Ông cố vấn - hồ sơ một điệp viên

4.

Trọng là người thứ hai được gọi ra trước vành móng ngựa.

Trái hẳn với Hai Long, bằng một thái độ tỏ ra tự kiềm chế của người bị hàm oan, anh từ tốn và rành rẽ bác lại những lời hỏi tội của viên chánh thẩm ngay từ đầu.

- Tôi là một tín đồ Công giáo, một người quốc gia yêu nước. Trong tình hình chiến tranh đã kéo dài tàn phá đất nước, theo ý tôi, con đường đúng nhất là con đường hòa hợp dân tộc mà những biến cố gần đây đang và sẽ chứng minh là đúng. Do đó, tôi và một số bạn bè, đã hy sinh cá nhân, đứng cạnh tổng thống Thiệu, nhận lấy một chức vụ rất nguy hiểm trong hiện tình, không ngoài mục đích thực hiện đường lối ấy với ông Thiệu. Tôi đã không ngần ngại hợp tác với bất cứ ai, dù là Hoa Kỳ hay Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam, để sớm đem lại hòa bình cho đất nước chúng ta. Trong mọi sáng kiến, vai trò tiền phong là cần thiết. Vì quyền lợi của Giáo hội Việt Nam, mà tôi là một con chiên, tôi tự nhận lấy cái nhiệm vụ nguy hiểm ấy trước giáo hội và trước đất nước. Nếu quý tòa không nhận thấy sự cống hiến của tôi trong vai trò tiền phong ấy để sớm đem lại một giải pháp hòa bình tốt đẹp cho miền Nam Việt Nam, thì tôi sẵn sàng lãnh tất cả sự nghiêm khắc của quý tòa, như một người đã được cái vinh dự tử vì đạo cho tôn giáo của mình trong vụ án này. Tôi không dám tự so mình với các bậc tiền nhân, nhưng phải chăng tôi đã đóng vai trò tương tự như Lê Lai trong lịch sử...?

Viên chánh thẩm hỏi:

- Có phải ông Vũ Ngọc Nhạ đưa ông vào Phủ tổng thống với cương vị phụ tá để phục vụ cho những mục đích đen tối của mình hay không?

- Tôi cần phải nói rõ trước tòa là ông Nhạ không hề đưa tôi vào làm phụ tá cho tổng thống. Trước ngày bầu cử tổng thống, ông Nhạ đã gặp tôi với tư cách một lãnh tụ của Thiên chúa giáo, yêu cầu tôi dùng những quan hệ đã có từ lâu với Tòa đại sứ Mỹ, vận động người Mỹ ủng hộ cho ứng cử viên của Thiên chúa giáo đắc cử trong nhiệm kỳ tới. Người đó là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu. Ông Nhạ nói mình đã giành được sự thỏa thuận này với Hồng y giáo chủ Spellman và đặc phái viên của tổng thống Johnson. Tôi đã tuân theo chủ trương của giáo hội Việt Nam. Ông Thiệu rất lo lắng liên danh của mình có thể bị liên danh của ông Sửu và ông Kỳ đánh bại. Tôi cũng chia sẻ sự lo lắng đó. Ông Nhạ bảo tôi cứ yên tâm vận động Tòa đại sứ Mỹ, rồi ông sẽ tiến hành mọi việc cần thiết tiếp theo với người Mỹ. Tôi đã tiến hành có kết quả việc ông Nhạ trao, tổ chức cuộc gặp gỡ giữa đại diện của ông Thiệu là ông Nguyễn Văn Hướng với tòa đại sứ Mỹ, và đứng ra làm trung gian trong quan hệ giữa ông Thiệu và Tòa đại sứ Mỹ trong suốt cuộc vận động tranh cử. Sau ngày ông Thiệu đắc cử, tổng thống đã nhờ ông Hướng chuyển lời mời tôi vào làm phụ tá về chính trị và ngoại giao, đặc trách quan hệ giữa Phủ tổng thống với Tòa đại sứ. Tôi đã cảm ơn và từ chối. Chỉ tới 3 tháng sau, khi tổng thống Thiệu ra sức lệnh bổ nhiệm, tôi mới vô Phủ tổng thống lãnh nhiệm vụ... Tôi biết ông Nhạ trong cương vị cố vấn của tổng thống, phải góp ý kiến về nhân sự trong bộ máy chính phủ, ông Nhạ đã từng

đề cử ông Hướng làm thủ tướng, đã từng đề nghị một số người vào các cương vị bộ trưởng, tổng trưởng..., nhưng trường hợp của tôi không nằm trong trường hợp những người được ông Nhạ tiến cử.

- Có phải ông được ông Vũ Ngọc Nhạ trao nhiệm vụ sang Hoa Kỳ điều tra tình hình chính trị Mỹ có liên quan tới hòa đàm Ba Lê để cung cấp cho Việt Cộng không?

- Thưa quý tòa, tôi buộc phải nói cách đặt vấn đề như vậy là hoàn toàn không đúng. Sứ mạng mà tổng thống trao cho phái đoàn do tôi cầm đầu sang công cán tại Hoa Kỳ, là hết sức khó khăn và tế nhị. Vẻ bề ngoài, phái đoàn lãnh trách nhiệm đi cầu viện hậu chiến, nhưng thực chất bên trong là tiến hành điều tra, coi một khi đã thay đổi chiến lược ở Việt Nam, từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, Mỹ có âm mưu loại trừ tổng thống Thiệu, là người có chủ trương cứng rắn, hay không. Tổng thống Thiệu rất lo lắng về vấn đề này. Chúng tôi có nhiệm vụ phải giải tỏa sự bất đồng giũa ông Thiệu và ông Johnson, đồng thời phải thăm đò xem người kế vị tại Nhà Trắng là ai, và phải tranh thủ bằng được sự ủng hộ của tổng thống Mỹ tương lai với cá nhân tổng thống Thiệu. Tôi nhớ trong cuộc gặp mặt trao nhiệm vụ cho phái đoàn trước ngày lên đường, có sự tham gia của đích thân tổng thống với bào huynh là ông Nguyễn Văn Kiểu, cùng với sự chứng kiến của cha Hoàng và cha Nhuận, ông Vũ Ngọc Nhạ ngồi ở ghế chủ trì đã nói với phái đoàn: "Hiện nay cái thế của Việt Nam cộng hòa đang chông chênh, ngôi vị của tổng thống có phần nghiêng ngửa, nhiệm vụ của phái đoàn đối với quốc gia, đối với việc phò trợ tổng thống rất nặng nề...". Ông Nhạ đã gọi hội nghị này là hội nghị Đồng tâm, và động viên phái đoàn dốc lòng dốc sức chu toàn sứ mạng... Khi chúng tôi trở về phúc trình với tổng thống về chuyến công du, ông Nhạ đã ngồi cùng nghe với tổng thống. Những kết quả phái đoàn đem về rất khả quan. Chính ông Thiệu đã ngỏ lời tri ân phái đoàn và nói sau bao ngày lo lắng rầu rĩ, kết quả phái đoàn đem về khiến ông cảm thấy tươi trẻ lại... Tôi xin khẳng định trước tòa là ông Nhạ không hề trao cho chúng tôi nhiệm vụ thu thập tin tức cho Mặt trận Giải phóng.

- Vậy ông giải thích thế nào về những kế hoạch tuyệt mật mà ông đã cung cấp cho ông Vũ Ngọc Nhạ, như kế hoạch Kinh tế hậu chiến, kế hoạch Bình định và Xây dựng năm 1969, kế hoạch Phượng hoàng...?

- Tôi vào làm việc với tổng thống mười lần thì có tới sáu bảy lần thấy ông Nhạ cùng ngồi ở đó với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tôi không bao giờ nghĩ rằng ở cương vị của mình, mình lại có được những tin tức cơ mật mà chính ông Nhạ không biết. Những tài liệu mà quý tòa vừa kể có liên quan tới nhiệm vụ mà tổng thống đã trao cho tôi bằng văn bản trước ngày đi Mỹ. Trong đó, ông Thiệu đã ủy thác và trao quyền cho tôi tiếp xúc với các tổ chức chính quyền và tư nhân Mỹ quan tâm tới chương trình phát triển, nghiên cứu xã hội và kinh tế hậu chiến tại Việt Nam cộng hòa, và cung cấp cho họ những tài liệu có liên quan. Tòa đại sứ Mỹ sau khi đọc ủy nhiệm thư, đã trao cho tôi những tài liệu đó. Với ý thức trách nhiệm, tôi đã đưa trình những tài liệu đó với tổng thống và cố vấn trước khi đem đi. Tôi có thể trình ngay trước tòa ủy nhiệm thư của tổng thống Thiệu.

- Ông phủ nhận những lời khai đã biết ông Vũ Ngọc Nhạ có quan hệ với Cộng sản, và cả những cuộc gặp gỡ với Huỳnh Văn Tư từ mật khu vào đã được cơ quan an ninh chụp hình ghi lại?

- Tôi hoàn toàn không phủ nhận những điều tôi đã khai. Khi ông Nhạ cho tôi tiếp xúc với ông Tư, tôi đoán ông Tư là người của Mặt trận Giải phóng, từ đó tôi hiểu ông Nhạ có quan hệ với Mặt trận. Nhưng tôi cho rằng điều này không quan trọng. Tôi đã trực tiếp nhìn thấy ông Nhạ hàng ngày kề cận với tổng thống, thì ông Nhạ và tổng thống chỉ là một. Tôi đã có dịp coi thủ bút của ông Thiệu trong lá thư viết cho ông Nhạ bằng cây viết nguyên tử màu đen, tổng thống nhờ ông Nhạ cảm ơn các cha và những người bạn Mỹ. Trong lúc đường lối của Giáo hội Tòa thánh Vatican là tìm cách dàn xếp giữa những phe phái theo chính sách hòa giải dân tộc, mà bằng cớ mới nhất là những hoạt động vận động hòa bình của Đức cha Nguyễn Văn Bình và Đức cha Phạm Ngọc Chi do chính tòa thánh Vatican chấp thuận, thì cuộc tiếp xúc giữa ông Nhạ hoặc chính tổng thống với người phía bên kia chỉ là hoạt động bình thường. Tôi không bao giờ nghĩ rằng tán thành hòa bình, liên hiệp là đầu hàng! Là đương kim tổng thống, ông Thiệu phải tính tới nhiều đường đi nước bước. Tôi không tự cho phép được đi sâu tìm hiểu vấn đề này, sợ vô tình phanh phui những việc làm tổng thống cần giữ bí mật...

Trọng đã trả lời trong cả cuộc thẩm vấn bằng một logic chặt chẽ của một người đã tốt nghiệp đại học Luật và một cựu bộ trưởng Nội vụ. Những phóng viên, ký giả không ngừng tay ghi chép. Sự hoài nghi trong những người dự phiên tòa càng tăng trong lúc những can phạm luôn luôn tỏ ra bình tĩnh, tự tin, mà kẻ thẩm vấn thì không che giấu được sự bối rối.

Phiên tòa ngày 28 đã mang lại cho báo chí một cơ hội hiếm có. Tất cả những báo chí Sài Gòn ngày 29-11 đều đăng tin về phiên tòa với những dòng tít lớn ở trang nhất.

Báo Cấp Tiến đưa tít lớn: "Vụ án chính trị của thế kỷ. Trước tòa án Quân sự Mặt trận lưu động vùng 3 chiến thuật, hơn 100 ký giả trong và ngoài nước theo dõi ngay từ phiên tòa thứ nhất có thể kéo dài nhiều ngày và có thể có nhiều yếu tố bất ngờ".

Báo Trắng Đen đưa tít: "Các bị can tươi cười như đi dự "đám cưới". Người được các ký giả chụp hình nhiều nhất là Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng".

Báo Tia Sáng đưa tít lớn: "Những sự kiện quá ly kỳ trong vụ án Huỳnh Văn Trọng. Chính Vũ Ngọc Nhạ là "sếp" của Huỳnh Văn Trọng, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hòe, Lê Hữu Thúy...".

Báo Thời Thế đưa tít lớn: "Vũ Ngọc Nhạ là cố vấn của tổng thống Thiệu, từng tiến cử ông Nguyễn Văn Hướng làm Thủ tướng".

Báo Điện Tín đưa tít lớn: "Vũ Ngọc Nhạ, một "cây" bất cần đời. Trước tòa, Vũ Ngọc Nhạ luôn luôn tươi cười tỏ ra "bất cần đời"! Trong lúc được tòa thẩm vấn, Nhạ cũng đã luôn luôn nói "ông Thiệu" chứ không lúc nào gọi bằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu".

Báo Quyết Tiến đưa tít lớn: "Sẽ có nhiều bất ngờ trong vụ án Huỳnh Văn Trọng? Vai trò chủ chốt thật sự là Vũ Ngọc Nhạ chứ không phải Trọng". Tờ báo viết: "Những bị can chính đều cho rằng họ là những người theo đạo Công giáo, đều hoạt động theo đường lối của tòa thánh Va-ti-căng, nghĩa là tìm cách dàn xếp giữa hai phe phái theo chính sách hòa giải dân tộc... Riêng trường hợp của Nhạ, Nhạ còn nói rõ rằng ông ta được cả giấy khen của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đề cập tới những việc giúp ích của ông cho quốc gia. Quan trọng hơn, ông Nhạ còn nói rằng có cả giấy khen thưởng của tòa thánh Va-ti-căng. Vậy thì đâu là sự thật trong vụ này?..".
 
5.

Phiên tòa tiếp tục họp sang ngày 29-11 còn thu hút đông đảo người tới dự hơn cả ngày mở đầu. Mọi người đều muốn biết những điều mới lạ đầy rẫy trong vụ án, và đặc biệt là tấn kịch lớn này sẽ kết thúc ra sao?

Những nhân vật chính đã trở thành quen thuộc với người dự. Tất cả bị can vẫn vui vẻ, tươi cười như ngày hôm trước trong y phục tề chỉnh. Những cô gái ăn vận còn có phần chải chuốt hơn. Họ hẳn biết cái gì đang chờ họ? Từ giới luật sư tin đồn đã lan ra: những can phạm chính khó thoát án tử hình?

Thắng rồi Hòe lần lượt ra trước vành móng ngựa. Bọn thẩm vấn đã khôn ngoan hơn ngày đầu, chúng rút kinh nghiệm và cố tránh chọc vào tổ ong bò vẽ. Nhưng chúng vẫn không tránh được. Thắng đã dựa vào đường lối vận động hòa bình của Vatican và sự hiểu biết sâu rộng các tôn giáo, đảng phái ở Nam Việt Nam, đưa tất cả vào cuộc và khẳng định những lần gặp gỡ trao đổi của anh với người phía bên kia vì mục đích hòa hợp, hòa giải dân tộc, không thể bị coi là tội lỗi!

Hòe xác nhận đã gần bó với Nhạ từ lâu trong nhiều hoạt động cho giáo hội, vì Nhạ là một nhà lãnh đạo Công giáo đức độ, sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho giáo hội. Anh đã cung cấp cho Nhạ một số tài liệu về bình định nông thôn, ngân sách quốc gia, kinh tế hậu chiến, vì cho rằng Nhạ là một lãnh tụ Công giáo, trong lúc giáo hội đang chuẩn bị đưa người ra chấp chính, Nhạ cần có sự hiểu biết về mọi mặt tình hình của quốc gia. Anh đã đưa tài liệu bình định nông thôn cho Nhạ vào lúc Nguyễn Khánh cử Trần Thiện Khiêm tới nhà thờ Bình An khẩn cầu Nhạ ra làm tư lệnh địa phương quân, sau đó Nhạ đã kiên quyết khước từ. Theo cách đánh giá của anh thì những tài liệu này đối với Nhạ không có gì quan trọng, vì Nhạ đã từng làm cố vấn cho Ngô Đình Nhu, Nhạ thường xuyên quan hệ với cả Khánh và Khiêm. Anh kể đã có lần Nhạ cho mình xem chứng minh thư của Tổng bộ tự vệ Phát Diệm với chức danh là tình báo viên, do linh mục Hoàng ký. Cho tới lúc này, anh vẫn tin rằng nếu Nhạ là tình báo thì đó là công việc cần cho giáo hội chứ không phải là Mặt trận Giải phóng. Nhạ có quan hệ với người từ mật khu vào, người này anh đã gặp một vài lần, là nhằm mưu cầu sự hòa hợp, hòa giải dân tộc, hướng tổng thống Thiệu đi theo đường lối vận động cho hòa bình của Tòa thánh Vatican, chứ không phải là để làm gián điệp cho Việt Cộng! Anh cũng kể công mình đã hết lòng làm theo ý Nhạ để đưa Thiệu lên chấp chính.

Được sự cổ vũ của nhiều bạn bè có mặt trong giới báo chí, Hòe hưng phấn nói thêm:

- Trong vụ án này, tôi tự coi mình là người của giáo hội Việt Nam, cùng với ông Thiệu chuẩn bị cho một giải pháp thương lượng về Việt Nam, nay nếu phải hy sinh, tôi sẵn sàng nhận hậu quả, tôi không bao giờ phản lại quyền lợi của dân tộc, của đất nước, và không bao giờ phản lại ai hết! Những tuần trước khi bị bắt, CIA luôn luôn bám xe theo tôi và ông Nhạ mỗi lần vào Bình An, cả ông Nhạ và tôi đều biết sinh mệnh mình đang bị đe dọa, nhưng chúng tôi không hề có ý nghĩ né tránh.

Những can phạm tiếp theo được thẩm vấn rất nhanh. Nhưng vì số người quá đông nên kéo dài tới buổi chiều.

Các luật sư biện hộ trở nên lúng túng trước nhiều sự kiện bất ngờ xuất hiện vào giờ chót, và những bị can đều đã phủ nhận mọi lời buộc tội bằng những lập luận chặt chẽ, đặc biệt là những bằng chứng không thể bác bỏ.

Luật sư Trần Bá Thiệp, người được chỉ định biện hộ cho những can phạm không mướn luật sư biện hộ, lên tiếng trước:

- Các bị can Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy đều không chối tội, từ chối biện hộ nên tôi không muốn cãi cho vụ này, nhưng vì bị chỉ định, nên tôi phải làm nhiệm vụ của một luật sư. Các thân chủ của tôi bị kết tội phản nghịch đã không hề chối tội, không thỉnh cầu tha bổng hay khoan hồng, như thế vấn đề luật pháp không còn nêu lên làm gì, chỉ còn lại vấn đề lương tâm của quý tòa. Nhưng cũng xin quý tòa lưu ý những yếu tố chính trị, những chuyển biến của tình hình trong thời gian gần đây...

Luật sư Trần Ngọc Liễng nói:

- Là luật sư đứng ra biện hộ vụ này, tôi như con ếch ngồi đáy giếng mà miệng giếng đã bị tổng thống Thiệu đậy lại mất rồi. Đáng lẽ phải mời tổng thống ra làm nhân chứng, nhưng chắc chắn là tổng thống không ra. Vì vậy, các luật sư như những con ngựa bị người cầm cương che đôi mắt bằng hai cái lá đa, chỉ nhìn thấy phía trước mà thôi! Trước đây Ga-li-lê[1] tuyên bố là quả đất tròn, người đời lúc đó đòi đốt nhà ông, nhưng quả đất tròn thật. Tháng 8 năm 1963, tôi đã phải cãi cho trung tá Phan Trọng Chinh về vụ đảo chính hụt Ngô Đình Diệm năm 1960, ủy viên chính phủ đã xỉ vả như tát nước vào mặt Chinh. Trung tá Chính bị đầy ra Côn Đảo. Nay trung tá Chinh đã lên cấp tướng và được coi như một anh hùng dân tộc! Phải chăng đây là chuyện của một người bán nước chanh đã chỉ cốt vắt chanh bán cho khách lấy lời, còn vỏ chanh vứt xuống đất và không thèm biết số phận nó ra sao...?

Luật sư Lê Thế Hùng nói:

- Tất cả những "điệp vụ" mà người ta gán ghép cho thân chủ tôi[2] thực ra chỉ là những công vụ, mà bất cứ ai là phụ tá cho tổng thống cũng phải làm!... Ông Trọng đã nói: "Phải hy sinh cá nhân khi hợp tác với tổng thống Thiệu". Ông nói là trước khi nhận lời làm phụ tá chính trị cho tổng thống, tổng thống Thiệu và ông đã đồng ý tìm sự hòa hợp dân tộc để đi tới hòa bình. Ông Trọng đã nói trước Tòa rằng ông không coi "hòa bình, liên hiệp là đầu hàng...".

Luật sư Lâm Lễ Trinh nói:

- Đây không phải là một vụ án gián điệp, mà là vụ án chính trị, một vụ án chính trị không những quan trọng mà còn phức tạp... Phụ tá chính trị Huỳnh Văn Trọng đã thi hành nhiệm vụ của ông rất chu toàn và hữu hiệu. Vì hữu hiệu, nên mỉa mai thay, Huỳnh Văn Trọng phải vác chiếu ra tòa!

Lúc 20 giờ. Việc thẩm vần của tòa án và phần biện hộ của luật sư kết thúc. Bị can và người dự phiên tòa nghỉ trong hai tiếng chờ tuyên án.

Đến 22 giờ khuya. Tòa nhóm họp trở lại. Hội trường vẫn đông nghịt. Đội ngũ ký giả, những người quay phim vô tuyến truyền hình sau hai ngày làm việc mệt nhoài, bỗng năng động hẳn lên. Thời điểm quyết định đã tới.

Những can phạm được gọi tên ra đứng xếp hàng trước vành móng ngựa chờ nghe tuyên án. Hàng chục máy quay phim truyền hình và rất nhiều máy ảnh hướng vào họ. Nhiều bị can bỗng quay về phía sau giơ cao tay vui vẻ đùa giỡn trước những ống kính thu hình. Những máy ảnh chớp lia lịa, vì sợ giây lát sau đây khi đã tuyên án, hình ảnh này không còn lặp lại.

Viên lục sự tòa án đọc án từng người

Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thúy, Nguyễn Xuân Hòe đều bị kết án chung thân khổ sai. Tám người khác bị kết án khổ sai từ 5 năm tới 20 năm.

Mỗi bị can sau khi nghe tuyên án đều quay lại tươi cười giơ tay vẫy chào những người tới chứng kiến. Tiếng cười mỗi lúc một to. Cuối cùng, tất cả đều quay lại reo hò. Hai Long nắm tay Trọng giơ cao chào mọi người. Những máy quay phim, thu hình, máy ảnh làm việc liên tục, ánh chớp liên hồi. Tất cả những người lĩnh án đều có nụ cười rộng mở như họ vừa may mắn giành một phần thưởng lớn. Thắng rồi Hòe nói to:

- Chúng tôi được vinh dự ra tòa lãnh án!

- Rất tiếc là không có án tử hình!...

Trọng nói:

- Tôi rất hài lòng. Tôi tưởng có ai bị án tử hình chớ!

- Xin đừng quên là tôi đã từng nhận giấy ban khen của Đức Giáo hoàng về công tác vận động hòa bình! - Hai Long nói.

Quân cảnh đưa họ dần dần ra khỏi phòng xử, lên xe trở về khám.

Hai Long hướng về những người thân nói lớn:

- Vụ tụi tôi chỉ có lịch sử phán xét... Các bạn cứ chờ xem, một trang mới sắp lật qua! Không còn lâu nữa đâu!

Quay về phía những ký giả và phóng viên nước ngoài, anh nói bằng tiếng Pháp:

- Ma mission est possible mais maintenant est impossible.[3]

Rồi nói tiếp với những ký giả trong nước:

- Cho tôi gửi lời về thăm ông Thiệu!

Anh đứng trên xe giơ tay kéo từng người lên.

Hòe vừa lên xe vừa quay lại nói bằng tiếng Pháp:

- Quelques mois seulement, nous reviendrons au Palaisde l Indépendance![4]

Thắng cũng nói:

- Chỉ vài tháng nữa thôi ! Phải về đây thì mới hoạt động được!

Trọng tiếp lời anh:

- Chúng tôi sẽ trở lại Thủ đô về thẳng dinh Độc Lập làm việc trước Tết!

Hòe đập tay vào thùng xe, nói lớn với các con qua cánh cửa sắt:

- Cười đi con! Cười đi con! Ba sẽ trở về!

Rồi anh lại nói tiếp một tràng tiếng Pháp:

- Mission accomp1ie, Ça nous paye, la mission pour notre pays sauveg rde pour l indépendance.[5]

Hòe muốn sửa lại lời nói lạc quan quá mức ban nãy của anh với những ký giả nước ngoài.

Xe chuyển bánh. Hai Long bám vào lưới sắt, nói to:

- Xin chào các bạn. Hẹn gặp lại!

Trong ánh đèn huỳnh quang, anh chợt nhìn thấy bé Liên đứng giữa mấy người bạn gái. Cho tới lúc anh đứng ở cửa xe, bé Liên vẫn còn vui vẻ giỡn bố bằng những câu đùa: "Ba được chụp hình nhiều quá!... Bữa nay ba cười rất trẻ!...". Chắc bé Liên không biết có bố đứng sau mạng lưới sắt dày tối om. Anh nhận thấy đôi mắt của con gan góc, đượm buồn, đang cố dõi nhìn theo. Vợ anh không tới được phiên tòa vì chị lại sắp tới ngày sinh nở.
 
7.

Cơn sốt trên các báo chí vẫn tiếp tục.

Báo Thời Thế ngày 1-12 đưa tít lớn: "Vụ án gián điệp lớn nhất thời đại đã kết thúc".

Báo Hòa Bình cùng ngày đưa tít lớn: "Vụ án Impossible đã kết thúc". Mấy tiếng "vụ án Impossible" được nhiều báo nhắc tới để biểu lộ sự hoài nghi về tính chất của vụ án.

Các báo đăng tường thuật tỉ mỉ về phiên tòa, kèm thêm ảnh những can phạm. Những tấm ảnh đều rất đẹp. Không một can phạm nào lộ vẻ lo lắng, đăm chiêu. Nhiều người có nụ cười rộng mở.

Báo Chính Luận viết: "Vụ án này rất căng thẳng và quan trọng, vì qua hồ sơ, không một đảng phái chính trị nào, một nhân vật chính trị nào mà không liên quan ít nhiều đến vụ án, xấp hồ sơ đó nặng gấp 200 lần so với bản cáo trạng đã đọc...".

Báo Sài Gòn Mới viết: "Báo chí ghi nhận lần đầu tiên trong lịch sử pháp đình đã không có chút không khí buồn thảm nào sau khi Tòa tuyên bố những bản án phạt nặng nề. Lần đầu tiên trong một vụ án quan trọng và trước những bản án nặng nề, người ta không hề ghi nhận một tiếng khóc nào hoặc một sự than vãn nào mà chỉ thấy những gương mặt vui thân và nghe những tiếng cười...".

Đáng chú ý là bài xã luận của báo Chính Luận ngày 2-12. Dưới đầu đề: "Còn gì nữa? Sẽ ra sao?", bài xã luận viết: "Vụ án được gọi là vụ án gián điệp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam đã kết thúc. Thế nhưng sự kết thúc này không giống như sự kết thúc của bất cứ một vụ án nào khác... Căn cứ vào nội dung vụ án đã được công khai xét xử, tính chất của vụ án rất quan trọng. Đây là những hành động phản nghịch có quy mô rộng lớn nhằm tạo điều kiện để đối phương thành công về chiến lược mà mục đích tối hậu là "đặt miền đất nước này dưới quyền đô hộ của họ"... Thật vậy, về tầm mức vụ án, một luật sư biện hộ cho một bị can chủ chốt, khi nhận định về tội trạng của thân chủ đã phải ước lượng: "trong tình thế nghiêm trọng này khó thoát tử hình...". Thế nhưng không có bị can nào bị xử tới mức độ đó và dù rằng nếu đem mà so sánh thì cái giật mình của cựu bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mắc Na-ma-ra[6] đã đưa tới một án tử hình, đã cao giá hơn là vụ phản nghịch hiển nhiên ngày nay đe dọa đến vận mạng của toàn quốc gia Việt Nam... Đối với đại sứ Bân-cơ[7], người đại diện chính thức cho nước Mỹ tại Sài Gòn, sự kết thúc của vụ án càng làm ông hài lòng... Tổng thống Thiệu cũng phải có cảm tưởng nhẹ nhõm về sự kết thúc của vụ án, nhất là một trong số bị cáo chủ chốt đã từng được ông bổ nhiệm giữ chức cố vấn... Sự nhẹ nhõm do sự kết thúc vụ án đem lại thật ra còn rộng rãi hơn. Bởi vì vụ án không phải chỉ liên hệ tới một số cá nhân, mà còn liên hệ tinh thần tới toàn thể tôn giáo, đoàn thể chính trị, tới cơ quan lập pháp và ít nữa là một xu hướng chính trị đang hình thành trong sự băn khoăn lựa chọn dứt khoát. Thế nhưng dù sao đi nữa, dù rằng thành tố được hưởng cảm giác nhẹ nhõm có đông đảo thế nào thì so tới toàn thể nhân dân miền Nam hiện còn đương đổ máu chiến đấu để hy vọng được một tương lai khá hơn, đó cũng chỉ là một phần nhỏ. Cái cảm giác của đại đa số là cái cảm giác bất an chợt nổi bật lên day dứt hơn, cái cảm giác đó không hề liên quan gì tới các yếu tố pháp lý, cũng không dính dáng gì tới các uẩn khúc chính trị. Nó rất mơ hồ nhưng lại rất thực tế: Còn gì nữa và rồi sẽ ra sao?...".

Họ hài lòng vì đã đạt được một kết quả ngoạn mục, đã đánh trả địch một đòn gây chấn thương toàn thân vào lúc đã bị chúng đưa ra xét xử. Hai Long cảm thấy anh vẫn còn những điều kiện để tiếp tục hoạt động.---

[1] Galileo Galilei (1564 - 1642): nhà toán học, thiên văn, vật lý học người Ý, cha đẻ môn động lực học

[2] Tức Huỳnh Văn Trọng

[3] Sứ mạng của tôi có thể hoàn thành nhưng nay thì không thể.

[4] Chỉ vài tháng nữa, chúng tôi sẽ trở lại dinh Độc Lập.

[5] Đây là cái giá mà chúng tôi phải trả cho một sứ mạng đã hoàn tất, bảo vệ nền độc lập của đất nước.

[6] McNamara

[7] Bunker
 
HAI TRIỆU DOLLAR

1.

Tên nhân viên công an nói:

- Thưa ông, Tổng nha mời ông sang bển vì có một vài việc muốn hỏi ông thêm.

Thái độ hòa nhã, lích sự của hắn làm Hai Long cảnh giác.

- Tôi là tù nhân đã ra tòa lãnh án tù chung thân của các ông rồi, tôi khước từ mọi cuộc thẩm vấn tiếp tục.

- Những vấn đề Tổng nha muốn hỏi hoàn toàn không liên quan tới vụ án vừa qua và tội trạng của ông. Chúng tôi chỉ nhờ ông giúp cho một đôi việc mà ông biết.

- Tôi đã là người thuộc trung tâm cải huấn Chí Hòa, do bộ Nội vụ quản lý. Nếu các ông muốn mời tôi sang đó thì phải làm đầy đủ mọi thủ tục "mượn" người, kể cả sự chứng nhận tình trạng sức khỏe của tôi hiện nay.

Tất nhiên, tất nhiên, thưa ông. - Hắn nhanh nhẩu đáp.

Tên công an làm xong các giấy tờ, có ghi rõ tình trạng th.ân thể và sức khỏe của Hai Long bình thường trước khi rời khám Chí Hòa.

Chiếc xe Jeep chở anh tới ngôi nhà số 3 Bến Bạch Đằng. Đây là phủ Đặc ủy trung ương tình báo. Anh bị giam trong xà lim số 6. Chỗ nằm là một chiếc bệ xi măng. Ăn uống hằng ngày rất tồi tệ. Anh ăn theo chế độ 3, chế độ thấp nhất đối với những người bị giam giữ.

Anh nằm suốt tuần không ai hỏi han. Tại sao ra tòa mới được 5 ngày, chúng đã vội đưa anh về đây biệt giam? Chúng cần ở anh điều tên công an đã nói, hay sợ anh ở khám Chí Hòa dễ tiếp xúc với bên ngoài, hay có ý định thủ tiêu anh...?

Người gặp Hai Long đầu tiên là một viên cố vấn Mỹ. Anh không giấu vẻ ngán ngẩm khi ngồi trước mặt y.

- Chúng tôi cần được sự giúp đỡ của ông. Ông biết gì về ông Nguyễn Trọng Hoành, một điệp viên Cộng sản Bắc Việt?

- Tôi không biết ông Hoành là ai. Tôi chưa hề nghe nói tới cái tên đó.

Y nhìn anh bằng cặp mắt xoi mói rồi lại hỏi:

- Chắc ông biết ông Lê Đại?

- Ông hỏi không đúng chỗ, cả ông Đại cũng vậy.

Viên cố vấn đành để anh trở về nhà giam. Cứ cách ít ngày, y lại mời anh lên một lần, hỏi tiếp về một vài người khác. Hai Long lắng nghe xem có người nào của mình sa vào tay chúng, rồi nhất loạt trả lời là không biết.

Y biểu thị thái độ không bằng lòng:

- Rõ ràng là ông không có ý định giúp đỡ chúng tôi!

- Tốt nhất là ông nên chấm dứt những cuộc gặp gỡ này, trả ngay tôi về trung tâm cải huấn Chí Hòa. Tôi khước từ mọi hình thức hỏi cung tiếp tục.

Y không gặp anh nữa. Anh như bị bỏ quên trong xà lim suốt ba, bốn tháng. Chế độ giam cầm tồi tệ hủy hoại sức khỏe của anh. Người anh phù nề. Chân phải gần như bại đi. Nhưng gạo mục, cá ươn và bệnh tật cũng không làm anh đau khổ bằng sự cô đơn, cách biệt với thế giới bên ngoài.

Một hôm, trung sĩ Sen, người Việt gốc Khơ-me, dẫn anh đi tắm. Y ngắm nhìn vẻ mặt hiền lành của anh rồi hỏi:

- Thầy làm ăn chi mà vô đây ngồi miết vậy?

- Làm cố vấn cho tổng thống.

- Thầy nói mần cái chi? - Viên. trung sĩ ngạc nhiên hỏi lại.

- Làm cố vấn cho tổng thống Thiệu.

- Trời! Ông là ông Nhạ. Xử án rồi sao lại vô đây?

- Tôi cũng không hiểu. Có thể là bọn Mỹ tiếp tục bày trò h.ãm hại tôi.

- Ông có cần giúp đỡ chi không?

- Nếu thỉnh thoảng ông cho mượn tờ báo xem biết tin tức cho đỡ buồn thì rất tốt.

- Đem báo vô nhà giam không được. - Viên trung sĩ ngẫm nghĩ rồi nói tiếp - Bữa nào đến lượt gác, tôi sẽ đem ra-đi-ô theo. Tôi ngồi ở cửa xà lim của ông, mở ra-đi-ô nghe. Ông cùng nghe luôn...

Sen giữ đúng lời hứa. Phiên gác nào y cũng mang chiếc máy thu thanh bán dẫn theo. Anh ta mở cả đài BBC của Anh và đài VOA của Mỹ. Có lúc anh ta đặt đài trên ghế rồi ra sân chơi hoặc lên phòng sĩ quan đọc báo.

Hàng ngày, Toàn, viên y sĩ của trại giam, đi thăm bệnh nhân, chỉ dừng lại trước cửa hỏi một câu buông sõng, ném vào mấy viên thuốc rồi đi. Y chẳng buồn ghé mắt nhìn bệnh nhân ra sao, cũng có phần vì trong xà lim quá tối.

Bữa nay, y đứng ngoài bỗng quát rất to:

- Nói gì mà nhí nhí trong họng, bắt người ta phải chui vào nghe anh kể bệnh hay sao?

Hai Long hơi ngạc nhiên. Toàn chưa hỏi gì anh, và anh chưa hề nói một lời về bệnh trạng.

Mặt viên y sĩ hiện lên áp vào cửa sổ. Tiếng y rất nhỏ:

- Ông là Vũ Ngọc Nhạ, vụ án Huỳnh Văn Trọng năm ngoái phải không?

- Đúng.

- Cụ ở đây ư? Cụ khai bệnh nhiều vào, sáng mai tôi mời lên chích thuốc.

Đúng 8 giờ sáng hôm sau, Toàn mang giấy của phòng an ninh xuống xà lim dẫn anh lên phòng y tế.

Toàn vừa khám bệnh cho anh vừa nói:

- Thiệu nó phản cụ, người ta chửi nó ăn cháo đái bát! Thiệu là tên chó đẻ, tên phản bội, không có Kỳ râu thì Nguyễn Chánh Thi xơi tái nó rồi, thế mà không biết ơn còn dùng Trần Văn Hương chặt tay chân ông Kỳ! Ở đây có thiếu úy Phong, cũng người ngoài ta, dễ chịu lắm, nó đang ăn phở ở căng tin. Còn những người khác thì cụ phải coi chừng! Chốn này rất nghiêm ngặt. Phải giữ mồm giữ miệng. Nhiều nhân viên an ninh đã bị họ lôi đi. Hằng ngày, cụ lên đây chích ít mũi nữa là khỏi. Phải chờ thời cụ ạ...

Toàn nhét vào túi Hai Long hai gói nhỏ trước khi đưa anh trở về xà lim. Anh lấy ra xem. Trong một gói có bao thuốc lá Ruby và bốn phong bánh đậu Bảo Hiên - Rồng Vàng, loại bánh đậu gốc gác từ Hải Dương miền Bắc. Trong gói kia là một túi ni lông đựng cà phê sữa còn ấm.

Trung sĩ Sen cho Hai Long biết quê Toàn ở ga Gôi, Nam Định, trước là thượng sĩ ở nha hiến binh, người thuộc phe Nguyễn Cao Kỳ. Qua Toàn, anh biết tình hình sôi động bên ngoài, sinh viên, học sinh đấu tranh, thương phế binh xuống đường, mâu thuẫn giữa Thiệu, Kỳ, Hương rất gay gắt.

Hai Long làm thân được với một trung sĩ vốn là giáo dân Phát Diệm di cư. Y ở phòng an ninh, thường tới dẫn tù nhân đi tắm hoặc cắt tóc. Anh nhờ y bắt liên lạc với cha Nhuận, nhắc cha xúc tiến tổ chức đại hội đoàn nghĩa sĩ công lý, một cách gián tiếp thông báo cho ông biết mình đang bị cầm giữ bí mật ở đây. Cha Nhuận chuyển lời thăm, chúc lành anh, và trả lời là tình hình chưa thuận lợi. Anh biết ông sợ. Viên trung sĩ người Phát Diệm thường lén lút đem cà phê và thuốc lá cho anh.
 
2.

Đã hơn 8 tháng Hai Long bị giam giữ tại xà lim của phủ Đặc ủy trung ương tình báo. Anh vẫn chưa hiểu vì sao chúng đưa mình về đây đầy ải. Chúng không dễ thủ tiêu anh. Anh còn hồ sơ lưu giữ tại khám Chí Hòa. Ít nhất cũng có một người đã biết anh ở đây là cha Nhuận. Theo lời y sĩ Toàn, báo chí tiếp tục đăng những chuyện về vụ án Huỳnh Văn Trọng. Dư luận vẫn cho rằng đây là một vụ án chính trị còn đầy nghi vấn. Mặc dù được Toàn chú ý chăm sóc thuốc men, nhưng chế độ giam cầm nghiệt ngã, suốt ngày đêm sống như con chuột trong bóng tối ẩm lạnh, thức ăn chỉ có gạo mục, cá khô, bệnh phù thũng của anh vẫn không khỏi, một chân còn tê, sức khỏe anh ngày càng kém. Hai Long để râu dài. Trông anh như một cụ già.

Giữa tháng 8, một nhân viên an ninh lại tới nhà giam mời anh lên văn phòng.

Ngồi ở bàn làm việc là một người Mỹ lạ mặt.

Y đứng lên khi anh bước vào, cúi đầu chào với vẻ lịch thiệp.

- Tôi xin tự giới thiệu: Tôi là phó giám đốc cơ quan tình báo trung ương Mỹ mới từ Washington sang Sài Gòn. Nhân ngày lễ Đức Mẹ lên Trời của Thiên chúa giáo, tôi xin được gặp ông để chúc lành, và có một câu chuyện muốn trao đổi với ông.

- Xin cảm ơn.

- Xin hỏi thăm trước tiên về tình hình sức khỏe của ông?

- Ông thấy đó, tôi đang bị phù thũng, một chân tê bại phải bám, lần tường mới đi được.

- Tôi thành thật xin lỗi ông về vụ một nhân viên CIA, làm cố vấn cho Tổng nha Cảnh sát Việt Nam cộng hòa, đã vô lễ và thô bạo trực tiếp nhúng tay vào việc tra tấn ông. Chúng tôi đã khiển trách.

- Dù sao đó là chuyện đã qua... Tôi không hiểu tại sao tôi đã bị kết án là tù chính trị mà lại bị giam giữ ở đây với cách đối xử vô nhân đạo thế này?

- Tôi hứa sẽ can thiệp với chính quyền Việt Nam cộng hòa chấm dứt sự vô lý này. Bữa nay, tôi muốn được trao đổi với ông như một đồng nghiệp mà cá nhân tôi rất kính trọng...

Hai Long lặng thinh chờ xem y nói gì.

Y vẫn vòng vo chưa chịu vào chuyện:

- Tôi rất khâm phục bà Vũ Ngọc Nhạ. Bà đã cam chịu một cuộc sống rất nghèo nàn, mặc dù chồng bà ở tột đỉnh danh vọng, quyền thế bên cạnh tổng thống Thiệu. Ông là một người lãnh đạo chính trị, một con chiên ngoan đạo của Thiên chúa giáo mà bà không cầu xin sự giúp đỡ nào của các linh mục và giáo hội... Tôi hiểu ông có trình độ tri thức, có tài năng cao, chính trị giỏi. Ông đã làm cố vấn cho tổng thống Thiệu, cho giám mục Lê, linh mục Hoàng là những lãnh tụ chống Cộng nổi tiếng. Chúng tôi kính nể đạo đức, uy tín của ông. Tôi cũng biết ông là người có bản lĩnh phi thường, đã lãnh đạo toàn những chuyên gia có hạng. Ông Hòe là chuyên gia kinh tế, tài chính. Ông Thắng là chuyên gia tình báo, đã từng học cùng một lớp với Hoàng Đạo (!). Ông Trọng là chuyên gia hành chính, ngoại giao. Ông Ruật là chuyên gia về chính trị, đảng phải ở Việt Nam cộng hòa.

Y không tiếc lời khen ngợi. Y cón muốn chứng tỏ đã nghiên cứu sâu từng người trong lưới.

Rồi y bắt đầu đi vào mục đích cuộc gặp gỡ:

- Tôi xin đề nghị ông sẽ cộng tác với chúng tôi.

- Tôi có thể làm được gì cho các ông trong lúc này? - Hai Long hỏi lại.

- Ông sẽ dùng uy tín, ảnh hưởng của mình để nắm vững khối Thiên chúa giáo, và hướng dẫn khối này theo đường lối của tổng thống Nixon.

- Từ trong xà lim ư?

- Tất nhiên không thể như vậy. Chúng tôi sẽ đưa ông về Tòa đại sứ Mỹ với danh nghĩa là người dạy tiếng Việt và tiếng Pháp cho những nhân viên Tòa đại sứ, và sẽ tìm cách xóa sớm bản án để ông trở lại tự do.

Hai Long muốn nhân cơ hội này kiểm tra ảnh hưởng hiện nay của mình trong khối Thiên chúa giáo.

- Tôi nghĩ là các ông có thể bị lầm. Từ một năm nay, tôi sống trong xà lim, cách biệt với thế giới bên ngoài, người ta đã tìm mọi cách bôi nhọ tôi, tôi không hiểu các linh mục và đồng bào Thiên chúa giáo nghĩ về tôi như thế nào?

- Ông hoàn toàn yên tâm. Tuyệt đại đa số linh mục và tín đồ Thiên chúa giáo bạn bè của ông mà chúng tôi đã thăm dò, đều biểu lộ cảm tình sâu sắc, mến phục và luyến tiếc ông. Họ quý trọng đức tin Công giáo và trí thông minh của ông. Uy tín ông không mất mát gì trong thời gian qua. Trái lại, ông còn nổi bật lên với tinh thần "tử vì đạo". Nhiều người nghĩ là ông chết rồi. Họ đang oán hận người Mỹ đã ám hại ông. Nếu ông trở về sẽ là một sự hân hoan đối với họ. Và ông thừa hiểu ông sẽ giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trước dư luận...

Rồi y lại tiếp tục ca ngợi anh:

- Ông quả là một tay nhà nghề điêu luyện. Riêng một lưới tình báo của ông đã thu thập những tin tức tình báo chiến lược rất quan trọng thuộc nhiều lĩnh vực. Ông còn hoạt động chi phối cả chính phủ Sài Gòn. Cũng vào dịp này năm ngoái, chúng tôi đã điên đầu vì hàng loạt tin tức đảo chính. Tôi không thể nghĩ đó là chính ông làm. Khó có thể tưởng tượng ra những việc ông dám làm! Nghề nghiệp của chúng ta chỉ xoay quanh mấy danh từ: suy nghĩ và hành động. Chúng tôi có những người suy nghĩ giỏi nhưng hành động vụng về, hoặc ngược lại. Tôi đánh giá ông là một người cả suy nghĩ và hành động đều hoàn hảo... Ông cho biết ý kiến về lời đề nghị của tôi.

Hai Long đáp:

- Sức khỏe của tôi đang ở trong tình trạng tồi tệ. Tôi không thể nhận lời ông vì tôi cần có thời gian yên ổn để suy nghĩ.

- Ông sẽ được phục hồi sức khỏe một cách nhanh chóng nhất để có thể làm việc ngay. Ông cần có sức khỏe, gia đình ông cần thoát khỏi cảnh nghèo nàn túng thiếu và có ông ở bên. Chúng tôi muốn ông nhận lời. Ông sẽ được trả lương bổng cao hàng tháng, theo chế độ lương và phụ cấp của người Mỹ phục vụ tại nước ngoài, không kể tiền thưởng cho mỗi sứ vụ tùy theo tính chất và mức độ thành công của sứ vụ đó.

Thấy Hai Long im lặng, y nói tiếp:

- Chỉ cần ông nhận lời, chúng tôi sẽ mở ngay cho ông một trương mục 2 triệu dollar Mỹ ở bất cứ ngân hàng quốc tế nào mà ông tin cậy, không tính vào lương tháng và tiền thưởng cho mỗi sứ vụ... Ông có thể suy nghĩ và hành động gì khi còn ở trong nhà tù?

Hai Long mỉm cười:

- Ông cho rằng tôi nằm trong xà lim không suy nghĩ và hành động được sao? Dù tình trạng có xấu hơn thế này, tôi vẫn suy nghĩ và hành động được, ít ra là cho tôi. Lao tù thích hợp cho đời sống tâm linh của tôi hiện nay. Tôi muốn có thời giờ suy nghĩ về quá khứ và chờ đợi ngày hòa bình tự do.

- Tôi không phải là đồng chí nhưng là đồng nghiệp của ông. Về tinh thần, tôi thành thực cảm phục tài năng và khí phách của ông. Nhưng tôi muốn nhắc ông một câu trong nghề chúng ta: "Đi sâu mất lối về!". Nghề chúng ta có định luật riêng của nó. Là điệp viên tài, phải chết yếu! Dù chiến tranh Việt Nam có kết thúc, ông cũng không hy vọng trở về sống với gia đình. Ông nên nhớ: 13 điệp viên của Bắc Hàn vẫn còn bị giam giữ ở Nam Hàn mặc dù chiến tranh Cao Ly đã kết thúc từ năm 1953! Ngưỡng mộ ông, tôi mới ngỏ ý mở đường giải thoát cho ông. Thật đáng tiếc một đời tài hoa nếu để uổng phí trong lao tù!

- Cảm ơn. Hoàn cảnh Cao Ly khác với Việt Nam. Ông vẫn chưa hiểu nước Việt Nam và con người Việt Nam. Rồi ra ông sẽ hiểu, tôi ước mong như vậy. Tôi sẽ trở về gia đình khi người Mỹ ra đi khỏi Việt Nam. Ông có nghĩ rằng ngày ấy không còn xa?

- Thời gian sẽ trả lời ông hay tôi nói đúng. Đề nghị của tôi vẫn được để ngỏ.

- Tôi sẽ không thay đổi quyết định của mình.

Viên phó giám đốc CIA mỉm cười gượng gạo:

- Tôi thành thực lấy làm tiếc...
 
3.

Sau cuộc gặp viên phó giám đốc CIA, chế độ ăn uống của Hai Long ở nhà giam bắt đầu khá hơn. Anh không còn phải ăn gạo mục, bữa cơm có rau và một chút thịt cá. Y sĩ Toàn như vừa nhận một chỉ thị mới, công khai chăm sóc chữa chạy cho anh.

Hai tháng sau đó, bọn công an trả anh về khám Chí Hòa. Bệnh phù nề và tê chân của Hai Long đã gần khỏi.

Viên quản đốc, một thầy tu xuất, đối xử với anh có phần trọng nể.

Hai Long nhanh chóng tìm cách liên lạc với tổ chức bí mật của Đảng ở lao Chí Hòa và được xếp vào sinh hoạt trong một tổ Đảng gồm 3 người. Anh cùng tham gia vào cuộc đấu tranh đòi cải thiện chế độ nhà tù.

Một buổi không hiểu vì sao một linh mục Mỹ thuộc phe Bồ câu được phép vào thăm anh.

Ông linh mục đưa tặng Hai Long một tập Kinh thánh bằng tiếng Latin và tiếng Anh.

Ông mời anh cùng ăn kẹo và hút thuốc lá. Ông ngắm chòm râu dài, thái độ trầm tĩnh, ung dung, lạc quan của anh, rồi nói:

- Tôi không có cảm giác gặp một chiến sĩ đấu tranh cho hòa bình ở trong tù, mà thấy như mình đang ngồi trước mặt một nhà thơ Á đông.

Hai Long mỉm cười:

- Cảm giác của cha không lầm, tôi vừa làm xong một bài thơ.

- Ông có thể cho tôi xem qua được không?

Hai Long đọc cho ông linh mục nghe mấy câu thơ anh vừa làm chơi sáng nay:

Sáng ra được mẩu bánh mì,

Chỉ dăm con kiến tha đi cũng vừa.

Ăn thì cổ đắng miệng chua,

Không ăn thì phụ người đưa cho mình!

Nghe anh dịch ý mấy câu thơ, ông linh mục cả cười, rồi ngồi trao đổi với anh sửa thành một bài thơ hoàn chỉnh. Hai Long kể cho ông nghe về chế độ vô nhân đạo ở nhà tù. Ông linh mục nói:

- Tôi rất khổ tâm, rất nhục nhã vì hành động xâm lược của chính quyền Mỹ, vì những tội ác ghê gớm mà người Mỹ đã gieo rắc ở Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam cần phải kết thúc trong thời hạn sớm nhất vì để kéo dài tới bây giờ đã là quá muộn... Tôi hứa là sẽ vận động đòi phải cải thiện chế độ lao tù ở Việt Nam...

Hai Long tìm cách nhắn tin cho cha Hoàng. Viên trung úy Trương Văn Bộ vừa bị bắt trong vụ thương phế binh xuống đường, sốt sắng nhận giúp Hai Long. Anh muốn tìm hiểu thái độ cha Hoàng đối với mình qua hơn một năm xa cách.

Chi vài ngày sau, viên quản đốc xuống nhà giam, mời Hai Long lên phòng riêng của mình gặp cha Hoàng.

Cha Hoàng mở to mắt nhìn Hai Long bước vào với bộ râu dài chấm ngực. Ông ôm lấy anh, giọng nói lạc đi vì thương cảm:

- Mình ngày đêm lo lắng bọn Mỹ hại thầy rồi! Bữa qua được tin thầy, suốt đêm chỉ mong chóng sáng chạy vô đây.

Ông đặt hai tay lên vai anh, chân bước lùi, ngắm nhìn anh thật lâu như để bù lại những ngày xa cách, rồi nói:

- Đúng như lời phán bảo của Chúa, thầy "hiền lành như bồ câu và khôn lanh như rắn"!

- Con nóng lòng được gặp cha từ lâu, nhưng không thể gặp sớm hơn. Con vừa ra khỏi nơi biệt giam một tuần nay. Con đã tuân theo ý Chúa.

- Chúa đã bảo vệ, che chở cho con chiên của Chúa tới mức nào mà thầy sống tới ngày nay!

Viên quản đốc mời cha Hoàng và Hai Long lại bàn dùng trà y vừa pha xong. Y nói:

- Trình cha Tổng khỏi lo. Thầy Hai ở với con cũng như ở gia đình. Con vẫn tự coi mình như bậc học trò của thầy Hai.

Cha Hoàng có vẻ ngạc nhiên và vui mừng trước thái độ kính nể của viên quản đốc đối với Hai Long.

Anh nói:

- Chín tháng qua, bọn Mỹ giam con ở phủ Đặc ủy tình báo. Họ định hại con không xong, cuối cùng, họ quay lại mua chuộc con, đề nghị con ra Tòa đại sứ Mỹ cộng tác với CIA, họ đưa ra món lễ vật đầu tiên là hai triệu đô-la. Con đã khước từ. Họ đành trả con về đây.

- Chúa chưa muốn con làm thì cứ nằm chơi xơi nước, muốn ăn uống gì, muốn đọc sách gì, bảo mình, mình lo cho. Bên ngoài có cần gì, mình sẽ vào đây ngay để trao đổi với thầy.

Ông kể đủ chuyện đạo, chuyện đời, bàn tính với anh chẳng khác chi ngày anh chưa bị bắt. Mấy lần, ông nhắc lại, không biết anh khôn lanh tới mức nào mà vượt được hết những thử thách vừa qua.

Viên quản đóc nhiều lúc ngồi không chớp mắt trước những cử chỉ, lời nói quý trọng, thân thiết của cha Hoàng đối với Hai Long.

Sau đó, hầu như tuần nào cha Hoàng cũng vào khám thăm anh, ngồi ở phòng khách của viên quản đốc, chuyện trò say sưa cả buổi. Lần nào ông cũng mang theo quà. Trong dịp lễ Giáng sinh, ông đem tói một gói quà lớn gồm cả bánh kẹo, thức ăn, thuốc lá và rượu ngon, những thứ ông rất ít khi dùng tới. Tình nghĩa của ông với anh vẫn như xưa. Ông ngạc nhiên vì Hai Long mặc dù ở trong nhà tù vẫn am hiểu tình hình bên ngoài, và ý kiến vẫn sắc sảo.

Tại lao Chí Hòa chỉ còn lại Hai Long cùng với Trọng và Thắng. Những tù nhân bị án dài hạn đều phải đưa ra Côn Đảo. Hòe, Ruật, kể cả Hiếu và Bửu Chương, những người đã ít nhiều giúp đỡ cho họ, đều bị đưa ra đảo. Những người trong gia đình và bạn bè vẫn luôn luôn vào thăm họ. Chị Hòe cho biết chồng chị vừa báo tin về đã bắt được liên lạc với ban chỉ đạo của đảo và chờ anh ra. Cha Hoàng khuyên Hai Long nên ở lại khám Chí Hòa, để gần gụi mình, luôn luôn có dịp trao đổi. Ông sẽ vận động Trần Thiện Khiêm, mới thay vị trí thủ tướng của Trần Văn Hương, và tin là Khiêm sẽ phải đồng ý. Nhưng Hai Long nói với ông cứ để mình ra Côn Đảo, không nhận bất cứ sự ban ơn nào của chế độ Thiệu, và khi cần, anh vẫn có cách để sớm trở về Sài Gòn. Anh khuyên vợ và các con gắng chịu đựng một thời gian nữa vì ngày thắng lợi không còn xa.

Giữa tháng 3, cha Hoàng vào khám Chí Hòa dẫn theo cả O⬙Connor.

Ông linh mục Mỹ vẫn hồn nhiên, vui vẻ như trước đây:

- Tôi rất tiếc là trong thời gian qua đã không làm được gì để giúp đỡ giáo sư. Tôi không còn là đặc phái viên của tổng thống Mỹ nữa, mà đã trở về với sứ mạng của một người tu hành, một linh mục tuyên úy của Hải quân Mỹ. Sau khi Đức Hồng y Spellman qua đời, tiếng nói của tôi trong giáo hội cũng không còn được coi trọng, vì tôi có một số quan điểm mới đối với cuộc chiến tranh này không được những người nào đó ưa thích. Nhưng tôi luôn luôn ở bên giáo sư.

O⬙Connor quay sang nói với viên trung tá quản đốc khám đang ngơ ngác vì sự xuất hiện bất ngờ của ông tại nhà lao.

- Giáo sư Nhạ, cố vấn của tổng thống Thiệu, là một nhà lãnh tụ Thiên chúa giáo mà cá nhân tôi và nhiều người Mỹ rất quý trọng.

Viên quản đốc phục vụ vị khách Mỹ rất chu đáo, nhưng đồng thời cho người gọi điện thoại báo cáo về bộ Nội vụ. O⬙Connor đi thăm Hai Long không có giấy phép của cơ quan an ninh mà chỉ do lính gác nể cha Hoàng nên cho vào.

Trong khi trao đổi với O⬙Connor, Hai Long được biết quân ngụy sẽ phối hợp với quân Mỹ mở một cuộc hành quân lớn đánh phá dường mòn Hồ Chí Minh ở Nam Lào. Ông linh mục tiên đoán kết quả sẽ lại giống như cuộc hành quân Junction City.

Hai vị khách vừa ra về thì nhân viên an ninh tới. Bộ Nội vụ cảnh cáo viên quản đốc. Y nói với Hai Long từ nay trở đi sẽ không được tiếp bất cứ người Mỹ nào trong khám, và đề nghị anh thông cảm với mình.

Hai Long đã hội ý với ban chỉ đạo nhà tù về tin tức quan trọng mà O⬙Connor vừa nói với anh.
 
4.

Ngày 25-6-1971, viên quản đốc cho người xuống nhà giam mời Hai Long lên gặp một linh mục đại diện cho Đức Khâm sứ Tòa thánh Vatican tại Sài Gòn.

Đã gần 2 năm qua, Hai Long không có quan hệ với Tòa Khâm sứ. Những lời khai của Trọng, Hòe và Thắng ở phiên tòa có thể đã gây phiền phức cho Tòa Khâm sứ và Vatican. Đài phát thanh của Vatican từng ngày trong khi tòa xử án đã phải lên tiếng cải chính hoặc nói rõ thêm về công cuộc vận động hòa bình mà những giám mục ở Việt Nam đang tiến hành không có liên quan tới lời khai của những bị cáo... Anh băn khoăn không hiểu có chuyện gì.

Ông linh mục ngồi đợi ở văn phòng với vẻ trân trọng.

Sau khi chúc lành Hai Long, ông nói:

- Tôi vâng mệnh Đức Khâm sứ Tòa thánh Henri Lemaitre tới thông báo cho thầy biết: Nhân dịp kỷ niệm ngày lễ đăng quang của Đức Giáo hoàng Phao-lồ đệ lục 23-6-1971, ở Rô-ma có đại lễ cầu nguyện cho những ân nhân của giáo hội và Giáo hoàng. Thầy Phê-rô Vũ Ngọc Nhạ đã được ghi nhận là "người con hiếu thảo của Chúa, vệ sĩ nhiều công đức của giáo hội, ân nhân của Giáo hoàng Phao-lồ đệ lục" được ban ơn chết lành. Thầy được tặng bằng khen và huy chương của Giáo hoàng tặng thay mặt cho Giáo hội Công giáo La Mã.

Linh mục đưa cho Hai Long xem thông báo của Tòa thánh La Mã, bằng khen và huy chương rồi đề nghị anh ký nhận.

Hai Long nói:

- Con là một con chiên đã phó thác phần hồn và phần xác nơi Chúa, nguyện là người vệ sĩ trung thành của Đức Thánh Cha, sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình vì đạo Chúa, vì giáo hội, nay ở chốn lao tù nằm trong tay kẻ dữ mà vẫn được Đức Thánh Cha rủ lòng thương, lại ban cho những phần thưởng vô cùng cao quý, con hết sức cảm kích và đội ơn. Con nguyện sẽ không sờn lòng trước mọi thử thách dù hiểm nghèo thế nào để phò trợ giáo hội, thực hiện triệt để đường lối và những lời răn dạy của Đức Thánh Cha.

Chờ Hai Long ký xong, ông linh mục thu lại tấm bằng và tấm huy chương có hình Giáo hoàng rồi giải thích:

- Theo ý của Đức Khâm sứ thì hiện nay thầy đang ở trong tay quân hung dữ, kẻ nghịch thù với giáo hội và Giáo hoàng, tính mạng khó an toàn, nay lại mang trong người những bảo vật của giáo hội và Giáo hoàng, thì khác nào kích thích, chọc tức quân hung dữ cho nó càng trở nên hung dữ hơn, càng thù nghịch với giáo hội và Giáo hoàng thêm, mạng sống của thầy sẽ càng mong manh. Tòa Khâm sứ sẽ nhận bảo quản những bảo vật này, chờ khi thầy thoát khỏi tay bọn hung dữ trở về, sẽ tới lãnh đem về nhà.

Rồi ông linh mục lại nói thêm:

- Năm ngoái, trong cuộc hành hương của Giáo hoàng sang Á châu, chính Người đã bị kẻ dữ mưu sát tại Manila. Vì thoát nạn nên Người đặc biệt thương xót và ghi công đức những con cái của Người còn ở trong cảnh ngục tù. Kẻ hung dữ dám mưu tính ám hại Đấng Cha chung thì chúng sẽ không ngần ngại gì đối với mạng sống một con chiên lành của Chúa! Thầy nên nhớ việc trao những phần thưởng cao quý của Giáo hoàng trong ngày vinh quang nhất của Người, mang ý nghĩa thiêng liêng là Đức Thánh Cha đã tưởng nhớ tới những người con của mình trong cảnh tù đày hay bị ám hại... Đức Khâm sứ không dám làm thầy mang họa thêm vì cử chỉ ưu ái của Giáo hoàng đối với thầy.

- Con rất cảm tạ lòng thương và sự quan tâm của Đức Khâm sứ đối với sự bằng an của con, nhưng con vẫn xin Ngài cho giữ lại tấm huy chương trong vài ngày, để được an ủi, vỗ về và chiêm ngưỡng hình ảnh của Giáo hoàng, rồi sẽ gửi lại Tòa Khâm sứ giữ cho con. Con xin hứa sẽ giữ gìn kín đáo không để cho kẻ dữ nhìn thấy.

Ông linh mục đồng ý để lại cho Hai Long tấm huy chương rồi ra về.

Chỉ ít giờ sau, tin Hai Long được Giáo hoàng Paul VI tặng bằng khen và huy chương nhân ngày lễ đăng quang đã lan ra khắp nơi trong khám, rồi lan ra bên ngoài.

Những người bị bắt vì hoạt động chính trị chống đối, vì hoạt động cho lực lượng thứ ba kéo tới chúc mừng anh. Nhiều lời bàn tán, Hai Long, người của Giáo hoàng Paul VI, không chóng thì chầy sẽ trở thành một nhân vật cầm đầu lực lượng thứ ba.


5.

Sự đề phòng của Tòa Khâm sứ không có gì quá đáng.

Sự chỉ hai ngày sau đó. Hai Long, Trọng và Thắng bị gọi cùng một lúc xuống tàu ra Côn Đảo.

Viên quản đốc khám cũng ngơ ngác vì lệnh này. Những tù nhân từ khám Chí Hòa chuyển ra Côn Đảo bao giờ cũng được báo trước một thời gian để gia đình chuẩn bị cho họ những thứ cần dùng trước khi đi xa. Gia đình những người ra đảo chuyến này đều đã được báo tin, và biết cả ngày giờ tàu nhổ neo rời bến. Tên Hai Long, Trọng và Thắng chỉ được bộ Nội vụ ra quyết định bổ sung danh sách vào những giờ phút cuối cùng.

Tàu rời bến buổi chiều.

Lúc xuống tàu, Hai Long và Trọng bị còng chung trong một chiếc khóa số 8 có ghi dòng chữ Anh "Made in USA"[1].

Hai người đứng trên cầu tàu nhìn về bến Bạch Đằng đông nghịt người ra tiễn. Họ cố tìm một bóng người thân quen, nhưng chẳng thấy ai. Cuối cùng, họ cũng làm như những người khác, giơ cao tay vẫy chào đám đông.

Tù nhân bị dồn cả xuống hầm tàu. Hai Long và Trọng tình cờ ngồi bên một cửa sổ.

Tiếng máy chạy ầm ầm át cả tiếng sóng vỗ vào mạn tàu. Những con sóng bạc đầu chuyển động dữ dội, trải ra đến tận chân trời. Con tàu nhỏ chỉ còn như chiếc lá nổi trôi trên đại dương.

Những luồng sáng vàng của mặt trời chiều tan dần trong sóng hay là chìm xuống đáy sâu của biền cả. Trời và biển nhanh chóng hòa làm một trong bóng đêm. Biển không ngủ, vẫn cồn cào trăn trở, làm tung bay tấm áo choàng mượn của trời sao. Bầu trời trong trẻo với muôn ngàn những vì sao xa xăm yên tĩnh. Cái yên tĩnh kia lại chính là cái đang chuyển động, chuyển động rất dữ dội mà đôi mắt con người với cuộc đời ngắn ngủi không bao giờ nhận ra.

Trọng ngồi dán mũi vào cửa sổ. Hai Long bỗng thấy chạnh lòng thương anh. Bỗng dưng anh lại gắn bó với mình. Cuộc đời anh năm qua diễn ra như một giấc chiêm bao. Từ một người thất nghiệp, túng thiếu bỗng chốc trở thành phụ tá của tổng thống, có nhà, có xe hơi, cầm đầu một phái đoàn công du Mỹ quốc kẻ đón người đưa, bây giờ thì ngồi trong hầm tàu giữa đám tù nhân lưu đày với chiếc còng số 8. Anh đã tỏ ra kiên nghị, vững vàng từ khi bị bắt. Nhưng Hai Long đã bắt gặp ở anh những thoáng buồn rầu như lúc này đây. Anh đang nghĩ gì...? Chắc là anh đang nhớ tới người vợ còn trẻ có nhan sắc và mấy đứa con nhỏ ở lại Sài Gòn. Anh đã lớn tuổi rồi nên thời gian không chờ đợi. Anh có tiếc là đã gặp mình không? Chắc anh chưa chuẩn bị cho một tai ương như thế này. Mình sẽ nói với anh là ngày thắng lợi không còn xa. Chính anh còn nhiều hy vọng hơn cả mình để nhìn thấy ngày đó. Anh cùng bị một án tù như mình, nhưng kẻ địch không đánh giá anh là một đối tượng nguy hiểm. Hy vọng đối với mình mong manh hơn nhiều... Nhưng chưa nên nói gì với anh lúc này.

Hai Long nghĩ tới ngày mai khi vợ con anh vào thăm thấy anh đã biến khỏi khám đường. Anh hình dung rõ thái độ của những người thân lúc đó. Anh bỗng cảm thấy buồn. Từ ngày ra đi tới nay, chưa bao giờ anh mang lại cho vợ con những phút vui trọn vẹn. Nhưng anh không lo lắng nhiều. Gia đình anh đã qua nhiều cơn sóng gió. Tất cả sẽ giống như những cây lau sậy yếu ớt oằn đi trước dông tố, chờ gió thổi qua rồi lại gan góc đứng thẳng.

Vì bọn chúng đưa anh đi quá nhanh nên Tòa Khâm sứ không kịp cho người vào khám thu lại tấm huy chương. Anh vẫn mang theo bảo vật của Giáo hoàng. ---

[1] Sản xuất tại Hoa Kỳ
 
CON KỲ NHÔNG

1.

Những ngày đầu tới Côn Đảo, Hai Long và Trọng được đưa về trại số 5 cùng với một số tù nhân. Họ bị giam trong những buồng riêng biệt, chỉ tới bữa ăn mới gặp mặt nhau.

Ba ngày sau, viên trưởng ban an ninh của trung tâm cải huấn tới tìm. Y còn rất trẻ, nói năng lễ độ.

- Tôi là Sáu Long, ông Hòe và ông Ruật ở gần nhà tôi. Hai ổng nói đã thu xếp xong chỗ ở, xin mời ông và ông Trọng cùng sang đó.

Ngồi trên xe về chỗ ở mới, họ được biết Hòe là bạn thân của bố viên quản đốc trung tâm cải huấn Côn Đảo hiện thời là Cao Minh Tiếp.

Cả lưới vui mừng gặp lại nhau. Bốn người ở chung trong một căn nhà lá thoáng mát, chung quanh có hàng rào dây thép gai.

Cao Minh Tiếp thỉnh thoảng lại ghé vào thăm họ. Báo chí đưa nhiều tin tức về vụ án Huỳnh Văn Trọng và nêu tên những huyền thoại chung quanh nhân vật Vũ Ngọc Nhạ nên khi tiếp xúc với anh, y có mặc cảm tự ti.

Tiếp nói:

- Tôi so với ông Trọng chỉ vào hàng con cháu. Với ông cố vấn Vũ Ngọc Nhạ, tôi vào loại đàn em, học trò. Các ông nay bị lưu đày ra đây, nhưng chưa biết chừng ngày mai lại được mời về Sài Gòn, giữ những trọng trách trong chánh phủ. Ông cố vấn thấy tôi giúp đỡ được gì xin cứ biểu.

- Sau ngày xử án, người Mỹ đã chính thức cử người từ Washington sang mời chúng tôi ra làm việc, nhưng chúng tôi đã khước từ và quyết định ra đây. Ông quản đốc giúp cho được ăn ở như thế này là thỏa đáng. Chỉ cần ông lưu ý thêm, đa phần chúng tôi là con chiên, chúng tôi muốn hàng tuần được làm bổn phận đối với Chúa.

- Ở Côn Đảo cũng có khá nhiều giáo dân, nhưng tiếc rằng không có cha làm lễ nên nhà thờ từ lâu tới nay vẫn bỏ không.

- Nếu vậy tôi sẽ can thiệp với Đức Tổng giám mục và Đức Khâm sứ ở Sài Gòn.

Tiếp rụt rè hỏi:

- Theo chỗ tôi được nghe, thì vụ án này do CIA trả đũa ông Thiệu đã bắt Trần Ngọc Châu là người của Mỹ. Vậy sự vật ra sao?

Hai Long không trả lời thẳng vào câu hỏi:

- Tôi là một trong số những người Việt Nam hiểu Mỹ nhất, và dám đương đầu với Mỹ khi quyền lợi của dân tộc bị xâm phạm. Tôi có đầy đủ tin tức Mỹ chơi mình, nhưng không thèm trốn tránh, thử xem nó chơi mình tới mức nào. Tội nghiệp cho ông Thiệu khó xử và từ nay phải đơn thương độc mã trong cuộc chơi với Mỹ.

Tiếp tỏ vẻ mừng rỡ:

- Được gặp ống cố vấn là một dịp rất may đối với tôi. Hiện nay Mỹ đang xây cất nhiều công trình trên đảo, tôi thường xuyên phải làm việc với những nhà thầu Mỹ. Tôi tự thấy lấy mình tầm cỡ quá thấp. Nhờ ông mách bảo cho vài miếng nhà nghề để làm ăn kiếm chác với họ.

- Về kinh tế thì ông Hòe là một chuyên gia đại tài, đã công khai tranh luận trên báo chí với những chuyên gia kinh tế Mỹ có hạng. Ông nên xin khuyến cáo của ông Hòe. Tôi chỉ góp với ông một ý kiến nhỏ. Người Mỹ rất thực dụng. Làm áp phe với Mỹ thì cứ đặt thẳng vấn đề, không úp úp mở mở. Tôi ký, anh làm, nguyên tắc thông thường là chia đôi, sòng phẳng. Mỹ gọi là "Half and half", Pháp gọi là "Moitié - moitié".

Tiếp nghe tỏ vẻ phục Hai Long.

Hòe và Ruật ra đảo trước đã bắt liên lạc với Ban chỉ đạo tổ chức Đảng hoạt động bí mật tại nhà lao. Sau khi Hai Long tới, Ban chỉ đạo gợi ý anh tham gia vào Ban và làm việc với "bộ phận lãnh đạo bên ngoài"; ở đây thiếu người vì có một số đồng chí mãn hạn tù trở về đất liền. Anh nói mình rất mong mỏi và sẵn sàng nhận công tác, nhưng do tính chất nhiệm vụ, trong khi chưa nhận được chỉ thị về phương thức hoạt động ở đảo, xin để mình đứng ngoài họ phận lãnh đạo, và trao cho một việc làm cụ thể. Ban chỉ đạo phân công anh theo dõi tình hình địch và đóng góp với chỉ đạo về những chủ trương đấu tranh của tù nhân trên đảo.

Theo quy định của chính quyền Sài Gòn, những người bị đày ra Côn Đảo đều phải nhận công việc khổ sai. Hòe giỏi về kinh tế, tài chính, nhận làm cố vấn cho trưởng đặc ty ngân khố của đặc khu hành chính Côn Đảo. Ruật làm cố vấn cho trưởng ty giáo dục. Thắng nhận giữ sổ sách kế toán cho viên phó quản đốc trại. Với công việc này, anh có thể biết được số lượng người bị giam trong trại, số người làm việc ở các sở, tình hình lương thực, thực phẩm của khu trung tâm.

Sáu Long tới gặp Hai Long, chuyển lời của Tiếp muốn bố trí anh và Trọng làm công tác hành chính hay giáo dục. Hai Long nói:

- Nhờ anh về thưa lại với đặc khu trưởng rằng chúng tôi không muốn bêu xấu thêm tổng thống.

Tiếp cũng lờ đi và không nhắc tới công việc khổ sai của họ nữa.

Hai Long viết thư cho Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, xin cử một linh mục ra làm cha xứ họ đạo Côn Đảo. Cha Bình chuẩn y ngay lời yêu cầu của anh, cử linh mục Tâm ra đảo. Nhưng ông linh mục này chỉ ở được vài tuần là chán cảnh đảo, trở về Sài Gòn. Hai Long lại viết thư cho cha Bình, đề nghị Tòa Tổng giám mục cần lựa chọn linh mục để đưa ra xứ đạo xa xôi này. Ít lâu sau, cha Phạm Gia Thụy ra đảo. Cha Thụy được linh mục Chân Tín, chủ tịch ủy ban chống chế độ lao tù, cử ra công tác tại Côn Đảo; Tòa Tổng giám mục nhân đó cử ông trông coi luôn họ đạo ở đây.

Cha Thụy và Hai Long nhanh chóng trở nên một đôi bạn ý hiệp tâm đầu. Ông thuộc dòng tu Chúa Cứu thế[1] mới xuất hiện từ thế kỷ 18 cùng với sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc, không bảo thủ như những dòng tu thành lập từ trước, rất nhạy cảm với những vấn đề chính trị. Cá nhân cha Thụy lại rất hiếu động. Ông vào trong các trại giam làm thánh lễ và thăm người tù. Ông tìm gặp những sinh viên bị bắt và tù khổ sai.

Ban chỉ đạo trao nhiệm vụ cho Hai Long vận động cha Thụy tham gia vào cuộc đấu tranh đòi Mỹ - ngụy cải thiện chính sách, chế độ lao tù, đòi cho tù nhân được nhận tiền bạc, thuốc men, quần áo từ đất liền, đòi được ăn uống, chăm sóc thuốc men đúng tiêu chuẩn, chống phát gạo mắm hư mục, chống cai ngục ăn chặn, ăn bớt của tù nhân, đòi được trao đổi thư từ và cho thân nhân ra đảo thăm nuôi tù nhân, mãn án phải được trả tự do ngay v.v... Cha Thụy tham gia rất hăng hái. Nhờ đề nghị tích cực của ông, Ủy ban đấu tranh đòi cải thiện chế độ lao tù quyên góp được một số thuốc men gửi ra đảo. Cha Thụy mang tất cả chia cho trại. Địch đối phó lại bằng cách thu giấy phép của ông, không cho ông đi vào các trại giam như trước.

Hai Lượng dựa vào cha Thụy, thường xuyên liên hệ với Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, cha Nhuận, cha Hoàng, và mở rộng thêm quan hệ với những linh mục ở Sài Gòn, như các cha Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần, Trần Ngọc Thao... Cha Thao có liên hệ với nhóm thượng nghị sĩ McGarven và phe Bồ câu Mỹ. Các cha ở Sài Gòn gửi sách báo Công giáo, chính trị, thần học cho anh, như báo của Tòa thánh Observator Romano, La Croix, Témoignage Chrétien, Missi, ICI[2], nguyệt san Sacerdos của linh mục, giám mục... Qua cha Hoàng, Hai Long gửi thư tới Hồng y Pignedoli, Tổng thư ký ở bộ Truyền giáo Vatican, đề nghị gửi cho mình bản thông tin KIPA của Tòa thánh. Pignedoli không những đã gửi cho anh bản thông tin này, mà còn gửi cà biên bản khóa họp hội đồng giám mục thế giới ở Roma tháng 10-1971.

Do có nhiều thời giờ đọc sách báo, kiến thức về Thiên chúa giáo, giáo lý, thần học của Hai Long được nâng lên khá nhiều. Các cha cố tiếp xúc với anh trực tiếp cũng như qua thư từ đều ngạc nhiên. Với các cha cố, Hai Long thường nhắc tới Thiệu, Kỳ, Khiêm với thái độ khoan dung của một tu sĩ hay một triết gia. Anh nói là vẫn cầu nguyện ơn trên phù hộ cho họ, và nhắn gửi lời khuyên răn "phải rất khôn lanh đối với những người bạn Mỹ của chúng ta". Đây chính là lời Hai Long thường nói với Thiệu trước kia.

Hai Long cùng với Trọng ở tại một căn nhà biệt lập thuộc trú khu an ninh. Sự biệt đãi của viên quản đốc trung tâm cải huấn đối với họ cho phép anh mở rộng giao tiếp với nhiều người trong bộ máy chính quyền ở đảo, giúp anh nắm được kịp thời những biến chuyển tình hình của quân đội, chính quyền, và những âm mưu, ý đồ, kế hoạch của ban quản đốc trung tâm đối với tù nhân. Anh đã báo cáo thường xuyên với ban chỉ đạo ở đảo.
 
2.

Tháng 9-1971, miền Nam lại có bầu cử tổng thống nhiệm kỳ mới. Thời gian qua, với sự ủng hộ của Nixon và đặc biệt của CIA, Thiệu đã tước hết quyền hành, quét sạch vây cánh của Kỳ trong bộ máy chính quyền, nắm chắc lực lượng công an, cảnh sát. Minh Lớn và Kỳ là hai đối thủ chủ yếu của Thiệu trong cuộc tuyển cử. Thiệu đưa ra những đạo luật bầu cử hạn chế tới mức tối đa những người ra tranh cử. Ví dụ như người muốn ứng cử phải đại diện cho một đảng lớn, nếu không, họ phải được từ 40 nghị sĩ, dân biểu giới thiệu và bảo đảm, hoặc là được sự giới thiệu của 100 ủy viên hội đồng tỉnh, trong khi tất cả những tổ chức này đều bị Thiệu kiểm soát và khống chế chặt chẽ. Cuối cùng, Minh và Kỳ đều phải bỏ cuộc. Thiệu ứng cử một mình không có đối thủ.

Trong quá trình vận động bầu cử tổng thống, trước những hành động quá trắng trợn của Thiệu, Kỳ đã nhiều lần rắp tâm đảo chính lật đổ Thiệu. Kỳ tin có những lực lượng trong quân đội ủng hộ mình, và đảo chính sẽ thành công. Nhưng Kỳ ớn CIA đã cài tay chân khắp nơi, sẽ phát hiện âm mưu của mình trước khi hành sự. Kỳ đành bó tay.

Mỹ không thích trò chạy đua một ngựa, sẽ bóc trần bộ mặt dân chủ giả tạo ở Nam Việt Nam. Nhưng Thiệu, với tính tham lam nhỏ nhặt, thiếu tự tin của y, đã làm lơ trước lời khuyên bảo của quan thầy. Y bất chấp mọi dư luận, quyết tâm gạt hết các đối thủ để giành thắng lợi. Kỳ bị tước mọi quyền hành, chỉ còn mỗi chức thiếu tướng không quân trước đây. Y đành phải lui về ngôi nhà trong căn cứ Tân Sơn Nhất, khuây khỏa bằng những canh mạt chược hoặc những trận đá gà, đôi lúc lái máy bay tới giải sầu tại đồn điền ở Khánh Dương.

Hai Long nảy ra ý viết cho Kỳ một lá thư. Nhưng sau đó anh chỉ viết thư cho cha Nguyễn Quang Lãm, người được khối Thiên chúa giáo trao nhiệm vụ làm cố vấn cho Kỳ. Trong thư, Hai Long tả cảnh một đêm thu ở Côn Đảo, trăng nhô đỉnh núi, sóng biển rì rào, một mình ngồi trên mỏm đá đầu ghềnh, động cảnh sinh tình, nhớ thương cha Lãm có hai người con, một con đẻ, một con nuôi[3], nay đều chưa làm nên công trạng gì! Một đứa lưu đày ngoài đảo xa, một đứa chịu quản thúc ở phi trường Tân Sơn Nhất...

"Nhưng Nã Phá Luân[4] ngày xưa đã bị lưu đày ở đảo Elbe chỉ một năm sau lại vượt biển trở về tiếp tục những trang sử huy hoàng của nước Pháp, con dù bị Chúa thử thách vẫn giữ niềm tin có ngày sẽ trở lại, chỉ chạnh lòng mỗi lần nghĩ tới Kỳ.

Thời lai đồ điếu thành công dị.

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa![5]

Cha cho con gửi lời thăm Kỳ râu kẽm, khuyên Kỳ đừng thoái chí, noi gương người xưa tiếp tục mài gươm dưới trăng, và "trăm trận đá, trăm trận thắng"[6].

Con xin gửi tặng Kỳ râu mấy câu thơ:

Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người.

Nhớ dinh Độc Lập, nhớ lời Kỳ râu...

Vừng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa trôi Côn Đảo, nửa vùi sân bay...".

Không hiểu cha Lãm có nói gì thêm, nhưng theo lời ông thuật lại, sau khi xem thư, Kỳ nói: "Tôi chịu Vũ Ngọc Nhạ là bậc thầy!".

Cha Lãm là một người khá sắc sảo về chính trị. Đúng vào dịp bầu cử tổng thống, ông cho đăng tải trên tờ báo Xây Dựng của mình, suốt hơn 40 kỳ liền, một phóng sự điều tra với tựa đề: "Xây Dựng dở chồng hồ sơ bí mật vụ điệp báo chấn động Huỳnh Văn Trọng, phụ tá đặc biệt của tổng thống Thiệu". Tác giả thiên điều tra nói mình đã bỏ ra 5 tháng để thu thập và nghiên cứu tài liệu. Tác giả đưa ra những luận cứ chứng minh Huỳnh Văn Trọng được CIA chú ý từ lâu, đã được bồ trí đúng lúc vào bên Thiệu để "âm thầm tiến hành một công tác được xếp đặt, kế hoạch hóa và thực hiện cùng một lượt với một số công tác khác quan trọng tương đương và chỉ có tòa Bạch ốc và Ngũ giác đài mới biết được". Qua Huỳnh Văn Trọng, tòa Bạch ốc và CIA đã "nắm vững tim gan óc não" của tổng thống Thiệu, lèo lái Thiệu thực hiện "tân chính sách hòa dịu" với khối Cộng sản quốc tế, "bắt tay với Cộng sản ở Việt Nam cũng như ở mọi nơi trên thế giới". Phụ tá Huỳnh Văn Trọng đã giữ một vai trò sáng chói trong số các phụ tá của dinh Độc Lập và tin chắc là mình sẽ trở thành thủ tướng. Ngược lại, Thiệu đã dùng Trọng để theo dõi những mưu tính của Hoa Kỳ "đang có hoặc có thể thay đổi về Việt Nam xa hơn thế nữa, mà cần thiết hơn là về cá nhân tổng thống Thiệu... Cái chết thê thảm của cố tổng thống Ngô Đình Diệm còn đó. Nó quá đắt giá". "Huỳnh Văn Trọng vào tù vì bị tiết lộ là gián điệp đôi hay chỉ là một diễn xuất ngoạn mục mà đoạn kết còn lâu mới tới?"... Tác giả bài báo nhiều lần chĩa mũi nhọn vào Thiệu: "Chắc ông không đến nỗi u tối quá hoặc kiêu căng quá để không nhận biết rằng so với cố tổng thống Diệm ông chỉ là một ánh đèn le lói trước mặt trời!". "Tổng thống Thiệu đã đối phó với các phần tử quốc gia bằng chính những thủ đoạn sâu độc và những biện pháp cứng rắn đáng lẽ chỉ có thể dành cho đối thủ chung của quốc gia là Cộng sản và ngoại bang bóc lột". Thiệu bị đánh giá là thiếu đạo đức, luôn luôn thất tín, kiến thức chính trị nghèo nàn, lý luận rất yếu kém, Thiệu quá nhỏ bé không tạo nên được sự tín nhiệm của dân chúng...

Rõ ràng là "vụ án chính trị" ngày càng gây bất lợi cho Thiệu.

Khá nhiều nhân vật thuộc lực lượng thứ ba bị Thiệu giam giữ tại Côn Đảo, tìm cách bắt liên lạc với Hai Long. Họ có cảm tình với anh qua cuộc đấu tranh tại phiên tòa và những dư luận tiếp tục kéo dài trên báo chí. Tại khám đường, mọi người coi anh như người cầm đầu của lực lượng thứ ba đang phát triển theo đà phát triển của Hội nghị hòa đàm Paris.

Tháng 6-1972, cha Thụy làm lễ tại nhà thờ Côn Đảo công bố huy chương và bằng khen của Giáo hoàng Paul VI khen thưởng Hai Long. Cả họ đạo cầu nguyện cho anh. Cha xứ tổ chức tiệc mừng long trọng tại họ đạo.

Lễ này mang lại một thanh thế lớn cho Hai Long.

Tết Trung thu tới. Đột nhiên có tin Nguyễn Văn Kiểu ra đảo "nghỉ mát". Cha Thụy tìm Hai Long, nói Kiểu muốn tới thăm anh tại nhà thờ Côn Đảo.

Kiểu gặp anh với thái độ cầu cạnh như lần đầu y tới nhà thờ Bình An nhờ anh vận động cho Thiệu ra làm tổng thống.

Kiểu đưa ra một tấm bánh trung thu Đông Hưng Viên rất lớn, nói đó là quà của vợ chồng Thiệu gửi biếu anh.

Y nói:

- Từ ngày vắng ông giáo ở Phủ tổng thống, chú Thiệu như mất một cánh tay. Mỗi lần gặp khó khăn, vợ chồng chú đều nhắc tới ông giáo.

- Ở đây tôi vẫn luôn luôn cầu nguyện cho ông bà Thiệu.

- Việc ông giáo phải ra đây làm chú Thiệu rất khổ tâm, và bỗng nhiên chuốc lấy những lời oán trách nặng nề. Các cha nói chú Thiệu là vong ân bội nghĩa đối với ông giáo, đặt quyền lợi của đảng Đại Việt trên quyền lợi của giáo hội Công giáo. Ông giáo không thể tưởng tượng được CIA đã gây áp lực với tổng thống ra sao trước khi chúng bắt ông. Chúng đưa ra những tài liệu mà chú Thiệu dù biết ông giáo bị oan vẫn không có cách nào bác lại.

- Chuyện qua rồi nhắc lại làm chi! Chỉ cần ông Thiệu hiểu tôi đã hết lòng vì ông là được rồi. Gặp ông ra đây, mang theo quà của ông Thiệu là tôi quên hết mọi chuyện cũ. Xin hỏi thăm tình hình sức khỏe vợ chồng ông Thiệu dạo này ra sao?

- Cảm ơn ông giáo, vợ chồng chú Thiệu đều mạnh. Sở dĩ phải nhắc tới chuyện cũ vì từ đó tới nay mới được gặp ông giáo. Và cũng có một vấn đề liên quan, muốn đề nghị với ông giáo... Chú Thiệu mong ông giáo viết ít lời minh oan cho chú về việc vừa qua với các cha.

Gia đình chú Thiệu vẫn luôn luôn nhắc tới ông giáo và liên hệ với các cha như ngày trước. Các cha hiểu lầm, chú Thiệu khổ tâm lắm!

- Tôi nghĩ rằng sự thật như thế nào, sớm muộn rồi các cha cũng hiểu. Tôi không muốn viết gì trong lúc này.

- Nếu ông giáo ngại viết thì đề nghị ông giáo nói đôi lời vào máy ghi âm, tôi sẽ ghi băng đưa về.

- Nói hay viết cũng như vậy thôi. Có nói và viết gì trong hoàn cảnh mất tự do thì cũng không giải quyết được gì tốt cho ông Thiệu...

Kiểu cố nằn nì, nhưng anh vẫn kiên quyết chối từ. Kiểu đành gượng gạo chia tay anh.
 
3.

Từ tháng 6, nhiều phái đoàn quân sự Mỹ lần lượt kéo nhau tới thăm đảo Côn Đảo. Cuộc hòa đàm tại Paris đang có chiều tiến triển. Mỹ tăng cường củng cố căn cứ LORAN trên đảo. Cặp mắt của Lầu Năm góc, trong những ngày tàn cuộc chiến tranh Việt Nam, bắt đầu hướng ra biển Đông. Liệu Côn Đảo có trở thành một "Đài Loan nhỏ" đối với Việt Nam hay không?

Sang tháng 10, nhiều tàu chiến của Hạm đội 7 Mỹ ghé vào đảo. Ban đêm, đèn sáng rực trên mặt biển như có một thành phố mới xuất hiện. Sĩ quan, binh lính thủy quân lục chiến Mỹ rong chơi từng đàn trên bãi cát dọc bờ biển.

Một buổi sáng, Hai Long ngồi đọc sách trên chiếc ghế đá cạnh phòng chánh cha xứ nhà thờ Côn Đảo. Anh buông sách lơ đãng nhìn ra bờ biển chỉ còn lẻ tẻ những đám sĩ quan Mỹ đi dạo.

Anh đã ra đảo được hơn một năm. Cuộc sống của anh ở đây không đến nỗi quá thiếu thốn và buồn chán. Nhưng nó đã mất di cái hồn. Anh không còn giúp ích được gì trực tiếp cho quân đội, cho cuộc chiến đấu đang đi vào giai đoạn quyết định. Anh nghĩ tới miền Bắc không còn những trái bom rơi. Những đoàn quân nô nức đi giữa ban ngày ra tiền tuyến. Anh nghĩ đến tình hình chính trị nhốn nháo ở Sài Gòn. Và cảm thấy nỗi buồn của những người ngồi khoanh tay trong lao tù chờ ngày được giải phóng. Anh còn dư sức lực, dư tâm huyết để đi tiếp chặng đường cuối cùng của chiến tranh. Nhưng số phận run rủi đã trói buộc anh ở nơi đảo xa này. Anh sẵn sàng đánh đổi một nửa số năm còn lại của cuộc đời, hoặc hơn thế, nếu được trở về tiếp tục hoạt động.

Anh bỗng nhận thấy mảng rêu ở chân tảng đá trước mặt mình cử động. Định thần nhìn kỹ, anh nhận ra một con kỳ nhông. Con vật nhỏ, đầu băng bó như một chiến sĩ bị thương, đang giương cặp mắt đầy cảnh giác quan sát chung quanh. Anh nhớ tới một câu ca mà trẻ em hay hát:

Con kỳ nhông

Là ông con kỳ đà

Con kỳ đà

Là cha con cắc ké

Con cắc ké

Là mẹ con kỳ nhông

Con kỳ nhông...

Con vật nhỏ này khác với đồng loại của nó, phần đông to lớn hơn, không phải là do nó có cuốn băng kỳ dị trên đầu, mà do nó có thể biến màu phù hợp với môi trường. Chính vì vậy mà mặc dù không có khả năng tự vệ trước những con vật khác hung dữ, nó vẫn tồn tại, trong khi những con khủng long khổng lồ to lớn gấp nó hàng vạn lần từ rất lâu chỉ còn là những bộ xương hóa thạch hiếm hoi trong viện bảo tàng. Nó có thể sống giữa rừng rú, chống chọi được với luật rừng. Nó cũng có thể tồn tại giữa sa mạc hoang vu, khô cằn bốn bề cát bỏng. Ở đâu cũng chỉ với một phương thức tự bảo vệ: biến màu phù hợp với môi trường.

Con kỳ nhông nháy một mắt. Nó cũng biết nháy mắt như người!

Anh chợt nảy ra một sự so sánh: trong nhiều năm qua mình đã tồn tại giữa môi trường chiến đấu ác liệt giống như con vật bé nhỏ đáng thương này. Anh cũng là một con kỳ nhông. Anh chưa một lần dùng tới vũ khí tự vệ. Phương thức hoạt động duy nhất của anh, cũng là phương thức để tồn tại là nhanh chóng biến màu. Anh cảm thấy người ta đã bất công khi dùng tên con vật kỳ diệu này gắn cho những kẻ hoạt đầu. Kẻ hoạt đầu bao giờ cũng xấu xa, nguy hiểm trong cuộc sống giữa đồng loại. Chúng nhằm những mục đích thấp hèn. Con kỳ nhông biến màu để tồn tại cho mục đích tồn tại của nó, giữa môi trường hủy diệt...

Một sĩ quan thủy quân lục chiến từ phía bãi biển rảo bước đi lại. Không phải một sĩ quan vì người đó mặc chiếc áo cổ cao của một linh mục tuyên úy. Anh ngỡ ngàng nhận ra chính là O⬙Connor.

Ông linh mục chạy lao lại ôm hôn Hai Long, rồi ghì chặt anh vào lòng. Hồi lâu ông mới buông anh, tiếp tục nắn tay, sờ sườn, vuốt tóc, véo nhẹ má anh như nựng một đứa trẻ.

Viên sĩ quan Mỹ đeo quân hàm thượng tướng đi cùng O⬙Connor lững thững bước tới, ngơ ngác nhìn hai người.

O⬙Connor giới thiệu đó là Lewis Walt, tư lệnh thủy quân lục chiến Mỹ, và giới thiệu với Walt, Hai Long là giáo sư, một người bạn rất thân thiết với mình.

Hàn huyên chừng 15 phút, O⬙Connor xin lỗi anh, ra nói nhỏ điều gì với Walt. Walt hẹn đi một lát, sẽ quay về đón O⬙Connor.

Ông linh mục cho anh biết mình đã có chủ định tới Côn Đảo phải tìm gặp được anh. Ông nói lâu ngày không vào Bình An, vì vắng anh, thiếu người tranh luận về thời cuộc nên cũng buồn. Ông hỏi:

- Thầy ở đây có điều kiện theo dõi sát tình hình không? Chiến tranh Việt Nam đang đi tới kết thúc.

Hai Long vào phòng khách lấy ra một tập báo. Ông linh mục rất ngạc nhiên khi nhìn thấy những số News Week[7] mới nhất và một tờ Star - Stripes[8] vừa ra ngày hôm trước. Những báo này do một người tù chuyên cắt tóc cho binh sĩ Mỹ tại căn cứ LORAN và sân bay Cỏ Ống lấy về hàng ngày cho Hai Long. Anh đưa tiếp cho O⬙Connor xem tờ Observator Romano và tờ KIPA.

- Báo chí không thiếu lắm, tôi còn đọc kỹ hơn hồi ở Sài Gòn. Nhưng tôi vẫn không hiểu tình hình thực sự về khúc ngoặt chiến tranh đang diễn ra.

- Giáo hoàng Paul VI đóng góp rất nhiều vào việc kết thúc chiến tranh Việt Nam, chính phủ Mỹ cũng phải chịu ơn Giáo hoàng. Hội nghi Paris sắp kết thúc, một hiệp định sẽ được ký nay mai. Quân đội Mỹ sẽ rút khỏi Việt Nam, và chắc chắn chúng ta sẽ còn gặp lại nhau. Sẽ có một chính phủ ba thành phần. Thầy cứ yên lòng, vì Mỹ sẽ bảo đảm sự tồn tại của Thiệu. Thiệu đứng đầu một thành phần, được Mỹ tiếp tục giúp đỡ, củng cố thành thành phần mạnh nhất trong chính phủ liên hiệp ở Nam Việt Nam. Mỹ sẽ ra đi trong thế mạnh của Thiệu. Thầy có ý kiến gì về ba thành phần này?

- Tôi không có đủ những yếu tố để nhận xét, nhưng nếu trong ba thành phần đó còn Thiệu, thì đương nhiên là tôi rất hoan nghênh. Nhưng không hiểu Thiệu có tin vào sự bảo đảm của Mỹ hay không? Và Mỹ đâu có những biện pháp nào để bảo đảm cho Thiệu trong chính phủ ba thành phần?

- Thiệu tin tưởng nhiều hay ít vào sự bảo đảm của Mỹ là do giáo hội Công giáo Việt Nam quyết định phần lớn, vì biện pháp hữu hiệu nhất của Mỹ là duy trì và tăng cường sự hậu thuẫn của giáo hội Thiên chúa giáo cũng như những tổ chức chính trị chống Cộng ở Nam Việt Nam đối với Thiệu, trước khi có chính phủ ba thành phần. Mỹ phải xây dựng cho Thiệu một lực lượng quân sự thật mạnh để tự bảo vệ sự tồn tại của mình trước những thế lực khác. Theo văn bản ký kết giữa 4 bên, Bắc Việt Nam cũng như Việt Cộng phải công nhận và cùng bảo đảm sự tồn tại của Thiệu. Điều cần tính toán là Thiệu phải mạnh!

- Hiện nay ở Nam Việt Nam có hai chính phủ, chính phủ Thiệu được Mỹ ủng hộ như vậy mà vẫn bấp bênh, thì tránh sao khỏi bấp bênh hơn trong tương lai, khi chỉ là một trong ba thành phần của một chính phủ liên hiệp không còn sự hỗ trợ trực tiếp của quân Mỹ? - Tôi vừa nói, điều đó còn phải tiếp tục tính toán. Cũng vì vấn đề đó mà tôi muốn nêu với giáo sư một đề nghị... Không nên oán hận Thiệu nữa, việc cũ qua rồi, phải cùng nhau nhìn về phía trước mà tiến bước. Nếu cần, tôi sẽ có tiếng nói hòa giải giữa thầy với Thiệu.

- Tôi thấy mình chưa nên làm gì, và chưa thể làm gì trong lúc này. Mọi việc đã có giáo hội và tôi thuận theo những chỉ dẫn của Giáo hoàng Paul VI.

Hai Long vào phòng cha xứ lấy huy chương ra đưa O⬙Connor xem. Ông linh mục mừng rỡ:

- Có huy chương cao quý này mà ủng hộ Thiệu thì sức mạnh tinh thần nào bằng! Tôi xin đảm nhiệm sứ mệnh hòa giải.

- Đề nghị cha hãy khoan, chờ tôi được bàn với cha Hoàng và giáo hội. Chính vì tấm huy chương này mà chỉ sau hai ngày, tôi đã bị đưa từ khám Chỉ Hòa ra Côn Đảo...

Tướng Walt quay trở lại với hai tút thuốc lá Philips và một gói kẹo trong tay. O⬙Connor đỡ lấy rồi đưa tặng Hai Long. Walt cũng tặng anh một chiếc bật lửa có khắc chữ ký của mình. Hai Long tặng lại Walt một tấm ảnh anh chụp trước phòng tuyên úy Công giáo Côn Đảo, và tặng O⬙Connor một tấm ảnh anh đứng trước hang đá Đức Mẹ nhìn ra biển.

Hai vị khách đề nghị anh cùng chụp ảnh làm kỷ niệm trước khi chia tay.
 
4.

Từ giữa năm 1971, trên báo ICI và Missi của Tòa thánh Vatican bắt đầu xuất hiện những bài nói về hòa bình ở Việt Nam, vai trò của Phật giáo và nhân vật Dương Văn Minh. Không lâu sau đó, Hai Long nhận được thư của Hồng y Pignedoli gợi ý nghiên cứu vận động giáo hội ở Nam Việt Nam gác bỏ ý thức hẹp hòi, kỳ thị tôn giáo, và cộng tác với Dương Văn Minh khi tình thế xoay chiều.

Cuộc chiến đấu của nhân dân ta kéo dài gần 30 năm, cuối cùng đã vượt qua thành trì bảo thủ của Thiên chúa giáo được xây dựng qua bao thế kỷ. Mười bảy năm trước, anh đã xuống tàu cùng với một triệu giáo dân miền Bắc sẵn sàng rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn vì không chấp nhận chung sống với những đồng bào đã chọn con đường của chủ nghĩa Cộng sản để giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Ngày đó, trên bến cảng Hải Phòng, anh gặp những vị linh mục từ Vatican sang. Ngày nay, Vatican đã rời bỏ bàn tay vấy máu của chủ nghĩa đế quốc để trở về với lý tưởng bác ái của Chúa.

Bộ truyền giáo La Mã đã nhìn thấy ở anh một giáo dân không bảo thủ, có thể tiếp thụ được đường lối hòa bình của Giáo hoàng Paul VI. Hai Long lập tức viết thư cho cha Hoàng, thuyết phục ông đi theo con đường trung lập, hòa hợp và hòa giải dân tộc, gửi kèm theo cả thư của Pignedoli. Anh cũng đồng thời gửi thư cho linh mục Chân Tín, cha Lãm, cha Thao. Cha Hoàng đọc tới nhàu nát những lá thư của anh được bé Liên chuyển tới. Ông để dành quà chờ bé Liên vào. Ông nói với con gái anh: "Bố mày ở ngoài đó cứ ăn rồi nằm dài ra mà viết thư, tao đọc quên cả kinh kệ!". Cha Lãm viết thư khen anh là người mở đường cho giáo hội Việt Nam. Đức cha Bình khen anh là vệ sĩ có công lớn với giáo hội. Nhiều cha gọi anh là "thầy tiên tri". Nhưng vui mừng nhất vẫn là cha Hoàng. Ông khoe với cha cố các giáo khu là Phát Diệm được ân sủng đặc biệt của Tòa thánh Vatican và Giáo hoàng Phao-lồ đệ lục thương yêu cách riêng, Phát Diệm thời nay có Vũ Ngọc Nhạ là magnifnique leader, được nhận trực tiếp thánh chỉ từ La Mã.

Hai Long lấy danh nghĩa lực lượng thứ ba công khai hoạt động tuyên truyền cho đường lối hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc của ta, lúc này cũng là đường lối của Giáo hoàng Paul VI.

Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris được 4 bên tham gia ký kết. Ngày hôm sau, lệnh ngưng bắn có hiệu lực. Hai Long, Trọng, Hòe, Thắng, Ruật và Hiếu, cùng với cha Thụy tổ chức một bữa liên hoan đón chào hòa bình.

Mười hai ngày sau khi ký Hiệp định, đồng chí Xuân Thủy tới Roma thăm viếng và cảm ơn Giáo hoàng Paul VI đã góp nhiều công sức vào việc kết thúc chiến tranh, kiến tạo hòa bình ở Việt Nam. Giáo hoàng đón tiếp trọng thể và chụp ảnh chung với đồng chí Xuân Thủy tại đền thánh Pierre. Sự kiện này càng làm cho nhiều cha cố và giáo dân tin rằng Hai Long nhận một sứ mạng đặc biệt của Vatican ở miền Nam Việt Nam. Nhiều phe nhóm và cá nhân mệnh danh là lực lượng thứ ba, như Phật giáo Ấn Quang, nhóm Hòa bình Công lý, nhóm Công giáo và dân tộc, Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Trần Ngọc Liễng, Trương Đình Dzu, bà Ngô Bá Thành, các linh mục Chân Tín, Trương Bá Cần lần lượt tìm cách liên lạc với Hai Long.

Nhân dịp Tết Quý Sửu, Hai Long nhờ người chụp và in bưu ảnh mừng Xuân hòa bình, có hình Giáo hoàng Paul VI cùng với tấm huy chương của anh trên nền một cành mai. Anh ghi địa chỉ ở khám đường Côn Đảo, rồi gửi hàng trăm tấm bưu ảnh cho cha cố và giáo dân ở Sài Gòn. Ở đảo, cha Thụy gợi ý cho các sĩ quan, công chức tới phòng khách cha xứ chúc mừng Hai Long. Cha Thụy giới thiệu anh là lãnh tụ Công giáo thuộc lực lượng thứ ba, hoạt động theo đường lối hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc của Đức Giáo hoàng Phao-lồ đệ lục. Nhiều người tỏ ra kính nề anh. Họ cho rằng với thời thế đang xoay chiều, một ngày không xa, Hai Long sẽ trở về với một chức vụ lớn ở Sài Gòn.

Anh bắt đầu thường xuyên giúp giúp cha Thụy làm lễ ở nhà thờ Côn Đảo để tranh thủ vận động tuyên truyền giải thích về đường lối vận động cho hòa bình ở Việt Nam của Giáo hoàng.

Nhưng một đám mây đen lại xuất hiện. Ban chỉ đạo ở nhà tù cho biết Thiệu có âm mưu không trao trả tù dân sự[9] theo điều khoản đã được ký kết trong Nghị đinh thư ở Paris. Thiệu biết hàng vạn cán bộ này khi trở về sẽ vô cùng nguy hiểm cho y trong cuộc đấu tranh chính trị đang diễn ra gay gắt. Ban chỉ đạo trao cho Hai Long nhiệm vụ điều tra, thu thập những tin tức, tài liệu cụ thể. Anh đã sử dụng cả lưới vào công việc này và tự mình cũng tích cực tham gia.

Trong số tù nhân là sĩ quan ngụy, có một thanh niên tên là Nghĩa. Nghĩa bị kết án chung thân khổ sai vì lỡ tay đánh chết một người bạn. Nghĩa thông minh, tháo vát nên được Tiếp rất tin dùng. Tiếp đưa Nghĩa về nhà riêng, cho làm các việc như: lái xe, chạy áp phe, chụp ảnh và dạy vợ Tiếp học ngoại ngữ. Nghĩa hiểu rành rẽ mọi việc trên đảo. Một lần ngồi nói chuyện với Hai Long, Nghĩa tâm sự chỉ có một cuộc đổi đời của cách mạng mới giải phóng được cho cuộc sống lao tù của mình. Anh động viên, giáo dục Nghĩa, từng bước đặt kế hoạch cho Nghĩa sưu tầm tài liệu, như chụp ảnh các trại giam, cảnh tra tấn phụ nữ, những người bại liệt nằm ở xà lim và các phòng biệt giam trại số 7... Nghĩa hoàn thành rất tốt những việc anh trao.

Thắng, Hòe, Ruật, Hiếu ở những vị trí công việc khổ sai của mình, đã lấy được nguyên bản hoặc sao chép lại nhiều văn thư, tài liệu báo cáo về số lượng, danh sách tù nhân, gồm chính trị phạm, quân phạm, thường phạm, số phụ nữ ở từng trại, từng sở, từng phòng giam, tình hình di chuyển tù chính trị và tù dân sự. Họ nhận thấy thủ đoạn chính của địch là chuyển tù chính trị giấu đi nơi khác, biến họ thành thường phạm, để không phải trao trả. Anh em ta còn lấy cả những con số về tình hình tiếp tế lương thực, thực phẩm nuôi tù nhân để chứng minh thêm.

Tất cả những tài liệu, hình ảnh đã được chuyển tới phái đoàn ta ở Paris và linh mục Chân Tín trong tháng 3 và tháng 4 năm 1973. Nhiều báo chí ở Sài Gòn, Paris, Roma và các thành phố lớn ở nước Mỹ đều đăng những tài liệu này.

Sau khi ký Hiệp định Paris, Thiệu đi thăm Mỹ, Tây Đức, Ý, tới thủ đô nước nào cũng bị tố cáo là ngoan cố, dã man, vô nhân đạo đối với tù chính trị. Khi Thiệu tới yết kiến Giáo hoàng tại Roma, Thiệu ra sức biện bạch những dư luận về mình đối với vấn đề tù chính trị là không có căn cứ. Giáo hoàng Paul VI đưa ra một bản danh sách tù chính trị đang bị giam ở Côn Đảo. Thiệu tím mặt không còn cách chối cãi.

Trở về Sài Gòn, Thiệu tức giận phái liên tiếp bốn đoàn điều tra của Phủ thủ tướng, bộ Nội vụ, công an tình báo, Tổng nha Cải huấn ra Côn Đảo. Các bạn của Hai Long làm mọi việc rất sạch tay, không để lại dấu vết. Bốn đoàn điều tra của Thiệu đều không tìm ra manh mối. Tài liệu mật nằm trong văn phòng ban quản đốc. Chúng đành kết tội những kẻ chịu trách nhiệm. Trung tá Phô, chỉ huy trưởng kiêm quản đốc đặc khu Côn Đảo, Thượng, phó đốc phủ sứ, phó quản đốc đều bị ngưng chức đưa về Sài Gòn. Năm Thân, chánh văn phòng, bị điều tra và thuyên chuyển.

Linh mục Thụy cũng bị điều tra, bao vây và theo dõi.

Tuy không tìm ra chứng cớ, nhưng búa rìu của chúng vẫn nhằm vào nhóm Hai Long. Thắng, người đã lấy được nguyên bản báo cáo mật của ban quản đốc, bị đẩy ra trại Chuồng Bò. Hòe bị đưa đi biệt giam cấm cố. Riêng Hai Long, cả bốn phái đoàn đều thống nhất quy kết là chủ mưu, quyết định chuyển anh về Sài Gòn để đưa qua CIA điều tra khai thác.

Linh mục Thụy lập tức báo tin này cho linh mục Chân Tín cùng với một số cha quen thân với Hai Long ở Sài Gòn sẵn sàng kế hoạch bảo vệ anh.
 
5.

Hai Long và Trọng rời đảo không giống như những người tù mãn hạn trở về đất liền. Họ không kịp nói một lời từ biệt với bao người thân trên đảo. Họ lại bị còng chung một chiếc khóa số 8 đưa ra sân bay.

Anh đã ở tròn hai năm trên đảo. Không một tổ chức tôn giáo nào, một linh mục thân quen nào trước đây rời bỏ anh. Trái lại, tất cả càng gần gũi anh hơn. Hai năm ở đảo đã giúp anh trở thành một linh mục với sự hiểu biết về giáo lý vững vàng, với cách làm lễ thành thạo, cách rao giảng Kinh thánh ngọt ngào, lôi cuốn giáo dân. Tấm huy chương và bằng khen của Giáo hoàng Paul VI đã nâng anh lên một địa vị mới trong giáo hội. Anh đã trở thành người của lực lượng thứ ba...

Anh cảm thấy mình trở về với một tư thế vững vàng. Kẻ địch lại muốn chơi anh một vố khác, nhưng trong tình hình chính trị hiện nay, chúng không dễ gì làm được chuyện đó. Ra tới đảo anh mới biết trong những tháng anh bị giam ở phủ Đặc ủy tình báo số 3 Bến Bạch Đằng, rất nhiều tổ chức Thiên chúa giáo quốc tế, tổ chức Ân xá quốc tế, hội Nhân quyền, hội Hồng thập tự quốc tế... đã gửi điện hỏi Phủ tổng thống, bộ Nội vụ hiện thời anh bị giam giữ ở khám nào, sức khỏe ra sao? Hai nơi này lại sao những bức điện gửi khám Chí Hòa hoặc Tổng nha Cảnh sát. Những bức điện không bao giờ được trả lời này đã góp phần kìm giữ bàn tay tội ác của chúng đối với anh. Khi đó anh còn là kẻ bị bọn chúng đặt ra ngoài vòng pháp luật. Nhưng ngày nay anh đã được những cơ sở pháp lý của Hiệp định Paris bảo vệ. Nếu chúng định đưa anh về Sài Gòn để hại anh, thì một lần nữa chúng lại phạm sai lầm. Anh không lo lắng cho mình và Trọng, mà chỉ thấy thương Thắng và Hòe còn bị chúng đày ải trên đảo. Những người đồng chí của anh không hề mệt mỏi, đã tiếp tục cuộc chơi rất đẹp đúng như lời giao ước giữa họ với nhau. Họ lại vừa lập nên một chiến công mới góp phần bảo vệ sinh mạng bao nhiêu chiến sĩ cho độc lập tự do, trong đó có bản thân mình. Những người đồng chí tận tình, luôn luôn say sưa với nghề nghiệp, trong bất cứ hoàn cành nào cũng không bỏ lỡ thời cơ đánh địch. Ngày nào họ mới sẽ gặp lại nhau...? Anh cảm thấy bùi ngùi.

Lần này, họ trở về Sài Gòn bằng máy bay. Cặp mắt của Trọng lung linh sau làn kính trắng. Có lẽ anh đang vui vì nghĩ tới giờ phút gặp lại vợ con.

Trọng quay sang ghé vào tai Hai Long:

- Hồi mình ra đây, sáng hôm sau bà nhà tôi vô khám Chí Hòa, bả đứng giữa khám chửi chúng một hồi ghê lắm. Chúng đã ăn lờn mép quà của bả, mà khi mình chuyển đi lại không báo trước! Bọn chúng im thin thít... Anh Hai à, tôi có cảm giác đêm sắp về sáng rồi.

Hai Long mỉm cười gật gù chia vui với anh. ---

[1] Rédemptoristes

[2] Information Catholique Internationale

[3] ý nói Kỳ không phải giáo dân Công giáo.

[4] tức Napoléon I (1769-1821), danh tướng, Hoàng đế Pháp 1804-1815

[5] "Bần tiện gặp thời lên cũng dễ, Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay" (Phan Kế Bính dịch). Hai câu trong bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung, một danh tướng thời Hậu Trần.

[6] Hai Long nhắc vui tới thú chơi đá gà của Kỳ

[7] Tuần Tin tức

[8] Sao - Vạch

[9] tù chính trị
 
LINH MỤC GIẢI PHÓNG

1.

Viên phó quản đốc khám Chí Hòa tiếp Hai Long và Trọng một cách niềm nở.

- Được điện từ ngoài đảo báo hai ông sẽ về chuyến này, ban quản đốc khám bân bố trí hai ông ở khu AB là nơi dành riêng cho ngoại kiều, các tướng tá và những nhà chính trị quốc gia. Thiếu tá Đỗ Cao Đẳng, cháu ruột của trung tướng Đỗ Cao Trí xin được đón hai ông về phòng mình. Phòng của thiếu tá Đẳng có tiện nghi đầy đủ nhất khám Chí Hòa... Các ổng bên đó đang chờ đón hai ông.

Thiếu tá Đẳng bị bắt về tội buôn dollar. Đẳng thuộc loại ăn chơi cự phách ở Sài Gòn. Đẳng tới ban quản đốc đón và dẫn hai người về phòng mình.

Mặc dù đã được báo trước, nhưng Hai Long và Trọng vẫn ngạc nhiên khi nhìn những tiện nghi trong căn phòng. Ngoài gi.ường nệm, bàn làm việc, bàn tiếp khách, bàn đọc sách, còn có quạt máy, tủ lạnh, TV, cát-xét và máy chiếu phim cỡ nhỏ. Đẳng đã tự mua sắm tất cả những thứ này. Một vài thứ, luật nhà lao cấm dùng. Nhưng khu AB là đất cấm. Khi nào có các phái đoàn tới thăm thì bọn tay chân của Đẳng cất giấu những thứ đó sang một chỗ khác, lát sau lại đưa về. Đẳng thường tiếp các cô tình nhân ở đây. Cứ đến tối thứ bảy, hai cô vợ của Đẳng lại luân phiên nhau đem ô tô tới rước Đẳng về nhà, gần sáng mới đem trả lại khám.

Hai người vừa uống cạn ly bia lạnh thì khách tấp nập kéo tới. Đó là những tướng tá, bộ trưởng, dân biểu bị án tù. Có chuẩn tướng Vũ Văn Giai, bị kết tội phản chiến, đào ngũ tại mặt trận Quảng Trị hồi 1972, trung tá Marcel Nguyễn Văn Minh, con trai cựu thủ tướng Nguyễn Văn Thinh, can tội hành hung cố vấn Mỹ, Nguyễn Anh Tuấn, nguyên bộ trưởng Tài chính, luật sư Nguyễn Long, nhóm Tín Nghĩa ngân hàng Nguyễn Tấn Đời, đại tá hải quân Thăng, trung tá Vọng, nguyên tỉnh trưởng tỉnh Bình Định...

Người tù ở khu AB gọi nhau theo chức vụ cũ, đối xử với nhau theo tôn ti đàng hoàng. Hai Long được gọi là "ông Cố vấn", Trọng là "ông Phụ tá" hoặc "ông Bộ", vì chức vụ phụ tá tổng thống của Trọng ngang hàng với chức bộ trưởng.

Đẳng và Marcel Minh bàn nhau tổ chức ngay một cuộc liên hoan mừng hai người trở về, có sự tham gia của chánh, phó quản đốc khám Chí Hòa, chuẩn tướng Giai, đại tá Thăng, trung tá Minh, nhà tư bản kếch sù Nguyễn Tấn Đời và dân biểu X.

Marcel Minh nói:

- Mọi người đều cho rằng ông Cố vấn và ông Phụ tá được chuyển về Sài Gòn là một biến cố rất quan trọng có liên quan tới chính phủ ba thành phần nay mai. Chúng tôi nhận thấy ông Cố vấn đang ở vào một thế mạnh hiếm có hiện nay, mong nhờ cậy ông sẽ cứu giúp chúng tôi trong tư thế mới của mình.

Tướng Giai trong đà hưng phấn đứng dậy:

- Nhân danh chuẩn tướng sư trưởng sư đoàn 3, tôi trao nhiệm vụ cho thiếu tá Đẳng làm sĩ quan giao tế, trung tá Minh làm sĩ quan cận vệ cho ông Cố vấn đặc biệt của tổng thống.

Đẳng và Marcel Minh cùng đứng phắt dậy:

- Tuân lệnh!

Một tràng vỗ tay vui vẻ.

Tướng Giai hỏi:

- Xin ông cố vấn cho biết: nếu được trao trả tự do thì ông cố vấn sẽ về đâu?

- Lộc Ninh, Paris hoặc Roma chứ không phải Sài Gòn.

Mọi người đều có vẻ ngơ ngác

Đại tá Thăng nói:

- Ông cố vấn dù có ở đâu thì chúng tôi cũng thiết tha đề nghị nhớ tới những em út ở đây, tìm cách móc chúng tôi ra để cùng góp công sức hoạt động cho lực lượng thứ ba...

Hai Long và Trọng tranh thủ báo tin cho gia đình tới thăm, để công khai hóa việc họ đã trở về Sài Gòn, đồng thời báo tin cho cha Hoàng và các cha Chân Tín, Nhuận, Lãm... ngăn chặn âm mưu địch đưa họ sang CIA, hoặc chuyển qua một trại giam khác. Hai Long cũng bàn với Đẳng và Minh kế hoạch thông báo kịp thời cho các cha trước khi địch kịp làm thủ tục chuyển họ tới bất cứ một nơi nào. Hai người sẽ đấu tranh kiên quyết đòi được ở lại khám Chí Hòa trước khi trao trả.

Ngày 6-5, vợ con Hai Long và vợ con Trọng vào thăm chồng.

Chị Hai vui vẻ kể chuyện:

- Từ hôm anh về, bọn công an bố trí gác mật các ngả đường. Em và con Liên ra chợ, tới trường, đi bất cứ đâu cũng có người bám theo. Bé Liên thấy chúng theo quá quen mặt, nói với chúng: "Các chú ngồi Hon-đa cả ngày làm chi cho mệt xác!". Chúng cười, tăng tốc vọt lên, rồi chờ ở ngã tư, hai mẹ con đi qua lại tiếp tục bám theo. Bé Liên nói đùa: "Tôi có bồ rồi, mấy anh theo tôi hoài, bồ của tôi biết thì buồn tôi lắm đó!". Vừa rồi, chúng theo em và con tới khám dường, nói nhỏ với người ở trong này chắc là để bảo theo dõi tiếp.

Marcel Minh nói:

- Tôi sẽ chỉ mấy thằng chó đẻ đó cho ông cố vấn biết hết mặt.

Lời của tướng Giai bữa trước tưởng như nói vui, không ngờ thành sự thật. Marcel Minh luôn luôn bám theo Hai Long với ý thức và trách nhiệm của một sĩ quan cận vệ. Anh có cảm giác nếu kẻ nào đe dọa an ninh của mình thì viên trung tá sẽ xả thân bảo vệ. Với thân hình cao to như Minh Lớn, có mặt ở nhà tù vị tội hành hung có vấn Mỹ, Marcel Minh ở bên Hai Long đã làm cho bọn mật vụ phải nể sợ. Thiếu tá Đẳng đã làm nhiệm vụ sĩ quan giao tế một cách cực kỳ chu đáo. Người tới thăm Hai Long rất đông. Đẳng phải bố trí lịch cho anh tiếp khách. Lần lượt cha Hoàng, cha Nhuận, cha Lãm, cha Phan Thu, cha Trần Ngọc Thảo, cha Trần Ngọc Thụ, bí thư của Tòa Khâm sứ hàng ngày tới khám đường gặp Hai Long. Có lúc xe hơi của những người tới thăm anh để thành hàng bốn, năm chiếc trước cổng khám. Những cán bộ cao cấp ở nhà tù, khi có bạn đồng liêu, đồng cấp tới thăm, cũng mời Hai Long tới nói chuyện như một lãnh tụ Thiên chúa giáo hoặc một người cầm đầu lực lượng thứ ba.

Những người sốt sắng đón tiếp anh từ khi mới đặt chân trở về khám đường, không khỏi tự hào mình đã không lầm.

Hai Long thường nói với mọi người:

- Tôi không hề mưu tính danh lợi mà đã từ bỏ chức vị cao sang, quên thân xác mình để phục vụ cho giáo hội, chịu tù đày tra tấn vì giáo hội, là kẻ đi bước trước theo ý Chúa và tuân theo lời phán dạy của Giáo hoàng Pôn VI, ai ủng hộ tôi tức là cùng tôi thực hiện đường lối của tòa thánh Va-ti-căng.

Nguyễn Tấn Đời, Nguyễn Anh Tuấn gọi khu AB là trụ sở của lực lượng thứ ba. Tướng Giai, đại tá Thăng gọi khu AB là Chiến khu bất khả xâm phạm của lực lượng thứ ba.

Đầu tháng 7-1973, Tổng giám mục Hussler, phụ trách CARITAS[1] ở Tây Đức vào thăm Hai Long. Sau khi chuyện trò, ông cho biết mình sắp tới gặp Thiệu, sẽ can thiệp với Thiệu để Hai Long ở lại Sài Gòn. Anh từ chối, nói nếu như vậy không thuận lợi cho việc thực hiện đường lối của Giáo hoàng Paul VI, hẹn sẽ gặp lại Tổng giám mục ở Paris hoặc Born.

Hai Long lại viết thư cho Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, nhắc nhở ông mạch dạn ủng hộ lực lượng thứ ba, và tích cực hành động cho đường lối hòa giải, hòa hợp dân tộc bằng cách đưa giáo hội tách khỏi vòng lệ thuộc vào đường lối chính trị của Mỹ - Thiệu. Anh kịch liệt phê phán Thiệu là một tín đồ không nghe lời giáo hội thực hiện đường lối hòa hợp dân tộc, cứ tiếp tục chống đối lực lượng thứ ba, cứ hẹp hòi, thiển cận, tự cô lập mình, gây ảnh hưởng không tốt đẹp cho giáo hội vào giai đoạn sau Hiệp định Paris...

Cha Hoàng đọc lá thư này trước khi anh gửi đi, tỏ vẻ rất tâm đắc. Ông nói:

- Giáo hội sắp tới lúc buộc phải gạt bỏ con bài Nguyễn Văn Thiệu đã lỗi thời, nếu không muốn chìm tàu cùng với Thiệu!

Ông tiếp tục khuyên Hai Long nên ở lại Sài Gòn, và nói đó cũng là ý muốn của Tòa Khâm sứ và Tòa Tổng giám mục. Ông tin rằng sẽ giải quyết dễ dàng với Thiệu và Khiêm chuyện này. Hai Long viết thư cho cha Nguyễn Văn Bình và Hồng y Pignedoli trình bày những lý lẽ là nếu mình ở Roma, Paris hay Lộc Ninh thì sẽ hoạt động có hiệu quả hơn cho lực lượng thứ ba. Cha Hoàng đều đọc những thư này. Và cuối cùng, ông cũng đồng ý

với anh.

Suốt 2 tháng ở khám Chí Hòa, Hai Long thấy địch chưa có hành động gì đặc biệt đối với mình ngoài việc cho mật vụ bám riết anh và những người trong gia đình. Dường như thực tế tình hình không cho phép chúng có những hành động thô bạo đối với anh. Nhưng chúng không thể để kéo dài tình trạng này. Khám đường Chí Hòa đã trở thành một ổ chống đối nguy hiểm đối với chính quyền Thiệu. Vậy chúng có thể đưa anh đi đâu? Những người tình báo chiến lược như anh không dễ gì được chúng trao trả. Nhưng chúng cũng có thể phải trao trả anh cùng với những người đầu tiên, vì chúng cần đẩy anh xa Sài Gòn. Anh đang khao khát ngày đó. Ngày được thở hít bầu không khí tự do sau 4 năm bị giam cầm, sau 19 năm nằm sâu trong lòng địch. Anh muốn được nhìn thấy dải đất yên lành, bầu trời xanh trong của vùng giải phóng trong những ngày hòa bình dầu tiên. Và cần hơn cả, anh muốn gặp lại tổ chức. Việc đó ở đây lúc này, hầu như không thể làm được. Bọn mật vụ theo dõi anh và gia đình quá sít sao. Anh không muốn lặp lại những sai lầm trong quá khứ. Tú Uyên không hề xuất hiện lại sau buổi gặp anh trước ngày xử án. Anh đã chú ý thử tìm chị trong suốt phiên tòa. Anh cũng có ý chờ chị trong những ngày về đây. Có thể chị cảm thấy nguy hiểm. Sự im lặng của chị làm tăng lên trong anh ý nghĩ có thể chị đã trở thành một cơ sở của ta?... Anh rất cần nhận những chỉ thị mới của tổ chức. Anh tin rằng mình đã chuẩn bị khá chu đáo cho một chặng đường chiến đấu mới.

Mặc dù anh đã chuẩn bị tư tưởng cho ngày đó, nhưng nó vẫn tới rất bất ngờ.

Một buổi sáng hạ tuần tháng 7, mấy tên cảnh sát từ bộ Nội vụ tới, đưa giấy tờ nói anh nằm trong danh sách tù chính trị được trao trả về Lộc Ninh đợt này. Chúng hối thúc anh hoàn tất nhanh chóng mọi thủ tục ở khám đường rồi ra xe. Cũng như khi rời Côn Đảo, anh không có cả thời giờ để bắt tay từ biệt mọi người.


2.

Chiều 23-7, máy bay hạ cánh xuống Lộc Ninh. Xe ô tô Ban đón tiếp của Miền đưa những người được trao trả về trụ sở ở Lộc Tấn.

Sau bữa cơm chiều, buổi tối, các đồng chí trong ban tổ chức Trung ương Cục, đại diện chính quyền và Mặt trận Miền gặp mặt những người mới trở về.

Người anh lâng lâng. Hai chục năm rồi anh mới lại được ngồi trong một cuộc họp giữa những người đồng chí đông đúc. Một cuộc họp trong gian phòng chan hòa ánh điện, không sợ tiếng máy bay, không lo bị tập kích bất ngờ. Nếu trong những năm qua anh chỉ mơ ước được sống một ngày hoàn toàn tự do thì ngày đó đã tới.

Sau lời chào mừng những người đi chiến đấu mới trở về của đại diện chính quyền và Mặt trận, một đồng chí trong Ban Liên hiệp bốn bên hỏi:

- Trong danh sách trao trả của Sài Gòn hôm nay, có một vị linh mục Giải phóng, xin cho biết là vị nào?

Mọi người nhìn nhau. Hai Long hơi ngỡ ngàng giây lát. Chúng đã không dám gọi anh bằng cái tội chúng đã quy kết cho anh tại phiên tòa! Anh đứng dậy, đáp:

- Thưa, tôi ạ.

Những cặp mắt đều dồn về phía anh. Có những người hơi mỉm cười. Nhưng không một ai cười thành tiếng. Những người mà Sài Gòn trao trả không phải đều là cán bộ của ta, mà có cả những vị linh mục, những nhà sư thật sự, bị coi là lực lượng thứ ba.

Đồng chí trong Ban liên hiệp nói tiếp:

- Lát nữa mời "vị" về nghỉ với chúng tôi trong khu nhà xứ.

Phòng làm việc của Ban liên hiệp được bố trí ngay tại khu nhà xứ nhà thờ Lộc Tấn. Về tới nơi, qua thái độ của Hai Long, đồng chí trong Ban liên hiệp chuyển cách xưng hô:

- Chúng tôi đã thông báo với nhà thờ bữa nay có anh trở về... Cha xứ ở đây mới đi Sài Gòn. Các dì phước đã nhận lời đón anh về nghỉ bên đó.

Hai Long nói:

- Mỗi nhà thờ đều có một cha sở quản lý, nay cha sở đi vắng thì phải chờ ông về.

- Nếu vậy thì anh nghỉ tại căn phòng cạnh nơi làm việc của chúng tôi.

Hai Long đang ngồi uống nước thì mấy dì phước tới. Một dì nói:

- Trình ông đại diện, chúng tôi tới đón cha về. Nhà thờ đã chuẩn bị sẵn sàng để đón cha.

Đồng chí đại diện Ban liên hiệp hướng về Hai Long:

- Cha về đây rồi.

Mấy dì phước cung kính chắp tay:

- Lạy cha ạ! Mời cha về với chúng con.

Hai Long nói:

- Tôi được biết cha sở hiện thời đi vắng.

Một dì phước đứng tuổi nói:

- Con được cha sở trao cho quản lý nhà thờ. Mời cha sang ở phòng cha xứ cho chúng con được chăm sóc, vì chúng con biết cha mới từ Côn Đảo trở về, cha bị tù đầy ngoài đó đã lâu ngày. Nếu không đón được cha, khi cha xứ về, chúng con sẽ bị quở trách.

Hai Long nói:

- Các con cứ yên tâm, sức khỏe của cha không đến nỗi nào. Chờ khi cha sở về, cha sẽ sang cũng chưa muộn. Cha không muốn các con vì cha mà vi phạm luật lệ của nhà thờ, vì phải cha sở mới có quyền quyết định.

Các dì phước đành phải ra về.

Anh đã đứng trên miền đất tự do của Tổ quốc. Những đe dọa đối với an toàn của anh đã lùi xa. Lúc này không còn phải lo những tên mật vụ của Thiệu, của CIA. Nhưng anh vẫn chưa hoàn toàn tự do. Không hiểu sao chế độ Sài Gòn khi trao trả đã khoác cho anh bộ áo linh mục? Và có lẽ anh cứ phải tạm giữ chiếc áo này cho tới khi gặp lại tổ chức. Anh chợt hiểu rằng chừng nào cuộc đấu tranh này chưa kết thúc thì anh chưa thể trở về với cuộc sống của một người dân bình thường.

Sáng hôm sau, cánh cửa phòng ngủ của Hai Long ở nhà xứ chợt mở. Một người lao vào ôm chầm lấy anh. Đồng chí Ba Vân!

Họ buông nhau ra, rồi lại tiếp tục nhìn ngắm nhau hồi lâu. Cả hai đều cả cảm thấy có cái gì cay cay nơi khóe mắt. Đã gần 6 năm qua. Một khoảng thời gian dài khủng khiếp. Vừng trán rộng của anh Ba cao gấp rưỡi. Anh đã hói nhiều. Chỉ còn riêng nụ cười là vẫn trẻ.

- Mình vẫn tín sẽ gặp lại cậu - Ba Vân nói - nhưng không nghĩ là ngày hôm nay... Hồi đó mình không hiểu tại sao các cậu lại đề nghị cho tiếp tục ở lại? Tin cậu bị bắt tới giữa lúc mình nằm điều trị ở Viện, hôm sau mình chảy máu dạ dày.

- Chúng tôi không muốn bỏ dở công tác nửa chừng, và tin rằng sẽ được giáo hội và giáo dân bảo vệ. Không ngờ mấy tên CIA ở Sài Gòn làm quá! Khi chúng muốn sửa thì mọi chuyện đã lỡ rồi.

- Liệu anh em ta có được chúng trao trả hết không?

- Tôi nghĩ là không. Chúng định đưa tôi và anh Trọng về Sài Gòn để trao cho CIA. Nhưng hằng ngày các cha và những nhân vật thuộc lực lượng thứ ba kéo tới thăm quá đông, chúng đành đẩy vội tôi về đây.

- Từ ngày về Sài Gòn đã gặp lại chị và các cháu chưa?

- Nhà tôi và các cháu đã vô khám thăm ngay sau khi tôi về.

- Cuộc sống của chị và các cháu ra sao?

- Nhờ bà con đùm bọc cũng không đến nỗi nào.

- Tôi nghĩ đã tới lúc báo tin với gia đình cậu ở ngoài Bắc... Việc này để bọn mình lo.

Họ tiếp tục chuyện trò với nhau suốt một ngày. Ba Vân rất mừng rỡ khi thấy anh vẫn còn đầy đủ những điều kiện để tiếp tục công tác. Anh phải làm ngay một báo cáo gửi gấp về Trung tâm. Trong khi chờ đợi quyết định về công tác mới, anh hãy tiếp tục vai trò "linh mục Giải phóng" để tuyên truyền, giải thích chính sách tín ngưỡng của Mặt trận và đường lối đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải dân tộc của Vatican với giáo dân quanh vùng Lộc Tấn.

Hai Long tìm hiểu biết cha xứ ở Lộc Tấn là một linh mục người Pháp, tên là Witt, giáo dân trong vùng thường gọi là cha Uých. Ông đang xin phép chính quyền và Mặt trận cho trở về Pháp vì đã ở Việt Nam đã lâu ngày. Mấy bữa nay ông đi Sài Gòn để làm các thủ tục.

Tối thứ bảy, cha Uých từ Sài Gòn trở về Lộc Tấn. Ngay sáng hôm sau, ông cho dì phước tới mời Hai Long sang nhà thờ. Ông linh mục tiếp Hai Long ở phòng áo, tỏ vẻ mừng rỡ. Sau đôi lời hàn huyên, ông nói:

- Sắp tới giờ làm lễ, cha là cha khách, xin mời cha mặc áo ra làm lễ sáng nay cho giáo dân gặp mặt. Các dì phước nói ai cũng muốn được biết mặt và nghe cha Giải phóng giảng đạo Chúa.

Cha Uých có nhã ý muốn cho Hai Long được hưởng món tiền "xin lễ" của bển đạo để chi dùng sau khi ở nhà tù ra.

Hai Long nhận lời. Nhưng tới khi mặc áo thì thấy áo quá dài và quá rộng. Anh đành trao lại áo cho cha Uých và nhận làm phụ lễ, đọc kinh giảng trước bàn thờ.

Trước giờ làm lễ, cha Uých nói nhỏ với anh:

- Tôi phải rất khôn lanh, tỏ ra giác ngộ cách mạng, phục tùng pháp luật của chính quyền Giải phóng. Mình cứ lịch sự, lễ phép và tỏ ra biết điều với cán bộ giải phóng là được mọi sự dễ dàng thôi. Cộng sản nhất định thắng, Thiệu và Mỹ không thể trở lại vùng này. Tôi đã xin họ cho quay lại Sài Gòn để chuẩn bị trở về Pháp. Cha nên thuận chiều với họ mà ở lại làm lễ cho mấy nhà thờ quanh vùng này. Tín đồ ở đây khá đông và không nghèo lắm, cha sẽ đủ sống qua ngày mà làm nhiệm vụ linh mục.

Sau buổi lễ, cha Uých mời Hai Long cùng dùng bữa trưa. Mấy dì phước làm cơm rất ngon để mừng hai cha. Ông Uých chuyện trò cởi mở. Ông khen cán bộ giải phóng tới tiếp xúc với mình đều là những người trí thức, lịch thiệp, nói tiếng Pháp thạo. Chính quyền mới tỏ ra khoan dung, biết tôn trọng tín ngưỡng. Những cán bộ nói với ông nếu cần gì thì cử thành thật trình bày. Họ thường giúp đỡ phương tiện xe cộ, xăng dầu cho ông đi làm lễ những khi trời mưa gió. Ông khuyên anh nên ở lại đây, còn mình nhất định phải về Pháp để sống với một bà chị góa chồng từ lâu đã mong đợi ông. Ông cho Hai Long địa chỉ, dặn khi có đi qua Pháp thế nào cũng tới thăm mình.

Cha Uých trở về ngay Sài Gòn. Hai Long bắt đầu chính thức thay ông làm lễ, làm các phép thánh cho tín đồ. Anh tiếp xúc với giáo dân và các dì phước quanh vùng Lộc Tấn, giáo dục, động viên họ yên tâm làm ăn sinh sống trong vùng giải phóng.

Nhưng chỉ một tuần sau, Hai Long đã được đón về trại 7 dành riêng cho những người thuộc lực lượng thứ ba. Bản báo cáo của anh đã được chuyển tới Miền. Trong trại có dãy nhà của sinh viên, trí thức, có cả Niệm Phật đường dành cho các nhà sư. Mỗi sáng chủ nhật, lại có xe tới đón Hai Long đi làm lễ tại nhà thờ.

Tháng 7, Thắng được trao trả về Lộc Ninh. Anh được biết tin Hòe vẫn bị giam cấm cố ở Côn Đảo, Trọng bị đưa khỏi khám Chí Hòa về cầm giữ tại tiểu khu Hậu Nghĩa.
 
3.

Những tháng cuối năm 1973, Hai Long trở về làm việc tại Phòng 2 của Miền. Anh hiểu rằng mọi thủ tục kiểm tra của tổ chức đối với một cán bộ tình báo chiến lược hoạt động sâu trong lòng địch, bị bắt suốt 4 năm, do địch trao trả, đã được hoàn tất một cách nhanh chóng nhất.

Anh nhận được rất nhiều yêu cầu báo cáo của Trung tâm cũng như những cơ quan lãnh đạo của Đảng về tình hình ngụy quân, ngụy quyền, tình hình chính trị ở Sài Gòn, tình hình các tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa giáo. Thời gian viết báo cáo, những cuộc gặp gỡ báo cáo trực tiếp với những đồng chí lãnh đạo đã chiếm gần hết quý I năm 1974. Nhiệm vụ mới của anh vẫn chưa rõ ràng. Lúc đầu, trên dự định để anh đứng trong lực lượng thứ ba và sẽ tham gia chính phủ ba thành phần. Nhưng khả năng thành lập một chính phủ liên hiệp ở miền Nam ngày càng ít. Nixon lại được tái cử một nhiệm kỳ nữa. Với sự tiếp tục có mặt của Nixon ở Nhà Trắng, Thiệu công khai phá hoại Hiệp định Paris, chống lại đường lối hòa giải và hòa hợp dân tộc. Y thúc đẩy quân ngụy liên tiếp mở những cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Tiếng súng lại tiếp tục nổ trên khắp miền Nam. Hòa bình lâu dài của nhân dân ta chỉ có thể có được với quyết tâm chiến đấu xóa bỏ ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn đất nước.

Đầu tháng 4-1974, nhiệm vụ của Hai Long được xác định với việc thành lập một cụm tình báo chiến lược. mới do anh làm cụm trưởng kiêm bí thư chi bộ. Trung tâm quyết định cho Hai Long trở lại hoạt động hợp pháp, dựa vào cương vị đã có trong Thiên chúa giáo, xây dựng lực lượng thứ ba, đưa người vào nội bộ địch, chuyển biến lực lượng chính trị của địch thành lực lượng chính trị của ta, góp phần tạo thời cơ cho cách mạng giành toàn thắng. Trung tâm chỉ thị cho anh phải xây dựng lực lượng thật mạnh, xây dựng căn cứ thật vững, chuẩn bị nơi ăn ở bí mật tại Sài Gòn, có nhà, có phương tiện đi lại thích hợp với công tác bí mật, và xây dựng căn cứ ở ngoại thành, có lực lượng bảo vệ để đưa cán bộ, sinh viên từ nội thành ra huấn luyện rồi tung về Sài Gòn hoạt động.

Hai Long trở lại Củ Chi với niềm vui phơi phới. Anh đã khá quen thuộc vùng đất này. Vùng đất thép ven Sài Gòn tiếp tục đứng vững suốt bao năm chiến tranh trước những trận đánh hủy diệt của cả quân Mỹ và quân ngụy. Căn cứ bàn đạp của cơ quan tình báo của ta vẫn tồn tại ở đây.

Việc đầu tiên là phải nối lại đường dây giao thông với nội thành. Anh tới Phú Mỹ Hưng triển khai công tác, bàn với cơ sở ta ở địa phương xây dựng vùng này thành một lõm chính trị.

Điều khiến Hai Long băn khoăn là sau khi anh được trao trả về Lộc Ninh, qua 8 tháng trời đứt liên lạc, không hiểu những cha cố dã từng gắn bó mật thiết với anh hiện nay nghĩ về mình như thế nào. Liệu khi đã trở về vùng giải phóng rồi, anh còn có được sự tin cậy như xưa hay không? Lẽ ra anh không nên để gián đoạn quan hệ trong một thời gian dài.

Chỉ sau một tuần, chuyến giao thông đầu tiên vào Sài Gòn đã diễn ra êm đẹp. Ba tuần sau đó, anh lần lượt và nhanh chóng nhận được hồi âm cửa cha Hoàng, cha Nhuận, cha Lãm và một số linh mục khác. Anh đã nối lại được hầu hết những mối quan hệ cũ. Hình như trong tình hình chính trị mới rất rối ren ở Sài Gòn, mọi người đều mong ngóng trông chờ anh. Bé Liên đã trở thành một cô gái 18 tuổi, giúp anh khá đắc lực trong việc nối lại quan hệ với cha Hoàng. Anh biết bọn mật vụ chắc chắn không ngừng theo dõi gia đình mình từ khi anh ra vùng tự do. Nhưng anh tin vào sự khôn lớn của con. Liên đã trở thành một chiến sĩ giao liên hợp pháp.

Cuối tháng 6, cha Hoàng gửi quà mừng ra và báo tin nhà thờ Bình An đã làm lễ cầu nguyện cho anh nhân ngày lễ thánh bổn mạng. Mối tình cảm của ông linh mục chống Cộng đối với anh vẫn chưa phai nhạt. Anh vẫn còn là con chiên ngoan đạo của Thiên chúa giáo.

Qua thư từ của các quan hệ, anh đã nắm được tình hình mới ở Sài Gòn. Linh mục Trần Hữu Thanh đang kích động trên hầu khắp các thành phố ở miền Nam một phong trào Công giáo chống chế độ Thiệu tham nhũng, đòi Thiệu cải tổ guồng máy hành chính. Sài Gòn sôi động vì những cuộc hội thảo, xuống đường của những đoàn thể, những hội, những phong trào đòi quyền sống, đòi tự do báo chí, bảo vệ quyền lợi... của Phật giáo, Công giáo, thương phế binh, sinh viên, học sinh, ký giả, nhân văn, lực lượng thứ ba, nhân dân lao động.

Phong trào càng trở nên sâu rộng, sôi động hơn sau khi Thiệu bày trò tu chỉnh hiến pháp, ép quốc hội thông qua. Với hiến pháp đã tu chỉnh, tổng thống có quyền tái cử ba nhiệm kỳ, tăng thời gian nhiệm kỳ tổng thống từ 4 lên 5 năm. Thiệu nắm quyền chỉ định đô trưởng, thị trưởng và bổ nhiệm thẩm phán tại tối cao pháp viện. Bốn mươi nghị sĩ, dân biểu đã phản đối sự tu chỉnh này, làm rối loạn cả cuộc họp quốc hội Sài Gòn.

Riêng với Thiên chúa giáo, Thiệu đang tính gạt Nguyễn Văn Huyền, chủ tịch thượng viện, cất chức bộ trưởng cựu chiến binh của Phạm Văn Đổng (người của Phát Diệm), cho khám xét tòa báo Xây Dựng của linh mục Nguyễn Quang Lãm, đàn áp biểu tình của tín đồ Thiên chúa giáo, kịch liệt công kích các cha cố nhân những buổi rao giảng đạo Chúa chống Thiệu, thúc đẩy tín đồ xuống đường đấu tranh. Hai tờ báo của Thiên chúa giáo là Xây Dựng và Hòa Bình đã tự động đóng cửa để phản đối luật 007 của Thiệu nhằm bóp nghẹt tự do báo chí. Thiệu đã đi vào vết xe đổ của Diệm, Nhu trước đây, và có phần còn hung hăng hơn.

Nhưng có một số cha có quan hệ với Hai Long vẫn chưa trực tiếp tham gia vào những phong trào này. Theo chỉ thị của trên, Hai Long viết thư cho các quan hệ thúc đẩy cuộc đấu tranh chống Thiệu. Anh bàn với cha Hoàng yểm trợ ngầm cha Trần Hữu Thanh trong phong trào đấu tranh chống chế độ Thiệu tham nhũng, đòi cải tổ guồng máy hành chính. Anh gợi ý linh mục Nguyễn Quang Lãm kết hợp với linh mục Thanh Lãng, chủ tịch hội Văn bút Việt Nam, cùng hội Ký giả đòi tự do báo chí, linh mục Lãm cần giữ vai trò tiên phong. Anh bàn với cha Nhuận tập hợp giáo dân thật hùng hậu, nắm vững thanh niên, sinh viên Công giáo, phối hợp với thương phế binh sẵn sàng xuống đường khi cần. Anh trao đổi với nhóm linh mục Chân Tín dấn mình vào lực lượng thứ ba, liên kết với Phật giáo và nhân sĩ hình thành và phát triển lực lượng thứ ba... Anh nhắc lại với các cha dư luận nhiều lần tố cáo Thiệu, coi Thiệu là Tam điểm, là Đại Việt, Thiệu đã phản Công giáo, Thiệu lừa thầy phản bạn, bàn tay Thiệu cũng dính máu Diệm, Nhu, cả một đời làm tổng thống chỉ lo củng cố địa vị cá nhân, vơ vét vàng bạc, châu báu, ham mê sắc dục. Đặc biệt, anh nhấn vào điều Thiệu đã bất hiếu cưỡng lại lời khuyên dạy của Giáo hoàng, cần phải chối bỏ Thiệu như cắt bỏ một nhành nho sâu để bảo vệ cây nho xanh tốt.

Hai Long nhận thấy không thể chỉ thúc đẩy phong trào qua thư từ mà phải trực tiếp gặp những nhân vật chủ chốt để cùng bàn bạc. Anh cần gặp cha Hoàng, cha Lãm và cha Thụy là những người hăng hái có thể tác động tốt vào cuộc đấu tranh. Lúc này, địch đang tập trung đối phó với phong trào nội đô, kiểm soát gắt gao nội thành và vùng ven đô. Cha Hoàng nhận lời đi gặp anh, nhưng đã mấy lần tới nửa đường lại phải quay về vì địch kiểm soát quá ngặt. Ông đã trả lời đồng ý với những ý kiến anh đề xuất. Ông đang tiếp xúc với các tướng lãnh trong đó có Khiêm, Minh, Kỳ, bàn tính cách lật đổ Thiệu. Ông cũng đã thỏa thuận với cha Thanh huy động toàn lực lượng Công giáo Sài Gòn biểu tình lớn vào ngày 30-10 đòi lật đổ Thiệu...
 
4.

Cha Hoàng hứa sẽ ra thăm Hai Long trước ngày Công giáo tổ chức cuộc biểu tình lớn đòi lật đổ Thiệu. Nhưng bé Liên không thực hiện được kế hoạch. Thiệu đã phát hiện được dự định của ông. Bọn mật vụ bám riết ông mỗi lần rời nhà thờ Bình An.

Hai Long nóng lòng muốn gặp cha Hoàng. Anh bàn với con gái một kế hoạch tỉ mỉ. Trên đường từ Sài Gòn ra căn cứ phải qua bốt Trung Hòa cách quận lỵ Củ Chi 8 km, Liên cần đóng vai một nữ học sinh đi dạy thêm để kiếm tiền, qua lại đây nhiều lần cho bọn lính gác quen mặt. Liên đã làm được việc đó. Đôi lần Liên đã gặp những chàng sĩ quan hào hoa mời lên xe Jeep chở đi giúp một quãng. Nếu lọt được qua mắt bọn mật vụ theo dõi ở nhà thờ Bình An, bé Liên sẽ dẫn cha Hoàng qua bốt Trung Hòa với lý do đi thăm một giáo dân ốm bại liệt ở ấp chiến lược gần đó. Cha Hoàng vốn có dáng vẻ của một vị linh mục lão mạo không để cho bọn lính gác nghi ngờ. Nếu gặp kẻ nào quen mặt ông, biết rõ quá khứ của ông, hắn lại càng không dám nghi. Và ông thừa cách đối phó khi bị chúng xét hỏi. Liên sẽ dẫn ông đi qua một vài ấp chiến lược tới một ngôi nhà nhỏ nằm giữa cánh đồng. Tại đây ông sẽ cởi bỏ áo thầy tu, cải trang thành một bác nông dân, lên xe trâu và được giao thông viên của ta đưa về nơi gặp Hai Long, cũng là một chiếc lều nằm không xa đó trên cánh đồng. Lực lượng vũ trang của ta sẽ cảnh giới sát những bốt gác của địch và trên dọc đường đề phòng bất trắc. Giao thông viên của ta là bác Hai Bạn, nông dân ở Củ Chi lâu năm, chiếc xe trâu của bác thường qua lại trên cánh đồng. Kế hoạch đã được bố trí khá chu đáo. Liên sẽ báo trước một ngày trước khi đưa khách ra.

Từ sáng mồng 9 tháng 11, Hai Long đã bố trí xong xuôi việc đón khách. Giao thông viên hợp pháp của ta thường xuyên nắm tình hình địch ở đồn Trung Hòa, đồn Lào Táo và các ấp chiến lược, thông báo kịp thời cho bộ dội đóng ở Mũi Ràng. Một số chiến sĩ bám sát dọc đường từ ấp chiến lược Trung Hòa ra. Anh đặt ngay tại nơi mình ở một trạm viễn tiêu.

Lúc 10 giờ sáng, đồng chí trung đội trưởng phụ trách bàn đạp báo cáo xe trâu đã tới Mũi Ràng, đang tiến về căn cứ. Hai Long cảm thấy trong người rạo rực. Từ sáng tới giờ, mặc dù con gái anh đã báo tin hôm nay cha Hoàng sẽ ra, nhưng anh vẫn chưa thật tin. Một ông linh mục ngoài 70 đầu, liệu có thể vượt qua một chặng đường ngặt nghèo, vất vả ra tới vùng tranh chấp để gặp mình, với biết bao nguy hiểm từ cả nhiều phía sẵn sàng đón chờ trên dọc đường? Tình cảm của ông dành cho anh qua bao biến cố vừa rồi liệu còn tới mức đó không... ?

Nghe tiếng xe trâu lọc cọc lăn bánh trên bờ ruộng, Hai Long từ trong lều nhìn ra qua hàng dậu thưa, thấy rõ cha Hoàng đang ngồi hai tay ôm đầu gối, lưng dựa vào thành xe, chăm chú theo dõi từng bước trâu đi.

Xe dừng trước ngõ. Bác Hai xuống xe dắt mũi trâu. Hai Long vội chạy ra đỡ ông xuống xe. Chặng đường dài 8 km trên đường ruộng gập ghềnh với chiếc xe không êm ái này, hẳn làm cho xương cốt của ông đau nhừ và người rất mệt mỏi. Nhưng vừa nhìn thấy anh, sắc mặt ông bỗng trở nên tươi rói. Ông ôm chặt anh, áp má mình vào má anh ba bốn lần. Ông vẫn mừng rỡ và hồn nhiên như ngày vào khám Chí Hòa đón anh mới từ Côn Đảo trở về.

Cha Hoàng nói ngay:

- Con bé Liên khôn lanh thật! Chúa dẫn đàng chỉ lối cho nó. Mình cứ nhắm mắt mà đi theo. Nó bảo sửa soạn đi thì mình đi, bảo quay trở lại thì mình quay trở lại. Chả là hôm ấy vừa họp bàn với cha Thanh tuần sau đưa lực lượng ta xuống đường, đòi Thiệu phải từ chức thì Thiệu nó biết, nó cách chức luôn tướng Thuần, làm vỡ cả kế hoạch. Nó bắt đầu cho công an chìm đeo mình miết. Bữa nay, bé Liên bảo đi, không ngờ mà đi thoát! Chẳng biết con bé dẫn đi lối nào để gặp bố nó? Nó bảo lên ô tô, rồi lại xuống ô tô, đi bộ, đi qua bốt, qua chợ. Nó bảo cởi áo chùng thâm ra, trùm khăn, đội nón lá, nó dìu mình lên xe bò, ngồi một lát mới biết là xe trâu! Rồi xe cứ lắc la lắc lư bò trên bờ ruộng, lắm lúc nghiêng như đổ tới nơi, người lật sấp lật ngửa. Cụ đánh xe ngồi đàng trước quay lại hỏi: "Cha có sao không? Cha cứ cố bám vào thành xe không sao đâu, hằng ngày tôi vẫn đánh xe đi trên con đàng này". Chốc chốc con Liên lại hỏi: "Cha có mệt lắm không? Mệt thì cho xe dừng lại". Mình bảo cứ đi, chỉ mong cho chóng tới nơi, gặp nhau một tí, sao lại dừng? 4 giờ chiều nay phải về để kịp gặp tướng Thuần bàn tiếp công chuyện. Mình ngủ gà ngủ vịt, đói cả bụng mà mãi chưa tới nơi. Hỏi đây là đâu? Con Liên bảo đây là xã Trung Lập. Tên đúng như vậy hay mình mới đặt ra?

- Thưa cha đây là xã Trung Lập Thượng, còn chỗ cha lên xe là xã Trung Lập Hạ, tên đặt đã từ lâu dời.

- Cái tên hay nhỉ! - ông cười tươi rồi nói tiếp - Đây là đất Cối Kê của chúng mình... Xe cứ bò giữa đồng không mông quạnh, mặc con bé muốn đưa đi đâu thì đi, cứ gặp bố nó là được rồi. Chúa còn phó mặc cho người ta dẫn đi nữa là!

Nắm chặt hai tay cha Hoàng, Hai Long cũng ngỡ ngàng vì những ý nghĩ đơn giản của ông. Ông không hề nghĩ là từ lúc trút bỏ chiếc áo thầy tu, ngồi lên xe trâu, ông đã phó thác sinh mệnh chính trị và cả mạng sống của mình vào tay bố con anh!
 
5.

Hai Long quàng tay vào lưng cha Hoàng đưa ông vào trong lán, mời ông ngồi trên tấm phản mộc mới được trang bị thêm cho cuộc "hội kiến".

Căn lều của bác Hai cùng mấy người bạn điền được dựng lên bằng những chiếc cột cháy dở và những tấm tôn lỗ chỗ vết đạn, không đủ che nắng mưa cho họ trú những buổi làm đồng. Quanh lều lèo tèo mấy bụi chuối xơ xác. Đây là vành đai trắng hoang vắng mà bom đạn của cả đôi bên có thể giội lửa bất cứ lúc nào.

Cha Hoàng hoàn toàn không để ý đến khung cảnh, mắt không rời Hai Long, vui vẻ hỏi:

- Có gì ăn không? Mình thấy đói bụng rồi!

Liên bày ra phản bánh mì, bơ, phó mát, cam, táo, những thức ăn thích hợp với khẩu vị của cha Hoàng.

Hai Long mời ông đọc kinh, rồi cùng làm dấu Thánh giá trước khi ăn. Đã hơn 4 năm, anh lại mới có dịp cùng ngồi ăn với ông. Bữa ăn gợi nhớ tới những ngày anh sống ở nhà thờ Bình An.

Vẫn là thói quen ngày xưa, mỗi lần bắt đầu trao đổi, ông thường nói một thôi dài:

- Ngày 23 tháng 10, mình không ra được thật là đáng tiếc! Theo ý thầy, mình tạm đi với cha Thanh trong phong trào chống tham nhũng. Mình đã huy động lực lượng Công giáo di cư ở vùng Hố Nai, Biên Hòa. Cha Thanh và phong trào lấy nhà thờ Tân Sa Châu làm điểm xuất phát cho các vụ xuống đường và truyền lệnh cho giáo dân, y như phong trào Phật giáo năm 1963 lấy chùa Ấn Quang và Viện Hóa đạo làm trung tâm điểèm. Kế hoạch định làm một đợt từ 30 tới 31 tháng 10 trùng với ngày đảo chính Diệm năm 1963, chọn ngày 31 là cao điểm lật đổ Thiệu. 30 tháng 10 bắt đầu biểu tình. 31 tháng 10, người biểu tình nêu khẩu hiệu đòi Thiệu từ chức, xô xát dữ dội giữa giáo dân với cảnh sát, hàng trăm người của cả đôi bên bị thương. Mình bàn với cha Thanh phát động tuần lễ đấu tranh bất bạo động, đồng thời bắt tay với Phật giáo, liên minh hành động với thượng tọa Thích Giác Đức. Dương Văn Minh vẫn dựa vào Phát Diệm như hồi 1963. Minh, Khiêm, Kỳ cho Phạm Quốc Thuần, tư lệnh vùng 3 chiến thuật liên hệ với mình tính kế hoạch đảo chính Thiệu, nhưng mình chưa hiểu ý đồ nhóm này ra sao nên do dự. Thiệu được CIA báo tin, biết âm mưu, lập tức cách chức Thuần. Thuần tuy bị cách chức vẫn tiếp tục liên lạc với mình. 4 giờ chiều nay, mời mình gặp ở nhà riêng. Mình phải ráng gặp thầy trước khi gặp Thuần...

Hai Long chưa vội lên tiếng, vì biết những điều cha Hoàng định trao đổi với anh không phải chỉ có như vậy.

Ông lại thao thao:

- Cha Thanh vừa rồi gặp mình, hỏi nên chọn ai thay Thiệu? Thanh nói đã liên lạc với Nguyễn Văn Huyền, nhưng Huyền né tránh vì sợ Thiệu, hỏi Trần Minh Tiết, Tiết cũng chưa nhận lời. Nhưng Tiết lại tìm mình, nói nếu được mình ủng hộ thì hắn sẽ nhận lời cha Thanh. Mọi khi có thầy cùng bàn, bây giờ vắng thầy, mình rất khó quyết. Một anh tướng Công giáo Mỹ, tên là Stennis, khuyên mình đừng có đứng vào phe linh mục Thanh, cứ để Thanh làm một mình, vào giai đoạn chót hãy tính! Sau vụ biểu tình ngày 1 tháng 11, Thiệu nói với mình sẽ ra đi trong danh dự, yêu cầu mình giúp và bảo đảm. Thiệu cũng nói như vậy với cha Nhuận. Có lẽ Thiệu không muốn mất mạng vì lo bị Mỹ giết. Mình nên trả lời hắn thế nào?

Hai Long định trả lời thì ông lại nói tiếp luôn:

- Cha Thanh chỉ quen tố cáo suông! Chống tham nhũng phải kết hợp với hành động cách mạng. Đáng lẽ tố vụ kho gạo ở Bình Thuận của chị gái Thiệu thì phải đấu tranh đòi đem gạo ấy chia cho dân nghèo, như ngày xưa mình chiếm kho gạo của Nhật ở Kim Sơn năm 1945, lấy được gạo đem phân phát luôn cho dân cứu đói. Mình cũng muốn cho Thiệu ra đi, nhưng chớ nên bạo động mà mắc mưu Mỹ! Ta đi với Mỹ nhưng không thể là tôi tớ của Mỹ! Thiệu định từ nay đến cuối tháng 11 sẽ thẳng tay đàn áp các vụ biểu tình xuống đường. Mình có cha Bình và giáo dân ủng hộ, không sợ Thiệu đàn áp. Mình định tập hợp giáo dân 11 hạt thuộc giáo khu Sài Gòn, yêu cầu Thiệu rút lui, đồng thời ra kiến nghị đòi thầy về Sài Gòn, thầy tính sao?

Ý kiến của ông nhiều chỗ mâu thuẫn nhau, chứng tỏ ông đang bối rối trước tình hình chính trị phức tạp ở Sài Gòn. Hai Long chậm rãi đáp:

- Con không chủ trương sang Pháp hoặc Ý chính là để sớm có dịp trở về Sài Gòn, vì tình hình thay đổi tới nơi rồi, cần phải có mặt ở đó để kịp thời hành động. Tòa thánh Vatican đã lên án Thiệu, Mỹ đang tiến hành kế hoạch thay Thiệu, vậy Công giáo phải chớp lấy thời cơ lật Thiệu cho bằng được, hoặc biểu tình, bạo động đòi Thiệu phải từ chức, hoặc đảo chính, hoặc thuyết phục Thiệu êm ả ra đi, bằng bất cứ cách nào có hiệu quả một cách sớm nhất. Sở dĩ giáo hội phải giành lấy việc lật đổ Thiệu, chính là để cứu Thiệu khỏi phải chết thảm như Diệm, để thành lập một chính quyền Công giáo, hoặc thân Công giáo, sẵn sàng đi theo đường lối của Vatican là hòa bình, trung lập, canh tân, hòa giải. Nếu bây giờ cha đứng ra lãnh đạo phong trào Công giáo lật đổ Thiệu như ý cha vừa nói, thì con thấy hơn ai hết, cha hội tụ đủ yếu tố thành công. Tỉ dụ như Vatican không tán thành Thiệu vì e Thiệu hiếu chiến, độc tài, sẽ gieo tai họa cho Công giáo Việt Nam, Vatican sẽ ủng hộ cha. Cha cần có cha Thanh để đạt mục đích của giáo hội, thì Mỹ cũng đang cần có sự hợp tác giữa cha với cha Thanh vì mục đích của họ. Pháp và lực lượng thân Pháp cũng sẽ kết hợp với cha, vì Thiệu từ xưa tới nay vẫn chống đối chính sách của Pháp đối với chiến tranh Việt Nam. Những người thuộc lực lượng thứ ba sẽ tập hợp ngay chung quanh cha vì họ đang là đối tượng đàn áp của Thiệu chỉ sau có Việt Cộng. Thế lực Phật giáo hiện thời còn chia rẽ, chưa đủ sức chống Thiệu, thấy cha phất ngọn cờ, chắc sẽ không ngần ngại liên kết với cha, vì nhiều thượng tọa, đại đức đã đứng vào lực lượng thứ ba chứ không thể đi đôi với Thiệu. Những phong trào của Phật giáo như lực lượng hòa giải dân tộc của Vũ Văn Mẫu, phong trào thanh niên Phật tử chống tham nhũng rất phù hợp với đường lối vận động cho hòa bình, hòa giải, hòa hợp dân tộc của Giáo hoàng Paul VI. Các đoàn thể đòi quyền sống, các hội đoàn thương phế binh đang chống Thiệu nhất định sẽ dựa vào thế của cha để dẩy mạnh đấu tranh. Cộng sản Bắc Việt, Việt Cộng trong chiến lược, sách lược của họ hiện nay, nếu không lên tiếng ủng hộ cha, thì cũng đứng ngoài mặc cho Công giáo hành động lật Thiệu, vì họ đang giao hảo với Vatican và Giáo hoàng Paul VI.

Nét mặt cha Hoàng dãn ra. Ông ngồi yên một lát sau khi Hai Long nói, giọng của ông không sôi nổi như lúc đầu:

- Thời cơ thuận lợi lắm đấy! Mình phải bàn đi tính lại với nhau hàng ngày, hàng giờ như hồi trước hoặc ngồi trao đổi với nhau như hôm nay thì mới đủ khôn ngoan mà hành động. Thời buổi nay nói sai, làm sai là mắc tội với giáo hội, với lịch sử. Mấy hôm nay Thiệu bối rối lắm, mình cũng bối rối, chưa biết Mỹ nó lật Thiệu để làm gì? Rồi nó đưa ai lên?

- Mỹ chẳng muốn lật Diệm, lật Thiệu làm gì! Song Mỹ phải gạt những trở ngại để thực hiện đường lối, chiến lược mới của họ. Nixon không thể deo đuổi mãi cuộc chiến tranh này. Mỹ ngụy trang rất khéo việc thực hiện ý đồ của họ. Cha đã thấy Mỹ bày ra vụ Phật giáo hạ Diệm, Nhu, kỳ thật là nhằm đưa quân Mỹ vào Việt Nam. Mỹ bày ra vụ Công giáo nằm vạ ở dinh Gia Long, đòi hạ bệ Phan Huy Quát vì quy chế tôn giáo của Quát, nhưng thực ra là để gạt chính quyền dân sự, lập nên một chính quyền quân sự mạnh để ào ạt đưa quân vào!

- Mỹ lắm mưu nhiều kế, ta không khéo thì mắc bẫy nó như chơi!

Như chợt nhớ ra, ông hỏi:

- Ngày nó trao trả thầy về Lộc Ninh, thái độ của Mặt trận đối với thầy thế nào?

Lần đầu, anh thấy ông nhắc tới những tiếng "Mặt trận", trước đây ông chỉ gọi là "Việt Minh".

Hai Long mỉm cười:

- Sài Gòn ghi trong danh sách trao trả, con là linh mục Giải phóng. Tới nơi, con được đưa ngay về nhà thờ Lộc Tấn. Cha sở ở đây là ông Uých đang xin trở về Pháp, trao lại nhà thờ cho con.

- Mình biết ông Uých.

- Con phải làm lễ ở nhà thờ Lộc Tấn và những nhà thờ trong vùng. Con nghĩ rằng họ đã trọng vọng con một cách đặc biệt sau khi tìm hiểu, biết con là người của Vatican và có ảnh hưởng lớn với lực lượng thứ ba. Họ xa xôi thúc đẩy con tham gia hoạt động cho lực lượng thứ ba để thực hiện đường lối của Vatican. Tại nhà khách của họ có hẳn một khu dành riêng cho những người thuộc lực lượng thứ ba bị Sài Gòn trao trả. Họ tin rằng sớm muộn sẽ ngồi chung với con trong chính phủ liên hiệp ba thành phần.

- Khôn lanh lắm, có thể mới sống nổi tới ngày nay!... Nhưng theo ý thầy, trong tình hình này, Mỹ sẽ chọn ai thay Thiệu?

- Con gần đây không tiếp xúc với các cha Mỹ nên không thật sát tình hình... Cha chỉ cần điều tra qua cha Thanh là biết ý đồ của Mỹ. Cha Thanh kích dộng giáo dân chống Thiệu, đòi thay thế Thiệu, lại gặp luật sư Huyền, luật sư Tiết, thăm dò việc ra thay Thiệu, thì thấy rõ cha gắn liền với Mỹ. Nhưng dó là chuyện của Mỹ! Còn ta phải tính chuyện của ta. Giáo hội Việt Nam luôn luôn phải tuân theo thánh ý của Đức Giáo hoàng là thúc đẩy Mỹ loại trừ Thiệu càng sớm càng tốt, đòi Mỹ, Thiệu phải công nhận lực lượng thứ ba theo tinh thần Hiệp định Paris. Cha Tổng dựa theo Hiệp định Paris mà làm, là đúng ý của Giáo hoàng, mà lại có cơ sở pháp lý để chống lại sự đàn áp của Thiệu. Phong trào chống Thiệu đang lên rất mạnh, lực lượng nhiều, nhưng có nhược điểm lớn là phân tán, rất cần một ngọn cờ tập hợp lại thì mới có đủ sức mạnh lật nhào Thiệu. Con muốn cha Tổng sẽ là ngọn cờ. Cha Tổng sẽ xứng đáng là một lãnh tụ tài ba, một môn đệ trung tín của Chúa, cha Tổng sẽ đi vào lịch sử của đất nước là một chiến sĩ hòa bình, đi vào lịch sử của giáo hội là đem bình an của Chúa cứu thế ban bố cho mọi người.

Bộ mặt cha Hoàng bừng sáng:

- Mình nên đưa nhân vật Công giáo nào ra lập chính phủ, hoặc thay thế Thiệu, hoặc tham gia chính phủ cải tổ?

- Cụ thể thì con xin nghiên cứu và trả lời cha sau. Nhưng về nguyên tắc thì đã rõ, người thay thế Thiệu phải tán thành hòa bình, hòa hợp và hòa giải dân tộc, nên lựa chọn trong lực lượng thứ ba. Công giáo ta phải nắm lực lượng thứ ba và xây dựng thành lực lượng mạnh nhất trong chính phủ ba thành phần. Cha Tổng cần điều tra ý đồ của Mỹ trong cuộc gặp tướng Thuần chiều nay. Tướng Dương Văn Minh đã được Vatican nhắc tới trên báo chí của Tòa thánh, cũng là một nhân vật có thể cộng tác trong chính phủ tương lai. Theo ý con, muốn lật Thiệu thì cần phải loại bỏ ngay mấy mưu sĩ của y là Ngô Khắc Tỉnh, Đặng Văn Quang, nhất là Hoàng Đức Nhã, cháu của Thiệu. Nhã gần đây điên cuồng chống Hiệp định tới mức Mỹ cũng phải ghét.

Cha Hoàng hơi mỉm cười:

- Nó dùng cháu nó là Hoàng Đức Nhã làm cho một số người ở xa lầm là thầy vẫn tiếp tục cộng tác với nó!

Hơn hai giờ vừa ăn uống, trò chuyện, bàn luận công việc cởi mở khiến cha Hoàng rất thoải mái.

- Đường sá gập ghềnh quá xấu, cha Tổng tuổi già sức yếu lại phải đi bằng xe trâu, qua nhiều đồn bốt, qua vành đai trắng, cha có ngại không?

- Mình rất nhớ thầy, muốn gặp gỡ luôn, dù xa xôi nguy hiểm vất vả mấy cũng không ngại. Chỉ cầu nguyện cho thầy bình an, mạnh khỏe và mau chóng trở về Sài Gòn để thường xuyên bàn bạc kẻo lỡ thời cơ. Mình đã chuẩn bị sẵn một số chỗ để thầy có thể về ngay. Cha Lý ở Bùi Môn, cha Sự ở Gò Vấp, cha Chính ở Xuân Lộc, cha Tân ở Long Thành, đều là những nơi có thể bảo đảm an toàn cho thầy. Thầy thấy đâu thuận tiện thì ở. Mình sẽ dẫn con Liên đi một vòng giới thiệu cho nó nhận các cha, nhận nơi ở, rồi đón bố nó về. Lần này về, mình sẽ bàn với các cha và giáo dân làm kiến nghị đòi Thiệu, Khiêm xóa bản án năm 1969 của thầy. Cả giáo hội đòi thì Thiệu cưỡng lại thế nào được! Về ngay Sài Gòn mà xem Mỹ nó tính cái gì?...

Dìu cha Hoàng lên xe trâu, Hai Long nhận thấy rõ sự lưu luyến trên nét mặt ông, trong cái bắt tay của vị linh mục già ngoại 70 tuổi có bệnh hen suyễn mãn tính. Ông quả thật nặng tình với mình!

Anh đứng nhìn theo chiếc xe trâu mờ dần với làn bụi trắng của gió cát trên cánh đồng Củ Chi. ---

[1] Tổ chức Viện trợ Công giáo quốc tế
 
SÀI GÒN 1975

1.

Bánh xe lịch sử quay nhanh.

Linh mục Thụy rồi linh mục Lãm lần lượt ra vành đai thăm Hai Long.

Cha Thụy vẫn tiếp tục ở Côn Đảo. Ông cho biết anh chị em tù ở đảo vẫn an toàn sau khi anh rời khỏi đây, nhưng tù chính trị khó được trao trả tiếp vì Thiệu đã biến họ thành những thường phạm. Ông còn cho biết Thiệu đã nhượng Côn Đảo cho Mỹ dùng làm nơi khai thác dầu hỏa, Mỹ đang biến nửa đảo này thành căn cứ quân sự, gấp rút xây dựng sân bay Cỏ Ống. Những cha tuyên úy trong quân đội Mỹ nói Thiệu sẽ bị thay thế trong năm 1975 bằng một hội đồng quân lực, tùy theo biến chuyển tình hình, nhưng có thể là vào tháng 4-1975. Ông bàn với Hai Long cần tìm mọi cách để bảo đảm an toàn cho anh em tù chính trị ở Côn Đảo, và mong được gặp anh mỗi tháng một lần vào dịp ông từ Côn Đảo trở về Sài Gòn. Hai Long nhờ ông báo cho Hòe biết tin mình, và đặc biệt chú ý tới những người bạn của anh còn ở trên đảo. Ông linh mục thực sự vui mừng khi gặp lại anh.

Cha Lãm tỏ ra là một người sắc sảo về chính trị, nhạy cảm với thời cuộc hơn cả cha Hoàng. Ông chê cha Hoàng không nắm vững đường lối của Giáo hoàng Paul VI, không có khả năng tập hợp đông đảo các lực lượng trong cuộc đấu tranh loại bỏ Thiệu.

Đầu tháng Giêng năm 1975, linh mục Nhuận báo tin hồi trung tuần tháng 12 năm vừa qua, trong cuộc họp với các tư lệnh quân đoàn ở dinh Độc Lập, Thiệu nhận định là Bắc Việt và Việt Cộng chưa có khả năng mở tiến công lớn về quân sự trong năm 1975.

Hai Long nhận thấy phải có mặt sớm ở nội thành Sài Gòn. Cha Hoang đã chuẩn bị chu đáo cho anh ở tại một số nhà thờ hoặc tu viện. Nhưng ở đây sẽ không thuận tiện liên lạc với tổ chức. Hai Long thấy không nên dựa vào nhà thờ mà sẽ ở tại một cơ sở của ta trong nội thành. Anh cần có một căn cước mới và sẽ sống bất hợp pháp cho tới khi khối Thiên chúa giáo vận động xong với chính quyền Thiệu mời anh về. Cần phải đề phòng CIA. Chúng có thể kiên quyết loại trừ khi thấy anh xuất hiện trở lại trên chính trường miền Nam.

Cuối tháng Giêng, cơ quan chỉ đạo trao nhiệm vụ cho anh trở lại nội thành để bám sát các đối tượng vì tình hình sắp có biến chuyển lớn.

Từ đầu mùa Xuân năm 1975, những sự kiện lớn trên chiến trường miền Nam diễn ra dồn dập.

Ngày 6 tháng Giêng, bộ đội ta tiến công và giải phóng thị xã Phước Long. Thiệu điên cuồng kêu gào quân ngụy phải tái chiếm thị xã. Nhưng quân ngụy không làm được việc đó. Thiệu đành bó tay với quyết định để tang Phước Long. Điều quan trọng là Mỹ không có phản ứng gì.

Được sự ủng hộ của cha Hoàng, chiến dịch chống tham nhũng của linh mục Thanh tiếp tục phát triển. Sáu tờ báo ở Sài Gòn tuyên bố sẽ đăng tài liệu tố cáo những vụ tham ô của chính quyền Thiệu, có liên quan tới cả thủ tướng Trần Thiện Khiêm.

Sự tham nhũng vốn có gốc rễ từ lâu trong ngụy quyền. Nhưng nó đã phát triển tới một mức ghê gớm từ ngày Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh Việt Nam. Mỹ đã đổ vào chiến trường Việt Nam hàng trăm tỷ dollar. Không phải nhiều thứ hàng viện trợ của Mỹ đã rơi vào tay bọn tham nhũng tại chỗ, mà một số khá lớn đã không tới được Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ trong nhiệm kỳ làm thủ tướng của y, đã phát hiện ra số lượng dược phẩm, đặc biệt là thuốc trụ sinh, nhập khẩu từ Mỹ, có thể thỏa mãn nhu cầu của cả châu Á, số lượng xi măng nhập khẩu từ Mỹ có thể dùng đúc nền bê-tông cho toàn bộ diện tích nước Việt Nam. Nhưng tại miền Nam Việt Nam những thứ này đều không phải là thừa thãi. Vì trong thực tế phần lớn số lượng hàng này đã không bao giờ được chở tới Nam Việt Nam. Tháng 8 năm 1967, một ủy ban của chính phủ Hoa Kỳ đã tiết lộ trong việc xuất khẩu mọi mặt hàng từ Hoa Kỳ sang Việt Nam cộng hòa, người nhập khẩu đều được hoàn lại một số tiền hoa hồng, và có nhiều vụ mua bán, số hàng ghi trong hóa đơn là 10.000 dollar nhưng hàng thực tế gửi tới Nam Việt Nam chỉ có giá trị 700 dollar mà thôi! Sự tham nhũng đã bắt đầu ngay từ trên đất Mỹ với những công ty được nhà nước Hoa Kỳ đặt hàng khuyến khích.

Năm 1967, theo ước tính của viên chức Mỹ, có khoảng nửa triệu tấn gạo đã bị đánh cắp tại Nam Việt Nam. Một đoàn 60 xe tải chở xi măng nhập khẩu, thì 42 chiếc bị đánh cắp. Tại chợ Quy Nhơn, có thể mua bất cứ thứ gì, từ khẩu phần lương thực, quần áo của binh sĩ đến máy giặt, lựu đạn, súng được bán với giá từ 25 đến 30 dollar một khẩu, và sẵn sàng có người dàn xếp bán cả xe bọc thép và trực thăng. Tòa đại sứ Mỹ có tài liệu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh các lực lượng ở đồng bằng sông Cửu Long, đã lấy cắp 8.000 đài vô tuyến, 24.000 vũ khí cá nhân do Mỹ trang bị và phần lớn đều bán cho Việt Cộng.

Muốn mua một chức trưởng ty cảnh sát quận Năm (Chợ Lớn), phải hối lộ đúng chỗ 15 triệu đồng. Ở quận Năm có 10 vạn người trốn quân dịch, mỗi người này phải hối lộ 100.000 đồng. Bà vợ những nhà cầm quyền đánh xì phé, khi đặt tiền thường nói: "Tôi tố thêm một tân binh quân dịch" thay cho câu "đặt thêm 100.000".

Thiệu được coi là một nhân vật đứng hàng đầu trong chuyện tham nhũng. Người ta nhận thấy điều đó qua những chuỗi kim cương trên cổ vợ Thiệu và những dinh cơ to lớn Thiệu xây dựng ở Pháp và Thụy Sĩ. Nhưng số vàng, dollar, hột xoàn... những tài sản quý mà vợ chồng Thiệu giấu, lớn hơn thế rất nhiều. Thiệu rất đau đầu vì chiến dịch chống tham nhũng.

Nhưng tình hình quân sự từ đầu năm nay còn khiến y bối rối hơn nhiều.

Đầu tháng Giêng, Thiệu đã tập trung lực lượng 5 sư đoàn không quân gồm 116 máy bay khu trục và 160 máy bay trực thăng, đánh phá suốt 5 ngày liền để đối phó không có hiệu quả với cuộc tiến công Phước Long.

Trung tuần tháng Giêng, Thiệu được báo cáo bộ đội ta chuyển quân về phía Nam Tây Nguyên. Y chỉ thị cho tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh quân đoàn II và vùng II chiến thuật và tướng Lê Trung Tường, tư lệnh sư đoàn 23 bảo vệ Buôn Ma Thuột đề phòng ta tiến công.

Ngày 20 tháng Giêng, Thiệu quyết định ngừng giải ngũ 3 vạn lính đã mãn hạn quân dịch, và cấm trại 100% binh lính trong dịp Tết âm lịch. Cuối tháng Giêng, Thiệu ra lệnh giải tán ngay lập tức toàn bộ lực lượng bảo an Hòa Hảo khoảng 10 vạn tên, vì lo lực lượng này nhân lúc rối ren sẽ gây khó khăn cho mình.

Đầu tháng 2, Thiệu điều 3 lữ đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị mới thành lập về bảo vệ vành đai Sài Gòn.

Trung tuần tháng 2, Thiệu được tin bộ đội chủ lực ta có mặt ở Quảng Đức, Đắc Lắc và Đức Cơ. Trước đó, đã có tin bộ đội ta xuất hiện ở Quảng Trị và Huế. Thiệu phán đoán ta đánh Công Tum và Plây Cu. Y điều 5 liên đoàn biệt động quân về giữ khu vực này, và mở một cuộc tiến công bằng không quân vào đường hành lang phía tây để ngăn chặn.

Tuy nhiên, Thiệu vẫn phấp phỏng lo cho Sài Gòn. Sau khi đã điều 3 lữ đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị về canh giữ vành đai Sài Gòn, Thiệu quyết định đưa tướng Nguyễn Văn Tòng thay Dư Quốc Đống, tư lệnh quân đoàn 3 gần đây không còn được Thiệu tín nhiệm.

Tấn thảm kịch của Thiệu mới chỉ sắp sửa bắt đầu.
 
2.

Ngày 10-3-1975, tiếng súng tiến công của bộ đội ta bất thần nổ ra tại thị xã Buôn Ma Thuột. Thị xã này hoàn toàn mất liên lạc với Sài Gòn. Thiệu ra lệnh cho quân đoàn 2 tử thủ Buôn Ma Thuột, và tập trung toàn bộ sư đoàn 23 và liên đoàn biệt động quân 21 phản kích khi được tin bộ đội ta đã chiếm thị xã. Thiệu choáng váng không thể tin là một thị trấn cửa ngõ ở phía Tây Sài Gòn có thể thất thủ nhanh như vậy. Hồi đầu năm, thị trấn Phước Long ít quan trọng hơn, binh lực yếu, còn có thể tự chống cự trong gần nửa tháng. Nhà báo Pháp Paul Léandri loan tin Buôn Ma Thuột thất thủ ở Sài Gòn, bị gọi tới và bị bắn chết ngay tại sở cảnh sát.

Nguyễn Cao Kỳ hấp tấp gặp Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân đội. Kỳ đề nghị tập trung không quân và pháo binh cùng với hai trung đoàn dù hoặc biệt động quân thiện chiến, trao cho mình chỉ huy đánh chiếm lại Buôn Ma Thuột. Viên báo cáo với Thiệu, Thiệu gạt đi. Thiệu không muốn và cũng không tin Kỳ làm được việc này. Viên phàn nàn với Kỳ, Thiệu gần đây không còn tin mình, và tự quyết định nhiều việc không tham khảo ý kiến của tổng tham mưu trưởng. Viên đã mấy lần xin từ chức nhưng không được Thiệu chấp thuận.

Thiệu triệu tập các tướng họp ở Cam Ranh, quyết định cho tướng Phú rút khỏi Công Tum và Plây Cu, lập một phòng tuyến ở phía Nam Buôn Ma Thuột với ý đồ sẽ chiếm lại thị xã này. Cuộc rút lui của quân ngụy từ Tây Nguyên về, bị bộ đội ta chặn đánh, đã biến thành một cuộc tháo chạy tán loạn và cuối cùng hoàn toàn tan rã.

Cả Tây Nguyên bị mất. Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân đoàn I và vùng I chiến thuật, vội tập trung quân về bảo vệ Đà Nẵng. Vùng I chiến thuật là nơi có những đơn vị mạnh nhất của quân ngụy, như sư đoàn thủy quân lục chiến, sư đoàn dù, sư đoàn bộ binh 1 và những lực lượng không quân, thiết giáp hùng hậu nhất miền Nam.

Sự đổ vỡ nhanh chóng trên mặt trận Tây Nguyên, cửa ngõ phía Tây của Sài Gòn bị đe dọa khiến Thiệu kinh hoàng. Thiệu hối thúc cha Nhuận tìm mọi cách gặp Hai Long. Anh thấy chưa nên gặp cha Nhuận ở Sài Gòn, viết thư cho ông để trả lời những điều Thiệu hỏi: "Trong lúc thế quân Giải phóng đang mạnh, Thiệu phải lo giữ người, đừng lo giữ đất. Pháp thua ở Điện Biên Phủ nhưng hồi đó không mất ngay cả đồng bằng Bắc Bộ, vì Pháp biết bỏ một số thành phố giữ lấy quân. Khi tình hình cấp bách, thì phải cho binh sĩ tùy nghi di tản, sau đó sẽ tập hợp lại, người của ta sẽ không mất đi đâu... Riêng về sự an toàn của Thiệu, cha nói Thiệu cứ tin ở con. Con không xao lãng trách nhiệm đối với Thiệu, không để tái diễn cảnh ông Diệm, ông Nhu ngày xưa. Khi cần phải rút lui, con xin hứa sẽ báo tin thật kịp thời để Thiệu ra đi an toàn...".

Thiệu ra lệnh cho Ngô Quang Trưởng đưa sư đoàn thủy quân lục chiến về bảo vệ Sài Gòn, ít ngày sau lại rút tiếp sư đoàn dù ở Đà Nẵng. Y cho rằng không thể giữ được vùng I chiến thuật tiếp giáp với miền Bắc, nên có chạy lấy ít vốn.

Ngày 19-3, xe tăng và bộ binh ta vượt sông Thạch Hãn tiến vào giải phóng thị xã Quảng Trị. Thiệu ra lệnh cho Trưởng bỏ cố đô Huế, lập một phòng tuyến ngăn chặn trên đèo Hải Vân trì hoãn bước tiến của quân ta. Trưởng đánh điện về Sài Gòn xin từ chức, Thiệu không chấp thuận. Ba tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi nhanh chóng lọt vào tay quân ta trong cảnh tháo chạy cực kỳ hỗn loạn của quân ngụy. Ngày 25-3, Thiệu mất toàn bộ vùng I chiến thuật.

Nguyễn Cao Kỳ đã ôm hận nằm im suốt 3 năm, thấy đây là thời cơ giành giật chiếc ghế tổng thống từ tay Thiệu. Ngày 27-3, Kỳ cùng với linh mục Trần Hữu Thanh công bố sự ra đời của một tổ chức gọi là Mặt trận cứu nguy dân tộc, với ý định rõ ràng là sẽ tìm mọi cách, kể cả tiến hành đảo chính, để lật đổ Thiệu.

Thiệu biết Kỳ đã rút dao kề sẵn sau lưng mình. Đêm nào Thiệu cũng chuyển chỗ ngủ, đề phòng bị mưu sát. Và Thiệu gấp rút tiến hành những biện pháp loại trừ Kỳ.

Chức tư lệnh không quân của Kỳ trước đây đã bị Thiệu chuyển cho Minh con[1]. Đại sứ Mỹ đã bảo Minh không được liên kết với Kỳ, và hứa trả công cho Minh bằng cách đưa cả gia đình Minh sang Mỹ nếu Sài Gòn rơi vào tay Việt Cộng. Kỳ không sử dụng được là bài quen thuộc của mình. Nhưng Kỳ đã móc nối với một số tướng tá bất bình với Thiệu, và cùng họ nhanh chóng hoạch định một âm mưu đảo chính. Cả bọn thấy cần tiến hành gấp vì những tỉnh miền Trung liên tiếp rơi vào tay đối phương.

Một bữa, một viên phi công của Kỳ hớt hải chạy vào báo cáo y vừa bắt được một kẻ khả nghi. Tên này lượn lờ quanh vành đai căn cứ với vẻ dò xét. Y hỏi thì hắn ta bỏ chạy. Y đuổi theo bắt được, nhưng lại thấy trong người hắn có giấy tờ ra vào căn cứ hợp lệ. Y đã giữ hắn lại ở bên ngoài. Kỳ bảo viên phi công đưa hắn vào.

Sau một hồi lâu bị Kỳ tra hỏi, kết hợp cả dọa nạt với dỗ dành, tên này khai:

- Đa phần chúng tôi đều ủng hộ thiếu tướng, nhưng chúng tôi làm việc dưới quyền trung tướng Quang, chúng tôi phải làm theo lệnh của ông ấy. Tôi còn có vợ con...s

Đặng Văn Quang, người hiện làm cố vấn an ninh cho Thiệu, là người đã bị Kỳ sa thải vì tội tham nhũng khi Kỳ còn làm thủ tướng.

- Thiệu hết thời rồi. Quang cũng sập đi theo Thiệu. Tôi biết bọn họ đang muốn gì. Nhưng anh sẽ không ra khỏi đây nếu không khai rõ bọn anh có những ai và tướng Quang sai anh làm chi?

- Xin thiếu tướng hãy ở trong nhà. Thiếu tướng mà đi ra ngoài là có thể bị ám sát. Tướng Quang đã giao người làm việc này.

- Bọn chúng là những tên nào, nói tiếp đi...

Kỳ tập hợp ngay những tay chân tin cẩn, tổ chức một cuộc "hành quân" quy mô, hốt trọn những kẻ đang đe dọa tính mạng mình. Y đồng thời cũng họp phe nhóm xúc tiến âm mưu đảo chính. Thiệu rất rung động vì vụ này.

Một buổi sáng, Kỳ nhận được một cú điện thoại từ Tòa đại sứ Mỹ. Đầu đây đằng kia là tiếng một người bạn khá thân với y:

- 3 giờ chiều nay, tôi muốn tới thăm thiếu tướng được không?

- Sao lại không? Lâu ngày chúng ta chưa gặp nhau.

- Tôi bận quá mà. Tôi muốn dẫn theo một viên chức cao cấp, thiếu tướng đồng ý chứ?

- Được quá! - Kỳ đồ chừng đó là người cầm đầu CIA ở Sài Gòn.

Lúc 3 giờ chiều, người bạn của Kỳ tới cùng một "viên chức cao cấp". Kỳ kinh ngạc khi thấy người đó lại là đại sứ Mỹ Martin. Martin già sọm đi với đôi mắt trũng sâu đỏ ngầu quanh vành mi. Nhưng vẻ kiêu căng, tự phụ của một viên thái thú thì vẫn nguyên vẹn.- Chắc ông ngạc nhiên lắm khi thấy một người như tôi tới nhà?

Kỳ đáp lại bằng nự cười rồi mời viên đại sứ và người bạn uống trà.

Martin lại nói:

- Trước kia tôi cũng là. phi công

Cách mở đầu câu chuyện theo kiểu tình cảm của viên đại sứ khó chơi này, làm cho Kỳ bỗng thấy hy vọng, và nhận thấy Martin cũng có những nét đáng mến. Đôi bên trao đổi cởi mở về tình hình chiến sự đang diễn biến và những vấn đề gay cấn mà chính quyền miền Nam phải đương đầu.

Martin bỗng hỏi:

- Thiếu tướng nghĩ gì về ông Thiệu trong cương vị hiện nay?

- Ủy ban chúng tôi chỉ muốn một điều là Thiệu phải từ chức và được thay thế bằng một chính phủ mạnh, có hiệu lực, để tổ chức chiến đấu chống Cộng sản.

- Tôi xin hỏi một câu có tính giả thuyết, nếu như ông có thể lập chính phủ mới, ông sẽ đối xử với tổng thống Thiệu như thế nào?

- Tôi căm ghét ông ta, vì ông ta có ảnh hưởng xấu tới vận mệnh đất nước tôi, nhưng tôi không có ý định trả thù một người như Thiệu, tôi sẽ để cho ông ta ra đi...

Dường như tiếc rẻ, Kỳ nói tiếp:

- Đúng ra, phán xét ông Thiệu và chính phủ của ông là nhiệm vụ của dân chủng, đó không phải là vấn đề của tôi. Tôi chỉ muốn có chính quyền để tổ chức chiến đấu.

- Thiếu tướng đã suy nghĩ gì về việc thành lập một chính phủ mới chưa?

Kỳ nêu tên một số nhân vật mà y đã dự kiến cho chính quyền mới, rồi nói tiếp:

- Nếu có một chính phủ như tôi mong muốn, chỉ trong ít ngày tôi có thể tổ chức kháng chiến có hiệu quả. Tình thế không cho phép chúng tôi trì hoãn nữa. Mỗi ngày qua là thêm một ngày đến gần thảm bại.

- Thiếu tướng nói sẽ chiến đấu, nhưng nói và làm rất khác nhau. Tôi biết là thiếu tướng có rất nhiều tin tức, nhưng ông sẽ chiến đấu bằng cái gì? Xin hãy nghĩ đến những mất mát của các ông chỉ riêng ở Đà Nẵng thôi!

- Những thảm bại như ở Đà Nẵng có thể là rất tai hại, chắc chắn chúng tôi đã mất một kho dự trữ khổng lồ ở ngoài đó, nhưng theo tin tức của tôi, thì vẫn còn đủ súng dạn dùng trong 3 tháng. Tôi biết rằng có thể cầm cự được không phải mãi mãi, nhưng đủ để tạo ra một không khí mới giúp chúng tôi ở trong tư thế mạnh khi thương thuyết hòa bình.

- Vậy thì bằng cách nào?

Người bạn của Kỳ nhanh nhẹn trải một tấm bản đồ mà y đem theo ngay trên nền nhà.

Kỳ cúi xuống nhìn tấm bản đồ, vốn quen biến báo, y vạch đại một đường bút chì ở phía bắc vịnh Cam Ranh, khoảng vĩ tuyến 13, cắt ngang từ Nha Trang.

- Chúng tôi phải chặn đứng Cộng sản ở đây. Nếu chúng tôi có thể cầm chân địch ở đây, đồng thời có một ban lãnh đạo mới và mạnh, thì sẽ tạo nên một bầu không khí mới và tôi cam đoan với ông sẽ được toàn dân ủng hộ. Khi ấy chúng tôi sẽ ở trong thế mạnh để tiến hành thương thuyết hòa bình với quân thù.

- Liệu binh sĩ có chiến đấu không?

- Dĩ nhiên là có... Những sĩ quan ở Đà Nẵng về, tới nhà tôi đều khao khát được phục thù. Bất chấp những lời tường thuật của báo chí, người Việt Nam không phải là những kẻ hèn nhát. Với lại, còn có sự lựa chọn nào khác đâu?

Sau hai giờ chuyện trò, Martin đứng lên cáo từ. Y bắt tay Kỳ nói:

- Tôi nghĩ là ông có lý. Ông Thiệu sẽ rất khó khăn nếu tình hình cứ tiếp tục phát triển xấu. Ông tính còn có thêm những ai trong chính phủ mới?

- Người không đến nỗi quá thiếu!

Ra tới cửa Martin nói thêm:

- Ông cũng biết không phải là dễ. Xin cho tôi vài ngày rồi tôi sẽ liệu xem có thể thu xếp thế nào.

Kỳ đã phơi bầy hết ruột gan với Martin. Y chỉ còn chưa nói tới dự kiến kế hoạch dùng lực lượng dù và lực lượng đặc biệt để tiến hành đảo chính.

Sau khi gặp Martin, Kỳ lập tức triệu tập bộ tham mưu của mình, vui vẻ thuật lại nội đung và tuyên bố:

- Giờ đây mọi sự đã thay đổi. Điều cần làm trước tiên là hủy bỏ cuộc đảo chính đã dự định.

Một viên phụ tá của Kỳ giội vào đầu y một gáo nước lạnh:

- Không tin được Martin. Martin có thể chơi trò hai mang để gạt chúng ta.

- Tôi không nghĩ như vậy! - Kỳ phản ứng.

Viên phụ tá không rút lui ý kiến:

- Martin đến chỉ nhằm ru ngủ chúng ta dừng hành động. Tại sao ông ta lại bất thần đến thăm ông? Đó chẳng qua chỉ cốt tỏ ra đại sứ Mỹ đã ở sau lưng chúng ta, chúng ta chẳng việc gì còn phải đảo chính!

Một phụ tá khác nói:

- Martin đến thăm ông chỉ cốt để dò xét sức mạnh phong trào của chúng ta.

Kỳ cố tình không muốn tin vào những lời khuyến cáo đó. Y kiên nhẫn ngồi đợi Tòa đại sứ Mỹ hành động trong khi những tỉnh miền Trung tiếp tục lần lượt thất thủ, bộ đội ta ngày càng tới gần cửa ngõ Sài Gòn.
 
3.

Những cuộc biểu tình chống Thiệu vẫn liên tiếp nổ ra tại Sài Gòn khiến cho đường phố nhiều lúc bị tắc nghẽn.

Cha Hoàng ngồi tại phòng áo của nhà thờ Gò Vấp với vẻ mặt nóng nảy. Ông mừng rỡ khi thấy Hai Long bước vào:

- Mình rất lo cho thầy, sợ có chuyện chi xẩy ra trên dọc đường. Sao thầy không về ở hẳn đây hay một nhà thờ nào khác có thuận tiện không?

- Con không muốn liên lụy tới các cha. Con đang ở tại gia đình của một người thuộc lực lượng thứ ba, yên tâm về mặt an toàn.

- Mình đã bàn với cha Lãm về việc giáo hội ra kiến nghị đòi xóa bản án cho thầy để thầy được tự do hoạt động. Nhưng cha Lãm và một số cha đều nói Thiệu không còn xứng đáng để giáo hội và các cha phải kiến nghị về vụ án oan của thầy. Thiệu sắp hết vai trò rồi.

- Con cũng nghĩ như vậy. Tình hình đang biến chuyển rất nhanh. Không còn mấy ngày nữa bộ đội Bắc Việt và Việt Cộng sẽ tiến vào Sài Gòn, một sự "ân xá" của Thiệu sẽ không lợi cho tư thế của con.

- Tại sao quân ta thua nhanh quá như vậy?

- Vì Mỹ đã dứt khoát bỏ rơi Việt Nam cộng hòa, Thiệu đã bị dân chúng quá chán ghét lại phạm phải nhiều sai lầm ngay từ ngày đầu trong đối phó với cuộc tiến công của đối phương, để quân lính thiệt hại quá nhiều nên họ mất hết tinh thần chiến đấu.

- Giáo dân mình sẽ đi tới đâu nếu làn sóng đỏ tràn ngập?

- Đức Thánh Cha đã trù liệu trước tình hình này. Đức Thánh Cha đã trở thành người bạn được tôn kính và biết ơn của cả Bắc Việt và Việt Cộng. Giáo hội Việt Nam cần tránh vết xe cũ để không chết chìm với Thiệu. Nếu Thiệu tuân theo thánh ý của Đức Thánh Cha, nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Paris thì đâu có tình hình hôm nay! Giáo hội Việt Nam muốn tồn tại phải hòa mình vào dân tộc như ý của Giáo hoàng. Muốn cứu Thiệu thì chỉ có cách buộc Thiệu phải từ chức và ra đi. Còn giáo hội ta phải bám vào Giáo hoàng Paul VI, phải lấy đường lối của Cộng đồng Vatican II làm con đường sống cho giáo hội. Trước tình trạng hiện nay ở Sài Gòn, phải ổn định tâm trạng của giáo dân, chống di tản, chống lưu vong, chống những tư tưởng và hành động tuyệt vọng. Cần noi gương Giáo hoàng Paul VI "canh tân hòa giải", gạt bỏ mọi mặc cảm, sống hòa hợp với đồng bào khi quân Giải phóng tới.

Nét mặt cha Hoàng lộ vẻ suy nghĩ rất lung. Rồi ông nói:

- Có việc rất gấp cần trao đổi trực tiếp với thầy. Mỹ vẫn còn chùng chình chưa muốn thay Thiệu ngay. Chính quyền Thiệu còn phải kéo dài cơn hấp hối. Khiêm và Đán đã xin từ chức. Thiệu định đưa Nguyễn Bá Cẩn thay Khiêm. Cẩn đến vận động mình ủng hộ, vô đề nghị mình làm cố vấn cho nó. Ý kiến thầy thế nào?

- Tất cả chỉ còn là chuyện mây bay gió thoảng. Nhưng con nghĩ cha nên nhận lời giúp Cẩn, vì giúp Cẩn tức là giúp Thiệu, để cứu Thiệu khỏi chết, cho Thiệu ra đi an toàn... Đề nghị cha nói với Thiệu, cầu Chúa tha tội cho ông ta, con đã ở tới phút cuối cùng bên Ngô Đình Nhu, con cũng sẽ ở bên Thiệu cho tới phút cuối cùng, con không bỏ bạn bè khi hoạn nạn. Con sẽ bảo đảm cho Thiệu ra đi đúng lúc và an toàn.

Trung tâm vừa chỉ thị cho anh, cần duy trì tình hình rối loạn hiện thời của ngụy quyền, cho tới khi bộ đội ta áp sát chung quanh Sài Gòn. Thiệu ra đi lúc nào là do ta.

- Thầy có về Bình An với mình bây giờ được không? - Cha Hoàng hỏi.

- Bữa nay thì chưa tiện. Con chỉ xin đi cùng cha một quãng trong thành phố. Cũng sắp tới ngày cha con ta được ngồi uống rượu lễ với nhau ở Bình An rồi. Con sẽ viết thư cho các cha nói về những điều con vừa thưa với cha.

- Tôi buồn lắm thầy ạ... Mình tưởng đã đi xa nhưng rồi cuối cùng vẫn gặp lại họ!

- Biết tính sao nếu đó là ý muốn của Chúa!

Cha Hoàng lái xe thả anh ở một quãng đường vắng với lời chúc lành. Hai Long biến vào trong một hẻm tối.

Ít ngày sau, ngày 8-4, Tòa Tổng giám mục Sài Gòn ra thông cáo:

"Để giúp cho người Công giáo tránh được những thái độ tiêu cực hoặc cực đoan bất lợi trong hoàn cảnh hiện tại, Tòa Tổng giám mục Sài Gòn nhận thấy có trách nhiệm nhắn nhủ anh chị em tín hữu mấy điểm quan trọng sau đây:

1. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, người Công giáo cũng phải cố gắng tự chủ, bình tĩnh nhờ Đức tin của mình để có thể nhận định thời cuộc một cách sáng suốt. Thái độ hốt hoảng chỉ có thể làm cho tình thế thêm trầm trọng và gây thêm nhiều hậu quả tai hại cho chính mình.

2. Giáo hội Công giáo Việt Nam tha thiết ước mong tình hình sớm được ổn định và an ninh của dân chúng được bảo đảm khắp nơi. Tuy nhiên không bao giờ Giáo hội chủ trương hay tán thành việc võ trang các giáo xứ hoặc thành lập các đạo quân Công giáo. Giáo hội cũng không hề chủ trương di dân lánh nạn ra ngoại quốc như nhiều tin đồn vô căn cứ được tung ra.

3. Tích cực hơn nữa, người Công giáo cũng như hết mọi người dân, đều phải cố gắng góp phần vào công việc vãn hồi hòa bình và hòa giải giữa người Việt Nam. Đó là một nhu cầu khẩn thiết của tình thế đồng thời cũng là một đòi hỏi của Tin Mừng Ki-tô giáo "mọi sự đến từ Thiên chúa, Đấng đã hòa giải chúng ta với Ngài, nhờ Đức Ki-tô, và đã giao cho chúng ta sứ mạng hòa giải".

Chính vì thế mà Giáo hội cũng ước mong việc thi hành Hiệp đinh Ba-lê một cách thành tín và công bình bởi hết mọi thành viên liên hệ, cuộc chiến đấu hiện tại được chấm dứt và cuộc sống hết mọi thành viên dân tộc được thực sự bảo đảm.

Phao-lồ Nguyền Văn Bình

Tổng giám mục Sài Gòn.

Bản thông cáo của Tòa Tổng giám mục đã khiến cho những linh mục nhận thư của Hai Long lầm tưởng anh được sự chỉ đạo riêng của Vatican.

Cũng ngày hôm đó, một máy bay ngụy bất thần trút hai trái bom xuống dinh Độc Lập rồi bay thẳng ra vùng vừa được giải phóng. Hai Long viết thư cho các cha nói đó là phe đối lập ném bom để cảnh cáo Thiệu, và nhắc lại một số điểm trong thông cáo của Tòa Tổng giám mục để minh chứng cho những điều mình đã nói trước đó.

Ngày 14-4, Nguyễn Bá Cẩn thành lập nội các mới. Trần Văn Đôn được cử giữ chức tổng trưởng Quốc phòng, cha Hoàng làm cố vấn.

Nhiều cha cố và giáo dân viết thư cho Hai Long tỏ sự bất bình về việc cha Hoàng nhận làm cố vấn cho nội các của Cẩn.

Ngày 19-4, Hai Long nhận được cùng một lúc cả thư của cha Hoàng và cha Lãm. Những bức thư đều viết vội với những gạch đầu dòng cho từng vấn đề.

Cha Hoàng viết:

"1.Đã phát hiện Trần Hữu Thanh là tay sai của Việt Minh, đã bắt được tài liệu chứng minh sự liên lạc với phe Việt Minh.

2. Nguyễn Văn Huyền nghiêng về Việt Minh, Thiệu muốn ra đi trong danh dự nhưng chưa hề đi được vì như thế Sài Gòn sẽ rối loạn.

3. Trần Minh Tiết là một trong số nhân vật được dự trù thay Thiệu.

4. Weyand sang Sài Gòn hội đàm với Thiệu, áp lực Thiệu dùng biện pháp làm dịu tình hình rối loạn (hai giờ sau nội các Trần Thiện Khiêm từ chức). Mình tương đồng tư tưởng với Cẩn là trong tình hình hiện nay cần phải ủng hộ Thiệu phục hồi và trấn tĩnh binh sĩ đang hoang mang xuống dốc.

5. Nguyễn Cao Kỳ tiếp tục muốn lật đổ Thiệu.

6. Ném bom dinh Độc Lập ngày 8-4-75 là ngu!

7. Đã chuyển lời thăm Thiệu. Thiệu rất cảm động, mong nhận được những khuyến cáo kịp thời. "Thầy đã đưa Thiệu lên thì sẽ đưa Thiệu xuống an toàn, Thiệu không mong gì hơn!".

Thư cha Lãm viết:

"- Vẫn thường xuyên liên lạc với cha Thanh và Kỳ. Mỹ rất xảo quyệt và thâm hiểm. Cha Thanh đã hết vai trò. Tòa đại sứ Mỹ đang tìm mọi cách để hạn chế Kỳ.

- Cha Hoàng nhận làm cố vấn cho Cẩn, chủ trương ủng hộ Thiệu (dù là chỉ trong một thời gian trước mắt) gây sự bất bình của các cha và nhiều giáo dân.

- Đã triệu tập được rất đông giáo dân để lật Thiệu. Đã dư sức để thay thế cha Hoàng. Sẽ cử cha Thụ tới bàn kỹ.

Chúc lành. "Pierre, con là đá!"[2].

Linh mục Thụy từ Côn Đảo viết thư về nói theo nguồn tin của Mỹ ở đây thì Thiệu sắp bị lật đổ, tình hình ở đảo khẩn trương, sinh mệnh của tù chính trị rất đáng lo ngại.

Linh mục Chân Tín và bà Ngô Bá Thành gửi nhiều tài liệu về lực lượng thứ ba.

Trung tâm chỉ thị cho Hai Long hối thúc Thiệu từ chức ngay bằng cách trao quyền lại cho Trần Văn Hương, vô hiệu hóa chính quyền ngụy một thời gian. Tình hình rất khẩn trương. Người thay Thiệu có thể là Minh Lớn.

Hai Long viết thư cho cha Hoàng và cha Nhuận: "Thiệu cần từ chức ngay, nếu không sẽ bị lật đổ bằng đảo chính quân sự, tính mệnh sẽ khó an toàn. Con đường rút lui danh dự và an toàn là kịp thời tuyên bố từ chức và trao quyền lại cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Sau khi Thiệu rút, cha nên tách ngay khỏi Cẩn. Người có khả năng thay thế là Dương Văn Minh, vì Minh được sự chấp nhận của Vatican và có cảm tình của Mặt trận Giải phóng.
 
4.

Nguyễn Cao Kỳ chờ đỏ mắt vẫn không nhận được tín hiệu của Martin. Ở nhà Kỳ có một đường dây điện thoại riêng trực tiếp chạy tới Tòa đại sứ Mỹ. Chiếc máy không bao giờ réo chuông. Người bạn của Kỳ ở đó cũng mất hút. Cuối cùng, Kỳ đành phải chủ động gọi dây nói cho anh ta:

- Có chuyện gì xảy ra vậy? - Kỳ hỏi người bạn.

Người ở đầu dây cỏ vẻ ngập ngừng:

- Trong lúc này, chúng tôi bị bó tay. Khó vô cùng, tế nhị vô cùng! Xin ông cắt dây nói, chờ chúng tôi sẽ cho ông biết sau...

Tay chân của Kỳ từ dinh Độc Lập mang tin về Thiệu sắp từ chức. Kỳ không tin, vì cho rằng nếu có chuyện đó thì Martin phải thông báo ngay cho mình, để mình cùng Mặt trận cứu nguy dân tộc hành động. Qua cuộc gặp gỡ với Martin, Kỳ vẫn đinh ninh người thay thế Thiệu chỉ có thể là mình. Giữa lúc đó, người bạn ở Tòa đại sứ Mỹ xuất hiện.

Kỳ mừng rỡ chưa kịp cất tiếng thì y đã đưa ra mọt câu hỏi đột ngột:

- Có đúng là một số tướng người Bắc như ông đang âm mưu đảo chính không?

Kỳ lúng túng không biết trả lời ra sao.

- Tôi muốn nói một hành động chống Minh Lớn? - Y nói tiếp.

Kỳ ngây ngô:

- Tôi không biết gì. Nhưng tại sao lại liên quan tới Minh Lớn? Tại sao chúng tôi lại phải chống ông ta? Ông đâu phải là người trong chính quyền?

- Vậy thì tôi cho rằng mình có nhiệm vụ phải nói với thiếu tướng, nếu ông quả có một hành động chống Minh Lớn thì Washington và Hà Nội sẽ trách cứ ông về bất cứ điều gì xảy ra sau này!

Kỳ giận dữ:

- Nếu Minh Lớn làm tổng thống thì Việt Nam cộng hòa sẽ sụp đổ trong 24 giờ! Tại sao Cộng sản lại thương thuyết với Minh Lớn? Ông ta hiện nay không được lòng dân và sẽ chẳng bao giờ được lòng dân...

Nhưng người bạn Mỹ của Kỳ không tranh luận cũng như giải thích thêm, vội vàng chào ra về.

Ngày hôm sau, 21-4, Thiệu xuất hiện trên đài vô tuyến truyền hình với bộ quần áo ký giả và bộ mặt thiểu não, một hình ảnh hoàn toàn trái ngược với lúc Thiệu đội khăn vàng, mặc áo gấm đỏ thêu rồng đi trong dinh Độc Lập. Bài nói của Thiệu kéo dài cả tiếng đồng hồ, đầy những lời cay cú, hằn học, oán trách Mỹ thiếu quyết tâm, bội ước, không làm tròn nhiệm vụ với đồng minh. "Các ông bỏ chạy, để mặc chúng tôi làm cái việc mà các ông làm không xong. Chúng tôi không có gì hết, thế mà các ông lại muốn chúng tôi hoàn thành cái điều mà các ông không hoàn thành nổi... Khi ký Hiệp định hòa bình, Mỹ đã thỏa thuận sẽ thay thế vũ khí trên cơ bản một đổi một. Nhưng Mỹ không giữ lời. Ngày nay còn ai có thể tin vào lời hứa hẹn của Mỹ nữa không?..".

Bài diễn văn từ chức của Thiệu giống như những tiếng rên la trong khi tiếng súng đại bác từ vùng chung quanh Sài Gòn vọng về.

Kỳ tuyệt vọng tự lái xe Jeep tới dinh tổng thống tìm Hương. Y phải chờ suốt một giờ mới được Hương tiếp.

Kỳ nài nỉ:

- Xin tổng thống bổ nhiệm tôi làm tư lệnh quân lực. Xin cho tôi một chức vụ chính thức để có thể nêu cao danh dự của một quân nhân.

Ông già Hương cất giọng nói the thé:

- Tôi không thể làm như vậy. Một người đã từng làm phó tổng thống, làm thủ tướng, không thể bỗng nhiên trở lại làm tư lệnh quân lực! Không thể được đâu. Nhưng có lẽ vài ngày nữa tôi có thể bổ nhiệm thiếu tướng làm phụ tá đặc biệt về quân sự.

- Nhưng tổng thống không thể đợi được vài ngày đâu. Tôi không cần nghi thức. Tôi muốn lãnh nhiệm vụ ngay bây giờ.

Ông già Hương một mực lắc dầu. Ông già cũng chỉ còn ngồi làm vì chờ người ta bảo ra đi.

Ngày 23-4, Nguyễn Bá Cẩn và toàn bộ nội các xin từ chức.

Không khí Sài Gòn trở nên hỗn loạn và kinh hoàng.

Sáng 25-4, Hai Long nhận được thư của linh mục Liên, phụ tá của cha Nhuận.

"Cha nói thử hỏi ông giáo mấy điều, ông giáo cho biết càng sớm càng hay:

1. Sài Gòn có bị đánh không?

2. Hà Nội thực sự có thanh trừng không? Tình hình sẽ ra sao?

3. Phương thức cai trị miền Trung ra sao?

4. Hiện tại Bắc Việt và Giải phóng có bất đồng ý kiến với nhau không?

5. Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Quỳnh Hoa có phải là Cộng sản không?

6. Hiện tình đất nước rồi sẽ đi về đâu?

7. Cố thu xếp để Đức cha Hòa về Phan Thiết, Đức cha Nghi về Sài Gòn.

8. Liên lạc mới có thể liên lạc với ai? Ở đâu?

Chào mến. Chúc bằng an trong Chúa."

Hai Long trả lời vắn tắt:

"1. Sài Gòn sẽ được giải phóng. Cứ bám sát đài Mặt trận Giải phóng, Ủy ban Mặt trận hiệu triệu đồng bào đến đâu là giải phóng đến đó.

2. Không có vấn đề thanh trừng.

3. Miền Trung cai trị theo cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng

4. Không có bất đồng ý kiến nào giữa Bắc Việt và Giải phóng.

5. Ba vị trên đều là trí thức yêu nước.

6. Đất nước sẽ hoàn toàn giải phóng. Mỹ sẽ chịu thua và rút khỏi Việt Nam.

7. Sẽ cố thu xếp thực hiện ý kiến của cha.

8. Liên lạc mới cứ giữ vững với Liên trong bất cứ tình huống nào".

Ngày 26-4, những quân đoàn của ta từ 5 hướng đồng loạt mở cuộc tiến công về Sài Gòn. Khắp nơi quân ngụy chiến đấu một cách tuyệt vọng.

Thiệu và Khiêm đáp máy bay rời Sài Gòn sang Đài Loan, nơi anh ruột của Thiệu đang còn làm đại sứ. Thiệu mang theo 5 va li chứa đầy dollar. Trước đó, Thiệu đã mướn một chiếc máy bay chở hành khách cỡ lớn của Mỹ, đưa khỏi Việt Nam 17 tấn vàng bạc, châu báu, tài sản quý mà gia đình y đã vơ vét được sau 2 nhiệm kỳ làm tổng thống.
 
×
Quay lại
Top