Gặp lại ( Nếu em không phải một giấc mơ 2 )

Viên cảnh sát đưa 1 điếu thuốc mới lên miệng, ông bật lửa và tiếp tục kể.
- Lúc ấy có 1 vài đồng nghiệp ngồi ở quầy bar, họ làm ra vẻ kô nhìn thấy chúng tôi, nhưng tôi và cô ấy đều biết là ngày hôm sau sẽ có chuyện đàm tiếu ngay.Tôi phải mất 1 lúc mới thú nhận được rằng tôi cảm thấy thật trống vắng khi kô có cô ấy ở đồn cảnh sát. Tôi đã trả lời được câu hỏi của cô chưa?
- Thế khi ông hiểu ra điều đó, ông đã làm gì?
- Tôi tiếp tục mất rất nhiều thời gian – viên thanh tra trả lời.
1 sự yên lặng ngự trị trong xe. Pilguez chăm chú nhìn đường.
- Người mà tôi đã bắt cóc ấy, tôi chỉ mới thoáng gặp thôi. Tôi đã khám qua cho anh ta, anh ta ra về với bộ mặt lạ lùng và có cái vẻ hơi ngơ ngác. Thế rồi bạn của anh ta gọi điện cho tôi, tin tức kô được tốt lắm.
Viên thanh tra chậm rãi quay đầu lại.
- Tôi kô thể giải thích cho ông vì sao, - cô nói- nhưng khi dập máy điện thoại, tôi sung sướng vì biết được anh ta đang ở đâu.
Pilguez nhìn cô gái đi cùng xe, 1 nụ cười hiện ra trên môi, ông cúi xuống để mở cái hộp ở thành xe và lấy ra 1 chiếc đèn quay màu đỏ rồi đặt chiếc đèn có gắn nam châm ấy lên nóc xe của ông.
- Đùa giỡn với sự sốt ruột của cô 1 tý nhé.
Ông chân điếu thuốc. Ô tô lao vút đi trong đêm, và sẽ kô có ngọn đèn đỏ nào ngắt quãng được hành trình của nó.
Norma thấm mồ hôi trên trán giáo sư. Chỉ còn vài phút nữa là que dò sẽ chạm vào đích, cái chỗ dị dạng nhỏ ở mạch đã hiện ra. Máy điện tim phát ra 1 tiếng kêu ngắn. Cả ê kíp nín thở. Graneli nghiêng người về phía máy và nhìn đồ thị chạy trước mắt ông. Ông đập lòng bàn tay lên phía trên máy và đường sóng lại có độ cong bình thường.
- cái máy này cũng mệt như anh, giáo sư ạ- ông nói và trở về chỗ .
Nhưng nhận xét này kô làm giảm đi được nỗi lo lắng đang ngự trị trong căn phòng. Norma kiểm tra lại mức điện nạp ở máy sốc điện. Bà thay bịch hứng máu chảy từ khối tụ, khử trùng lần nữa xung quanh đường rạch và trở về chỗ bên bàn.
- Việc tiếp cận phức tạp hơn nhiều so với hình dung của tôi, - Fernstein nói, - nếp cuộn này trông kô giống bất cứ cái gì quen thuộc cả.
- Anh có cho rằng đó là 1 chỗ phình mạch kô?
- Chắc là kô phải, có lẽ đúng hơn nó là 1 cái hạch nhỏ, tôi sẽ khoanh nó lại để xem xét những điểm gắn kết, tôi kô còn dám chắc là phải cắt bỏ cái này đi nữa.
Khi que dò vào đến khu vực mà Fernstein khoanh vùng, máy điện não đồ đo hoạt động điện não của Arthur đã làm cho Norma phải chú ý. 1 đường sóng bắt đầu dao động thật lạ lùng, nó đột ngột vọt lên với 1 biên độ cực lớn. Nữ y tá bắt chước bác sĩ gây mê, vỗ vỗ vào máy. Đường sóng nhào xuống 1 cách chóng mặt trước khi lên lại 1 độ cao hợp lí.
- Có chuyện gì à?- giáo sư hỏi.
Đối với sự bất thường đầu tiên, bộ phận in ấn của máy điện não lẽ ra phải ghi nhận điều đó trên băng giấy lưu chứng, nhưng nó đã kô phản ứng. Đường vạch kì lạ đã lẩn sang bên phải màn hình. Norma nhún vai và nghĩ rằng trong gian phòng này mọi thứ đều mệt mỏi như mình.
- Tôi nghĩ là tôi có thể rạch được đây, tôi kô dám chắc là muốn cắt bỏ cái này,- giáo sư nói,- nhưng ít ra thì chúng ta có thể chích sinh thiết.
- Anh kô muốn nghỉ 1 tý à?
- Tôi muốn kết thúc càng sớm càng tốt, lẽ ra chúng ta kô nên tiến hành 1 cuộc phẫu thuật loại này với 1 ê kíp ít người đến thế.
Graneli vốn thích làm việc với 1 nhóm nhỏ nên kô đồng ý với ý kiến của ông bạn đồng nghiệp của mình. Những người giỏi nhất trong giới y tế thực hành của thành phố đã tập hợp trong gian phòng này rồi. Ông quyết định giữ quan điểm này lại mà kô nói ra. Ông nghĩ ngày nghỉ cuối tuần này ông sẽ dạo chơi bằng thuyền buồm trong vịnh san Francisco. Ông vừa tậu 1 chiếc thuyền buồm to và mới.
- o O o -
Chiếc Mercury Marquis đỗ vào bãi đậu xe của bệnh viện. Pilguez nghiêng người để mở cửa xe phía Lauren. Cô xuống xe và đứng lại quan sát cái xe 1 lát.
- Cô biến ra khỏi đây cho tôi nhờ, - viên thanh tra ra lệnh,- cô có việc cần làm hơn là đứng nhìn cái xe này. Tôi sẽ đi uống cà phê ở phía đối diện, tôi đợi cô đến đó gặp lại tôi trước khi cỗ xe của tôi biến thành quả bí đỏ.
- Tôi đang nhìn ông đấy chứ. Tôi lựa lời để cảm ơn ông.
Lauren lao về phía khoa cấp cứu, cô chạy qua đại sảnh và sộc vào thang máy. Thang máy càng lên cao, tim cô càng đập mạnh hơn trong lồng ngực. Cô hối hả chuẩn bị, khoác 1 cái áo blouse vào người và tự buộc dây lấy, rồi xỏ găng.
Thở hổn hển, cô dùng khuỷu tay ấn nút bấm điều khiển cửa ra vào phòng mổ và cánh cửa phòng mở ran gay lập tức. Kô 1 ai có vẻ chú ý đến cô. Lauren kiên nhẫn vài giây rồi hung hắng ho dưới tấm khẩu trang.
- Tôi có làm phiền kô?
- Kô, cô chẳng có ích gì cả, điều đó gần như lại còn tệ hơn nữa- Ferntsein trả lời- tôi có thể biết cái gì đã giữ cô suốt thời gian vừa rồi kô?
- Những chấn song của 1 phòng giam ở đồn cảnh sát ạ!
- Và cuối cùng thì họ cũng đã thả cô ra?
- Kô, đó là hồn ma của em đang ở đây đấy! – cô nói bằng 1 giọng khô khan.
Lần này, Fernstein ngẩng đầu lên
- Miễn cho tôi cái sự ngạo mạn của cô đi – giáo sư nói.
Lauren đến bên bàn mổ, cô lướt nhìn qua các máy móc khác nhau và lo ngại hỏi Graneli về tình trạng chung của người bệnh. Bác sĩ gây mê lập tức trấn an cô. Lúc nãy, 1 báo động nhỏ đã làm ông lo lắng, nhưng mọi việc đã có vẻ đã trở lại đâu vào đấy rồi.
- Chúng ta kô còn nhiều thời gian nữa, - Fernstein nói- tôi từ bỏ việc chích sinh thiết vì quá nguy hiểm. Chàng trai trẻ này sẽ phải tiếp tục sống với cái dị dạng nhỏ ấy và khoa học, thì với cái điều chưa biết tới này.
1 tiếng bíp chói tai vang lên. Norma vội vã lấy máy sốc điện. Bác sĩ gây mê nhìn màn hình, nhịp tim đã đến mức nguy hiểm. Lauren lấy 2 tay cầm của máy từ tay Norma, cô cọ 2 cái vào nhau rồi đặt chúng lên ngực Arthur.
- 300! – cô kêu lên khi phóng điện.
Dưới xung động của sự phóng điện, tấm thân cong lên rồi rơi phịch xuống bàn. Đường vạch trên màn hình vẫn kô thay đổi.
- Anh ta hỏng mất thôi! – Norma nói
- Nạp ở mức 350! – Lauren yêu cầu và lại ấn lần nữa xuống 2 tay cầm của máy sốc điện.
Lồng ngực Arthur nảy lên. Lần này, vạch màu xanh lá cây chúi xuống rồi dựng lên lại thành 1 đường thẳng đứng đáng buồn.
- Nạp lại ở mức 400, cho tôi 500 miligam adrenaline và 125 solu-medro vào ống truyền này.- Lauren hét lên.
Bác sĩ gây mê thực hiện ngay lập tức. Trong 1 khoảnh khắc, dưới con mắt thận trọng của vị giáo sư vốn kô để lọt bất cứ điều gì, cô bác sĩ trẻ vừa nhận lấy việc điều khiển phòng mổ.
Máy sốc điện vừa nạp lại đủ điện, Lauren ấn ngay xuống tay cầm. Cơ thể Arthur nâng lên trong 1 cố gắng cuối cùng, để níu kéo lại cái cuộc sống đang rời bỏ.
- Norma, chị cho thêm 1 ống 500 miligam adrenaline nữa và 1 đơn vị Lidocaine, ngay lập tức!
Fernstein nhìn đường vạch kô tiến triển. Ông lại gần Lauren và đặt tay lên vai cô.
- Tôi e rằng chúng ta đã làm quá mức cần thiết rồi.
Nhưng cô bác sĩ trẻ đã giật ống tiêm từ tay Norma và cắm kô do dự vào tim bệnh nhân của mình.
Thao tác được thực hiện với 1 sự chính xác đáng gờm, kim tiêm lách vào giữa 2 xương sườn, xuyên qua màng ngoài tim và chọc vài milimets vào phần vách bao quanh tim. Ngay tức khắc, dung dịch thấm vào các thớ cơ tim.
- Anh kô được buông xuôi,- Lauren thì thào giận dữ- phải cố trụ lại!
Cô nắm lấy 2 tay cầm của máy sốc điện, nhưng Fernstein ngăn cô và gỡ chúng ra khỏi tay cô.
- Đủ rồi, Lauren, để cho anh ta ra đi.
Cô đẩy vị giáo sư của mình ra với vẻ dữ dội và thẳng thừng phản đối ông :
- Như thế này kô gọi là ra đi, như thế này gọi là chết! đến khi nào chúng ta mới chấp nhận dùng đúng từ đây? Chết, chết, chết- cô lặp đi lặp lại và giáng 1 cú đấm lên tấm thân bất động của Arthur .
Âm thanh kéo dài phát ra từ máy điện tim đột ngột ngừng lại, nhường chỗ cho những tiếng bíp ngắn nối nhau. Toàn ê kíp mổ đứng lặng, tất cả dán mắt vào cái vạch màu xanh lá cây đang gần như phẳng lặng. Ở điểm cuối của nó, đường sóng bắt đầu dao động, nó nở ra và cuối cùng tạo thành 1 đường cong có hình dạng gần như bình thường.
- Và như thế này, như thế này ko gọi là trở lại mà là sống!- Lauren gào lên và lấy lại tay cầm của máy sốc điện từ tay Fernstein.
Giáo sư lập tức rời khỏi căn phòng và kêu to lên rằng cô kô cần có ông để khâu lại vết mổ. Ông để cô lại với bệnh nhân của cô, còn ông thì về với cái gi.ường của mình, chỗ mà lẽ ra ông kô bao giờ nên rời bỏ. Sự im lặng nặng nề đang ngự trị bỗng bị phá vỡ bởi những tiếng bíp bíp của máy điện tim, vọng lại theo nhịp đập tim của Arthur.
Bác sĩ Graneli trở lại phía sau bàn máy của ông và kiểm tra lại độ bão hòa khí máu.
- Điều ít nhất mà chúng ta có thể nói, đó là anh chàng của chúng ta đang trở về từ 1 nơi xa. Cá nhân tôi, tôi luôn cho rằng 1 liều lượng ương bướng nhất định có thể có cái hay. Tôi để cho cô chừng 10’ , cô bạn đồng nghiệp thân mến, để đóng vết mổ, rồi tôi sẽ đưa anh ta trở lại mặt đất cho cô.
Norma đã chuẩn bị tim thì Lauren nghe thấy 1 tiếng rên rỉ dưới chân cô.
Cô cúi xuống thì thấy 1 cánh tay khua loạn xị ở phía dưới.
Quỳ xuống, cô nhìn thấy Paul, da trắng nhợt như 1 tấm khăn liệm, co quắp dưới tấm vải phủ bàn mổ
- Anh làm gì ở đây?- cô sửng sốt hỏi.
- Cô đã trở lại rồi à?- Paul thều thào nói được 1 câu rồi ngất xỉu.
Lauren ấn mạnh vào các khớp quai hàm của Paul, gây ra 1 cảm giác đau đớn hiệu nghiệm hơn bất cứ thứ muối ammoniac nào. Paul mở mắt ra.
- Tôi muốn đi ra,- anh van vỉ,- nhưng chân tôi yếu kinh khủng, tôi cảm thấy trong người kô được khỏe lắm.
Lauren cố nhìn cười và yêu cầu bác sĩ gây mê chuẩn bị giúp cô 1 ống truyền ô xy.
- hình như là mùi ê te- Paul nói bằng 1 giọng run rẩy- ở đây hơi có mùi ê te, có đúng kô?
Graneli nhướn lông mày, ông lắp ống truyền và mở lưu lượng ô xy ở mức tối đa. Lauren đặt mặt nạ lên trên mặt Paul, sắc diện anh trở lại hồng hào đôi chút.
- a, thật là dễ chịu, - anh nói,- cái này có tác dụng tốt quá, nó gần giống như ở trên vùng núi ấy.
- anh im đi, và hít thở sâu vào.
- Thật là ghê sợ, những tiếng động mà lúc nãy tôi nghe thấy, rồi cái bịch ở phía đầu kia nữa, nó đựng đầy máu…
Và Paul lại lăn ra bất tỉnh.
- Tôi kô muốn làm gián đoạn cuộc giáp mặt này, cô bạn thân mến ạ, nhưng đã đến lúc phải khâu lại vết mổ cho bệnh nhân nằm ở tầng trên!
Norma thay thế Lauren . Khi Paul đã dễ chịu hơn, bà bịt mắt anh lại và chuệnh choạng bước ra khỏi phòng mổ.
Nữ y tá đặt Paul lên 1 chiếc gi.ường trong căn phòng bên cạnh, bà cho rằng tốt hơn là cứ tiếp tục truyền ô xy cho anh. Trong khi đặt mặt nạ lên mặt Paul, bà kô cưỡng được tò mò, hỏi ngành chuyên khoa của anh là gì. Paul nhìn chiếc áo blouse có những vết lấm bẩn của Norma và mắt anh lại đảo ngược lên. Norma vỗ vỗ vào má anh. Khi anh hồi tỉnh, bà liền để anh lại đó và vào phòng mổ.
Vào 6h sáng, Lorenzo Graneli giải quyết đến quá trình tinh tế của giai đoạn giải thuốc mê. 20’ sau, Norma đẩy gi.ường chở Arthur , mình quấn trong 1 tấm vải, đi về khoa hồi sức.
Lauren rời phòng mổ cùng với bác sĩ gây mê. Cả 2 đi sang phòng bên cạnh. Họ tháo găng và rửa tay, kô nói 1 lời. trước lúc ra khỏi phòng chuẩn bị, Graneli quay về phía Lauren và nhìn cô chăm chú, rồi thổ lộ rằng ông sẽ vui lòng tham gia mổ cùng cô bất cứ khi nào cô muốn, ông rất thích cách làm việc của cô.
Nữ bác sĩ trẻ ngồi lên thành bồn, kiệt sức. Úp mặt vào lòng bàn tay, cô đợi đến khi hoàn toàn chỉ còn lại 1 mình và bật khóc.
Phòng hồi sức chìm trong sự tĩnh lặng của buổi ban mai. Norma sửa lại ống cắm mũi và kiểm tra lại lưu lượng ô xy. Quả bóng ở mặt nạ phồng lên, xẹp xuống cùng nhịp thở đều đặn của Arthur. Bà vừa quấn băng lại vừa kiểm tra ống dẫn lưu có bị mảnh gạc chèn kô. Túi dịch chuyền đang chảy vào mạch. Bà điền hồ sơ hậu phẫu và giao bệnh nhân của mình cho nữ y tá trực sẽ thay thế bà từ lúc này. Ở cuối đoạn hành lang dài, bà nhìn thấy Fernstein đang nặng nề bước đi.. Giáo sư đẩy những cánh cửa dẫn vào phòng mổ.
Lauren ngẩng đầu lên và dụi mắt. Fernstein ngồi xuống cạnh cô.
- Thật là 1 đêm vất vả phải kô?
Lauren nhìn xuống những cái chụp giày tiệt trùng vẫn còn đeo ở chân cô. Cô làm nó ngọ ngoạy như những con rối vô nghĩa và kô trả lời. Cô đã mạo hiểm 1 cách dại dột, nhưng kết cục của ca mổ đã cho thấy rằng cô có lí, giáo sư nói tiếp. Ông bảo cô có thể lấy đó làm thỏa mãn sự tự do cá nhân. Đêm nay, cô đã thu hoạch thành quả từ những điều mà ông đã dậy cô. Lauren nhìn vị giáo sư của mình, bối rối. Ông vươn thẳng người và vòng tay ôm vai cô.
- Cô cứu được 1 cuộc đời mà lẽ ra tôi đã để mất! cô thấy kô, đã đến lúc tôi nên nghỉ hưu và dạy cô 1 điều cuối cùng.
Những nếp nhăn xung quanh mắt ông để lộ 1 sự âu yếm mà ông cố che giấu, ông đứng dậy.
- Hãy thanh thản chấp nhận điều mà ta kô thể thay đổi được, hãy dũng cảm thay đổi cái mà ta có thể thay đổi, và nhất là, hãy tỉnh táo phân biệt sự khác nhau giữa 2 cái đó.
- Thế đến tuổi nào thì người ta làm được điều đó?- Lauren hỏi vị giáo sư già.
- Marc Aurele(*) đã làm được như vậy vào lúc cuối đời- ông vừa nói vừa rời bước, tay chắp sau lưng.- cô hãy còn thời gian đấy- ông nói rồi biến mất sau cánh cửa khép lại theo bước chân ông.
Lauren ngồi lại 1 mình trong chốc lát. Cô nhìn đồng hồ và nhớ đến lời hứa của mình. 1 thanh tra cảnh sát đang đợi cô trong quán cà phê đối diện bệnh viện.
Cô bước ra hành lang và dừng lại trước tấm kính của phòng hồi sức. Trên chiếc gi.ường gần khung cửa sổ buông rèm, 1 người đàn ông mình nối đầy ống dẫn và dây rợ vừa mới trở lại với cuộc sống rõ ràng là rất mong manh này. Cô nhìn anh, và với mỗi nhịp thở của Arthur, lồng ngực Lauren lại tràn ngập niềm vui.
 
- Chương 12Ở quầy đón tiếp, một nữ y tá trẻ đã thay thế Betty. Lauren xoá tên mình khỏi tấm bảng ghi tên các bác sĩ trực. Một bác sĩ chuyên khoa X-quang, người đã tiếp Lauren ở trung tâp chụp hình y khoa, cũng kết thúc phiên trực, ông ta ra gặp cô và hỏi thăm ca mổ đã tiến hành ra sao, bệnh nhân có qua khỏi an toàn không. Cùng đi với bác sĩ này ra cửa, Lauren thuật lại cho ông ta nghe những sự kiện của đêm vừa rồi, cô không nhắc đến đoạn mà cô đã phản đối Fernstein và nói thêm rằng giáo sư đã muốn để yên tại chỗ cái dị dạng mạch nhỏ ấy.

Bác sĩ X-quang nói rằng ông không thấy bất ngờ. Ông thấy chỗ bất thường ấy có vẻ nhỏ, không đáng để chịu những nguy hiểm của việc phẫu thuật. "Hơn nữa, người ta sống được rất tốt với những khiếm khuyết nhỏ loại này, cô là bằng chứng sinh động về chuyện đó", ông nói thêm. Nét mặt Lauren lộ vẻ ngạc nhiên, bác sĩ X-quang bèn cho cô biết rằng cô cũng có một chút đặc biệt nho nhỏ ở thuỳ đỉnh-chẩm. Fernstein đã không muốn đụng vào đó lúc ông mổ cho cô sau khi cô bị tai nạn. Bác sĩ X-quang nhớ rõ như chuyện mới xảy ra hôm qua. Chưa bao giờ ông phải làm đến từng ấy bản chụp bằng máy scanner và bằng IRM cho cùng một bệnh nhân; nhiều hơn hẳn mức cần thiết. Nhưng những xét nghiệm này do đích thân trưởng khoa thần kinh đòi hỏi và đối với một số yêu cầu người ta không bàn cãi.
- Tại sao ông ấy không bao giờ nói với tôi về điều đó nhỉ?
- Tôi chịu không biết được, nhưng tôi muốn cô đừng kể lại với ông ấy cuộc nói chuyện của chúng ta. Bí mật y tế đòi hỏi như vậy!
- Nhưng dù sao thì cũng thật quá đáng, tôi là bác sĩ cơ mà!
- Đối với tôi, lúc đó trước hết cô là bệnh nhân của Fernstein!

Giáo sư mở cửa sổ phòng làm việc. Ông nhìn thấy cô học trò của mình đang đi sang đường. Cô nhường đường cho một chiếc xe cấp cứu rồi bước vào quán ăn nhỏ đối diện bệnh viện. Một người đàn ông đang đợi cô ở chỗ mà Fernstein và cô thường hay ngồi ăn. Fernstein trở lại ngồi xuống ghế bành của mình, Norma vừa bước vào trao cho ông một hồ sơ. Ông lật bìa ra và tìm hiểu danh tính của bệnh nhân mà ông vừa mổ.
- Đó chính là anh chàng ấy phải không?
- Em sợ là đúng đấy - Norma trả lời, mặt không biểu hiện cảm xúc.
- Anh ta đang ở trong phòng hồi sức à?
Norma lấy lại hồ sơ từ tay giáo sư.
- Các chức năng của anh ta ổn định, kiểm tra tổng quát thần kinh rất tốt. Trưởng khoa hồi sức định đưa anh ta xuống lại chỗ các anh ngay tối nay, ông ấy cần gi.ường ở khoa ông ấy mà - nữ y tá kết luận.
- Không được để Lauren chăm sóc anh ta; nếu không; rồi anh ta sẽ không giữ lời hứa nữa.
- Cho đến nay anh ta vẫn giữ lời hứa, tại sao bây giờ anh ta lại thôi?
- Vì trước đây anh ta không phải chạm trán cô ấy hàng ngày, nếu bây giờ cô ấy điều trị cho anh ta, sự thể sẽ không như vậy nữa.
- Anh định làm gì?
Fernstein quay ra cửa sổ, trầm ngâm.
Lauren rời quán cà phê, cô lên một chiếc Mercury Grand Marquis đậu trước cửa bệnh viện. Chỉ có cảnh sát mới dám đỗ xe dọc vỉa hè đối diện khoa cấp cứu này. Ông cũng phải lo giải quyết những sự cố đêm qua nữa đây. Norma kéo ông ra khỏi dòng suy nghĩ.
- Bắt cô ấy nghỉ phép!
- Em có bao giờ thuyết phục được một cái cây gập đôi thân nó lại để nhường chỗ cho chim bay qua không?
- Không, nhưng em đã từng chặt một cái cây làm vướng lối vào gara của em! - Norma vừa trả lời vừa tiến đến sát Fernstein.
Bà đặt cái bìa giấy kẹp hồ sơ lên bàn và ôm vị giáo sư già.
- Anh cứ lo lắng cho cô ấy mãi thôi, cô ấy có phải là con gái anh đâu! Rốt cuộc, có cái gì trầm trọng nếu cô ấy biết được sự thật nào? Vì mẹ cô ấy đã đồng ý thực hiện euthanasie đối với cô ấy à?
- Vì anh là bác sĩ thuyết phục bà ấy về chuyện đó! - giáo sư làu nhàu và đẩy Norma ra.
Nữ y tá lấy lại hồ sơ và đi ra khỏi phòng, không quay lại. Bà vừa khép cửa, Fernstein bèn nhấc nga máy điện thoại lên. Ông gọi tổng đài và yêu cầu nối máy cho ông nói chuyện với lãnh đạo bệnh viện Mission San Pedro.

Thanh tra Pilguez cho xe vào chỗ đỗ đã được dành cho ông trong nhiều năm.
- Cô nói với Nathalia là tôi đợi cô ấy ở đây nhé.
Lauren ra khỏi chiếc xe Mercury và biến vào bên trong đồn cảnh sát. Vài phút sau, trưởng ban điều phối trèo lên xe. Pilguez nổ máy và chiếc Grand Marquis đi lên phía bắc thành phố.
- Chỉ chậm vài phút nữa thôi là anh và cô ta đặt em vào một tình huống khó xử - Nathalia nói.
- Nhưng anh và cô ấy đã đến kịp mà!
- Anh có thể giải thích cho em chuyện gì đã xảy ra với cái cô này không? Anh cho cô ta ra khỏi phòng giam không hỏi ý kiến em và anh biến mất suốt nửa đêm với cô ta.
- Em ghen đấy à? - viên cảnh sát già vui sướng hỏi.
- Nếu có lúc em không ghen nữa thì anh sẽ cần phải lo nghĩ đấy.
- Em có nhớ vụ điều tra cuối cùng của anh không?
- Nhớ như chuyện mới xảy ra! - Nathalia thở dài.
Pilguez rẽ vào đường cao tốc Geary, nụ cười hiện lên trên khoé miệng ông không lọt khỏi mắt Nathalia.
- Chính là cái cô ấy đấy à?
- Đại khái là như vậy.
- Và cũng chính là cái anh chàng kia?
- Theo những điều anh đọc được trong báo cáo của cảnh sát thì đó chính là anh chàng ấy. Cái ít nhất mà chúng ta có thể nói, đó là hai kẻ thích đùa này có một tài năng nhất định trong việc vượt tường tẩu thoát.
Vẻ mặt tươi cười, Pilguez vuốt ve đùi người bạn tình của mình.
- Anh biết là em không thừa nhận những chi tiết nhỏ trong cuộc sống có một ý nghĩa gì đó, nhưng trong trường hợp này thì hội tụ dồn dập quá nhiều thứ. Mà cô ta lại chẳng hề liên hệ chuyện này với chuyện kia nữa chứ. Anh cứ ngây hết cả người ra. Có vẻ như chẳng có ai kể cho cô ta nghe về những gì mà anh chàng kia đã làm cho cô ta.
- Và cả về những gì mà anh đã làm nữa!
- Anh ấy à? Anh có làm gì đâu!
- Ngoài việc tìm thấy cô ta trong ngôi nhà ở Carmel ấy và đưa cô ta trở lại bệnh viện, mà không, anh nói đúng đấy, anh chẳng làm gì cả. Và em cũng sẽ không nói bóng nói gió gì về việc hồ sơ của cuộc điều tra này bị biến mất.
- Chuyện này thì anh tuyệt nhiên không có liên quan gì cả nhé.
- Chắc là vì vậy nên khi xếp dọn đồ đạc, em đã tìm thấy cái hồ sơ ấy ở đáy tủ quần áo.
Pilguez mở cửa sổ và quát một người đi bộ đang ra ngoài hành đinh.
- Thế còn anh, anh cũng không nói gì với cô bé ấy à?
- Anh thèm nói đến mức chỉ chực mở miệng.
- Và anh đã không làm thoả mãn cơn thèm?
- Bản năng của anh đã thúc đẩy anh ngậm miệng.
- Thỉnh thoảng anh cho em mượn cái bản năng của anh nhé!
- Để làm gì?
Chiếc xe Mercury đi vào gara của ngôi nhà mà viên thanh tra sống cùng người bạn đời của mình. Một mặt trời có màu hoa hướng dương đang lên cao trên vịnh San Francisco. Chẳng mấy chốc nữa, những tia nắng của nó sẽ xua đi lớp sương mù bao phủ cầu Golden Gate vào những giờ đầu tiên trong ngày.
Nằm trên cái gi.ường nhỏ trong phòng giam của đồn cảnh sát, Lauren tự hỏi làm sao cô lại có thể, trong một đêm, làm sụp đổ những cơ hội đạt bằng tốt nghiệp chương trình bác sĩ nội trú chuyên khoa thần kinh của mình, và như vậy, phá hoại cả bảy năm miệt mài làm việc.
Kali rời khỏi tấm thảm len. Nó không được vào phòng ngủ của bà Kline, cửa sổ ra ban công thì lại hé mở, nó bèn lẻn ra ngoài và rúc mồm vào giữa những chấn song sắt ở ban công. Nó nhìn theo một con chim hải âu đang bay lượn sát trên những ngọn sóng, hít hà không khí trong lành của buổi ban mai rồi quay lại nằm trong phòng khách.

Fernstein đặt lại ống nghe xuống máy điện thoại. Cuộc trao đổi với những lãnh đạo bệnh viện San Pedro đã diễn ra đúng như ông dự kiến. Người đồng nghiệp của ông sẽ ra lệnh cho Brisson rút đơn kiện và sẽ lờ đi chuyện chiếc xe cấp cứu bị mượn tạm, còn về phần ông, ông sẽ không thực hiện lời đe doạ là tác động để có một uỷ ban đến thanh tra những hoạt động ở khoa cấp cứu của họ.

Paul đã kín đáo lấy lại được xe ôtô của mình ở bãi đậu xe của bệnh viện Mission San Pedro, sau khi tạt vào một cửa hàng bánh mì Pháp ở phố Sutter, và bây giờ anh lái xe đi về hướng Pacific Height.
Anh đỗ xe lại trước một toà nhà, nơi ở của một bà cụ vẫn còn giữ những nét nhan sắc xiêu lòng người. Tối qua, bà đã cứu sống người bạn thân nhất của anh. Bà Morrison đang dẫn Pablo đi dạo. Paul xuống xe và mời bà cùng chia sẻ những chiếc bánh sừng bò nóng và một vài tin tức đáng yên tâm của Arthur.

- o O o -
Một nữ y tá nhẹ nhàng bước vào phòng 102 của khoa hồi sức. Arthur đang ngủ. Cô thay cái bịch hứng chỗ máu cuối cùng chảy ra từ khối máu và kiểm tra các hằng số sống của người bệnh. Hài lòng, cô ghi lại những hằng số này vào một tờ giấy màu hồng và xếp nó vào hồ sơ của Arthur.
Norma gõ cửa phòng làm việc. Fernstein khoác tay nữ y tá lớn tuổi nhất ở bệnh viện này và đưa bà đi ra hành lang. Đây là lần đầu tiên ông cho phép mình có một cử chỉ thân mật như vậy trong bệnh viện.
- Anh có một ý thế này - ông nói - Ta sẽ ra ăn sang bên bờ biển, rồi sau đó thì nằm ngủ một chút trên bãi cát.
- Hôm nay anh không làm việc à?
- Anh đã làm xong phần mình đêm vừa rồi, ngày hôm nay anh nghỉ.
- Em phải báo cho bộ phận kế hoạch là em nghỉ hôm nay đã.
- Anh vừa mới báo thay em rồi.
Cửa thang máy mở ra trước mặt họ. Hai bác sĩ gây mê và một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình đang trò chuyện dừng lại chào giáo sư. Trái với điều Norma nghĩ, giáo sư không bỏ tay bà ra khi bước vào thang máy.

Lúc mười giờ sáng, một sĩ quan cảnh sát bước vào phòng giam nơi Lauren đang nằm ngủ. Bác sĩ Brisson đã rút đơn kiện. Bệnh viện Mission San Pedro không muốn truy tố việc "mượn" một chiếc xe cấp cứu của họ. Một chiếc xe kéo của phòng giữ đồ thuộc đồn cảnh sát đã đến kéo chiếc Triumph của cô về bãi đậu xe của đồn. Lauren chỉ còn việc trả tiền cẩu xe rồi sẽ được tự do trở về nhà.
Trên vỉa hè trước đồn cảnh sát, mặt trời làm cô chói mắt. Xung quanh cô, thành phố đã nhộn nhịp trở lại, vậy mà Lauren lại cảm thấy cô độc lạ lùng. Cô lên chiếc xe Triumph của mình và đi lại con đường mà lúc nửa đêm cô đã rời bỏ để ngoặt sang hướng khác.
- Tôi có thể đến thăm cậu ấy được không? - Bà Morrison hỏi khi đi cùng Paul đến cuối hành lang.
- Cháu sẽ gọi điện cho bác ngay sau khi cháu gặp cậu ấy.
- Anh cứ ghé qua tôi thì hơn - bám vào cánh tay Paul, bà nói. - Tôi sẽ làm cho cậu ấy một gói bánh xốp, anh có thể mang đến cho cậu ấy ngày mai.
Bà Morrison trở về nhà, lấy chùm chìa khoá dự trữ của Arthur rồi đi tưới cây trong nhà anh. Bà cảm thấy rất nhớ người hàng xóm của mình. Trước sự ngạc nhiên hết sức của bà, Pablo đã quyết định đi theo bà chủ.
Norma và giáo sư Fernstein nằm trên bãi cát trắng ở Baker Beach. Ông cầm tay bà và nhìn một con hải âu bay lượn trên bầu trời. Con chim dang rộng đôi cánh để đùa nghịch với những luồng hơi nước bốc lên.
- Có điều gì làm anh lo lắng thế? - Norma hỏi.
- Có gì đâu - Fernstein trả lời.
- Anh sẽ làm vô khối việc khác khi anh thôi công việc ở bệnh viện, anh đi các nơi, anh giảng bài, và rồi anh chăm sóc mảnh vườn của anh nữa, đó là việc mà những người về hưu vẫn làm, đúng không nào?
- Em giễu anh đấy à?
Fernstein quay lại nhìn Norma chăm chú.
- Anh đếm các nếp nhăn của em à? - Bà hỏi.
- Em biết đấy, anh không làm phẫu thuật thần kinh bốn chục năm để kết thúc cuộc đời bằng việc cắt tỉa mấy cây hoa giấy và trắc bách diệp. Nhưng ý em về việc đi các nơi và giảng bài thì anh rất thích, với điều kiện là em đi cùng anh.
- Anh sợ về hưu đến thế hay sao mà lại có những lời mời như vậy đối với em?
- Không, chẳng sợ tí nào, chính anh đã xin về hưu sớm, anh muốn bù lại thời gian đã mất, anh muốn có một cái gì đó của chúng ta còn lại với em.
Norma ngồi thẳng dậy và âu yếm nhìn người đàn ông mà bà yêu.
- Wallace Fernstein, tại sao anh cứ khăng khăng không chịu điều trị? Tại sao ít nhất cũng không thử xem thế nào?
- Anh xin em, Norma, đừng nói lại chuyện đó nữa, chúng ta sẽ đi chơi xa và quên các bài giảng đi. Đến ngày mà bệnh ung thư thắng được anh, em sẽ chôn anh ở nơi mà anh đã yêu cầu em. Anh muốn được chết trong khi đi nghỉ, chứ không phải ở cái sân khấu mà anh đã làm phẫu thuật cả đời anh rồi, mà khán giả lại còn ít hơn nữa chứ.
Norma đặt lên môi vị giáo sư già một nụ hôn nồng nàn. Hai người nằm bên nhau trên bãi biểu này như một cặp tình nhân già đẹp đôi.

Lauren khép lại cánh cửa vào căn hộ của mình. Kali không ở nhà để chào mừng cô. Đèn tín hiệu ở máy trả lời tự động của điện thoại nhấp nháy, cô bật nút nghe nhưng không nghe hết tin nhắn mà mẹ cô để lại. Cô đi ra ngách phòng, phía trông ra vịnh, và cầm chiếc điện thoại di động của mình, tay lướt nhẹ trên bàn phím. Một con hải âu bay thẳng từ Baker Beach đến đậu trên cột điện trước cửa sổ của cô. Con chim nghiêng đầu như để nhìn cô rõ hơn, nó vỗ cánh rồi lại bay ra biển. Cô bấm số điện tôi hoại của Fernstein, nghe trả lời tự động ở máy của ông rồi dập máy. Cô gọi đến bệnh viện Memorial, xưng tên và xin được nói chuyện với bác sĩ nội trú đang trực. Cô muốn biết tin tức của một bệnh nhân mà cô đã mổ đêm vừa rồi. Bác sĩ trực chuyên khoa thần kinh đang đi thăm bệnh nhân, cô để lại số điện thoại của mình cho bác sĩ này gọi lại.

- o O o -
 
Paul đã đợi hơn một tiếng đồng hồ, anh ngồi trên chiếc ghế đặt dọc bức tường của phòng đợi. Từ một giờ chiều trở đi mới được phép vào thăm người nhà nằm viện.
Một phụ nữ đầu quấn băng, ôm chặt trong tay một cái túi đựng những tấm phim X-quang như ôm một báu vật.
Một đứa trẻ nghịch ngợm đang chơi trên tấm thảm, đẩy chiếc ôtô nhỏ lăn dọc theo những hoạ tiết hình chữ nhật màu da cam và màu tím.
Một ông già dáng điệu lịch thiệp, tay chắp sau lưng, chăm chú nhìn vài bản sao tranh màu nước treo trên tường. Nếu không có cái mùi rất đặc trưng bệnh viện thì có thể nghĩ là ông đang thăm một viện bảo tàng.
Trong hành lang, một phụ nữ trẻ trùm chăn ngủ trên một chiếc băng ca, bộ ống truyền, mắc vào chiếc cọc, truyền dịch vào ven ở cánh tay cô. Hai nhân viên chuyên chở bệnh nhân, mỗi người đứng một phía băng ca, lưng dựa vào tường, trông nom cô.
Đứa trẻ lấy một tờ báo và bắt đầu xé các trang giấy, gây ra âm thanh đều đều và khó chịu. Không hề để mắt đến con, mẹ đứa trẻ hẳn là đang tranh thủ tận dụng khoảnh khắc nghỉ ngơi quý giá này.
Paul nhìn đồng hồ treo tường phía trước mặt anh. Cuối cùng thì cũng có một nữ y tá đi về phía anh, nhưng rồi cô lại tiếp tục đi ra máy tự động bán đồ uống, chỉ nở một nụ cười xã giao. Nhìn thấy cô lục lọi túi áo blouse để tìm tiền lẻ, Paul bèn đứng dậy và đi về phía cô. Anh nhét đồng xu vào khe nhận tiền và nhìn nữ y tá với vẻ dò hỏi, ngón tay đặt lên bàn phím.
- Một hộp Red Bull! - cô gái ngạc nhiên nói.
- Cô mệt đến thế cơ à? - Paul hỏi và bấm mã số để cho hộp nước được đẩy ra khỏi cái ngăn chứa nó.
Một chiếc lò xo bắt đầu xoay, hộp nước dịch chuyển về phía tấm kính chắn rồi tụt xuống cái khoang hứng, Paul lấy hộp nước ra và đưa cho cô y tá.
- Thuốc tăng lực của cô đây.
- Tôi tên là Nancy! - cô gái nói và cảm ơn anh.
- Tôi nhìn thấy tên trên áo blouse của cô rồi - Paul trả lời, mặt khó đăm đăm.
- Có chuyện gì không ổn à?
- Tôi đang đợi!
- Đợi bác sĩ?
- Đợi giờ được phép vào thăm.
Nữ y tá nhìn đồng hồ đeo tay của mình.
- Anh vào thăm ai?
- Arthur...
Nhưng Paul chưa kịp nói xong tên của Arthur, Nancy ngắt lời anh và khoác tay kéo anh đi theo hành lang.
- Tôi biết anh nói về ai rồi, anh đi theo tôi! Tôi dẫn anh đi, nội quy chẳng có ý nghĩ gì nếu thỉnh thoảng không bị vi phạm.
Cô dẫn anh đến tận cửa phòng số 307.
- Đáng lẽ anh ấy phải được giữ lại ở khoa hồi sức đến tận tối nay, nhưng bác sĩ cho là tình trạng của anh ấy tốt, thế là anh ấy sang khoa chúng tôi. Chúng tôi đã rút thăm và tôi đã thắng.
Paul nhìn chòng chọc vào cô y tá, sửng sốt.
- Cô đã thắng cái gì?
- Tôi là người được chăm sóc anh ấy! - Cô vừa nói vừa nháy mắt với anh.
Một cái tủ, một cái ghế mây và một cái bàn có bánh xe là những đồ gỗ có trong căn phòng. Arthur đang ngủ, một ống dẫn ôxy nối vào lỗ mũi, một ống truyền dịch vào ven ở cánh tay. Đầu anh nghiêng về một phía, băng quấn quanh sọ. Paul chậm rãi bước lại gần, nén lại cảm xúc đang tràn ngập trong mình.
Anh kéo chiếc ghế lại gần gi.ường. Nhìn Arthur nằm lặng thinh như vậy, hàng ngàn kỷ niệm và những khoảnh khắc chia sẻ cùng nhau lại trở về trong ký ức của Paul.
- Trông tớ thế nào? - Arthur thì thầm, mắt nhắm.
Paul húng hắng ho:
- Trông như một vương công Ấn Độ say rượu bét nhè.
- Tình hình cậu thế nào?
- Quan trọng gì chuyện đó, còn cậu thì sao?
- Hơi đau đầu, tớ cảm thấy rất mệt - Arthur trả lời bằng một giọng rời rạc - Tớ đã làm hỏng buổi tổi của cậu phải không?
- Có thể thấy như vậy dưới góc độ ấy, trước hết cậu đã làm cho tớ sợ một trận hết hồn.
- Đừng có làm vẻ mặt như vậy, Paul.
- Cậu nhắm mắt cơ mà!
- Tớ vẫn nhìn thấy cậu. Thôi đừng có lo lắng nữa, các bác sĩ nói rằng một khi khối máu đã tiêu rồi thì sẽ hồi phục rất nhanh. Bằng chứng đây!
Paul tiến về phía cửa sổ. Chỗ này nhìn xuống khu vườn của bệnh viện. Một cặp vợ chồng đang chậm rãi bước dọc theo con đường hai bên trồng đầy hoa. Người đàn ông khoác một cái áo dài mặc trong nhà, người vợ giúp chồng bước đi. Họ ngồi xuống chiếc ghế băng, dưới một cây đoạn màu bạc. Paul đứng nhìn chăm chú ra ngoài.
- Tớ hãy còn quá nhiều khuyết điểm để có thể gặp được người phụ nữ của đời mình, nhưng tớ muốn thay đổi cậu ạ.
- Cậu muốn thay đổi cái gì?
- Cái tính ích kỷ đã khiến tớ cứ nói với cậu về tớ, trong khi tớ đang ở bên gi.ường bệnh của cậu, chẳng hạn. Tớ muốn được như cậu.
- Ý cậu nói là muốn có một cái khăn xếp trên đầu và một cơn nhức óc như búa bổ?
- Muốn có thể dấn thân mà không sợ hãi, muốn có thể nhìn nhận những khiếm khuyết của người khác như những điểm yếu có vẻ đẹp lạ thường.
- Cậu nói về tình yêu phải không?
- Ừ, đại loại là như vậy. Việc mà cậu đã làm được thật kỳ lạ.
- Việc để cho một chiếc môtô ba bánh đâm vào người ấy à?
- Việc tiếp tục yêu mà không mong được đáp lại. Việc biết tự nuôi dưỡng mình chỉ bằng tình cảm của mình dành cho người kia, biết tôn trọng tự do của cô ấy, biết bằng lòng với việc cô ấy chỉ tồn tại ở trên đời mà không tìm cách gặp lại, chỉ để bảo vệ cô ấy thôi.
- Đó không phải là để bảo vệ cô ấy, Paul ạ, đó là để cho cô ấy có thời gian tìm được chính mình. Nếu lúc ấy tớ nói cho cô ấy biết sự thật rằng chúng tớ đã trải nghiệm cuộc tình đó, tớ có thể làm cho cô ấy đi trệch hướng khỏi cuộc đời của cô ấy.
- Cậu sẽ đợi cô ấy trong suốt thời gian đó?
- Chừng nào mà tớ còn có thể đợi được.
Nữ y tá bước vào mà họ không nhận thấy, cô ra hiệu cho Paul là thời gian thăm bệnh nhân theo nội quy đã hết, Arthur cần phải nghỉ ngơi. Lần đầu tiên Paul không tìm cách cãi lại. Khi ra đến ngưỡng cửa, anh quay lại và nhìn Arthur:
- Đừng bao giờ chơi tớ một vố như vậy nữa nhé.
- Paul?
- Gì vậy?
- Cô ấy có mặt ở đó đêm hôm ấy, phải không?
- Nghỉ đi, chúng mình sẽ nói lại chuyện đó sau.
Paul bước đi trong hành lang, vai nặng trĩu. Nancy ra gặp anh trước cửa thang máy. Cô bước vào thang máy cùng với anh và ấn nút tầng hai. Đầu cúi xuống, Nancy dán mắt vào mũi giày của anh.
- Anh cũng hay ra trò đấy nhỉ.
- Đó là cô còn không nhìn thấy tôi trong trang phục của bác sĩ phẫu thuật đấy nhé!
- Không, nhưng mà tôi đã nghe cuộc nói chuyện của các anh.
Và Paul làm ra vẻ không hiểu điều cô muốn nói, cô bèn nhìn thẳng vào mắt anh và nói thêm rằng cô rất muốn có một người bạn như anh. Khi cánh cửa thang máy mở ra, cô kiễng chân đặt một nụ hôn lên má anh rồi biến mất.

Giáo sư Fernstein để lại một tin nhắn trên máy trả lời tự động của Lauren. Ông muốn gặp cô càng sớm càng tốt. Quãng chiều tối ông sẽ rẽ qua nhà cô. Không để lại thêm một lời giải thích nào, ông dập máy.
- Tôi không biết liệu chúng ta làm như vậy có đúng không - bà Kline nói.
Fernstein cất điện thoại di động của mình đi.
- Đã hơi muộn để thay đổi cách xử sự rồi, bà không thấy như vậy sao? Bà không thể mạo hiểm để biến mất cô ấy lần thứ hai, có phải đó là điều mà bà vẫn luôn nói với tôi không?
- Tôi không biết nữa, có lẽ cuối cùng cứ thú nhận sự thật với nó thì cả hai chúng ta lại được giải thoát khỏi một gánh nặng khủng khiếp.
- Thú nhận lỗi lầm của mình với người khác để xoa dịu lương tâm là một ý hay đấy, nhưng thực sự là ích kỷ. Bà là mẹ của cô ấy, bà có những lý do để lo sợ rằng cô ấy sẽ không tha thứ cho bà. Còn tôi, tôi không chịu được ý nghĩ rằng sẽ có ngày cô ấy biết được là tôi đã đầu hàng, là chính tôi đã muốn tháo máy ra khỏi th.ân thể cô ấy.
- Ông đã hành động theo niềm tin của mình, ông chẳng có điều gì để phải tự trách mình cả.
- Điều quan trọng không phải là cái sự thật ấy - giáo sư lại nói - Nếu tôi rơi vào hoàn cảnh của cô ấy, nếu số phận của tôi phụ thuộc vào quyết định y khoa của cô ấy, tôi biết là cô ấy sẽ không bao giờ đầu hàng.
Mẹ Lauren ngồi xuống một chiếc ghế băng. Fernstein ngồi xuống cạnh bà. Cái nhìn của vị giáo sư già thẫn thờ hướng về phía mặt nước tĩnh lặng của bến cảng du thuyền nhỏ.
- Tôi chỉ còn nhiều nhất là mười tám tháng nữa thôi! Sau khi tôi đi rồi, bà hãy xử sự như bà muốn!
- Tôi tưởng là ông sẽ nghỉ hưu cuối năm nay chứ?
- Tôi không nói về chuyện nghỉ hưu.
Bà Kline đặt tay mình lên tay vị giáo sư già. Những ngón tay run rẩy. Ông lấy một chiếc mùi soa trong túi áo ra và lau trán.
- Tôi đã cứu sống rất nhiều người trong đời tôi, nhưng tôi cho là tôi chưa bao giờ biết yêu họ, điều duy nhất mà tôi quan tâm là chữa bệnh cho họ. Tôi đã từng thắng cái chết và bệnh tật, tôi đã mạnh hơn những cái đó, tức là, cho đến lúc này thôi. Tôi lại chẳng còn buồn sinh một đứa con nữa chứ. Thật là một thất bại đối với một người tự nhận là vì sự sống!
- Tại sao ông lại đỡ đầu con gái tôi?
- Vì cô ấy là tất cả những gì mà tôi ao ước trở thành. Cô ấy dũng cảm ở chỗ mà tôi chỉ có sự ngang bướng, cô ấy sáng tạo ở chỗ tôi chỉ biết ứng dụng, cô ấy sống sót ở chỗ mà tôi sẽ chết, và tôi rất sợ. Ban đêm, tôi tỉnh dậy với nỗi sợ trong lòng. Tôi muốn lấy chân đạp vào những cái cây sẽ tiếp tục sống sau khi tôi chết kia; tôi đã quên không làm biết bao nhiêu việc.
Bà Kline nắm tay giáo sư và kéo ông bước đi.
- Chúng ta đi đâu vậy?
- Hãy đi theo tôi và đừng nói gì hết.
Họ đi dọc theo khu Marina. Trước mặt họ, bên cạnh đập chắn nước, có một công viên nhỏ đang đón một đám trẻ con đến chơi. Ba cái đu bay vun vút lên cao nhờ sự nỗ lực phi thường của những ông bố bà mẹ mệt lử, ra sức đẩy không ngơi; cái cầu trượt chen chúc trẻ con, bất chấp thiện chí của một người đàn ông đang cố điều khiển việc đi lên cho có trật tự; một công trình bằng gỗ và thừng chão phải hứng chịu những cuộc tấn công của các Robinson tương lai, một chú bé bị mắc kẹt ở cái ống màu đỏ, chú ta hoảng sợ hét ầm lên. Xa hơn chút nữa, một bà mẹ đang cố gắng thuyết phục đứa con kháu khỉnh của mình rời bỏ bồn cát để đi ăn lót dạ, nhưng chẳng có kết quả gì. Với những bài hát của dân da đỏ, một vòng tròn náo loạn quay cuồng không nương nhẹ xung quanh cô gái giúp việc trẻ tuổi trong lúc hai bé trai giành nhau một quả bóng. Bản hợp tấu của những tiếng khóc, tiếng gào và tiếng kêu thét chuyển thành một âm hưởng chối tai.
Chống khuỷu tay vào thanh chắn, bà Kline quan sát cái địa ngục thu nhỏ này; mặt sáng lên một nụ cười đồng cảm, bà nhìn giáo sư.
- Ông thấy đấy, ông có thất bại hoàn toàn đâu!
Một bé gái đang cưỡi con ngựa nhún ngẩng đầu lên. Bố của bé vừa đẩy cánh cửa nhỏ để vào sân chơi. Bé bỏ con ngựa của mình, vội vã chạy ra đón bố và nhảy vào hai cánh tay dang rộng của bố. Người cha nâng con lên cao ngang mình và bé nép người vào bố, rúc đầu vào chỗ lõm ở gáy bố với vẻ âu yếm vô bờ bến.
- Trông thích thật - giáo sư nói và cũng mỉm cười.
Ông nhìn đồng hồ đeo tay và xin lỗi, sắp đến giờ ông hẹn với Lauren. Quyết định của ông chắc sẽ làm cho cô tức điên lên được, dù rằng ông đã làm điều này vì lợi ích của cô. Bà Kline nhìn theo giáo sư bước xa dần, một mình trên lối đi; ông đi ngang qua bãi đậu xe và lên ôtô của mình.

- o O o -
 
Hàng cây trên các vỉa hè của phố Green trĩu xuống dưới sức nặng của các tán lá. Vào mùa này, đường phố rực rỡ sắc màu. Hoa mọc quanh vườn trong các ngôi nhà xây theo phong cách thời nữ hoàng Victoria. Giáo sư ấn nút interphone nối đến căn hộ của Lauren và trèo lên cầu thang. Ngồi trên đi văng ở phòng khách, ông lấy vẻ mặt gnhiêm nghị nhất để thông báo cho cô là cô phải tạm nghỉ việc; cô bị cấm không được đến gần bệnh viện Memorial trong vòng hai tuần. Lauren không chịu tin điều đó, một quyết định như vậy cần phải được thông qua bởi hội đồng kỷ luật và cô có thể được tự biện hộ cho mình trước hội đồng này. Fernstein yêu cầu cô hãy nghe những lý lẽ của ông. Ông đã đạt được không mấy khó khăn thoả thuận của lãnh đạo bệnh viện Mission San Pedro rằng họ sẽ không kiện tụng gì cả, nhưng để thuyết phục Brisson rút đơn kiện, cần phải có một cái gì đổi lại. Gã bác sĩ này đã đòi hỏi phải có một sự trừng phạt để làm gương. Hai tuần nghỉ việc không ăn lương là cái đỡ tệ nhất so với điều mà cô sẽ phải hứng chịu nếu ông không dập tắt được vụ này đi như vậy. Cho dù cô có nổi giận đi nữa khi nghĩ đến những đòi hỏi cay cú của Brisson. Lauren phẫn nộ trước sự bất công đã khiến gã đồng nghiệp đểu cáng của cô không hề bị trừng phạt gì về những hành động khinh suất mà gã đã không chịu thừa nhận, nhưng cô biết rằng giáo sư đã bảo vệ đường công danh của cô.
Cô nhẫn nhục chấp nhận bản án. Fernstein bắt phải thề sẽ tôn trọng thoả thuận này đến từng ly từng tý một: cô không được lảng vảng quanh bệnh viện trong bất cứ trường hợp nào, cũng không được liên lạc với các thành viên trong nhóm làm việc của cô. Thậm chí cô còn bị cấm không được đến cả quán Parisian Coffee nữa.
Khi Lauren hỏi giáo sư xem cô có quyền làm gì trong mười lăm ngày bị mất không ấy, Fernstein trả lời cô một cách mỉa mai: rốt cuộc cô sẽ có thể nghỉ ngơi. Lauren nhìn vị giáo sư của mình, biết ơn và giận dữ, cô đã được cứu thoát và phải chịu thua. Cuộc đàm luận không kéo dài hơn mười lăm phút. Fernstein khen căn hộ của Lauren, ông thấy nó có vẻ nữ tính hơn nhiều so với hình dung của ông, Lauren chỉ ngón tay với vẻ ra lệnh để mời ông ra cửa. Ra đến hành lang, Fernstein nói thêm rằng ông đã ra những chỉ thị cụ thể cho tổng đài để họ không nhận mọi cú điện thoại do cô gọi, trong thời gian bị phạt, cô bị cấm cả việc hành nghề y bằng điện thoại nữa. Bù lại, cô có thể lợi dụng thời gian này vào việc tra cứu những bài giảng cuối cùng của thời kỳ bác sĩ nội trú.
Trên đường về, Fernstein cảm thấy một cơn đau ghê gớm. "Con cua" (23) đang gặm nhấm người ông vừa mới "cắn". Ông lợi dụng một chỗ đèn đỏ để lau mồ hôi chảy nhỏ giọt trên trán. Phía sau ông, một người lái xe sốt ruột bấm còi xe để nhắc ông đi tiếp nhưng vô ích, ông không lấy được sức lực để nhấn vào chân ga. Ông bác sĩ già mở cửa kính ra và hít thở thật sâu, cố lấy lại chút sức lực còn thiếu. Cơn đau xâm chiếm dữ dội và mắt ông mờ đi. Trong một nỗ lực cuối cùng, ông tách ra khỏi luồng xe và đỗ được vào một bãi đậu xe dành cho khách hàng của một hiệu bán hoa.
Xe tắt máy, ông nới cravat ra, cởi những chiếc cúc ở cổ áo sơ mi và gục đầu lên tay lái. Mùa đông năm nay, ông muốn đưa Norma đi vùng núi Alpes và ngắm tuyết thêm một lần nữa, sau đó ông sẽ đưa bà đến tận Normandie. Chú ruột của ông, người đã để lại dấu ấn trong tuổi thơ của ông, yên nghỉ ở đó trong một nghĩa trang, giữa chín nghìn ngôi mộ khác. Cơn đau cuối cùng cũng dịu đi, ông khởi động lại máy rồi đi tiếp, cảm ơn trời là cơn đau này đã không xảy ra trong một ca mổ.

Một chiếc Audi màu xám lăn bánh về phía Marina, thời tiết thật dễ chịu vào lúc cuối ngày. Các cô gái xinh đẹp vào giờ này thường đến chạy ở những lối đi dọc theo bến cảng du thuyền nhỏ. Một phụ nữ trẻ dắt chó dạo chơi ở đó. Paul đỗ và khu vực đậu xe và đi bộ ra gặp cô.
Lauren đang chìm đắm trong những suy nghĩ của mình, cô giật nảy người khi anh đến gần và nói với cô:
- Xin lỗi cô, - anh nói - tôi không muốn làm cô sợ.
- Cảm ơn anh đã đến nhanh như vậy. Anh ấy thế nào rồi?
- Khá hơn rồi, cậu ấy đã rời khoa hồi sức, cậu ấy đã tỉnh dậy và có vẻ không đau.
- Anh đã nói chuyện với bác sĩ nội trú trực chưa?
Paul mới chỉ nói chuyện được với một y tá, cô ấy có vẻ tin tưởng. Arthur hồi phục rất tốt. Ngày mai, cô ấy sẽ tháo ống truyền và sẽ bắt đầu cho cậu ấy ăn trở lại.
- Đó là dấu hiệu tốt - Lauren nói và buông dây dắt con Kali ra.
Con chó chạy đi nhảy nhót theo sau mấy con chim hải âu đang bay là là trên thảm cỏ.
- Cô được nghỉ một hôm à?
Lauren giải thích cho Paul rằng vụ giải cứu đã khiến cô phải trả giá bằng hai tuần đình chỉ công việc. Paul không biết nói gì.
Họ đi vài bước bên nhau, cả hai cùng im lặng.
- Tôi đã cư xử như một thằng hèn - cuối cùng, Paul thú nhận - Thậm chí tôi còn không biết cảm ơn cô thế nào về những việc mà cô đã làm đêm hôm ấy. Tất cả là lỗi tại tôi. Ngày mai tôi sẽ ra đồn cảnh sát trình diện và nói với họ rằng cô không có lỗi gì cả.
- Anh đến muộn rồi, Brisson đã rút đơn kiện, cậu ta đòi đổi nó bằng một hình phạt. Cái bọn lăng xăng chuyện ngồi bàn đầu thời đi học ấy, đến khi thành người lớn rồi vẫn cứ tiếp tục hễ có dịp là bẩm báo.
- Tôi rất tiếc - Paul nói - Tôi còn có thể làm gì được không?
Lauren dừng lại nhìn Paul chăm chú.
- Tôi thì tôi không tiếc! Tôi nghĩ là chưa bao giờ tôi cảm thấy rõ rằng mình đang sống như trong những giờ vừa qua.
Cách họ vài mét có một quầy hàng bán kem và các đồ giải khát. Paul mua một cốc soda, Lauren muốn một chiếc em dâu ốc quế, và trong lúc Kali tìm cách quyến rũ một con sóc đang rập rình nhìn nó từ trên cành cây, hai người ngồi xuống bên một chiếc bàn gỗ.
- Hai anh gắn bó với nhau bằng một tình bạn đẹp thật đấy.
- Từ lúc bé đến giờ chúng tôi không hề xa nhau, chỉ trừ cái hồi Arthur sang sống ở Pháp thôi.
- Đó là một chuyến đi vì tình cảm hay vì công việc vậy?
- Đi vì công việc nói chung là lĩnh vực của tôi, còn cậu ta thì là đi để giải khuây.
- Anh ấy đi để trốn tránh một cái gì đó à?
Paul nhìn thẳng vào mắt cô.
- Cô!
- Tôi ấy à? - Lauren sửng sốt hỏi.
Paul uống một ngụm nước soda và lấy mu bàn tay quệt miệng.
- Phụ nữ! - Paul cau có nói tiếp.
- Tất cả phụ nữ à? - Lauren mỉm cười tiếp lời.
- Đặc biệt là một người.
- Một mối tình tan vỡ chăng?
- Cậu ấy kín đáo lắm, cậu ấy sẽ giết tôi nếu nghe thấy tôi nói chuyện này.
- Vậy ta nói sang chuyện khác đi.
- Thế còn cô - Paul hỏi - Cô có ai chưa?
- Anh không định tán tỉnh tôi đấy chứ? - Lauren vui vẻ hỏi.
- Chắc chắn là không rồi! Tôi bị dị ứng với lông chó.
- Tôi có một người; một mối quan hệ không chiếm nhiều vị trí trong đời tôi, - Lauren trả lời - nhưng tôi nghĩ là tôi tìm được một sự cân bằng nào đó trong cái tình huống khập khiễng này. Giờ giấc làm việc của tôi không dành nhiều chỗ cho một cuộc sống nào khác ngoài đời bác sĩ. Sống hai người đòi hỏi phải có nhiều thời gian.
- Này cô ạ, thời gian càng trôi qua nhiều thì tôi càng thấy rằng sự cô đơn, dù là đã được che đậy, làm ta mất đi nhiều thứ lắm! Sống vì nghề nghiệp của mình không nên trở thành một mục đích tự thân.
Lauren gọi con Kali đang đi hơi xa. Cô quay về phía Paul.
- Nếu liên hệ với cái đêm mà tôi vừa trải qua thì tôi không chắc là anh bạn của anh sẽ tán thành ý kiến ấy đâu. Hơn nữa, chúng ta không đủ thân thiết để tiếp tục câu chuyện này.
- Tôi rất tiếc, tôi không muốn giáo huấn gì đâu, chỉ có điều là...
- Là gì? - Lauren ngắt lời.
- Không có gì cả!
Lauren đứng dậy và cảm ơn Paul về chiếc kem mà anh đã mời cô.
- Tôi có thể nhờ anh một việc được không?
- Việc gì cũng được.
- Tôi biết là điều này có thể hơi sỗ sàng, nhưng không rõ tôi có thể thỉnh thoảng gọi điện cho anh để biết tình hình bệnh nhân của tôi được không, tôi không có quyền gọi điện thoại đến bệnh viện...
Gương mặt Paul sáng lên.
- Tại sao anh lại mỉm cười như vậy? - Lauren hỏi.
- Chẳng vì sao cả, tôi e rằng chúng ta chưa đủ thân để biến việc này thành đề tài nói chuyện của chúng ta được.
Một sự yên lặng ngự trị trong vài phút.
- Cứ gọi điện cho tôi khi nào cô muốn nhé... Cô có số máy của tôi mà!
- Tôi xin lỗi, tôi có số điện thoại này qua Betty, nó được ghi trên giấy nhập viện của bạn anh, mục "người cần liên lạc trong trường hợp khẩn cấp".
Paul viết nguệch ngoạc số điện thoại nhà mình vào phía sau một tờ biên lai rút tiền bằng thẻ tín dụng và đưa cho Lauren, cô có thể tìm gặp anh khi nào cô thấy cần. Cô nhét tờ giấy vào túi quần jean của mình, cảm ơn anh và rời bước.
- Bệnh nhận của cô tên là Arthur Ashby - Paul nói, vẻ hơi láu lỉnh.

Lauren gật đầu; cô vẫy chào anh bằng một cử chỉ thân thiện rồi đi tìm Kali. Khi cô đi được một đoạn khá xa rồi, Paul bèn gọi điện thoại đến bệnh viện Memorial. Anh đề nghị được nối máy đến phòng y tá khoa thần kinh. Anh có một tin rất quan trọng cần thông báo cho bệnh nhân ở phòn 307. Cần phải chuyển cho bệnh nhân đó tin này càng sớm càng tốt, thậm chí vào ban đêm cũng được nếu như anh ta thức dậy.
- Tin nhắn thế nào? - nữ y tá hỏi.
- Nói với cậu ấy là cậu ấy đã lọt vào mắt xanh rồi!

Và Paul tắt máy, sung sướng. Cách anh không xa, một phụ nữ đang nhìn anh, vẻ buồn bã và tức giận. Paul nhận ra cái dáng quen thuộc từ một chiếc ghế băng đứng dậy và đi ra phố. Đến cách anh vài mét, Onega gọi một chiếc taxi. Anh chạy về phía cô, nhưng không đến được chỗ cô trước khi cô chui vào taxi và xe lăn bánh đi xa.
- Chuối thật! - Anh nói khi còn lại một mình trên bãi đậu xe ở khu Marina.
 
Chương 13Quán bar gần như vắng ngắt. Ở góc phòng, 1 nhạc công piano đang chơi một giai điệu của Duke. Onega đẩy cái ly rỗng của mình ra và yêu cầu người phục vụ rót thêm cho cô một ly Dry Martini.
- Hãy còn hơi sớm để uống đến ly thứ 3 nhỉ,!- người bồi bàn hỏi khi rót đồ uống cho cô
- Anh có giờ giấc nào dành cho các nỗi khổ không?
- Các khách hàng của tôi thường hay đến trút buồn phiền vào lúc cuối ngày.
- Nhưng tôi là người Ukcraina.- Onega nói và nâng cốc- và chúng tôi có thói quen coi trọng sự hoài cổ mà không một người phương tây nào có thể sánh được. Cần phải có một thứ tài năng cho cái tâm hồn mà các anh kô có!
Onega rời quầy bar đến ngồi chống khuỷu tay vào cây đàn piano, nơi nhạc công đang bắt đầu 1 bài hát của Nar King Cole. Cô nâng ly rượu lên và nôc cạn. Nhạc công piano ra hiệu cho bồi bàn rót thêm cho cô, và chơi lại đoạn điệp khúc. Thời gian trôi qua, quán đông dần. Đêm đã buông xuống khi Paul bước vào quán. Anh đến gần Onega, làm ra vẻ không biết là cô đã say.
- Có một con vật ăn năn cụp đuôi đi đến- cô nói.
- Anh cứ tưởng là dân đông âu uống rượu khá hơn chứ.
- Anh đã thường xuyên nhầm về em rồi, vậy nhầm thêm 1 tý hay bớt thêm 1 tý thì có khác gì đâu.
- Anh tìm em khắp nơi- anh nói tiếp và giữ vai cô khi người cô lảo đảo trên ghế
- Và anh đã tìm thấy em rồi đấy, anh đánh hơi tài lắm!
- Đi thôi, anh đưa em về.
- Anh chưa chán chê cảm giác nên anh bèn đến chơi với con búp bê Nga của anh; tiện nhỉ, anh chỉ việc mở 1 con matrioska và lấy con nhỏ hơn ra, phải kô?
- Em nói linh tinh cái gì thế? Anh đã tạt qua nhà em, anh gọi vào máy di động của em, anh đi đến tất cả các nhà hàng mà em đã nói với anh và rồi anh nhớ ra chỗ này.
Onega dựa vào quầy, đứng dậy.
- Để làm gì hả Paul? Lúc nãy em đã thấy anh ở Marina với cái cô ấy. Em xin anh, đừng có nói với em là chuyện đó kô phải như em tưởng, nghe vậy tầm thường kinh khủng và gây thất vọng lắm.
- Chuyện đó kô phải như em tưởng! cái cô ấy là người mà Arthur yêu từ mấy năm nay.
Onega chòng chọc nhìn Paul. Mắt cô lấp lánh tuyệt vọng.
- Thế còn anh, anh yêu ai?- cô hỏi, kiêu kì, đầu ngẩng lên.
Paul đặt 1 ít tiền lên quầy bar và khoác vai cô
- Em nghĩ là em sắp ốm rồi- Onega nói khi đi được vài mét từ vỉa hè ra chỗ đỗ ô tô.
Phía bên trái họ, 1 ngõ nhỏ chìm trong bóng tối. Paul dẫn Onega vào đó. Những vạt đường sứt sẹo ánh lên 1 vết sẫm màu; xa hơn 1 chút, mấy chiếc thùng gỗ che chở cho họ khỏi những con mắt tọc mạch. Đứng trên 1 tấm lưới sắt đậy miệng cống, Paul đỡ cho Onega thốc tháo tuôn ra những nỗi phiền muộn ứ tràn. Sauk hi thân mình cô giật lên 1 lần cuối cùng, anh lấy từ túi quần ra 1 chiếc khăn mùi soa và lau miệng cho cô. Onega đứng thẳng dậy, kiêu kì và xa cách.
- Đưa em về nhà em!
Chiếc xe mui trần đi lên O’Farell. Tóc bay trong gió, Onega đã có lại sắc hồng trên mặt. Paul lái xe 1 lúc lâu rồi dừng lại trước 1 tòa nhà nhỏ, nơi cô bạn gái của anh sống. Anh tắt máy và nhìn cô.
- Anh kô nói dối em đâu – Paul nói, phá vỡ sự im lặng.
- Em biết!- cô gái trẻ thì thầm.
- Tất cả những cái đó có thật cần thiết kô?
- Có thể sẽ có ngày anh học được cách hiểu em. Em kô mời anh lên nhà đâu, lúc này em kô đủ sức tiếp anh.
Cô xuống khỏi ô tô và đi về phía cửa vào tòa nhà. Đến ngưỡng cửa, cô quay lại, giơ chiếc mùi xoa của Paul lên.
- Em có thể giữ lại cái này được kô?
- Đừng quan tâm đến chuyện đó, em cứ vứt nó đi!
- ở xứ em, người ta kô bao giờ vứt bỏ bức thư tình đầu tiên.
Onega bước vào hành lang và trèo lên cầu thang. Paul dợi cho đến lúc cửa sổ phòng cô sáng ánh đèn, ô tô đi xa dần trên đường phố vắng ngắt.
Thanh tra Pilguez cài lại cúc áo pyjama, ông nhìn vào chiếc gương dài trong phòng ngủ.
- Anh mặc hợp lắm,- Nathalia nói,- em đã biết ngay thế rồi khi nhìn thấy bộ này ở cửa hàng.
- Cám ơn.- George nói và hôn vào mũi chị.
Nathalia mở ngăn kéo bàn đầu gi.ường và lấy ra 1 cái lọ thủy tinh nhỏ cùng với 1 chiếc thìa.
- George!- chị nói bằng 1 giọng kiên quyết.
- ồ, kô!- ông van xin.
- Anh đã hứa rồi – chị nói tiếp và ấn thìa vào mồm ông
Vị mù tạc cay xè ngấm vào đầu lưỡi ông, mắt viên thanh tra lập tức đỏ lên. Ông giận dữ đập chân và hít 1 hơi thật sâu bằng mũi.
- Giời ơi, cái của này sao mà cay thế!
- Em rất tiếc, cưng ạ, nhưng nếu kô thì anh sẽ ngáy suốt đêm. – Nathalia nói khi đã nằm trong chăn.- Thôi, nằm xuống đi nào!
Ở tầng ba của ngôi nhà kiểu Victoria nằm phía trên cao của Pacific Heights, 1 nữ bác sĩ nội trú trẻ đang nằm đọc trên gi.ường. Con chó Kali của cô ngủ trên thảm trong điệu ru của tiếng mưa gõ vào ô cửa kính. Lần đầu tiên kể từ lâu nay, Lauren bỏ những cuốn chuyên luận quen thuộc về thần kinh học của mình để đọc 1 luận án mà cô mượn ở thư viện trường đại học. Đề tài luận án là hôn mê.
Pablo đến nằm ép mình vào chân chiếc ghế bành, nơi bà Morrison đang ngủ thiếp đi. Con rồng của Fu Man Chu đã mất công thực hiện 1 trong những cú ngoạn mục nhất của mình, tối nay thần Morphee đã chiến thắng.
Cúi người xuống bồn rửa mặt, Onega hứng nước chảy vào lòng bàn tay. Cô rửa mặt và ngẩng đầu lên, nhìn mình trong gương. Cô lấy tay xoa má, nâng gò má lên rồi dùng ngón tay miết vào 1 nếp nhăn nhỏ ở gần mắt. Đầu ngón trỏ lần theo đường viền môi, đi dọc theo cổ họng và lướt xuống cổ, cô cố mỉm cười. Cô tắt đèn.
Có ai đó đập khẽ ở cánh cửa ra vào của căn hộ nhỏ 1 phòng; Onega đi ngang qua gian phòng duy nhất vừa là phòng ngủ vừa là phòng khách, cô kiểm tra lại xem dây khóa an toàn đã móc vào chốt chưa, rồi mở cửa. Paul chỉ muốn biết để yên tâm là mọi việc đều tốt đẹp. Khi còn chưa chết thì kô có gì là thực sự nghiêm trọng cả, Onega trả lời. Cô mời anh vào nhà, và khi cô đóng cửa lại, nụ cười hiện lên trên môi cô chẳng giống tý nào với nụ cười đã bị mờ đi trong màn hơi nước phủ trên tấm gương ở buồng tắm.
1 nữ y tá bước vào phòng 307 ở bệnh viện Memorial, cô đo huyết áp của Arthur rồi đi ra. Những tia sáng đầu tiên trong ngày đã rọi vào qua ô cửa sổ trông xuống vườn.
Lauren vươn người hết cỡ. Mắt hãy còn đờ đẫn vì buồn ngủ, cô vớ lấy cái gối rồi ôm vào người. Cô nhing chiếc đồng hồ báo thức nhỏ, đẩy chăn ra và lăn sang 1 bên. Kali trèo lên gi.ường và đến rúc vào người cô. Robert mở mắt ra rồi nhắm lại ngay lập tức. Lauren quơ tay về phía anh bạn trai của mình, rồi khựng lại và quay ra cửa sổ. Ánh nắng vàn rực lọt qua khe cửa chớp báo hiệu 1 ngày đẹp trời.
Cô ngồi lên thành gi.ường và đến lúc đó mới nhớ ra rằng mình kô có ca trực.
Cô rời phòng ngủ, đi vào bếp, ấm nút ấm điện và đợi nước sôi. Tay cô trượt về phía máy điện thoại. Cô nhìn đồng hồ trong bếp và thay đổi ý định. Còn chưa đến 8h, Betty chưa đến chỗ làm việc.
1 tiếng đồng hồ sau, cô chạy những bước ngắn dọc theo các con đường trồng cây ở khu Marina. Kali chạy lon ton theo cô, lưỡi thè ra rung lật bật.
Lauren đưa mắt nhìn theo 2 chiếc xe cấp cứu hú còi chạy qua. Cô cầm lấy máy điện thoại di động đang đeo ở cổ. Betty nhấc máy.
Những người làm việc ở khoa cấp cứu đã được thông báo về hình thức kỉ luật dành cho Lauren. Toàn thể nhân viên trong khoa đã định chuyền nhau kí 1 bản kiến nghị đòi phải cho cô trở lại làm việc ngay lập tức, nhưng nữ y tá trưởng, biết rõ Fernstein, đã thuyết phục mọi người thôi kô làm việc này. Vẫn tiếp tục chạy, Lauren kô thể kìm được nụ cười, cô xúc động vì sự hiện diện của mình giữa các đồng nghiệp kô đến nỗi mờ nhạt như cô tưởng. Trong lúc nữ y tá trưởng kể lể chuyện trên trời dưới biển, cô bèn lợi dụng để hỏi tình hình của bệnh nhân phòng số 307. Betty ngừng bặt.
- Anh ta đã gây ra bao nhiêu rắc rối cho em như vậy rồi còn chưa đủ hay sao?
- Betty!
- Tùy em thôi. Chị chưa có lí do để phải lên các tầng trên, nhưng chị sẽ gọi điện cho em ngay khi có tin gì mới. Sáng nay khá yên tĩnh, còn em thì thế nào?
- Em đang học lại cách làm những việc hoàn toàn vô ích.
- Chẳng hạn như việc gì?
- Sáng nay, em trang điểm mất đến 10’
- Rồi sao nữa?- Betty hỏi, sốt sắng vì tò mò.
- Em đã lau sạch son phấn đi ngay sau đó!
Betty xếp 1 xấp hồ sơ vào ngăn tủ của các bác sĩ nội trú, cổ nghẹo lại để kẹp ống nghe.
- Rồi em sẽ thấy, 15 ngày nghỉ sẽ giúp em lấy lại được ham thích đối với những thú vui nhỏ trong cuộc sống cho mà xem.
Lauren dừng lại ngang quầy giải khát để mua 1 chai nước khoáng rồi uống cạn gần như liền 1 hơi.
- Chị chúc cho em như vậy đi, 1 buổi sáng kô làm gì đã khiến cho em phát điên lên rồi đấy, em nhập vào đám tập chạy mà cứ cầu trời cho xung quanh mình có ít nhất 1 ca bong gân.
Betty hứa sẽ gọi điện lại cho cô ngay khi có thông tin, 2 chiếc xe cấp cứu vừa mới đến cửa khoa cấp cứu. Lauren dập máy. 1 chân đặt lên ghế băng, buộc lại dây giày, cô tự hỏi liệu có thực là do lương tâm nghề nghiệp mà cô lo lắng đến mức ấy về sức khỏe của1 người mà hôm trước đó cô còn chưa hề biết đến.
Paul lấy chìa khóa ô tô và rời phòng làm việc. Anh báo cho Maureen là anh sẽ đến 1 cuộc gặp suốt cả buổi chiều, anh sẽ cố gắng hết sức là anh sẽ tạt về qua đây vào lúc cuối ngày. Nửa tiếng đồng hồ sau, anh bước vào đại sảnh của bệnh viện San Francisco Memorial và trèo 4 bậc 1 lên đến tầng 2, 3 bậc 1 lên đến tầng 3 và từng bậc 1 lên đến tầng 4, vừa đi trong hành lang vừa tự thề rằng đến ngày nghỉ cuối tuần sẽ trở lại ngay phòng tập thể dục. Gặp Nancy từ 1 phòng đi ra, anh hôn tay cô và tiếp tục đi, để cô đứng lại sửng sốt giữa hành lang. Anh bước vào phòng và lại gần gi.ường.
Anh làm ra vẻ điều chỉnh lại lưu lượng dịch chuyền, nắm cổ tay Arthur và nhìn đồng hồ đeo tay để đếm mạch đập.
- Thè lưỡi ra xem nào- anh nói, vẻ giễu cợt.
- Tớ có thể biết cậu đang chơi trò gì kô?- Arthur hỏi.
- Lấy trộm xe cấp cứu, đánh cắp những người đang hôn mê, bây giờ tớ đã thành thạo lắm rồi. Nhưng cậu bỏ lỡ trò hay nhất, lẽ ra cậu phải xem tớ mặc áo blouse xanh, đeo khẩu trang và đội mũ chụp đầu. Cực kì trang nhã!
Arthur ngồi bật dậy trong gi.ường.
- Cậu có tham dự ca mổ thật à?
- Nói thật, người ta cứ làm như ngành y à ghê ghớm lắm, nhưng bác sĩ phẫu thuật hay kiến trúc sư thì cũng như nhau, đó là vấn đề làm việc tập thể! Họ thiếu người, tớ thì đang ở đó, tớ kô thể đứng yên mà kô giúp họ, thế là tớ giúp họ.
- Thế Lauren thì sao?
- ấn tượng lắm. Cô ấy gây mê, cô ấy cắt, cô ấy khâu, cô ấy làm hồi sức, và với đầy nhiệt huyết!Làm việc với cô ấy thích thật đấy.
Gương mặt Arthur tối lại.
- Bây giờ lại có chuyện gì nào?- Paul hỏi
- Có chuyện là cô ấy sẽ gặp rắc rối vì tớ
- ừ, thế thì cậu với cô ấy như vậy là hòa nhé! Nhưng dù sao cũng lạ lùng nhỉ, người duy nhất các vị kô bao giờ nghĩ tới khi tổ chức những buổi tiệc tối dở hơi của các vị, đó là tôi!
- Thế còn cậu, cậu có gặp rắc rối gì kô?
Paul húng hắng ho và lật 1 mi mắt của Arthur ra.
- Sắc mặt cậu tốt đấy!- anh nói bằng 1 giọng bắt chước bác sĩ.
- Cậu làm thế nào mà thoát được?- Arthur gặng hỏi.
- Tớ đã cư xử rất củ chuối nếu cậu muốn biết rõ. Khi cảnh sát đến cửa phòng mổ, tớ trốn xuống dưới bàn mổ, vì thế mà tớ đã phải có mặt suốt cuộc phẫu thuật. Nói thế chứ trừ những lúc tớ bị xỉu ra, thì dù sao tớ cũng có tham dự quãng 5’. Chính là nhờ cô ấy mà cậu được cứu sống, chứ tớ có làm được gì mấy đâu.
Nancy bước vào phòng. Cô kiểm tra huyết áp của Arthur và hỏi anh có muốn thử đứng dậy và bước đi kô.Paul đề nghị được giúp bạn.
Họ đi vài bước đến cuối cầu thang. Arthur tự cảm thấy khỏe, anh đã lấy lại được thăng bằng và còn muốn dạo chơit thêm nữa. Lúc đi trong vườn của bệnh viện, anh nhờ Paul giúp anh 2 việc…
Paul ra về ngay sau khi Arthur đã đi nằm. Dọc đường anh dừng lại trước 1 cửa hàng hoa ở phố Union. Anh đặt làm 1 bó hoa mẫu đơn trắng, và để vào đó 1 tấm các trong phong bì mà Arthur đã gửi anh. Hoa sẽ được giao đến nơi trước buổi tối. Sau đó, paul đi xuống khu Marina và đỗ xe trước 1 cửa hàng cho thuê video. Vào quãng 7h tối, anh bấm interphone nhà bà Rose Morisson, anh chuyển cho bà những tin tức cửa Arthur và tập phim mới nhất về cuộc phiêu lưu của Fu Ma Chu.
Lauren nằm trên thảm, vùi đầu vào bản luận án. Mẹ cô ngồi trên đi văng trong phòng khách, lật những trang tạp chí. Chốc chốc, bà lại rời mắt ngừng đọc để nhìn con gái.
- Cái gì đã khiến cho con làm 1 việc như vậy?- bà hỏi và ném tờ tạp chí xuống cái bàn thấp.
Lauren ghi lại vài ý vào 1 cuốn vở gáy xoắn, kô trả lời
- Con đã có thể làm hỏng cả sự nghiệp của mình, bao nhieu năm làm việc sẽ bị mất trắng vì cái gì cơ chứ?- mẹ cô kết luận.
- Mẹ đã mất bao nhiêu năm với cuộc hôn nhân của mẹ. Mà mẹ cũng có cứu được bố đâu, theo như con biết?
Mẹ Lauren đứng lên
- Mẹ dắt Kali đi dạo đây – bà nói khô khan và lấy áo khoác của mình từ mắc áo.
Và bà ra khỏi căn hộ, sập cửa.
- Tạm biệt mẹ.- Lauren nói khẽ, tai lơ đãng dõi theo tiếng bước chân đi xa dần.
Bà Kline gặp 1 người giao hàng ở dưới cầu thang. Anh ta cầm 1 bó hoa mẫu đơn trắng rất to và đang tìm căn hộ của Lauren Kline.
- Tôi là bà Kline đây- bà vừa nói vừa lấy cái phong bì nhỏ đính ở tờ giấy bóng bọc hoa.
Người giao hàng cứ việc để lại hoa trong đại sảnh, lúc trở về bà sẽ lấy. Bà cho anh ta tiền boa và anh thanh niên đi ra.
Trên đường ra phố, bà mở chiếc phong bì nhỏ. Có vài chữ viết lên 1 tấm các. “Hẹn gặp lại” và nhét nó vào sâu trong túi áo khoác của mình.
Trong khu phố này chỉ có 1 vườn hoa cho phép súc vật vào. Nếu như số phận có những lí lẽ của nó, con người kô có trí tưởng tượng lại thường cho những lí lẽ đó là kô đầy đủ. Bà Kline ngồi xuống ghế băng; ở bên cạnh, 1 bà lão đang đọc báo muốn làm quen với bà.
Trong khu vực được rào lại dành cho chó, Kali trèo lên mình 1 con chó giống jack russell đang nằm nghỉ dưới bóng mát dịu của 1 cây đoạn
- Bà có vẻ kô được khỏe lắm- bà lão nói.
Bà Kline giật mình.
- Tôi đang mải nghĩ thôi- mẹ Lauren trả lời.- Lũ chó của chúng ta có vẻ hợp nhau nhỉ..
- Con Pablo bao giờ cũng bị những con chó to, dài mình hấp dẫn; tôi sẽ phải đọc lại sách giáo khoa cho nó nghe mới được, tôi có cảm giác là chúng đổi vai cho nhau rồi. Điều gì làm cho bà phải lo nghĩ vậy?
- Kô có gì cả!
- Nếu như bà cần trút bầu tâm sự thì tôi là lí tưởng đấy, tôi điếc đặc mà!
Bà Kline nhìn bà Morrison, bà bày vânc tiếp tục đọc.
- Bà có con kô?- bà kline nói bằng 1 giọng như chịu thua.
Bà Morisson lắc đầu.
- Thế thì bà kô hiểu được đâu.
- Nhưng tôi đã yêu những người đàn ông có con!
- Đó là chuyện khác hẳn!
- Thật là bực mình!- Bà rose phản đối- những người có con cứ nhìn những người kô có con như thể họ thuộc về 1 hành tinh khác. Yêu 1 người đàn ông cũng phức tạp như nuôi trẻ con vậy.
- Tôi kô hoàn toàn tán thành quan điểm của bà
- Thế bà vẫn sống cùng ông nhà chứ?
Bà kline nhìn bàn tay mình, thời gian đã xóa mờ vết đeo nhẫn cưới
- Nào, con gái bà đã khiến cho bà lo lắng về cái gì nào?
- Sao bà biết đó kô phải con trai?
- Thì 1 trong 2 khả năng là đúng mà!
- Tôi nghĩ là tôi đã làm 1 điều kô tốt.- bà kline nói khẽ.
Bà lão gập tờ báo lại và chăm chú lắng nghe điều mà bà Kline đang rất cần thú nhận.
- Cái chuyện mà bà làm với bó hoa thật tệ quá! Thế tại sao bà lại sợ cô ấy gặp lại anh chàng kia đến thế?
- Tại vì anh ta có nguy cơ làm thức dậy 1 quá khứ có thể gây tổn hại cho cả hai chúng tôi.
Bà lão quay trở lại với tờ báo của mình, suy nghĩ 1 chút, rồi bà đặt tờ báo xuống ghế băng.
- Tôi kô biết phải nói sao với bà, nhưng người ta kô thể bảo vệ bất cứ ai bằng 1 điều dối trá được.
- Tôi rất tiếc,- bà Kline nói, - tôi đã nói với bà 1 điều mà bà kô thể hiểu được.
Bà Rose Morisson có đủ thời gian để hiểu. Mẹ Lauren do dự, nhưng nghĩ cho cùng, có gì nguy hiểm đâu nếu như bà thổ lộ với 1 người kô quen biết. ước muốn xua đuổi sự cô độc là ước muốn mạnh mẽ nhất, bà trấn tĩnh lại và kể câu chuyện về người đàn ông đã bắt cóc 1 người phụ nữ trẻ để cứu cô ta, trong khi mẹ đẻ của cô ta đã bỏ cuộc.
- Chàng trai trẻ của bà chẳng rõ có ông nôi, ông ngoại nào sống độc thân kô nhỉ?
- Sau khi anh ta trả lại tôi chìa khóa căn hộ, tôi kô bao giờ còn biết tin tức của anh ta nữa.
- Thế tự nhiên anh ta biến mất như vậy à?
- Có thể nói là chúng tôi đã giúp anh ta 1 tý
- Chúng tôi?
- 1 bác sĩ phẫu thuật thần kinh danh tiếng đã nhận trách nhiệm giải thích cho anh ta hiểu sức khỏe của con gái tôi dễ bị suy sụp đến mức nào. Ông ấy đã tìm ra được hàng ngàn lí do để thuyết phục anh ta rời xa con bé.
- Thế là trước từng ấy điều hiển nhiên, anh ta đã rút lui?
Mẹ Lauren thở dài.
- Đúng vậy
- Tôi nghĩ là còn có những lí do khác ngoài chuyện đó ra!- bà lão nói tiếp.- bà có nhận thấy kô, khi người ta yêu điên cuồng, thì người ta đánh mất nhiều khả năng của mình. Thế điều mà ông giáo sư ấy nói có thành thực kô?
- Thành thực thì chắc chắn rồi, còn đúng hay kô thì tôi cũng chẳng biết rõ nữa> Lauren đã hồi phục rất nhanh, sau vài tháng con bé đã trở lại như cũ.
- Bà nghĩ là bây giờ đã quá muộn để nói chuyện này với con gái của bà à?
- Tôi tự đặt câu hỏi này cho mình hàng ngày, và tôi kô thể nào tưởng tượng ra được phản ứng của nó.
- Tôi đã thấy kô ít cuộc đời bị phá hỏng bởi những bí mật gia đình. Tôi kô có cái may mắn được có con, và bất chấp những điều mà tôi vừa nói với bà lúc trước để tỏ ra bình thản, bà kô biết là tôi thèm có con đến mức nào đâu. Nhưng tôi hay vướng vào những chuyện yêu đương quá nên tôi kô tin là mình có khả năng làm được điều này, tức là, đó là cái cớ để tôi viện ra để khỏi phải nhìn thẳng vào sự ích kỉ của mình mà thôi. Tôi hiểu sự lưỡng lự của bà, dù rằng tôi tin là bà đã nhầm. Tình yêu được tạo nên bởi sự khoan dung, đó chính là cái đem lại cho nó sức mạnh.
- Tôi thực rất mong là bà nói đúng.
- Khi ta rời bỏ 1 người đàn ông, ta cứ tưởng là ta quên họ…cho đến lúc 1 kỉ niệm nhắc ta nhớ đến người ấy, vậy thì làm sao có thê hình dung được rằng người ta có thể gạt bỏ nổi tình yêu đối với cha mẹ mình. Người ta thường để quá nhiều thời gian trôi qua mà kô nói ra tình yêu của mình đối với cha mẹ, để rồi cuối cùng sẽ tỉnh ngộ ra, sau khi cha mẹ mất, là mình nhớ thương cha mẹ biết chừng nào.
Bà lão nghiêng người về phía bà Kline
- nếu như chàng trai đó đã cứu sống con gái bà, thì bà chịu ơn anh ta đấy> Bà hãy đi tìm anh ta đi.
Và bà morisson lại chăm chú đọc báo. Bà kline đợi 1 lát, bà chào bà bạn ngồi cùng ghế băng, gọi con kali và đi ra khỏi công viên.
 
Lúc trở về bà cầm bó hoa ở chân cầu thang lên. Trong nhà kô có ai. Bà cắm những bông mẫu đơn vào 1 bình hoa, đặt lên cái bàn thấp ở phòng khách và đi ra, đóng cửa lại.
Những ngày trong tuần trôi qua với sự đều đặn của 1 chiếc máy chỉnh nhịp. Sáng nào cũng vậy, Lauren đi dạo 1 lúc lâu dưới những bóng cây của công viên Presidio. Có lần cô còn đi tận đến bãi tắm ven biển Thái Bình Dương. Cô ngồi xuống cát và vùi đầu vào bản luận án mà mỗi tối cô đều đọc.
Thanh tra Pilguez cuối cùng cũng đã thích ứng được với giờ giấc của Nathalia. Hằng ngày , vào buổi trưa, họ ăn cùng nhau, 1 bữa ăn mà đối với người này là bữa ăn trưa, đối với người kia là bữa ăn tối.
Giữa 1 ngày chia 5 xẻ 7 của những cuộc họp với ban nghiên cứu và những chuyến đi giám sát công trường, Paul đến tìm Onega, cô đợi anh trên chiếc ghế băng ở cuối con đê, đối diện với vịnh.
Bà Morisson đưa Pablo đi tận hưởng những buổi chiều mùa hè đẹp trời trong công viên nhỏ gần nhà bà. Có lúc bà gặp bà Kline, và 1 hôm bà đã nhận ra Lauren nhờ con chó đi theo cô. Vào cái hôm thứ 5 rực nắng ấy, bà rất muốn bắt chuyện với cô, nhưng cuối cùng bà lại thôi kô làm xao lãng việc đọc của cô. Khi Lauren rời khỏi lối đi chính, bà nhìn theo cô với con mắt thích thú.
Hàng ngày vào giờ đầu buổi tối, George Pilguez chở Nathalia đến trước cửa đồn cảnh sát.
Trước lúc tìm gặp Onega để đi ăn tối, Paul đến thăm bạn mình; Paul đưa cho bạn xem những bản phác thảo và những bản thiết kế, Arthur chỉnh sửa bằng 1 nét bút chì, hoặc bổ sung 1 vài ghi chú về việc chọn màu sắc và vật liệu.
Ngày thứ 6 ấy, Fernstein vui mừng về tình trạng sức khỏe bệnh nhân của ông. Ông sẽ cho bệnh nhân này chụp kiểm tra bằng máy scanner ngay khi có chỗ trống và nếu như mọi thứ đều bình thường, điều mà ông tin chắc, ông sẽ ký phiếu xuất viện cho anh ta. Kô còn lí do gì để anh giữ 1 gi.ường trong bệnh viện nữa. Sau đó, cần phải chừng mực 1 thời gian, nhưng rồi cuộc sống sẽ nhanh chóng trở lại bình thường. Arthur cảm ơn giáo sư về tất cả những sự chăm sóc mà ông đã dành cho anh.
Paul đã đi về từ lâu, các hành lang kô còn vang lên tiếng bước chân nhộn nhịp ban ngày, bệnh viện đã khoác lên mình bộ đồ đêm. Arthur bật tivi đặt trên chiếc bàn nhỏ đối diện gi.ường của anh. Anh mở ngăn kéo bàn đầu gi.ường và lấy điện thoại di động của mình ra. Cặp mắt đầy vẻ nghĩ ngợi, anh bấm lần lượt hiện ra những cái tên trong danh mục địa chỉ rồi từ bỏ ý định quấy rầy bạn thân nhất của mình. ĐT từ từ rơi khỏi tay anh và lăn xuống vải trải gi.ường, đầu anh trượt xuống gối.
Cánh cửa hé mở, 1 nữ bác sĩ nội trú bước vào phòng. Cô đi ngay đến cuối gi.ường và xem hồ sơ y khoa. Arthur hé mắt và nhìn cô, yên lặng, cô có vẻ như đang tập trung suy nghĩ.
- Có vấn đề gì à?- anh nói
- Không- Lauren trả lời và ngẩng lên
- Cô làm gì ở đây?- anh sửng sốt hỏi
- Đừng nói to thế- Lauren thì thầm
- Tại sao phải nói khẽ?
- Tôi có những lí do của tôi.
- Và đó là những lí do bí mật?
- Đúng vậy!
- Thế thì tôi cần phải thú nhận với cô, dù bằng cách nói khẽ, là tôi rất vui vì được gặp cô.
- Tôi cũng vậy, tức là, tôi muốn nói rằng tôi vui vì anh đã khỏe hơn. Tôi thực rất tiếc là đã không chẩn đoán được cái chỗ xuất huyết ấy trong lần khám đầu tiên.
- Cô không có lí do gì để tự trách mình cả. tôi nghĩ là tôi đã chẳng tạo điều kiện cho cô làm việc được là bao.
- Lúc ấy anh rất vội đi!
- Đó là vì cái thói ham công tiếc việc ấy mà, sẽ có ngày tôi chết vì nó!
- Anh là kiến trúc sư , phải không?
- Đúng vậy!
- Đó là một nghề rất gai góc, cần nhiều đến toán!
- Đúng vậy, tức là cũng như ngành y học ở đại học ấy, còn sau đó thì ta để những người khác làm toán hộ mình.
- Những người khác?
- Các tính toán về lực đỡ, sức bền, tất cả những cái ấy trước hết là công việc của các kĩ sư.
- Vậy các kiến trúc sư làm gì trong khi các kĩ sư làm việc?
- Họ mơ mộng!
- Thế anh mơ điều gì?
Arthur nhìn Lauren hồi lâu,anh mỉm cười và chỉ tay về phía góc phòng.
- Cô đi ra cửa sổ đi.
- Để làm gì?- Lauren ngạc nhiên
- Để làm một cuộc hành trình nhỏ
- một cuộc hành trình nhỏ ở cửa sổ?
- Không, một cuộc hành trình nhỏ từ cửa sổ.!
Cô nghe theo, một nụ cười gần như giễu cợt hiện ra ở khóe miệng.
- Còn bây giờ thì làm gì?
- Cô mở ra đi!
- Cái gì cơ?
- Mở cửa sổ!
Lauren làm chính xác điều mà Arthur yêu cầu.
- Cô nhìn thấy gì?- anh hỏi, vẫn bằng một giọng thì thầm.
- một cái cây!- cô trả lời
- Tả nó cho tôi nghe đi.
- Sao cơ?
- Nó có to không?
- Nó cao như nhà hai tầng, nhưng nó có những chiếc lá to xanh
- Giờ thì cô nhắm mắt lại nhé
Lauren nhập vào trò chơi, và giọng nói của Arthur đến với cô trong 1 sự mơ hồ ngẫu hứng.
- những cành cây kô lay động, vào giờ này trong ngày, gió biển còn chưa nổi lên. Cô hãy lại gần thân cây, những con ve sầu thường trốn trong các hốc vỏ cây. Dưới góc cây trải ra một tấm thảm làm bằng những chiếc lá thông hình kim. Chúng đã bị mặt trời đốt cháy xém. Bây giờ, hãy nhìn tất cả xung quanh cô. Cô đang ở trong một khu vườn rộng. Rải rác trong vườn có những luống to đất đỏ trồng một vài cây thông lọng. ở phía bên trái cô sẽ nhìn thấy những cây thông bạc, phía bên phải là những cây cù tùng, phía trước là những cây lựu và xa hơn là những cây minh quyết dường như lan ra đến tận biển. Hãy đi theo những chiếc cầu thang nhỏ làm bằng đá ở bên lề đường.Những bậc thang kô đều nhưng cô đừng sợ, nó thoai thoải thôi. Hãy nhìn phía tay phải cô, bây giờ cô đã đoán ra được những dấu tích còn lại của một vườn hoa hồng rồi chứ? Hãy dừng lại ở phía dưới và nhìn trước mặt cô.
Và Arthur tạo ra một thế giới chỉ nhờ vào ngôn từ. Lauren nhìn thấy ngôi nhà với những cánh cửa sổ đóng kín mà anh mô tả cho cô. Cô bước về phía bậc thềm, trèo lên trên những bậc thang và dừng lại dưới mái hiên. Phía dưới kia, đại dương dường như muốn đập vỡ những mỏm đá, các đợt sóng cuốn đi những đám rong rêu quyện lẫn những búi lá kim. Gió lùa vào tóc cô, cô cảm thấy gần như muốn hất tóc lại về phía sau.
Cô đi vòng quanh nhà và tuân theo một cách sát sao những chỉ dẫn của Arthur, anh dẫn dắt cô đi từng bước một vào miền đất tưởng tượng của anh. Bàn tay cô chạm nhẹ vào mặt tường, tìm một miếng chêm nhỏ, dưới một cánh cửa sổ. Cô làm như anh nói và dung đầu ngón tay kéo nó ra. Tấm cửa gỗ mở ra và cô thậm chí còn như nghe thấy tiếng ken két của bản lề. Cô tháo nhẹ cái chốt cửa, nó chịu để bị đẩy theo cái khe dành cho nó, rồi cô nâng lên tấm của kính kiểu máy chém.
- Cô đừng dừng lại ở căn phòng này, nó tối lắm, hãy đi xuyên qua phòng, cô sẽ ra đến hành lang.
Cô bước những bước chậm rãi, sau những bức tường, mỗi căn phòng dường như chứa đựng một bí mật. Cô đã vào bếp. Trên bàn, có một chiếc ấm pha cà phê cũ kiểu Ý, dùng để pha một thứ cà phê hảo hạng và trước mặt cô là cái bếp kiểu mà người ta thường nhìn thấy ngày xưa trong những ngôi nhà cổ.
- Đây là bếp củi à?- Lauren hỏi
- Nếu cô muốn thì cô còn tìm thấy củi nữa cơ, nó được cất trong một chái nhà ngay bên ngoài, đi ra theo lối cửa sau.
- Tôi muốn ở lại trong nhà và tiếp tục tham quan- Lauren nói khẽ
- Vậy thì cô hãy ra khỏi bếp. Cô mở cánh cửa ngay trước mặt đi.
Cô bước vào phòng khách. Một chiếc bàn piano dài nằm im lìm trong bóng tối. Cô bật đèn lên và bước lại khá gần để ngồi lên ghế.
- Tôi không biết chơi đàn.
- Đó là một nhạc cụ đặc biệt, được đem về từ 1 vùng đất xa xôi.; nếu cô nghĩ thật tập trung đến giai điệu mà cô ưa thích, đàn sẽ chơi bản nhạc đó cho cô, nhưng cô phải đặt tay lên những phím đàn mới được.
Lauren hết sức tập trung tư tưởng và bản nhạc “ánh trăng” của Werther tràn ngập tâm trí cô.
Cô có cảm giác là một ai đó đang chơi đàn bên cạnh cô và cô càng thả mình trong những mộng mơ thì tiếng nhạc càng thấm sâu và hiện diện. Cứ như vậy, cô đi xem từng chỗ một, trèo lên gác, từ phòng này sang phòng khác, và từng tí1, những từ dùng để mô tả ngôi nhà biến thành vô số chi tiết tạo ra một cuộc sống xung quanh cô. Cô trở lại căn phòng duy nhất mà cô chưa vào xem. Cô bước vào căn phòng làm việc nhỏ, nhìn chiếc gi.ường và rùng mình, cô mở mắt ra và căn nhà tan biến.
- Tôi nghĩ là tôi đã để mất căn nhà đó rồi
- Không sao đâu, bây giờ ngôi nhà ấy là của cô, cô có thể trở lại đó khi nào cô muốn, chỉ cần cô nghĩ đến nó là được.
- Tôi sẽ kô thể làm lại chuyện này 1 mình, tôi không có khướu lắm với việc tưởng tượng.
- Cô không tin vào bản thân là nhầm đấy. Tôi cho rằng đối với lần đầu tiên thì cô xoay xở như thế là khá.
- Thế ra nghề của anh là như vậy. Anh nhắm mắt lại và anh tưởng tượng ra các nơi.?
- Không, tôi tưởng tượng cuộc sống sẽ có ở bên trong và chính nó đã gợi ý cho tôi những thứ còn lại
- Đó là 1 cách làm việc thật lạ lùng
- Đúng hơn đó là 1 cách thật lạ lùng để làm việc
- Tôi phải đi đây, các y tá sắp đi tua rồi
- Cô sẽ trở lại chứ?
- Nếu tôi có thể
Cô đi ra cửa phòng và quay lại ngay trước lúc bước ra
- Cảm ơn anh về cuộc thăm quan này, thật thú vị, tôi thích cái khoảnh khắc đó
- Tôi cũng vậy
- Ngôi nhà này có tồn tại thật kô?
- Lúc nãy cô có nhìn thấy nó rồi chứ?
- Nhìn rõ như là tôi đã ở trong đó!
- Vậy thì, nếu nó tồn tại trong trí tưởng tượng của cô, có nghĩa là nó tồn tại thật.
- Anh có lối nghĩ thật lạ.
- Do cứ nhắm mắt lại mãi với những cái xung quanh mình, 1 số người đã trở nên mù mà kô tự biết. Tôi bằng lòng với việc học để biết nhìn, nhìn cả trong bóng tối nữa.
- Tôi biết 1 chú cú có lẽ rất cần lời khuyên của anh
- Con cú tròn túi áo blouse của cô hôm nọ ý à?
- Anh còn nhớ sao?
- Tôi kô có dịp quen biết nhiều bác sĩ, nhưng khó mà quên được 1 bác sĩ khám bệnh cho mình với 1 con thú nhồi bông tuí áo.
- Con cú ấy nó sợ ánh sáng ban ngày, và ông của nó đã đề nghị tôi chữa bệnh cho nó.
- Cần phải tìm cho nó 1 cặp kính râm dành cho trẻ con, tôi có 1 cặp kính hồi tôi còn bé, đeo cặp kính ấy vào có thể nhìn thấy những cái thật khó tin.
- Chẳng hạn như?
- Những giấc mơ, làm bằng những vùng đất tưởng tượng.
- Cảm ơn về lời khuyên của anh.
- Nhưng hãy chú ý, khi cô đã chữa lành bệnh cho chú cú của cô, hãy nói với chú ta rằng chỉ cần ngừng tin 1s thôi là giấc mơ sẽ vỡ tan ra thành hàng ngàn mảnh.
- Tôi sẽ nói với chú ta, anh cứ tin ở tôi. Còn bây giờ, anh cứ nghỉ ngơi đi.
Và Lauren đi ra khỏi phòng.

Một vệt trăng lọt qua khe cửa chớp. Arthur tung chăn và đi ra cửa sổ. Anh đứng lại ở đó, dựa vào bệ cửa, nhìn cây cối trong vườn đang im lìm bất động. Anh hoàn toàn kô muốn nghe theo lời khuyên của bạn mình. Từ lâu lắm rồi, anh đã tự nuôi dưỡng mình bằng sự kiên nhẫn, và kô điều gì có thể tách anh ra khỏi kỉ niệm về cô gái ấy, cả thời gian lẫn những chuyến đi chứa đầy những ánh nhìn khác. Chẳng bao lâu nữa, anh sẽ ra khỏi đây.
 
Chương 14Kỳ nghỉ cuối tuần báo hiệu nắng sẽ đẹp, chân trời không một gợn mây. Tất cả đều tĩnh lặng, dường như thành phố đã thức dậy sau một đêm hè quá ngắn. Chân để trần, tóc loà xoà, với chiếc áo cổ chui mà cô choàng lên người như một chiếc váy nhẹ, Lauren ngồi ở bàn làm việc của mình, bắt tay vào làm tiếp những nghiên cứu mà cô bỏ dở hôm trước.
Cô tiếp tục làm việc cho đến giữa buổi sáng, đồng thời ngóng giờ đưa thư. Cô đợi nhận một cuốn sách khoa học mà cô đã đặt mua từ hai hôm trước, có thể cô sẽ thấy nó nằm trong hộp thư. Cô đi ngang qua phòng khách, mở cửa vào căn hộ của mình và giật nảy người, kêu lên một tiếng.
- Xin lỗi, tôi không muốn làm cô sợ - Arthur nói, tay chắp sau lưng, - Tôi có địa chỉ của cô là nhờ Betty.
- Anh làm gì ở đây? - Lauren hỏi và kéo áo xuống.
- Chính tôi cũng chẳng rõ nữa.
- Đáng lẽ họ không nên để cho anh ra viện, hãy còn sớm quá - cô nói lúng túng.
- Tôi xin thú thực với cô là thật ra tôi cũng không để cho họ được lựa chọn... dù sao cô cũng cho tôi vào nhà chứ?
Cô nhường lối cho anh đi và mời anh ngồi ở phòng khách.
- Tôi sẽ ra ngay! - Cô kêu lên và chạy vào buồng tắm.
"Trông mình như một con Gremlin (25)", cô tự nhủ trong lúc cố vuốt lại mái tóc một chút. Cô vội vã ra tủ quần áo và bắt đầu vật lộn với những chiếc mắc áo.
- Mọi việc ổn cả chứ? - Arthur hỏi, ngạc nhiên vì tiếng động phát ra từ tủ quần áo.
- Anh có muốn uống cà phê không? - Lauren vừa kêu lên vừa kiếm một cách tuyệt vọng những thứ mà cô có thể mặc được.
Cô nhìn sát vào một chiếc áo len dài tay rồi ném nó xuống đất, chiếc áo sơ mi trắng cũng không hợp, nó được bay lượn trong không khí, một chiếc váy không chậm trễ bay theo nó. Giây này nối giây khác, một mớ quần áo đã xếp đống sau lưng cô.
Arthur bước ra giữa phòng khách, anh nhìn tất cả xung quanh mình. Cái nơi này đối với anh thân thuộc biết bao. Những giá sách bằng gỗ màu sáng trĩu xuống dưới sức nặng của những cuốn sách, chắc nó sẽ không chịu được nữa nếu Lauren bổ sung cho đủ bộ từ điển bách khoa y học của cô. Arthur mỉm cười khi nhận thấy cô kê bàn làm việc của mình ở đúng chỗ mà trước đây anh đã kê bàn vẽ của anh.
Qua những cánh cửa hé mở, anh hình dung ra phòng ngủ và chiếc gi.ường đặt đối diện với ô cửa sổ.
Nghe thấy tiếng Lauren húng hắng ho sau lưng, anh quay lại. Cô mặc quần jean và áo phông trắng.
- Cà phê với sữa và đường, không sữa nhưng có đường, hay không đường nhưng có sữa? - cô hỏi.
- Xin tùy ý cô! - Arthur trả lời.
Cô vòng ra sau tủ bar ở bếp, vòi nước bị rỉ, nước bắt đầu chảy to ra.
- Tôi nghĩ là tôi đang gặp phải một vấn đề - cô vừa nói vừa cố dùng tay bịt nước lại.
Arthur lập tức chỉ cho cô cái van khoá nguồn nước nằm trong một chiếc tủ tường nhỏ ngay bên cạnh cô. Lauren vội vã đóng van. Khuôn mặt bị nước bắn lấm tấm, cô nhìn dán mắt vào Arthur.
- Làm sao mà anh lại biết được?
- Tôi là kiến trúc sư!
- Đó là một nghề cho phép nhìn xuyên qua tường à?
- Hệ thống ống dẫn của một căn nhà không phức tạp bằng hệ thống trong cơ thể con người, nhưng chúng tôi cũng có những mưu mẹo nhỏ của mình để ngăn chặn sự xuất huyết. Cô có dụng cụ không?
Lauren lau khô mặt bằng một chiếc khăn giấy rồi mở ngăn kéo. Cô lấy ra một cái tuốc nơ vít, một cái mỏ lết và một cái búa.
Cô đặt các dụng cụ lên tủ bar, vẻ có lỗi.
- Dù sao chúng ta cũng phải làm được thôi - Arthur nói.
- Tôi không tin mình có khả năng làm được việc này!
- Đây là một cuộc phẫu thuật không phức tạp bằng cái mà cô làm ở phòng mổ. Cô có cái gioăng nào mới không?
- Không!
- Cô thử nhìn vào hộp cầu chì xem, tôi không biết tại sao, nhưng người ta vẫn luôn luôn tìm thấy một hay hai cái gioăng để lăn lóc trên công tơ điện.
- Thế công tơ điện thì lăn lóc ở đâu?
Arthur lấy tay chỉ cho cô cái hộp nhỏ ngay cạnh cửa ra vào.
- Đó là cái ngắt điện tự động chứ.
- Đấy, chính ở đó đấy - Arthur nó bằng một giọng khoái trá.
Lauren đứng sững trước mặt anh.
- Thôi được, một khi hòm tủ nhà tôi chẳng có gì là bí mật đối với anh cả thì anh tự đi tìm mấy cái gioăng đó đi, đỡ mất thời gian!
Arthur đi tới cửa ra vào. Anh giơ tay về phía cái hộp và bỗng thay đổi ý định.
- Anh làm sao thế? - Lauren hỏi.
- Tay tôi hãy còn khó điều khiển - Arthur nói khẽ, vẻ lúng túng ra mặt.
Lauren bước lại gần anh.
- Không sao đâu - cô nói bằng một giọng an ủi - Hãy kiên nhẫn, anh sẽ không bị di chứng gì đâu, nhưng phải có một chút thời gian để phục hồi, quy luật tự nhiên đòi hỏi như vậy.
- Dù sao, tôi cũng có thể hướng dẫn cô sửa chữa, nếu cô muốn? - Arthur nói.
- Sáng nay, tôi có những kế hoạch khác chứ không định sửa vòi nước. Ông hàng xóm của tôi làm các thứ lặt vặt trong nhà tài lắm, chính ông ấy đã xếp đặt hầu hết tất cả các thứ ở đây cho tôi đấy, ông ta sẽ vui sướng được chịu trách nhiệm về cái vòi nước này.
- Ông ta là người đã nảy ra ý đặt cái giá sách chặn cửa sổ như thế này phải không?
- Sao anh lại hỏi vậy, như thế không được à?
- Có, có chứ - Arthur nói và trở lại giữa phòng khách.
- Cái câu "có chứ" này diễn tả một ý ngược lại hẳn!
- Không, hoàn toàn không phải thế đâu! - Arthur khăng khăng.
- Sao mà anh nói dối kém thế không biết!
Arthur bèn đề nghị Lauren ngồi xuống đi văng.
- Cô quay người lại đi - Arthur nói.
Lauren thực hiện, tuy chưa hiểu rõ anh định làm gì.
- Cô thấy không, nếu cái giá sách này không che bớt cửa sổ, cô sẽ có một khung cảnh rất đẹp khi nhìn từ đây.
- Tôi sẽ có một khung cảnh rất đẹp, nhưng ở sau lưng tôi! Nói chung, tôi thường ngồi thẳng trên đi văng cơ!
- Chính vì vậy mà sẽ hợp lý hơn nếu quay cái đi văng lại; nói một cách thành thực, cái cửa ra vào chẳng phải là chỗ đẹp nhất, đúng không?
Lauren đứng dậy, chống tay ngang hông và nhìn Arthur chăm chú.
- Tôi chưa bao giờ chú ý đến chuyện này cả. Ở bệnh viện ra, anh đến nhà tôi một cách bất thình lình để làm lại trang trí nội thất hay sao?
- Tôi rất tiếc - Arthur cúi đầu nói.
- Không, chính tôi mới phải tiếc. - Lauren nói tiếp - Thời gian gần đây tôi hơi dễ nổi nóng. Tôi pha cà phê cho anh nhé?
- Cô có còn nước nữa đâu!
Lauren mở tủ lạnh.
- Đến cả nước quả tôi cũng chẳng có để mời anh!
- Vậy tôi đưa cô đi ăn sáng nhé?
Cô đề nghị anh đợi cô một tí thôi, để cô xuống lấy thư. Vừa nghe tiếng bước chân đi ra xa trong hành lang, Arthur lập tức cảm thấy trào lên ước muốn được giao lưu lại với nơi mà mình đã từng sống. Anh bước vào phòng ngủ và lại gần gi.ường. Kỷ niệm về một buổi sáng mùa hè trỗi dậy như thoát ra từ những trang của một cuốn sách rơi trên giá xuống. Anh những muốn lần ngược thời gian để trở lại cái ngày mà anh ngắm nhìn cô nằm ngủ.
Đầu ngón tay anh chạm nhẹ vào chăn, những sợi tơ len từ từ dựng lên dưới tay anh. Anh đi sang buồng tắm và nhìn những lọ nhỏ đặt cạnh bồn rửa mặt. Một lọ sữa rửa mặt, một lọ nước hoa, vài đồ trang điểm ít ỏi. Một ý nghĩ thoáng hiện trong óc anh, anh liếc mắt nhìn ra ngoài và quyết định thoả mãn một ước mơ rất cũ. Anh bước vào trong tủ quần áo sát cạnh đó và đóng cửa tủ lại.
Ẩn mình giữa những mắc áo, anh nhìn những chiếc áo quần ở phía dưới, những cái còn treo trên mắc, và cố hình dung Lauren mặc bộ này hay bộ kia. Anh chỉ muốn ở lại trong này, đợi cô tìm thấy anh. Có thể trí nhớ sẽ trở lại với cô, cô sẽ do dự một chút, rồi cô sẽ nhớ lại những lời mà họ đã nói với nhau. Khi ấy, anh sẽ ôm cô vào lòng, và sẽ hôn cô như trước đây, hay đúng hơn là hôn bằng một nụ hôn khác. Không còn điều gì, không còn ai có thể lấy mất cô đi khỏi anh nữa. Thật là ngu ngốc, nếu anh ở lại trong này, trước tiên là cô sẽ sợ. Có ai mà không sợ khi thấy có người trốn trong tủ ở buồng tắm nhà mình?
Cần phải ra khỏi đây trước khi cô trở lại; thêm một tí nữa thôi, ai có thể giận anh được? Ước gì cô lên cầu thang chầm chậm thôi, thêm một vài giây tranh thủ cho niềm hạnh phúc được đắm mình giữa bầu không khí của cô.
- Arthur?
- Tôi ra đây.
Anh xin lỗi vì đã vào buồng tắm mà không xin phép, anh muốn rửa tay.
- Nhưng có nước đâu!
- Đến lúc mở vòi nước tôi mới nhớ ra! - anh bối rối nói - Sách của cô đã đến chưa?
- Đến rồi, tôi xếp cái "cục gạch" này lên giá sách rồi ta đi nhé? Tôi đói lắm rồi.
Đi ngang qua bếp, Arthur nhìn cái bát tô của Kali.
- Cái bát ăn dành cho con chó của tôi đấy, nó đang ở chỗ mẹ tôi.
Lauren lấy chìa khoá trên tủ bar và họ rời căn hộ.
Đường phố ngập ánh mặt trời. Arthur chỉ muốn khoác vai Lauren.
- Cô muốn đi đâu? - Anh hỏi, tay chắp sau lưng.
Cô đói ngấu nhưng nữ tính đã khiến cô e ngại khi phải thú nhận với anh rằng cô đang mơ đến một cái hamburger. Arthur trấn an cô rằng một phụ nữ thích ăn là một điều tốt đẹp.
- Hơn nữa, ở New York, bây giờ đã là giờ ăn trưa rồi, còn ở Sydney thì là giờ ăn tối! - cô vui vẻ nói thêm.
- Đó là một cách nhìn sự việc - Arthur nói khi bước bên cạnh Lauren.
- Làm bác sĩ nội trú, rốt cuộc người ta sẽ đi đến chỗ ăn gì cũng được, ăn vào giờ nào cũng được.
Cô kéo anh đi đến tận Ghirardelli Square, họ đi dọc theo kè rồi đi lên một con đê chắn sóng; trong một nhà sàn dựng trên mặt nước, tiệm ăn Simbad mở cửa cả ngày lẫn đêm.
Nữ nhân viên đón tiếp xếp họ ngồi vào một bàn, cô ta đưa một bản thực đơn cho Lauren rồi biến mất. Arthur không đói, anh từ chối đọc tờ thực đơn mà Lauren chìa ra cho anh.
Một lát sau, một bồi bàn xuất hiện, anh ta ghi lại món đặt của Lauren và trở vào bếp.
- Anh không ăn gì thật à?
- Suốt cả tuần tôi đã được nuôi bằng dịch truyền, tôi nghĩ là dạ dày của tôi đã co lại rồi. Nhưng tôi thích xem cô ăn lắm.
- Dù sao anh cũng sẽ cần phải ăn uống trở lại đấy!
Bồi bàn đặt một đĩa bánh kếp to đùng lên bàn.
- Tại sao sáng nay anh lại đến nhà tôi?
- Để chữa một chỗ nước rò rỉ.
- Nói nghiêm chỉnh nào!
- Để cảm ơn cô đã cứu sống tôi, tôi nghĩ vậy.
Lauren đặt chiếc dĩa đang cầm trong tay xuống.
- Bởi vì tôi muốn đến - Arthur thú nhận.
Cô nhìn anh, chăm chú, rồi rưới xirô vị cây thích vào món ăn của mình.
- Tôi chỉ làm công việc của mình thôi - cô hạ giọng nói.
- Tôi không dám chắc rằng việc gây mê đồng nghiệp của mình và đánh cắp xe cấp cứu lại là công việc hằng ngày của cô.
- Xe cấp cứu là sáng kiến của anh bạn thân của anh đấy chứ.
- Tôi cũng đã ngờ ngợ thế.
Người bồi bàn đến gần và hỏi Lauren có cần gì không?
- Không, sao anh lại hỏi vậy?
- Tôi cứ tưởng là chị gọi tôi - anh bồi bàn trả lời bằng một giọng khinh khỉng.
Lauren nhìn anh ta bỏ đi, cô nhún vai và tiếp tục nói chuyện.
- Bạn anh nói với tôi là các anh quen nhau từ khi còn ở trường nội trú.
- Mẹ tôi chết khi tôi mười tuổi, chúng tôi rất thân nhau.
- Nói vậy là can đảm đấy, phần lớn mọi người không bao giờ nói từ này đâu, người ta nói "ra đi" hoặc là "rời bỏ" thôi.
- Ra đi hay rời bỏ là những hành động tự nguyên.
- Anh đã lớn lên có một mình thôi?
- Sự cô độc có thể là một dạng đồng hành. Thế còn cô? Cha mẹ cô vẫn còn chứ?
- Chỉ còn mẹ tôi thôi, từ khi tôi gặp tai nạn, mối quan hệ của mẹ con tôi nói chung là căng thẳng, mẹ tôi tham gia hơi nhiều quá.
- Tai nạn à?
- Một vòng nhào lộn bằng ôtô, tôi đã bị bắn ra, nằm đợi chết, nhưng sự kiên trì của một giáo sư của tôi đã đưa tôi trở lại với cuộc sống sau mấy tháng hôn mê.
- Cô không giữ lại bất cứ một kỷ niệm nào của thời kỳ đó à?
- Tôi nhớ được mấy phút cuối trước tai nạn, sau đó là một lỗ hổng mười một tháng trong cuộc đời tôi.
- Chưa từng có ai nhớ lại được những gì xảy ra trong những thời điểm như vậy sao? - Arthur hỏi, giọng đầy hy vọng.
Lauren mỉm cười, cô nhìn một chiếc bàn đẩy chở đồ ăn, xếp không xa chỗ cô.
- Thời điểm mà người ta bị hôn mê ấy à? Không thể nhớ được đâu! Đó là thế giới vô thức, không có chuyện gì xảy ra hết.
- Thế nhưng xung quanh cuộc sống vẫn tiếp tục cơ mà, phải không?
- Anh quan tâm đến chuyện này thật à? Anh không bắt buộc phải lịch sự đâu, anh biết đấy.
Arthur thề rằng sự tò mò của anh là chân thành. Lauren giải thích cho anh rằng có nhiều lý thuyết về chủ đề này, và ít điều xác thực. Những người bệnh có nhận thức được những cái xung quanh họ không? Từ quan điểm y học, cô không tin lắm vào điều này.
- Cô nói là từ quan điểm y học. Tại sao lại có sự phân biệt như vậy?
- Tại vì tôi đã trải nghiệm điều này với tư cách là người trong cuộc.
- Và từ đó cô đã rút ra kết luận khác?
Lauren do dự trước khi trả lời, cô ra hiệu cho người bồi bàn, chỉ tay vào chiếc bàn đẩy đựng đồ tráng miệng, anh này vội vàng chạy ra bàn của cô. Cô chọn một loại kem sôcôla xốp cho mình, và vì Arthur không yêu cầu gì cả, cô đặt một chiếc bánh kem sôcôla mặt láng cho anh.
- Hai loại tráng miệng tuyệt hảo cho cô đây - người bồi bàn nói và đưa ra các món.
- Đôi khi tôi có những giấc mơ kỳ lạ giống như những mảnh ký ức, dường như có những cảm giác trở lại với tôi, nhưng tôi cũng biết rằng bộ não có khả năng biến những cái người ta được nghe người khác kể lại thành kỷ niệm.
- Thế mọi người đã kể gì cho cô?
- Không có gì đặc biệt, sự hiện diện hằng ngày của mẹ tôi, của Betty, một nữ y tá làm việc ở khoa tôi, và những chuyện khác không thực sự quan trọng lắm.
- Chẳng hạn như?
- Như lúc tôi tỉnh lại, nhưng chúng ta đã nói về tất cả những chuyện đó quá nhiều rồi, anh phải nếm thử hai loại tráng miệng này đi!
- Cô đừng giận tôi nhé, nhưng tôi dị ứng với sôcôla.
- Anh không muốn cái gì khác à? Anh chẳng ăn uống gì cả!
- Tôi hiểu mẹ cô, bà có lẽ hơi quá mức trong cách cư xử, nhưng đó chỉ vì tình yêu thôi.
- Mẹ tôi sẽ thích anh lắm nếu được nghe anh nói.
- Tôi biết, đó là một trong những nhược điểm lớn của tôi.
- Nhược điểm gì cơ?
- Tôi là loại đàn ông mà các bà mẹ vợ thì nhớ đến, nhưng con gái của các bà thì không phải bao giờ cũng vậy.
- Thế các bà mẹ vợ của anh nói có nhiều không? - Lauren hỏi và xúc một thìa to kem sôcôla xốp.
Arthur nhìn cô, thích thú; cô có một vệt sôcôla phía trên môi. Anh giơ tay ra, như muốn lau đi cái mũi tên của thần Cupidon này, nhưng anh không dám.
Đằng sau quầy bar của mình, một nhân viên phục vụ nhìn về phía bàn của họ, tò mò.
- Tôi là người độc thân.
- Tôi khó mà tin anh được.
- Thế còn cô? - Arthur nói tiếp.
Lauren lựa lời trước khi đáp.
- Tôi có một người trong đời tôi, chúng tôi không thực sự sống cùng nhau, đúng hơn là anh ấy có hiện diện. Đôi khi cứ như vậy đấy, tình cảm tắt ngấm đi. Anh sống độc thân từ lâu rồi à?
- Đúng vậy, đã khá lâu.
- Điều này thì tôi hoàn toàn chẳng tin anh nữa đâu.
- Có điều gì khiến cô thấy là không thể như vậy được?
- Một người như anh mà lại cô đơn.
- Tôi không cô đơn!
- À, đấy nhé!
- Người ta có thể yêu một ai đó nhưng vẫn độc thân! Lý do có thể chỉ là tình cảm không được đáp lại, hay đối tượng không còn tự do.
- Và người ta có thể trung thành với đối tượng suốt cả thời gian ấy?
- Nếu đối tượng này là người đàn bà của đời mình thì cũng đáng đợi, phải không?
- Như vậy anh không phải là người độc thân?
- Trong tim tôi thì không.
Lauren uống một ngụm to cà phê và nhăn mặt. Cà phê nguội lạnh. Arthur muốn gọi cho cô một tách khác, nhưng cô nhanh hơn anh và chỉ cho bồi bàn cái ấm cà phê đặt trên tấm sưởi nóng của một chiếc bàn để bát đĩa.
- Quý cô muốn một hay hai tách? - Người bồi bàn hỏi, nụ cười mỉa mai hiện ra trên môi.
- Anh có vấn đề gì à?
- Tôi thì hoàn toàn không - người bồi bàn trả lời và đi về gian bếp phụ.
- Anh có nghĩ là anh ta bực vì anh không gọi món nào không? - Cô hỏi Arthur.
- Có ngon không? - Arthur trả lời.
- Kinh lắm - Lauren vừa nói vừa cười.
- Vậy thì tại sao cô lại chọn chỗ này? - Arthur đáp lại và cười theo cô.
- Tôi thích cảm thấy hơi thở của biển, ước đoán áp suất và tâm trạng của nó.
Tiếng cười của Arthur biến thành âm điệu u sầu, nỗi buồn hiện ra trong mắt anh, những vì sao phiền muộn với một phong vị chua chát.
- Anh làm sao thế? - Lauren hỏi.
- Không có gì, chỉ là một kỷ niệm thôi.
Lauren ra hiệu cho bồi bàn mang hoá đơn ra.
- Cô ấy thật may mắn - cô nói và lại uống một ngụm cà phê.
- Ai cơ?
- Người mà anh vẫn chờ đợi từ lâu ấy.
- Thật vậy à?
- Đúng, thật đấy! Điều gì đã chia rẽ anh và cô ấy?
- Vấn đề tương hợp!
- Anh và cô ấy không hợp nhau nữa à?
- Có chứ, rất hợp. Chúng tôi đã có cùng nhau những trận cười nghiêng ngả, những ước muốn. Chúng tôi còn hứa với nhau là đến lúc nào đó sẽ thảo ra một danh sách những điều hạnh phúc cần làm, cô ấy gọi đó là danh sách happy to do.
- Điều gì đã ngăn cản anh và cô ấy viết danh sách nào?
- Thời gian đã chia rẽ chúng tôi trước đó.
- Anh và cô ấy đã không gặp lại nhau?
Bồi bàn đặt hoá đơn lên bàn. Arthur muốn cầm nhưng Lauren đã lấy hóa đơn bằng một động tác nhanh hơn Arthur.
- Tôi thích sự galăng của anh, - cô nói - nhưng đừng có nghĩ đến chuyện đó nhé, thứ duy nhất mà anh tiêu thụ ở đây là những lời nói của tôi, tôi không phải là người theo chủ nghĩa nữ quyền, nhưng dù sao cũng có những giới hạn chứ!
Arthur không có thời gian biện luận, Lauren đã đưa thẻ tín dụng của mình cho nhân viên nhà hàng.
- Tôi phải về nhà và làm việc, - Lauren nói - và đồng thời tôi lại chẳng muốn như vậy tí nào.
- Thế thì chúng ta đi dạo đi, ngày hôm nay thật đẹp và tôi thì lại chẳng muốn để cô đi làm việc tí nào.
Cô dịch ghế ra và đứng dậy.
- Tôi đồng ý dạo chơi.
Người bồi bàn lắc đầu khi cô rời nhà hàng.
 
Cô muốn tản bộ trong công viên Presidio, cô thích lững thững dạo chơi ở đó dưới những cây cù tùng to. Thường thường, cô xuống đến tận cái dải đất có cắm một trong những cột trụ của cầu Golden Gate. Arthur biết rõ nơi này. Từ chỗ đó, cây cầu treo kéo dài ra như một gạch nối trên bầu trời giữa vịnh và đại dương.
Lauren phải đi lấy lại con chó của cô. Arthur hẹn sẽ tìm gặp cô ở cỗ đó. Đến cuối con đê, Lauren chia tay anh, anh nhìn theo cô đi xa dần, không nói một lời. Có những khoảnh khắc mang phong vị của vĩnh hằng.
Anh đợi cô dưới chân chiếc cầu lớn, ngồi trên 1 bức tường gạch thấp. Ở nơi này, những con sóng từ đại dương đối chọi với những con sóng của vịnh, trong 1 cuộc chiến kéo dài từ thưở xa xưa.
- Tôi đã để anh phải đợi à?- cô xin lỗi
- Kali đâu?
- Tôi hoàn toàn kô biết, mẹ tôi kô có ở nhà. Anh biết tên con chó của tôi à?
- Đi thôi, ta đi dạo ở phía bên kia cầu nhé, tôi muốn ngắm biển.- Arthur nói
Họ trèo lên 1 quả đồi và đi xuống sườn đồi bên kia. Ở phía dưới bãi biển trải dài hàng kilomet.
Họ bước dọc theo mép nước.
- Anh thật khác- Lauren nói
- Khác ai?
- Không riêng ai cả
- Thế thì cũng chẳng có gì là khó
- Đừng ngốc nghếch như vậy.
- Có điều gì ở tôi khiến cô kô thoải mái?
- Kô, chẳng có gì khiến tôi ko thoải mái cả, anh có vẻ luôn luôn thanh thản thế thôi.
- Đó là 1 nhược điểm à?
- Kô, nhưng điều đó rất đáng ngại, dường như chẳng có gì có thể gây phiền toái cho anh được.
- Tôi thích tìm kiếm giải pháp, cái đó là ảnh hưởng của gia đình, mẹ tôi cũng giống như tôi.
- Anh có cảm thấy thiếu vắng bố mẹ anh kô?
- Tôi kô có mấy thời gian để biết bố tôi. Mẹ tôi có cách nhìn đời nhất định khác lạ, như cô nói.
Arthur quỳ xuống, vun cát.
- Có 1 hôm- anh nói- tôi nhặt được trong vườn đồng tiền 1 đola , tôi nghĩ là mình giàu lắm. Tôi chạy ra với mẹ, tay nắm chặt kho báu. Tôi chỉ đồng tiền cho mẹ xem, tôi rất tự hào về khám phá của mình. Sau khi nghe tôi xướng lên 1 danh sách tất cả những thứ mà tôi sẽ mua bằng số tiền này, mẹ tôi khép ngón tay tôi để nắm lại đồng tiền, rồi nhẹ nhàng lật úp bàn tay tôi và bảo tôi mở tay ra.
- Rồi sao nữa?
- Đồng đô la rơi xuống đất. Mẹ tôi nói : “đấy, đó là điều sẽ xảy ra khi người ta chết, ngay cả đối với người giàu nhất thế giới. Tiền bạc và quyền lực kô sống lâu hơn chúng ta. Con người chỉ làm cho sự tồn tại của mình trở thành vĩnh cửu qua những tình cảm mà người ta chia sẻ”. Và đúng như vậy thật, mẹ tôi mất hôm qua, hôm qua của nhiều năm trước, đã lâu đến nỗi tôi lâu kô còn đếm tháng mà vẫn kô để mất 1 ngày. Đôi khi bà hiện ra trong khoảnh khắc của 1 cách nhìn mà bà đã dạy tôi, đối với sự vật, đối với phong cảnh, đối với người già đi ngang qua đường mang theo câu chuyện đời mình; bà xuất hiện trong 1 làn mưa, 1 ánh nắng, ở 1 câu nói để chuyển hướng cuộc trò chuyện, đối với tôi, mẹ tôi là bất tử.
Arthur để cát chảy lọt qua thành dòng qua những ngón tay. Có những nỗi buồn của tình yêu mà thời gian kô thể xóa nhòa, nó để lại cho nụ cười những vết sẹo kô lành hẳn được.
Lauren đến gần Arthur , cô khoác cánh tay anh và giúp anh đứng dậy, họ tiếp tục bước trên bãi cát.
- Làm thế nào để chờ đợi ai đó lâu đến thế được?
- Tại sao cô lại trở lại chuyện này?
- Tại vì chuyện đó khiến tôi tò mò.
- Chúng tôi đã trải qua phần đầu câu chuyện tình, cô ấy giống như 1 lời hứa mà cuộc đời kô thực hiện, tôi thì vẫn giữ lời hứa của mình.
Lauren buông tay anh ra, Arthur nhìn cô 1 mình bỏ ra xa, đi về phía cồn sỏi. Anh đợi 1 lát rồi đi theo cô, cô lấy chân lạm khẽ vào những con sóng, đùa nghịch.
- Tôi đã nói điều gì kô nên chăng?
- Kô,- Lauren nói- trái lại. Tôi nghĩ là đã đến lúc tôi phải về, thực sự là tôi có công việc.
- Việc đó kô thể đợi đến ngày mai sao?
- Ngày mai hay chiều nay thì cũng có gì thay đổi đâu?
- 1 ước muốn có thể thay đổi tất cả, cô kô nghĩ như vậy à?
- Thế anh muốn gì nào?
- Muốn tiếp tục bước trên bãi biển này với cô để nói đủ thứ linh tinh.
- Chúng ta có thể cùng ăn tối nay được kô?- Lauren gợi ý.
Arthur nheo mắt như lưỡng lự. Cô đập vào vai anh.
- Tôi sẽ chọn chỗ ăn,- anh vừa nói vừa cười- chỉ để chứng minh cho cô rằng du lịch và ẩm thực kô phải bao giờ cũng mâu thuẫn với nhau.
- Chúng ta sẽ đi đâu?
- Đến Cliff House, ở đằng kia kìa- anh nói và chỉ 1 vách đá phía xa.
- Tôi sống ở thành phố này từ trước đến nay, thế mà tôi chưa bao giờ đặt chân đến đó cả.
- Tôi biết có những người ở Paris chưa bao giờ đặt chân lên tháp Eiffel.
- Anh đã đến Pháp rồi à?- cô hỏi, mắt lộ vẻ ngưỡng mộ.
- Đến Paris, Venise, Tanger…
Và Arthur dẫn Lauren đi 1 vòng quanh thế giới, trong khoảng thời gian của vài bước chân mà nước biển đã trào lên xóa đi sau lưng họ vào lúc chiều buông xuống.
Căn phòng tường ốp gỗ màu sẫm gần như trống rỗng. Lauren là người đầu tiên bước vào. Người trưởng nhóm phục vụ ra đón cô. Cô yêu cầu 1 bàn cho 2 người. Ông gợi ý Lauren ra quầy đợi khách của cô. Ngạc nhiên, Lauren quay lại, Arthur đã biến mất. Cô đi ngược lại và tìm anh ở cầu thang, cô thấy anh đang đứng trên bậc thang cao nhất, anh đang đợi cô, 1 nụ cười trên môi.
- Anh làm gì ở đây vậy?
- Phòng dưới trông ảm đạm lắm, phòng trên này tươi vui hơn nhiều.
- Anh thấy thế à?
- Tất cả chỗ này đều ảm đạm, đúng kô?
Lauren gật đầu, tán thành.
- Đó chính là điều mà tôi đã tự nói với mình. Ta đi chỗ khác đi.
- Tôi đã đặt chỗ với ông phụ trách rồi!- cô nói lúng túng.
- Thế thì nhất định đừng nói gì với ông ta cả nhé, cái bàn ấy sẽ là bàn của chúng ta, chúng ta sẽ thử nhớ mãi điều đó xem, đó sẽ là nới kô ăn bữa tối đầu tiên của chúng ta.!
Arthur kéo Lauren đi ra bãi đậu xe của nhà hàng. Anh hỏi cô có thể gọi taxi được kô? Anh kô mang theo điện thoại di động. Lauren lấy máy di động của mình ra và gọi hãng taxi.
15’ sau, xuống xe ở đê chắn sóng Pier 39, họ quyết tâm đi thử tất cả các nơi dành cho khách du lịch trong thành phố. Nếu như kô quá mệt, họ sẽ còn đi uống nước ở Chinatown nữa, Arthur biết 1 quán bar rộng mênh mông, nơi những chiếc xe ca trở khách nước ngoài thường đến thả khách suốt cả buổi tối.
Họ đang bước đi trên những tấm ván lát thì Lauren như nhận thấy Paul ở phía xa, anh đứng chống khuỷu tay vào lan can, say sưa nói chuyện với 1 phụ nữ trẻ xinh tươi có cặp chân rất dài.
- Đó có phải là anh bạn của anh kô?
- Đúng, chính cậu ta đấy.- Arthur trả lời và quay ngược lại.
Lauren đi theo anh.
- Anh kô muốn chúng ta ra chào anh ấy à?
- Kô, tôi kô muốn làm gián đoạn cuộc gặp gỡ của họ, đi thôi, ta đi lối này thì hơn.
- Chính anh ngại họ nhìn thấy chúng ta chứ gì?
- Lạ nhỉ, sao cô lại nghĩ như vậy?
- Vì anh có vẻ sợ.
- Tôi đảm bảo với cô là kô. Cậu ta sẽ ghen kinh khủng khi người đầu tiên tôi đến thăm là cô; đi theo tôi đi; tôi sẽ dẫn cô đến Ghirardelli Square, cái chỗ trước là xưởng sản xuất socola ấy, vào giờ này buổi tối ở đó đầy người Nhật.
Dọc con đường đi dạo, kô khí hội hè đang hồi náo nhiệt. Hằng năm những người đánh cá của thành phố tổ chức ở đây ngày hôi mở đầu mùa câu cua biển.
Ngày đã mất đi ánh nắng cuối cùng và trăng đã lên giữa bầu trời đầy sao phía trên vịnh. Trên những bếp củi, những nồi nước biển chứa đầy tôm cua, người ta phân phát tôm cua cho người qua đường. Lauren nếm 1 cách cực kì ngon miệng 6 cái càng cua to đùng mà 1 thủy thủ đã bóc vỏ cho cô. Cô kèm thêm vào bữa ăn ngẫu hứng này 3 cốc tràn đầy rượu vang đỏ cabernet sauvignon Nappa Vallee. Liếm ngón tay xong, cô bám vào cánh tay Arthur vẻ hối lỗi.
- Tôi nghĩ là tôi vừa mới gây khó khăn cho bữa ăn của chúng ta mất rồi,- cô nói- thêm 1 mẩu socola nữa chắc tôi chết!
- Tôi nghĩ là trước hết cô hơi chuếnh choáng say đó thôi!
- Kô thể nào như vậy được, nước biển dâng lên hay là chính tôi đang lắc lư đấy?
- Cả 2! Đi thôi, chúng ta đi xa hơn 1 chút để hít thở kô khí trong lành.
Anh kéo cô ra khỏi đám đông và giúp cô ngồi xuống 1 chiếc ghế băng được rọi sáng bởi cây đèn đường cũ kĩ đơn độc.
Lauren đặt tay lên đầu gối Arthur , cô hít vào đầy phổi kô khí mát lành của buổi tối.
- Sáng nay, anh đến gặp tôi kô chỉ để nói cảm ơn chứ?
- Tôi đến gặp cô bởi vì, dù tôi kô thể giải thích điều đó cho cô được, nhưng tôi cảm thấy nhớ cô.
- Kô nên nói những điều như vậy.
- Tại sao? Những lời nói ấy khiến người ta sợ hãi?
- Bố tôi cũng đã từng nói với mẹ tôi những câu rất hay ho, khi ông muốn quyến rũ mẹ tôi.
- Nhưng cô có phải là mẹ cô đâu.
- Kô, tôi có 1 nghề, có công danh sự nghiệp, có mục đích để đạt đến, và kô có gì có thể tách tôi ra khỏi những thứ đó được, đó là tự do của tôi.
- Tôi biết, chính vì vậy mà…
- Mà sao?- cô ngắt lời anh.
- Kô sao cả, nhưng tôi nghĩ rằng kô phải chỉ có cái đích mà chúng ta đi tới mới đem lại cho cuộc sống 1 ý nghĩa nào đó, mà còn cả cái cách chúng ta đi đến đích nữa.
- Mẹ anh nói với anh như thế à?
- Kô, đó là tôi nghĩ vậy.
- Thế thì tại sao anh lại cắt đứt với cô gái mà anh nhớ nhung đến thế? Vì vài điều kô tương hợp hay sao?
- Có thể nói là chúng tôi đã đi ngang qua rất gần nhau, tôi chỉ là người được tạm thuê cái hạnh phúc này, cô ấy đã kô thể gia hạn hợp đồng cho tôi.
- Trong 2 người ai là người cắt đứt?
- Cô ấy đã rời bỏ tôi và tôi đã để cho cô ấy ra đi.
- Tại sao anh kô cố gắng giành giật lại?
- Tại vì sự giành giật này có thể gây đau đớn cho cô ấy. Đó là 1 câu hỏi đặ ra cho trí tuệ của trái tim. Vì hạnh phúc của người kia mà chịu thiệt cho mình, đó là 1 lí do đẹp, đúng kô?
- Anh vẫn chưa hồi phục được.
- Tôi có ốm đâu!
- Tôi có giống cô gái ấy kô?
- Cô hơn cô ấy vài tháng.
Phía bên kia đường, 1 người bán hàng đóng quầy hàng dành cho khách du lịch của ông ta lại. ông ta mang những chiếc giá quay treo các tấm bưu ảnh vào nhà.
- Lẽ ra chúng ta nên mua 1 cái bưu ảnh,- Arthur nói- tôi có thể viết cho cô vài dòng và gửi qua đường bưu điện cho cô.
- Anh thực sự tin rằng người ta có thể yêu suốt đời chỉ 1 người thôi?- Lauren hỏi.
- Tôi chưa từng sợ đời thường bao giờ cả, thói quen kô phải là điều tiền định. Mỗi ngày ta đều có thể sáng tạo ra cái sang trọng và cái tầm thường, cái trung bình và cái quá mức. Tôi tin vào thứ tình cảm say đắm kô dừng tại chỗ, tôi tin vào kí ức của tình cảm. Rất tiếc, tất cả những cái đó là lỗi của mẹ tôi , bà đã nhồi vào đầu tôi những lí tưởng vè tình yêu. Điều đó đặt ra chuẩn mực rất cao.
- Đối với người kia?
- Kô, đối với chính mình, tôi thật cũ kĩ, phải kô?
- Cái xưa cũ có vẻ đẹp riêng của nó.
- Tôi đã chú ý giữ lại 1 phần của tuổi thơ.
Lauren ngẩng đầu lên và nhìn vào mắt Arthur. Khuôn mặt 2 người sát lại gần nhau mà họ kô nhận thấy.
- Anh muốn hôn em- Arthur nói
- Tại sao anh lại hỏi em mà kô thực hiện đi?- Lauren tar lời.
- Anh đã nói với em là anh cũ kĩ lắm mà.
Tấm cửa cuốn của cửa hàng kêu ken két khi trượt theo rãnh sắt. 1 tiếng chuông báo động vang lên. Arthur vươn thảng người sững sờ, tay cầm tay Lauren, anh đứng phắt dậy.
- Anh phải đi đây!
Nét mặt Arthur thay đổi. Trên gương mặt anh, Lauren cảm thấy dấu hiệu của sự đau đớn đột ngột.
- Có chuyện gì thế?
Chuông báo động của cửa hàng vang mỗi lúc 1 to hơn, on gong bên tai họ.
- Anh kô thể giải thích cho em được, nhưng anh phải đi đây.
- Em kô biết anh đi đâu, nhưng em sẽ đi với anh.
Arthur vòng tay ôm cô, anh kô rời mắt khỏi cô, anh kô thể nào siết chặt cô được.
- Hãy nghe anh đây, mỗi giây đều quý giá. Tất cả những điều anh đã nói với em đều là sự thật. Nếu có thể được, anh mong là em sẽ nhớ đến anh, anh thì anh sẽ kô quên em đâu. Một khoảnh khắc nữa bên em, dù là ngắn ngủi, cũng thực sự quý giá.
Arthur kùi xa dần.
- Tại sao anh lại nói là 1 khoảnh khắc nữa?- Lauren hốt hoảng hỏi.
- Biển bây giờ đang đầy những con cua rất tuyệt.
- Tại sao anh lại nói 1 khoảnh khắc nữa, Arthur?- Lauren hét lên.
- Mỗi phút bên em giống như 1 khoảnh khắc đánh cắp được. chẳng có gì lấy nổi cái đó của anh. Hãy làm dịch chuyển thế giới, Lauren, thế giới của em ấy.
Anh đi xa thêm vài bước nữa rồi bắt đầu chạy rất nhanh, Lauren hét gọi tên anh, Arthur quay lại.
- Tại sao anh lại nói “1 khoảnh khắc nữa bên em”?
- Anh đã biết từ trước là em tồn tại! anh yêu em và điều đó kô can hệ đến em.
Và Arthur biến mất trong bóng tối của góc phố nhỏ.
Tấm cửa cuốn từ từ kết thúc hành trình của nó, chạm vào cái gờ trên vỉa hè. Người bán hàng cắm chìa khóa vào cái ổ nhỏ cắm trên tường, tiếng còi ghê tai ngừng bặt. Bên trong cửa hàng, máy báo động trung tâm tiếp tục phát ra những tiếng bíp với khoảng cách đều đặn.
1 chiếc máy theo dõi tỏa ra quầng sáng màu xanh lá cây trong bóng tối mờ mờ của căn phòng. Máy điện não phát ra 1 loạt tiếng bíp chói tai với nhưng khoảng cách đều đặn. Betty bước vào phòng, chị vội vã lại gần gi.ường. Chị xem dải giấy tuôn ra từ chiếc máy in nhỏ rôi lập tức nhấc máy điện thoại.
- Tôi cần 1 xe đẩy cấp cứu hồi sức đến phòng 307, hãy nhắn tin cho Fernstein, tìm xem ông ấy ở đâu và nói ông ấy đến đây ngay. Đặt phòng mổ thần kinh trong tình trạng báo động và gọi 1 bác sĩ gây mê lên..
1 làn mưa bụi giăng trên những khu phố ở vùng thấp của thành phố. Lauren rời khỏi ghế băng; đi qua con phố mà mọi thứ dưới mắt cô dường như chỉ có màu đen và trắng . Khi cô rẽ vào phố Green; đêm trĩu đầy mây. Làn mưa bụi nhường chỗ cho 1 cơn going mùa hè. Lauren ngẩng đầu lên và nhìn trời. Cô ngồi lên 1 bức tường rào nhỏ và ở lại đó 1 lúc lâu; dưới mưa rào; ngắm nhìn ngôi nhà kiểu Victoria nhô lên phía trên cao của Pacific Heights.
Khi mưa tạnh ; cô vào đại sảnh; trèo lên những bậc cầu thang và vào căn hộ của mình.
Tóc cô ướt sũng; cô trút quần áo trong phòng khách; vơ lấy mảnh khăn treo ở 1 cái móc trong bếp để lau đầu và cuộn mình trong tấm choàng len vốn để phủ 1 chiếc ghế bành.
Vào bếp; cô mở 1 ngăn tủ ra và tháo nút 1 chai rượu Bordeaux. Cô rót cho mình 1 cốc to; đi đến ngách phòng và ngắm nhìn những ngọn tháp nhỏ của Ghirardelli Square; ở phía dưới. Xa xa; vang lên trong vịnh tiếng hú của 1 con tàu chở hàng lớn lên đường đi Trung Quốc. Lauren đưa mắt nhìn góc đặt đi văng đang mời gọi cô. Cô bỏ qua chiếc đi văng và dứt khoát bước lại bên giá sách. Cô lấy 1 quyển sách; buông rơi nó xuống chân; lặp lại như vậy với các cuốn khác; và bị 1 cơn tức giận âm thầm xâm chiếm; cô đẩy tất cả sách xuống đất.
Khi các ngăn đã rỗng kô; cô đẩy dịch giá sách ra; giải tỏa ô cửa nhỏ bị lấp ở phía sau. Cô quay sang giải quyết đến chiếc đi văng; dùng hết sức lực để quay nó lại 90 độ. Người loạng choạng; cô cầm lấy chiếc cốc lúc trước để trên gờ tường ở ngách phòng và ngồi phịch lên mấy chiếc gối dựa ở đi văng. Arthur có lí; từ chỗ này; nhìn ra những mái nhà; khung cảnh thật lộng lẫy. Cô uống cốc rượu gần như liền 1 hơi.
 
Trên đường phố hãy còn ẩm ướt; 1 bà lão dắt chó đi dạo; bà ngẩng đầu nhìn về phía 1 ngôi nhà nhỏ; ở đó chỉ có 1 ô cửa sổ còn rọi 1 tia sáng vào màn đêm xám xịt. Lauren đờ đẫn vì buồn ngủ; bàn tay cô từ từ mở ra; và cái cốc rỗng lăn xuống dưới chân đi văng.
- Tôi đưa anh ta lên phòng mổ- Betty kêu to với bác sĩ nội trú khoa.
- Trước hết để tôi nâng độ bão hòa khí máu lên cái đã.
- Chúng ta kô có thời gian.
- Quái thật; Betty ; tôi là bác sĩ nội trú ở đây cơ mà.
- Bác sĩ Stern; khi anh còn mặc quần yếm thì tôi đã là y tá rồi. Thế chúng ta nâng độ bão hòa khí máu của anh ta trong lúc đi lên gác có được kô?
Betty đẩy gi.ường ra hành lang; bác sĩ Philip Stern bước theo chị; kéo chiếc xe cấp cứu hồi sức đi cùng vói họ.
- Anh ta làm sao vậy?- Anh hỏi- Lúc trước mọi thứ đều bình thường.
- Nếu mọi thứ đều bình thường thì anh ta đã ở nhà và tỉnh táo! Sáng nay anh ta có vẻ lờ đờ buồn ngủ; tôi đã quyết định đặt máy điện não theo dõi anh ta thường xuyên; đó là công việc của y tá; còn để biết anh ta gặp vấn đề gì; thì đó là công việc của giới bác sĩ các anh.
Những bánh xe của gi.ường quay nhanh hết cỡ; cửa thang máy sắp sửa sập lại.Betty hét lên.
- Đợi chúng tôi với; có ca cấp cứu!
1 bác sĩ nội trú giữ tấm cửa sắt lại; Betty chui vào buồng thang máy; bác sĩ Stern xoay chiếc xe cấp cứu của mình để tìm 1 chỗ nhỏ.
- Đây là ca cấp cứu thuộc loại gì?- viên bác sĩ nọ tò mò hỏi.
Betty nhìn anh ta vẻ coi thường và trả lời “thuộc loại giống cái ông nằm trên gi.ường này”; rồi chị ấn nút tầng 5.
Trong lúc thang máy đi lên; chị muốn lấy cái điện thoại di động trong túi áo blouse ra; nhưng cửa đã mở ra ở hành lang khoa thần kinh. Chị lấy hết sức đẩy cái gi.ường về phía phòng mổ nằm ở đầu kia của hành lang. Graneli đang đợi chị ở cửa phòng chuẩn bị. Ông cúi xuống nhìn người bệnh.
- Hình như chúng ta đã quen biết nhau ; phải kô?
Và vì Arthur kô trả lời; Graneli nhìn Betty .
- Chúng ta đã biết người này ; phải kô?
- Đây là ca hút khối máu dưới màng cứng cấp tốc hôm thứ hai vừa rồi.
- A; vậy là chúng ta có 1 vấn đề nhỏ ở đây; có ai báo cho Fernstein chưa?
- Cái anh chàng này vẫn còn ở đây à?- đến lượt nhà phẫu thuật bước vào và nói- Kô lẽ tuần nào chúng ta cũng phải mổ cho anh ta.
- Các vị cứ mổ cho anh ta 1 lần cho xong hẳn đi!- Betty làu bàu và rời phòng mổ.
Chị chạy ra hành lang và vội vã đi về phía tổng đài khoa cấp cứu.
Tiếng chuông điện thoại kéo Lauren ra khỏi giấc ngủ. Cô sờ soạng tìm máy điện thoại.
- Cuối cùng cũng gọi được!- giọng Betty vang lên- đây là lần thứ 3 chị gọi đấy; lúc nãy em ở đâu?
- Mấy giờ rồi?
- Nếu Fernstein mà biết chị đã báo tin cho em là chị sẽ toi đấy.
Lauren ngồi thảng dậy trên đi văng; Betty giải thích rằng chị đã phải đưa bệnh nhân phòng số 307; cái anh chàng mà cô mới mổ cho gần đây; lên lại phòng mổ. Tim Lauren bắt đầu đập thình thịch.
- Nhưng tại sao mọi người lại cho anh ta ra viện sớm thế?- cô tức giận hỏi.
- Em nói cái gì?- Betty hỏi lại.
- Lẽ ra kô được cho anh ta rời bệnh viện sáng nay; chị biết rõ em nói gì đấy; chính chị đã cho anh ta địa chỉ của em mà!
- Em uống rượu đấy à?
- 1 tí thôi; sao chị lại hỏi vậy?
- Em nói lảm nhảm cái gì thế? Chị vẫn liên tục chăm sóc bệnh nhân của em; hôm nay anh ta thậm chí kô ra khỏi gi.ường! Hơn nữa; chị chẳng nói gì với anh ta cả.
- Nhưng em đã ăn trưa với anh ta!
1 lát im lặng; Betty húng hắng ho.
- Chị đã biết trước mà; lẽ ra chị kô nên báo cho em!
- Tất nhiên là nên chứ; sao chị lại nói thế?
- Vì cứ như chị đã biết em thì nửa tiếng nữa chắc em sẽ đâm bổ đến đây và say bét nhè; rồi sẽ chẳng ra làm sao cả.
Lauren nhìn chai rượu đặt trên tủ bar ở bếp; lượng rượu hụt đi bằng khoảng 1 cốc to; kô hơn.
- Betty ; bệnh nhân mà chị nói với em ấy; có đúng là…
- ừ! Và nếu em nói với chị là em đã ăn trưa với anh ta; trong khi từ sáng nay anh ta đã được nối vào máy để theo dõi; thì chị sẽ tống em vào nằm viện ngay khi em đến đây; mà kô phải nằm cùng phòng với anh ta đâu.!
Betty dập máy. Lauren nhìn xung quanh cô. Chiếc đi văng kô còn ở vị trí cũ; nhìn những cuốn sách ngổn ngang dưới chân giá sách; có thể tưởng căn hộ của cô vừa bị trộm. Cô kiên quyết kô chịu buông trôi theo cái cảm giác phi lí đang xâm chiếm người mình. Phải có 1 cách giải thích hợp lí cho những gì mà cô đang trải nghiệm; chỉ cần tìm được cách giải thích đó; bao giờ cũng có 1 cấch giải thích hợp lí! Cô đứng dậy; giẫm phải cái cốc rỗng và bị cứa 1 vết sâu ở gót chân. 1 dòng máu đỏ tuôn ra trên tấm thảm dừa.
- Chỉ còn thiếu nước này nữa thôi.
Cô nhảy lò cò ra buồng tắm; nhưng vòi kô có nước. Cô đặt chân vào bồn tắm; với tay về phía tủ thuốc và lấy lọ cồn 90 độ; cô trút cồn vào vết thương. Cảm giác đau nhói đột ngột; cô hít thở thật sâu để đẩy lùi cơn chóng mặt và lần lượt lấy từng mảnh thủy tinh vụn ở chân ra. 10 phút trôi qua mà cô kô sao làm cầm máu được. Cô nhìn lại vết thương; chỉ bịt 1 cách đơn giản thì kô đủ để đóng mép rách lại; cần phải khâu mới được. Cô đứng dậy; gạt tất cả các lọ trên 1 ngăn xuống để tìm gói gạc tiệt trùng; nhưng kô thấy. Cô bèn lấy 1 chiếc khăn tắm quấn quanh mắt cá chân; cố siết chặt hết sức để thắt nút rồi nhảy lò cò ra tủ quần áo.
- Anh ta ngủ như 1 thiên thần!- Graneli nói
Fernstein xem những bản chụp IRM
- Tôi cứ sợ là do chỗ dị dạng nhỏ mà tôi đã kô mổ; nhưng kô phải vậy; não bị rò dịch; chúng ta đã tháo ống dẫn lưu quá sớm. Chỉ là 1 chút tăng áp lực nội sọ; tôi sẽ đặt lại đường dẫn lưu rồi đâu sẽ vào đấy thôi. Anh làm gây mê 1 tiếng đồng hồ cho tôi.
- Rất vui lòng; ông bạn đồng nghiệp thân mến- Graneli nói tiếp; tâm trạng cực kì vui vẻ.
- Tôi đã hi vọng thứ hai tới cho anh ta ra viện được; nhưng chúng ta sẽ phải kéo dài việc nằm viện của anh ta ít nhất 1 tuần; điều đó kô tiện cho tôi tý nào cả- Fernstein làu bàu trong lúc tiến hành rạch.
- Tại sao lại thế?- Graneli vừa hỏi vừa kiểm tra hằng số sống trên máy.
- Tôi có những lí do của tôi.- vị giáo sư già trả lời.
Xỏ chiếc quần jean vào người kô phải là 1 việc đơn giản. Chiếc áo pull mặc sát luôn vào mình; 1 chân đi tất; 1 chân kô; Lauren đóng cửa căn hộ lại. Cô cảm thấy cái cầu thang đột ngột trở nên cực kì bất hợp tác. Đến tầng 2 thì Lauren đau đến nỗi kô thể đứng được nữa. Cô ngồi xuống cầu thang để cho người tự trượt đi như trượt trên sườn dốc của 1 ngày hỗn độn. Cô khập khiễng đi ra xe ô tô của mình và bẫm điều khiển từ xa mở cửa gara . Dưới bầu trời màu da cam; chiếc triump lao đến bệnh viện San Francisco Memorial. Mỗi lần phải thay đổi tốc độ; cơn đau lại nhói lên khiến cô ngất xỉu. Cô mở cửa kính để lấy 1 chút kô khí trong lành.
Chiếc Saab của Paul phóng vun vút xuống phố California. Từ lúc họ rời tiệm ăn; anh kô nói 1 lời. Onega đặt tay lên đùi anh và xoa nhẹ.
- Anh đừng lo; có thể kô đến nỗi trầm trọng lắm đâu.
Paul kô trả lời; anh rẽ vào phố Market rồi đi lên phố 20. Lúc trước; 2 người đang ăn tối trên tầng thượng của tháp Bank of America thì điện thoại di động của Paul réo lên. 1 nữ y tá đã thông báo cho anh rằng tình hình sức khỏe của Arthur Asby đã xấu đi; bệnh nhân hiện kô có khả năng tự mình chấp nhận cuộc phẫu thuật cần thiết đối với anh ta. Vì tên của Paul có ghi trên phiếu nhập viện của anh ta; Paul cần phải đến càng sớm càng tốt để kí giấy cho phép tiến hành phẫu thuật. Qua điện thoại; Paul tuyên bố đồng ý phẫu thuật; và sau khi vội vã rời nhà hàng; anh phóng xe vào đếm tối ; có Onega cùng đi.
Chiếc Triump đỗ vào phía dưới mái che của đại sảnh khoa cấp cứu; 1 nhân viên bảo vệ đến bên cửa xe và nói rằng cô kô được đậu xe ở chỗ này. Lauren chỉ kịp có thời gian để trả lời rằng cô là bác sĩ nội trú của bệnh viện này và cô bị thương. Nhân viên bảo vệ nói vào máy đàm thoại nội bộ để yêu cầu người đến trợ giúp; Lauren vừa bị ngất xỉu.
Graneli cúi xuống nhìn vào máy kiểm soát của ông; Fernstein lập tức nhận ra vẻ lo ngại hiện lên trên khuôn mặt bác sĩ gây mê.
- Anh thấy có vấn đề gì à?- bác sĩ phẫu thuật hỏi.
- Hơi loạn nhịp tâm thất; anh kết thúc càng sớm thì càng tốt; tôi muốn đánh thức anh ta dậy ngay khi có thể.
- Tôi sẽ cố hết sức ; ông bạn đồng nghiệp thân mến.
Phía sau tấm cửa kính; Betty; nhờ được người thay mình vài phút; kô để lọt mắt bất cứ điều gì xảy ra trong phòng mổ. Cô nhìn đống hồ đeo tay; Lauren chắc sắp đến.
Paul bước vào đại sảnh của khoa cấp cứu; anh ra trình diện ở nơi đón tiếp. Cô thường trực yêu cầu anh vui lòng chờ trong phòng đợi. Y tá trưởng đã lên trên gác và chắc sắp trở xuống. Onega ôm Paul và kéo anh ra 1 cái ghế. Cô để anh ở đó 1 lát và bỏ 1 đồng tiền vào máy tự động bán đồ uống nóng. Cô chọn 1 tách cà phê đặc kô đường và đi ra với Paul; tách cà phê trên tay.
- Này; -cô nói bằng 1 chất giọng trầm ; đẹp- anh kô kịp uống lúc ở tiệm ăn.
- Anh rất tiếc vì buổi tối hôm nay- paul nói và ngẩng đầu lên buồn bã.
- Anh kô việc gì phải tiếc cả; hơn nữa món cá cũng chẳng được ngon lắm.
- Thật à?- Paul hỏi; vẻ lo lắng.
- Kô. Nhưng ở đây hay ở đâu thì chúng mình cũng cùng nhau cơ mà.Anh uống đi kô nguội mất.
- Sao chuyện này lại xảy ra vào cái ngày duy nhất anh kô đến thăm cậu ấy cơ chứ!
Onega lùa tay vào mớ tóc bù xù của Paul; cô vuốt ve 1 cách hết sức dịu dàng. Anh nhìn cô với vẻ mặt của 1 đứa trẻ bị bỏ quên giữa 1 thế giới toàn người lớn.
- Anh kô thể mất cậu ấy được; anh chỉ có mình cậu ấy thôi.
Onega chịu trận; kô nói gì; cô ngồi xuống cạnh anh và vòng tay ôm anh
- Ở xứ em có 1 bài hát nói rằng khi ta nghĩ đến người thì người đó sẽ kô bao giờ chết; vậy anh hãy nghĩ đến anh ấy đi chứ đừng nghĩ đến những nỗi phiền muộn của anh.
Bác sĩ Stern bước vào phòng khám số 2; anh đi đến bên gi.ường và cầm tờ nhập viện của nữ bệnh nhân.
- Tôi trông cô có vẻ quen quen- anh nói
- Tôi làm việc ở đây- Lauren trả lời.
- Vâng; nhưng tôi thì lại vừa mới đến; thứ 6 vừa rồi tôi vẫn còn ở Boston.
- Thế thì chúng ta chưa bao giờ gặp nhau cả; tôi bị buộc tạm nghỉ việc từ 8 hôm nay và tôi chưa bao giờ đặt chân đến đó cả.
- Về chuyện chân thì tình trạng cái chân của cô khá tệ đấy; cô làm cách nào mà lại có vết thương này?
- 1 cách thật ngu ngốc!
- Nhưng thế nào cơ?
- Tôi giẫm lên 1 chiếc cốc thủy tinh…bằng chân trần.
- Còn cái chứa trong cốc này thì ở trong dạ dày của cô phải kô?
- Đại loại thế.
- Xét nghiệm của cô hoành tráng lắm; dù sao tôi cũng tìm được 1 ít máu trong lượng rượu ở người cô.
- Anh đừng có phóng đại thế;- Lauren nói và thử ngồi dậy- tôi uống có vài ngụm rượu Bordeaux thôi mà
Đầu cô quay cuồng và cô cảm thấy tim thót lên; bác sĩ chỉ vừa kịp giơ 1 cái chậu nhỏ ra cho cô. Anh ta đưa cho cô chiếc khăn giấy và mỉm cười:
- Tôi đã ngờ mà; bạn đồng nghiệp thân mến ạ; theo kết quả xét nghiệm mà tôi đang có trước mặt đây; tôi có thể nói là cô còn ngốn hết 1 nửa số cua có ở trong vịnh và nốc cả 1 chai kha khá rượu cabernet sauvignon nữa; riêng mình cô thôi. Thật là 1 ý rất dở khi trộn cả 2 màu này lại với nhau trong cùng 1 buổi tối. Trắng đỏ nối nhau; tất cả tháo mau!
- Anh vừa nói cái gì vậy?- Lauren hỏi
Lauren nằm xuống và lấy tay ôm đầu; kô hiểu gì về những chuyện xảy ra với mình.
- Tôi phải ra khỏi đây càng sớm càng tốt.
- Tôi sẽ cố hết sức.- Stern nói- nhưng trước hết tôi phải khâu lại vết thương của cô và tiêm nhắc lại vacxin phòng uốn ván cho cô nữa. Cô thích gây mê bộ phận hơn hay là…
Lauren ngắt lời để bác sĩ khâu lại vết thương càng nhanh càng tốt. Anh bác sĩ trẻ lấy 1 bộ dụng cụ khâu và ngồi lên 1 chiếc ghế nhỏ cạnh cô. Anh khâu đến mũi thứ 3 thì Betty bước vào phòng.
- Em bị làm sao thế này?- nữ y tá trưởng hỏi.
- Bị say rượu; tôi nghĩ thế! – Stern trả lời thay cô.
- Vết thương khiếp nhỉ- Betty nói khi nhìn vào bàn chân mà Stern đang chữa trị.
- Anh ta đang thế nào?- Lauren lờ viên bác sĩ đi; hỏi
- Chị vừa từ trên phòng mổ xuống; hãy còn chưa giải quyết xong nhưng chị nghĩ là anh ta sẽ qua được thôi.
- Chuyện gì đã xảy ra vậy?
- Rò não hậu phẫu; ống dẫn lưu bị rút quá sớm.
- Chị Betty ; em có thể hỏi chị 1 câu được kô?
- Thực ra thì chị có được lựa chọn kô nào?
Lauren nắm cổ tay bác sĩ Stern và đề nghị anh cho 2 người ở lại riêng với nhau 1 lát. Bác sĩ muốn trước hết phải làm cho xong công việc của mình cái đã. Betty lấy cái kim ra khỏi tay anh; chị sẽ tự khâu nốt vết thương.. Ngoài đại sảnh khoa cấp cứu còn có 1 lô bệnh nhân cần đến khả năng của bác sĩ hơn là Lauren
Stern nhìn Betty. Anh rời ghế; xét cho cùng; Betty chỉ cần phải lo nốt việc băng bó và tiêm văcxin phòng uốn ván thôi. Các y tá trưởng thường có 1 uy thế nhất định với các bác sĩ tập sự trẻ.
Betty ngồi xuống cạnh Lauren
- Chị nghe em nói đây- Betty nói
- Em biết là chị sẽ thấy điều em định hỏi đây thật kì quặc; nhưng liệu có khả năng là bệnh nhân phòng số 307 đã có lúc trong ngày thoát khỏi sự chú ý của chị được kô? Em thề với chị là chuyện này chỉ có riêng chị em mình biết thôi.
- Nói rõ hơn đi!- Betty đáp lại bằng 1 giọng gần như phẫn nộ.
- Em kô biết; có thể anh ta đã đặt 1 cái gối dài trong gi.ường để mọi người tưởng là anh ta vẫn còn ở đó; rồi biến đi vài tiếng đồng hồ mà chị kô nhận ra; anh ta có vẻ có khiếu đối với chuyện đó; đúng kô?
Betty đưa mắt nhìn cái chậu nôn đặt cạnh bòn rửa mặt rồi ngước mắt nhìn lên cao.
- Chị xấu hổ thay cho em; em ạ!
Stern lại xuất hiện trong phòng.
- Cô có hoàn toàn chắc là chúng ta chưa từng gặp nhau ở đâu đó kô? Tôi đã từng thực tập ở đây 5 năm trước…
- Anh ra ngoài đi!- Betty ra lệnh
- o O o -
Giáo sư Fernstein nhìn đồng hồ đeo tay.
- 54’! anh có thể đánh thức anh ta dậy- Fernstein nói và rời bàn.
Giáo sư chào bác sĩ gây mê và rời phòng mổ với tâm trạng kô được vui
- Ông ấy làm sao thế?- Graneli hỏi.
- Lúc này ông ấy đang mệt – Norma trả lời bằng 1 giọng buồn rầu.
Nữ y tá chịu trách nhiêm băng bó; trong lúc Graneli làm cho Arthur tỉnh lại.
Cửa thang máy mở ra ở hành lang khoa cấp cứu. Fernstein bước qua hành lang bằng những bước đi vội vã. Giọng nói trong 1 phòng khám khiến ông phải chú ý; ngờ vực; ông thò đầu qua tấm rèm chắn và thấy Lauren đang ngồi trên gi.ường trò chuyện với Betty.
- Có điều gì cô còn chưa hiểu vậy? cô bị cấm vào bệnh viện này cơ mà; trời ạ! Cô vẫn còn chưa được phép trở lại chức năng bác sĩ của cô.
- Em tự trở lại với tư cách bệnh nhân.
Fernstein nhìn Lauren nghi ngờ. Cô bèn giơ chân lên cao 1 cách hãnh diện; và Betty khẳng định lại với giáo sư rằng lauren vừa bị khâu 7 mũi ở gót chân xong;
Fernstein lẩm bẩm:
- Quả thực cô có khả năng làm bất cứ điều gì để có thú vui được trái ý tôi.
Lauren định đáp lại; nhưng Betty; quay lưng về phía giáo sư; đã trợn mắt lên ra hiệu cho cô im miệng; Ferinstein biến đi; những bước chân của ông vang lên trong hành lang. Ông đi ngang qua đại sảnh và báo với nhân viên trực tổng đài bằng 1 giọng uy quyền là ông đi về nhà; kô nên quấy rầy ông; ngay cả khi thống đốc California có bị vỡ đầu trong lúc tập thể dục chăng nữa.
- Em đã làm gì ông ấy chứ?- Lauren hỏi; vẻ chấn động
- Ông ấy cần em! Kể từ lúc đẩy được em ra ngoài; ông ấy giận toàn trái đất. Tất cả mọi người ở đây đều làm cho ông ấy khó chịu trừ em ra.
- Thế thì em lại muốn ông ấy cần em ít đi 1 chút thì hơn; chị đã nghe ông ấy nói với em thế nào chưa?
Betty lấy lại những cuộn băng kô dùng đến và bắt đầu xếp chúng lại vào ngăn kéo.
- Này; em thì nói năng cũng chẳng phái vừa đâu; em ạ! Chân em băng thế là xong rồi đấy; em có thể đi nhảy nhót ở đâu cũng được; trừ những tầng trên của bệnh viện này ra
- Chị nghĩ là anh ta đã được đưa xuống phòng anh ta chưa?
- Ai cơ?- Betty hỏi bằng 1 giọng giả dối và đóng cửa tủ thuốc lại.
- Betty!...
- Chị sẽ đi xem sao; nếu em thề là khi chị hỏi được cho em rồi thì em sẽ đi khỏi đây ngay.
Lauren gật đầu và Betty rời phòng khám.
Fernstein đi qua bãi đậu xe. Cơn đau lại xâm chiếm người ông khi ông còn cách xe ô tô của mình vài mét. Đây là lần đầu tiên cơn đau xuất hiện trong 1 ca mổ. ông biết là nhìn nét mặt ông; Norma đã đoán được cơn đau đang xâm chiếm phần bụng dưới của ông. 6’ mà ông tiết kiệm được ở ca mổ kô chỉ cứu nguy cho bệnh nhân của ông. Những giọt mồ hôi to ứa ra trên trán ông; mắt ông mờ dần theo những bước chân đi. 1 vị tạnh lan ra trong vòm miệng ông. Gập đôi người lại; ông đưa tay lên miệng; 1 cơn hô rũ rượi và máu tràn ra qua các ngón tay ông. Chỉ còn vài mét nữa thôi; Fernstein cầu mong người gác cổng kô nhìn thấy ông. Ông dựa lưng vào cửa xe và tìm trong túi áo cái hộp nhỏ dùng để điều khiển tự động mở cửa xe. Tập hợp chút ít sức lực còn sót lại; ông ngồi vào sau tay lái và đợi cơn đau qua đi. Khung cảnh xung quanh biến mất dưới 1 lớp voan màu sẫm.
Betty kô có ở đây. Lauren lẻn ra hành lang và đi khập khiễng vào phòng gửi quần áo. Cô mở 1 ngăn tủ và mượn tạm chiếc áo blouse đầu tiên mà cô tìm thấy rồi đi ra cũng kín đáo như lúc đi vào. Cô mở 1 cánh cửa sau; đi qua 1 hành lang dài có rất nhiều đường ống giăng phía trên đầu; rồi đi vào khoa nhi ở chái bên kia của tòa nhà. Cô dùng những thang máy phía tây của tòa nhà để đi lên tầng 3; rồi lại đi theo lối dành cho nhân viên kĩ thuật về hướng ngược lại; và cuối cùng vào được đến khoa thần kinh. Cô dừng lại trước cửa phòng 307.
Paul đứng phắt dậy; mặt đầy lo lắng. Nhưng nụ cười của Betty đang đi về phía anh đã làm anh yên tâm
- Nguy hiểm đã qua rồi – chị nói.
Cuộc giải phẫu diễn ra tốt đẹp; Arthur đã về nghỉ trong phòng của anh; anh thậm chí kô phải ở lại phòng hồi sức. Sự cố tối nay chỉ là 1 tai biến nhỏ sau phẫu thuật kô để lại hậu quả gì. Paul có thể vào thăm bạn ngay ngày mai. Paul chỉ muốn ở lại cả đêm với Arthur ; nhưng Betty đã trấn an anh lần nữa; kô có lí do gì để tiếp tục lo lắng cả . Chị có số điện thoại của anh và sẽ gọi cho anh nếu xảy ra bất cứ chuyện gì.
- Nhưng chị hứa với tôi là sẽ kô xảy ra chuyện gì nghiêm trọng nữa chứ?- Paul hỏi bằng 1 giọng run rẩy.
- Đi thôi- Onega khoác tay anh- chúng mình đi về đi.
- Tất cả đều được kiểm soát; - Betty khẳng định- anh đi nghỉ đi; trông mặt anh nhợt nhạt lắm; 1 đêm ngủ ngon sẽ rất tốt cho anh. Tôi sẽ canh chừng anh ấy.
Paul cầm bàn tay nữ y tá và lắc rối rít; nửa như cảm ơn nửa như xin lỗi.
Onega phải gần như dùng sức để kéo anh ra cửa.
- Nếu em biết trước; em đã chọn vai trò làm bạn thân nhất của anh! TRong lĩnh vực này; anh bộc lộ tình cảm rõ ràng hơn hẳn.!- cô nói khi đi qua bãi đậu xe.
- Nhưng anh đã bao giờ có dịp chăm sóc em ốm đâu- Anh trả lời với 1 ác ý đáng gờm và mở cửa xe cho cô.
Paul ngồi vào sau tay lái và phân vân nhìn chiếc xe ô tô đậu bên cạnh xe của anh.
- Anh kô nổ máy à?-Onega hỏi
- Nhìn cái ông bên phải xem; ông ta có vẻ làm sao ấy.
- Chúng mình đang ở bãi đậu xe của 1 bệnh viện; và anh thì kô phải là 1 bác sĩ! Thùng rượu Saint Bernard(*) của anh tối nay đã cạn rồi; chúng ta về nhà thôi.
Chiếc Saab rời chỗ đậu rồi mất hút ở góc phố.
Lauren đẩy cửa và bước vào phòng. Căn phòng lặng lẽ chìm trong bóng tối lờ mờ. Arthur hé mắt; dường như anh mỉm cười với cô rồi lại ngủ thiếp đi ngay. Cô tiến đến chân gi.ường và nhìn anh; chăm chú.1 vài lời nói của Santiago bỗng hiện lên trong trí nhớ của cô; khi rời khỏi căn phòng của đứa con gái bé bỏng của mình; người đàn ông tóc bạc trắng đã quay lại lần cuối cùng để nói bằng tiếng Tây Ban Nha: “Nếu cuộc đời giống như 1 giấc ngủ dài; tình cảm sẽ là bến bờ của nó.”Lauren bước lên trong bóng mờ tối; cô cúi xuống bên tai Arthur và thì thầm:
- Hôm nay em có 1 giấc mơ thật lạ lùng. Và từ khi tỉnh dậy; em cứ mơ ước được trở lại đó mà kô biết tại sao lại thế và phải làm cách nào để thực hiện được nữa. Em muốn được gặp lại anh tại nơi mà anh đang đến trong giấc ngủ.
Cô đặt 1 nụ hôn lên trán anh và cánh cửa phòng từ từ khép lại sau bước chân cô.
 
Chương 15Ngày bừng dậy trên vịnh San Francisco. Fernstein đi vào bếp với Norma, ông ngồi bên tủ bar, cầm ấm pha cà phê và rót ra hai tách.
- Hôm qua anh về muộn à? - Norma hỏi.
- Anh có việc bận.
- Nhưng anh rời bệnh viện trước em cơ mà?
- Anh phải giải quyết vài việc trong thành phố.
Norma quay về phía ông, mắt đỏ mọng.
- Em cũng sợ chứ, nhưng anh không bao giờ thấy nỗi sợ của em, anh chỉ nghĩ đến nỗi sợ của anh thôi, anh tưởng là em không sợ phát khiếp lên được khi nghĩ đến việc phải sống không có anh sao?
Vị giáo sư già rời ghế đứng dậy và ôm Norma.
- Anh xin lỗi, anh đã không nghĩ là chết lại khó khăn đến thế.
- Anh đã giáp mặt với cái chết cả đời rồi còn gì.
- Với cái chết của người khác thôi, không phải cái chết của mình.
Norma lấy tay ôm mặt người tình của mình, đặt môi lên má ông.
- Em chỉ xin anh hãy cố giành giật, cố kéo dài thêm mười tám tháng, một năm, em chưa sẵn sàng.
- Chẳng giấu gì em, anh cũng vậy.
- Thế thì anh hãy chấp nhận điều trị đi.
Vị giáo sư già lại gần cửa sổ. Mặt trời hiện lên sau những quả đồi của Tiburon. Ông hít thở thật sâu.
- Ngay khi Lauren được vào biên chế, anh sẽ xin thôi việc. Chúng ta sẽ đi New York, anh có một người bạn cũ ở đó sẵn sàng nhận anh vào điều trị ở chỗ ông ấy. Chúng ta sẽ thử xem.
- Thật chứ? - Norma hỏi, mắt nhoà lệ.
- Anh đã gây phiền toái cho em nhiều, nhưng anh chưa bao giờ nói dối em!
- Tại sao không đi ngay? Ngày mai chúng ta đi nhé.
- Anh đã nói với em là ngay sau khi Lauren được vào biên chế. Anh muốn thôi việc lắm, nhưng dù sao anh cũng không thể bỏ mặc tất cả ra sao thì ra được! Bây giờ, em làm cho anh lát bánh này chứ?
Paul lái xe đưa Onega đến trước toà nhà của cô. Anh cho xe dừng chiếm mất hai chỗ đỗ, rồi xuống xe và vội vã đi vòng quanh ôtô. Anh áp sát người vào cửa xe để ngăn cô bạn đi cùng của mình mở cửa xe ra. Onega nhìn anh, không hiểu anh làm trò gì. Anh đập vào ô cửa và ra hiệu cho cô hạ cửa kính xuống.
- Anh để ôtô lại cho em, anh sẽ gọi một cái taxi để đi đến bệnh viện. Trong chùm chìa khoá có chìa khoá nhà của anh. Em cứ giữ lấy, đó là chìa khoá dành cho em đấy, anh còn một chìa khác trong túi quần.
Onega nhìn Paul, lạ lẫm.
- Thôi được, anh thừa nhận rằng đó là một cách ngu ngốc để nói với em rằng anh rất muốn chúng mình sống với nhau thường xuyên hơn nữa. - Paul nói thêm - Tức là, về phần anh, nếu được tất cả các buổi tối thì tốt lắm, nhưng bây giờ em đã có chìa khoá của em rồi, em sẽ tự quyết định, em làm như em muốn.
- Ừ, anh nói đúng, đó là một cách ngu ngốc - cô trả lời bằng một giọng dịu dàng.
- Anh biết, anh đã bị mất không ít nơ ron thần kinh trong tuần này.
- Tuy vậy em vẫn thích anh lắm, ngay cả khi anh ngu ngốc thế.
- Đó là một tin tốt lành.
- Thôi đi đi, anh sẽ bị lỡ mất lúc anh ấy tỉnh dậy đấy.
Paul nghiêng người vào khoang xe.
- Cẩn thận nhé, cái xe này hơi ọp ẹp, chủ yếu là ở bộ nối ấy.
Anh hôn Onega một cách nồng nhiệt rồi chạy về phía ngã tư. Một chiếc taxi chở anh đến bệnh viện Memorial San Francisco; khi anh kể cho Arthur về việc anh vừa làm, chắc chắn Arthur sẽ cho anh mượn chiếc Ford cũ.
Lauren tỉnh dậy với nhịp búa nện thình thịch trong đầu. Chân cô nhói lên và cô không thể kìm được việc mở băng ra để kiểm tra vết thương.
- Chuối thật! - cô nói khi nhận thấy vết thương chảy mủ - Chỉ còn thiếu nước này nữa thôi!
Cô lò cò đứng dậy đi vào buồng tắm; cô mở tủ thuốc ra, vặn nút một chai thuốc sát trùng và giội vào gót chân. Cảm giác đau dữ dội đến nỗi cô buông rơi lọ cồn xuống bồn tắm. Lauren biết rõ rằng không thể cứ để vậy mà khỏi được. Phải lau rửa lại thật kỹ vết thương này và điều trị bằng kháng sinh. Một sự nhiễm trùng như vậy có thể gây ra những hậu quả đáng ngại. Cô mặc quần áo và gọi điện cho hãng taxi. Không thể tính đến chuyện tự lái xe trong tình trạng này.
Mười phút sau cô đến bệnh viện, khập khiễng đi giữa đại sảnh. Một bệnh nhân đã đợi khám suốt hai tiếng đồng hồ gay gắt gợi ý cô phải xếp hàng như tất cả mọi người. Cô giơ cái biển hiệu nhân viên bệnh viện của mình ra cho bệnh nhân này xem và đi qua tấm cửa kính dẫn vào khu vực các phòng khám.
- Em làm gì ở đây vậy? - Betty hỏi - Nếu Fernstein mà nhìn thấy em...
- Chị xem cho em đi, em đau ghê gớm.
- Em mà đã phải than phiền thì chắc là nghiêm trọng đấy, ngồi vào cái xe lăn này đi.
- Không nên làm quá lên thế, phòng nào còn trống vậy?
- Phòng số 3! Và nhanh nhanh lên, chị đã trực ở đây hai mươi sáu tiếng rồi, thậm chí chị cũng không biết làm sao mà chị còn đứng được nữa.
- Đêm vừa rồi chị có nghỉ ngơi được tí nào không?
- Nghỉ được vài phút lúc gần sáng thôi.
Betty bảo Lauren ngồi xuống gi.ường và mở băng ra để xem vết thương.
- Em làm gì mà nó lại nhiễm trùng nhanh đến thế?
Nữ y tá chuẩn bị một ống tiêm thuốc Lidocaine. Khi loại thuốc gây mê bộ phận này đã khiến Lauren không còn cảm giác đau, Betty tách mép vết thương ra và bắt đầu nạo sạch phần bị nhiễm trùng. Sau đó, chị chuẩn bị một bộ dụng cụ khâu.
- Em tự khâu lấy hay tin tưởng chị nào?
- Chị làm đi, nhưng trước hết hãy đặt cho em một ống dẫn lưu cái đã, em không muốn có rắc rối gì hết.
- Em sẽ có một vết sẹo rõ đẹp đấy, chị rất tiếc.
- Thêm một vết sẹo, bớt một vết thương!
Trong lúc nữ y tá tiến hành công việc, Lauren vần vò mảnh vải trải gi.ường trong tay. Khi Betty quay lưng về phía cô, cô bèn tranh thủ đặt cho chị một câu hỏi cứ chực bật ra trên môi cô:
- Anh ta thế nào rồi?
- Anh ta tỉnh dậy rất khoẻ mạnh. Cái anh chàng ấy hồi đêm suýt nữa thì chết, thế mà điều duy nhất mà anh ta quan tâm là bao giờ anh ta được ra khỏi đây. Chị thề với em, chúng mình có những nhân vật cực kỳ độc đáo trong cái khoa này!
- Chị đừng quấn băng chặt quá.
- Chị làm cái gì mà chị có thể làm, còn em, chị cấm em không được đi lên trên gác đấy!
- Ngay cả khi em bị lạc?
- Lauren, đừng làm ra vẻ ngốc nghếch! Em đang đùa với lửa. Chỉ còn mấy tháng nữa thôi là em kết thúc thời kỳ nội trú, đừng có làm hỏng tất cả vào lúc này!
- Đêm vừa rồi em nghĩ nhiều đến anh ta, mà lại nghĩ một cách khá lạ lùng nữa chứ.
- Thế thì cứ nghĩ nốt tuần này nữa đi, rồi đến Chủ nhật tới em sẽ được gặp anh ta. Về nguyên tắc thì đến thứ Bảy anh ta sẽ được ra viện đấy. Trái với cái nhân vật "hồn ma ở nhà hát" (27) của em, anh chàng này có tên tuổi, địa chỉ và số điện thoại, nếu em muốn gặp lại anh ta thì cứ gọi điện khi anh ta đã ra viện.
- Làm như vậy thì thực là hoàn toàn đúng kiểu của em! - Lauren nói bằng một giọng rụt rè.
Betty nâng cằm Lauren lên và nhìn cô, vẻ mủi lòng:
- Này, nói xem nào, có phải em đang thổ lộ tâm tình với chị không đấy? Chị chưa bao giờ nghe thấy em nói năng dịu dàng như vậy cả!
Lauren đẩy tay Betty ra.
- Em cũng chẳng rõ có chuyện gì xảy ra với mình nữa, em chỉ muốn gặp anh ta và đích thân kiểm tra xem anh ta có khoẻ mạnh không thôi. Chẳng gì thì đó cũng là bệnh nhân của em chứ!
- Chị thì chị cũng hơi đoán được chuyện gì xảy ra với em đấy, em có muốn chị giải thích cho em không?
- Đừng có chọc ghẹo em nữa đi, chuyện đó có phải đơn giản vậy đâu!
Betty cười phá lên.
- Chị không chọc ghẹo em đâu, chị thấy chuyện này đáng ngại lắm; thôi được, chị để mặc em đấy, chị đi ngủ đây. Đừng làm chuyện gì ngu ngốc nhé.
Chị lấy một cái nẹp và lắp vào chân Lauren.
- Đấy, cái này sẽ giúp em đi dễ hơn. Đi qua hiệu thuốc trung tâm mà lấy kháng sinh nhé. Có một đôi nạng ở trong tủ đấy.
Betty biến mất sau tấm rèm che rồi trở lại ngay lập tức.
- Đề phòng trường hợp em không còn định hướng được trong bệnh viện này, thì hiệu thuốc trung tâm ở tầng hầm thứ nhất nhé, đừng có nhầm với khoa thần kinh, đi cùng một thang máy cả đấy.
Lauren nghe chị đi xa dần trong hành lang.
Paul đứng trước gi.ường Arthur. Anh mở ra một gói đầy bánh sừng bò và bánh sôcôla.
- Cậu tệ thật đấy, quay lại phòng mổ trong lúc tớ vắng mặt. Tớ hy vọng là vắng tớ bọn họ vẫn xoay xở được! Sáng nay cậu thấy trong người thế nào?
- Rất tốt, ngoại trừ việc tớ đã chán ngấy ở đây. Cậu thì trông mặt lại có vẻ mệt mỏi nhỉ.
- Cậu đã làm tớ phải qua một đêm tệ hại.
Lauren lấy tập giấy kê đơn thuốc trên quầy và tự kê cho mình một loại kháng sinh cực mạnh. Cô ký đơn thuốc và đưa tờ đơn cho nhân viên hiệu thuốc.
- Chị mạnh tay quá, chị chữa cho một ca nhiễm khuẩn huyết à?
- Con ngựa của tôi bị sốt cao!
- Với loại thuốc này, nó sẽ lại sức ngay trong ngày thôi!
Nhân viên hiệu thuốc lui vào phía sau những giá để thuốc, một lát sau anh ta quay lại, trong tay cầm một chiếc lọ.
- Dù sao chị cũng thận trọng nhé, tôi yêu súc vật; với loại thuốc này chị có thể giết con vật đó đấy.
Lauren không trả lời, cô lấy thuốc và quay lại thang máy. Cô lưỡng lự trước khi ấn nút tầng ba. Ở tầng trệt, một nhân viên kỹ thuật đi vào thang máy, đẩy theo một chiếc máy điện não đồ. Màn hình của máy được bọc bằng một dải băng nilon màu vàng.
- Tầng nào vậy? - Lauren hỏi.
- Khoa thần kinh.
- Máy bị hỏng à?
- Những chiếc máy này ngày càng tinh vi hơn nhưng cũng thất thường hơn. Cái máy này ngày hôm qua đã cho ra hết cả một cuộn giấy với một đường vẽ khó hiểu. Cái mà nó ghi lại không phải là sự gia tăng hoạt động của não nữa, mà là luồng điện phát ra từ một nhà máy điện. Mấy ông ở bộ phận bảo dưỡng đã mất ba tiếng đồng hồ với cái máy này, và các ông ấy bảo nó chẳng làm sao cả! Có lẽ đó là hiện tượng giao thoa.
- o O o -
 
- Tối qua cậu làm gì? - Arthur hỏi.
- Tớ thấy cậu tò mò quá, tớ ăn tối cùng với một cô gái.
Arthur nhìn bạn với vẻ xoi mói.
- Onega - Paul thú nhận.
- Bọn cậu gặp lại nhau à?
- Đại loại thế.
- Giọng cậu nghe cứ là lạ thế nào ấy.
- Tớ sợ là đã phạm một sai lầm.
- Sai lầm kiểu gì?
- Tớ đã đưa cho cô ấy chìa khoá nhà tớ.
Gương mặt Arthur sáng lên, anh gần như muốn trêu chọc Paul, nhưng Paul đã đứng lên và ra bên cửa sổ, vẻ lo âu.
- Cậu đã hối tiếc rồi cơ à?
- Tớ e là tớ đã làm cho cô ấy sợ, có thể tớ đã hơi vội vàng quá.
- Cậu yêu rồi phải không?
- Chuyện đó không phải là không thể xảy ra.
- Thế thì cứ nghe theo bản năng của mình đi, nếu cậu đã tiến lên một bước như vậy thì có nghĩa là đó là điều mà cậu mong muốn, và cô ấy sẽ cảm nhận được điều đó. Chẳng có gì phải xấu hổ khi chia sẻ những tình cảm của mình, cứ tin tớ đi.
- Như vậy, cậu nghĩ rằng tớ không sai lầm phải không? - Paul hỏi, mặt đầy hy vọng.
- Tớ chưa bao giờ nhìn thấy cậu trong tình trạng này cả, cậu không có lý do gì để lo ngại hết!
- Cô ấy không gọi điện cho tớ.
- Từ bao lâu rồi?
Paul nhìn đồng hồ đeo tay.
- Hai tiếng.
- Lâu đến thế cơ à? Cậu bị nặng thật rồi! Để cho cô ấy có thời gian thưởng thức hành động của cậu với chứ, và còn để cô ấy giải toả đường dây điện thoại nữa, chắc cô ấy phải gọi điện cho tất cả hội bạn gái để thông báo rằng mình đã làm gục ngã được gã độc thân ngoan cố nhất của San Francisco.
- Ừ, được, cứ làm ra vẻ ranh ma đi, tớ rất muốn được thấy cậu trong tình cảnh này; tớ hoàn toàn không hiểu chuyện gì đang xảy ra với tớ, tớ nóng, tớ lạnh, tay tớ đẫm mồ hôi, bụng tớ đau và miệng tớ khô nước bọt.
- Cậu yêu đấy!
- Tớ đã biết rõ là mình không hợp với cái trò này mà, nó làm tớ phát ốm.
- Rồi cậu sẽ thấy, những hiệu ứng phụ tuyệt vời lắm.
Một nữ bác sĩ nội trú đi ngang qua tấm cửa kính của phòng. Paul trố mắt ra.
- Tôi có làm phiền các anh không? - Lauren bước vào phòng và hỏi.
- Không đâu - Paul nói.
Anh đang vừa định đi mua cà phê ở máy tự động. Anh hỏi Arthur có muốn uống không, Lauren trả lời thay Arthur là anh không nên uống. Paul biến luôn đi.
- Cô bị thương à? - Arthur lo lắng hỏi.
- Một tai nạn ngớ ngẩn - Lauren vừa nói vừa lấy tờ phiếu điều trị gắn ở cuối gi.ường.
Arthur nhìn cái nẹp.
- Cô đã gặp chuyện gì vậy?
- Tôi mắc chứng khó tiêu trong lễ hội cua bể!
- Và người ta có thể bị gãy chân như vậy à?
- Đó chỉ là một vết đứt tệ hại thôi.
- Lũ cua kẹp vào cô?
- Anh hoàn toàn không có ý niệm gì về cái tôi đang kể với anh, phải không?
- Không rõ lắm thật, nhưng nếu cô vui lòng nói kỹ thêm một chút...
- Thế còn anh, đêm vừa qua của anh thế nào?
- Khá là nhộn nhạo.
- Anh đã rời khỏi gi.ường của anh à? - Lauren hỏi, đầy hy vọng.
- Tôi bị gắn vào gi.ường thì đúng hơn; bộ não của tôi có vẻ đã bị kích động quá mức, người ta phải cấp tốc đưa tôi lên phòng mổ.
Lauren nhìn anh chăm chú.
- Có chuyện gì vậy? - Arthur hỏi - Cô có vẻ là lạ.
- Không, không có gì cả, chuyện ngớ ngẩn thôi.
- Kết quả xét nghiệm của tôi có vấn đề gì chăng?
- Không, anh cứ yên tâm, không có gì liên quan đến cái đó đâu - cô nói bằng một giọng dịu dàng.
- Thế thì đó là chuyện gì?
Cô chống tay vào thành gi.ường.
- Anh không nhớ gì hết về...
- Về cái gì? - Arthur ngắt lời, run rẩy.
- Không, chuyện đó quả thực là lố bịch, chẳng có nghĩa gì hết.
- Cứ nói cho tôi đi! - Arthur nài nỉ.
Lauren đi ra phía cửa sổ.
- Tôi không bao giờ uống rượu cả, nhưng lần này, tôi nghĩ là tôi đã bị một trận say lử lả chưa từng có trong đời.
Arthur im lặng, cô quay người lại, và những lời nói tuôn trào ra từ cổ họng mà cô không thể kìm giữ được.
- Điều mà tôi muốn nói với anh không phải dễ nghe...
Một phụ nữ bước vào phòng, mang theo bó hoa to tướng che khuất mặt cô ta. Cô ta đặt bó hoa lên chiếc bàn có bánh xe và bước đến bên gi.ường.
- Trời ơi, em đã sợ quá đi mất thôi! - Carol-Ann nói và ôm lấy Arthur.
Lauren nhìn chiếc nhẫn nạm kim cương mà thiếu phụ đeo ở ngón áp út bàn tay trái.
- Chuyện đó thật phi lý, - Lauren nói khẽ - tôi chỉ muốn biết tin tức của anh thôi, tôi để anh ở đây với vợ chưa cưới của anh nhé.
Carol-Ann ôm Arthur chặt hơn, cô vuốt má anh.
- Anh biết không, ở một số vùng, người ta mãi mãi thuộc về người đã cứu sống mình đấy!
- Carol-Ann, em làm anh ngạt thở.
Hơi ngượng ngùng, thiếu phụ trẻ nới lỏng vòng tay ra, cô đứng dậy và sửa lại chiếc váy ngắn của mình. Arthur tìm cái nhìn của Lauren, nhưng cô đã không còn ở đây.
Paul đi dọc hành lang trở lại, từ xa, anh đã nhìn thấy Lauren đang tiến về phía anh. Khi cô đi ngang qua, anh dành cho cô một nụ cười đồng cảm nhưng cô không đáp lại. Anh nhún vai, tiếp tục đi về phòng Arthur và không tin vào mắt mình nữa khi phát hiện ra Carol-Ann ngồi trên chiếc ghế cạnh cửa sổ.
- Chào Paul - Carol-Ann nói.
- Ối giời ơi! - Paul kêu lên và buông rơi cốc cà phê.
Anh cúi xuống để nhặt lại cái cốc.
- Hoạ vô đơn chí - anh nói khi đứng dậy.
- Em cần phải hiểu câu nói này như một lời khen phải không? - Carol-Ann hỏi bằng một giọng lạnh lùng.
- Nếu anh là người lịch sự thì anh sẽ bảo em là đúng vậy, nhưng em biết đấy, bản chất anh thô lỗ lắm!
Carol-Ann đứng lên khỏi ghế, tức tối, và nhìn Arthur chòng chọc.
- Thế còn anh, anh không nói gì cả à?
- Carol-Ann, quả thực anh cứ tự hỏi có phải là em mang tai hoạ đến cho anh không?
Carol-Ann lấy lại bó hoa và ra khỏi phòng, sập cửa đánh sầm.
- Thế bây giờ cậu định làm gì? - Paul nói.
- Ra khỏi đây càng sớm càng tốt!
Paul đi đi lại lại trong phòng.
- Cậu làm sao vậy?
- Tớ tự giận mình - Paul nói.
- Vì sao?
- Vì mãi mới hiểu được...
Và Paul lại bắt đầu đi đi lại lại trong phòng Arthur.
- Để gỡ tội cho tớ, cậu phải thừa nhận là trước đây tớ chưa bao giờ có dịp nhìn bọn cậu thực sự bên nhau cả, có nghĩa là, tớ muốn nói là cả hai cùng tỉnh táo trong cùng một thời điểm ấy. Dù sao, đó cũng là một cái gì đấy có vẻ khá phức tạp giữa bọn cậu.
Nhưng khi nhìn hai người qua tấm cửa kính, Paul đã hiểu ra: tuy có thể chính họ không biết, nhưng Lauren và Arthur phối hợp với nhau thành một bè nhạc duy nhất, một sự hiển nhiên.
- Vậy đấy, tớ không biết cậu phải làm gì, nhưng đừng bỏ lỡ mất cô ấy.
- Thế cậu muốn tớ nói gì với cô ấy nào? Nói là tớ và cô ấy đã yêu nhau đến mức cùng nhau thảo ra mọi dự án trên đời, nhưng cô ấy không còn nhớ về chuyện đó nữa!
- Tốt hơn là nói với cô ấy rằng để bảo vệ cô ấy, cậu đã đi xây một viện bảo tàng phía bên kia đại dương mà chỉ nghĩ về cô ấy thôi, nói với cô ấy rằng sau chuyến đi đó cậu trở về mà vẫn cứ điên cuồng vì cô ấy như trước.
Họng Arthur nghẹn lại, anh không thể đáp lại những lời của bạn mình. Thế là giọng nói của Paul lại càng vang to hơn một chút nữa trong căn phòng bệnh viện.
- Cậu đã mơ về cô gái ấy đến mức thuyết phục được cả tớ bước vào giấc mơ của cậu. Một hôm, cậu đã nói với tớ: "Trong khi người ta tính toán, người ta phân tích thiệt hơn, cuộc sống cứ trôi qua, và chẳng có gì xảy ra cả", vậy thì hãy suy nghĩ nhanh lên. Nhờ cậu mà tớ đã đưa chìa khoá của tớ cho Onega. Cô ấy vẫn chưa gọi điện thoại cho tớ, thế nhưng trong đời tớ chưa bao giờ cảm thấy nhẹ nhõm như vậy cả. Có đi có lại, ông bạn thân mến ạ. Đừng tự từ bỏ Lauren khi thậm chí chưa có thời gian để yêu cô ấy trong đời thực.
- Tớ rơi vào ngõ cụt, Paul ạ. Không bao giờ tớ có thể sống bên cô ấy trong sự dối trá, và tớ cũng không thể kể cho cô ấy nghe tất cả những điều đã thực sự xảy ra... danh sách dài lắm! Kỳ lạ thật, người ta thường giận người đã nói cho mình biết một sự thật khó nghe, khó tin.
Paul lại gần gi.ường.
- Nói sự thật về mẹ cô ấy là điều làm cho cậu sợ chứ gì, ông bạn. Cậu hãy nhớ lại điều mà mẹ cậu đã nói với bọn mình: vật lộn để thực hiện một giấc mơ thì tốt hơn là chỉ có một dự định.
Paul đứng dậy và đi ra cửa, anh quỳ một đầu gối xuống đất, và ngâm nga với một nụ cười ranh mãnh trên môi:
- Nếu tình yêu sống bằng hy vọng, hy vọng không còn tình cũng sẽ tiêu tan! (28) Chúc một đêm yên lành, Don Rodrigue!
Và anh ra khỏi phòng Arthur.
Paul tìm chìa khoá ôtô của mình trong đáy túi áo, nhưng anh chỉ tìm thấy cái điện thoại di động. Một chiếc phong bì nhỏ nhấp nháy trên màn hình. Tin nhắn của Onega: "Hẹn tí nữa gặp lại, nhanh lên nhé!". Paul ngước nhìn bầu trời và hét lên một tiếng mừng rỡ.
- Cái gì làm cho anh vui sướng thế? - Đang đứng đợi taxi, Lauren hỏi.
- Tôi cho mượn ôtô của tôi rồi! - Paul trả lời.
- Anh dùng loại ngũ cốc nào vào bữa sáng? - Cô nói và mỉm cười theo anh.
Một chiếc break của Yellow Cab Company dừng lại trước mặt họ, Lauren mở cửa xe và ra hiệu cho Paul lên xe.
- Tôi đưa anh về!
Paul ngồi cạnh cô.
- Phố Green! - anh nói với người lái xe.
- Anh ở phố này à? - Lauren hỏi.
- Tôi thì không, nhưng cô thì đúng thế!
Lauren nhìn anh, sững sờ. Paul có vẻ nghĩ ngợi, anh lẩm bẩm bằng một giọng chỉ thoáng nghe thấy được: "Cậu ta sẽ giết mình, nếu mình làm thế, cậu ta sẽ giết mình!".
- Nếu anh làm cái gì? - Lauren lại hỏi.
- Trước hết, cô phải cài thắt lưng an toàn vào đã - Paul khuyên.
Cô nhìn anh chằm chằm, mỗi lúc một tò mò hơn. Paul do dự vài giây, anh hít một hơi thật dài và nhích lại gần cô.
- Trước hết, cần nói rõ một điều: cái mụ điên hung hăng trong phòng Arthur với bó hoa gớm ghiếc ấy, đó là một trong những bồ cũ của cậu ta, một bồ cũ từ thời tiền sử, tóm lại, một sai lầm!
- Rồi sao nữa?
- Tôi không thể nói được, cậu ta sẽ giết tôi thật đấy nếu tôi tiếp tục.
- Ông bạn của anh nguy hiểm đến thế cơ à? - Người lái taxi lo ngại.
- Tôi thì dính dáng gì đến chuyện đó? Arthur còn cứu cả những con côn trùng nữa ấy chứ! - Paul đáp bằng một giọng bực bội.
- Anh ấy làm như vậy thật à?
- Cậu ấy tin rằng mẹ cậu ấy đã đầu thai thành ruồi!
- A! - Lauren nói và nhìn ra xa.
- Thật là ngu ngốc khi nói với cô như vậy, rồi cô lại cho là cậu ấy kỳ quặc, phải không? - Paul tiếp tục với giọng nói lo lắng.
- Nói vậy chứ, - người lái xe ngắt lời - tuần trước tôi dẫn mấy đứa con đi vườn bách thú, thằng con trai tôi đã nhận xét với tôi là có một con hà mã trông giống bà nội nó như hệt, có lẽ tôi sẽ quay lại đó để xem!
Paul lườm người lái xe một cái qua gương chiếu hậu.
- Thôi được, mặc kệ, tôi cứ liều đấy - anh nói và cầm tay Lauren - ... Trong lúc ngồi trên xe cấp cứu đi từ bệnh viện San Pedro, cô đã hỏi tôi có người thân nào từng bị hôn mê không, cô còn nhớ chứ?
- Vâng, nhớ rất rõ.
- Thì đây, vào ngay lúc này, người ấy đang ngồi bên cạnh tôi! Đã đến lúc tôi phải kể cho cô nghe một vài chuyện.
Ôtô rời bệnh viện San Francisco Memorial và đi lên phía Pacific Heights. Số phận đôi khi cần được giúp đỡ đôi chút, hôm nay, tình bạn đòi hỏi anh phải ra tay cứu bạn mình.
Paul giải thích cho Lauren nghe mọi chuyện đã diễn ra như thế nào, vào một đêm mùa hè, anh cải trang thành y tá và Arthur thành bác sĩ để bắt cóc, mang lên một chiếc xe cứu thương cũ, cơ thể của một phụ nữ trẻ đang hôn mê mà người ta muốn tháo ra khỏi những máy móc duy trì sự sống cho cô.
Những đường phố lướt qua ngoài cửa kính. Chốc chốc, người lái xe lại hướng vào gương chiếu hậu một cái nhìn bối rối. Lauren nghe chuyện, không hề ngắt lời. Paul không tiết lộ hẳn bí mật của bạn mình. Nếu như giờ đây Lauren đã biết lai lịch của người đàn ông túc trực bên cô khi cô tỉnh lại, cô vẫn không biết gì về những chuyện mà cô đã từng trải qua cùng anh khi cô bị hôn mê.
- Dừng lại đi! - Lauren van vỉ bằng một giọng run rẩy.
- Ngay bây giờ à? - người lái xe hỏi.
- Tôi thấy khó chịu trong người.
Ôtô đi chệch khỏi làn đường rồi đỗ vào lề đường với tiếng bánh xe nghiến ken két chói tai. Lauren mở cửa xe rồi khập khiễng đi về phía một vạt cỏ ven vỉa hè.
Cô cúi gập người lại để dễ chống cự hơn với cơn buồn nôn đang dâng lên. Mặt cô như bị kim châm, một cảm giác nóng bừng xâm chiếm người cô, nhưng cô lại rùng mình. Cô nôn nao, không thở được nữa. Mí mắt trĩu nặng, những âm thanh vọng đến tai cô loáng thoáng. Chân cô nhũn ra, cô lảo đảo, người lái xe và Paul vội vã chạy đến và vừa kịp đỡ lấy cô. Cô quỳ sụp xuống vạt cỏ, lấy tay ôm đầu và bất tỉnh.
- Phải gọi cấp cứu ngay! - Paul hốt hoảng nói.
- Cứ để tôi lo, tôi có một chứng chỉ cấp cứu, tôi sẽ hà hơi thổi ngạt cho cô ấy! - người lái xe nói bằng một giọng tự tin.
- Nói cho rõ nhé! Nếu ông gí cái miệng nhờn mỡ của ông lại gần cô này, tôi sẽ nện cho ông một cú!
- Tôi nói thế để giúp thôi - người lái xe trả lời với vẻ cau có.
Paul quỳ xuống cạnh Lauren và vỗ nhẹ vào má cô.
- Cô ơi? - Paul thì thầm bằng một giọng nhẹ nhàng.
- A, xem nào! Cứ như thế thì đời nào cô ấy tỉnh lại được! - người lái xe càu nhàu.
- Ông kia, ông đi mà hà hơi thổi ngạt cho bà nội hà mã của ông và quên tôi đi! Paul đặt tay lên cằm Lauren và dùng hết sức ấn mạnh vào khớp nối xương hàm của cô.
- Nhưng anh làm cái gì thế? Anh sẽ làm trật khớp hàm của cô ấy mất thôi!
- Tôi biết rất rõ việc tôi làm! - Paul kêu rống lên - Tôi là bác sĩ phẫu thuật làm việc tạm thời!
Lauren mở mắt ra và Paul khinh khỉnh nhìn người lái xe từ đầu đến chân bằng một cái nhìn còn hơn là đắc chí.
Hai người đàn ông giúp Lauren vào lại ôtô. Mặt cô đã hồng trở lại. Cô mở cửa kính ra và hít một hơi đầy.
- Tôi xin lỗi, bây giờ tôi đã đỡ hơn rồi.
- Lẽ ra tôi không nên kể cho cô nghe tất cả những ch.uyện ấy, đúng không? - Paul nói bằng một giọng bị kích động.
- Nếu anh còn những chuyện khác để kể cho tôi nghe, đã đến nước này rồi thì... anh cứ kể đi, đây là lúc để kể đấy!
- Tôi nghĩ là tôi đã kể hết rồi.
Khi taxi đi vào Phố Green, Lauren hỏi Paul về lý do hành động của Arthur. Tại sao anh lại liều mình như vậy?
- Cái bí mật ấy thì tôi không thể tiết lộ được! Tôi tự hỏi cậu ta sẽ dìm tôi xuống nước hay sẽ dùng lửa thiêu tôi khi cậu ta biết là tôi đã nói với cô... cô không muốn tôi phải mua bình để đựng tro của tôi chứ!
- Tôi thì tôi nghĩ đó là vì anh ta phải lòng cô - người lái xe, mỗi lúc một hào hứng hơn với câu chuyện, khẳng định.
Ôtô đỗ trước toà nhà của Lauren, người lái xe quay về phía các hành khách của mình.
- Nếu các vị muốn, chúng ta có thể đi lại một vòng nữa quanh dãy nhà này, tôi sẽ tắt máy tính tiền. Ta đi tiếp thêm một chút, phòng trường hợp các vị còn có chuyện gì khác để kể cho nhau nghe!
Lauren nhỏm người qua Paul để mở cửa xe bên phía anh, anh nhìn cô, ngạc nhiên.
- Cô mới là người sống ở đây chứ, có phải tôi đâu.
- Tôi biết, - cô nói - nhưng người xuống là anh, tôi đổi hướng khác.
- Cô đi đâu? - Paul lo lắng hỏi khi ra khỏi ôtô.
Cửa xe khép lại và chiếc xe biến mất trong phố Green.
- Thế còn tôi, tôi có thể biết là chúng ta đi đâu được không? - người lái xe hỏi.
- Đi về chỗ mà chúng ta đã xuất phát - Lauren trả lời.
Bà Morrison đã giấu Pablo vào trong cái túi của mình lúc đi qua đại sảnh của bệnh viện. Con chó nhỏ giờ yên vị trên đùi Arthur. Trên màn hình của chiếc tivi gắn ở tường, Scarlett O Hara đang bước xuống những bậc thang của một chiếc cầu thang lớn, và trên gi.ường thì Pablo ve vẩy đuôi. Rhett Butler vừa bước vào phòng và lại gần Scarlett, con chó nhỏ lập tức chồm dậy trên hai chân sau và bắt đầu gầm gừ.
- Cháu chưa từng thấy nó như thế này bao giờ cả - Arthur nhìn Pablo, nói.
- Ừ, tôi cũng ngạc nhiên, nó có thích quyển sách này đâu cơ chứ! - bà Rose đáp.
Scarlett đang nhìn thẳng vào Rhett, thách thức, thì chuông điện thoại vang lên. Arthur nhấc máy mà không rời mắt khỏi phim.
- Tớ có làm phiền cậu không? - Paul hỏi bằng một giọng run run.
- Rất tiếc, tớ không thể nói chuyện với cậu được, đang có bác sĩ ở đây, tớ sẽ gọi lại cho cậu sau!
Và Arthur dập máy, để Paul đứng lại một mình giữa phố Green.
- Củ chuối! - Paul nói và đi bộ quay lại dọc theo phố Green, tay đút túi quần.
Bộ phim được mười giải Oscar vừa kết thúc. Bà Morrison cho Pablo vào lại trong túi và hứa với Arthur là sẽ sớm quay lại thăm anh.
- Bác không phải mất công đâu ạ, vài ngày nữa là cháu ra viện rồi.
Lúc đi ra, bà Morrison chạm trán một nữ bác sĩ nội trú trong hành lang, cô đi ngược lại, chân bước vội. Bà đã từng nhìn thấy cô ở đâu nhỉ?
 
Chương 16- Mọi thứ ổn cả chứ?- Lauren đứng ở cuối gi.ường hỏi.- Tôi ngồi xuống cái ghế này thì có làm phiền gì anh kô?- Cô nói thêm bằng 1 giọng hơi đanh lại.
- Kô phiền tí nào hết.- Arthur vừa nói vừa nhỏm dậy.
- Thế nếu tôi ngồi lại 15 ngày thì cũng kô phiền gì anh chứ?
Arthur nhìn cô sững sờ
- Tôi đưa anh bạn Paul của anh về bằng taxi và chúng tôi đã có 1 cuộc trò chuyện ngắn gọn…
- Thế à? Cậu ta đã nói gì với cô vậy?
- Nói gần hết!
Arthur nhìn xuống.
- Tôi rất tiếc!
- Tiếc vì cái gì? vì đã cứu sống tôi hay đã làm ra vẻ như kô có chuyện gì xảy ra? Khi tôi khám bệnh cho anh lần đầu tiên, anh đã nhận ra tôi rồi, phải kô? Bởi vì; anh nói cho tôi yên tâm đi; chắc kô phải tuần nào anh cũng đi bắt cóc phụ nữ để đến nỗi kô nhớ nổi mặt tôi nữa chứ?
- Tôi chưa bao giờ quên cô cả.
Lauren khoanh tay lại.
- Bây giờ, anh phải kể cho tôi nghe xem tại sao anh lại làm tất cả những việc đó.
- Để người ta kô tháo máy khỏi người cô!
- Cái đó thì tôi đã biết rồi, nhưng phần còn lai thì bạn anh kô chịu nói cho tôi biết!
- Phần còn lại nào?
- Tại sao lại là tôi? Tại sao anh lại liều mình như vậy vì 1 người kô quen biết?
- Cô cũng đã làm như vậy cho tôi mà, đúng kô?
- Nhưng anh là bệnh nhân của tôi, giời ạ! Tôi là ai đối với anh?
Arthur kô trả lời. Lauren bước đến bên cửa sổ. Dưới vườn ; 1 người làm vườn đang cào 1 lối đi. Cô đột ngột quay lại; nét mặt cô để lộ sự tức giận.
- Lòng tin là cái quý nhất và cũng mong manh nhất trên đời. kô có lòng tin thì chẳng thể có gì được. Những người xung quanh tôi chẳng có ai đặt lòng tin vào tôi cả; nếu anh mà cũng vậy thì chúng ta kô còn gì nhiều để nói với nhau nữa. Những thứ xây lên từ sự dối trá thì chẳng thể tồn tại được lâu.
- Tôi biết, đúng vậy, nhưng tôi có những lí do của tôi.
- Tôi muốn tôn trọng lí do của anh lắm; nhưng nó cũng liên quan đến tôi chứ; phải kô? Thật quá đáng; dù sao thì tôi cũng chính là người bị anh bắt cóc cơ mà!
- Cô cũng thế, cô cũng bắt cóc tôi; chúng ta thế là hòa!
Lauren lườm Arthur 1 cái rồi đi ra cửa. trước khi rời căn phòng; Lauren nói với Arthur bằng 1 giọng dứt khoát.
- Tôi thích anh; đồ ngốc ạ!
Cô sập cửa và Arthur nghe thấy tiếng bước chân của cô xa dần. chuông điện thoại vang lên.
- Bây giờ thì tớ có làm phiền cậu kô?
- Lúc trước thì cậu có chuyện gì muốn nói với tớ?
- Cậu sẽ cười đấy, nhưng tớ nghĩ là tớ đã làm 1 việc dại dột!
- Bỏ cái câu “cậu sẽ cười” đi, cô ấy vừa từ đây ra.
Arthur nghe thấy hơi thở của Paul trong lúc đang lựa lời.
- Cậu ghét tớ lắm hả?
- Onega đã gọi điện cho cậu chưa?- Arthur hỏi thay cho trả lời.
- Tối nay tớ sẽ đi ăn với cô ấy – Paul rụt rè nói khẽ
- Vậy tớ để cho cậu chuẩn bị, còn cậu thì để cho tớ suy nghĩ.
- Được, cứ thế nhé!
Và 2 chiến hữu dập máy.
- Mọi chuyện diễn ra tốt đẹp chứ?- người lái taxa hỏi Lauren
- Tôi vẫn chưa biết gì hết.
- Trong lúc cô vắng mặt, tôi đã gọi điện thoại cho vợ tôi và dặn trước cô ấy là tôi sẽ về muộn, giờ thì tôi hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của cô. Nào? Tai đi đâu bây giờ?
Lauren hỏi người lái xe là cô có thể mượn điện thoại của anh ta được kô. Vui mừng; người lái xe đưa điện thoại cho cô, và Lauren bấm số máy của 1 căn hộ nằm kô xa khu Marina . Bà Kline nhấc máy khi hồi chuông đầu tiên vừa vang lên.
- Tối nay mẹ có hẹn chơi bài bridge kô?- Lauren hỏi
- Có- bà Kline trả lời.
- Thế thì mẹ báo thôi kô chơi nữa nhé và trang điểm đẹp vào; con đưa mẹ đi ăn hiệu, 1 tiếng nữa con sẽ qua đón mẹ.
Người lái taxi chở Lauren đến trước cửa nhà cô và đợi trong lúc cô chuẩn bị.
Lauren đi ngang qua phòng khách và trút quần áo xuống sàn nhà. Ông hàng xóm của cô đã sửa lại chỗ nước bị rò rỉ. Đứng tắm dưới vòi hoa sen, cô chú ý giữ cho chân phải của mình tránh ra ngoài. 1 lát sau, cô bước ra, chiếc khăn tắm quấn ngang người, 1 chiếc khác quấn tóc; cô mở tủ trong buồng tắm và cất tiếng hát khe khẽ bài hát yêu thích của mình: bài Fever của Peggy Lee. Cô lưỡng lự giữa quần jean và chiếc váy mỏng; rồi để làm vui lòng vị khách tối nay của mình, cô mặc váy.
Mặc quần áo và trang điểm qua loa xong, cô thò đầu qua cửa sổ phòng khách, taxi vẫn còn ở dưới phố. Cô bèn ngồi xuống đi văng, nghĩ ngợi, và ;lần đầu tiên thưởng thức cảnh mặt trời lặn tuyệt đẹp qua chiếc cửa sổ nhỏ ở góc phòng.
Vào lúc 7h tối, taxi bấm còi phía dưới nhà bà Kline. Mẹ Lauren vào xe và nhìn con gái. Đã nhiều năm rồi bà kô nhìn thấy cô ăn mặc kiểu này.
- Mẹ có thể hỏi con 1 câu được kô?- bà nói thầm vào tai cô,- tại sao trên máy tính tiền đã có 80 đola rồi?
- Con sẽ giải thích cho mẹ khi ngồi ở bàn ăn, con nhờ mẹ thanh toán tiền xe nhé, con kô có tiền lẻ, nhưng bữa ăn tối thì là con mời mẹ đấy.
- Mẹ hi vọng là chúng ta kô đi ăn ở tiệm ăn nhanh!
- Đến Cliff House!- Lauren nói với người lái xe.
Paul trèo 4 bậc 1 lên cầu thang dẫn đến căn hộ của anh. Onega nằm trên 1 tấm thảm, nước mắt đầm đìa.
- Em làm sao vậy?- anh quỳ xuống bên cô, nước mắt đầm đìa.
- Đó là tại Tolstoi đấy,- cô nói và gập cuốn sách lại- em chắc sẽ kô bao giờ đọc xong được Anna Karenina!
Paul ôm Onega và ném cuốn sách ra góc phòng phía bên kia.
- Dậy đi, chúng ta có vài chuyện cần phải ăn mừng!
- Cái gì?- cô vừa nói vừa dịu mắt.
Paul đi vào bếp và trở ra với 2 cái cốc và chai vodka trong tay.
- Vì Anna Karenina!- anh nói và chạm cốc.
Onega uống cạn 1 hơi cốc của mình và làm ra vẻ định ném cốc ra sau lưng.
- Anh có lo cho cái thảm của anh kô?
- Đó là cái thảm Ba Tư từ năm 1910 đấy! Anh đưa em đi ăn tối nhé?
- Nếu anh muốn, em còn biết là em muốn đi ăn ở đâu cơ.
Và Onega kéo Paul cùng chai rượu vào phòng ngủ. Cô lấy chân đẩy cửa phòng khép lại.
 
Giáo sư Fernstein đặt vali của Norma vào căn phòng tuyệt đẹp của Wine Country Inn. Đã hàng tháng nay rồi họ hứa hẹn với nhau chuyến đi chơi này ở Nappa Vallee. Sau khi ăn trưa ở Sonoma, họ đã lên đường đi Calistoga., tối nay họ ngủ ở St. Helena. Quyết định ấy xứng đáng phải được ăn mừng. Đêm trước; Fernstein đã thảo 1 bức thư gửi chủ tịch hội đồng quản trị bệnh viện Memorial, thông báo nguyện vọng của ông muốn được nghỉ hưu sớm vài tháng. Trong 1 bức thư khác gửi lãnh đạo khoa cấp cứu, ông đề nghị cho bác sĩ nội trú Lauren được vào biên chế càng sớm càng tốt, sẽ rất đáng tiếc nếu để cho 1 bệnh viện khác tận dụng những phẩm chất của người học trò giỏi nhất của ông.
Thứ 2 tuần sau, Norma và ông sẽ lên máy bay đi New York. Nhưng trước khi trở lại thành phố nơi ông đã sinh ra, ông kiên quyết tận hưởng những ngày cuối cùng của đời mình ở California.
Vào lúc đúng 9 giờ tối, George Piguez chở Nathlia đến trước cửa đồn cảnh sát quận 7.
- Anh đã làm bánh quy cho em đấy, anh để trong túi của em.
Nathalia đặt 1 nụ hôn lên môi ông và ra khỏi xe. Piguez mở cửa kính và cộc cằn gọi với theo Nathalia khi chị đang bước lên những bậc thềm của đồn cảnh sát:
- Nếu có đồng nghiệp cũ nào của anh muốn biết ai đã làm những cái bánh quy hảo hạng này, em cố mà chịu đựng nhé: có bị tạm giam thì cũng chỉ 48 tiếng đồng hồ thôi…
Nathalia phác nhẹ 1 cử chỉ bằng tay và biến vào trong tòa nhà.; Piguez dừng lại 1 lúc trên bãi đậu xe, tự hỏi chẳng biết là việc về hưu hay tuổi già đã làm cho nỗi cô đơn mỗi lúc 1 thêm khó chịu đựng nổi. “Có lẽ là do cả 2 kết hợp lại”, ông tự nhủ rồi lái xe đi.
Đêm đầy sao. Lauren và bà Kline dẫn con Kali đi dạo dọc khu Marina.
- Bữa ăn này ngon quá. Lâu lắm rồi mẹ mới ăn ngon miệng được như thế. Cảm ơn con.
- Con muốn mời mẹ ăn cơ mà. Sao mẹ kô để cho con trả tiền?
- Vì tiền lương của con sẽ phải trút hết vào đó, và vì mẹ vẫn còn là mẹ của con.
Trên bến cảng du thuyền nhỏ, những dậy neo thuyền buồm kêu kèn kẹt theo nhịp thổi của làn gió nhẹ. Kô khí mát dịu. Bà Kline ném cái que mà bà cầm trong tay ra xa, và con Kali xông lên đuổi theo chiếc que.
- Con muốn ăn mừng 1 tin tốt lành phải kô?
- Kô hẳn là như vậy.- Lauren trả lời.
- Thế thì tại sao lại có bữa ăn này??
Lauren dừng lại đứng đối diện với mẹ và cầm lấy tay bà:
- Mẹ lạnh à?
- Kô lạnh lắm đâu- bà Kline trả lời.
- Con cũng sẽ quyết định giống mẹ nếu con ở địa vị của mẹ, nếu như con có thể thì chính con đã xin mẹ làm điều ấy rồi.
- Con xin mẹ làm gì cơ?
- Tháo máy ra khỏi người con!
Cặp mắt của bà Emily Kline ứa lệ.
- Con biết chuyện đó từ lúc nào?
- Mẹ ơi, con kô muốn mẹ phải sợ con bao giờ nữa, mẹ và con mỗi người có 1 tính cách riêng, mẹ con mình khác nhau và cuộc sống của mẹ con mình cũng kô giống nhau. Nhưng dù con có những lúc kêu gào ầm ĩ, con kô bao giờ phán xét mẹ cả và con sẽ kô bao giờ làm như thế. Mẹ là mẹ của con, mẹ ở trong tim con như vậy, và dù cho có chuyện gì xảy ra với chúng ta đi nữa, đó là vị trí mà mẹ giữ cho đến cuối đời con.
Bà Kline vòng tay ôm con gái, Kali xoải bước chạy tới len vào giữa 2 người, dù sao, nó cũng có 1 vị trí cần phải giữ.
- Con có muốn mẹ đưa con về lại bằng xe ô tô của mẹ kô?- Bà Kline lấy mu bàn tay quệt nước mắt, hỏi.
- Kô đâu, con sẽ đi bộ, con ăn 1 bữa khiếp quá cần phải làm tiêu đi.
Lauren bước đi, vẫy tay chào mẹ. Kali do dự mất 1 lát, đầu nó hết quay sang trái lại quay về phải. Răng ra sức cắn chặt cái que, nó lao người chạy theo cô chủ. Lauren quỳ xuống, vuốt ve đầu con chó, thì thầm vào tai nó:
- Ra với bà đi, tao kô muốn bà chỉ có 1 mình tối nay.
Cô cầm mẩu gỗ ném về phía mẹ cô.
- Lauren!
- Dạ?
- Lúc ấy kô còn ai tin nữa cả, đó là 1 phép màu.
- Con biết!
Mẹ cô bước lại vài bước
- Hoa trong nhà con, kô phải mẹ mua cho con đâu.
Lauren nhìn mẹ, tò mò. Bà Kline cho tay vào túi áo rồi rút ra 1 tấm các nhàu nát và đưa cho con gái.
Giữa những nếp giấy gấp, Lauren đọc được 3 chữ ghi trên tấm các.
Cô mỉm cười và hôn mẹ rồi chạy đi.
Những tia sáng đầu tiên trong ngày rọi nhiều sắc màu xuống vịnh. Arthur đã thức giấc. Anh đứng dậy và mạo hiểm đi ra hành lang. Anh bước từng bước dài trên tấm vải trải sàn, nhảy từ ô đen sang ô trắng như trên 1 bàn cờ kéo dài bất tận.
Nữ y tá trực tầng đi từ phòng trực ra gặp anh. Arthur cam đoan với cô là mình khỏe mạnh. Cô đon nhận tin này với vẻ hài lòng và đưa anh trở về phòng anh. Anh cần phải kiên nhẫn thêm nữa, đến cuối tuần anh sẽ được ra viện.
Nữ y tá vừa biến đi, Arthur bèn lấy điện thoại và bấm 1 số.
Paul nhấc máy.
- Tớ có làm phiền cậu kô?
- Hoàn toàn kô- Paul nói dối- tớ còn chẳng buồn nhìn đồng hồ ấy chứ.
- Cậu có lý đấy!- Arthur sôi nổi nói- Tớ sẽ làm cho ngôi nhà ấy hồi sinh lại, tớ sẽ quét vôi lại tường ngoài, sửa lại các cửa sổ, mài nhắn và đánh vecni lại toàn bộ sàn gỗ, ngay cả phần dưới mái hiên nữa; bọn mình sẽ thuê ông thợ thủ công mà cậu nói với tớ cạo sạch lớp gạch lát sàn trong bếp. , tớ sẽ phục chế lại hết, tất cả sẽ như trước kia, thậm chí cái ghế xích đu cũng được làm mới lại.
Paul vươn người. mắt díp lại vì buồn ngủ, anh nhìn chiếc đồng hồ báo thức trên chiếc bàn đầu gi.ường.
- Cậu đang họp công trường đầu giờ vào lúc 5h45’ sáng đấy à?
- Tớ sẽ làm lại mái của nhà xe phía trên vườn, trồng lại vườn hoa hồng và làm cho chỗ đó sống lại.
- Cậu sẽ làm tất cả những cái đó bây giờ , hay có thể đợi 1 tý nữa?- paul hỏi, mỗi lúc 1 bực bội hơn.
- Cậu cứ bắt đầu làm số liệu dự đoán ngay thứ hai đi- Arthur hào hứng nói tiếp- 1 tháng nữa sẽ khởi công và tớ sẽ đến theo dõi xem tình hình tiến triển thế nào vào kì nghỉ cuối tuần, cho đến khi tất cả mọi việc kết thúc! Cậu sẽ giúp tớ chứ?
- Tớ sẽ trở lại giấc mơ của tớ đây, nếu tớ có gặp 1 ông thợ mộc, tớ sẽ bảo ông ấy làm 1 bản dự toán và tớ sẽ gọi điện lại cho cậu lúc tớ ngủ dậy, đồ cám hấp!
Paul dập máy.
- Ai thế?- Onega vừa hỏi vừa rúc vào Paul.
- 1 thằng điên!
Chiều trôi uể oải trong cái nóng mùa hè. Lauren đậu xe phía sau chỗ đỗ xe dành cho cảnh sát. Cô vào đồn cảnh sát và giải thích với sĩ quan trực ban là cô muốn tìm gặp 1 thanh tra đã về hưu, tên ông ấy là George Pilguez. Viên cảnh sát chỉ cho cô ngồi đợi ở chiếc ghế băng đối diện với anh ta. Anh ta nhấc máy điện thoại và bấm 1 số máy. Sau vài phút nói chuyện , anh ta viết vội 1 địa chỉ vào tập giấy ghi chép của mình và ra hiệu cho Lauren đứng dậy.
- chị cầm lấy đi- anh ta nói và đưa cho Lauren 1 tờ giấy- ông ấy đang đợi chị.
Ngôi nhà nhỏ nằm ở đầu bên kia thành phố, giữa số 15 và số 16. Lauren đỗ xe ở lối đi. George Pilguez đang ở trong vườn nhà mình, ông giấu sau lưng cái kéo cắt cây và những bông hồng mà ông vừa cắt.
- Cô đã vượt qua bao nhiêu đèn đỏ vậy?- ông nói và nhìn đông hồ- tôi chưa bao giờ đi được trong từng ấy thời gian cả, ngay cả khi để hú còi cảnh sát.
- Hoa đẹp quá!- Lauren trả lời
Lúng túng, viên thanh tra mời Lauren ngồi dưới giàn cây.
- Tôi có thể làm gì cho cô đây?
- Tại sao hồi đó ông kô bắt giữ anh ta?
- Hẳn là tôi đã bỏ lỡ cái gì rồi, tôi kô hiểu câu hỏi của cô
- Anh chàng kiến trúc sư ấy! tôi biết là chính ông đã đưa tôi trở lại bệnh viện.
Viên thanh tra nhìn Lauren và nhăn nhó ngồi xuống.
- Cô có muốn uống nước chanh kô?
- Tôi muốn ông trả lời câu hỏi của tôi hơn
- 2 năm nghỉ hưu mà sự đời đã đảo lộn rồi. bác sĩ hỏi cung cảnh sát, còn gì mà chưa từng thấy nữa đây!
- Câu trả lời rắc rối đến thế cơ à?
- Tất cả phụ thuộc vào cô đã biết gì và chưa biết gì.
- Tôi biết gần như tất cả.
- Thế thì cô còn đến đây làm gì?
- Tôi rất ghét những cái gần như.
- Tôi đã biết trước rằng cô là loại người rất thù vị mà.! Tôi đi lấy ít đồ giải khát rồi quay lại đây ngay.
Ông đặt hoa hồng vào bồn rửa bát trong bếp và tháo tạp dề ra. Sau khi lấy 2 hộp nước soda từ trong tủ lạnh ra, ông dừng lại 1 chút trước tấm gương ở hành lang để sửa sang cho gọn chỗ tóc cuối cùng còn sót lại của mình.
- Nước mát đấy!- ông nói và ngồi vào bàn.
Lauren cảm ơn ông.
- Mẹ cô kô đâm đơn kiện, tôi chẳng có lí do gì để tóm cổ anh chàng kiến trúc sư của cô cả!
- Đối với 1 vụ bắt cóc, Nhà nước phải đứng ra làm nguyên đơn chứ nhỉ, đúng kô?- Lauren hỏi và uống 1 ngụm nước chanh.
- Đúng, nhưng chúng tôi có 1 vấn đề nhỏ, hồ sơ bị thất lạc. cô biết đấy, đồn cảnh sát đôi khi rất lộn xộn!
- Ông ko muốn giúp đỡ tôi phải kô?
- Cô vẫn chưa nói cho tôi biết là cô tìm kiếm cái gì!
- Tôi tìm cách để hiểu.
- Điều duy nhất cần phải hiểu, đó là anh chàng này đã cứu sống cô.
- Tại sao anh ta lại làm như vậy?
- Kô phải tôi là người cần trả lời cô. Hãy hỏi anh ta ấy. Cô có anh ta trong tay mà…đó là bệnh nhân của cô.
- Anh ta kô muốn nói gì cho tôi hết cả.
- Anh ta có những lí do riêng, tôi đoán vậy.
- Thế lí do của ông là gì?
- Tôi cũng giống như cô, bác sĩ ạ, tôi buộc phải giữ bí mật nghề nghiệp. Tôi kô cho rằng đến khi về hưu cô có thể tự giải phóng mình khỏi sự rằng buộc này được.
- Tôi chỉ muốn biết lí do hành động của anh ta thôi.
- Cứu sống cô kô phải là lí do đủ cho cô sao? Cô làm điều đó hằng ngày đối với những người kô quen biết…chẳng lẽ cô lại muốn trách anh ta vì đã muốn thử 1 lần!
Lauren bỏ cuộc.
Cô cảm ơn viên thanh tra đã tiếp cô và đi ra ô tô..Pilguez đi theo cô.
- Cô hãy quên bài giảng đạo đức của tôi đi, tôi lòe đấy. tôi kô thể kể cho cô điều mà tôi biết được, cô sẽ cho là tôi điên mất, cô là bác sĩ, tôi là 1 ông già, tôi hoàn toàn kô muốn bị các cơ quan có trách nhiệm đến đưa đi.
- Tôi phải giữ bí mật nghề nghiệp cơ mà, ông hãy nhớ cho là như vậy.
Viên thanh tra nhìn Lauren dò xét. Ông nghiêng người về phía cửa xe rồi kể lại cuộc phiêu lưu điên rồ nhất mà ông từng trải qua trong đời; câu chuyện bắt đầu vào 1 đêm mùa hè, trong 1 ngôi nhà bên bờ biển, ở vịnh Carmel.
- Tôi còn có thể nói gì với cô được nữa?- Pilguez tiếp tục- Lúc ấy bên ngoài trời 30 độ và trong nhà cũng gần như vậy. vậy mà tôi rùng mình, bác sĩ ạ! Cô nằm ngủ trên gi.ường trong cái phòng làm việc nhỏ ấy, ngay cạnh chỗ tôi với anh ta ngồi, và trong lúc anh ta kể cho tôi nghe câu chuyện kì quặc của mình, tôi cảm thấy sự hiện diện của cô, lúc thì bên cạnh anh ta, thỉnh thoảng còn như là cô ngồi cạnh tôi nữa. thế là tôi tin anh ta. Hẳn là vì tôi đã muốn tin. Đây kô phải là lần đầu tiên tôi muốn nghĩ lại về vụ này. Nhưng biết giải thích cho cô thế nào nhỉ? Câu chuyện này đã thay đổi cách nhìn của tôi, và có lẽ còn thay đổi đôi chút đời tôi nữa. vậy nếu cô có coi tôi là lão già điên thì mặc kệ.
Lauren đặt tay mình lên tay viên cảnh sát. Mặt cô sáng bừng lên:
- Tôi cũng thế, tôi cũng đã tưởng là mình bị điên. Tôi hứa với ông là sẽ có ngày tôi kể cho ông nghe 1 câu chuyện cũng khó tin như vậy, chuyện đó xảy ra vào ngày hội câu cua bể.
Cô nhỏm dậy để hôn vào má ông, và ô tô mất hút trên đường phố.
- Cô ta muốn gì vậy?- Nathalia hỏi khi vừa hiện ra bên cánh cửa vào nhà, mặt ngái ngủ.
- Đó là câu chuyện về hồi trước đấy mà.
- Họ mở lại cuộc điều tra à?
- Cô ta mở ra! Thôi, lại đây, anh sẽ làm cho em bữa ăn sáng.
 
Chương 17 Ngày hôm sau, Paul đến bệnh viện vào giữa buổi sáng. Arthur đợi anh trong phòng, quần áo đã mặc chỉnh tề.
- Sao cậu lâu thế!
- Tớ đứng dưới kia một tiếng đồng hồ rồi. Người ta bảo tớ rằng cậu không thể ra viện trước khi các bác sĩ đi tua vào lúc mười giờ, vì thế tớ không thể lên sớm hơn được.
- Các bác sĩ qua đây rồi.
- Cái ông già hay càu nhàu có đến đây không?
- Không, từ khi mổ xong tớ không thấy ông ấy, một đồng nghiệp của ông ấy điều trị cho tớ. Ta đi chứ? Tớ chán ở đây lắm rồi.
Lauren đi ngang qua đại sảnh bằng những bước đi dứt khoát. Cô cho thẻ của mình vào máy điện từ và bước vào sau quầy đón tiếp. Betty ngẩng đầu lên khỏi đống hồ sơ.
- Ông Fernstein ở đâu vây? - cô hỏi bằng một giọng kiên quyết.
- Chị biết câu nói "đón trước tai hoạ", nhưng em thì lại còn chạy đi tìm tai hoạ nữa!
- Chị trả lời câu hỏi của em đi!
- Chị thấy ông ấy đi lên phòng làm việc, ông ấy phải lấy những giấy tờ gì đó, ông ấy nói với chị là sẽ đi ngay.
Lauren cảm ơn Betty và đi ra thang máy.
Giáo sư ngồi sau bàn làm việc. Ông đang thảo một bức thư. Có tiếng gõ cửa. Ông đặt bút xuống và đứng dậy ra mở cửa. Lauren bước vào ngay.
- Tôi tưởng cô bị cấm đến bệnh viện này vài ngày nữa chứ? Có lẽ tôi tính sai chăng - giáo sư nói.
- Một bác sĩ nói dối bệnh nhân của mình thì sẽ phải chịu hình phạt nào ạ?
- Cũng tuỳ, phải xem điều đó có vì lợi ích của người bệnh không.
- Nhưng nếu đó là vì lợi ích của bác sĩ thì sao ạ?
- Tôi sẽ cố tìm hiểu xem lý do gì đã khiến cho ông ta làm như vậy.
- Thế nếu như bệnh nhân này lại cũng là học trò của bác sĩ ấy?
- Nếu vậy thì ông ta không còn đáng tin gì nữa. Trong trường hợp này, tôi nghĩ tôi sẽ khuyên ông ta tự xin thôi việc, hoặc là về hưu.
- Tại sao thầy lại giấu em sự thật?
- Tôi đang viết chuyện đó cho cô đây.
- Em đang ở trước mặt thầy, vậy thầy cứ nói với em.
- Hẳn là cô đang nghĩ đến cái anh chàng kỳ dị hồi trước suốt ngày trong phòng bệnh của cô. Sau khi do dự không biết có nên nhốt anh ta lại vì bệnh sa sút trí tuệ sớm hay không, tôi đã bằng lòng với việc vô hiệu hoá anh ta. Nếu tôi để anh ta kể cho cô nghe câu chuyện của anh ta, cô có khả năng dám làm những buổi thôi miên để tìm hiểu cho rõ chuyện đó lắm! Tôi kéo cô ra khỏi cơn hôn mê không phải để rồi cô lại tự chìm vào đó.
- Vớ vẩn! - Lauren kêu lên và đấm tay xuống bàn làm việc của giáo sư - Thầy nói thật với em đi!
- Cô muốn nghe sự thật thực à? Tôi báo trước cho cô biết là nó không dễ nghe đâu.
- Không dễ nghe đối với ai?
- Đối với tôi! Trong khi tôi duy trì sự sống cho cô ở bệnh viện của tôi, anh ta lại khẳng định là anh ta sống cùng cô ở bên ngoài! Mẹ cô cam đoan với tôi rằng anh ta không quen biết cô trước khi cô bị tai nạn, nhưng khi anh ta nói với tôi về cô, mỗi một lời nói của anh ta đều chứng tỏ điều ngược lại. Cô có muốn nghe điều khó tin nhất không? Anh ta tỏ ra thuyết phục đến nỗi suýt nữa thì tôi đã tin vào câu chuyện ngụ ngôn ấy.
- Thế nếu như chuyện đó là có thật?
- Vấn đề chính là ở đó, nếu vậy thì tôi đã không đủ sức để hiểu.
- Chính vì thế mà thầy đã nói dối em suốt thời gian vừa qua?
- Tôi không nói dối, tôi bảo vệ cô trước một sự thật không thể chấp nhận nổi.
- Thầy đã đánh giá thấp em!
- Đây không phải là lần đầu tiên như vậy, chẳng lẽ cô lại trách móc tôi về điều đó?
- Tại sao thầy không thử tìm cách hiểu?
- Ô hay, để làm gì cơ chứ! Chính tôi mới tự đánh giá thấp mình đây. Cô còn cả cuộc đời trước mặt để huỷ hoại sự nghiệp của mình bằng việc cố làm sáng tỏ điều bí ẩn này. Tôi có biết một vài sinh viên xuất sắc đã muốn làm y học tiến triển quá nhanh. Tất cả bọn họ đều đã tự làm tiêu tan sự nghiệp của mình. Sẽ có ngày cô hiểu ra rằng, trong nghề của chúng ta, thiên tài không nổi bật hơn người bằng cách đẩy lùi những giới hạn của tri thức, mà bằng cách làm được việc đó với một nhịp điệu không làm đảo lộn cả đạo lý lẫn trật tự đã được thiết lập.
- Tại sao lại phải bỏ cuộc?
- Tại vì cô sẽ còn sống lâu còn tôi thì sắp chết rồi. Một phương trình thời gian đơn giản.
Lauren im bặt. Cô nhìn vị giáo sư già của mình, nước mắt rưng rưng.
- Tôi xin cô, tránh cho tôi chuyện đó! Chính vì thế mà tôi thích viết cho cô hơn đấy. Chúng ta đã trải qua những tháng năm tốt đẹp cùng nhau, tôi sẽ không để cho cô có kỷ niệm cuối cùng là về một ông giáo sư già ốm o bệnh tật.
Cô bác sĩ trẻ đi vòng qua bàn làm việc và ôm lấy Fernstein. Ông đứng, tay buông thõng. Và rồi, một cách hơi vụng về, rốt cuộc ông cũng ôm lấy cô học trò của mình và nói thầm vào tai cô:
- Cô là niềm tự hào của tôi, thành công lớn nhất của tôi, đừng bao giờ bỏ cuộc! Một khi cô còn đây thì tôi còn tiếp tục sống với cô. Sau này, cô cần phải giảng dạy; cô có tầm cỡ và tài năng để làm việc đó; kẻ thù duy nhất của cô là cá tính của cô, nhưng với thời gian thì cũng sẽ ổn thôi! Cứ nhìn mà xem, tôi xoay xở cũng không đến nỗi tồi, nhưng cô mà biết tôi lúc tôi bằng tuổi cô bây giờ nhỉ! Thôi, bây giờ cô hãy đi đi và đừng ngoái lại. Tôi muốn khóc vì cô lắm, nhưng tôi không muốn cô nhận ra điều đó.
Lauren ôm siết Fernstein thật chặt.
- Em biết làm sao đây nếu không có thầy? Em còn có thể cự nự với ai được nữa? - Lauren vừa nói vừa khóc nức nở.
- Rồi cô cũng đi lấy chồng thôi mà!
- Thứ Hai thầy không còn ở đây nữa à?
- Tôi còn chưa chết đâu, nhưng tôi sẽ đi khỏi đây. Chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa, nhưng chúng ta sẽ thường xuyên nghĩ đến nhau, tôi tin chắc là như vậy.
- Em chịu ơn thầy biết bao nhiêu.
- Không đâu - Fernstein nói và bước xa ra đôi chút - Cô chỉ cần cảm ơn chính mình thôi. Điều mà tôi đã dạy cho cô, bất cứ giáo sư nào khác cũng có thể dạy cho cô được, chính cô đã làm nên sự khác biệt. Nếu cô không phạm phải những sai lầm giống tôi, cô sẽ là một thầy thuốc lớn.
- Thầy chẳng phạm một sai lầm nào cả.
- Tôi đã để Norma phải chờ đợi quá lâu, giá như tôi để cho cô ấy bước vào đời tôi sớm hơn, giá như tôi bước vào đời cô ấy, tôi đã có thể là một cái gì đó hơn là một giáo sư giỏi.
Ông quay lưng lại và đưa tay ra hiệu, đã đến lúc cô phải đi. Và như đã hứa, Lauren rời phòng làm việc của ông mà không ngoái lại.
Paul lái xe đưa Arthur về nhà. Ngay sau khi bà Morrison xuất hiện cùng với con Pablo, anh bèn phóng đến chỗ làm việc. Ngày thứ Sáu bao giờ cũng ngắn và anh còn có một đống hồ sơ đang bị chậm trễ. Trước lúc Paul đi, Arthur đề nghị Paul một đặc ân cuối cùng, một điều mà anh đã mơ ước từ mấy ngày.
- Chúng ta sẽ xem sức khoẻ cậu sáng mai thế nào đã. Tối nay tớ sẽ qua thăm cậu. Bây giờ thì nghỉ ngơi đi.
- Thì tớ chỉ làm có mỗi việc nghỉ ngơi thôi đấy chứ!
- Thế thì cứ tiếp tục như vậy đi!
Lauren tìm thấy một phong bì làm bằng loại giấy cứng nằm trong hòm thư của cô. Cô vừa đi lên cầu thang vừa bóc thư ra. Bước vào nhà, cô rút từ trong phong bì ra một bức ảnh lớn, kèm theo một bức thư ngắn.
Trong suốt thời gian hành nghề của tôi, tôi đã giải quyết phần lớn các câu đố bằng cách tìm kiếm giải pháp ngay tại nơi xảy ra vụ án. Đây là bức ảnh và địa chỉ của ngôi nhà, nơi tôi đã tìm thấy cô. Tôi mong cô kín đáo cho. Hồ sơ này đã bị thất lạc do sơ ý...
Chúc may mắn.
George Pilguez.
Thanh tra cảnh sát về hưu
Tái bút: Cô không hề thay đổi.
Lauren đóng phong bì lại, nhìn đồng hồ đeo tay và lập tức đi ra tủ quần áo. Trong lúc chuẩn bị túi hành lý, cô gọi điện thoại cho mẹ.
- Đó không phải là một ý hay đâu, con biết không. Cái lần cuối cùng mà con đi nghỉ cuối tuần ở Carmel ấy...
- Mẹ ơi, con chỉ nhờ mẹ trông Kali thêm ít nữa thôi mà.
- Con đã bảo mẹ phải hứa không được sợ con, nhưng con không thể cấm mẹ lo cho con được. Con phải cẩn thận nhé và đến đó thì gọi điện cho mẹ biết là con đã đến nơi.
Lauren dập máy. Cô quay lại tủ quần áo và rướn người để với mấy cái túi du lịch khác. Cô bắt đầu nhồi vào túi những xấp quần áo và khá nhiều đồ đạc.
Arthur mặc vào người quần dài và áo sơ mi. Anh đi những bước đầu tiên trên đường phố, khoác tay bà Rose Sau lưng họ, Pablo kéo căng sợi dây buộc cổ, dùng bốn chân để kìm lại.
- Chúng ta sẽ xem nốt phần cuối phim khi mày làm xong cái việc mà mày phải làm! - Bà Morrison nói với con chó của mình.
- o O o -
Cánh cửa căn hộ mở ra. Robert bước vào phòng khách. Anh đến sau lưng Lauren và vòng tay ôm cô.
Lauren giật nảy mình.
- Anh không muốn làm em sợ!
- Nhưng anh đã làm rồi đấy.
Robert nhìn đống hành lý chất giữa phòng.
- Em đi xa à?
- Chỉ đi hai ngày cuối tuần thôi.
- Thế mà em cần tất cả những cái túi này?
- Chỉ có cái túi đỏ ở cửa ra vào thôi, những túi khác là của anh đấy.
Cô đến gần anh và đặt hai tay lên vai anh.
- Anh nói với em là mọi thứ đã thay đổi kể từ khi em bị tai nạn, nhưng điều đó không đúng. Ngay cả trước đó chúng ta cũng đã chẳng hạnh phúc mấy. Về phần em thì nghề nghiệp của em đã ngăn cản em nhận ra điều đó. Điều khiến em thấy lạ lùng là cả anh cũng chẳng nhận ra.
- Vì anh yêu em chăng?
- Không, cái mà anh đang yêu là việc chúng mình làm thành một đôi, chúng mình che chở cho nhau khỏi sự cô đơn.
- Như vậy đâu đến nỗi tồi.
- Nếu anh thành thực, anh sẽ sáng suốt hơn. Em muốn anh đi thôi, Robert. Em đã sắp xếp đồ đạc của anh để anh đem về nhà anh.
Robert nhìn cô, vẻ bối rối:
- Vậy là xong hẳn đấy, em đã quyết định chấm dứt rồi?
- Không, em nghĩ là chúng ta đã cùng quyết định điều đó, em là người đầu tiên nói hẳn ra, thế thôi.
- Em không muốn cho chúng mình có được cơ hội thứ hai sao?
- Nếu vậy đó sẽ là cơ hội thứ ba. Đã rất lâu rồi chúng ta không bằng lòng với việc ở bên nhau, nhưng đó là một tiện nghi không đủ, giờ đây em cần tình yêu.
- Anh có thể ở lại đây đêm nay được không?
- Anh thấy chưa, người đàn ông của đời em thì sẽ chẳng bao giờ đặt ra câu hỏi này.
Lauren cầm lấy túi hành lý của mình. Cô hôn lên má Robert và ra khỏi nhà, không ngoái lại.
 
Động cơ của chiếc xe kiểu Anh cũ kỹ nổ ngay lập tức. Cửa gara nâng lên và chiếc Triumph phóng vọt ra phố Green. Đến góc phố thì xe rẽ. Trên vỉa hè, một con chó giống jack russell đang chạy lon ton về phía công viên nhỏ, một người đàn ông và một bà lão đi ngang qua phía sau một cây tiêu huyền.
Đến gần bốn giờ chiều, cô đi vào đường số 1, con đường chạy dọc Thái Bình Dương. Xa xa, những vách đá dường như nổi bật lên trong sương mù, như một dải đăng ten tối sẫm viền lửa.
Cô đến một thành phố gần như vắng ngắt khi chiều buông xuống. Cô đỗ xe ở khu vực đậu xe dọc bãi biển và ra ngồi một mình trên đê chắn sóng. Những đám mây lớn bao phủ chân trời. Đằng xa, bầu trời đang chuyển từ màu tím nhạt sang màu đen.
Đầu buổi tối, cô vào khách sạn Carmel Valley. Nhân viên tiếp đón trao cho cô chìa khoá một ngôi nhà bungalow (29) nằm nhô lên trên vịnh Carmel. Lauren đang dỡ hành lý trong túi ra thì những tia chớp đầu tiên loé lên trên bầu trời. Cô chạy ra ngoài để đưa chiếc Triumph của mình vào chỗ có mái che rồi đi vào nhà dưới trời mưa như trút nước. Quấn trong một chiếc áo choàng bằng sợi bông dày, cô gọi điện đặt một khay đồ ăn rồi ngồi trước tivi. Kênh ABC đang phát bộ phim yêu thích của cô. An Affair to Remember. Cô thả mình theo những giọt mưa gõ vào ô cửa kính. Đến chỗ Cary Grant rốt cuộc cũng đặt nụ hôn lên môi Deborah Kerr, cô với lấy cái gối và ôm chặt vào người.
Trời tạnh mưa vào lúc sáng sớm. Trong khu công viên rộng lớn, nước giọt xuống từ những hàng cây và Lauren thì vẫn chưa ngủ được. Cô mặc quần áo vào, khoác lên vai một chiếc áo mưa và ra khỏi phòng.
Ôtô chạy nốt những phút cuối cùng của cái đêm dài ấy, đèn pha rọi sáng những dải màu da cam và trắng xen kẽ nhau ở mỗi chỗ ngoặt xẻ sâu vào vách đá. Phía xa, cô phỏng đoán những con đường viền quanh khu nhà và lái xe đi vào một con đường đất nện. Đến khúc ngoặt của một đường cong, cô đỗ xe lại ở một chỗ thụt vào, giấu ôtô sau rặng bách. Cái cổng sắt màu xanh lá cây sừng sững trước mặt cô. Cô đẩy cánh cửa chấn song sắt được khép lại bởi một sợi dây thừng nhỏ buộc vào với tấm biển ghi địa chỉ của một hãng bất động sản ở vịnh Monterrey. Lauren lách người vào giữa hai cánh cửa.
Cô ngắm nhìn khung cảnh xung quanh cô. Những luống đất đỏ to, trồng một vài cây thông lọng hay thông bạc, cây cù tùng, cây lựu và cây minh tuyết, dường như lan ra đến tận biển. Cô đi theo chiếc cầu thang nhỏ bằng đá ven đường. Đến nửa đường, cô đoán ra được dấu tích còn lại của một vườn hoa hồng phía bên tay phải. Vườn hoa bị bỏ hoang nhưng vô số mùi hương quyện vào nhau gợi lên theo mỗi bước chân một vũ điệu farandole của những kỷ niệm. Những cây to trĩu xuống dưới làn gió nhẹ buổi bình minh.
Trước mặt cô, cô nhìn thấy ngôi nhà cửa sổ đóng kín mít. Cô tiến đến bên thềm, trèo lên mấy bậc thang và dừng lại dưới mái hiên. Đại dương dường như muốn đập vỡ những mỏm đá, các đợt sóng cuốn đi những đám rong rêu quyện lẫn những búi lá kim. Gió lùa vào tóc cô, cô hất tóc lại về phía sau.
Cô vòng quanh nhà, tìm cách đi vào. Tay cô lướt nhẹ trên mặt tường, những ngón tay cô dừng lại trên một miếng chêm, dưới một cánh cửa sổ. Cô rút miếng chêm vào cánh cửa gỗ mở ra với tiếng kêu ken két ở bản lề.
Lauren áp đầu vào cửa kính. Cô thử nâng tấm cửa kính kiểu "máy chém" lên; kiên quyết, cô nhẹ nhàng kéo chốt cửa ra, nó liền trượt theo cái rãnh dành cho nó. Không còn gì ngăn cản cô luồn vào nhà nữa.
Cô khép lại tấm cửa gỗ và cửa kính phía sau mình. Rồi cô đi xuyên qua căn phòng làm việc nhỏ, liếc mắt nhìn thoáng qua chiếc gi.ường rồi đi ra.
Cô bước chậm rãi trong hành lang, sau những bức tường, mỗi căn phòng chứa đựng một bí mật. Và Lauren tự hỏi không biết cái cảm giác gần gũi này xuất phát từ câu chuyện được kể trong một căn phòng bệnh viện hay từ xa hơn nữa.
Cô vào bếp, tim đập mạnh hơn; cô nhìn xung quanh mình, mắt đẫm lệ. Trên bàn, một ấm pha cà phê kiểu Ý trông có vẻ quen thuộc đối với cô. Cô ngập ngừng, cầm cái ấm lên, vuốt nhẹ rồi lại đặt xuống.
Cánh cửa tiếp theo mở vào phòng khách. Một cây đàn dương cầm dài nằm im lìm trong bóng tối của căn phòng. Cô rụt rè bước lại gần, ngồi trên ghế; những ngón tay cô đặt lên phím đàn dạo những nốt nhạc yếu ớt đầu tiên trong bản "Ánh trăng" của Werther. Cô quỳ xuống tấm thảm và để bàn tay lướt nhẹ trên những sợi tơ len.
Cô đi xem lại từng chỗ một, trèo lên trên gác, chạy từ phòng này sang phòng khác; và dần dần, những kỷ niệm của ngôi đã biến thành khoảnh khắc hiện tại.
Một lát sau, cô đi xuống cầu thang và trở lại phòng làm việc. Cô nhìn chiếc gi.ường, bước từng bước lại gần chiếc tủ tường và đưa tay ra. Cô chỉ khẽ chạm vào nắm đấm, cửa tủ đã bắt đầu xoay. Dưới mắt cô, ánh lên hai ổ khoá của một chiếc vali nhỏ màu đen.
Lauren ngồi xếp hàng, cô kéo hai cái chốt, và nắp vali mở ra.
Trong vali đầy các đồ vật đủ kích cỡ, có những bức thư, một vài tấm ảnh, một chiếc máy bay làm bằng bột nặn, một chuỗi vòng cổ bằng vỏ ốc, một chiếc thìa bạc, những chiếc giày cho trẻ sơ sinh và một cặp kính râm loại cho trẻ em. Một chiếc phong bì làm bằng giấy Rives có đề tên cô. Cô cầm phong bì trong tay, hít mùi giấy, bóc phong bì và bắt đầu đọc.
Theo những dòng chữ, cô khám phá ra một bàn tay run rẩy, những mảnh kỷ niệm cuối cùng đã tái hợp lại thành một câu chuyện...
Cô bước lại gi.ường và ngả đầu lên gối, để đọc lại và đọc lại nữa trang cuối cùng, với những dòng chữ sau:
... Câu chuyện đã khép lại như vậy đó, với nụ cười của em và khoảng thời gian của một sự vắng mặt. Anh vẫn còn nghe thấy những ngón tay em dạo trên phím dương cầm của tuổi thơ anh. Anh đã tìm em khắp nơi, cả ở những nơi khác nữa. Anh đã tìm thấy em, dù anh ở đâu, anh ngủ thiếp đi và trong cái nhìn của em. d.a thịt em là d.a thịt của anh. Với hai nửa của chúng ta, chúng ta đã sáng tạo ra những lời hứa hẹn; cùng nhau, chúng ta đã từng là ngày mai của chúng ta. Từ đây,anh biết là những giấc mơ điên rồ nhất được viết nên bằng thứ mực của trái tim. Anh đã sống ở nơi mà những kỷ niệm được xây đắp chung đôi, xa ánh mắt người đời, trong bí mật của một điều thầm kín riêng tư duy nhất, nơi em vẫn còn ngự trị.
Em đã cho anh cái mà anh chưa từng ngờ tới, một khoảng thời gian mà mỗi giây phút bên em đều có ý nghĩa trong đời anh hơn tất cả những giây phút khác. Sẽ có ngày em nhớ lại được không? Anh đã yêu em đến mức mà anh chưa từng tưởng tượng nổi rằng có thể yêu như vậy. Em bước vào đời anh như người ta bước vào mùa hè.
Anh không thấy tức giận, không thấy hối tiếc. Những khoảnh khắc mà em đã cho anh có một cái tên, tuyệt diệu. Nó vẫn mang cái tên này, nó được làm từ sự vĩnh cửu của em. Dù không có em, anh cũng sẽ không bao giờ còn đơn độc nữa, bởi vì em tồn tại ở một nơi nào đó.
Arthur.
Lauren nhắm mắt lại, áp tờ giấy vào mình. Một lúc lâu sau đó, giấc ngủ bị thiếu hồi đêm cuối cùng đã đến với cô.
Buổi trưa, một luồng ánh sáng vàng rực rọi vào qua khe cửa chớp. Tiếng bánh xe ôtô kêu in ít trên đường sỏi, trước cổng vào. Lauren giật nảy mình. Cô vội vàng tìm một chỗ an toàn để trốn.
- Tớ đi lấy chìa khoá rồi sẽ quay lại mở cửa cho cậu - Arthur vừa nói vừa mở cánh cửa xe Saab.
- Cậu không muốn để tớ đi à? - Paul đề nghị.
- Không, cậu không biết mở cửa sổ đâu, phải có mẹo đấy.
Paul xuống ôtô, anh mở thùng xe và lấy cái túi đựng dụng cụ.
- Cậu làm cái gì vậy? - Arthur vừa đi vừa hỏi.
- Tớ sẽ tháo cái biển "bán nhà" đi, nó che mất tầm nhìn.
- Đợi một phút nhé, tớ sẽ mở cửa cho cậu - Arthur nói tiếp và đi về phía cánh cửa sổ đóng kín.
- Cứ thong thả, ông bạn! - Paul trả lời, tay cầm một cái cờ lê.
Arthur đóng cửa sổ lại và đi lấy cái chìa khoá dài để trong chiếc vali đen. Anh mở cửa tủ và giật nảy mình. Một con cú nhỏ màu trắng đậu trên bàn tay từ trong bóng tối hướng thẳng vào anh, cái nhìn được giấu sau một cặp kính râm trẻ em mà Arthur nhận ra ngay lập tức.
- Tôi nghĩ là nó đã khỏi bệnh rồi, nó sẽ không bao giờ sợ ánh sáng ban ngày nữa - một giọng nói rụt rè ẩn trong bóng tối cất lên.
- Tôi sẵn lòng tin điều đó lắm, cái kính này chính tôi đã từng đeo cơ mà; có thể nhìn thấy qua đó những điều kỳ diệu đủ màu sắc.
- Hình như vậy đó! - Lauren trả lời.
- Tôi hoàn toàn không muốn tò mò đâu, nhưng cô với chú cú này làm gì ở đây vậy, cả hai vị?
Cô bước lên một bước và ra khỏi bóng tối.
- Điều mà tôi sắp nói với anh đây không phải là dễ nghe, thật khó mà chấp nhận, nhưng nếu anh vui lòng nghe câu chuyện của chúng ta, nếu anh vui lòng dành cho em sự tin cậy, thì có thể cuối cùng anh sẽ tin em, và điều đó rất quan trọng, bởi vì bây giờ em đã biết, anh là người duy nhất trên đời mà em có thể chia sẻ bí mật này.
Và thế là Arthur cũng bước vào trong tủ...
 
Chương 18 - endVào dịp Noel, Paul và Onega dọn đến ở tại một căn hộ cạnh khu Marina.
Bà Kline đã thắng trong cuộc thi đánh bài bridge của thành phố, rồi đến mùa hè sau đó thì bà lại thắng trong cuộc thi của bang California. Bà bắt đầu chuyển sang chơi poker, và vào lúc những dòng này được viết ra, bà đang tham dự vòng bán kết giải vô địch toàn quốc tại Las Vegas.
Giáo sư Fernstein qua đời trong phòng của một khách sạn ở Paris. Norma đã đưa ông đến Normandie để ông yên nghỉ không xa người chú ruột của mình, người đã ngã xuống trên mảnh đất Pháp vào một ngày tháng Sáu năm 1944.
George Pilguez và Nathalia đã kết hôn trong một nhà thờ nhỏ ở Venise. Ở Da Ivo, một quán ăn bình dân cực ngon, họ ngồi ăn tối đối diện với bác sĩ Lorenzo Granelli mà không biết. Họ tiếp tục một chuyến du lịch dài ở châu Âu. Mới đây, đồn cảnh sát quận 7 đã nhận được một tấm bưu ảnh gửi từ Istanbul.
Bà Morrison đã thực hiện được việc tưởng chừng bất khả thi là cho Pablo gá duyên với một con chó cái giống jack russell, nhưng sau khi lũ chó con ra đời thì mới té ra rằng đó là một con chó giống fox terrier. Pablo nuôi hai trong số sáu đứa con của nó.
Betty vẫn là y tá trưởng của khoa cấp cứu bệnh viện San Francisco Memorial
Về phần Arthur và Lauren, họ chỉ mong mọi người đừng có quấy rầy họ...
Trong một thời gian nữa...
Kết Thúc (END)
 
×
Quay lại
Top