- Tham gia
- 17/12/2011
- Bài viết
- 5.437
Xe ôtô chạy nốt những phút cuối cùng của cái đêm dài ấy, đèn pha rọi sáng những vệt màu da cam và trắng xen kẽ nhau giữa từng chỗ ngoặt lượn theo vết lõm cảu vách đá và từng đoạn đường thẳng chạy dọc một đầm lầy hay một bãi biển vắng tanh. Lauren thiu thiu ngủ, Paul lặng lẽ lái xe, tập trung vào đường và chìm trong những suy nghĩ của mình. Arthur lợi dụng khoảnh khắc yên tĩnh này để kín đáo lấy từ túi ra bức thư mà anh đã nhét vào đó khi lấy chùm chìa khóa dài và to trong tủ tài liệu ở nhà anh.
Khi anh bóc thư, một mùi hương đầy kỷ niệm tỏa ra, đó là hỗn hợp của hai thứ tinh dầu mà mẹ anh pha trộn trong chiếc bình con bằng pha lê màu vàng có nút bằng bạc mờ. Hương thơm thoát từ phong bì đem theo ra cả những kỷ niệm về mẹ anh. Arthur rút thư từ phong bì và mở nó ra một cách cẩn thận.
Arthur của mẹ,
Nếu con đọc những dòng này có nghĩa là cuối cùng con đã quyết định lên đường về Carmel. Mẹ rất tò mò muốn biết bây giờ con bao nhiêu tuổi. Con có trong tay những chiếc chìa khóa của ngôi nhà mà ở đó mẹ con mình đã sống cùng nhau những năm thật đẹp. Mẹ biết rằng con không trở về đây ngay lập tức, rằng con sẽ đợi đến lúc cảm thấy mình sẵn sàng đánh thức ngôi nhà này dậy.
Arthur của mẹ, con sắp bước qua cánh cửa mà tiếng động của nó đối với mẹ thân thuộc biết bao. Con sẽ đi khắp từng gian phòng chứa đầy những niềm tiếc nhớ. Con sẽ lần lượt mở từng cánh cửa chớp để cho ùa vào những tia nắng mặt trời mà mẹ sẽ thiếu biết chừng nào. Con hãy trở ra vườn hoa hồng, hãy nhẹ nhàng đến bên những đóa hoa. Trong suốt thời gian này, hẳn là chúng đã biến thành hoa dại.
Con cũng sẽ đi xuống phòng làm việc của mẹ, con sẽ ngồi vào đó. Trong tủ con sẽ tìm thấy một chiếc vali nhỏ màu đen, hãy mở nó ra nếu con muốn, nếu con đủ sức. Nó chứa những cuốn vở đầy những trang mà mẹ đã viết cho con mỗi ngày cảu tuổi thơ con. Cuộc đời con ở phía trước con; con là người chủ duy nhất của nó. Hãy xứng đáng với “tất cả những gì mà ta đã yêu”.
Mẹ yêu con từ trên cao này, mẹ chăm chú dõi theo con.
Mẹ Lili của con.
Khi họ đến vịnh Monterey, bình minh bắt đầu nhú lên. Bầu trời choàng một mảnh lụa màu hồng nhạt, kết những dải ruy băng dài lượn sóng, thỉnh thoảng như lại chạm vào mặt biển ở phía chân trời. Arthur chỉ đường. Nhiều năm đã trôi qua, anh chưa bao giờ đi con đường này mà ngồi ở hàng ghế trước của ôtô cả, thế nhưng mỗi cây số đều có vẻ thân thuộc với anh, mỗi hàng rào, mỗi cái cổng đi qua đều hướng anh về với ký ức tuổi thơ. Anh lấy tay ra hiệu khi phải rời đường cái. Sau chỗ ngoặt sắp tới có thể thấy thấp thoáng khu nhà. Paul đi theo những chỉ dẫn của anh; một đoạn đường đất bị xói mòn bởi những cơn mưa mùa đông và được làm khô lại bởi cái nóng mùa hè. Đến một chỗ ngoặt uốn cong, cánh cửa sắt màu xanh lá cây hiện ra trước mặt họ.
- Chúng ta đã đến nơi - Arthur nói.
- Mày có chìa khóa chứ?
- Tao đi mở cửa đây, mày lái xe đến sát tận nhà và đợi tao, tao xuống đi bộ.
- Cô ta đi với mày hay ở lại trong ôtô?
Arthur thò đầu vào xe và ung dung trả lời :
- Thì mày cứ hỏi thẳng cô ấy!
- Không, tao không thích thế.
- Em để anh đi một mình, em nghĩ lúc này như vậy là hơn - Lauren nói với Arthur.
Arthur mỉm cười và nói với Paul :
- Cô ấy ngồi lại với mày, cái thằng số đỏ!
Ôtô đi xa dần, kéo theo một đám bụi mù ở phía sau. Đứng lại một mình, anh lặng ngắm khung cảnh xung quanh anh. Những dải đất đỏ rộng trên trồng một vài cây thông lọng hay cây thông bạc, những cây cù tùng, những cây lựu và những cây minh quyết, tất cả dường như chạy dài ra tận biển. Nền đất phủ đầy những chiếc gai đã bị mặt trời làm cháy xém. Anh đi theo chiếc cầu thang nhỏ bằng đá bên lể đường. Đi được nửa chừng, anh thấy thấp thoáng phía bên tay phải mình cái còn lại của vườn hồng ngày xưa. Khu vườn bị bỏ hoang, vô số mùi hương quyện lẫn vào nhau gợi lên theo mỗi bước chân một vũ điệu farandole không thể kiểm soát nổi của những kỷ niệm khứu giác.
Khi anh đi qua, lũ ve sầu im bặt đi giây lát rồi lại tiêp tục hát say mê hơn. Những cây to cong xuống trước làn gió nhẹ buổi ban mai. Biển đập một vài con sóng lên các mỏm đá. Trước mặt anh, anh thấy ngôi nhà đang thiêm thiếp ngủ, hệt như anh đã để lại nó trong những giấc mơ của mình. Anh thấy nó có vẻ nhỏ hơn, mặt ngoài bị hư hỏng đôi chút nhưng mái ngói thì vẫn còn nguyên vẹn. Những cánh chớp đóng kín. Paul đỗ xe trước cổng và đang đợi anh bên ngoài ô tô.
- Mày mất khá thời gian để đến đấy!
- Hơn hai mươi năm!
- Ta làm gì đây?
Họ mang cơ thể Lauren vào quòng làm việc ở tầng dưới cùng. Anh đặt chìa khóa vào ổ khóa và vặn không hề do dự. Trí nhớ chứa đựng những mẩu kỷ niệm mà nó biết tung ra bất cứ lúc nào, không để người ta hiều tại sao. Tiếng động trong ổ khóa và vặn không hề do dự, đúng như việc cần làm. Trí nhớ chứa đựng những mẩu kỷ niệm mà nó biết tung ra bất cứ lúc nào, không để người ta hiểu tại sao. Tiếng động trong ổ khóa vang lên đối với anh cũng dường như quá nhanh. Anh bước vào hành lang, mở cửa phòng làm việc ở bên trái lố vào, đi ngang qua căn phòng và mở cửa chớp. Anh cố tình không chú ý tí nào đến mọi thứ xung quanh mình, việc khám phá lại nơi này sẽ để lúc sau, và anh đã quyết định hưởng trọn vẹn những giây phút ấy. Rất nhanh chóng những hòm đồ đạc được tháo dỡ, cơ thể Lauren được đặt nằm trên đi văng, ống truyền được lắp lại.. Arthur khép lại cửa chớp bằng then móc. Rồi anh cầm lấy cái hộp các tông nhỏ màu nâu, và rủ Paul theo anh vào bếp: “Tao sẽ pha cà phê cho bọn mình mày mở hộp ra đi, tao sẽ đun nước nóng”
Anh mở ngăn tủ phía dưới bồn rửa bát, và lôi ra một vật bằng kim loại, hình thù kỳ quặc, gồm hai phần dối xứng và dối lập. Anh bắt đầu tháo nó ra bằng cách quay từng phần một ngược chiều nhau.
- Cái gì thế? - Paul hỏi.
- Bình pha cà phê kiểu Italia đấy!
- Bình pha cà phê kiểu Italia?
Arthur giải thích cho bạn cách vận hành của bình cà phê, lợi ích đầu tiên là không cần dùng giấy lọc và như vậy hương thơm sẽ giữ lại tốt hơn. Phải cho hai đến ba thìa cà phê đầy vào trong cái phiễu nhỏ nằm giữa phần dưới được đổ đầy nước và phần trên. Phải vặn chặt hai khoang lại và đặt tất cả lên bếp đun. Nước sôi sẽ trào lên, thấm qua cà phê đựng trong cái phễu nhỏ và chuyển sang phần trên, được lọc chỉ bằng một cái lưới mỏng bằng kim loại. Bí quyết duy nhất để thành công chỉ là phải kéo bình pha cà phê ra khỏi ngọn lửa đúng lúc, vì đó không phải là nước nữa, mà là cà phê rồi, và “cà phê sôi, cà phê ôi!”. Khi anh giải thích xong, Paul huýt sáo lên một tiếng :
- Này, cần phải là kỹ sư biết hai thứ tiếng mới pha cà phê được trong cái nhà này à?
- Còn cần hơn thế nhiều, ông bạn ơi, phải có tài, đó là cả một nghi lễ đấy!
Paul vừa bĩu môi tỏ ý nghi ngờ để trả lời câu nói của bạn, vừa chìa cho bạn gói cà phê. Athur cúi người xuống để mở bình ga đặt dưới bồn rửa bát. Rồi anh vặn chiếc vòi ở bên trái cái bếp, và cuối cùng là núm bật bếp.
- Mày nghĩ vẫn còn có ga à?
- Antoine không bao giờ để lại ngôi nhà với bình ga rổng trong bếp, và tao cuộc với mày là còn ít nhất hai bình ga đầy nữa ở trong gara.
Một cách máy móc, Paul đứng lên, đi ra phía công tắc ở cạnh cửa và ấn một cái. Một làn ánh sáng màu vàng tỏa khắp căn phòng.
- Mày làm thế nào mà lại có điện trong căn nhà này được?
- Hôm kia tao đã điện thoại đến công ty điện để họ cho lại điện, cả nước cũng thế, nếu như mày lo lắng, nhưng tắt đèn đi, phải lau bụi ở bóng đèn cái đã, nếu không khi bị nóng lên, nó sẽ nổ tung đấy.
- Mày học những cái đó ở đâu, pha cà phê kiểu Italia với lại lau bụi để bóng đèn khỏi nổ?
- Ở đây, ông bạn ạ, trong gian phòng này, và tao còn học vô số điều khác nữa.
- Thế cà phê được chưa?
Arthur đặt hai cái chén lên chiếc bàn gỗ. Anh rót vào chén nước cà phê nóng bỏng.
- Đợi đã rồi hãy uống - Anh nói.
- Tại sao?
- Vì nếu không mày sẽ bị bỏng, với lại trước tiên mày nên hít hương cà phê cái đã. Để cho mùi thơm thấm dần vào mũi mày.
- Mày làm tao phát ngấy với cái món cà phê của mày, ông bạn ạ, chả có cái gì thấm vào mũi tao sất! Đúng là tao đang nằm mơ. Để cho mùi thơm thấm dần vào mũi mày, nhưng mày kiếm đâu ra được cái của ấy chứ?
Paul nâng chén cà phê lên miệng, anh phun vội ra ngay lập tức chút nước nóng bỏng mà anh vừa uống. Lauren đến đứng sau lưng Arthur và vòng tay ôm anh. Cô tựa đầu lên vai anh và nói thầm vào tai anh :
- Em thích nơi này, em cảm thấy dễ chịu ở đây, khung cảnh thật là êm dịu.
- Lúc nãy em ở đâu?
- Em làm một vòng quanh khu nhà trong khi các anh triết lý về cà phê
- Vậy em thấy sao?
- Mày lại đang nói với cô ta đấy à? - Paul ngắt lời bằng một giọng bực tức.
Không hề chú ý đến câu hỏi của Paul, Arthur quay sang Lauren :
- Em thích à?
- Lẽ ra phải tỏ vẻ khó tính - Cô trả lời - nhưng anh phải kể cho em nghe nhiều điều bí mật đấy, ở đây đầy những điều bí mật, em có thể cảm thấy điều đó trong mỗi bức tường, mỗi đồ vật.
- Nếu tao quấy rầy mày thì mày cứ việc coi như tao không có ở đây! - Ông bạn chí thân của Arthur lại nói.
Lauren không muốn tỏ ra bội bạc nhưng cô rỉ tai anh rằng cô rất muốn được một mình với anh. Cô nóng ruột muốn được anh dẫn đi xem các nơi. Cô nói thêm rằng cô rất muốn họ được nói chuyện với nhau. Anh muốn biết là về điều gì, cô trả lời: “Về nơi này, về trước đây”.
Paul chờ đợi để Arthur cuối cùng cũng hạ cố nói với anh nhưng Arthur có vẻ lại tiếp tục trò chuyện với người bạn vô hình của mình. Paul đành quyết định ngắt lời họ.
- Nào, mày có cần đến tao nữa hay không, không thì tao quay về San Fransisco, có nhiều việc ở công ty với lại những cuộc chuyện trò cùa mày với Phantomas làm cho tao khó chịu.
- Đừng có hẹp hòi thế, được không?
- Xin lỗi! Chắc là tao nghe nhầm. Mày vừa mới bảo một thằng đã giúp mày đánh cắp một cơ thể người trong bệnh viện vào một tối chủ nhật, bằng một xe cứu thương lấy trộm, một thằng vừa uống cà phê kiều Italia ở một nơi cách nhà hắn bốn tiếng đồng hồ, đêm không được ngủ và mày bào hắn là đứng có hẹp hòi! Mày thật quá đáng!
- Tao có định nói thế đâu.
Paul không biết Arthur định nói gì nhưng anh muốn trở về trước khi họ cãi lộn “bởi vì điều đó có thể xảy ra, mày thấy đấy, và như vậy thì thật đáng tiếc, vì đã phải bỏ biết bao công sức cho đến tận lúc này”. Arthur lo lắng hỏi xem bạn anh có đủ sức để đi đường không. Paul trấn an bạn, với chén cà phê kiểu Italia (anh nhấn mạnh từ này một cách mỉa mai) mà anh vừa uống, anhc ó thể đi được ít nhất hai mươi tiếng đồng hồ trước khi cái mệt dám làm anh ríu mắt. Arthur không đáp lại lời châm chọc. Về phần Paul, anh cũng lo lắng vì để bạn lại không có ôtô trong ngôi nhà bỏ hoang này.
- Có cái xe Ford trong gara.
- Cái xe Ford của mày chạy lần cuối cùng khi nào?
- Lâu rồi!
- Liệu nó có nổ máy được không, cái xe Ford ấy.
- Nhất định rồi, tao sẽ thay acquy, nó sẽ nổ thôi.
- Nhất định rồi! Với lại, xét cho cùng thì nếu mày có bị mắc kẹt ở đây, mày cứ tự xoay xở lấy. Tao giúp mày đêm nay thế là đủ lắm rồi.
Arthur tiễn Paul ra tận ôtô.
- Đừng lo cho tao, mày đã giúp tao nhiều rồi.
- Nhưng tất nhiên là tao phải lo cho mày chứ. Bình thường ra thì tao sẽ bỏ mặc mày một mình trong ngôi nhà này và tao sẽ khiếp sợ với ý nghĩ về các hồn ma, nhưng mà mày, đã thế mày lại còn mang thêm hồn ma của mày đến nữa!
- Biến đi!
Paul cho xe nổ máy, anh hạ cửa kính xuống trước khi đi.
- Mày có chắc là sẽ ổn cả không?
- Chắc chắn.
- Vậy thì tao đi đây.
- Paul!
- Gì?
- Cảm ơn về tất cả những cái mày làm.
- Có gì đâu.
- Có chứ, nhiều lắm chứ, mày đã phải chịu bao nhiêu mạo hiểm vì tao, trong khi chưa hiểu rõ hẳn mọi việc, chỉ vì sự trung thành và tình bạn mà thôi, như vậy là rất nhiều, và tao biết điều đó.
- Tao biết là mày biết. Thôi, tao đi đây, nếu không bọn mình lại khóc tong tong mất. Nhớ giữ gìn sức khỏe và báo tin đến cơ quan cho tao nhé.
Những lời hứa hẹn tuôn ra, và chiếc Saab nhanh chóng mất hút sau quả đồi. Lauren bước ra bậc thềm.
- Nào - Cô nói - ta đi một vòng quanh khu nhà chứ?
- Bên trong hay bên ngoài trước
- Trước hết chúng ta đang ở đâu?
- Em đang ở trong ngôi nhà của Lili.
- Lili là ai?
- Lili là mẹ anh, chính ở đây anh đã lớn lên một nửa thời thơ ấu của mình.
- Mẹ anh mất lâu rồi à?
- Lâu lắm rồi.
- Và chưa bao giờ anh trở lại đây cả?
- Chưa bao giờ.
- Tại sao?
- Vào nhà đi! Ta sẽ nói chuyện đó sau, khi nào xem nhà xong đã.
- Tại sao? - Cô hỏi vặn.
- Anh quên mất rằng em cứng đầu cứng cổ như một con la. Tại thế đấy!
- Có phải em đã khiến anh trở lại nơi này không?
- Em không phải là hồn ma duy nhất của đời anh - Anh nói bằng một giọng dịu dàng.
- Anh phải trả giá đắt khi trở lại đây.
- Nói như vậy là không chính xác, có thể coi là điều đó quan trọng đối với anh.
- Và anh đã làm như vậy vì em?
- Anh làm điều đó vì đã đến lúc cần phải thử.
- Thử làm gì?
- Mở chiếc vali nhỏ màu đen.
- Anh vui lòng giải thích cho em về cái vali nhỏ màu đen chứ?
- Đó là những kỷ niệm.
- Anh có nhiều kỷ niệm ở đây?
- Gần như là tất cả. Đây là nhà anh mà.
- Thế sau khi ở đây thì sao?
- Sau đó anh đã cố làm sao cho mọi thứ trôi qua thật nhanh, sau đó anh đã tự lớn lên rất nhiều
- Mẹ anh chết đột ngột à?
- Không, mẹ anh chết vì bệnh ung thư, mẹ anh biết điều đó, chỉ có đối với anh là chuyện đó xảy ra quá nhanh thôi. Đi theo anh, anh sẽ dẫn em ra thăm khu vườn. Hai người đi ra bậc thềm, và arthur dẫn Lauren đến tận chỗ bờ biển tiếp giáp với khu vườn. họ ngồi xuống mép đá.
- Nếu em biết được anh đã ngồi ở đây bao nhiêu giờ với mẹ anh, anh đếm những ngọn sóng và đánh cuộc với mẹ. Hai mẹ con thường đến xem mặt trời lặn. Nhiều người ở đây ra bãi biển buổi tối, chừng nửa giờ, để xem cảnh này. Mỗi ngày cảnh tượng lại có một vẻ khác. Do nhiệt độ của biển, của không khí, do đủ mọi thứ mà màu sắc của bầu trời không bao giờ giống nhau. Cũng như ở thành phố, mọi người về nhà xem chương trình thời sự trên ti vi vào những giờ cố định, ở đây thì dân chúng đi ra xem mặt trời lặn, đó đã thành một tục lệ rồi.
- Anh sống ở đây lâu không?
- Hồi ấy anh là một chú nhóc con, anh được mười tuổi thì mẹ anh mất.
- Tối nay anh chỉ cho em xem mặt trời lặn nhé!
- Đó là một nghĩa vụ ở đây - Anh mỉm cười nói.
Sau lưng họ, ngôi nhà bắt đầu rực lên trong ánh sáng ban mai. Lớp sơn ở mặt ngoài phía trông ra biển đã bị hư hại, nhưng nhìn chung ngôi nhà đã kháng cự tốt với tháng năm. Từ ngoài nhìn vào, không ai có thể tin được rằng nó đã ngủ một giấc dài như vậy.
- Nó đã chống chọi tài đấy chứ? - Lauren nói.
- Antoine đã chăm chút ngôi nhà như một kẻ ương gàn. Làm vườn, sửa chữa đồ đạc, câu cá, trông trẻ, gác nhà, đó là một nhà văn không thành đạt mà mẹ anh đã đón về. Trước khi bố anh bị tai nạn máy bay, đó là một người bạn của bố mẹ anh. Anh cho rằng bác ấy luôn luôn yêu mẹ anh, ngay cả khi bố anh còn đó. Anh ngờ rằng cuối cùng họ đã trở thành tình nhân, nhưng đó là mãi về sau. Bác ấy ở trong tâm tư mẹ anh khi bà còn sống, mẹ anh ở trong tâm tư bác ấy của những năm để tang. Cả hai người đều ít nói, ít ra là những khi anh thức, nhưng họ vô cùng đồng điệu. Họ hiểu nhau từ cái nhìn. Trong sự yên lặng chung của họ, họ chữa lành tất cả những bão táp của đời mình. Giữa hai người ấy có sự bình thản đến kinh ngạc. Cứ như là cả hai đều đã thề không bao giờ biết đến tình cảm tức giận hay nổi loạn nữa.
- Cuối cùng ông ấy thế nào?
- Khép mình lại trong phòng làm việc, nơi đặt cơ thể Lauren bây giờ, ông đã sống thêm được mười năm sau Lili. Antoine đã dùng phần cuối của đời ông vào việc bảo dưỡng ngôi nhà. Lili đã để lại tiền cho ông, đó là phong cách của bà, dự kiến trước mọi điều, ngay cả điều không thể dự kiến được. Về mặt đó, Antoine giống bà. Ông mất ở bệnh viện vào đầu một mùa đông. Một buổi sáng nắng và se lạnh, ông tỉnh dậy trong người mệt mỏi. Khi đang tra dầu vào bản lề ở cổng, một cơn đau âm ỉ len lỏi vào ngực ông. Ông đi lại giữa hàng cây để lấy thêm không khí mà đột nhiên ông cảm thấy thiếu vô cùng. Cây thông già mà dưới bóng nó ông thường ngủ trưa vào mùa xuân và mùa hè đã đón nhận ông dưới những cành của nó, khi ông ngã và không thể gượng lại được. Bị cơn đau quật ngã, ông đã bò đến tận nhà và gọi hàng xóm đến giúp. Được chở đến phòng cấp cứu Monterey, ông đã tắt thở tại đó vào ngày thứ hai sau. Có thể nghĩ rằng ông đã chẩun bị trước cho sự ra đi của mình. Khi ông mất, công chứng viên của gia đình đã liên lạc với Arthur để hỏi xem anh cần phải làm gì với ngôi nhà.
Khi anh bóc thư, một mùi hương đầy kỷ niệm tỏa ra, đó là hỗn hợp của hai thứ tinh dầu mà mẹ anh pha trộn trong chiếc bình con bằng pha lê màu vàng có nút bằng bạc mờ. Hương thơm thoát từ phong bì đem theo ra cả những kỷ niệm về mẹ anh. Arthur rút thư từ phong bì và mở nó ra một cách cẩn thận.
Arthur của mẹ,
Nếu con đọc những dòng này có nghĩa là cuối cùng con đã quyết định lên đường về Carmel. Mẹ rất tò mò muốn biết bây giờ con bao nhiêu tuổi. Con có trong tay những chiếc chìa khóa của ngôi nhà mà ở đó mẹ con mình đã sống cùng nhau những năm thật đẹp. Mẹ biết rằng con không trở về đây ngay lập tức, rằng con sẽ đợi đến lúc cảm thấy mình sẵn sàng đánh thức ngôi nhà này dậy.
Arthur của mẹ, con sắp bước qua cánh cửa mà tiếng động của nó đối với mẹ thân thuộc biết bao. Con sẽ đi khắp từng gian phòng chứa đầy những niềm tiếc nhớ. Con sẽ lần lượt mở từng cánh cửa chớp để cho ùa vào những tia nắng mặt trời mà mẹ sẽ thiếu biết chừng nào. Con hãy trở ra vườn hoa hồng, hãy nhẹ nhàng đến bên những đóa hoa. Trong suốt thời gian này, hẳn là chúng đã biến thành hoa dại.
Con cũng sẽ đi xuống phòng làm việc của mẹ, con sẽ ngồi vào đó. Trong tủ con sẽ tìm thấy một chiếc vali nhỏ màu đen, hãy mở nó ra nếu con muốn, nếu con đủ sức. Nó chứa những cuốn vở đầy những trang mà mẹ đã viết cho con mỗi ngày cảu tuổi thơ con. Cuộc đời con ở phía trước con; con là người chủ duy nhất của nó. Hãy xứng đáng với “tất cả những gì mà ta đã yêu”.
Mẹ yêu con từ trên cao này, mẹ chăm chú dõi theo con.
Mẹ Lili của con.
Khi họ đến vịnh Monterey, bình minh bắt đầu nhú lên. Bầu trời choàng một mảnh lụa màu hồng nhạt, kết những dải ruy băng dài lượn sóng, thỉnh thoảng như lại chạm vào mặt biển ở phía chân trời. Arthur chỉ đường. Nhiều năm đã trôi qua, anh chưa bao giờ đi con đường này mà ngồi ở hàng ghế trước của ôtô cả, thế nhưng mỗi cây số đều có vẻ thân thuộc với anh, mỗi hàng rào, mỗi cái cổng đi qua đều hướng anh về với ký ức tuổi thơ. Anh lấy tay ra hiệu khi phải rời đường cái. Sau chỗ ngoặt sắp tới có thể thấy thấp thoáng khu nhà. Paul đi theo những chỉ dẫn của anh; một đoạn đường đất bị xói mòn bởi những cơn mưa mùa đông và được làm khô lại bởi cái nóng mùa hè. Đến một chỗ ngoặt uốn cong, cánh cửa sắt màu xanh lá cây hiện ra trước mặt họ.
- Chúng ta đã đến nơi - Arthur nói.
- Mày có chìa khóa chứ?
- Tao đi mở cửa đây, mày lái xe đến sát tận nhà và đợi tao, tao xuống đi bộ.
- Cô ta đi với mày hay ở lại trong ôtô?
Arthur thò đầu vào xe và ung dung trả lời :
- Thì mày cứ hỏi thẳng cô ấy!
- Không, tao không thích thế.
- Em để anh đi một mình, em nghĩ lúc này như vậy là hơn - Lauren nói với Arthur.
Arthur mỉm cười và nói với Paul :
- Cô ấy ngồi lại với mày, cái thằng số đỏ!
Ôtô đi xa dần, kéo theo một đám bụi mù ở phía sau. Đứng lại một mình, anh lặng ngắm khung cảnh xung quanh anh. Những dải đất đỏ rộng trên trồng một vài cây thông lọng hay cây thông bạc, những cây cù tùng, những cây lựu và những cây minh quyết, tất cả dường như chạy dài ra tận biển. Nền đất phủ đầy những chiếc gai đã bị mặt trời làm cháy xém. Anh đi theo chiếc cầu thang nhỏ bằng đá bên lể đường. Đi được nửa chừng, anh thấy thấp thoáng phía bên tay phải mình cái còn lại của vườn hồng ngày xưa. Khu vườn bị bỏ hoang, vô số mùi hương quyện lẫn vào nhau gợi lên theo mỗi bước chân một vũ điệu farandole không thể kiểm soát nổi của những kỷ niệm khứu giác.
Khi anh đi qua, lũ ve sầu im bặt đi giây lát rồi lại tiêp tục hát say mê hơn. Những cây to cong xuống trước làn gió nhẹ buổi ban mai. Biển đập một vài con sóng lên các mỏm đá. Trước mặt anh, anh thấy ngôi nhà đang thiêm thiếp ngủ, hệt như anh đã để lại nó trong những giấc mơ của mình. Anh thấy nó có vẻ nhỏ hơn, mặt ngoài bị hư hỏng đôi chút nhưng mái ngói thì vẫn còn nguyên vẹn. Những cánh chớp đóng kín. Paul đỗ xe trước cổng và đang đợi anh bên ngoài ô tô.
- Mày mất khá thời gian để đến đấy!
- Hơn hai mươi năm!
- Ta làm gì đây?
Họ mang cơ thể Lauren vào quòng làm việc ở tầng dưới cùng. Anh đặt chìa khóa vào ổ khóa và vặn không hề do dự. Trí nhớ chứa đựng những mẩu kỷ niệm mà nó biết tung ra bất cứ lúc nào, không để người ta hiều tại sao. Tiếng động trong ổ khóa và vặn không hề do dự, đúng như việc cần làm. Trí nhớ chứa đựng những mẩu kỷ niệm mà nó biết tung ra bất cứ lúc nào, không để người ta hiểu tại sao. Tiếng động trong ổ khóa vang lên đối với anh cũng dường như quá nhanh. Anh bước vào hành lang, mở cửa phòng làm việc ở bên trái lố vào, đi ngang qua căn phòng và mở cửa chớp. Anh cố tình không chú ý tí nào đến mọi thứ xung quanh mình, việc khám phá lại nơi này sẽ để lúc sau, và anh đã quyết định hưởng trọn vẹn những giây phút ấy. Rất nhanh chóng những hòm đồ đạc được tháo dỡ, cơ thể Lauren được đặt nằm trên đi văng, ống truyền được lắp lại.. Arthur khép lại cửa chớp bằng then móc. Rồi anh cầm lấy cái hộp các tông nhỏ màu nâu, và rủ Paul theo anh vào bếp: “Tao sẽ pha cà phê cho bọn mình mày mở hộp ra đi, tao sẽ đun nước nóng”
Anh mở ngăn tủ phía dưới bồn rửa bát, và lôi ra một vật bằng kim loại, hình thù kỳ quặc, gồm hai phần dối xứng và dối lập. Anh bắt đầu tháo nó ra bằng cách quay từng phần một ngược chiều nhau.
- Cái gì thế? - Paul hỏi.
- Bình pha cà phê kiểu Italia đấy!
- Bình pha cà phê kiểu Italia?
Arthur giải thích cho bạn cách vận hành của bình cà phê, lợi ích đầu tiên là không cần dùng giấy lọc và như vậy hương thơm sẽ giữ lại tốt hơn. Phải cho hai đến ba thìa cà phê đầy vào trong cái phiễu nhỏ nằm giữa phần dưới được đổ đầy nước và phần trên. Phải vặn chặt hai khoang lại và đặt tất cả lên bếp đun. Nước sôi sẽ trào lên, thấm qua cà phê đựng trong cái phễu nhỏ và chuyển sang phần trên, được lọc chỉ bằng một cái lưới mỏng bằng kim loại. Bí quyết duy nhất để thành công chỉ là phải kéo bình pha cà phê ra khỏi ngọn lửa đúng lúc, vì đó không phải là nước nữa, mà là cà phê rồi, và “cà phê sôi, cà phê ôi!”. Khi anh giải thích xong, Paul huýt sáo lên một tiếng :
- Này, cần phải là kỹ sư biết hai thứ tiếng mới pha cà phê được trong cái nhà này à?
- Còn cần hơn thế nhiều, ông bạn ơi, phải có tài, đó là cả một nghi lễ đấy!
Paul vừa bĩu môi tỏ ý nghi ngờ để trả lời câu nói của bạn, vừa chìa cho bạn gói cà phê. Athur cúi người xuống để mở bình ga đặt dưới bồn rửa bát. Rồi anh vặn chiếc vòi ở bên trái cái bếp, và cuối cùng là núm bật bếp.
- Mày nghĩ vẫn còn có ga à?
- Antoine không bao giờ để lại ngôi nhà với bình ga rổng trong bếp, và tao cuộc với mày là còn ít nhất hai bình ga đầy nữa ở trong gara.
Một cách máy móc, Paul đứng lên, đi ra phía công tắc ở cạnh cửa và ấn một cái. Một làn ánh sáng màu vàng tỏa khắp căn phòng.
- Mày làm thế nào mà lại có điện trong căn nhà này được?
- Hôm kia tao đã điện thoại đến công ty điện để họ cho lại điện, cả nước cũng thế, nếu như mày lo lắng, nhưng tắt đèn đi, phải lau bụi ở bóng đèn cái đã, nếu không khi bị nóng lên, nó sẽ nổ tung đấy.
- Mày học những cái đó ở đâu, pha cà phê kiểu Italia với lại lau bụi để bóng đèn khỏi nổ?
- Ở đây, ông bạn ạ, trong gian phòng này, và tao còn học vô số điều khác nữa.
- Thế cà phê được chưa?
Arthur đặt hai cái chén lên chiếc bàn gỗ. Anh rót vào chén nước cà phê nóng bỏng.
- Đợi đã rồi hãy uống - Anh nói.
- Tại sao?
- Vì nếu không mày sẽ bị bỏng, với lại trước tiên mày nên hít hương cà phê cái đã. Để cho mùi thơm thấm dần vào mũi mày.
- Mày làm tao phát ngấy với cái món cà phê của mày, ông bạn ạ, chả có cái gì thấm vào mũi tao sất! Đúng là tao đang nằm mơ. Để cho mùi thơm thấm dần vào mũi mày, nhưng mày kiếm đâu ra được cái của ấy chứ?
Paul nâng chén cà phê lên miệng, anh phun vội ra ngay lập tức chút nước nóng bỏng mà anh vừa uống. Lauren đến đứng sau lưng Arthur và vòng tay ôm anh. Cô tựa đầu lên vai anh và nói thầm vào tai anh :
- Em thích nơi này, em cảm thấy dễ chịu ở đây, khung cảnh thật là êm dịu.
- Lúc nãy em ở đâu?
- Em làm một vòng quanh khu nhà trong khi các anh triết lý về cà phê
- Vậy em thấy sao?
- Mày lại đang nói với cô ta đấy à? - Paul ngắt lời bằng một giọng bực tức.
Không hề chú ý đến câu hỏi của Paul, Arthur quay sang Lauren :
- Em thích à?
- Lẽ ra phải tỏ vẻ khó tính - Cô trả lời - nhưng anh phải kể cho em nghe nhiều điều bí mật đấy, ở đây đầy những điều bí mật, em có thể cảm thấy điều đó trong mỗi bức tường, mỗi đồ vật.
- Nếu tao quấy rầy mày thì mày cứ việc coi như tao không có ở đây! - Ông bạn chí thân của Arthur lại nói.
Lauren không muốn tỏ ra bội bạc nhưng cô rỉ tai anh rằng cô rất muốn được một mình với anh. Cô nóng ruột muốn được anh dẫn đi xem các nơi. Cô nói thêm rằng cô rất muốn họ được nói chuyện với nhau. Anh muốn biết là về điều gì, cô trả lời: “Về nơi này, về trước đây”.
Paul chờ đợi để Arthur cuối cùng cũng hạ cố nói với anh nhưng Arthur có vẻ lại tiếp tục trò chuyện với người bạn vô hình của mình. Paul đành quyết định ngắt lời họ.
- Nào, mày có cần đến tao nữa hay không, không thì tao quay về San Fransisco, có nhiều việc ở công ty với lại những cuộc chuyện trò cùa mày với Phantomas làm cho tao khó chịu.
- Đừng có hẹp hòi thế, được không?
- Xin lỗi! Chắc là tao nghe nhầm. Mày vừa mới bảo một thằng đã giúp mày đánh cắp một cơ thể người trong bệnh viện vào một tối chủ nhật, bằng một xe cứu thương lấy trộm, một thằng vừa uống cà phê kiều Italia ở một nơi cách nhà hắn bốn tiếng đồng hồ, đêm không được ngủ và mày bào hắn là đứng có hẹp hòi! Mày thật quá đáng!
- Tao có định nói thế đâu.
Paul không biết Arthur định nói gì nhưng anh muốn trở về trước khi họ cãi lộn “bởi vì điều đó có thể xảy ra, mày thấy đấy, và như vậy thì thật đáng tiếc, vì đã phải bỏ biết bao công sức cho đến tận lúc này”. Arthur lo lắng hỏi xem bạn anh có đủ sức để đi đường không. Paul trấn an bạn, với chén cà phê kiểu Italia (anh nhấn mạnh từ này một cách mỉa mai) mà anh vừa uống, anhc ó thể đi được ít nhất hai mươi tiếng đồng hồ trước khi cái mệt dám làm anh ríu mắt. Arthur không đáp lại lời châm chọc. Về phần Paul, anh cũng lo lắng vì để bạn lại không có ôtô trong ngôi nhà bỏ hoang này.
- Có cái xe Ford trong gara.
- Cái xe Ford của mày chạy lần cuối cùng khi nào?
- Lâu rồi!
- Liệu nó có nổ máy được không, cái xe Ford ấy.
- Nhất định rồi, tao sẽ thay acquy, nó sẽ nổ thôi.
- Nhất định rồi! Với lại, xét cho cùng thì nếu mày có bị mắc kẹt ở đây, mày cứ tự xoay xở lấy. Tao giúp mày đêm nay thế là đủ lắm rồi.
Arthur tiễn Paul ra tận ôtô.
- Đừng lo cho tao, mày đã giúp tao nhiều rồi.
- Nhưng tất nhiên là tao phải lo cho mày chứ. Bình thường ra thì tao sẽ bỏ mặc mày một mình trong ngôi nhà này và tao sẽ khiếp sợ với ý nghĩ về các hồn ma, nhưng mà mày, đã thế mày lại còn mang thêm hồn ma của mày đến nữa!
- Biến đi!
Paul cho xe nổ máy, anh hạ cửa kính xuống trước khi đi.
- Mày có chắc là sẽ ổn cả không?
- Chắc chắn.
- Vậy thì tao đi đây.
- Paul!
- Gì?
- Cảm ơn về tất cả những cái mày làm.
- Có gì đâu.
- Có chứ, nhiều lắm chứ, mày đã phải chịu bao nhiêu mạo hiểm vì tao, trong khi chưa hiểu rõ hẳn mọi việc, chỉ vì sự trung thành và tình bạn mà thôi, như vậy là rất nhiều, và tao biết điều đó.
- Tao biết là mày biết. Thôi, tao đi đây, nếu không bọn mình lại khóc tong tong mất. Nhớ giữ gìn sức khỏe và báo tin đến cơ quan cho tao nhé.
Những lời hứa hẹn tuôn ra, và chiếc Saab nhanh chóng mất hút sau quả đồi. Lauren bước ra bậc thềm.
- Nào - Cô nói - ta đi một vòng quanh khu nhà chứ?
- Bên trong hay bên ngoài trước
- Trước hết chúng ta đang ở đâu?
- Em đang ở trong ngôi nhà của Lili.
- Lili là ai?
- Lili là mẹ anh, chính ở đây anh đã lớn lên một nửa thời thơ ấu của mình.
- Mẹ anh mất lâu rồi à?
- Lâu lắm rồi.
- Và chưa bao giờ anh trở lại đây cả?
- Chưa bao giờ.
- Tại sao?
- Vào nhà đi! Ta sẽ nói chuyện đó sau, khi nào xem nhà xong đã.
- Tại sao? - Cô hỏi vặn.
- Anh quên mất rằng em cứng đầu cứng cổ như một con la. Tại thế đấy!
- Có phải em đã khiến anh trở lại nơi này không?
- Em không phải là hồn ma duy nhất của đời anh - Anh nói bằng một giọng dịu dàng.
- Anh phải trả giá đắt khi trở lại đây.
- Nói như vậy là không chính xác, có thể coi là điều đó quan trọng đối với anh.
- Và anh đã làm như vậy vì em?
- Anh làm điều đó vì đã đến lúc cần phải thử.
- Thử làm gì?
- Mở chiếc vali nhỏ màu đen.
- Anh vui lòng giải thích cho em về cái vali nhỏ màu đen chứ?
- Đó là những kỷ niệm.
- Anh có nhiều kỷ niệm ở đây?
- Gần như là tất cả. Đây là nhà anh mà.
- Thế sau khi ở đây thì sao?
- Sau đó anh đã cố làm sao cho mọi thứ trôi qua thật nhanh, sau đó anh đã tự lớn lên rất nhiều
- Mẹ anh chết đột ngột à?
- Không, mẹ anh chết vì bệnh ung thư, mẹ anh biết điều đó, chỉ có đối với anh là chuyện đó xảy ra quá nhanh thôi. Đi theo anh, anh sẽ dẫn em ra thăm khu vườn. Hai người đi ra bậc thềm, và arthur dẫn Lauren đến tận chỗ bờ biển tiếp giáp với khu vườn. họ ngồi xuống mép đá.
- Nếu em biết được anh đã ngồi ở đây bao nhiêu giờ với mẹ anh, anh đếm những ngọn sóng và đánh cuộc với mẹ. Hai mẹ con thường đến xem mặt trời lặn. Nhiều người ở đây ra bãi biển buổi tối, chừng nửa giờ, để xem cảnh này. Mỗi ngày cảnh tượng lại có một vẻ khác. Do nhiệt độ của biển, của không khí, do đủ mọi thứ mà màu sắc của bầu trời không bao giờ giống nhau. Cũng như ở thành phố, mọi người về nhà xem chương trình thời sự trên ti vi vào những giờ cố định, ở đây thì dân chúng đi ra xem mặt trời lặn, đó đã thành một tục lệ rồi.
- Anh sống ở đây lâu không?
- Hồi ấy anh là một chú nhóc con, anh được mười tuổi thì mẹ anh mất.
- Tối nay anh chỉ cho em xem mặt trời lặn nhé!
- Đó là một nghĩa vụ ở đây - Anh mỉm cười nói.
Sau lưng họ, ngôi nhà bắt đầu rực lên trong ánh sáng ban mai. Lớp sơn ở mặt ngoài phía trông ra biển đã bị hư hại, nhưng nhìn chung ngôi nhà đã kháng cự tốt với tháng năm. Từ ngoài nhìn vào, không ai có thể tin được rằng nó đã ngủ một giấc dài như vậy.
- Nó đã chống chọi tài đấy chứ? - Lauren nói.
- Antoine đã chăm chút ngôi nhà như một kẻ ương gàn. Làm vườn, sửa chữa đồ đạc, câu cá, trông trẻ, gác nhà, đó là một nhà văn không thành đạt mà mẹ anh đã đón về. Trước khi bố anh bị tai nạn máy bay, đó là một người bạn của bố mẹ anh. Anh cho rằng bác ấy luôn luôn yêu mẹ anh, ngay cả khi bố anh còn đó. Anh ngờ rằng cuối cùng họ đã trở thành tình nhân, nhưng đó là mãi về sau. Bác ấy ở trong tâm tư mẹ anh khi bà còn sống, mẹ anh ở trong tâm tư bác ấy của những năm để tang. Cả hai người đều ít nói, ít ra là những khi anh thức, nhưng họ vô cùng đồng điệu. Họ hiểu nhau từ cái nhìn. Trong sự yên lặng chung của họ, họ chữa lành tất cả những bão táp của đời mình. Giữa hai người ấy có sự bình thản đến kinh ngạc. Cứ như là cả hai đều đã thề không bao giờ biết đến tình cảm tức giận hay nổi loạn nữa.
- Cuối cùng ông ấy thế nào?
- Khép mình lại trong phòng làm việc, nơi đặt cơ thể Lauren bây giờ, ông đã sống thêm được mười năm sau Lili. Antoine đã dùng phần cuối của đời ông vào việc bảo dưỡng ngôi nhà. Lili đã để lại tiền cho ông, đó là phong cách của bà, dự kiến trước mọi điều, ngay cả điều không thể dự kiến được. Về mặt đó, Antoine giống bà. Ông mất ở bệnh viện vào đầu một mùa đông. Một buổi sáng nắng và se lạnh, ông tỉnh dậy trong người mệt mỏi. Khi đang tra dầu vào bản lề ở cổng, một cơn đau âm ỉ len lỏi vào ngực ông. Ông đi lại giữa hàng cây để lấy thêm không khí mà đột nhiên ông cảm thấy thiếu vô cùng. Cây thông già mà dưới bóng nó ông thường ngủ trưa vào mùa xuân và mùa hè đã đón nhận ông dưới những cành của nó, khi ông ngã và không thể gượng lại được. Bị cơn đau quật ngã, ông đã bò đến tận nhà và gọi hàng xóm đến giúp. Được chở đến phòng cấp cứu Monterey, ông đã tắt thở tại đó vào ngày thứ hai sau. Có thể nghĩ rằng ông đã chẩun bị trước cho sự ra đi của mình. Khi ông mất, công chứng viên của gia đình đã liên lạc với Arthur để hỏi xem anh cần phải làm gì với ngôi nhà.