cần để những quân khu như bây giờ. Ta sẽ lập những vùng, những khu, những tiểu khu chiến thuật thích hợp với từng nơi. Ta sẽ xây dựng, mở rộng quân ở các địa phương. Và quan trọng nhất là cái này... (Nhu trỏ vào bản dự thảo kế hoạch lập ấp chiến lược trên bàn) sẽ chặn đứng mọi mưu đồ to lớn của Bắc Việt.

Nhu đã xả hơi. Y lại hút thuốc, điếu thuốc đã sắp tắt.

- Nghe ông cố vấn, tôi đã yên tâm. - Hai Long nói - Giá tôi biết điều này sớm hơn một chút để trình với cha. Vì nếu Mỹ đưa quân chiến đấu vào thì lại xuất hiện thêm một nguy cơ mới.

- Anh có thể nói thêm với Đức cha: phái đoàn Xta-lây sang Việt Nam sau khi ông Johnson về, đã không đề cập tới việc đưa quân Mỹ vào. Trước thái độ của ta, người cầm dầu nước Mỹ đã bỏ ý định đó. Chúng tôi sẽ chứng minh cho họ biết ta đủ sức tự bảo vệ. Chúng tôi cần sự ủng hộ của Đức cha... Và cả của anh nữa.

Hai Long nhớ lại thái độ của y khi bắt đầu cuộc gặp gỡ. Y không bằng lòng với cách đi hàng hai của mình. Hãy biết như vậy.

- Xin ngài cố vấn tin rằng tôi sẽ hết mình vì chế độ vì quốc gia.

Nhu tiễn chân Hai Long ra tới bậc thềm dinh Độc Lập với vẻ thoải mái, tự tin của một người hoàn toàn làm chủ tình thế.
 
4.

Tháng 10 năm 1961, tiếp theo phái đoàn kinh tế - quân sự E. Staley sang hồi tháng 6, Mỹ cử tiếp phái đoàn quân sự - chính trị Maxwell Taylor đến Sài Gòn. Kế hoạch Staley - Taylor đã hình thành gồm 3 giai đoạn:

1. Dồn dân lập ấp chiến lược, bình định miền Nam trong vòng 18 tháng và tổ chức những ổ biệt kích phá hoại miền Bắc.

2. Phục hưng kinh tế Việt Nam cộng hòa, tăng cường quân đội quốc gia và gia tăng hoạt động biệt kích phá hoại ở miền Bắc.

3. Phát triển kinh tế miền Nam và tiến công miền Bắc.

Trong thời gian qua, Hai Long vẫn đi lại giữa nhà thờ Phát Diệm, nhà thờ Bình An và dinh Độc Lập. Những tin tức thật và tin tức giả anh đem tới cho Nhu có tính cách trao đổi. Phòng khách của Nhu là nơi kiểm nghiệm những tin tức anh thu lượm được từ bên ngoài. Những tin tức anh lấy được từ chính miệng Nhu cũng được kiểm nghiệm lại ở bên ngoài. Anh nhận thấy, sự tin cậy của Nhu đối với mình tăng dần qua mức độ những điều cơ mật Nhu đã thổ lộ với anh. Lệ Xuân có mặt ngày càng nhiều hơn trong những cuộc trao đổi này.

Với kế hoạch Staley - Taylor công bố, quốc sách ấp chiến lược được Mỹ hoàn toàn chấp thuận và triển khai nhanh, vị trí của Diệm - Nhu có vẻ được củng cố hơn cách đây nửa năm.

Sau khi phái đoàn Taylor rời khỏi Sài Gòn, Hai Long tới dinh Độc Lập.

Cả Ngô Đình Nhu và Lệ Xuân đều có mặt ở phòng khách.

Hai Long nhận thấy hai vợ chồng vừa có chuyện không vui. Lệ Xuân không giữ được nét tươi cười như những lần anh đến trước. Những sợi tóc ngắn buông mành trên trán bà ta dường như chọc vào mắt, khiến cho đôi mắt bà ta khó đăm đăm, thỉnh thoảng lại long lên những ánh bực tức. Nhu tuy biết tự kiềm chế nhưng cũng lộ vẻ không vui.

Nhu hỏi Hai Long với giọng làm ra vẻ bình thản:

- Cha Lê có ý kiến gì về cuộc hội đàm vừa qua?

- Cha nói mọi việc diễn ra đúng như ngài dự đoán. Kế hoạch như vậy, nhưng Mỹ không được thỏa mãn những yêu sách chính của mình. Nay mai tình hình lại càng rối ren hơn.

Vợ chồng Nhu nhìn nhau.

- Việc gì các cha cố cũng biết ngay? - Lệ Xuân nói - Tin tức từ đâu lộ ra ngoài?

Hai Long nói:

- Tôi xin lưu ý bà cố vấn, người Mỹ có nhiều người thân của họ bên ngoài Phủ tổng thống. Có đôi khi họ còn biết cả những vấn đề mà người thay mặt chính phủ Mỹ chưa kịp nêu ra với tổng thống và ông cố vấn.

- Những thằng nào hay đi lại chỗ cha Lê?

- Họ có tới hàng chục chứ không chỉ một vài người. Tôi đã kịp thời thông báo những người đó với ông cố vấn. Chỉ có điều, đôi lúc tôi không được biết chính xác ai đã nói gì. Nhiều điều do Đức cha nói lại. Nhưng tôi đã mạnh dạn gạt bỏ những tin tức bịa đặt hoặc xuyên tạc.

Nhu nói:

- Taylor đồng ý với tất cả những giải pháp của ta, chỉ đề nghị: cho tàu chiến Mỹ sử dụng cảng Cam Ranh, cho Mỹ đưa một số đơn vị quân chiến dấu vào miền Nam, và cho họ đưa cố vấn đến cấp tỉnh. Tổng thống và tôi đã bác bỏ tất. Ở Việt Nam cộng hòa này mình là chủ. Cũng lại giống như lần ông Johnson sang, cuối cùng, họ đồng ý với ta. Taylor không thể to hơn Johnson?

- Nhưng chắc là Taylor cũng chỉ nói lại ý kiến mới của tòa Bạch ốc.

- Bạch ốc cũng bác. Kennedy cũng bác! - Lệ Xuân giận dữ nói xen vào.

- Không ai xỏ dây vào mũi mình được. - Nhu nói với giọng trầm tĩnh.

Hai Long hỏi:

- Còn vấn đề mở rộng thành phần chính phủ?

- Đó là việc nội bộ của mình, do mình quyết định. Không thể để ai xen vào việc nội bộ. Như vậy còn gì là chủ quyền. - Nhu trả lời một cách chung chung.

- Họ ngu! - Lệ Xuân lại nói - Ông Nhu mà rời Phủ tổng thống thì tất cả đổ sụp... Tổng thống có trực tiếp điều hành công việc đâu! Họ định tìm ai ra thay?

Biết Nhu không muốn vợ nói ra điều này, Hai Long lảng qua chuyện khác:

- Tôi lưu ý ông cố vấn hết sức đề phòng những nguy cơ ở liền kề bên cạnh.

- Nhờ anh theo dõi sát cha Hoàng và những phe phái đối lập giúp tôi. Tôi biết cha Hoàng đang tập hợp lực lượng.

- Cha chánh xứ đã quá già! Cha có làm gì chăng nữa cũng chỉ tìm chút nguồn vui những ngày tàn giữa giáo dân. Trước hết, ông cố vấn nên chú ý đến giới quân sự thân Mỹ. Hiện nay, họ chủ yếu đang nhắm vào ông cố vấn.

- Mấy thằng an ninh toàn ăn hại! - Lệ Xuân nói tranh chồng - Để mãi thằng Đỗ Mậu làm gì. Lại cả thằng Võ Văn Hải nữa!

Hai Long đã biết sau vụ đảo chính năm 1960, Nhu có ý ngờ Võ Văn Hải, bí thư của tổng thống, và Đỗ Mậu, giám đốc an ninh quân đội, Nhu định loại bỏ nhưng Diệm không đồng ý.

- Nếu người Mỹ vẫn cố sự bất đồng, - Hai Long nói - tôi đề nghị ông cố vấn hết sức giữ gìn. Ông cố vấn là rường cột của quốc gia. Trọng tâm là giới quân sự thân Mỹ.

- Cảm ơn anh.

Lệ Xuân nói:

- Tướng tá giở trò gì, cứ đem Đỗ Mậu ra mà treo cổ!

Nhu át đi:

- Tôi hoàn toàn đồng ý với cha Lê: tình hình còn phức tạp. Đã nhìn thấy vấn đề là sẽ có cách giải quyết vấn đề...5.

Lễ Giáng sinh năm 1961. Suốt ngày xe hơi từ Sài Gòn chiếc nọ nối theo chiếc kia phóng về nhà thờ Phát Diệm. Những chính khách, tướng tá, người cầm đầu đoàn thể chính trị, tôn giáo nườm nượp kéo đến chúc phúc Đức cha Lê. Nhà khách đã kê thêm bàn, luôn luôn có người ngồi chật.

Trong năm qua, không khí ở nhà thờ Phát Diệm và nhà thờ Bình An đã khác hẳn. Ai cũng nói không Noel nào người về chúc phúc giám mục đông như năm nay. Mọi người vui vẻ nói cười. Có thể thấy tất cả đều thuộc các phe nhóm đối lập. Họ đến không phải chỉ để chúc phúc cha Lê, mà còn để gặp nhau trao đổi tình hình, nói chuyện chính trị. Bọn mật vụ Lê Quang Tung luôn luôn bám sát nhà thờ Phát Diệm, nhưng chúng chỉ làm được công việc ghi số xe, số người lui tới, và tên những người chúng đã biết mặt, chứ không sao lọt được vào nhà thờ. Họ nói chuyện tại đây thoải mái như ở nhà.

Giám mục Lê mặc áo choàng trắng của dòng tu khổ hạnh, dài sát gót chân, ngực đeo thánh giá, trang trọng đi lại giữa những dãy bàn, chốc chốc lại dừng chân ban phát cho người này hoặc người khác một đôi câu. Cha cố gắng đối xử với khách thật bình đẳng. Cha là của chung chứ không phải của riêng ai.

Hai Long ngồi lẫn với đám tướng tá gốc ở Phát Diệm. Họ khá đông, nên có nhiều người anh không biết mặt. Họ đều vui mừng coi như những ngày đen tối đã qua, bọn quỷ dữ Diệm, Nhu đang giãy chết.

Người bên cạnh Hai Long là một người da bánh mật, ria, tóc, lông mày đều rậm và đen nhánh, có hàm răng trắng lóa và nụ cười rất tươi. Hai Long không quen anh ta, nhưng anh ta lại tỏ ra rất biết anh.

Người đó nhoẻn miệng cười, hỏi Hai Long:

- Gần đây, thầy phụ tá ra vào dinh Độc Lập thấy thế nào?

- Căng thẳng. Đầy không khí nghi kỵ. Nhưng ông Nhu tỏ ra vẫn cứng.

- Bề ngoài thôi! Trong bụng run lắm rồi. Taylor là cố vấn quân sự của riêng Kennedy, không thể đùa!

- Ông Nhu nói: đã biết tình hình thì sẽ có cách giải quyết.

- Biết...? Biết cái mẹ gì! Ông Nguyễn Văn Lực đã móc với CIA rồi! Ông Lực đã dính với "xịa"[7], đã nói sẽ làm thì nhất định làm! Lần này, sẽ rung hơn tháng 11 năm ngoái nhiều. Năm ngoái "Mẽo"[8] mới dọa. Năm nay "Mẽo" sẽ làm thực. Vì chính "Mẽo" dựng ông Diệm, ông Nhu lên nhưng bây giờ không điều khiển được nữa!

Anh ta lại nở ruột nụ cười rất rộng, rất tươi. Hai Long cũng cười phụ họa để chia sẻ niềm vui với anh ta.

Lát sau, Hai Long tìm riêng cha Hoàng, thuật lại chuyện này. Cha nói: "Mình nghe rồi! Phạm Xuân Chiểu, Phạm Văn Đổng đã nói với mình".

Chờ cha Hoàng trở về nhà thờ Bình An chuẩn bị làm lễ đêm Giáng sinh, Hai Long gặp cha Lê. Nghe anh nói xong, cha Lê cười nụ: "Có vào hang cọp thì mới bắt được cọp con, nhưng từ nay phải chú ý đề phòng. Đừng để thành cháy vạ lây. Mấy ngày qua, cha định nhắc anh chuyện đó. Mình cứ đứng ngoài mà coi!".

Hai Long quyết định báo lại tin này cho Nhu. Anh giấu tên những người có liên quan. Nhu nghe xong, thái độ rất khẩn trương, hỏi lại:

- Nhóm nào chủ trương? Tin đó xuất xứ từ đâu?

- Cha Lê và cha chánh xứ đều nói với tôi như vậy. Các ngài không nói nhóm nào làm. Tôi đã hỏi thử nhưng hai cha đều nói chỉ cần biết vậy thôi...

Sáng hôm sau Hai Long vừa phóng xe tới đầu phố Duy Tân, thì thấy một cô gái tay cầm chiếc túi xanh, rất giống cái túi anh đang treo ở ghi-đông xe, đi ung dung trên hè bên phải.

Anh phóng xe vượt lên một quãng, nhấc xe lên hè đường, mua một bao thuốc lá.

Cô gái đi tới, chăm chú nhìn cái túi của anh, rồi hỏi:

- Phiền anh, coi hộ em mấy giờ rồi.

Hai Long xem đồng hồ rồi nói:

- 7 giờ 15 phút.

- Vậy mà em lo trễ quá, đồng hồ em 7 giờ 30 rồi.

- Nhanh 15 phút.

- Anh có ra phía đường Ca-ti-na[9], phiền anh cho em quá giang một đoạn?

- Mời cô lên xe... Cô khoác cái túi ở ghi-đông cho đỡ mỏi tay.

- Dạ...

Qua nhà thờ Đức Bà, cô gái nói:

- Anh cho em xuống đây... Xin rất cảm ơn anh.

Hai Long đưa trả cô gái cái túi xanh. Cô gái nhìn cái túi miệng hơi mỉm cười, chào rồi quay đi.

Trong cái túi xanh Hai Long đưa cô gái, có bản sao kế hoạch Staley - Taylor kèm theo thư của Hai Long viết bằng mực hóa học báo cáo những ý kiến của Nhu, và tin sắp có một chính biến do CIA giật đây. Trong cái túi của cô gái để lại, có thư của Trung tâm, báo tin đã nhận được bản dự thảo về ấp chiến lược, và yêu cầu tìm hiểu kế hoạch Staley - Taylor. Anh rất mừng vì mình đã đáp ứng kịp thời.

Buổi chiều, anh tới trại Lê Văn Duyệt tìm Dương Văn Hiếu. Anh nói cho Hiếu biết tin và bảo báo ngay cho cậu Út biết. Hiếu mừng như bắt được vàng, hết sức cảm ơn anh, và nói hắn sẽ đi chuyến máy bay sớm nhất ra Huế. Hắn than phiền:

- Tôi ở Sài Còn đã lâu, mà không sao xâm nhập được vào các đoàn thể tôn giáo, vì đi tới đâu họ cũng biết là người của ông Cậu. Ra Huế gặp ông Cậu chẳng có chi để báo cáo.

- Riêng việc đó tôi sẽ giúp anh.

Hai Long nói một cách hào phóng. Anh biết đây là cách tốt nhất để gắn bó Hiếu với mình.
 
6.

Ngày 27-2-1962. Buổi sáng, Hai Long đang trên đường tới thư viện thì nghe những tiếng rít xé tai trên bầu trời. Tiếp theo là hai tiếng nổ rung chuyển thành phố.

Mọi người đổ xô ra hè, ra đường. Một đám khói đen đùn lên từ phía dinh Độc Lập. Một chiếc máy bay đen xì dần dần mất hút ở phương trời phía tây. Tiếng bàn tán xôn xao.

- Bom ném vào dinh Độc Lập!

- Tôi trông rõ hai máy bay ta. Có cờ ba sọc!

- Đảo chánh rồi!

- Lại đảo chánh rồi!...

Hai Long vội quay về nhà cho gia đình yên tâm, sau đó anh phóng xe xuống nhà thờ Phát Diệm. Xe cứu hỏa rú còi rền rĩ. Xe cảnh sát phóng hớt hải. Xe chở binh lính đổ về phía dinh tổng thống. Nhưng sau một vài loạt súng nổ khi có tiếng máy bay, không còn nghe tiếng súng. Đám khói đen tan dần và Sài Gòn sau lưng anh vẫn êm ả. Có lẽ chưa có chuyện gì ngoài hai trái bom trút vào dinh Độc Lập Anh nghĩ vậy nhưng vẫn phóng xe tiếp xuống nhà thờ Phát Diệm.

Nhìn thấy anh, cha Lê mừng rỡ:

- Cha đang lo, tuy cha biết anh thường đến đó vào buổi chiều. Lại thêm một đòn cảnh cáo. Không biết tổng thống, cố vấn sống hay chết? Cha Thục lại vừa vào, cũng ở trong dinh Độc Lập. Nếu vô phúc thì chết cả 3 anh em! Trò chơi kiểu Mỹ cũng gớm thật?...

Hai giờ sau, Lê Quang Tung gọi điện thoại cho anh:

- Ông cố vấn chính trị mời ông phụ tá chiều mai tới dinh làm việc.

- Ông đại tá cho biết về tình hình sức khỏe của tổng thống, cha Thục và bà Nhu?

- Cả gia đình đều an toàn, không có chuyện chi! Mai mời ông phụ tá lại nhé!...

Cha Lê đứng theo dõi cuộc nói chuyện, nhận xét:

- Người ta muốn báo sớm cho mình biết người ta "không mần chi"! Cũng còn tốt phúc đó! Nhưng không phải chỉ có hai lần thôi, nếu còn cứ chọi với Mỹ! Anh đến đó xem sao. Cho nó "thủy chung như nhất"!

Trước khi Hai Long về Sài Gòn, cha Lê trao cho anh một lá thư chúc mừng sức khỏe cha Ngô Đình Thục.

Cha Lê mỉm cười:

- Với cha Thục là tình đồng đạo, làm cho phải phép. Còn tổng thống và ông cố vấn thì thôi...7.

Vợ chồng Nhu cùng vội vã ra cửa đón Hai Long khi anh tới.

Nhu ôm lấy anh và lần đầu tiên, y hôn anh. Bà cố vấn chìa má cho Hai Long nói:

- Thầy phụ tá chúc mừng tôi đi!

Cả hai vợ chồng Nhu đón anh như đón người thân thiết nhất trong gia đình.

Hai Long nói với giọng xúc động:

- Đa tạ Chúa đã phù hộ tổng thống, tổng giám mục, và gia đình ông cố vấn tai qua nạn khỏi.

- Cảm ơn anh đã sớm cho tôi biết tin. Tôi đề phòng một vụ 11 tháng 11, nhưng không ngờ chúng lại làm chuyện ni!

- Cha Lê có gửi thiếp, bảo tôi đem tới chúc mừng sức khỏe của cha Ngô Đình Thục.

- Lần này thì rõ ràng anh "báo nguy" cho chúng tôi chứ không phải cha Lê!

Hai Long đứng lặng thinh.

Lệ Xuân nói:

- Chúng tôi mà chết cả ngày hôm qua, thì hôm nay chúc các cha làm lễ ăn mừng!

Bà ta có phần xanh xao sau vụ tai biến.

Nhu đỏ bừng mặt, đôi mắt rực sáng:

- "Toi" cần bám sát cha Lê và cha Hoàng, nhất là cha Hoàng. Mấy ông cha cố này nối giáo cho giặc, chỉ nay xui đám này mai xúi đám khác! Các ông ấy có mưu đồ vương bá thì cởi áo thầy tu ra!...

Hai Long bình tĩnh nói:

- Tôi xin cam đoan với ông bà cố vấn, tôi sẽ vận động được cha Lê và cha Hoàng nếu không công khai ủng hộ tổng thống, thì cũng không trực tiếp chống phá tổng thống.

- Anh cố bám cho được đám lực lượng tự vệ Phát Diệm.

- Nhờ kinh nghiệm của ông cố vấn giúp cho bữa trước ở Phú Cam, tôi đã nắm được phần hồn cựu chiến sĩ Phát Diệm rồi!

- Kinh nghiệm nào? - Nhu ngạc nhiên.

- Ông cố vấn đã mách giùm tôi, cứ giúp các cha làm một vài vụ "áp phe" thì muốn gì cũng được! Tôi đã tổ chức cho cha Hoàng và các chiến sĩ cựu tự vệ làm một số áp phe.

Cả vợ chồng Nhu đang bực tức đều phá lên cười. Lần đầu từ khi gặp Nhu, Hai Long thấy y cười thành tiếng.---

[1] quản lý

[2] thư ký kế toán

[3] tiểu đoàn công binh 22

[4] phân tích

[5] gàn

[6] luận văn

[7] tiếng lóng gọi CIA

[8] Tiếng lóng gọi Mỹ

[9] Catinat
 
NGÔ CHÍ SĨ

1.

Cho đến trước năm 1960, người Mỹ rất tự hào đã phát hiện và tạo dựng nên một lãnh tụ chống Cộng ở châu Á kiệt xuất là Ngô Đình Diệm, thay thế cho những con bài đã lỗi thời như Tưởng Giới Thạch, Lý Thừa Vãn.

Ở Ngô Đình Diệm hội tụ tới mức tối đa những điều kiện cũng như những "đức tính" cần thiết cho nhân vật mà đế quốc Mỹ đang đi tìm để dùng trong ván bài sắp chơi ở Đông Nam Á.

Về dòng dõi, Diệm là con một đại thần triều Nguyễn được tiếng là trung thần. Bản thân Diệm đã được đào tạo để làm quan và đã làm đến chức thượng thư Bộ Lại. Năm 1945, Bảo Đại mời Diệm ra làm thủ tướng chính phủ bù nhìn thân Nhật, Diệm từ chối. Năm 1948, khi Bảo Đại từ Hongkong trở về làm quốc trưởng chính quyền bù nhìn thân Pháp, một lần nữa Bảo Đại nghĩ đến Diệm trong ghế thủ tướng. Diệm vẫn chối từ. Diệm lại là một tín đồ của đạo Thiên Chúa. Và đặc biệt, Diệm là một phần tử quốc gia chống Cộng từ huyết quản: anh em Diệm cón mối thù riêng với Cách mạng đã trừng trị người anh cả của mình. Ngoài Diệm ra, những anh em của Diệm đều là những nhân vật đáng chú ý, đáng coi trọng.

Đứng bên Bảo Đại, một ông vua bù nhìn, lười biếng, nổi tiếng ăn chơi, hưởng lạc; Diệm nổi bật lên với các đức tính thanh liêm, chăm làm việc, và "yêu nước". Khi Mỹ đã hất cẳng Pháp, bày trò trưng cầu dân ý xem dân miền Nam nên cho chế độ quân chủ với Bảo Đại hay chế độ cộng hòa với Ngô Đình Diệm, Bảo Đại bị loại dễ dàng.

Năm 1957, Diệm đã sang thăm Hoa Kỳ bằng máy bay riêng của tổng thống Mỹ. Eisenhower đích thân ra sân bay đón Diệm. Diệm đọc diễn văn trước cả hai viện của quốc hội Mỹ. Thị trưởng thành phố New York mô tả Diệm là "một con người mà lịch sử có thể đánh giá như là một trong những nhân vật vĩ dại của thế kỷ 20". Và ngay đến giữa năm 1961, khi quan hệ giữa Nhà Trắng và chính quyền Sài Gòn đã trở nên có vấn đề, phó tổng thống Mỹ Johnson sang thăm Sài Gòn, vẫn còn gọi Diệm là "Winston Churchill[1] của châu Á".

Những năm đầu của chính quyền Diệm diễn ra xuôi xẻ. Diệm đàn áp những lực lượng thân Pháp, thu tóm quyền hành vào trong tay không mấy khó khăn. Người dân miền Nam tạm ép mình chờ ngày Tổng tuyển cử thống nhất hai miền. Nhưng tình hình yên ổn này không kéo dài. Mỹ bắt đầu nhận thấy mặt trái của những cái, vốn đã được coi là những ưu đểm của Diệm và gia đình.

Để thực hiện chiến lược chống Cộng ở châu Á, rút kinh nghiệm thất bại của chủ nghĩa thực dân cũ, Mỹ chủ trương dựng lên ở miền Nam một chính quyền tay sai và một chính thể "dân chủ" theo kiểu Mỹ. Mỹ tin rằng hình ảnh của một nước Mỹ thu nhỏ tại Đông Nam Á "tự do", "phồn vinh", mạnh về quân sự, sẽ chặn đứng đà phát triển của chủ nghĩa cộng sản tại khu vực này, và trên phần còn lại của thế giới. Mỹ hy vọng Ngô Đình Diệm sẽ làm được cái điều mà Tưởng Giới Thạch, Lý Thừa Vãn với tính bảo thủ, lạc hậu của họ; đã không làm được. Nhưng Mỹ bắt đầu nhận thấy là đã lầm.

Diệm tuy được đào tạo theo văn hóa phương Tây, nhưng vẫn mang nặng đầu óc phong kiến, hoàn toàn theo triết lý đạo Khổng, duy trì mọi tôn ti, trật tự, lễ nghi phong kiến trong gia đình cũng như trong việc trị nước. Diệm thích giữ tiết tháo của nhà nho. Về những mặt này, Diệm còn bảo thủ, cố chấp hơn tất cả những kẻ trước kia Mỹ đã gặp. Diệm và Mỹ rất thống nhất với nhau trong mục đích chống Cộng triệt để. Diệm hiểu rằng muốn chống Cộng phải dựa vào Mỹ. Và có dựa vào Mỹ, Diệm mới tạo dựng, duy trì được quyền lực của mình và gia đình mình. Nhưng tới lúc Diệm đã có quyền lực trong tay, thì ngay cả Mỹ cũng không thể đụng vào. Trong khi ấy, Mỹ vẫn tưởng: "Ai chi tiền, kẻ ấy điều khiển"!

Ông tổng thống Việt Nam cộng hòa, từ Mỹ về, khi ngồi trong dinh Độc Lập đã hiện nguyên hình một bậc "phụ mẫu chi dân[2]" thời xưa. Diệm thích mặc áo dài đen như hồi còn làm việc với Nam triều. Diệm ngồi trên một chiếc ghế bành, trước mặt là cái bàn tròn và chiếc ghế tràng kỷ. Diệm hay ghi chép bằng chữ Hán, vừa là chữ thánh hiền, vừa ít người biết, giữ được bí mật. Người vào làm việc với Diệm phải ăn mặc tề chỉnh, từ bộ trưởng trở xuống khi ra về đều phải đi thụt lùi. Một vài tổng trưởng, tướng tá vẫn bị Diệm gọi bằng "ông Huyện", "ông Đội", theo chức vụ cũ của họ từ thời Pháp thuộc.

Mọi quyền lực đều tập trung trong tay Diệm và gia đình. Nhưng người quyết định cuối cùng vẫn là Diệm. Những người được Diệm hỏi ý kiến bao giờ cũng phải đưa ra vài phương án, để tổng thống suy nghĩ và lựa chọn. Một số người đã có kinh nghiệm trong việc giới thiệu người cho Diệm đưa vào những chức vụ từ tỉnh trưởng trở lên. Nếu họ muốn Diệm chọn ai thì khi giới thiệu chỉ nên nói nhiều điều tốt về người đó, chứ nếu nói nên chọn người đó, thì nhất định Diệm sẽ chọn người khác. Diệm có những nguyên tắc riêng trong cách xử lý mọi vấn đề mà Nhu là người ở liền kề bên cạnh, nhiều lúc cũng không hiểu, vì khi quyết định Diệm thường không giải thích. Nhưng điều nổi rõ hơn cả là Diệm không chịu để bất cứ ai xâm phạm đến quyền lực của mình và sau đó là gia đình mình.

Diệm không lấy vợ, quen sống cô độc, khắc khổ. Diệm ăn, ngủ và làm việc đều trong một căn buồng. Một ông bõ già, người cùng quê, tóc bạc lưng còng, chuyên phục dịch cơm nước theo kiểu miền Trung. Diệm ngại đi ra ngoài, ngại tiếp xúc với đám đông, đặc biệt ngại tiếp xúc với phụ nữ. Lệ Xuân là người trong nhà, nhưng khi vào phòng của Diệm bao giờ cũng phải có mặt một người thứ ba. Vì ít có quan hệ với đời sống, không hiểu biết thực tế nên Diệm dễ mắc lừa. Khi Diệm đi thăm chợ tìm hiểu giá hàng, những người bán hàng đã được dặn trước phải nói giá thấp; Diệm so sánh với tiền lương của các nhân viên và binh lính, rồi cho rằng họ cũng sướng. Quan chức ở các địa phương tìm mọi cách nói dối Diệm để làm cho Diệm vui.

Diệm đặc biệt tin vào tướng số. Đỗ Mậu được Diệm ưa thích vì có thể ngồi đàm đạo với Diệm tới khuya về tử vi. Trước khi trao một chức vụ gì cho ai, bao giờ Diệm cũng cho gọi người đó lên để... coi tướng, rồi mới quyết định. Diệm tin là mọi chuyện lớn nhỏ đều do Chúa an bài. Diệm cho rằng phúc lộc gia đình họ Ngô còn vượng lâu dài, mọi hiểm nguy nhờ có thánh thần phù hộ rồi sẽ vượt được qua.

Càng ngày Diệm càng náu mình sâu trong căn phòng thâm nghiêm của mình, khi buồn thì gọi mấy đứa con trai của Nhu sang chơi, có lúc gọi hai sĩ quan cận vệ vào bảo đánh cờ với nhau cho mình ngồi xem. Diệm làm việc khá nhiều, suốt ngày cặm cụi đọc báo cáo, có lúc đêm khuya còn gọi người đến làm việc. Nhưng cách làm việc của Diệm thường tùy tiện, không theo đúng chương trình, kế hoạch, gặp ai vui chuyện, Diệm có thể tiếp hàng giờ, quên hết những việc khác.

Qua mỗi năm, Diệm càng thêm độc đoán, khó tính, không chịu nghe những lời trái với ý mình, khiến cho những cố vấn nước ngoài, kể cả đại sứ Mỹ khi tiếp xúc với Diệm cũng phải e ngại. Không ai dám nói với Diệm về những chuyện tham nhũng, vơ vét, lộng quyền của gia đình Diệm, từ Ngô Đình Thục cho đến vợ Nhu, Cẩn; vì biết rằng không những Diệm không tin, mà còn bị Diệm ghét bỏ. Tiếng liêm khiết của Diệm vì vậy không còn. Tài trị nước, an dân của Diệm cũng không còn ai tin, vì thấy Diệm chẳng thi thố được gì trước tình hình chính trị, kinh tế, trị an ngày càng rối loạn.

Đế quốc Mỹ không phải mất quá nhiều thời gian mới nhìn thấy những nhược điểm này của chế độ Diệm. Nhưng những nhược điểm đó chỉ trở thành vấn đề khi cuộc chiến dấu của nhân dân miền Nam ngày càng dâng lên mạnh mẽ. 2.

Biến cố ngày 27 tháng 2 đã kéo theo hàng loạt vụ khủng bố công khai và bí mật của bọn an ninh, mật vụ dưới quyền Ngô Đình Nhu.

Sau cuộc đảo chính ngày 11 tháng 11 năm trước, Nhu đã cho bắt một loạt người hoạt động chính trị, cha cố và loại bỏ, điều động một số tướng tá. Bọn mật vụ bắt Phan Khắc Sửu (sau này trở thành quốc trưởng) giam vào một căn hầm ở Sở thú Sài Gòn và tra tấn nhục hình. Dương Văn Minh, trung tướng, người đã lập được nhiều công trong việc đánh dẹp Bình Xuyên thời kỳ đầu của chế độ Diệm, với danh hiệu là "anh hùng rừng Sát", bị điều làm tư lệnh bộ chỉ huy dã chiến trong sở chỉ huy lục quân. Trong thực tế, với chức vụ mới này, Minh đã trở thành một tướng "không quân", chỉ còn làm công tác thanh tra ở mấy quân đoàn. Trần Văn Đôn, thiếu tướng tư lệnh quân đoàn 1, được lệnh ngừng công tác hai tuần trong khi cơ quan an ninh tiến hành điều tra. Lê Văn Kim, thiếu tướng, giám đốc trường Học viện quân sự Đà Lạt, em rể của Trần Văn Đôn bị bắt giam. Ba viên tướng này được coi là những người thân Pháp. Hầu hết những người bị bắt đều chưa được đưa ra xét xử. Một số phần tử chống đối bị thủ tiêu bí mật.

Hai phi công trẻ trong lực lượng không quân đã ném bom và bắn súng phá hủy nửa tầng trên phía bên trái dinh Độc Lập, bên dưới là nơi làm việc của Ngô Đình Nhu. Một người là Nguyễn Văn Cử đã bay sang Phnôm Pênh và xin cư trú chính trị. Người thứ hai là Phạm Phú Quốc bị bắt. Máy bay của Quốc khi oanh tạc đã bị trúng đạn của bộ phận bảo vệ Phủ tổng thống từ dưới bắn lên. Quốc không thể bay tiếp, phải hạ cánh xuống bờ sông Sài Gòn. Quốc chưa chịu khai kẻ nào đã xúi giục Quốc và Cử làm việc này.

Biến cố 27 tháng 2 đã mang lại một sự tiến triển mới trong mối quan hệ giữa Hai Long và Nhu.

Buổi gặp lần thứ hai sau khi dinh Độc Lập bị ném bom, Nhu hỏi Hai Long:

- Anh nhiều tên quá! Tên thật của anh là gì?

Hai Long hơi chột dạ. Nhìn sắc thái Nhu vẫn bình thường, anh nói:

- Người ta quen gọi tôi bằng tên theo những công việc mà tôi đang làm. Hồi còn làm việc cho Việt Minh, tôi lấy bí danh là Vũ Ngọc Nhạ. Khi về với cha Hoàng, cha đặt tên cho là Hoàng Đức Nhã theo họ của cha. Còn chính tên bố mẹ đặt là Vũ Đình Long.

- Anh trùng tên với gia dình này. Bốn anh em chúng tôi đều có tên là Long.

- Quả là tôi chưa biết.

- Đức cha Ngô Đình Thục là Hồng Long. Tổng thống là Bạch Long. Chú Cẩn là Hắc Long. Còn tôi là Thanh Long. Đó là tên gọi trong gia đình.

- Những tên đó rất hay! - Hai Long tán dương. - Nghe tên là nghĩ đến người, không thể lầm được.

- Tôi muốn đặt tên anh là Hoàng Long, ý anh thế nào?

- Đó là một vinh dự lớn đối với tôi.

- Anh sẽ về hẳn đây làm cố vấn cho tôi. Như thế sẽ hình thành một Polit Bureau[3] 4 người,

có chuyện gì sẽ cùng bàn bạc.

Hai lần Hai Long báo tin chính xác những hiểm họa đang trực tiếp đe dọa tính mệnh gia đình họ Ngô đã đánh tan mối nghi ngờ của Nhu. Nhu tin rằng người phụ tá của cha Lê tuy chưa công khai nói ra, nhưng đã thực sự có bụng phản cha, cùng đi với mình. Anh ta còn phải đi hàng hai là chỉ cốt để lập công nhiều hơn cho mình tin.

Hai Long đoán được ý đó. Anh đáp:

- Như vậy rất bất lợi cho công việc hiện nay. Khi tôi vào ở hẳn trong Phủ tổng thống, tôi sẽ không còn điều kiện liên hệ với các phe phái đối lập với tư cách là người của cha Lê và cha Hoàng.

Nhu ngẫm nghĩ rồi nói:

- Anh về đây, tôi có thể trực tiếp trao cho anh nhiều công việc. Anh sẽ nhân danh tôi, dựa trên những mối quan hệ sẵn có của anh, tiếp xúc với mọi lực lượng phe phái. Ngoài ra, còn những công việc khác. Nhưng nếu anh chưa muốn về ngay thì tạm thời hãy cứ như vậy. Còn cái tên Hoàng Long...? Đây là để ta gọi với nhau trong gia đình.

- Đa tạ ông cố vấn.

Nhu đứng dậy chìa tay bắt tay Hai Long thật chặt:

- Như vậy, chúng mình đã coi nhau như người nhà. Hoàng Long này, ông Cụ muốn gặp anh.

- Tôi đã có nguyện ước được trình diện tổng thống, tiếc rằng chưa có dịp.

- Ông Cụ muốn gặp anh từ lâu. Mới đây, sau khi gặp Đức cha Thục, Cụ lại nhắc. Tôi chỉ dặn anh, gần đây, do tình hình, ngài không vui. Khi gặp, Cụ hỏi gì, anh cứ sự thật trình bày nhưng cũng nên lựa lời, chứ không nên có gì nói nấy như nói với tôi. Nếu ông Cụ có ý khác thì đừng tranh cãi.

- Dạ... Sắp tới ngày lễ Phục sinh, ông cố vấn cho tôi ngày đó đến trình diện tổng thống và chúc phước luôn.

- Như vậy cũng hay. 3.

Từ sau ngày dinh Độc Lập bị ném bom, Ngô Đình Diệm đã chuyển sang dinh Gia Long cùng ở với vợ chồng Nhu. Dinh Độc Lập chỉ cách dinh Gia Long vài trăm mét.

Diệm đang ngồi trước chiếc bàn lớn bề bộn giấy tờ. Nghe tiếng Nhu, Diệm nhìn ra, bỏ kính xuống bàn, rồi chậm chạp đứng dậy đi ra cửa.

Trước mắt Hai Long là một người thấp, đậm, tóc bắt đầu bạc, không có râu, mắt có túi, hai má chảy nước, da trắng bợt cớm nắng.

Nhu tươi cười giới thiệu:

- Thưa, đây là chú Hoàng Long, phụ tá của Đức cha Lê.

Diệm chìa bàn tay mềm nhũn bắt tay Long một cách hững hờ.

- Tôi đã nghe Đức cha Thục và chú Nhu nhắc nhiều đến thầy.

Hai Long cung kính nói:

- Thưa tổng thống, tôi qua lại chỗ ông cố vấn đã lâu, hôm nay nhân ngày lễ Phục sinh, lại được tổng thống cho gặp; xin kính chúc tổng thống trường thọ.

- Cảm ơn.

Diệm đưa Hai Long và Nhu ra ngồi ở xa-lông. Đồ đạc của Diệm từ dinh Độc Lập đã chuyển sang đây. Xa-lông, bàn làm việc, tủ hồ sơ, tủ quần áo, gi.ường ngủ là một chiếc đi-văng cùng kê trong một phòng.

- Đức cha Lê có khỏe không? - Diệm hỏi.

- Cảm ơn tổng thống, ngài rất khỏe.

- Lâu ngày chưa có dịp gặp cha. Chú Nhu năm trước gặp cha ở Huế phải không?

- Dạ... - Nhu đáp.

Hai Long nói:

- Đức cha cũng mong một ngày gần đây có dịp gặp tổng thống.

- Đức cha quá lo về phía người Mỹ. - Diệm nói - Đức cha có quá nhiều thâm tình với người Pháp... Nếu Mỹ đảo chính tổng thống thì lấy ai mà chống Cộng! Nhóm 18 người ở Caravelle, cứ tìm xem, có mặt nào? (Diệm quay về phía Nhu như vừa chợt nhớ ra) Bao giờ xử bọn này?

- Thưa anh sắp. Để chuẩn bị thêm chút nữa.

- Mỗi quốc gia muốn ổn định, muốn phát triển mạnh, phải có một cái đầu. Không phải cái đầu ngu độn, xôi thịt, mà một cái đầu sáng suốt, biết nghe nỗi khổ của dân, biết giải quyết nỗi khổ của dân. Ta chủ trương "đồng tiến xã hội" để cho mọi người đều sung sướng. Bỏ tiền ra mua ruộng đất chia cho dân nghèo. Biến địa chủ thành tư sản như ở Đài Loan. Không phải đấu tranh giai cấp như kiểu Cộng sản gây thù hằn, chia rẽ dân tộc. Ngày xưa đâu có đấu tranh giai cấp như ngày nay mà có xã hội đã có thời Nghiêu, Thuấn... Ở Đài Loan họ đã làm được. Cái khó của mình là vướng Cộng sản. Ta phải chống Cộng theo kiểu của ta. Người Mỹ có kiểu của họ...

Diệm ngừng nói, mắt gườm gườm. Rồi như không nén được, Diệm lại nói tiếp:

- Chống Cộng của Mỹ là theo kiểu Triều Tiên, McArthur[4] dạy Leclerc[5] phải đưa quân viễn chinh vào thật nhiều, phải gài cố vấn từ trung ương đến tỉnh đến quận, đến đại đội. Người Mỹ quá tin vào sức mạnh của vũ khí, xe tăng, máy bay. Họ giỏi, họ mạnh về mặt này, nhưng họ đâu có hiểu Việt cộng bằng ta! Không biết tiếng nói, không quen phong tục Á đông, không quen thủy thổ, Pháp đánh đã không thắng, Mỹ vào đâu đã dễ thắng! Ở đây làm gì có kiểu chiến trường rộng lớn, hai bên dàn quân ra đánh nhau như kiểu châu Âu! Phải chống Cộng theo kiểu của ta thì mới diệt Cộng được tận gốc. Chống Cộng bằng quốc sách ấp chiến lược như kiểu chú Nhu đề ra. Không phải chỉ bằng hào sâu dây thép gai và súng. Mà phải bằng tân sinh, bằng trù mật, bằng lòng tin ở Chúa, bằng dân chủ theo kiểu của ta. Trong mỗi ấp chiến lược phải là một cuộc cách mạng xã hội...

Diệm nhìn Hai Long chăm chăm:

- Thầy về thưa với Đức cha, Mỹ phải dựa vào Việt Nam cộng hòa, Việt Nam cộng hòa phải dựa vào Mỹ để chống Cộng. Mỹ với ta là đồng minh chiến lược, nhưng không phải Mỹ nói gì chúng tôi cũng nghe, cũng theo. Tôi đã nói thẳng với họ: Mỗi quốc gia đều có chủ quyền. Nếu chủ quyền của Việt Nam cộng hòa bị vi phạm, thì ta còn lý do nào xác đáng để chống Cộng! Ở Việt Nam cộng hòa này, mình là chủ. Họ muốn mở rộng thành phần chính phủ để chống Cộng. Nhưng mở rộng thì đưa ai vào? Nhóm Caravelle ư? Toàn những kẻ vô công rỗi nghề, ganh ghé xôi thịt. Mở rộng cho họ vào thì mạnh lên hay yếu đi. Lắm thầy thối ma! Làm như thế là nối giáo cho giặc...

Diệm nói một thôi. Nhìn thấy Hai Long vẫn chắp tay lắng nghe, đầu thỉnh thoảng lại gật gật như đã lĩnh ý. Diệm dần dần bớt bực bội.

Diệm quay sang Nhu:

- Tôi đã đọc bản quốc sách ấp chiến lược soạn thảo lại. Được! Phải trang bị thật tốt cho phòng vệ dân sự. Mỗi ấp có thể cầm cự với một tiểu đoàn Việt cộng tấn công cho tới khi chủ lực đến cứu viện. Chừng nào thì làm xong cả 16.000 ấp?

- Cố gắng phấn đấu trong năm 1963 - Nhu đáp - Đợt đầu làm có trọng tâm. Nơi nào Mặt trận Giải phóng hoạt động nhiều ta làm trước.

Diệm hỏi Hai Long:

- Ý kiến cha Lê, cha Hoàng về kế hoạch ấp chiến lược ra sao?

- Thưa tổng thống, cha Hoàng, theo yêu cầu của ông cố vấn đã mang tất cả tâm huyết của mình, đóng góp những kinh nghiệm quý báu ở Bùi Chu - Phát Diệm với các chuyên gia Anh và Do Thái. Đức cha thì nói: ở Bùi Chu - Phát Diệm làm dược thì ở đây cũng làm được.

- Đức cha cũng tán đồng? - Diệm vui vẻ hỏi.

- Dạ... Đức cha chỉ có ý kiến là ở những vùng Công giáo toàn tòng, đặc biệt là giáo dân di cư, xây dựng ấp chiến lược sẽ thuận lợi hơn. Còn với dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, cha e hơi khó vì dân ở đây quen sống phóng khoáng.

Diệm đưa mắt nhìn Nhu.

- Đã tính đến điều này. - Nhu nói - Nếu Bình Xuyên, Hòa Hảo xây dựng được những đặc khu có vũ trang ở đồng bằng Nam Bộ thì ta cũng xây dựng được ấp chiến lược.

Diệm lại nhìn Hai Long:

- Đức cha còn e ngại điều chi?

- Đức cha vẫn e ngại nhất là những phe nhóm đối lập thân Mỹ ở liền kề dinh tổng thống, những kẻ mà tổng thống vừa gọi là bọn xôi thịt.

- Phải trị tận nơi! - Diệm quay sang Nhu - Thằng Trần Kim Tuyến sao rồi?

Trần Kim Tuyến trước đây đã có công đưa Nhu trốn ra nước ngoài, được bố trí làm giám đốc sở nghiên cứu chính trị - xã hội, thực chất là người lãnh đạo hệ thống thông tin theo dõi, phát hiện những người chống đối chế độ.

- Đã loại Tuyến. - Nhu đáp - Lấy Đường thay. Và đưa Dương Văn Hiếu, người của Hắc Long, về làm giám đốc sở cảnh sát đặc biệt.

Diệm nhìm đồng hồ rồi nói với Hai Long:

- Đức cha Thục khen thầy là người tốt đạo trung hậu, hết lòng với họ Ngô. Thầy cố gắng giúp ông cố vấn cũng như giúp tôi. Chế độ không khi nào quên những người đã thực lòng góp công sức gìn giữ chế độ. Khi nào có dịp thuận lợi, thầy chuyển lời mời của tôi thỉnh Đức cha Lê tới chơi Phủ tổng thống. Gắng làm cho Đức cha Lê xích lại gần với chế độ, với tổng thống, là thầy có công lớn đó! 4.

Những biện pháp an ninh của Ngô Đình Nhu tỏ ra có kết quả trong một thời gian.

Nhu đã bố trí một số viên tướng được y tin cậy phụ trách những quân đoàn và những đơn vị ở chung quanh Sài Gòn. Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, những người đã cứu nguy cho tổng thống trong vụ đảo chính 11 tháng 11 một được trọng dụng. Nguyễn Khánh trở thành tư lệnh quân đoàn 2 vùng 2 chiến thuật, đóng bản doanh ở Nha Trang. Trần Thiện Khiêm phụ trách sư đoàn 5 đóng quân giáp Sài Gòn. Quân đoàn 3 và vùng 3 chiến thuật do Tôn Thất Đính phụ trách. Đính là một tướng trẻ mới 37 tuổi, gia dình ở Huế, được Cẩn rất tin yêu. Chính Cẩn đã đề nghị Diệm - Nhu cất nhắc Đính, phong cho cấp tướng, điều về phụ trách quân đoàn 3 và những lực lượng ở chung quanh Sài Gòn. Quân đoàn 4 và vùng 4 chiến thuật vẫn do tướng Huỳnh Văn Cao, một người rất trung thành với Diệm phụ trách.

Một số cha cố người gốc Nam hay lên tiếng đả kích Diệm - Nhu bị bắt: cha Sắc ở Sóc Trăng, cha Lộc ở Cái Môn; cha Hồ Văn Vui bị đưa về quản thúc ở Tha La.

Để lấy lòng giáo dân Phát Diệm, theo gợi ý của Hai Long, Ngô Đình Nhu đã gửi đến tặng cha Lê một chiếc xe Peugeot 304 mới nguyên. Cha Lê vui vẻ nhận.
 
Tháng 3-1962, Diệm thông qua chương trình xây dựng ấp chiến lược. Tháng 4, nhiều ấp chiến lược được bắt đầu xây dựng. Tháng 8, với những phương tiện viện trợ của Mỹ đưa vào, chương trình xây dựng ấp chiến lược được áp dụng trên toàn miền Nam.

Mặc dù đã biết những trái bom và những loạt đạn trút xuống dinh Độc Lập hồi cuối tháng 2 là do CIA giật dây, nhằm gây áp lực, buộc Diệm phải mở rộng thành phần chính phủ cho các phe phái đối lập, nhưng Diệm - Nhu không hề lay chuyển, tiếp tục làm ngơ. Nhà Trắng vẫn đánh giá những cuộc đấu tranh chính trị và những hoạt động đấu tranh vũ trang của Mặt trận Giải phóng miền Nam ngày càng tăng mạnh, và tình hình khủng hoảng chính trị kéo dài trong nội bộ chính quyền Sài Gòn là do Diệm quá độc tài, dùng "gia đình trị", không chịu mở rộng thành phần chính phủ cho những lực lượng khác tham gia để tăng cường sức mạnh chống Cộng. Nhân viên CIA ở Sài Gòn tiếp tục xâm nhập vào những phe nhóm đối lập các loại, chuẩn bị khi có tín hiệu của Nhà Trắng lại tăng cường sức ép đối với Diệm.

Tuy vậy, trong tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn vẫn còn những nhân vật có thế lực như đại sứ Nolting, tướng 4 sao Paul Harkin, người cầm đầu Bộ chỉ huy yểm trợ quân sự ở Việt Nam (MACV), John Richardson, trùm tình báo Mỹ ở Việt Nam, vẫn chủ trương duy trì Diệm - Nhu.

Ngô Đình Nhu mặc dù có lo lắng trước thất bại hàng ngàn ấp chiến lược vừa xây dựng lên đã bị phá vỡ, nhưng lại củng cố được sự tự tin vì áp lực của phe phái đối lập do Mỹ, Pháp giật dây, đặc biệt là Mỹ, đã có phần giảm bớt.

Hai Long thấy cần phải tổ chức cuộc gặp mặt Ngô Đình Diệm và cha Lê, nhằm xác định rõ vai trò của anh trong việc xây đắp lại nhịp cầu đã đứt từ hơn chục năm nay giữa hai nhân vật chống Cộng, mà anh đều cần dùng làm chỗ dựa để có điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Cuối tháng 8, anh nói với cha Lê:

- Thưa Đức cha, sắp tới ngày lễ Thánh bổn mạng của ông Diệm, ngày lễ này năm ngoái Đức cha chỉ đưa thiếp chúc mừng, ông Diệm, ông Nhu và Đức cha Thục đều cảm động. Năm nay Đức cha xét xem có nên tới thăm ông Diệm không? Ông Diệm đã nhiều lần nhắc con khi có dịp thuận lợi thì chuyển lời mời của ông tới Đức cha, thỉnh cầu Đức cha qua thăm Phủ tổng thống để nối lại tình xưa giữa hai nhà.

Cha Lê hỏi lại:

- Ý thầy thế nào? Đã nên tới hay chưa?

- Con nghĩ, ông Diệm đã có lời từ lâu, Đức cha vẫn chưa đáp lại, họ dễ hiểu là kiêu kỳ. Nếu tới lần này, Đức cha nên nói rõ ý của Đức cha trước đây, muốn chống cộng hữu hiệu không thể chỉ dựa vào Mỹ, mà phải có quan hệ tốt với Pháp, phải theo chính sách trung lập.

- Thầy đã có ý kiến như vậy... thì ta đi cho phải phép. 5.

Mồng 4 tháng 9 là ngày lễ thánh Jean Baptiste, thánh bổn mạng của Ngô Đình Diệm.

Cha Lê và Hai Long tới thăm Diệm trên chiếc xe Peugeot 304 của Ngô Đình Nhu gửi tặng cách đó ít lâu.

Diệm và Nhu cùng ra đón cha Lê.

Khách chủ đều hết sức giữ lễ, và cố tránh tất cả những gì có thể làm phương hại đến sợi dây mong manh đang nối lại mối tình nghĩa đã tan vỡ qua nhiều năm.

Cha Lê nói:

- Nhân ngày lễ Thánh bổn mạng của cụ, tôi thay mặt giáo dân Phát Diệm đến chúc cụ luôn luôn khang cường để lãnh đạo quốc gia và sẽ hết lòng cầu Chúa phù hộ cho cụ.

Diệm đáp lễ:

- Tôi chân thành hết sức cảm ơn Đức cha. Từ ngày Đức cha có nhã ý cử thầy phụ tá đến với chúng tôi, tình thân giữa Đức cha với gia đình họ Ngô lại được như xưa. Chúng tôi không bao giờ quên ơn lớn của Đức cha và giáo dân Bùi Chu - Phát Diệm đối với hai anh em chúng tôi. Thầy phụ tá nói Đức cha lúc nào cũng quan tâm đến sự bằng an của chế độ, Đức cha luôn luôn có những lời chỉ bảo quý hóa nên đã giúp cho tôi và ông cố vấn sáng tỏ nhiều vấn đề. Chúng tôi gặp khó khăn trong quan hệ đồng minh với Mỹ, mọi chuyện chắc Đức cha đã rõ. Nếu bây giờ chúng ta nhượng bộ một bước thì Mỹ sẽ đòi thêm, biết nhượng bộ đến bao giờ cho vừa lòng họ. Và nếu họ nói sao mình cũng làm vậy thì còn gì là thể thống quốc gia. Tôi muốn vũ trang đầy đủ cho bảo an, dân vệ, thanh niên chiến đấu, Mỹ chỉ đáp ứng một phần. Tôi muốn tăng cường cho đủ quân đội để đối phó với cuộc xâm lăng của Cộng sản, nhưng người Mỹ cấp những vũ khí và phương tiện một cách hạn chế. Mỹ chỉ muốn sớm đưa quân qua Việt Nam mà thôi. Chả lẽ mình không đủ sức tự lực tự cường để chống Cộng ư?

Cha Lê nói:

- Tòa Khâm sứ tiết lộ với tôi là Vatican đang vận động một cuộc hòa giải chính phủ Pháp với chính quyền Việt Nam cộng hòa và được sự tán thành của Pháp.

- Trước đây, từ năm 1961, nhân dịp lễ đăng quang của vua Hassen II, tôi đã cử ông cố vấn sang Maroc rồi qua Pháp thăm dò thái độ của chính phủ Pháp. Ông cố vấn đã gặp Couve De Murville, nhưng vì họ chưa tin ta nên câu chuyện trở nên khó nói.

Nhu tiếp lời Diệm:

- Tổng thống và chúng tôi không hề có thái độ bài Pháp như nhiều người lầm tưởng. Chúng tôi phải dựa vào Mỹ để chống Cộng nhưng cũng phải kết thân cả với Pháp để chống Cộng. Nếu Đức cha có sáng kiến hay về vấn đề này, rất mong Đức cha chủ động tiến hành. Bản thân tôi cũng thử thăm dò thái độ người Pháp xem sao. Nếu không tế nhị, họ tưởng mình ở thế yếu sẽ bắt bí mình. Còn người Mỹ, nếu thấy mình yếu sẽ chẳng tha mình đâu! Đức cha có quan hệ tốt với Khâm sứ Tòa thánh Brini, mong Đức cha giúp cho...

Trên đường về, cha Lê nói với Hai Long:

- Mỹ ép quá! Phải làm nhịp cầu cho Diệm và Nhu bước tới Roma hay Paris trước khi Nhu tìm đường thỏa hiệp với Cộng sản.

Cuộc gặp gỡ Diệm - Nhu - cha Lê đã tạo dựng cho Hai Long lui tới Tòa Khâm sứ của Vatican ở Sài Gòn gặp Khâm sứ Brini. Có khi Hai Long mượn xe của cha Lê, có lúc Hai Long đi nhờ xe Lê Quang Tung tới Tòa Khâm sứ, để Brini thấy rõ mình có quan hệ chặt chẽ với cả hai phía. Lê Quang Tung về báo cáo với Nhu nên gặp anh, Nhu tỏ ra rất hài lòng: "Chú cứ tiếp tục bám chắc áo Đức cha Lê đồng thời níu chặt áo Brini cho tôi!".

Lễ Giáng sinh năm 1962, Hai Long gợi ý cha Lê gửi thư chúc mừng Ngô Đình Thục, đồng thời có thêm lời mừng ngân khánh 25 năm thụ phong giám mục của Thục vào quý II năm 1963. Hai Long mang thư tới dinh Độc Lập nhờ Nhu chuyển cho Thục. Nhu xem thư, rất mừng. Nhu nhận xét:

- Năm 1962 có được sự hòa dịu giữa gia đình họ Ngô với cha Lê là nhờ Hoàng Long góp một phần quan trọng.

Nhu tin rằng chế độ đã được củng cố nhờ việc thực hiện kế hoạch ấp chiến lược và kế hoạch trấn áp bọn mưu mô phản nghịch ở đô thành.

Nhu say sưa nói:

- Ta đang làm được điều quan trọng nhất hiện giờ là tổ chức hạ tầng cơ sở bằng cách lập ấp chiến lược. Trong năm 1963, chương trình ấp chiến lược thực hiện xong, cộng sản ở miền Nam hết đất sống, an ninh lãnh thổ được củng cố, bọn đối lập sẽ bị quét sạch, khi đó sẽ trả lời đề nghị hiệp thương giữa hai miền Nam - Bắc của Hà Nội. Đó cũng là câu trả lời đích đáng sự cảnh cáo của Mỹ đốt với chế độ Ngô Đình Diệm và nhất là với cá nhân tôi.

Hai Long bỗng nhở tời lời cha Lê đã nói với mình trên đường về nhà thờ Phát Diệm sau cuộc gặp Diệm - Nhu hồi đầu tháng 9.

Nhu mơ màng nhìn làn khói thuốc, nói:

- Mình chỉ mong muốn một Việt Nam cộng hòa nhân vị, thanh bình, thịnh vượng như Trung Hoa dân quốc, Sài Gòn xinh dẹp như Đài Loan; xứng đáng với danh hiệu "hòn ngọc Viễn Đông", tổng thống sẽ trở thành lãnh tụ Á châu chống Cộng số 1... Việt Nam cộng hòa phải lấy Đài Loan làm khuôn vàng thước ngọc. Nếu muốn khỏi bị ép thì phải làm như Đức cha Lê, đi hàng hai, hàng ba để thực hiện mục đích của ta.

Nhu chưa biết đống than hồng đang âm ỉ cháy, chỉ chờ một làn gió nhẹ sẽ bốc thành ngọn lửa. ---

[1] Winston Churchill (1874-1965), thủ tướng Anh, nổi danh chống Cộng.

[2] Cha mẹ dân

[3] Bộ chính trị

[4] Douglas McActhur (1880-1964) tư lệnh quân Mỹ chiến trường Viễn Đông

[5] Jacques Philippe Leclerc (1902-1947) tư lệnh quân Pháp chiến trường Viễn Đông, chỉ huy quân viễn chinh Pháp tái chiếm Đông Dương 1945
 
NGỌN LỬA

1.

Mối quan hệ đồng minh giữa chế độ Diệm với Mỹ mấy năm qua trở nên căng thẳng theo lời những nhà cầm quyền Mỹ là do Diệm không dân chủ, độc tài, dùng gia đình trị. Ai cũng biết đây chỉ là cái vỏ đạo lý. Về thực chất, Mỹ cần một chính quyền tay sai chống Cộng hữu hiệu ở Đông Nam Á. Nếu Diệm làm được vai trò này, dù y là một tên bạo chúa, Mỹ cũng sẽ làm ngơ.

Diệm và Nhu hiểu khá rõ điều đó.

Trong năm 1962, tuy phải đối phó với những vấn đề nội bộ phức tạp, Nhu vẫn dồn hết sức để chống Cộng. Vì Mỹ muốn tạo áp lực với Diệm nên viện trợ quân sự Mỹ năm 1962 chỉ bằng nửa năm 1961. Tuy vậy, với những phương tiện, vũ khí, trang bị đã có, quân ngụy vẫn đủ sức mở hàng ngàn cuộc tiến công vào vùng giải phóng. Có những chiến dịch chúng huy động từ 11 đến 15 tiểu đoàn. Lực lượng vũ trang ta ở miền Nam lúc này, phần lớn là những người dân đứng lên trong phong trào đồng khởi, lúc đầu đánh địch bằng trống, mõ, gậy tầm vông; nay có thêm những súng đạn cướp được của địch. Sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam còn bị hạn chế nhiều do những điều khoản của Hiệp định Genève.

Từ tháng 2-1962, Mỹ đã tổ chức Bộ chỉ huy yểm trợ quân sự cho Việt Nam[1] thay cho nhóm viện trợ quân sự Mỹ trước đây, đứng đầu là tướng 4 sao Paul Harkin. Mỹ đã đưa cố vấn quân sự tới tiểu đoàn bộ binh và đại đội những đơn vị chuyên môn của quân ngụy. Mỹ trực tiếp chi viện cho quân ngụy về hỏa lực, cơ động và hậu cần. Với những máy bay trực thăng và xe bọc thép do Mỹ viện trợ, quân ngụy bắt đầu tiến hành chiến thuật "trực thăng vận" và "thiết xa vận". Những trận đánh của bộ binh ngụy thường kết hợp với đổ bộ bằng đường không từ những máy bay trực thăng do phi công Mỹ lái.

Cuối năm 1962, Nhu triển khai "quốc sách ấp chiến lược" trên toàn miền và xây dựng được khoảng 3.700 ấp chiến lược. Kế hoạch ấp chiến lược của Nhu cực kỳ nguy hiểm, đe dọa đẩy những chiến sĩ giải phóng ra khỏi những vùng căn cứ.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam kịp thời phát động một phong trào đấu tranh phá ấp chiến lược trên toàn miền. Gần 20 triệu lượt người đã tham gia vào cuộc đã tranh này dưới nhiều hình thức. Quân và dân ta đã tiến công phá hàng ngàn ấp chiến lược. Ta phá, địch xây lại, ta lại phá. Trong năm 1962, ta đã phá hoàn toàn trên 300 ấp chiến lược và biến một phần ba số đó thành những làng chiến dấu. Bộ dội giải phóng cũng mở hàng ngàn trận đánh, tiêu diệt trên 100 đồn bót, bắn rơi hơn 60 máy bay dịch, phần lớn là trực thăng.

Cuộc đấu tranh vũ trang của ta phát triển mạnh, nhưng những cố gắng chiến tranh mới của địch cũng gây cho ta rất nhiều khó khăn.

Mở đầu năm 1963, ngày 2 tháng Giêng, một tiếng sét giáng xuống đầu chế độ Diệm.

Quân ngụy được tin có khoảng 200 chiến sĩ Quân giải phóng đóng trong một ấp nhỏ, đã được xây dựng thành làng chiến đấu. Chúng tập trung 2000 quân với máy bay trực thăng, trọng pháo, chiến xa, xe lội nước và tàu chiến quyết tâm giành một thắng lợi vang dội để gây thanh thế. Nhưng trận đánh đã thất bại hoàn toàn. Trên 400 lính, có cả quân Mỹ bị tiêu diệt, 19 trực thăng bị bắn rơi và 3 xe bọc thép bị phá hủy. Cái ấp nhỏ những mấy ai biết đến, đã đi vào lịch sử chiến tranh của nhân dân ta với tên "trận Ấp Bắc".

Diệm và Nhu rất rầu lòng vì thất bại này. Những thiệt hại của quân ngụy trong trận Ấp Bác không quá lớn, nhưng đây lại là sự thất bại của chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận, đã được các cố vấn Mỹ coi như những lá chủ bài để quyết định chiến trường. Thất bại của quân ngụy ở Ấp Bắc còn báo hiệu sự phá sản của chiến lược chiến tranh đặc biệt. Nhu biết là nó sẽ lại khơi bùng lên ngọn lửa chống anh em mình thời gian qua đã lụi đi, nhưng than hồng vẫn còn cháy đỏ.

Phản ứng của giới cầm quyền Mỹ với trận Ấp Bắc khá đặc biệt. Mansfield, lãnh tụ đảng Dân chủ đang cầm quyền, khi nghe tin đã thốt lên: "Ấp chiến lược và gia đình trị là mồ chôn Diệm, tất cả là do tại Nhu!". Thượng nghị sĩ Jackson, cầm đầu đảng Cộng hòa, nói: "Sự ủng hộ Diệm nên được chấm dứt càng sớm càng tốt!". Thượng nghị sĩ Robert Kennedy, em ruột của tổng thống Mỹ, cũng nói: " Muốn chiến thắng cộng sản cần phải có những thay đổi sâu rộng từ căn bản. Vợ chồng Nhu và Cẩn cần rời khỏi chính trường hay xuất ngoại ít lâu". Joseph Buttinger, chủ tịch Hội những người Mỹ bạn của Việt Nam, lặp lại ý kiến này. Và đây chắc cũng chính là ý kiến của tổng thống Mỹ Kennedy.

Nhu tiến hành những biện pháp an ninh ráo riết, thúc giục tổ chức sớm phiên tòa quân sự, xét xử những người cầm đầu vụ đảo chính ngày 11 tháng 11, để kịp thời răn đe những kẻ toan "đục nước béo cò". Nhu khiển trách những tướng tá có liên quan tới thất bại ở Ấp Bắc. Điều Nhu chưa biết là nhiều cuộc hành binh càn quét lớn của quân ngụy đã không lọt khỏi mắt lưới điệp viên của ta, lúc này đã cắm rễ khá sâu trong bộ máy chính quyền và quân đội.

Các phe phái chống đối được CIA nuôi dưỡng, còn tạm nằm im trước sự chèo chống, đối phó chặt chẽ của Nhu, đã không bỏ qua cơ hội này... 2.

Sáng ngày 7-5-1963[2] tại Huế, tổng giám mục Ngô Đình Thục đi viếng nhà thờ La Vang trở về. Dọc đường, ngồi trong xe ô tô, đức cha thấy cờ Phật tung bay rợp trời thành phố Huế.

Đức cha xẵng giọng:

- Ai cho phép treo cờ thế ni?

Người lái xe đáp:

- Trình Đức cha, bữa ni là ngày Phật Đản.

- Phật Đản cũng không được phép! Cờ tôn giáo phải treo có nơi có chốn. Nhà dân chỉ được phép treo quốc kỳ. Ở châu Âu, toàn dân theo đạo Thiên chúa, người ta đâu có treo cờ Vatican!

Ngô Đình Thục rất muốn đưa đạo Thiên chúa thành quốc đạo, trở về xứ Huế, cha nhiều lúc không vui, vì 90% dân cố đô đều theo đạo Phật. Khi đó cha còn chưa biết ngày 6 vừa qua, Phủ tổng thống đã có điện cho các nơi cấm dân chúng treo cờ tôn giáo.

Sáng sớm ngày 7, tỉnh trưởng Thừa Thiên lật đật tới Phú Cam trình ông Cậu về bức công điện cấm treo cờ tôn giáo của Phủ tổng thống mới tới chiều hôm trước. Văn phòng cố vấn không nhận được bức điện này. Bức điện chỉ tới tòa đại biểu và tỉnh đường Thừa Thiên.

Tỉnh trưởng nói:

- Dân chúng xôn xao lắm. Nhà nào cũng đã treo cờ. Ông Cậu cho cách giải quyết thế nào?

Cẩn ngồi thừ người, rồi hỏi:

- Các thầy bên chùa Từ Đàm biết chưa?

- Dân chúng còn biết thì các thầy phải biết. Nhân viên ở tỉnh đường hầu hết đều là người theo đạo Phật.

Tỉnh trưởng còn chưa biết trong lúc y ngồi đây, cảnh sát theo tinh thần bức điện của Phủ tổng thống, đã đi một số nơi đòi hạ cờ, có nơi gặp sự phản ứng mạnh của đồng bào, cảnh sát đã tự tay kéo cờ xuống rồi ném vào nhà.

Để tập họp thêm lực lượng, từ lâu Cần đã kết thân với những người lãnh đạo Phật giáo miền Trung ở ngay tại Huế như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh... Điều này làm Ngô Đình Thục bực bội, và trở thành mối bất hòa lớn giữa hai người.

Cẩn xem kỹ bức điện, rồi lẩm bẩm:

- Lạ thiệt! Lạ thiệt!... Nếu định mần sao không mần từ trước, ngày 6 mới điện! Lịnh cấm treo cờ tôn giáo, nhưng người ta sẽ nghĩ là cấm treo cờ Phật trong ngày Phật Đản.

Cuối cùng Cẩn quyết định:

- Hỏi vô Phủ tổng thống, có đúng là lịnh như rứa không. Nếư đúng, thì xin hoãn thi hành một đôi ngày. Đồng bào đã trót treo cờ rồi thì cứ để đó như mọi năm, không đụng vô...

Ngô Đình Thục về tới Tòa tổng giám mục, mới biết Phủ tổng thống đã có lệnh cấm treo cờ. Thục lập tức cho gọi Hồ Đắc Khương, đại biểu chính phủ ở miền Trung.

Khi được hỏi, Khương trình bày lại ý kiến của ông Cậu.

Thục đỏ mặt nói:

- Lịnh của tổng thống mà không thi hành, rứa còn chi là phép nước! Anh về nói với ông Cậu như vậy.

- Trình Đức cha, sáng nay cảnh sát đã tới một số nơi đề nghị cất cờ, đồng bào phản ứng rất mạnh. Tình hình ngoài phố rất găng. Ông Cậu đang xin ý kiến của Phủ tổng thống. Nếu bắt hạ cờ, nhất định Phật tử sẽ biểu tình.

- Mấy thằng tỉnh trưởng, trưởng ty ăn hại à? Lực lượng cảnh sát, an ninh, dã chiến, vùng chiến thuật để mô? Mới có tí rứa không mần được thì mần cái chi? Cứ chạy theo mấy thầy trọc đầu, có ngày mất nước. Anh cứ về nói với ông Út ý kiến của tui.

Hồ Đắc Khương sợ hãi quay về tìm Cẩn. Cẩn cũng đang lo lắng, vì văn phòng của Cẩn báo cáo, trong Phật tử lan truyền tin cảnh sát xé cờ Phật, đồng bào rất phấn nộ, cho là chính quyền sắp ra tay đàn áp. Cẩn đã ra lệnh cho tỉnh trưởng phải dùng xe thông tin thông báo ngay với đồng bào là không có gì thay đổi, cứ treo cờ như mọi năm.

Khương nói lại với Cẩn những ý kiến của Thục.

Cẩn rầu rĩ:

- Làm như rứa, tui còn mặt mũi nào với mấy thầy bên Từ Đàm.

Hồi lâu, Cẩn nói:

- Vì miềng còn xin hỏi lại ý kiến Phủ tổng thống, cứ tạm để như rứa đã. Thầy ra ngoài đó, cố thu xếp mọi chuyện cho êm đẹp...

Xẩm tối ngày hôm đó, khá đông đồng bào theo đạo Phật do những thượng tọa, đại đức dẫn đầu, kéo tới tỉnh đường phản đối lệnh cấm treo cờ và hành vi xé cờ của cảnh sát, để chuẩn bị cho cuộc rước kiệu và làm lễ Phật Đản ở chùa Từ Đàm vào ngày hôm sau. Chỉ tới khi tỉnh trưởng đồng ý dùng xe thông tin gắn máy phóng thanh với những Phật tử ngồi trên, đi thông báo khắp thành phố lễ Phật Đản sẽ tiến hành bình thường trong ngày mai, các nhà sư và Phật tử mới chịu giải tán.

Suốt ngày 8, lễ Phật Đản tiến hành không xảy ra chuyện gì, trừ bài thuyết giảng của thượng tọa Thích Trí Quang trong buổi lễ, tố cáo sự kỳ thị và bất bình đẳng của chính quyền đối với tôn giáo. Cẩn ngồi nhà cho người theo dõi, rất buồn phiền vì bài thuyết pháp của thầy Trí Quang, biết rằng nay mai sẽ phải gánh chịu những búa rìu của hai ông anh, nhưng cũng tạm yên tâm vì ngày lễ Phật Đản đã trôi qua êm ả.

Lúc 7 giờ 30 tối, Phật tử ùn ùn kéo về đài phát thanh Huế để nghe chương trình đặc biệt về lễ Phật Đản. Những người lãnh đạo Phật giáo yêu cầu cho phát thanh bài thuyết giảng của thầy Trí Quang, không được xếp trong chương trình. Quản đốc Đài phát thanh không chấp nhận. Những nhà sư trẻ xông vào trong đài đấu tranh. Cuộc đấu tranh giằng co mỗi lúc một sôi động. Quản đốc báo cáo với tỉnh đường và ty cảnh sát. Đài phát thanh sắp bị chiếm.

Chính quyền tại Thừa Thiên đã có chuẩn bị. Viên thiếu tá phó tỉnh trưởng, phụ trách nội an, cầm đầu một đại đội thiết giáp, một đại đội cơ giới, ba đại đội bộ binh và một số hiến binh quân cảnh, tiến vào giải tỏa đài phát thanh. Đồng bào phẫn nộ, la ó phản đối, gọi tên của viên thiếu tá phó tỉnh trưởng mặc áo giáp đứng trên xe chỉ huy thóa mạ, và dùng gạch đá ném bọn binh lính tới đàn áp. Viên thiếu tá ra lệnh dùng súng và lựu đạn hơi để giải tán đám đông. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang, trong đó có một tiếng nổ cực mạnh. Kết quả 8 người chết và 14 người bị thương. Một số người chết không toàn thây, thân hình bay đi mỗi nơi một mảnh.

Vụ Phật giáo năm 1963 chỉ mới bắt đầu. 3.

Dương Văn Hiếu từ Huế vào, tới nhà tìm Hai Long.

Trước đó, Hiếu không bao giờ đến nhà Hai Long. Anh đã giữ đúng lời hứa, thỉnh thoảng lại gặp hắn để "chia sẻ" một số tin tức. Có điều, anh nhờ hắn báo cáo với ông Cậu. Có điều, anh bảo hắn cứ nói là tin của mình thu lượm được. Hiếu hết sức cảm ơn. Hắn không còn vẻ gượng gạo, và đã vui mừng thực sự mỗi lần gặp anh.

Thái độ Hiếu hớt hải:

- Phiền cho ông Cậu quá anh Hai ơi... Đức cha rất giận ông Cậu vì vụ Phật giáo. E rằng ông cố vấn và tổng thống cũng sẽ hiểu lầm ông Cậu.

- Ông Út vừa qua hơi mạnh tay! - Hai Long nói.

- Tôi ra đó cả tuần, thấy oan ông Út anh à. Chính Đức cha mới muốn làm mạnh, còn cậu Út thì chỉ muốn mọi chuyện sao cho êm thấm thôi. Cái sai của cậu Út chỉ ở chỗ, tổng thống cấm treo cờ, mà cậu Út lại cứ để cho dân treo cờ. Nhưng nếu bữa đó cấm treo cờ, thì tình hình sẽ phức tạp hơn nhiều.

- Báo chí đều đăng hình xe xích dằn qua đám biểu tình đó thôi?

- Chuyện đó có, nhưng sự thật lại khác. Tôi đã gặp ông thiếu tá phó tỉnh trưởng, gặp nhiều anh em cảnh sát, hiến binh tham gia vụ đó, mọi người đều nói khi có một tiếng nổ lớn rồi, có nhiều người chết rồi, thì thiếu tá mới ra lệnh bắn và ném lựu đạn, vì tưởng là có Việt Cộng xen vô đám đông. Mà anh em nó đều bắn chỉ thiên và ném lựu đạn vào chỗ trống chứ đâu có nhầm người! Tòi đã vào nhà thương coi, các bác sĩ nói những người bị nạn đều là do một sức ép rất mạnh, không một ai bị trúng đạn hoặc mảnh đạn. Mà lựu đạn hơi MK.3 thì chỉ có tiếng nổ lớn chứ làm sao chết được người!

- Vậy tiếng nổ từ đâu ra?

- Có người nói là do Việt Cộng...

- Chính quyền cũng đã tuyên bố như vậy nhưng chính bà con ở Huế đã phản đối.

- Tôi cũng nghĩ không phải là Việt Cộng, mà có lẽ "xịa" anh Hai ạ... Ra ngoài đó, thấy có nhiêu chuyện. Tối mùng 7, trong một cuộc gặp mặt thân mật tại một gia đình ở Huế, phó lãnh sự Mỹ Johnson đã phê phán chính quyền Việt Nam cộng hòa là một chính quyền Thiên chúa giáo, nếu tổng thống không chịu liên hiệp để cho Phật giáo tham chính, thì Phật giáo sẽ đứng dậy đấu tranh! Trong những cuộc biểu tình của sinh viên, người ta thấy cả phó lãnh sự Mỹ đi theo. Còn những bức hình tối hôm đó là do ai chụp và phát đi quốc tế rất nhanh? Không phải là Phật tử, mà lại do một người nước ngoài rất thân với tòa lãnh sự Mỹ!

- Bây giờ cậu Út định tính sao?

- Cậu chỉ muốn lo với các thầy và những gia đình nạn nhân cho êm thấm... Tôi chạy tới tìm anh bữa nay, đề nghị anh gần tổng thống và ông cố vấn, anh lựa lời nói các ngài thông cảm vớt cậu Út. Các ngài đều đang giận, cậu Út và bọn tôi có nói gì lúc này các ngài cũng không tin.

- Cảm ơn anh đã cho tôi rõ chuyện này. Anh tiếp tục theo dõi sát tình hình ngoài đó, có gì mới cho tôi biết sớm. Tôi sẽ vào gặp ông cố vấn chính trị hôm nay...

Những điều Hiếu nói thực hư chưa rõ, nhưng Hai Long thấy cần phải cho Nhu biết ngay.

Nhu gặp Hai Long với vẻ tư tự, đăm chiêu, khác hẳn mọi khi. Vụ Phật giáo ở Huế đã tạo nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ ở trong nước và nước ngoài, đặc biệt là ở Mỹ.

Hai Long hỏi ngay:

- Chuyện vừa rồi ở Huế, ông cố vấn đã tính cách chi giải quyết?

- Việc này để tổng thống giải quyết. Tổng thống làm có hỏi ai đâu!

Thông thường, những việc có liên quan tới chính trị, Diệm đều hỏi ý kiến Nhu. Nhưng thỉnh thoảng, Diệm vẫn có những việc làm tùy hứng. Khi đó, Diệm không hỏi ý kiến ai. Ý muốn cấm treo cờ tôn giáo nảy ra trong những giây phút như vậy. Diệm cho gọi đổng lý văn phòng Phủ tổng thống, ra lệnh miệng. Đổng lý văn phòng đâu phải là người dám hỏi lại, vội vã thảo điện gửi đi cho kịp thời, thế là xong. Ở những trường hợp này, Nhu đành im lặng.

Biến cố xảy ra ở miền Trung khiến Diệm bối rối, không biết giải quyết ra sao. Nhưng vì khi quyết định không hỏi ý Nhu, nên Diệm không tiện trao đổi với Nhu mà chỉ gọi bộ trưởng Bộ nội vụ lên, bảo lo thu xếp cho ổn thỏa. Nhu thấy vậy cũng thản nhiên đứng ngoài, coi như không phải việc của mình.

Hai Long nói:

- Vừa qua, phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ giải thích thảm họa ở Huế là do Việt Cộng gây ra, không ổn. Phật tử ở Huế và các nơi càng phản ứng mạnh, vì đã làm sai mà không dám chịu trách nhiệm còn đổ vấy. Tôi lo tình hình sẽ phát triển xấu. Giới Phật giáo xưa nay vốn ôn hòa, chẳng hề có xích mích với chính quyền, giờ bỗng dưng lại hoạt động có chuẩn bị, có tổ chức để tấn công vào chính quyền là do đâu? Ông Cậu ở miền Trung từ trước tới giờ, vốn được tiếng là quan hệ tốt với Phật giáo. Những hiện tượng mới này rất cần được suy nghĩ để sớm rút ra kết luận.

Nhu chăm chú nhìn anh rồi hỏi:

- Theo ý anh, vụ Phật giáo bỗng bùng lên là do đâu?

Hai Long kể lại những điều Dương Văn Hiếu đã nói. Nhu ngồi nghe, mắt mỗi lúc càng long lanh.

Hai Long nói thêm:

- Những chuyện này, ông cố vấn nên gọi Hiếu vào, trực tiếp nghe y báo cáo, và cũng nên cử người ra Huế kiểm tra thực hư... Tôi linh cảm ngày từ đầu, là có bàn tay của Mỹ, nếu đúng, thì không thể để mặc tổng thống một mình đối phó...
 
4.

Tại Huế, dưới áp lực của Ngô Đình Thục, chính quyền ở tỉnh tiếp tục sử dụng sức mạnh. Chùa Từ Đàm, trung tâm của phong trào Phật giáo miền Trung, bị cảnh sát vũ trang dựng hàng rào dây thép gai bao vây, cấm cả người ra, người vào. Chúng cắt nguồn tiếp tế lương thực, và cắt luôn nguồn điện, nguồn nước. Ở một số chùa, các nhà sư tuyệt thực để phản đối. Sinh viên Huế vào cuộc, biểu tình. Cảnh sát được lệnh đàn áp. Lần này không có người chết, nhưng số người bị thương cũng lên tới hàng chục.

Trong khi Diệm vẫn còn lúng túng sắp xếp người vào một ủy ban liên bộ, thay mặt chính phủ tiến hành đàm phán với ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo, Nhu vẫn đứng ngoài lề; thì Lệ Xuân lại như mọi lần, có ngay những phản ứng cấp thời. Ngày 5 tháng 6, Lệ Xuân nhân danh chủ tịch phong trào Phụ nữ liên đới, triệu tập hội nghị ban chấp hành và đưa ra một bản thông cáo đề cập tới tình hình Phật giáo. Bản thông cáo do chính Lệ Xuân thảo, với lời mở đầu: "Xét rằng, toàn dân Việt Nam dầu thuộc tôn giáo nào vẫn tôn trọng giáo lý đạo Phật và luôn luôn tôn kính Đức Phật tổ, một bậc đại thánh hiền. Vì lẽ đó, một số người Việt đã tự nhận mình là Phật tử, mặc dù đa số không theo môn phái nào, mà chỉ thành tâm và hồn nhiên thi hành đức từ bi". Nhân danh phụ nữ Việt Nam, bản thông báo "thành khẩn yêu cầu những vị tăng ni chân chánh tránh tuyệt thực với dụng ý công kích đả phá, vì như vậy tức là phản lại giáo lý của Đức Phật đã dạy, nên kiềm chế những đòi hỏi của thể xác như sự đói bằng cách không thỏa mãn nó để đạt đến Niết bàn", yêu cầu quý vị tăng ni "giữ thái độ bình tĩnh trước hành động của những kẻ núp sau bóng từ bi để gây rối loạn, lột mặt nạ của những kẻ có hành động phá hoại nhằm mục đích làm giảm uy tín của Phật giáo và khuynh đảo quốc gia do sự xúi giục của ngoại bang", và "yêu cầu chính phủ ra lệnh trục xuất những người ngoại quốc gây rối".

Lúc đầu, Diệm không đồng ý cho phổ biến bản thông cáo. Trước những lời thuyết gia của Lệ Xuân, Diệm đồng ý cho phổ biến trong phạm vi hẹp. Nhưng khi bản thông cáo xuất hiện, thì tất cả các báo chí đều đăng lại. Giới Phật giáo phản ứng mạnh mẽ. Các tăng ni coi đây là những lời thóa mạ, xúc phạm nặng nề của bà em dâu tổng thống.

Năm ngày sau, tại một nơi đông người ở Sài Gòn, ngã tư Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng, diễn ra vụ tự thiêu đầu tiên. Một nhà sư cao tuổi, thượng tọa Thích Quảng Đức, thanh thản bước xuống khỏi xe ô tô, ngồi chắp tay, chân xếp bằng theo kiểu nhà Phật, để một nhà sư khác mặc áo cà sa vàng đổ xăng vào người và châm lửa. Ngọn lửa bùng cháy, ngùn ngụt bốc cao từ cây đuốc sống, trong lúc nhà sư vẫn ngồi tĩnh tọa như Đức Phật trên tòa sen, giữa những tiếng tụng kinh râm ran hòa với tiếng khóc nức nở của đệ tử đứng vây quanh. Bức ảnh thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính quyền đàn áp Phật giáo được phát đi gây sự chấn động không riêng trong nước mà còn khắp nhiều miền trên thế giới. Hơn 70 vạn Phật tử và người dân Sài Gòn đi theo đám tang của nhà sư.

Ngay chiều hôm đó, Diệm đưa ra lời hiệu triệu quốc dân: "Sự hòa giải đang tiến hành tốt đẹp thì, sớm nay, do sự tuyên truyền quá khích che giấu sự thật, gây sự hoài nghi về thiện chí của chính phủ, khiến một số người bị đầu độc gây một vụ án mạng oan uổng làm tôi rất đau lòng".

Diệm cố gắng thúc đẩy ủy ban liên bộ đàm phán với ủy ban liên phái Phật giáo nhanh chóng đi tới một sự thỏa thuận để làm dịu tình hình. Ngày 6 tháng 6, bản thông cáo chung giữa đôi bên được ký kết. Kết quả cuộc đàm phán khá tốt đẹp. Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam ký khán bên dưới. Khi ủy ban liên bộ đưa trình tổng thống để báo cáo và lấy chữ ký, Diệm chỉ phân vân không biết mình nên ký vào đâu. Một quốc trưởng không thể đứng ngang hàng với một hòa thượng! Trước băn khoăn của Diệm, bộ trưởng Bộ nội vụ và Nhu đang có mặt ở văn phòng Phủ tổng thống, cũng không biết nên giải quyết thế nào. Cuối cùng, Diệm bảo:

- Cho mời bà Nhu xem bà ấy có ý kiến nào không.

Được hỏi ý kiến, Lệ Xuân nói:

- Có gì đâu mà khó khăn! Hai bên đã ký cả rồi, ông cụ Tịnh Khiết cũng đã ký khán, thì tổng thống ký ở ngoài lề như là bút phê vậy.

Bản thông cáo dược phổ biến tức thời và rộng rãi khắp nơi. Nhưng cuộc đấu tranh của Phật giáo không phải vì vậy mà lắng xuống. Hơn một trăm tăng ni biểu tình trước tòa đại sứ Mỹ, yêu cầu chính phủ Mỹ và các nước tự do phải dùng áp lực với chính quyền Việt Nam cộng hòa thực thi đúng đắn bản thông cáo. Và sau đó, một số tăng ni lại kéo về chùa Xá Lợi mở đầu một cuộc tuyệt thực... 5.

Vụ tự thiêu của nhà sư Thích Quảng Đức đã tác động nhiều tới Diệm. Diệm trở nên thẫn thờ, lầm lỳ và nhiều khi lộ rõ sự bối rối. Nhu không thể cứ đứng ngoài cuộc, phải nhảy vào để chèo chống.

Bọn mật vụ của Nhu và của Cần đã thu được nhiều bằng chứng lãnh sự quán của Mỹ ở Huế thường xuyên liên hệ với các thầy ở chùa Từ Đàm, CIA của Mỹ ở Sài Gòn luôn luôn đi lại chùa Xá Lợi. Nhu không chủ trương nhân nhượng.

Chính quyền Việt Nam cộng hòa ra lệnh trục xuất bác sĩ Eric Wuff, người đã cung cấp những bức ảnh về cuộc đàn áp trong ngày Phật Đản tại Huế, mà Nhu khẳng định là một gián điệp đôi của CIA. Để răn đe những kẻ đang âm mưu chống đối, Nhu thúc đẩy mở phiên tòa quân sự xét xử những người tham gia vào vụ đảo chính tháng 11-1960, đã bị giam giữ gần ba năm qua.

Phiên tòa quân sự mở vào ngày 5 tháng 7, xét xử 19 quân nhân và 34 nhân sĩ bị can. Sang ngày thứ hai, Nguyễn Tường Tam, tức nhà văn Nhất Linh, một bị can, uống thuốc độc tự tử. Phiên tòa kết thúc ngày 12, với hai án tử hình rơi vào hai nhân vật tại đào. Ủy ban Liên phái đã nhanh chóng vận động giới trí thức và sinh viên biến đám tang nhà văn Nhất Linh thành một cuộc biểu dương lực lượng đông đảo chống chế độ Diệm.

Ngày 15 tháng 7, Nolting, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn gợi ý Diệm lên Đài phát thanh tuyên bố nhân nhượng với Phật tử để làm dịu sự phẫn nộ của quần chúng. Diệm từ chối.

Năm nhà sư, cả nam lẫn nữ, ở Sài Gòn và những thành phố khác tiếp tục theo nhau tự thiêu. Những nhà sư tuyên bố sẽ tự thiêu để phản đối chính quyền Diệm đã lên đến con số hàng chục.

Tình hình trở nên nguy hiểm. Nhu khuyên Diệm tạm thời nhân nhượng làm dịu bớt tình hình, chuẩn bị một biện pháp đối phó mạnh hơn. Diệm buộc phải tới Đài phát thanh Sài Gòn đọc một bản tuyên bố ngắn bằng giọng Huế, hứa sẽ giải quyết vấn đề Phật giáo như "một chuyện trong gia đình".

Cũng do có vụ nhà văn Nhất Linh tự tử, phiên tòa quân sự đặc biệt nhóm họp lần thứ hai tại Sài Gòn, đã tuyên bố tha bổng cho nhóm 18 nhân sĩ tụ tập tại khách sạn Caravelle đòi hỏi chính quyền phải tiến hành cải cách chính trị. Trong nhóm này có cả Trần Văn Đỗ, chú ruột của Lệ Xuân.

Theo lời khuyên của Nhu, Diệm cử linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng viện đại học Huế, qua Mỹ giải thích với đảng Dân chủ cầm quyền và một số trường đại học có quan hệ với chế độ Diệm, vì sao chính quyền Sài Gòn đã phải dùng sức mạnh để giải quyết vụ Phật giáo.

Mansfield nói với Luận: "Trước năm 1960, dư luận Mỹ rất có thiện cảm với tổng thống Ngô Đình Diệm, nhưng sau cuộc bầu cử tổng thống ngày 9-11-1961 báo chí bắt đầu chỉ trích chế độ Diệm là độc tài, là gia đình trị, là Công giáo trị, không được quần chúng ủng hộ, không đoàn kết được quần chúng, đẩy những phần tử quốc gia tới bước đường cùng phải chống lại bằng bạo lực, ngả theo phía bên kia (Mansfield muốn nói đến Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam). Tổng thống Ngô Đình Diệm nên thay đổi đường lối, nếu không, rất có thể Mỹ bỏ rơi Diệm!". Tại trường đại học Michigan, Wesley Fishel, người của CIA đã nhắm Diệm từ năm 1950, nói thẳng với Luận: "Tổng thống Diệm cần phải thay đổi nhân sự, loại Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, thay đổi đường lối chính trị; nếu không thế, tất Mỹ sẽ phải loại trừ Diệm khỏi sân khấu chính trị Việt Nam, và có thể xem xét biện pháp thủ tiêu".

Ngô Đình Nhu nhờ Hai Long đến Tòa Khâm sứ Tòa thánh Vatican ở Sài Gòn thăm dò thái độ.

Hai Long gặp Khâm sứ Brini. Anh đã đi lại Tòa Khâm sứ nhiều lần. Lần đầu anh được cha Hoàng đưa tới trực tiếp giới thiệu nên Khâm sứ rất tin.

Hai Long nói:

- Trình Khâm sứ, bữa nay con gặp người nhân danh một đệ tử trung thành của Đức cha Lê, trong tình hình hết sức rối ren hiện nay, con có ý nguyện hy sinh tất thảy để bảo vệ giáo hội và sẵn sàng tuân theo lời dạy của Khâm sứ và Giáo hoàng La Mã.

Brini gật đầu, rồi bảo:

- Thầy hãy kể cặn kẽ về tình hình ở Huế, về thái độ của tổng thống Diệm, ông cố vấn Nhu và những tin tức có liên quan đến chế độ hiện thời.

Hai Long biết mọi chuyện đều không qua mắt tòa Khâm sứ, nên báo cáo lại một số điều anh đã biết.

Brini chăm chú lắng nghe, cuối cùng nói:

- Tổng giám mục Ngô Đình Thục có trách nhiệm lớn về vụ này. Hậu quả sẽ rất bi thảm cho chế độ Diệm. Giáo hội Việt Nam phải đứng ngoài mới tránh khỏi vạ lây... Đức cha Lê có trao cho thầy nhiệm vụ đi lại dinh tổng thống, phải nhớ giữ mình...

Khi Hai Long ra cửa Tòa Khâm thì gặp linh mục François thuộc dòng Thừa sai, mới từ Pháp qua Nam Vang, vì có vụ Phật giáo nên được phái đi tiếp sang Sài Gòn tìm hiểu tình hình. De Jaegher đã giới thiệu Hai Long với François khi linh mục đến dinh Gia Long xin gặp Diệm.

Hai Long hỏi:

- Con vừa vào xin ý kiến của Khâm sứ Tòa thánh về thái độ đối với vụ Phật giáo. Cha đã gặp tổng thống, ý kiến của tổng thống thế nào?

François nhăn mặt:

- Cha không thể nào khuyến cáo tổng thống hòa giải với Phật giáo, vì ông cố vấn Ngô Đình Nhu có đủ bằng chứng về việc Mỹ dùng Phật giáo để làm áp lực với ông Nhu. Ông Nhu luôn luôn nhắc tự lực tự cường, không cần đến viện trợ Mỹ. Mối bất hòa giữa hai ông Diệm, Nhu và Mỹ rất sâu đậm và sự rạn nứt không tài nào hàn gắn được...

Cùng thời gian này, linh mục Cao Văn Luận từ Mỹ về báo cáo với Diệm, Nhu về chuyến công cán. Luận thuật lại những cuộc tiếp xúc với những nhân vật Mỹ. Nghe xong cả Diệm, Nhu đều nổi nóng. Khi Luận ra về, Diệm nói:

- Không thể dùng ông này. Ổng đi có giúp được mình cái chi? Có khi còn nói xấu mình để lấy lòng Mỹ!

Nhu nói:

- Ta lầm nên cử cha Luận. Có lẽ CIA đã nắm ổng.

Diệm, Nhu đã gần như chính thức đương đầu với Mỹ.
 
6.

Đầu tháng 8, đại sứ Mỹ Nolting, người có cảm tình với Diệm được gọi về nước. Sang thay là Henry Cabot Lodge. Khác với nhiều người Mỹ khác, Cabot Lodge có thái độ dè dặt, mềm mỏng của một nhà ngoại giao kiểu Pháp. Trong buổi tiếp kiến với Diệm, y nhẹ nhàng khêu gợi:

- Thưa tổng thống, không biết có một điều gì mà tổng thống nghĩ là thuộc phạm vi tổng thống có thể làm được, lại có thể tác động đến dư luận Hoa Kỳ một cách thuận lợi hay không?

Diệm nhìn Cabot Lodge giây lát, rồi không trả lời, chuyển sang vấn đề khác.

Cùng vào thời gian này, Mỹ tuyên bố ngừng viện trợ cho Sài Gòn 12 triệu dollar để mua thực phẩm và máy móc như đã thỏa thuận trước. Đồng thời, Mỹ cắt khoản viện trợ cho lực lượng đặc biệt bảo vệ Phủ tổng thống do dại tá Lê Quang Tung chỉ huy. Nhu đang cố gắng trang bị tốt cho lực lượng này những vũ khí hiện đại, làm nòng cốt chống lại những cuộc đảo chính.

Mồng 4 tháng 8 là ngày hàng năm của lực lượng phụ nữ bán quân sự. Lệ Xuân cùng với con gái lớn là Lệ Thủy đến dự lễ. Lệ Thủy còn ít tuổi nhưng đã cao lớn hơn mẹ, giống cả mẹ lẫn bố, mặc áo quân phục nữ cổ xẻ rộng, vai trái có dây tua, đeo xanh-tuya-rông, đầu đội ca lô, tay mang găng trắng, chân đi ghệt trắng như những nữ binh khác.

Lệ Xuân là lãnh tụ của phong trào Phụ nữ liên đới miền Nam, đã vận động trang bị vũ khí và huấn luyện quân sự cho một số đoàn viên trẻ, giống như chồng đã làm đối với lực lượng Thanh niên cộng hòa.

Đứng trước cuộc mít tinh đông đảo với nhiều cô gái mặc đồng phục, mang súng ngắn, Lệ Xuân một lần nữa lớn tiếng gay gắt lên án cuộc đấu tranh của Phật giáo, chế giễu sư sãi, gọi những vụ tự thiêu là "trò vô nhân đạo". Lệ Xuân đề nghị cuộc mít tinh đồng thanh kiến nghị lên chính phủ của tổng thống Ngô Đình Diệm, phải thẳng tay trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo để gây xáo trộn xã hội...

Lệ Xuân rất thống nhất với chồng là không thể hòa giải với Phật giáo, vì nếu hòa giải, các sư sãi tưởng mình yếu sẽ càng lấn tới, phải dùng những biện pháp mạnh mà dẹp đi! "Mấy anh trọc đầu, sức mấy mà lật đổ chính quyền! Nhưng nếu dung túng cứ để phá rối kéo dài, Mỹ sẽ sử dụng ngay lá bài Phật giáo gây áp lực với chế độ, phải đập tan đi trước khi Mỹ kịp nhúng sâu vào!". Đi tới dâu, Lệ Xuân cũng lặp lại luận điệu này. Không phải Nhu không chịu ảnh hưởng ít nhiều của vợ.

Trần Văn Chương, bố đẻ của Lệ Xuân, đã bảo con gái có thái độ xấc xược, thiếu lễ độ đối với các sư sãi. Chương theo đạo Phật. Lệ Xuân từ khi lấy chồng đã bỏ đạo Phật chuyển sang đạo Thiên chúa. Cho là bố không nắm được tình hình, Lệ Xuân cãi lại với những lời lẽ châm biếm. Giữa hai cha con bắt đầu có sự rạn nứt.

Có người nói đến tai Diệm về cuộc mít tinh ngày 4 tháng 8. Diệm cho gọi Lệ Xuân vào phòng:

- Bữa nọ họp phụ nữ, nói những chi?

Nhìn vẻ mặt nghiêm khắc của anh chồng, Lệ Xuân nhướn cao cặp lông mày đen nhánh, không chút sợ hãi đáp lại:

- Em chỉ nói ý kiến chung của giới phụ nữ, là cần kiến nghị lên chính phủ, phải thẳng tay trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo gây xáo trộn xã hội.

- Người ta kể cho tôi, nhục mạ sư sãi rất nhiều. có biết miền Nam có bao nhiêu tín đồ Phật giáo không? Đụng đến sư sãi của họ cũng như đụng đến cha cố của giáo dân. Tôi đã nhiều lần dặn khi nói chuyện trước đám đông không dược khinh xuất, tại sao vẫn không nghe? Bao nhiêu mũi tên đang nhắm vào chú Nhu. nói năng như rứa giải quyết được cái chi? Hay là lửa cháy đổ dầu thêm?

- Em có ngu dại đâu đến mức đổ thêm dầu vào lửa! Đáng lẽ ra em phải vạch mặt thằng Mỹ, nhưng em đã tự kiềm chế. Em có nói các sư sãi một vài điều là để tát vào mặt thằng Mỹ đểu cáng!

- Tôi yêu cầu từ nay tới khi giải quyết xong vụ Phật giáo, không được xuất hiện nói năng gì trước đám đông. Người ta chống tôi một thì chống chú ấy mười. có biết bao nhiêu người, kể cả Mỹ, đều nói chỉ cần đưa vợ chồng đi xuất ngoại là tôi sẽ yên không?

- Em biết. Người ta chĩa mũi nhọn vào vợ chồng em chính là đánh vào chế độ, vì vợ chồng em là những người kiên quyết bảo vệ chế độ, bảo vệ anh.

- Tôi đang tính để cho yên tình hình có lẽ cũng phải đưa vợ chồng đi xa một thời gian. Tôi rất phiền lòng vì . Từ nay, đi đâu, định nói chi, phải có ý kiến của tôi... Lúc mô cũng "lộng ngôn"!

Diệm bất thần đập mạnh tay xuống bàn quát:

- Nhớ đó! ra đi.

Lệ Xuân nhanh chân rút lui vì thấy mặt anh chồng bắt đầu tím lại. Khi cơn giận lên đột ngột, Lệ Xuân biết nếu mình còn nán lại nói thêm một đôi câu, Diệm có thể cầm bất cứ vật gì trên bàn ném thẳng vào mặt mình... 7.

Hai Long đến Tòa Khâm sứ Tòa thánh Vatican ở Sài Gòn thì Khâm sứ Brini đã về Roma. Bí thư của Khâm sứ, linh mục De Nittis vừa ở Roma sang, ra tiếp anh.

De Nittis nói:

- Khâm sứ có dặn tôi nên dành nhiều thời giờ tiếp thầy vì những chuyện của thầy rất có ích cho giáo hội, thầy rất trung thực, khiêm tốn, có kiến thức rộng và săn sàng tử vì đạo.

- Con tự xác định bổn phận một con chiên đã hết lòng vì Chúa, thì phải luôn luôn tới trình và xin ý kiến Khâm sứ của Tòa thánh về những vấn đề có liên quan đến giáo hội.

Hai Long cung cấp cho De Nittis một ít tình hình. Anh đã biết mỗi tin tức mới muốn thu lượm được đều phải đánh đổi bằng những tin tức mới khác mà anh phải có đem theo.

De Nittis nói:

- Vợ chồng ông Nhu rất tinh. Người Mỹ không đứng ngoài vụ Phật giáo. Họ sẽ triệt để sử dụng sự rối ren để đạt được những yêu cầu riêng của họ. Và họ đã làm rồi! Ông Diệm, ông Nhu không dễ đương đầu! Tôi đã truyền đạt khuyến cáo của Giáo hoàng Paul VI cho hàng giám mục Việt Nam, là giáo hội Việt Nam không được dính líu vào vụ tranh chấp giữa ông Diệm và Phật giáo, vì nếu không có vụ Phật giáo thì Mỹ vẫn còn nhiều biện pháp khác để loại trừ ông Diệm và ông Nhu. Họ phải gạt ông Diệm một phần vì ông đã trở nên quá cứng đầu, nhưng phần chủ yếu là vì ông không chống Cộng hữu hiệu như họ tưởng.

- Nhưng ngoài ông Diệm ra, họ đã nhìn thấy ai có thể làm tốt việc đó chưa?

De Nittis chằm chằm nhìn anh rồi nhún vai không đáp.

Trung tuần tháng 8, Hai Long vừa tới nhà thờ Phát Diệm thì thấy cha Lê từ trong phòng khách bước vội ra:

- Cha đang mong gặp con!

Cha Lê nói với Hai Long bằng một giọng âu yếm hiếm có. Vẻ mặt cha hơi khác lạ, như có điều gì phải suy nghĩ, không ra vui cũng không ra buồn.

Cha Lê cầm tay anh đi vào nhà. Lần này cha Lê không hỏi câu hỏi đã trở thành quen thuộc: "Ở đó ra sao?".

Cha Lê ngồi im lặng trên chiếc ghế bành khiến Hai Long phải lên tiếng trước:

- Thưa, Đức cha cần gặp con chắc có việc gấp ạ?

- Việc không gấp với con mà chỉ gấp với cha...

- Thưa Đức cha có việc chi?

- Cha con ta sắp phải xa nhau một thời gian.

- Đức cha có đi đâu xa?

- Xa. Cha sang Roma để họp Hội đồng giám mục.

- Thời gian Đức cha họp chắc không lâu?

- Chưa biết - Cha Lê nhếch mép cười, cặp mắt nheo nheo - Cũng có thể rất lâu... Cha có những điều phải dặn dò con.

Hai Long ngồi thần người một lát.

- Cha nói làm con hết sức bối rối. Tình hình đang rất phức tạp.

- Rất phức tạp! - Cha Lê nhắc lại - Nhưng chế độ Diệm thì sắp kết thúc rồi. Cha biết tháng này Hội đồng giám mục chưa họp. Vatican gọi cha đi sớm là không muốn cha dính vào đại họa sẽ xảy ra. Người Mỹ sắp liquider[3] Diệm, Nhu. Gần đây, cha bắt đầu có chút cảm tình với gia đình họ Ngô. Nhưng khi họ hiểu được lẽ phải, muốn tìm ta để cầu một lối thoát thì đã quá muộn! Lực lượng Phát Diệm ta sẽ không còn bị o ép như trước. Nhưng tình hình đang xấu đi vì Mặt trận Giải phóng ngày càng mạnh. Kế hoạch ấp chiến lược cha Hoàng và cha đã tính từ đầu là sẽ thất bại, nhưng không ngờ thất bại nhanh như vậy!... Vừa qua, con đã mất nhiều công sức để nối lại mối dây đã đứt giữa Phát Diệm với gia đình họ Ngô... Sở dĩ cha vẫn lững lờ vì từ lâu cha cảm thấy việc con làm cuối cùng sẽ vô ích. Thuyền đang đắm, ta không thể chết chìm cùng với họ...

- Đức cha cho biết con phải làm gì trong thời gian tới?

- Con hãy thưa lui tới Phủ tổng thống. Cha đã bàn kỹ với cha Hoàng. Cha chánh xứ rất yêu con. Con tiếp tục giúp cha như trước kia, chăm lo đời sống giáo dân, chăm lo dạy dỗ con em giáo dân...

Cha Lê ngập ngừng rồi lặng thinh.

- Con vẫn nghĩ là sớm muộn Đức cha cũng trở về?

- Cha rất mong như vậy. Người già bao giờ cũng muốn sống ở quê hương. Nếu không được ở Phát Diệm thì cũng ở đây, một Phát Diệm thứ hai tại miền Nam, sống giữa các con. Cha cảm thấy cơn "hồng thủy" đang đến gần, cha sẽ khó có dịp quay lại.

Mắt Hai Long rơm rớm lệ.

- Cha chỉ dặn con một điều: dốc lòng thờ phụng Chúa, nhưng trong tình hình ở ta, không thể đi hàng một, vì ta phải bơi giữa nhiều dòng nước, luôn luôn phải lựa chiều mà chuyển dòng, đừng bơi ngược nước để chịu chết chìm! Phải đi hàng hai, hàng ba. Chỉ có đức tin là không bao giờ thay đổi...

Lời nói chân thành và đượm buồn của cha Lê giống như những lời trăng trối. Nước mắt Hai Long ứa ra. Người ta không thể nặn ra những giọt nước mắt. Cảm xúc hay lây. Trước mắt anh lúc này không phải là một thầy tu bán nước khét tiếng chống Cộng, mà là một ông già gần đất xa trời sắp phải vĩnh biệt quê hương, đang có những tình cảm cha con đối với anh, tuy đó chỉ là sự lầm lẫn.

- Con báo với tổng thống, cha muốn gặp để cáo biệt. Cha không gặp ai nếu không có lời mời, nhưng lần này chính cha yêu cầu... Cha con ta chưa chia tay nhau bây giờ. Tối mai cha muốn gặp cha Hoàng và con trong một bữa cơm tiễn biệt...

Và Hai Long lần đầu nhìn thấy những giọt lệ long lanh đọng trên cặp mằt già nua của Đức cha. 8.

Cuộc gặp gỡ chia tay giữa cha Lê và Diệm diễn ra giống như cuộc gặp gỡ giữa một người đang thành đạt và một kẻ đang thất bại. Đức cha Lê cao lớn, mạnh khỏe, tươi sáng. Diệm bé nhỏ, lọm khọm, xanh xao, tối tăm.

Diệm nói:

- Gia đình họ Ngô một lần nữa lại chịu ơn Đức cha. Tôi đã ngẫm những lời khuyến cáo của Đức cha, được thầy phụ tá chuyển cho phủ tổng thống, đều rất sâu sắc và rất đúng. Nhưng cũng xin thưa với Đức cha: nhà họ Ngô giấy rách phải giữ lấy lề. Đức cha qua Tòa thánh, với uy tín của Người, dù có ở xa cũng sẽ giúp đỡ được rất nhiều cho gia đình họ Ngô.

Cha Lê nói:

- Xin cụ hãy xét kỹ lại, người Mỹ đòi cụ phải cải cách chính trị, mở rộng chính phủ, đòi loại trừ ông bà cố vấn, cụ nên tính làm một đôi việc cho đẹp lòng họ.

- Thưa Đức cha, tôi suy nghĩ rồi, không thể nào làm vừa lòng Mỹ được, như tôi đã nói với Đức cha. Họ không hiểu gì về Việt Nam cộng hòa. Nhưng họ lại muốn buộc ta làm theo ý của họ. Họ tưởng làm như vậy, họ và ta sẽ thắng. Nhưng họ có biết đâu làm như vậy tình hình càng nát và thất bại là không thể tránh khỏi. Nếu họ quyết lật đổ đồng minh của họ thì cùng với sai lầm, họ lại chồng thêm một tội ác.

- Phàm con người ta sinh ra đã mang tội tổ tông, người Mỹ có mắc thêm tội lỗi cũng là lẽ thường tình. Nhưng cụ còn rất cần cho đất nước.

- Người Mỹ đang phản bội đồng minh của họ. Tôi nghĩ vì quyền lợi của họ, lẽ ra Mỹ phải ủng hộ tôi nhiều hơn nữa, thay vì bội ước mà âm mưu lật đổ tôi. Là nguyên thủ quốc gia, tôi không còn lựa chọn cách nào hơn là bảo vệ chủ quyền và danh dự...

Cha Lê trầm ngâm rồi nói:

- Tôi đến chào cụ trước khi sang Roma, chào cụ... lần cuối cùng, khi tôi trở về chắc không còn cụ nữa!

- Xin đa tạ Đức cha.

Cha Lê cáo biệt đứng lên. Diệm đưa cả hai tay nắm chặt lấy tay cha Lê. Cha Lê bỗng quay lại vỗ vai Hai Long nói:

- Tổng thống còn thì phù trợ! Tổng thống không còn thì trả thù cho tổng thống!

- Dạ... - Hai Long đáp.

Đây là một ý kiến hoàn toàn mới của cha Lê. Lúc này chắc là cha Lê rất thành thật.

Khi tiễn cha Lê ra về, Diệm tỏ vẻ lưu luyến và xúc động:

- Một lần nữa, tôi chân thành cảm tạ Đức cha. Xin Đức cha cầu nguyện cho tôi. ---

[1] MACV: Military Assistance Command, Vietnam

[2] tức ngày 14 tháng 4 âm lịch. Lễ Phật Đản kéo dài trong 3 ngày 14, 15, 16 tháng 4 âm lịch.

[3] loại trừ
 
CUỘC HỌP GIA ĐÌNH

1.

Nhu dẫn Hai Long vào phòng làm việc riêng của mình.

Lần đầu, anh lọt vào căn phòng này. Nó giống như một thư viện. Rất nhiều giá sách. Phần lớn là sách tiếng Pháp và tiếng Anh được xếp ngăn nắp. Một chiếc tủ lớn chia thành nhiều ô đều nhau, đánh dấu từ A đến Z, cánh cửa đều có khóa. Đây là tủ lưu trữ những tài liệu mật. Giữa nhà là một cái bàn lớn. Trên bàn để nhiều cặp hồ sơ. Dưới ngọn đèn bàn có chao xanh là một đống công văn giấy tờ. Cái gạt tàn thuốc lá đầy ắp tro và những mẩu thuốc lá.

Người Hai Long gai lên. Những điều anh cần biết đều tập trung trong căn phòng này. Mọi quyết định quan trọng của chế độ Diệm hình thành ở đây; từ việc thủ tiêu một nhân vật trong phe đối lập đến những kế hoạch, quốc sách lớn, đến những hiệp định bí mật với nước ngoài. Đây là thế giới riêng của Nhu, không ai được xâm phạm.

Nhu trỏ chiếc ghế độc nhất trước bàn làm việc mời Hai Long ngồi.

Y ngả người trên ghế bành, vuốt ngược tóc lên, vỗ vỗ tay vào trán mấy cái như để lấy lại sự ổn định, cân bằng trong đầu óc. Những nếp nhăn chạy dài trên vầng trán rộng ưu tư. Nhu có vẻ mệt mỏi sau nhiều ngày làm việc căng thẳng. Từ sau ngày nổ ra vụ Phật giáo, Nhu buộc phải thay đổi thói quen ẩn dật, thích đứng ở hậu trường giật dây, bắt đầu xuất hiện trước mọi người, nhảy vào những cuộc họp các tướng lĩnh, những cuộc họp về an ninh và những hội nghị đông người, làm nhiều việc mà y thấy không thể phó thác cho ai khác.

Nhu nhìn đống giấy tờ trên bàn, làm một động tác quen thuộc xoa xoa hai bàn tay vào nhau, lấy những ngón tay nọ vuốt những ngón tay kia rồi nói:

- Cả đêm đọc bao nhiêu báo cáo, bao nhiêu nguồn tin, mà rút lại chẳng thấy gì! Báo cáo nào cũng dày cộm chẳng khác gì bản luận án. Những diễn biến mới trong nội bộ Phật giáo, nhóm Caravelle, trí thức, quân đội, học sinh sinh viên... đều không rõ. Tổng hợp không được, thì phân tích làm sao được! Thế này là thế nào?... Nhiều việc quá, thì giờ không đủ. Tôi muốn nhờ anh đọc và tổng hợp giúp.

Hai Long không vồ vập, im lặng để tỏ ra nhận lời. Trong bụng mừng run, chỉ sợ Nhu lại thay đổi ý kiến. Trung tâm vừa yêu cầu anh phải báo cáo sớm tình hình mới nhất về "Ấp chiến lược - Tình hình chính trị, quân sự - Ý đồ của Nhu". Từ nay anh sẽ cung cấp không chỉ những điều đã trao đổi trực tiếp với người cầm đầu chính quyền ngụy mà cả những văn bản gốc. Sau Nhu, anh sẽ trở thành người chủ thứ hai của căn phòng này.

Nhu thở dài:

- Tin Bắc Việt vài tháng nay chẳng có gì! Mấy réseaux[1] có tin intéressant[2] thì nay mất liên lạc. Giao cho thằg Đường ném người ra ngoài đó thì biệt tăm. Thằng Hiếu vừa báo cáo mấy thằng biệt kích xin ở chỗ cha Hoàng tung ra ngoài Bắc, nay lại thấy thấp thoáng xuất hiện ở Bình An, Hố Nai. Chắc là bọn chúng đào ngũ, không hiểu làm cách nào mà mò vô tới đây? Chúng nó vừa thoát chết trở về, chả lẽ bắt bỏ tù sao?... Bây giờ còn suy nghĩ gì để tiếp tục hoạt động biệt kích! Miền Trung mấy ngày qua tạm yên. Sài Gòn thì rối rắm, khó nắm. Tổng thống trước kia vẫn thường xuyên đọc báo cáo. Gần đây, ông cụ chuyển cả cho mình. Đọc không xuể, nhờ Hoàng Long đọc, tóm lược giúp, đánh dấu những chỗ quan trọng. Nếu có ý kiến riêng thì ghi vô. Mỗi tuần một vài buổi, tới đây giúp mình.

- Công việc anh đã ủy thác, tôi xin cố gắng. Cũng may, Đức cha đi Roma, tôi có thư thả hơn trước.

- Rất tốt! Bây giờ qua chuyện khác. Tối nay, anh có bận việc gì không?

- Tôi chưa có chương trình gì.

- Bảy giờ tối, mời anh đến. Đức cha Thục trưa nay vô để đi Roma như Đức cha Lê. Sẽ có cuộc họp trong gia đình, mời anh cùng dự với chúng tôi.

- Dạ...

Nhu ngồi đăm chiêu, chốc chốc lại thoa vuốt những ngón tay. Hai Long nhìn lên giá sách, vờ đọc những tên sách in ở gáy. Chỉ ngày mai thôi, anh sẽ xâm nhập vào cái kho tàng bí mật này. Trung tâm đang rất cần bản sao những tài liệu quan trọng. Anh đã thực sự có những điều kiện lý tưởng để tiến hành công tác.

- Hoàng Long này!... - Như bứt anh ra khỏi những suy nghĩ - Mình đang trù liệu một biện pháp cơ bản để dẹp yên chuyện Phật giáo.

- Dạ...

- Sẽ bắt hết những tên gây rối - Nhu chém ngang hai bàn tay với một động tác dứt khoát - Giữ cả lại để xét xử. Không thể để chúng cứ ngang nhiên lộng hành. Ý anh sao?

- Sứ quán Mỹ và Mắc-vi[3] đối với tổng thống gần đây ra sao?

- Harkin tốt. Con người Lodge, ta dã biết. Nhưng y chưa tỏ thái độ.

- Điều cần chú ý là thái độ của Nhà Trắng.

- Vì thái độ của Nhà Trắng nên mình mới phải dùng biện pháp này. Mình sẽ trù liệu cả trường hợp xấu nhất.

- Còn giới quân nhân?

- Sẽ có biện pháp riêng với giới quân nhân. Ở Bình An và Phát Diệm có xuất hiện nhân vật nào mới không?

- Có viên đại tá Mỹ tên là Conein, mới đến thăm cha Hoàng.

- Hắn nói chuyện chi? - Nhu hấp tấp hỏi.

- Hắn có vẻ thận trọng, chưa bộc lộ gì. Hắn chỉ thăm dò cha Hoàng về khả năng xảy ra đảo chính.

- Anh cần đặc biệt chú ý tên này, Lucien Conein. Trước đây hắn là nhân viên của OSS[4]. Giờ hắn là đại tá làm việc cho CIA. Hắn đã có những lời phát biểu không thiện chí. Tôi đã chỉ thị cho Hiếu, Tung bám sát. Anh em đặt biệt danh cho hắn là La Pointe[5].

Cánh cửa chợt mở. Lệ Xuân xuất hiện.

- Tôi vào được không?

- Không được. - Nhu mỉm cười - Đàn bà không tham gia vào chuyện quốc gia.

- Lại chuyện đảo chính! Thấy mặt ông là thấy đảo chính.

Lệ Xuân lấy ngón tay quệt dài trên má Hai Long khi đi ngang qua anh.

Bà cố vấn buông một câu chửi thề: "Tiên sư cha thằng Mỹ!".

Lệ Xuân quay sang nói với chồng:

- Hiếu và Tung đang đợi anh ở phòng khách.

- Em ngồi tiếp Hoàng Long một lát.

Như đứng dậy, nhường ghế cho vợ và đi ra ngoài.
 
2.

- Đức cha Lê đi chưa? - Lệ Xuân hỏi Hai Long.

- Đức cha đi ngày hôm qua.

- Trưa nay, Đức cha Thục cũng vô để đi họp ở Roma. Vatican cho các tổng giám mục di tản sớm, sợ các ngài chết chẹt!

Lệ Xuân cười, hàm răng đều và nhỏ hiện lên giữa đôi môi tô son đỏ tím, ướt át, cặp mắt lấp lánh vẻ chế giễu. Từ ngày xảy ra vụ Phật giáo, hai anh em Diệm - Nhu đều lộ vẻ lo âu căng thẳng, sắc diện biến đổi; riêng Lệ Xuân, tuy có cáu giận nhiều hơn, nhưng bề ngoài vẫn bình thường, tỏ ra rất tự tin.

Lệ Xuân thủng thỉnh nói tiếp:

- Tối nay họp Polit Bureau gia đình. Anh Thanh Long nói có cả anh. Sẽ có nhiều quyết định trọng đại đấy!

- Tôi đâu dám có ý kiến về những vấn đề lớn của quốc gia. Nếu Đức cha và tổng thống hỏi điều gì thì biết đâu nói đó.

- Trong nhà này, mọi người đều phải theo ý kiến anh Hồng Long. Cuộc họp tối nay sẽ quyết định cả số phận vợ chồng tôi. Anh Bạch Long đang muốn đưa ông Nhu và tôi đi biệt xứ một thời gian cho đỡ áp lực.

- Nếu vậy lấy ai lo liệu mọi việc cho tổng thống! Họ đòi tách anh Thanh Long và chị ra chính là để hạ tổng thống một cách dễ dàng hơn. Chị có sau lưng một triệu đoàn viên phụ nữ. Anh Thanh Long có cả triệu thanh niên. Anh chị đều đi cả, tổng thống lấy đâu ra lực lượng?

- Tôi cũng biết như vậy... Nhưng để đó rồi tối nay, anh em nhà chú bàn với nhau. - Lệ Xuân chuyển sang gọi Hai Long bằng "chú" rất ngọt.

- Đức cha Lê trước khi đi đã trao nhiệm vụ cho tôi hết lòng phò trợ tổng thống. Nếu là điều phải, được hỏi ý kiến lẽ nào tôi không nói?

- Tôi nói thực với chú nhé!... Tôi chán tất cả cha cố, sư sãi rồi. Thấy mặt là không xin thứ nọ cũng vòi thứ kia... Cha Hoàng nhà chú nhận ô tô, xin tiền xây nhà trường, nhưng chưa chừng lúc nào lại xỉa dao găm vào lưng vợ chồng tôi! Tôi nói thế chú đừng giận. Bây giờ tôi hỏi chú câu này...

Lệ Xuân nhìn Hai Long với cặp mắt ranh mãnh. Cặp mắt đó làm anh cảm thấy e ngại.

- Chú có phải là Cộng sản không?

Hai Long lạnh người. Trong gia đình họ Ngô, anh vẫn thấy người đàn bà này là đáng sợ. Cẩn đa nghi nhưng có lúc lại cả tin, Nhu thâm trầm nhưng ít biết thực tế cuộc đời thật, Thục dễ tin những lời phỉnh nịnh, Diệm hoàn toàn tin những người trong gia đình mình, đánh lừa Diệm không khó. Với Nhu, anh nói thoải mái những lời về đức tin của một "con chiên ngoan đạo". Nhưng với Lệ Xuân, anh cảm thấy khó nói những điều đó. Cặp mắt đen có đuôi xấc xược và cười cợt kia, lúc nào cũng như muốn lật tẩy nhưng trò giả nhân giả nghĩa: "Tôi biết tỏng ra rồi!".

- Tại sao chị lại hỏi tôi như vậy?

Hai Long nhìn Lệ Xuân với vẻ mặt thực thà và nụ cười ngây thơ. Cái vẻ ngoài được tập luyện khá công phu đã trở thành một phản ứng tự nhiên ở anh khi gặp trường hợp khó ứng xử. Câu hỏi lại để kéo thêm chút thời gian suy nghĩ. Hay Lệ Xuân đã biết điều gì đó về anh? Nếu Lệ Xuân biết thì Nhu cũng biết. Hay Nhu rất cao tay, biết mình là Cộng sản vẫn cứ dùng, vì lúc này y đang cần anh? Lưỡi hái mát lạnh của tử thần như đã kề sau gáy...

Lệ Xuân vẫn nhìn xoáy vào mặt Hai Long với vẻ truy tìm.

- Tôi nghĩ vậy, vì tôi thấy chú sống rất khắc kỷ. Ngoài những người Cộng sản ra, không ai sống như chú!

- Nhiều người bảo tôi sống lập dị... - Hai I.ong nén một tiếng thở dài nhẹ nhõm, nói lảng.

- Tôi không nghĩ như vậy. Vì người sống lập dị cũng có mục đích riêng của họ. Ít nhất, họ muốn làm ra khác chung quanh để được mọi người chú ý. Nhưng tôi tìm không ra mục đích của chú... Có phải anh Thanh Long đã mời chú làm cố vấn chính trị, đặc trách vấn đề tôn giáo và theo dõi phe phái đối lập?

- Anh có hỏi ý kiến tôi. Nhưng tôi thấy cứ làm phụ tá của Đức cha Lê thì giúp ích cho quốc gia được nhiều hơn.

Lệ Xuân bỏ qua lời giải thích nói tiếp:

- Tôi biết gia đình chú 5 người, ở một cái bếp có 10 mét vuông. Chú hàng ngày phải chở từng sọt rau ra chợ cho ấy. Nhưng sao chú không hề nhận chút trợ cấp nào của chúng tôi?... Tôi chỉ cần nói một tiếng là gia đình chú không còn phải túng thiếu. Cũng có lúc tôi nghĩ chú bắt chước Đức cha Lê, đi hàng hai để đợi thời. Nhưng trong lúc đợi thời, người ta vấn phải sống. Các cha cố đều làm áp phe. Tại sao chú cứ cam chịu túng thiếu? Để làm gì? Những xe chở khách ở đô thành đều nằm trong tay tôi. Tôi có thể nhượng cho chú một vài chiếc, cho chú mượn một ít vốn để chạy xe, nếu chú thấy không cần xin thì chú cứ trích lãi trả dần.

- Cảm ơn chị đã chú ý đến hoàn cảnh gia đình tôi và có ý định giúp đỡ. Nhưng hiện nay, cũng không đến nỗi quá khó khăn như ngày tôi mới ở Huế về. Hàng tháng, tôi đã có thêm tiền dạy học, nên gia đình đỡ thiếu thốn. Tôi chỉ mong làm một người giáo dân tốt bằng cách đóng góp một cái gì đó cho giáo hội, cho quốc gia. Tôi đang tiếp tục hoàn thành một công trình nghiên cứu, và ước mơ của tôi là được bảo vệ thành công bản luận án tại Roma. Đấy là niềm say mê chính của tôi. Tôi muốn toàn tâm lo cho việc đạo, nhưng việc đạo lại gắn liền với việc đời, nên gần đây bị cuốn hút quá nhiều vào việc đời.

- Nếu chú là Cộng sản thì lúc này cũng hay! - Lệ Xuân vẫn chưa dứt khỏi ý nghĩ đó - Khi nó bức bách mình quá thì có lẽ mình phải đi với Cộng sản!

- Chị có những ý nghĩ táo bạo.

- Ở vào địa vị chúng tôi, chú cũng sẽ nghĩ như vậy... Này, tôi hỏi chú...

Hai Long lại giật mình. Cách suy nghĩ tự do và rất thực dụng của người đàn bà này khá nguy hiểm với anh. Anh đón chờ câu hỏi mới của Lệ Xuân với bộ mặt "hiền lành" và nụ cười "thật thà".

- Nghe nói chú lấy một cô vợ nhà quê phải không?

- Vâng... Vợ tôi người nông thôn. Hai gia đình ở gần nhau. Chúng tôi quen biết nhau từ ngày còn nhỏ.

- Có xinh không?

Hai Long nhoẻn miệng cười tránh câu trả lời.

Nhu đã hiện ra trước của từ lúc y đi vẫn để ngỏ, ngơ ngác không hiểu giữa hai người đang có chuyện gì vui.

Lệ Xuân đứng lên, trả lại chỗ cho chồng.

- Hoàng Long lấy một cô vợ nhà quê anh Nhu ạ. Chú ấy vẫn suốt đời trung thành. Thảo nào Đức cha nức nở khen là trung hậu, thánh thiện.

Lệ Xuân cười khanh khách rồi đi ra.

Nhu cũng mỉm cười vui lây cái vui của người vợ trẻ.
 
3.

Nụ cười đã biến mất trên môi Nhu khi Lệ Xuân đi khỏi. Vẻ mặt Nhu trở lại đăm chiêu. Nhu đốt một điếu thuốc.

- Biện pháp mạnh như đã nói ban nãy, anh thấy thế nào? Chắc ăn không?

- Ông cố vấn đã tính toán kỹ, tôi tin kết quả sẽ như ý muốn. Tôi cũng thấy cần chấm dứt tình trạng nhùng nhằng, dọa dễm, bắt bí nhau.

- Nếu ta tìm hậu thuễn ở Pháp, nó có bắt chẹt mình không? Đức cha Lê liệu có giúp không?

- Đức cha Lê không mong muốn gì hơn. Ông cố vấn yêu cầu hòa hoãn với Pháp một, Đức cha sẽ làm mười. Mà Đức cha làm thì chắc sẽ có kết quả. Nhưng cũng phải xem chiến thuật của ta có thích ứng với ý đồ của Pháp không? Qua tùng bước, sẽ kiểm nghiệm. Hai năm qua, ông cố vấn quá dè dặt với Pháp. Gần đây, cha François qua là để mở đường cho ông cố vấn đi nhanh tới đích, nhưng ông cố vấn vẫn ngập ngừng làm cho cha cụt hứng và thất vọng.

- Mình ngại Pháp bắt bí.

- Nhưng thời gian không còn nhiều. Ta phải gấp bước.

- Theo ý anh, cần làm gì cho nhanh hơn?

- Anh muốn gì, Pháp sẽ đáp ứng ngay. Việc cần làm là phải có tín hiệu sớm. Một thuận lợi, Đức cha Lê đã có mặt ở Roma.

- Ta sẽ tỏ ngay cho họ biết qua đại sứ Pháp ở Sài Gòn. Càng nhanh càng tốt!

- Tôi cần lưu ý ông cố vấn, còn Mỹ? Mỹ sẽ cố vượt nhanh trước ta.

- Anh muốn nói họ sẽ lật đổ ta trước?

- Những nguồn tin đáng tin cậy đều tập trung vào chỗ chính phủ Mỹ muốn loại trừ ông cố vấn để đi tới việc làm tiếp theo, lật đổ tổng thống. Nếu thấy có dấu hiệu ta muốn đi tìm một sự yểm trợ mới để chống lại họ, họ sẽ cố thúc đẩy quá trình đảo chính nổ ra sớm hơn. Ngòi nổ đã sẵn rồi.

- Dẹp yên Phật giáo là rút được ngòi nổ.

- Chưa hẳn như vậy. Trước đây chưa có những vụ lộn xộn Phật giáo, đảo chính vẫn cứ nổ ra. Lực lượng đảo chính là lực lượng quân sự của ta được Mỹ khuyến khích, xúi giục thực hiện ý đồ của Mỹ. Nguy hiểm nhất là bọn thân Mỹ nắm những lực lượng nằm ngay ở Sài Gòn và vùng chung quanh. Phải loại trừ bọn này mới dập tắt được âm mưu đảo chính. Ông cố vấn cần tập trung ngay những lực lượng mạnh nhất, tin cậy nhất ở chung quanh Sài Gòn, để kịp thời cứu trợ nếu nổ ra đảo chính.

- Bỏ nông thôn ư? Thế còn quốc sách " ấp chiến lược"? Như vậy là mình lại tự mâu thuẫn với mình.

- Không thể cùng một lúc đuổi bắt hai con thỏ! Ai đang ngăn chặn ta bảo vệ ấp chiến lược? Chính là Mỹ. Phần lớn đô thị đang ở trong tình trạng mất ổn định. Ấp chiến lược có thể nay mất cái này, mai lập cái khác. Tranh chấp với Cộng sản ở vùng nông thôn, xa đô thị là chuyện còn nhùng nhằng và lâu dài. Nhưng nếu để đảo chính nổ ra ở Sài Gòn là đe dọa sự tồn tại của chế độ. Một câu hỏi cần được giải đáp ngay: "Ta sẽ chết trước vì Cộng sản ở nông thôn hay vì Mỹ ở Sài Gòn và các đô thị? Cộng sản hay Mỹ sẽ xuống tay hạ ta trước?".

Nhu mím chặt môi, ngón tay trỏ trong bàn tay cầm điếu thuốc lá đặt từ lâu trên cái gạt tàn, cứ vỗ vỗ mãi vào đầu điếu thuốc lá đã tắt ngấm.

- Hòa hoãn với Cộng sản, anh tính sao? - Nhu đột ngột hỏi.

Hai Long lặng thinh. Anh đã nghe ý kiến này ở miệng Lệ Xuân.

Nhu lại nói tiếp:

- Tôi đã tính đến nước cờ ấy, chỉ e sự chống đối mạnh là ở phía Đức cha Lê.

- Còn ý kiến của tổng thống?

- Nếu Mỹ cứ tiếp tục gây sức ép thêm nữa, thì chỉ còn lối thoát này. Tôi tin là tổng thống cũng phải chấp nhận.

- Thái độ của Đức cha Lê từ trước đến nay vẫn là chống liên hiệp với Cộng sản, chống hòa hoãn với Cộng sản. Nhưng Đức cha có lập trường và có thành kiến với Cộng sản là chuyện của Đức cha. Đây là vấn đề mất còn của chế độ. Người làm chính trị phải quyền biến, không thể cứng nhắc, cố chấp. Nhưng...

Hai Long tỏ vẻ đắn đo cân nhắc.

Nhu lại nói:

- Ngay từ khi nhận rõ thấy Mỹ muốn can thiệp sâu vào chủ quyền của ta, tôi đã có ý nghĩ xây dựng thật nhanh kế hoạch ấp chiến lược để ngăn chặn Cộng sản, đập tan bọn phá rối nội bộ và đẩy mạnh xây dựng kinh tế, bảo đảm một Việt Nam cộng hòa an bình thịnh vượng; khi đó ta sẽ nhận lời hiệp thương với Cộng sản Bắc Việt. Có thể bắt đầu bằng những quan hệ bình thường giữa hai miền. Nếu ta mạnh thì Bắc Việt không thể cộng sản hóa Việt Nam cộng hòa, mà trái lại, ta có thể dân chủ hóa thể chế ở Bắc Việt. Chừng đó, Mỹ không thể tùy tiện làm áp lực với ta. Nhưng hiện nay, mọi kế hoạch đều tiến triển chậm chạp vì Mỹ cản đường, không giúp ta tự lực tự cường, mà chỉ muốn can thiệp sâu vào những vấn đề nội bộ của ta. Vì vậy, việc đáng lẽ làm sau, giờ lại phải làm trước để kịp đối phó với sức ép của Mỹ.

- Tôi đã hiểu ý của anh... Trong tình hình bây giờ, cần thận trọng. Ta nên ngầm dựa vào Pháp và cứ ngầm tập trung đối phó với Mỹ để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Ta chưa đả động gì tới Cộng sản Bắc Việt, vì nếu làm ồn ào vấn đề hòa giải với Cộng sản, Mỹ cảm thấy nguy, sẽ tập trung phá ta ngay. Nếu ta đã chủ trương hòa hoãn với Cộng sản, dù ta không công bố, Cộng sản cũng thừa thông minh để hiểu ngay, và họ sẽ ngầm đáp lại, vì ta biết Cộng sản trước sau đều coi Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất. Muốn hòa hoãn với Cộng sản thì tùy nơi, tùy lúc, tiến hành theo chiến thuật của ông cố vấn, tôi không lạm bàn và cũng không phản đối, miễn là không để Cộng sản lật ta. Hiện nay Cộng sản chỉ mới có lực lượng lật đổ ta ở từng ấp chiến lược, từng xã, nhưng chưa có lực lượng lật đổ chế độ ở Sài Gòn. Mất ấp chiến lược, tổng thống và ông cố vấn vẫn tồn tại, nhưng nếu mất dinh Gia Long là mất hết!

- Nhất trí! "Toi" rất tỉnh táo. Nhưng chuyện vừa rồi là entre nous[6].

Mặt Nhu vui lên. Nhu nhìn đồng hồ, nói tiếp:

- Từ mai, "toa" đến làm việc ở phòng này. Tối nay lại nhé! Mình phải ra sân bay để đón Đức cha.
 
×
Top Bottom