Hoàn Mê hiệp ký – Thi Định Nhu

“Tạm thời chưa, chẳng qua nơi đây vẫn chưa thực sự an toàn. Chúng ta phải nhanh chóng rời đi sớm nhất có thể”, lão đại nói.



“Không cần lo. Chúng ta có con tin trong tay, có thể thung dung mà đi. Lão tam, ngươi nói sao?”, lão nhị hỏi.



Sơn Thủy lại tựa như chìm vào trong trầm tư, hàm hồ đáp một tiếng “ừm”. Vẫn còn chưa định thần lại, cửa phòng đã “rầm” một tiếng vỡ nát, hai bóng người xông vào nhanh như chớp, phóng thẳng tới gi.ường Mộ Dung Vô Phong!



Bóng người đã nhanh, kẻ áo trắng còn nhanh hơn, đúng khi tay người mới tới sắp chạm vào tay Mộ Dung Vô Phong, kiếm của kẻ áo trắng đã chĩa vào gáy của Mộ Dung Vô Phong.



Trong thoáng chốc ấy, không khí trong phòng bỗng nóng lên như trong lò lửa.



Người áo trắng nhìn đối phương lạnh lùng, nói: “Tạ Đình Vân?”.



Người kia thu kiếm, gật đầu hỏi lại: “Bạch Tinh? Thể diện của Vân Mộng cốc đúng là lớn bằng trời, có thể khiến các vị từ miền tây bắc lũ lượt kéo đến!”. Ba kẻ áo trắng kia được xưng “Tam tinh tam sát”, là những sát thủ cao giá nhất cũng đáng tin nhất trên giang hồ. Từ khi xuất đạo đến nay chưa từng thất bại. Tuy nhiên bọn họ thường hành động đơn độc riêng rẽ, rất ít khi liên thủ hợp tác, cũng không ai biết danh tính cụ thể của họ.
 
Bạch Tinh đáp: “Không dám. Việc làm ăn, không thể chậm trễ”.



Tạ Đình Vân nói: “Đã là việc làm ăn thì mọi việc đều dễ nói rồi. Người trên gi.ường kia, kẻ khác ra giá bao nhiêu, bọn ta đưa gấp đôi”.



Bạch Tinh lạnh nhạt đáp: “Các hạ nên hiểu, đối với người làm ăn mà nói tiền chỉ là thứ yếu, quan trọng là chữ tín. Nếu các hạ không lùi lại ba bước, người trên gi.ường sẽ lập tức mất mạng”.



Ném chuột sợ vỡ bình, Tạ Đình Vân không thể không lùi lại ba bước, nói: “Các hạ muốn làm gì người đó?”.



“Đưa đi.”



Tạ Đình Vân nói: “Gia chủ đang trong cơn trọng bệnh. Nếu các vị muốn đem người còn sống tới Đường gia, dọc đường không thể để người mệt nhọc lao lực, còn phải giữ đủ ấm, uống thuốc đúng giờ. Nếu không… chỉ cần ngài có mệnh hệ gì, các vị đương nhiên hiểu rõ, Vân Mộng cốc sẽ không kiêng nể gì Tam tinh hay Đương môn”, nói xong ném qua một cái bình ngọc rồi quay người rời đi.



Bạch Tinh đưa tay tiếp lấy. Đường môn cần người sống, không cần người chết.



Đám người lại quay về xe. Tam tinh tam sát quyết định nơi này là địa bàn của Vân Mộng cốc, không nên ở lâu, lại sợ kể cả đường thủy dọc Trường Giang cũng là bè bạn của Vân Mộng cốc, thế là sau khi qua sông lập tức rời thủy lộ, mạo hiểm đi trong rừng rậm ven sông về phía Tây.



Dải rừng ấy là vùng hoang sơ nhất của dãy Ngạc Tây, trong truyền thuyết chính là nơi có dã nhân xuất hiện. Nhưng vẫn có một con đường hẹp cong cong uốn khúc nối liền dải ấy. Con đường này là do một vị đại tướng trăm năm trước trong lúc chinh tây vì việc vận lương mà mở ra. Đầu cuối của con đường, sau khi đi qua mấy tòa núi chính là Đường môn.
 
Xe ngựa đi suốt một ngày đêm, ba kẻ áo trắng luân phiên đánh xe.



Sau khi rời khỏi khách điếm, Sơn Thủy lại đổi một bộ y phục khác. Vẫn là nền trắng, bên trên vạch ba đường màu đỏ, xanh, lam. Mục đích đổi y phục đương nhiên là muốn để Mộ Dung Vô Phong xem kiệt tác của mình.



Mộ Dung Vô Phong cười thầm trong lòng, nhưng cũng không muốn lãng phí tâm ý của người này. Cạnh người chàng có đặt một lư than hồng, là do Sơn Thủy sợ chàng không chịu nổi lạnh mới bỏ qua sắc mặt của Bạch Tinh đặc biệt chuẩn bị cho chàng. Gọi hay ho là: “Phanh trà[2]”. “Trời lạnh thế này, đường lại dài nhường ấy, chúng ta cứ uống chút trà đi!”, hắn ta phấn chấn nói. Lam Tinh biểu lộ đồng tình bởi hắn là người ưa hưởng thụ. Tuy chấp nhận vì giết người hoặc những việc làm ăn khác mà chịu khổ nhưng nếu có thể không phải chịu khổ, đương nhiên hắn càng cao hứng.



[2] Pha trà.



“Bức họa này, ngươi xem thế nào?”, Sơn Thủy ngồi đối diện trước mặt chàng hỏi.



“Ba vạch?”, Mộ Dung Vô Phong dịch người, tựa vào bàn ngồi dậy, “Chỉ là ba đường thẳng?”.



“Đúng”, hắn có chút đắc ý. Bức họa trước bởi vì đường nét phức tạp nên rất khó xem hiểu, bức họa này thì cực kỳ đơn giản, đơn giản tới mức khiến người khác không có gì để nói, độ khó càng cao hơn.



“Cuộc sống”, Mộ Dung Vô Phong nghĩ một lúc rồi nói: “Ngươi muốn nói tới cuộc sống”.



“Xin được nghe kỹ hơn.”



“Cuộc sống vốn đơn giản, chẳng cần phải ra ngoài tam giới mà truy cầu ý nghĩa. Giống như ba màu thông thường hay gặp này, ở đâu cũng có.”



Khuôn mặt Sơn Thủy hưng phấn tới mức đỏ bừng, lớn giọng nói: “Đúng, đúng, đó chính là ý ta muốn nói!”.



Mộ Dung Vô Phong khẽ cười, cười tới mức có chút hụt hơi. Trừ những khi gặp phải những ca bệnh cực kỳ khó chữa, chàng rất ít khi có hứng thú thế này. Sức khỏe của chàng, bệnh của chàng không cho phép chàng quá hưng phấn, nhưng chàng có thể hiểu cảm giác hưng phấn này của mình.



“Chân của ngươi có lạnh không?”, Sơn Thủy nhìn đôi chân của chàng, chăn quá ngắn chỉ đủ phủ lên thân trên, bèn cởi đôi tất của mình xỏ vào cho chàng.
 
“Đa tạ”, chàng thà để chân mình trống không còn hơn là xỏ tất của người khác, chẳng qua chân của chàng sớm đã lạnh tới mức mất đi tri giác.



Sau đó Sơn Thủy mở bọc hành lý của mình, lấy ra một chiếc áo.



“Đây là bức họa đẹp nhất từ trước tới giờ của ta, dùng trọn một năm để vẽ, trước giờ có ai có thể xem được, đến bản thân ta cũng không hiểu. Cho nên ngươi nhất định phải xem.”



“Đến bản thân ngươi còn không hiểu, làm thế nào mà ta có thể hiểu được?”, Mộ Dung Vô Phong không cười nổi nữa.



Sơn Thủy cẩn thận mở chiếc áo. Lam Tinh ngồi phía đối diện chợt bật cười lớn.



“Ngươi cười cái gì?”, Sơn Thủy quay đầu nhìn, lạnh lùng hỏi.



“Ha ha ha, lão tam à lão tam, ngươi ôm ôm ấp ấp, nâng nâng đỡ đỡ, không chịu để bọn ta xem, hóa ra là thứ đồ nát này! Đây có gì mà khó, không cần hỏi hắn, ta có thể nói cho ngươi. Đây là một con ốc sên. Xem trái xem phải vẫn là một con ốc sên. Lần này ngươi chớ có cười bọn ta dung tục nữa. Mấy bức bôi vẽ của ngươi cũng chỉ đến mức này mà thôi! Nếu ngươi muốn ốc sên, lão nhị ta một hơi có thể vẽ một trăm con… ha ha…”, hắn cười lên cười xuống, cười dến chảy cả nước mắt.



Sơn Thủy tức đến đỏ bừng cả mặt, cố gắng ép cơn giận xuống, nói với Mộ Dung Vô Phong: “Ngươi chớ có để ý tới hắn. Hắn là đồ vô tích sự hiểu làm sao được”.



Nhưng vẽ trên áo ấy, đúng là một con sên.
 
Mộ Dung Vô Phong cười cười nói: “Ngươi vẽ chính là nỗi sợ hãi”.



“Sợ hãi?”, Sơn Thủy sửng sốt.



“Một thứ không có hình thù ẩn mình trong một hình dạng tiêu chuẩn, khi nó bộc lộ ra chính là khiến cho người khác sợ hãi. Giống như con ốc sên từ từ vươn mình khỏi cái vỏ cứng rắn…”



“Ta không hiểu…”, Sơn Thủy lẩm bẩm.



“Ngươi hiểu. Ba bức họa này thật ra đều có cùng một ý tưởng, cùng một ám thị”, Mộ Dung Vô Phong nhìn Sơn Thủy từ tốn nói.



Sơn Thủy đỏ bừng mặt mũi, tựa như sản sinh nghi vấn đối với trí lực của chính mình. Hắn ngồi ngây ra đấy rất lâu, chìm trong suy nghĩ.



Đột nhiên Sơn Thủy ngẩng đầu, thốt: “Ta hiểu rồi”.



Ai nấy trên xe đều không để ý tới hắn bởi đúng lúc ấy chiếc xe chợt lao về phía trước như diều đứt dây! Sơn Thủy giữ chặt Mộ Dung Vô Phong, ba người chẳng biết lùi về đâu, chỉ đành lao bừa ra khỏi cửa sổ, cả chiếc xe lao “rầm” một tiếng vào một cây đại thụ trước mặt, tan tành thành nhiều mảnh.



Ngựa. Hai con ngựa nằm trên đường, chân đã bị một loại vũ khí sắc bén chặt đứt!



Trên đường có một ngôi trà đình nhỏ.
 
Trong tòa trà đình nhỏ có một chiếc bàn nhỏ và một chiếc ghế nho nhỏ. Trên chiếc ghế có một cô gái nhỏ nhắn mặc áo đỏ.



Cô gái áo đỏ có đôi môi hồng hồng, mười ngón tay thon dài, móng tay sơn màu phượng tiên hoa màu đỏ. Mái tóc dài đen huyền của nàng dùng một dải lụa đỏ buộc lại.



Đôi chân dài thon thả của nàng gác lên chiếc bàn, hai ống quần đỏ tươi hơi trượt xuống, lộ đôi bàn chân ngọc trắng như tuyết, mấy ngón chân nhàn nhã gõ đôi guốc mộc “lạch cạch, lạch cạch” vào nhau. Đôi chân tinh tế mềm mại, nam nhân nhìn thấy không khỏi si mê.



Trên mười đầu ngón tay sơn màu phượng tiên hoa là một chiếc bình sứ cũng màu đỏ, bên cạnh chiếc bình lại là mấy chiếc chén trà nhỏ màu đỏ, khói trà bốc lên, trong cái lạnh tháng Hai ngưng đọng thành những đường khói dựng thẳng.



“Vị nào muốn uống hồng trà? Xin tùy tiện”, cô gái uể oải nhấp một ngụm nhỏ. Lông mi dài cong vút, ánh mắt sinh động, lóng lánh như làn sóng thu, kiều diễm như hoa sen mới nhú khỏi mặt nước, ướt át như mưa đọng hoa lê.



Lão nhị nhìn đến mức một bộ phận nào đó trên th.ân thể đã có biến hóa rồi.



“Ngựa là do cô giết?”, Bạch Tinh lạnh lùng hỏi.



Cô gái cười cười, gật đầu.



“Kiếm thật nhanh”, Sơn Thủy lẩm bẩm.



“Cô cũng đến vì người này?”, Bạch Tinh chỉ Mộ Dung Vô Phong đang ở trong tay Sơn Thủy.



“Không phải.”



“Không phải?”
 
“Chỉ là hôm nay ta bỗng muốn giết người mà thôi”, cô gái đưa mắt chúm môi, cười nói: “Ba vị cùng lên? Hay là từng người tới?”, cô gái vừa nói vừa thong thả đứng dậy, đột nhiên thoắt một cái, kiếm đã tua tủa đâm tới như hoa rơi, gió giật, lẹ như chớp lóe đâm thẳng tới Bạch Tinh.



“Cô chẳng qua vẫn chỉ là một đứa con gái mà thôi”, Bạch Tinh nhàn nhạt nói, nói rồi rút kiếm chém một nhát tựa như muốn xẻ cô gái thành hai, cô gái lại như mưa nhỏ gặp gió lớn, nhẹ nhàng lướt khỏi mũi kiếm của Bạch Tinh, đôi guốc mộc còn ngang nhiên đạp nhẹ một cái lên tay hắn, lưu lại vết guốc.



Lúc bấy giờ Bạch Tinh mới nhận ra người đầu tiên cô gái muốn tấn công không phải là hắn, chỉ là lấy hắn ra phân tán sự chú ý. Đợi khi hắn hiểu ra rồi, kiếm của cô đã đâm xuyên họng “lão nhị”, rồi xoay sang tấn công Sơn Thủy.



Cô gái chỉ cần một kiếm đã giết được một người!



Nữ nhân thông minh đương nhiên biết đầu tiên phải công kích địch thủ yếu nhất.



Vũ khí Sơn Thủy dùng là đơn đao nhưng trên tay hắn còn Mộ Dung Vô Phong cho nên bị những nhát kiếm nhanh tựa chớp giật của cô gái ép phải lùi liên tục.



Rõ ràng cô ta không liên quan gì tới Mộ Dung Vô Phong. Kiếm của cô ta cơ hồ chiêu nào cũng muốn xuyên qua cổ họng Mộ Dung Vô Phong!



Trong lúc hoảng hốt, hắn đành tung Mộ Dung Vô Phong vào một bụi cây để tiện toàn lực đối phó công kích sắc bén của cô gái.



“Cảm ơn!”, cô gái cười với hắn rồi từ trong ống tay áo bên trái phóng ra một dải lụa trắng, cuốn lấy th.ân thể đang bay trên không trung của Mộ Dung Vô Phong rồi nhanh chóng lướt đi mười trượng, trong chớp mắt đã đưa Mộ Dung Vô Phong lên một cây cao, đặt vào một cành vững chắc rồi nói: “Ngồi cho vững, đây là thuốc của chàng, ta xuống trước đã”.
 
Lụa trắng phất ra, người đã mượn lực bắn đi.



Lụa trắng áo hồng, ống tay áo khẽ cuộn lại trong không trung, tựa như một đóa hoa nở giữa không gian, thân thủ thật nhanh, thật đẹp!



Sơn Thủy không hề xuất thủ, chỉ trầm mặc nhìn nàng đáp xuống, nói: “Cô quen Mộ Dung Vô Phong?”.



Mặt của cô gái khẽ đỏ lên, nói: “Ngươi nói xem?”.



“Ta đi đây. Phiền cô nói với hắn, ta hiểu ra rồi, rất cảm tạ hắn”, Sơn Thủy thu đao lại, thận trọng nói.



Cô gái có chút ngỡ ngàng nhìn Sơn Thủy: “Ngươi muốn đi? Ý ngươi là, ngươi không đánh?”.



“Không đánh. Ta chán rồi.”, hắn lạnh lùng đáp rồi đi thẳng chẳng quay đầu lại nữa.



Cô gái ngẩng đầu nhìn bóng áo trắng trên cây đại thụ rồi quay đầu hỏi Bạch Tinh: “Ngươi thì sao? Đánh hay không?”.



Hắn ta không nói gì chỉ nâng kiếm lên.



Kiếm của hắn dài hơn kiếm của cô gái ba phân, công kích ổn định lại hàm ẩn biến hóa, nhanh như cuồng long xuất hải, mỹ lệ tựa trăng vờn sóng thu. Làn áo trắng trên nền rừng tĩnh lặng, không gió mà bồng bềnh, ánh kiếm đâm tới uyển chuyển như nước chảy mây trôi.



Còn cô gái chỉ dùng những chiêu thức bình thường nhưng tốc độ thì nhanh gấp ba lần, chỉ là lúc sau cùng mới đột nhiên biến chiêu khiến người khác không sao phán đoán nổi.
 
Sau ba mươi chiêu, “keng” một tiếng, hai kiếm va nhau, hổ khẩu của cô gái bị chấn động phát run, trường kiếm như muốn tuột khỏi tay, ngực trái đã lộ ra sơ hở.



Nàng muốn tranh thủ thời gian đổi chiêu, đành gồng mình nhận một chưởng Bạch Tinh đánh tới. “Bộp”, một chưởng nặng nề đánh vào ngực trái của nàng, thoáng chốc, trong lồng ngực nàng dấy lên một cơn đau khôn tả, mùi máu tanh theo cơn đau xộc lên, khóe miệng nàng đã rỉ máu.



Kiếm của Bạch Tinh cũng không hề thu lại mà nhân cơ hội đâm tới tim nàng. Đợi khi nàng nhận ra muốn quay kiếm tự vệ đã chậm một bước.



Ánh kiếm lóa như nước, sương khói xung quanh như cũng bị lay động. Nàng đã ngửi thấy mùi vị chết chóc từ mũi kiếm kia truyền tới.



Nàng hiểu rõ, biện pháp duy nhất lúc này chính là cũng xoay kiếm đâm vào tim Bạch Tinh, cũng chính là kế vây Ngụy cứu Triệu, nhưng kiếm của nàng ngắn hơn ba phân. Cũng tức là lúc kiếm của Bạch Tinh đâm vào tim nàng, kiếm của nàng còn cách tim Bạch Tinh ba phân.



Ba phân đối với bất cứ cao thủ nào mà nói cũng đủ để thoát chết.



Chỉ trong chớp mắt, bảy, tám đối sách lướt qua đầu nàng. Thân hình nàng lùi lại theo đà kiếm đâm, hướng về một phía không ngờ tới, gập người ở mức độ người bình thường tuyệt đối không thể gập người! Kiếm của nàng từ eo phải chênh chếch đâm qua. Nàng cảm thấy kiếm của mình hoàn toàn đâm trọn vào ngực Bạch Tinh, mà kiếm của Bạch Tinh cũng đồng thời đã đâm vào bụng nàng, xuyên qua người.
 
Bốn mắt nhìn nhau có chút thê thảm. Hắn không ngờ tới nàng có thể từ góc độ đó đâm ra kiếm ấy. Còn nàng đã biết bản thân dù có thế nào cũng không thoát được đường kiếm này của hắn.



Kết quả tính toán của hai người đều giống nhau.



Nàng nghiến răng đâm thanh kiếm trong tay sâu thêm chút nữa! Một chút giãy giụa và cựa quậy cực kỳ nhỏ còn lại từ trái tim từ trái tim Bạch Tinh thông qua thân kiếm truyền đến tay nàng. Nàng rút thanh kiếm ra, chống xuống đất, miễn cưỡng đứng lên, nhìn vào khuôn mặt hoang mang rồi đổ ập xuống đất của Bạch Tinh.



Kiếm của Bạch Tinh vẫn đang cắm ở bụng nàng. Nàng ôm lấy vết thương, cảm thấy cơn đau chưa từng biết tới nhưng vẫn cố bước đi, loạng choạng lần tới dưới cây đại thụ, ngẩng đầu lên, run run nói: “Vô Phong… chỉ sợ… chỉ sợ chàng phải tự trèo… trèo xuống…”. nói xong thì gục ngã.
 
✥ Chương 11 ✥


Khi ngã xuống, trong mắt Hà Y là bầu trời đỏ, tuyết đỏ, cây cối cũng đỏ, xa xa trên cây là một bóng áo trắng, rồi dần dần tất cả chuyển thành màu tía, một màu tía nhạt, bầu trời tía nhạt, tuyết màu tía nhạt, dưới gốc ngô đồng màu tía nhạt một bầy đom đóm quanh quẩn trong đám cỏ. Mấy con chuồn chuồn cánh mỏng tang trong suốt, toàn thân tuyền một màu lam, duyên dáng bay nghiêng nghiêng bên tai, phát ra tiếng giống hệt tiếng ong gọi bầy. Mấy quả quýt trên cây, dưới ánh trăng tựa như tỏa sáng, trên mỗi quả quýt đều có một cô bé rất rất nhỏ mặc áo trắng, cầm đèn lồng đỏ ngồi chơi. Chúng dang chân dang tay, mở những cái miệng nhỏ bé non nớt thong thả hát một bài ca tựa như đã từng nghe…


Nhược hữu nhân hề sơn chỉ a,



Bị tiết lệ hề đái nữ la.



Kỉ hàm đệ hề hựu nghi tiếu,



Tử mộ dư hề thiện yểu điệu…[1]



(Núi kia tựa có bóng ai,



Eo thắt nữ la[2], quàng vai tiết lệ[3].



Ánh mắt đa tình cười xinh thế,



Chàng mến ta rồi bởi yểu điệu.)



[1] Bài Sơn Quỷ trong Cửu ca thuộc Sở Từ của danh nhân Khuất Nguyên (340 – 278 Tr.CN).



[2] Nữ la tức là cây tùng la.



[3] Tiết lệ là sắn dây.



Nàng mơ mơ hồ hồ, dường như đã thiếp đi rất lâu nhưng bị một cơn đau buốt lay tỉnh.



Một bàn tay dịu dàng, nhè nhẹ vuốt ve khuôn mặt nàng. Bàn tay lạnh giá, so với khuôn mặt đang dần dần lạnh đi của nàng còn băng lạnh hơn.



Nàng chầm chậm, gắng gượng mở mắt, nhìn thấy khuôn mặt thật quen thuộc, tái nhợt nhưng tuấn tú, đôi mắt sâu thẳm tựa rừng thu, nhưng khi nhìn nàng lại có một vẻ ấm áp khôn tả. Mộ Dung Vô Phong đang ngồi trước mặt nàng.



Nàng miễn cưỡng gượng cười, tuy không dám nhìn nhưng nàng biết thanh kiếm kia vẫn còn cắm trên người mình.
 
“Chàng… làm thế nào… mà xuống được?”, nàng vừa thở hổn hển vừa hỏi.



Hiện giờ nàng không nằm trên tuyết mà đang nằm trong lòng của Mộ Dung Vô Phong, chàng cẩn thận ôm lấy nàng dường như muốn dùng hơi ấm của mình sưởi ấm cho nàng.



“Đương nhiên là trèo xuống rồi”, Mộ Dung Vô Phong thì thầm bên tai nàng.



“Chàng… biết trèo cây?”, nàng vẫn muốn cười.



“Nếu là trèo xuống thì vẫn được”, thần sắc chàng nhợt nhạt nhưng vẫn rất bình tĩnh nhìn nàng.



“Sao ta… không… nhìn thấy? Bộ dạng trèo cây của chàng nhất định… nhất định…”, nàng ho vài tiếng, ho ra cả máu.



“Nàng vừa ngất đi”, vừa nói chàng vừa dùng ống tay áo nhè nhẹ lau đi vết máu trên môi nàng.



“Mộ Dung Vô Phong, nhân khi ta còn chưa chết, chúng ta nói chuyện đi”, tự dưng trong lòng dậy lên nỗi phiền muộn, tại sao lúc gặp nhau thì ngắn ngủi mà khi phải chia ly lại dài thế, lâu thế? Nàng khẽ nói: “Chàng nói xem, ta mặc áo đỏ… có đẹp không?”.
 
“Đẹp”, chàng nhìn nàng nồng nàn, nói: “Nàng mặc gì cũng đẹp”.



“Ta sợ nhìn thấy máu của mình…”



Trong lòng Mộ Dung Vô Phong trào lên nỗi chua xót, lẽ nào cô ấy ôm lòng liều chết mà tới đây?



“Hà Y, nàng nhìn ta này”, khuôn mặt chàng gần như áp vào mặt Hà Y, “Từ lần đầu tiên gặp mặt, nàng đã giống như một chú cá hoạt bát”.



“Chàng nói… nói tới cá làm ta lại muốn ăn… ăn canh cá”, thấy bộ dang thương tâm của chàng, Hà Y không nén được lại trêu đùa.



“Nàng không thể chết”, ánh mắt chàng sâu thẳm, tựa như hồ nước không sao nhìn thấy đáy: “Nếu như nàng chết, ta sẽ ở đây bầu bạn với nàng, mãi mãi bầu bạn với nàng”.



“Vô Phong, đừng để ý đến ta, chàng phải… phải mau nghĩ cách rời khỏi đây đi. Ở đây lạnh quá…”, nàng có chút cuống quýt nói.



“Không lạnh, ở bên nàng không lạnh chút nào”, chàng ôm lấy nàng, khẽ nói.



“Vô Phong, sao ta không cảm thấy… đau đớn chút nào?”, nàng chợt hỏi.



“Ta đã điểm mấy huyệt đạo để cầm máu cho nàng. Còn cả… còn cả một vài huyệt đạo khiến toàn thân nàng tê liệt”, chàng nhẹ giọng nói.



Những huyệt đạo có thể khiến toàn thân tê liệt, Hà Y cũng biết một chút nhưng việc này cực kỳ nguy hiểm, trước nay trên giang hồ chưa từng có ai dám đem thân mình ra thử. Chỉ mảy may sai sót sẽ lập tức bỏ mạng. Có lẽ cũng chỉ một mình Mộ Dung Vô Phong mới đủ khả năng thực hiện.
 
“Vô Phong, nghe ta nói”, trong lồng ngực lại có một trận đau thắt, nàng chợt cảm thấy khó thở, nhất thời tiếng nói trở nên gấp gáp: “Chàng có thể rời khỏi đây. Cầm lấy cái còi này… Lúc đến ta đã tính có thể cứu thoát chàng, cho nên… cho nên đã bố trí trước trong rừng một cỗ… một cỗ xe ngựa”.



“Trên xe có Kim sáng dược không?”, chàng lập tức hỏi.



“Không có, chỉ có một ít… một ít thuốc chàng thường dùng. Là Thôi đại phu đưa cho ta. Bọn họ… mấy vị tổng quản không đồng ý cho ta tới… tới cứu chàng. Là ta lén đi”, nàng mang theo mấy thứ thuốc chàng phải uống hàng ngày, thuốc phải uống lúc lên cơn đau tim, rượu trị bệnh phong thấp, thuốc chống phong hàn.



Chàng thổi chiếc còi trong tay, quả nhiên có một cỗ xe ngựa từ trong rừng chạy ra. Có lẽ con ngựa này theo Hà Y nhiều năm rồi, đã có linh tính, vừa nghe thấy tiếng còi là kéo chiếc xe ngựa tới trước mặt hai người mới dừng lại.



Mộ Dung Vô Phong nhẹ nhàng đặt Hà Y xuống đất, hai tay chống xuống di chuyển thân mình, bao nhiêu khó nhọc mới trèo được lên xe.



Trong đầu bỗng dấy lên bao nhiêu cái “nếu như”. Nếu như chàng có một đôi chân khỏe mạnh, nếu như chàng biết võ công, nếu như…, thì Hà Y đã không…



Chàng nghiến chặt răng, buộc mình tống khứ những cái “nếu như” kia ra khỏi đầu.



Trên thế giới này vốn không có cái gọi là “nếu như”. Những người miệng hay lải nhải “nếu như” là những kẻ không hề hiểu sự gian nan của cuộc đời.
 
Trong xe có tất cả những thứ lúc bình thường lúc ra ngoài chàng phải đem theo, một chậu sưởi ấm đầy ắp than sưởi, mấy cái chăn dày, y phục để thay, nước, lương khô, hộp thuốc, mấy gói thuốc còn có thứ quan trọng nhất, chính là chiếc xe lăn của chàng.



Chàng mở tung tất cả các gói thuốc, lấy trong đó mấy vị thuốc chàng đang cần đặt vào chậu sưởi, sao thành bột. Tiếp đến đem tất cả quần áo xé thành những dải vải dài. Sau đó đưa chiếc xe lăn xuống, lấy một tấm chăn dày, đem theo thuốc bột và rượu thuốc rồi quay trở về bên Hà Y.



Sau lưng nàng tuyết nhuộm màu đỏ thẫm. Đôi môi nàng thì lại trắng bệnh. Trong cơn gió buốt nàng không thể chịu đựng lâu thêm nữa.



“Sao hả? Có phải ta chuẩn bị rất đầy đủ không?”, Hà Y nhìn chàng có chút dương dương đắc ý nói. th.ân thể nàng đã bắt đầu không tự chủ mà run lên cầm cập, sắc mặt càng lúc càng đáng ngại. Nàng biết nếu có thể cứu Mộ Dung Vô Phong, từ nơi này thong thả về Vân Mộng cốc chí ít cũng phải mất bốn ngày trời. Trong bốn ngày ấy, đương nhiên chàng phải cần tới những thứ đã chuẩn bị sẵn trên xe.



“Tốt lắm rồi”, chàng đã khôi phục lại vẻ bình tĩnh, cũng quay trở lại dáng vẻ lãnh đạm ngày thường. Chàng từ trên xe lăn ngồi xuống đất, lấy chiếc chăn dày trùm lấy nàng.



“Hà Y, nàng uống rượu đi”, chàng mở nút bình rượu.



“Đây là… đây là rượu thuốc, dùng để xoa bóp cho chàng, đắng chết đi được, ta không uống đâu!”, nàng thốt.



“Mùi vị cũng không tồi, không tin, ta uống cho nàng xem”, chàng ngửa cổ nuốt ừng ực một ngụm.



“Không”, nàng ngang bướng nói: “Không được bắt người sắp chết uống những thứ không ngon, u hồn của ta sẽ hận chàng đấy”.



“Nghe lời nào, Hà Y”, chàng nâng đầu của nàng.



“Có muốn, làm… làm một chữ ‘lữ’[4] trước không”, nàng bẽn lẽn nói, khuôn mặt đỏ hồng.



[4] Tự hình của chữ lữ giống như hai bộ khẩu chồng lên nhau, tức là chỉ việc “hôn”.
 
“Chữ ‘lữ’?” chàng nghi nghi hoặc hoặc: “Chữ ‘lữ’ gì?”.



“Đồ ngốc, đồ khờ!”, nàng xấu hổ đỏ bừng mặt, “Chàng…”, còn chưa nói xong, môi đã bị chặn lại, chàng hôn nàng thật sâu.



Một cái hôn thật dài, thật lâu, hơi thở như đều thành của chàng rồi, nơi bụng bỗng đau quặn một cái, chàng đã rút thanh kiếm ra.



Tất cả bột thuốc đều rắc lên miệng vết thương, tại chỗ nghiêm trọng nhất còn đắp vào một chút kim sáng dược Hà Y mang theo tùy thân. Sau đó chàng nhanh chóng băng vết thương lại rồi ôm lấy nàng đưa tới xe ngựa.



May mà nàng mang theo xe lăn của chàng, nếu không chỉ sợ dù chàng có bỏ ra bao nhiêu sức lực cũng chưa chắc đem được nàng lên xe mà không động tới vết thương của nàng. Nếu không có xe ngựa, họ chỉ đành ngồi dưới gốc cây ấy mà dần dần chết cóng.



Nữ nhân đã thông minh thì bất kể là lúc nào vẫn cứ thông minh.



Tuyết bay, gió buốt, lò than hồng.



Khí lạnh tê tái ngấm tới tận xương của tháng Hai như bị tấm rèm dày chặn ngoài cửa. Hà Y cuộn trong mấy tầng chăn dày, nằm trên một bên ghế, lò sưởi ấm áp đặt bên mình, ánh lửa đỏ chiếu lên khuôn mặt tái nhợt đến đáng sợ của nàng.



Nàng mất quá nhiều máu, vết thương lại quá sâu, thậm chí cả sau khi đã được băng lại, đến cả Mộ Dung Vô Phong cũng không dám khẳng định liệu vết thương của nàng đã hoàn toàn ngừng chảy máu hay chưa. Huống chi bọn họ không đủ dược liệu. Nếu là người bình thường, trong tình trạng ấy trong vòng một canh giờ là mất mạng rồi. Nhờ là người tập võ Hà Y mới có thể chịu đựng lâu như thế.



“Nàng thấy ấm chưa?”, Mộ Dung Vô Phong bình đạm nói
 
Lúc thăm bệnh cho người đang trong cơn nguy kịch, bất kể trong lòng anh có lo lắng đến thế nào, có tuyệt vọng ra sao, tuyệt đối không được mảy may thể hiện ra để bệnh nhân thấy. Tay của đại phu phải cực kỳ ổn định, để giữ sự ổn định ấy, anh phải giữ khoảng cách với bệnh nhân. Nếu như anh quá thương cảm với bệnh nhân, tay của anh sẽ yếu đi, không dám thử, không chịu mạo hiểm dẫn tới bỏ lỡ nhiều cơ hội cứu chữa. Chàng thường dạy học trò của mình như thế. Hà Y gật đầu, nhẹ giọng đáp, “Trước khi tới đây ta đã hỏi qua mấy người dân bản địa rồi, nếu chúng ta cứ đi về phía trước, đi khoảng một ngày sẽ gặp được một thôn lớn”. Ánh mắt của nàng vẫn còn rất trong sáng tỉnh táo, tiếng nói tuy nhỏ nhưng vẫn giữ được tốc độ nói như lúc thường. Mộ Dung Vô Phong gật đầu, trong lòng tính toán một chút. Lộ trình quay về đại khái phải mất bốn ngày, trên đường cũng nhiều hung hiểm, mịt mùng chẳng bóng người. Xem ra chỉ có thể đi về phía trước, đến thôn đó nghỉ lại một chút có khi cũng tìm được người giúp đỡ. Cũng có thể trong thôn có tiệm thuốc, mấy vị thuốc chàng cần sẽ có. “Chàng có biết đánh xe ngựa không?”, nàng chợt hỏi. Rốt cuộc cũng không thể cùng ngồi trong xe rồi cứ thế đậu xe bên đường mãi được. Lời vừa ra khỏi miệng lòng đã hối hận rồi. Việc này còn cần hỏi sao? Mộ Dung Vô Phong vốn quen ngồi xe, chỉ sợ cái roi đánh xe trông như thế nào cũng không biết. Quả nhiên chàng thành thật nói: “Chưa từng thử qua, có điều chắc cũng không quá khó”. “Nó là ngựa của ta, có thể tự đi về phía trước, chàng chỉ cần nhắm lúc nào nó đi chậm lại thì ra roi thúc là được”, giọng của nàng càng lúc càng nhỏ, càng lúc càng mỏng, cơ hồ nghe không rõ. Mộ Dung Vô Phong cuộn mình trong một chiếc áo khoác dày, trèo lên trước xe nói: “Nàng yên tâm, nằm yên, chớ động đậy”.
 
Xe ngựa chầm chậm tiến về phía trước. Đường núi gập ghềnh, một con đường hẹp quanh co vươn dài mãi như vô cùng tận. Trên trời tuyết vẫn rơi, con đường dần chìm trong tuyết. Đã đi được khoảng ba canh giờ, cứ mỗi nửa canh giờ, Mộ Dung Vô Phong lại vào thùng xe xem một lần. Tuy hơi thở yếu ớt, Hà Y vẫn ương ngạnh một câu đáp một câu tiếp chuyện Mộ Dung Vô Phong. Người sáng mắt đều có thể phát hiện đầu óc của nàng đã dần dần mất tỉnh táo, chỉ dựa vào chút khẩu khí mà kiên trì đến bây giờ, không muốn để chàng quá lo lắng, xét cho cùng sức khỏe của chính chàng cũng không được tốt. Hai ngày trước chàng vẫn đang còn là một bệnh nhân đến việc ngồi dậy khỏi gi.ường cũng khó khăn, bây giờ phải vừa vất vả đánh xe, vừa chăm sóc vết thương của nàng trong cái thời tiết như muốn lấy mạng chàng.



Không gian tĩnh mịch, đêm dần xuống.



Không xa phía trước có ánh đèn thấp thoáng trong rừng cây.



Lẽ nào Hà Y nhầm? Thôn kia vốn không xa đến thế? Nhưng xem ra kia không giống như thôn trang, bởi chỉ có một ánh đèn, một ánh đèn nho nhỏ. Đến gần mới thấy đó là hai gian phòng lụp xụp, có vẻ như là nơi ở của thợ săn.



Có đèn đương nhiên là có người.



Bất kể thế nào bọn họ cũng phải xuống xe nghỉ lại một đêm. Một là, vết thương của Hà Y cần khâu lại, thay thuốc. Hai là, ngựa cũng mệt rồi.



Cắn răng đưa xe xuống đất, ngồi lên rồi ôm lấy Hà Y. Sắc mặt của Hà Y xám như tro, người mềm nhũn nằm trong lòng chàng, hơi thở vừa yếu ớt vừa khó khăn.



Chàng gõ cửa, cửa mở “kẹt” một tiếng, một đại hán cực kỳ tráng kiện bước ra, lúc mở cửa trong tay còn cầm một cái bánh nướng. Người này mặc một tấm áo khoác da hổ, trang phục theo lối thợ săn điển hình.



Mộ Dung Vô Phong mỉm cười, nói: “Vị huynh đài này, chúng tôi là người qua đường, vốn muốn đi suốt đêm không ngờ gặp gió tuyết. Không biết liệu có thể cho ở lại chỗ này qua đêm, sáng mai xin đi sớm. Đến lúc đó xin phép được gửi tiền phòng”.



Người thợ săn nhìn hai người một lượt, thấp giọng khó chịu nói: “Chỗ tôi đây chỉ có một cái gi.ường, nếu hai vị muốn ở lại chỉ có thể ở phòng củi, nếu không chê thì cứ vào”.



Mộ Dung Vô Phong nói: “Chỉ cần có chỗ dung thân là được, không dám phiền phức hơn”.



Người thợ săn thấy đôi chân chàng bất tiện, định đón lấy Hà Y, Mộ Dung Vô Phong rụt lại, từ chối nói: “Đa tạ. Cô nương đang lâm trọng bệnh, không nên cử động nhiều, cứ để tôi”.
 
Trong phòng củi có một vại nước, một bếp lò, mặt đất thì toàn bùn, bẩn thỉu vô cùng. Còn may trong góc tường có một đống rơm. Mộ Dung Vô Phong gom đống rơm lại thành một đống thật dày, bên trên trải tấm chăn đem từ trên xe xuống, sau đó cần thận hết sức đặt Hà Y lên tấm chăn.



Trong bếp hãy còn tàn lửa, cho thêm vài thanh củi lại cháy bùng lên, thoáng chốc đã đun xong một siêu nước nóng. Khung cửa sớm đã hỏng hết, hai cánh cửa chỉ khép hờ với nhau, cứ khi gió to thổi tới lại lách cách va vào nhau. Mộ Dung Vô Phong rửa tay rồi lại sao thuốc, hòa với nước nóng, chế ra một bát thuốc cao đặc màu đen.



Chuẩn bị xong mọi thứ, chàng tháo lớp băng đang cuốn ở bụng nàng, rửa sạch vết thương rồi lấy trong hộp thuốc một con dao nhỏ vừa mỏng vừa sắc nhọn, trước tiên hơ qua lửa rồi nhúng vào rượu thuốc.



Hà Y nhìn chàng, không kìm được mà run bắn toàn thân, nhỏ giọng hỏi: “Có đau lắm không? Ta… ta từ nhỏ đã rất sợ đau”.



Mộ Dung Vô Phong bật cười, nói: “Sở nữ hiệp mà lại sợ đau? Việc này nói ra, chỉ sợ người khác sẽ cười vỡ bụng”.



“Chính vì sợ đau nên ta mới khổ luyện khinh công, chính là để chạy… chạy cho nhanh một chút”, nàng lo lắng nhìn chăm chăm vào con dao trên tay chàng.



“Ta đã dùng châm phong bế đại huyệt trên người nàng, hiện giờ trừ đầu nàng là còn có thể cử động ra, tất cả những nơi khác trên người đều không có cảm giác. Chỉ sợ phải để nàng nằm như thế mười ngày, đợi khi vết thương khép lại ta mới dám giải khai huyệt đạo của nàng”, chàng vừa nói vừa bắt đầu xử lý vết thương.
 
Từ khi bắt đầu hành nghề đến nay đây là lần đầu tiên đối diện bệnh nhân lại lưỡng lự, chàng chần chừ một lát, mãi không xuống tay được.



Nghiến chặt răng, chàng dùng con dao nhỏ rạch vết thương đã sưng phù, mở ra một đường hẹp rồi từng lớp từng lớp khâu lại, thoáng chốc đã hoàn toàn khâu xong. Tay của chính chàng lần đầu tiên không do chàng làm chủ mà run rẩy.



Bôi thuốc cao lên, dùng nước nóng lau qua th.ân thể lạnh băng của nàng rồi thay cho nàng một bộ y phục trắng sạch sẽ. Biết chàng ưa sạch sẽ, lúc đi nàng đã mang theo hơn mười bộ y phục trắng còn quần áo để chính mình thay thì nàng lại quên sạch.



Xử lý xong tất thảy, đắp chăn cẩn thận cho nàng, chàng lặng lẽ, chăm chú nhìn nàng, nhìn rất lâu rồi chợt nói: “Hà Y, khi còn nhỏ… có người thường ức hiếp nàng sao?”. Trên lưng của nàng còn vài vết sẹo mờ mờ, tuy là của nhiều năm trước nhưng chàng vẫn có thể tưởng tượng lúc ấy trông ra sao.



Nàng cười cười, tránh cái nhìn của chàng: “Ta lợi hại như thế này, làm sao có ai bắt nạt được ta? Chẳng qua thuở nhỏ nghịch ngợm, hay bị ngã nên mới có mấy vết ấy thôi ấy mà thôi”.



Nàng lựa lời mà quên rằng Mộ Dung Vô Phong là một đại phu, tự nhiên đủ khả năng nhận diện các loại sẹo. Chàng cúi thấp đầu trầm mặc, không truy hỏi thêm nữa.



“Chàng thì sao? Lúc nhỏ chàng thế nào?”, nàng hỏi lại, cố gắng khiến bầu không khí dễ chịu hơn.



Chàng nhạt giọng nói: “Không nhớ lắm”.
 
Quay lại
Top Bottom