Eragon - Cậu Bé Cưỡi Rồng

Đầu tiên, Orik đặt cái vòng thạch anh tím lên mặt bàn. Mỗi tộc trưởng nhờ một trong những pháp sư của mình kiểm tra nó, và tất cả đều nhất trí chứng cứ đó chưa đủ thuyết phục.
Rồi Orik nhờ một hầu cận mang vào một cái gương gắn trên một cái kiềng bằng đồng. Một pháp sư trong đoàn tùy tùng của ông niệm một thần chú, và trên bề mặt bóng loáng của cái gương xuất hiện hình ảnh về một căn phòng nhỏ, chất đầy sách. Một thoáng trôi qua, rồi một người lùn lao vào phòng và cúi đầu về phía hội đồng từ bên trong cái gương. Bằng giọng hổn hển, ông ta giới thiệu mình là Rimmar, sau đó tuyên thệ bằng cổ ngữ để đảm bảo sự trung thực của mình, ông ta kể với hội đồng làm thế nào ông ta và trợ thủ của mình đã tìm ra những điều có liên quan đến những con dao mà những kẻ tấn công Eragon đã sử dụng.
Khi các tộc trưởng đã thẩm vấn xong Rimmar, Orik bảo những chiến binh của mình mang vào ba tên lùn mà tộc Ingeitum đã bắt giữ. Gannel ra lệnh cho chúng tuyên thệ trung thực bằng cổ ngữ, nhưng chúng nguyền rủa ông ta và nhổ lên sàn và từ chối. Rồi các pháp sư từ tất cả các tộc nhập vào suy nghĩ của chúng và xâm chiếm ý thức chúng, moi lấy thông tin mà hội đồng yêu cầu. Không hề có phản đối, các pháp sư chứng thực những gì Orik đã nói.
Sau cùng, Orik gọi đến Eragon làm chứng. Eragon thấy hồi hộp khi nó đi đến chỗ cái bàn và mười ba tộc trưởng dữ tợn đang nhìn nó chằm chằm. Nó nhìn ngang qua căn phòng dán mắt vào một xoắn màu trên một cái trụ cẩm thạch và cố phớt lờ nỗi lo của mình. Nó lặp lại những lời thề chân thực khi một pháp sư nói với nó, và rồi, không nói nhiều hơn mức cần thiết, Eragon thuật lại cho các tộc trưởng nó và các cận vệ của nó đã bị tấn công như thế nào. Sau đó, nó trả lời những câu hỏi không thể tránh khỏi của những người lùn và rồi cho phép hai trong số các pháp sư – hai người Gannel đã chọn ngẫu nhiên trong số những người được tập hợp – để kiểm tra ký ức của nó về vụ việc. Khi Eragon hạ thấp hàng rào xung quanh tâm trí nó, nó nhận thấy hai pháp sư có vẻ e sợ, và nó cảm thấy an ủi một chút vì điều đó.
Tốt, nó nghĩ. Họ sẽ ít có khả năng đi lang thang vào những nơi không nên nếu họ biết sợ mình.
Eragon nhẹ nhõm vì cuộc thanh tra trôi qua không có rắc rối nào, và những pháp sư chứng thực cho phần tường thuật của nó với các tộc trưởng.
Gannel đứng dậy khỏi ghế và gọi các ngôn-luật-viên, hỏi họ: “Các vị đã thỏa mãn với chất lượng của những bằng chứng mà Grimstborith Orik và Eragon Khắc-tinh của Tàthần đã đưa ra chưa?”
Năm người lùn râu trắng cúi đầu, và người lùn ở giữa nói, “Chúng tôi đã thỏa mãn, thưa Grimstborith Gannel.”
Gannel lẩm bẩm, có vẻ không ngạc nhiên. “Grimstborith Vermûnd, ông chịu trách nhiệm cho cái chết của Kvîstor, con trai của Bauden, và ông đã cố giết một vị khách. Với việc đó, ông đã mang đến sự ô nhục cho toàn thể chủng tộc chúng ta. Ông nói sao về điều này?”
Tộc trưởng của Az Sweldn rak Anhûin ấn bẹp tay xuống bàn, mạnh máu nổi phồng lên dưới lớp da nâu.
“Nếu tên Kỵ sĩ Rồng này là một knurla toàn diện chỉ trừ dòng máu, vậy thì hắn không phải là khách và bọn ta có thể đối xử với hắn như với bất cứ kẻ thù nào ở một tộc khác.”
“Tại sao, điều đó thật vô lý hết sức!” Orik kêu lớn, gần như líu lưỡi vì giận dữ. “Ông không thể nói cậu ấy –”
“Hãy bớt lời, nếu ông vui lòng, Orik,” Gannel nói. “La hét sẽ không giải quyết việc này. Orik, Nado, Íorûnn, vui lòng đi cùng tôi.”
Lo lắng bắt đầu làm Eragon bứt rứt khi bốn người lùn đi ra và hội ý với các ngôn-luậtviên trong vài phút.
Chắc chắn họ sẽ không để Vermûnd thoát được sự trừng phạt chỉ bởi một trò bịp bợm miệng lưỡi nào đó! nó nghĩ.
Trở lại bàn, Íorûnn nói, “Các ngôn-luật-viên đều nhất trí. Tuy Eragon là một thành viên ràng buộc bởi lời thề của Dûrgrimst Ingeitum, nhưng cậu ấy cũng giữ những vị trí quan trọng bên ngoài vương quốc chúng ta: cụ thể, là một Kỵ sĩ Rồng, đồng thời là một đại diện chính thức của Varden, gửi đến bởi Nasuada để chứng kiến lễ đăng quang của người cai trị kế tiếp của chúng ta, và cũng là một bằng hữu có ảnh hưởng lớn đối với Nữ hoàng Islanzdí và chủng tộc của bà nói chung. Vì những lý do đó, Eragon xứng đáng với sự hiếu khách tương tự như chúng ta sẽ dành cho bất cứ một đại sứ viếng thăm nào, thái tử, quốc vương, hay bất cứ một yếu nhân nào khác.”
Nữ người lùn liếc sang Eragon, đôi mắt tối, lóe sáng của bà ta rõ nét trên tứ chi nó. “Tóm lại, cậu ấy là vị khách danh dự của chúng ta, và chúng ta phải đối đãi với cậu ấy như là… mà mọi knurla không mất trí cần phải biết.”
“Đúng, cậu ta là khách của chúng ta,” Nado đồng tình. Môi ông ta mím lại trắng bệch và má co rúm lại, như thể ông ta vừa mới cắn một quả táo chỉ để phát hiện ra nó vẫn chưa chín.
“Giờ ông nói sao, Vermûnd?” Gannel vặn hỏi.
Đứng dậy khỏi chỗ ngồi, người lùn che mạng tía nhìn quanh bàn, lần lượt nhìn chằm chằm vào các tộc trưởng.
“Tôi nói điều này, và hãy nghe cho rõ, hỡi các grimstborithn: nếu bất cứ tộc nào vung rìu chống lại Az Sweldn rak Anhûin bởi những lời buộc tội giả dối này, chúng tôi sẽ coi đó là một hành động chiến tranh, và chúng tôi sẽ đáp lại thích đáng. Nếu các vị bỏ tù tôi, điều đó chúng tôi cũng coi là một hành động chiến tranh, và chúng tôi sẽ đáp lại thích đáng.” Eragon thấy cái mạng của Vermûnd giật giật, và nó nghĩ tên lùn có thể đang cười ở bên dưới. “Nếu các vị tấn công chúng tôi theo bất cứ cách nào, cho dù bằng thép hay bằng lời, không cần biết lời khiển trách của các vị ôn hòa đến cỡ nào, chúng tôi sẽ coi đó là một hành động chiến tranh, và chúng tôi sẽ đáp trả thích đáng. Trừ khi các vị nóng lòng muốn xé tan đất nước này thành ngàn mảnh đẫm máu, tôi khuyên các vị hãy để gió cuốn trôi đi cuộc thảo luận sáng nay, và hãy lấp đầy đúng chỗ trong tâm trí các vị với suy nghĩ ai sẽ là người cai trị tiếp theo trên ngôi báu hoa cương.”
Các tộc trưởng ngồi yên lặng một lúc lâu.
Eragon đã phải cắn lưỡi mình để khỏi nhảy lên bàn mà chửi Vermûnd cho đến khi những người lùn đồng ý treo cổ hắn lên vì tội ác của hắn. Nó tự nhắc mình rằng nó đã hứa với Orik là sẽ nghe theo chỉ dẫn của Orik khi đối phó với hội đồng thị tộc.
Orik là tộc trưởng của mình, và mình phải để ông ta đáp trả theo cách mà ông ta thấy là thích hợp.
Freowin gỡ tay ra và đập một bàn tay đầy thịt xuống mặt bàn. Bằng giọng trung khàn khàn vang khắp phòng, dù có vẻ không lớn hơn một lời thì thầm, ông lùn to béo nói, “Ông đã làm ô danh chủng tộc chúng ta, Vermûnd. Chúng tôi không thể giữ lại danh dự knurlan của mình và phớt lờ sự xúc phạm của ông.”
Người phụ nữ lùn cao tuổi, Hadfala, xốc lại bó giấy chi chít chữ rune và nói, “Ông mong đạt được gì, ngoài sự tiêu vong của chúng ta, bằng việc giết Eragon? Thậm chí nếu Varden có thể lật đổ Galbatorix mà không cần đến cậu ấy, những bất hạnh nào mà rồng Saphira sẽ giáng xuống chúng ta nếu chúng ta giết chết Kỵ sĩ của nó? Nó sẽ làm Farthen Dûr ngập máu của chính chúng ta.”
Không một lời nào từ Vermûnd.
Tiếng cười phá vỡ sự yên lặng. Âm thanh quá bất ngờ, ban đầu Eragon không nhận ra nó đang phát ra từ Orik. Tiếng cười dịu xuống, Orik nói, “Nếu chúng ta chống đối lại ông hay Az Sweldn rak Anhûin, ông sẽ coi đó là hành động chiến tranh ư, Vermûnd? Được thôi, vậy chúng tôi sẽ không chống đối lại ông, hoàn toàn không.”
Lông mày Vermûnd nhô ra. “Làm sao điều này lại cho ông sự thích thú đó?”
Orik lại cười khẽ. “Bởi tôi đã nghĩ đến một điều mà ông không nghĩ đến, Vermûnd. Ông muốn chúng tôi để yên cho ông và tộc của ông? Vậy tôi đề nghị với hội đồng rằng chúng ta sẽ làm theo nguyện vọng của ngài Vermûnd đây. Nếu Vermûnd đã tự hành động theo ý mình mà không phải trên danh nghĩa grimstborith, ông ta sẽ bị đày xử tử vì những tội lỗi của mình. Do đó, hãy để chúng tôi xét xử tộc của ông như đối với người đó; hãy để chúng tôi trục xuất Az Sweldn rak Anhûin khỏi trái tim và trí óc chúng tôi cho đến khi họ chọn thay thế Vermûnd bằng một grimstborith khác với khí chất có chừng mực hơn và cho đến khi họ công nhận hành vi đê hèn của mình và ăn năn về nó trước hội đồng thị tộc, cho dù chúng ta có phải chờ cả ngàn năm.”
Lớp da nhăn nheo quanh mắt Vermûnd tái đi. “Ông sẽ không dám đâu.”
Orik cười. “A, nhưng chúng tôi sẽ không đụng một ngón tay đến ông và đồng loại của ông. Chúng tôi chỉ đơn giản là phớt lờ ông và từ chối giao thương với Az Sweldn rak Anhûin. Ông sẽ tuyên chiến vì chúng tôi không làm gì cả chăng, Vermûnd? Vì nếu hội đồng nhất trí với tôi, đó chính xác là những gì chúng tôi sẽ làm: không gì cả. Ông sẽ dùng mũi kiếm bắt chúng tôi phải mua mật ong và vải và đồ trang sức thạch anh của ông chăng? Ông chẳng có lính để bắt chúng tôi phải làm thế.” Quay về phía những người còn lại ở bàn, Orik hỏi, “Các vị còn lại nói sao?”
Hội đồng thị tộc không mất nhiều thời gian để quyết định. Từng người một, các tộc trưởng đứng dậy và biểu quyết trục xuất Az Sweldn rak Anhûin. Thậm chí Nado, Gáldhiem, và Havard – cựu đồng minh của Vermûnd – cũng ủng hộ đề xuất của Orik. Với mỗi biểu quyết xác nhận, da mặt Vermûnd trước đó còn rõ nét trở nên càng lúc càng trắng bệch, cho đến khi ông ta trông như một con ma ăn vận trang phục kiếp trước của chính mình.
Khi biểu quyết đã xong, Gannel chỉ về phía cửa và nói, “Xéo đi, Vargrimstn Vermûnd. Hãy rời khỏi Tronjheim ngay hôm nay và mong không ai trong Az Sweldn rak Anhûin gây rắc rối cho hội động thị tộc cho đến khi họ đáp ứng những điều kiện chúng ta đã đặt ra. Cho đến lúc những điều đó xảy ra, chúng ta sẽ tẩy chay mọi thành viên của Az Sweldn rak Anhûin. Tuy nhiên, hãy biết điều này: kể cả tộc của ông có thể tự miễn thứ cho chính họ về sự hổ thẹn của mình, thì ông, Vermûnd, sẽ mãi mãi là Vargrimstn, thậm chí cho tới ngày chết của ông. Đó chính là ý nguyện của hội đồng thị tộc.” Tuyên bố xong, Gannel ngồi xuống.
Vermûnd ở nguyên chỗ cũ, vai ông ta rung lên với một cảm xúc mà Eragon không xác định được. “Chính các người mới là những kẻ đã làm ô danh và phản bội dòng giống,” hắn gầm gừ. “Bọn Kỵ sĩ giết tất cả người trong bộ tộc chúng ta, trừ Anhûin và những người lính của bà. Các người mong chúng ta quên điều này ư? Các người mong chúng ta tha thứ điều này ư? Ha! Ta nhổ lên nấm mồ tổ tiên các người. Chúng ta ít nhất cũng không để mất râu của chúng ta. Chúng ta sẽ không nhảy cẫng lên với cái con rối của đám thần tiên này trong khi những thành viên gia đình đã chết của chúng ta vẫn thét gọi sự báo thù.”
Phẫn nộ siết chặt Eragon khi không ai trong số các tộc trưởng đáp lại, và nó sắp sửa trả lời sự đả kích của Vermûnd với những lời cay nghiệt của chính nó khi Orik liếc nó và lắc đầu thật nhẹ. Một cách khó nhọc, Eragon cố kìm h.ãm cơn giận, mặc dù nó tự hỏi sao Orik lại để cho một sự sỉ nhục khốc liệt như vậy qua đi mà không phản bác.
Đó gần như là… Ồ.
Đẩy người khỏi bàn, Vermûnd đứng dậy, bàn tay cuộn lại thành nắm đấm và vai ông ta gù lên. Ông ta tiếp tục nói, nhiếc móc và miệt thị các tộc trưởng với sự căm giận tăng dần cho đến khi ông ta la lối thật lực.
Tuy vậy, dù những lời chửi rủa của Vermûnd tệ hại đến mức nào, các tộc trưởng vẫn không đáp lại. Họ nhìn chằm chằm vào khoảng không, như thể đang trầm tư về những tình huống khó xử phức tạp, và mắt họ trượt khỏi Vermûnd mà không dừng lại. Trong cơn thịnh nộ, khi Vermûnd túm vào ngực áo giáp của Hreidamar, ba trong số lính gác của Hreidamar nhảy tới và kéo Vermûnd ra, nhưng khi họ làm thế, Eragon nhận thấy biểu hiện của họ ôn tồn và không biến đổi, như thể họ chỉ đơn thuần là giúp Hreidamar làm ngay ngắn áo giáp của mình. Khi họ thả Vermûnd ra, những người lính không nhìn vào ông ta nữa.
Một cơn ớn lạnh trườn lên xương sống Eragon. Những người lùn hành động như thể Vermûnd đã ngừng tồn tại. Như vậy đây chính là ý nghĩa của việc bị trục xuất khỏi những người lùn. Eragon nghĩ nó thà bị giết còn hơn phải chịu đựng một số phận như thế, và trong một khoảnh khắc, nó cảm thấy một dao động vì thương hại Vermûnd, nhưng lòng thương hại của nó biến mất ngay khoảnh khắc tiếp theo khi nó nhớ lại vẻ mặt lúc chết của Kvîstor.
Chửi thề lần cuối cùng, Vermûnd sải bước ra khỏi phòng, theo sau bởi những người thuộc tộc của ông ta, đã hộ tống ông ta đến cuộc họp.
Không khí giữa các tộc trưởng khác lại thoải mái ngay khi hai cánh cửa đóng sập sau lưng Vermûnd. Một lần nữa những người lùn lại nhìn ngó xung quanh không hạn chế gì, và họ tiếp tục nói chuyện ầm ĩ, bàn tán xem họ sẽ cần làm gì tiếp với Az Sweldn rak Anhûin.
Rồi Orik gõ gõ lên mặt bàn bằng đốc con dao găm của mình, và mọi người quay lại để nghe ông. “Giờ chúng ta đã giải quyết xong Vermûnd, còn một vấn đề nữa tôi muốn hội đồng xem xét. Mục đích chúng ta tập hợp tại đây là để chọn ra người kế nhiệm Vua Hrothgar. Tất cả chúng ta đều có nhiều điều để nói về chủ đề này, nhưng tôi tin giờ là thời điểm chín muồi để dẹp lời nói ra sau và để hành động nói thay cho chúng ta. Vì vậy tôi kêu gọi hội đồng hãy quyết định liệu chúng ta đã sẵn sàng hay chưa – và theo ý tôi, chúng ta còn hơn cả sẵn sàng – để tiến hành cuộc biểu quyết cuối cùng ba ngày sau kể từ lúc này, theo như luật của chúng ta. Biểu quyết của tôi, như tôi đưa ra, là rồi.”
Freowin nhìn Hadfala, bà này đang nhìn Gannel, ông này đang nhìn Manndrâth, ông này đang giật giật cái mũi của mình và đang nhìn Nado, và ông này đang chìm sâu vào cái ghế của mình và nhai nhai bên trong má.
“Rồi,” Íorûnn nói.
“Rồi,” Ûndin nói.
“…Rồi,” Nado nói, và cả tám tộc trưởng còn lại cùng nói.
Vài giờ sau, khi hội đồng nghỉ ăn trưa, Orik và Eragon trở lại khu phòng của Orik để ăn. Không ai nói gì cho đến khi họ vào khu phòng, đã được phòng bị chống nghe trộm. Tại đó Eragon cho phép mình cười. “Ông đã lên kế hoạch trục xuất Az Sweldn rak Anhûin ngay từ đầu, đúng không?”
Vẻ thỏa mãn hiện trên mặt, Orik cũng cười và vỗ bụng. “Quả là vậy. Đó là hành động duy nhất tôi có thể thực hiện để không chắc chắn dẫn đến chiến tranh thị tộc. Chúng ta vẫn có thể có chiến tranh, nhưng sẽ không phải do chúng ta gây ra. Nhưng tôi không cho một tai họa như thế có thể xảy ra. Chỉ với mức độ ghét cậu, tôi nghĩ hầu hết Az Sweldn rak Anhûin sẽ hoảng sợ vì những gì Vermûnd đã làm trên danh nghĩa của họ. Tôi nghĩ ông ta sẽ không giữ chức grimstborith được lâu đâu.”
“Và bây giờ ông đã đảm bảo cuộc biểu quyết cho vị vua mới –”
“Hoặc nữ hoàng.”
“– hoặc nữ hoàng mới sẽ diễn ra.” Eragon ngập ngừng, miễn cưỡng làm vơi niềm vui chiến thắng của Orik, nhưng rồi nó hỏi, “Ông có thực sự có được hậu thuẫn cần thiết để giành ngôi không?”
Orik nhún vai. “Trước sáng nay, không ai có được sự hậu thuẫn cần thiết. Bây giờ cán cân đã chuyển rồi, và vào lúc này, sự đồng tình nằm bên chúng ta. Chúng ta cũng có thể tranh thủ thời cơ; chúng ta sẽ không bao giờ có một cơ hội ngon ăn hơn thế này đâu. Dù sao thì, chúng ta không thể để hội đồng thị tộc lề mề lâu thêm nữa. Nếu cậu không quay về Varden sớm, có thể sẽ mất tất cả.”
“Chúng ta sẽ làm gì trong lúc đợi cuộc biểu quyết?”
“Trước hết, chúng ta sẽ tổ chức ăn mừng thành công của chúng ta bằng một chầu,” Orik tuyên bố. “Sau đó khi ta đã no nê rồi, ta sẽ tiếp tục như trước: nỗ lực tập hợp thêm phiếu bầu trong khi giữ vững phần mà chúng ta đã giành được.”
Răng của Orik lóe lên màu trắng bên dưới mép bộ râu khi ông ta lại cười. “Nhưng trước khi chúng ta được nốc đến một ngụm rượu, cậu phải quan tâm một điều, mà cậu đã quên mất.” “Cái gì?” Eragon hỏi, khó hiểu vì sự khoái trá rõ ràng của Orik.
“Tại sao, cậu không triệu hồi Saphira đến Tronjheim, dĩ nhiên rồi! Dù tôi có trở thành vua hay không, chúng ta vẫn sẽ tôn lên một tân vương trong thời hạn ba ngày. Nếu Saphira định dự buổi lễ, nó sẽ phải bay gấp để có thể đến đây trước lúc đó.”
Kêu không thành tiếng, Eragon chạy đi tìm một cái gương
 
36.BẤT TUÂNĐất đen tươi tốt áp vào tay Roran mát lạnh. Anh nhặt một cục đất xốp và bóp vụn trong các ngón tay, công nhận rằng nó ẩm ướt và chứa đầy lá, thân cây, rêu, và các chất hữu cơ khác đang phân hủy, những thứ cung cấp thức ăn tuyệt hảo cho cây trồng. Anh áp nó vào môi và lưỡi mình. Vị rất sống động, chứa hàng trăm mùi vị khác nhau, từ núi nghiền vụn đến những con bọ hung và gỗ mục và phần chân rễ mềm mại của cỏ.
Đất trồng tốt đây , Roran nghĩ. Anh hồi tưởng về Thung lũng Palancar, và anh lại nhìn thấy mặt trời mùa thu lướt ngang qua ruộng lúa mạch bên ngoài căn nhà của gia đình mình - những hàng ngay ngắn thân cây vàng óng đu đưa trong gió nhẹ - với Sông Anora về phía tây và những đỉnh núi phủ tuyết nhô cao trên cả hai phía thung lũng. Đó là nơi mình nên ở, cày ruộng và xây dựng gia đình với Katrina, chứ không phải tưới mặt đất bằng chất lỏng từ chân tay người ta.
“Cậu kia!” Đội trưởng Edric quát, chỉ về phía Roran từ trên ngựa. “Thôi lãng phí thời gian đi, Cây-búa-dũng-mãnh, đừng để tôi phải đổi ý và cho cậu đứng gác với đám cung thủ!”
Phủi tay vào xà cạp, Roran đứng dậy từ tư thế quỳ. “Rõ, thưa ngài! Tuân lệnh!” anh nói, nén mối ác cảm của mình đối với Edric. Từ lúc gia nhập đội của Edric, Roran đã cố nắm bắt những gì có thể về lai lịch của người này. Theo những gì anh nghe được, Roran kết luận Edric là một chỉ huy giỏi – nếu không Nasuada đã không giao cho ông ta đảm trách một nhiệm vụ quan trọng thế này – nhưng ông ta có tính cách rất khó chịu, và ông ta kỷ luật lính của mình chỉ vì những sai lệch nhỏ nhất trong những bài luyện tập được đưa ra, Roran chán nản nhận ra điều đó sau ba dịp khác nhau trong ngày đầu tiên của mình với đội của Edric. Roran tin rằng, đó là một kiểu chỉ huy làm suy yếu tinh thần người lính, cũng như làm trì trệ óc sáng tạo và sáng kiến của những người dưới mình. Có khi Nasuada giao mình cho ông ta vì chính những lý do đó, Roran nghĩ. Hoặc có lẽ đây là một bài kiểm tra khác của cô ta. Có thể cô ta muốn biết liệu mình có thể nén được kiêu hãnh lại đủ lâu mà làm việc với một người như Edric hay không.
Trở lên lưng Hỏa Tuyết, Roran đi đến phía trước hàng dọc gồm hai trăm năm mươi người. Nhiệm vụ của họ rất đơn giản; vì Nasuada và Vua Orrin đã rút phần lớn lực lượng ra khỏi Surda, Galbatorix có vẻ đã quyết định tranh thủ sự vắng mặt của họ và tàn phá khắp đất nước vô phương tự vệ, cướp bóc các thị trấn và làng mạc và thiêu rụi những cây trồng cần thiết để hậu thuẫn cho cuộc xâm chiếm Đế quốc. Cách đơn giản nhất để loại bọn lính là cho Saphira bay ra mà xé xác chúng thành từng mảnh, nhưng trừ khi nó bay đến chỗ Eragon, chứ mọi người đều nhất trí rằng sẽ rất nguy hiểm cho Varden nếu vắng ả rồng quá lâu. Vì thế Nasuada đã gửi đội của Edric đến để đẩy lui bọn lính, và quân số của chúng, theo như các gián điệp của Nasuada đã ước lượng lúc đầu, là vào khoảng ba trăm. Tuy nhiên, hai ngày trước, Roran và những người lính còn lại đã hoảng vía khi bắt gặp những dấu vết chỉ ra rằng lực lượng của Galbatorix là gần tới bảy trăm.
Roran gò cương Hỏa Tuyết đến bên Carn đang ngồi trên con ngựa cái có đốm vừa gãi cằm vừa nghiên cứu địa hình.
Trước mặt họ là một thảm cỏ gợn sóng rộng mênh mông, điểm trên đó lác đác một vài cây liễu và cây dương. Diều hâu săn mồi từ trên cao, trong khi bên dưới, thảm cỏ đầy những tiếng rít của chuột, thỏ, những con gặm nhấm đang đào bới, và những con thú hoang khác. Bằng chứng duy nhất cho thấy con người đã từng tới đây là những vệt cỏ bị giẫm đạp hướng về chân trời phía đông, đánh dấu đường đi của bọn lính.
Carn liếc nhìn mặt trời ban trưa, da quanh đôi mắt ủ rũ co lại khi anh nheo mắt. “Ta phải bắt kịp chúng trước khi bóng dài hơn chiều cao của ta.”
“Và rồi chúng ta sẽ khám phá ra liệu bên ta có đủ đông mà dẹp được chúng không,” Roran lẩm bẩm, “hay là chúng sẽ đè bẹp chúng ta. Chỉ lần này thôi, tôi muốn ta đông hơn nó.”
Một nụ cười nham hiểm hiện trên mặt Carn. “Với Varden thì luôn là vậy.”
“Vào hàng!” Edric hét lớn, thúc ngựa đi xuống vệt đường dẫn xuyên qua thảm cỏ. Roran ngậm chặt miệng và thúc gót chân vào sườn Hỏa Tuyết khi đoàn quân theo bước người đội trưởng.
Sáu giờ sau, Roran ngồi trên Hỏa Tuyết, nấp bên trong một nhóm cây sồi mọc dọc theo bờ một dòng suối nhỏ phẳng lặng đầy những bụi cói và tảo nổi. Qua mớ cành cây đan xen trước mặt, Roran nhìn chăm chú một ngôi làng đổ nát với không hơn hai mươi căn nhà. Roran quan sát với cơn giận càng lúc càng tăng khi các dân làng đã phát hiện ra đám quân lính đang tiến tới từ phía tây, rồi thu gom vài bọc tài sản và chạy trốn về phía nam, hướng tới trung tâm Surda. Nếu Roran có quyền quyết định, anh sẽ cho dân làng biết sự có mặt của họ và đảm bảo rằng họ sẽ không phải mất nhà của mình, nếu như anh và những người đồng hành có thể ngăn chặn điều đó Anh nhớ rõ nỗi đau và sự tuyệt vọng cũng như cảm giác vô vọng khi anh rời bỏ Carvahall, và anh sẽ giúp họ thoát khỏi điều đó nếu anh có thể. Anh cũng sẽ yêu cầu đàn ông trong làng chiến đấu cùng mình. Thêm mười hay hai chục bộ vũ khí nữa có thể đồng nghĩa với sự khác biệt giữa chiến thắng và chiến bại, và Roran biết rõ hơn hầu hết mọi người về lòng hăng hái khi người ta chiến đấu để bảo vệ nhà của mình. Tuy nhiên, Edric đã phản đối ý kiến đó và nhất quyết rằng Varden phải ẩn nấp trong những ngọn đồi phía đông nam của làng.
“May là chúng đi bộ,” Carn lẩm bẩm, nói về cột quân lính màu đỏ đang diễu hành về phía ngôi làng. “Chứ không chúng ta sẽ không đến đây trước được.” Roran liếc nhìn lại những người đang tập trung sau lưng. Edric đã cho anh quyền chỉ huy tạm thời đối với tám mươi mốt người lính. Trong số họ có người dùng kiếm, dùng giáo, và nửa tá cung thủ. Một trong những người bạn của Edric, Sand, chỉ huy một đội tám mươi mốt người nữa, trong khi Edric đích thân lãnh đạo phần còn lại. Cả ba nhóm tập trung co cụm giữa đám cây sồi, và Roran nghĩ đó là một sai lầm; khi họ phá bỏ thế yểm trợ thì thời gian để sắp xếp đội hình sẽ chính là thời gian cho bọn lính bố trí phòng thủ.
Nghiêng đầu về phía Carn, Roran nói, “Tôi không thấy tên nào có dấu hiệu bị cụt tay què chân hay thương tích đáng kể gì khác, nhưng thế cũng chẳng chứng tỏ được gì. Cậu có thấy bất cứ tên nào là người không biết đau không?”
Carn thở dài. “Ước gì tôi thấy. Em họ anh thì được, vì Murtagh và Galbatorix là hai pháp sư duy nhất mà Eragon nên sợ, còn tôi chỉ là một pháp sư quèn, mà tôi cũng không dám kiểm tra bọn lính. Nếu có pháp sư cải trang trong bọn, chúng sẽ biết tôi do thám ngay, và khả năng là tôi không thể phá được tâm trí của chúng trước khi chúng báo động cho đồng bọn là ta đang ở đây.”
“Có vẻ mỗi lần chuẩn bị đánh nhau chúng ta đều có cuộc thảo luận này,” Roran nhận xét, quan sát lực lượng của bọn lính và cố quyết định xem dàn quân thế nào là tốt nhất.
Carn cười, nói, “Không sao. Tôi chỉ hy vọng chúng ta cứ thảo luận thế đi, bởi vì nếu không –”
“Một hoặc cả hai ta đã toi –”
“Hoặc Nasuada đã chia lại chúng ta sang hai đội trưởng khác nhau –”
“Rồi sau có thể chúng ta vẫn toi, bởi vì sẽ chẳng có ai yểm trợ chúng ta,” Roran kết luận. Một nụ cười nở trên môi. Đó đã là trò đùa quen thuộc của họ. Anh rút búa ra khỏi thắt lưng và nhăn mặt khi cái chân trái của anh nhói đau ở chỗ mà con bò đã dùng sừng làm rách thịt anh. Cau có, anh với tay xuống xoa bóp chỗ đau.
Carn nhìn thấy liền nói, “Ổn chứ?”
“Không giết được tôi đâu,” Roran nói, rồi cân nhắc lại lời của mình. “À, có thể có, nhưng quỷ tha ma bắt tôi đi nếu tôi đợi ở đây trong khi cậu ra xẻ thịt mấy con lừa lóng ngóng kia.”
Khi bọn lính tới làng, chúng đi thẳng qua, chỉ dừng lại để phá cửa chính mỗi nhà và ngó vào các phòng xem có ai trốn bên trong không. Một con chó chạy ra từ sau một cái thùng đựng nước mưa, lông cổ dựng đứng, bắt đầu sủa bọn lính. Một tên trong bọn bước tới trước phi cây giáo của hắn ra, giết chết con chó.
Ngay lúc tên đầu tiên trong bọn lính tiến đến đầu kia làng, Roran siết chặt tay quanh cán búa, sẵn sàng xông trận, nhưng rồi anh nghe thấy một tràng những tiếng la chói lói, và một cảm giác sợ hãi túm chặt lấy anh. Một toán lính đi ra từ căn nhà áp chót, kéo theo ba người đang vùng vẫy: một người đàn ông tóc bạc cao gầy, một phụ nữ trẻ áo cánh tả tơi, và một thằng nhỏ không hơn mười một tuổi.
Mồ hồi túa ra trên trán Roran. Bằng một giọng đều đều, thấp và chậm, anh bắt dầu nguyền rủa, nguyền rủa ba nạn nhân vì đã không bỏ trốn cùng làng xóm, nguyền rủa bọn lính vì những gì bọn chúng đã làm và có thể sắp làm, nguyền rủa Galbatorix, và nguyền rủa bất cứ ý tưởng nào của số phận đã gây nên tình cảnh như thế này. Sau lưng anh, anh ý thức được đồng đội của anh cựa quậy và lẩm bẩm giận dữ, nóng lòng muốn trừng trị bọn lính vì sự tàn bạo của chúng.
Lục soát hết các nhà, bọn lính quay lại đường cũ đến giữa làng và lập thành một nửa hình tròn nham nhở vây quanh các tù nhân của chúng.
Hay! Roran thầm reo lên khi bọn lính quay lưng lại nhóm Varden. Kế hoạch của Edric chính là chờ cho chúng làm vậy. Trong trạng thái sẵn sàng phát lệnh tấn công, Roran nhỏm người khỏi yên cương khoảng chục phân, toàn thân căng lên. Anh cố nuốt, nhưng cổ họng quá khô.
Tên sĩ quan chỉ huy bọn lính, tên duy nhất ngồi trên ngựa, xuống ngựa và trao đổi vài lời không thể nghe thấy với người đàn ông tóc bạc. Không hề cảnh báo, tên sĩ quan rút thanh kiếm cong và chặt đầu người đàn ông, rồi bật lùi lại để tránh dòng máu phun ra. Người phụ nữa thét lên thậm chí còn lớn hơn trước đó.
“Xông lên,” Edric nói.
Roran mất nửa giây mới lĩnh hội được từ mà Edric vừa điềm tĩnh thốt ra chính là câu lệnh mà anh đang chờ đợi.
“Xông lên!” Sand hét lên phía bên kia Edric, phi nước đại ra khỏi bãi sồi cùng với người của mình.
“Xông lên!” Roran hét, thúc gót vào sườn Hỏa Tuyết. Anh cúi người đằng sau tấm khiên của mình khi Hỏa Tuyết chở anh lao xuyên qua đám cành cây, rồi lại hạ khiên xuống khi đã ra ngoài, phi xuống sườn đồi, với tiếng móng ngựa vang rền xung quanh. Tha thiết muốn cứu mạng người phụ nữ và cậu bé, Roran thúc Hỏa Tuyết phi hết tốc độ. Nhìn lại, anh phấn khởi thấy nhóm của anh đã tách khỏi nhóm Varden còn lại mà không có vấn đề gì nhiều; ngoài vài người bị tụt lại sau, còn phần lớn tập hợp lại thành một nhóm duy nhất không tới chục thước sau lưng anh.
Roran lướt mắt sang Carn đang cưỡi ngựa trong nhóm tiên phong của Edric, cái áo choàng xám của anh ta tung phần phật trong gió. Một lần nữa, Roran ước gì Edric cho họ được ở cùng một nhóm.
Theo lệnh của ông ta, Roran không đâm thẳng vào làng, mà hơi lái sang trái và đi vòng qua các nhà để ép sườn bọn lính và tấn công từ một hướng khác. Sand cũng làm vậy ở cánh phải, trong khi Edric và lính của ông xông thẳng vào làng.
Một dãy nhà che khuất những tiếng va chạm lúc đầu, nhưng Roran nghe thấy những tiếng la hét đồng thanh vang lên, rồi một chuỗi những tiếng tưng tưng kim loại kỳ lạ, và tiếp đến là tiếng la hét của người và ngựa.
Bụng dạ Roran rối lên vì lo lắng. Tiếng gì thế? Chẳng lẽ là cung kim loại? Có cả món này sao? Không bận tâm đến nguyên nhân, anh biết lẽ ra không thể có nhiều tiếng ngựa kêu đau như thế. Tay chân anh phát lạnh khi nhận ra với sự chắc chắn tuyệt đối rằng cuộc tấn công đã gặp rắc rối và trận chiến có thể đã thất bại rồi.
Anh giật mạnh cương Hỏa Tuyết khi họ đi ngang ngôi nhà cuối cùng, hướng con ngựa về phía trung tâm làng. Sau lưng anh, người của anh cũng làm theo. Hai trăm thước trước mặt, Roran thấy ba hàng lính đang đóng giữa hai ngôi nhà, chặn đường họ. Bọn lính có vẻ không hề sợ sệt những con ngựa đang lao về phía chúng.
Roran lưỡng lự. Lệnh cho anh rất rõ ràng: anh và người của anh lo sườn phía tây và mở đường xuyên thủng đội quân của Galbatorix cho đến khi họ nhập lại với Sand và Edric. Nhưng Edric đã không cho Roran biết anh phải làm gì trong trường hợp lao thẳng vào bọn lính không còn có vẻ là một ý tưởng hay nữa, khi anh và người của mình đã vào vị trí rồi. Và Roran biết nếu anh làm trái lệnh đã ra, kể cả là để ngăn người của anh khỏi bị tàn sát, anh sẽ mắc tội bất tuân thượng lệnh và Edric có thể trừng trị anh vì điều đó.
Rồi bọn lính quẳng những cái áo choàng lụng thụng của chúng sang một bên và đưa nỏ lên vai.
Khoảnh khắc đó, Roran quyết định anh sẽ làm bất cứ điều gì để đảm bảo rằng Varden sẽ thắng trận này. Anh sẽ không để bọn lính tiêu diệt lực lượng của anh với một loạt tên duy nhất chỉ vì anh muốn tránh những hậu quả không dễ chịu của việc trái lệnh đội trưởng.
“Nấp ngay!” Roran hét lên, giật mạnh đầu Hỏa Tuyết sang phải, bắt con vật ngoặt ra phía sau ngôi nhà. Một tá mũi tên găm vào mặt bên căn nhà chỉ một giây sau đó. Nhìn quanh, Roran thấy tất cả lính của mình đã xoay sở cúi xuống sau mấy ngôi nhà gần đó trước khi bọn lính bắn, chỉ trừ một người. Người lính quá chậm chân này nằm đổ máu trên đất, hai mũi tên xuyên qua ngực anh ta. Mũi tên đục thủng áo giáp anh ta như thể nó không dày hơn một mảnh giấy lụa. Hoảng sợ vì mùi máu, ngựa của anh ta tung vó lên và trốn khỏi làng, để lại một đám bụi cuộn lên phía sau.
Roran với tay lên túm lấy cạnh một cái xà ở mặt bên căn nhà, giữ Hỏa Tuyết đứng yên một chỗ trong khi anh tuyệt vọng cố tính toán cách hành động. Bọn lính đã trói chân anh và đồng đội; họ không thể bước trở ra khoảng trống mà không bị lãnh tên khắp người, họ sẽ biến thành nhím ráo.
Một nhóm lính của Roran tiến đến chỗ anh từ một căn nhà được căn của anh che một phần khỏi tầm nhìn của bọn lính. “Làm sao đây, Cây-búa?” họ hỏi. Họ không có vẻ khó chịu với việc anh đã làm trái lệnh; ngược lại, họ nhìn anh với biểu hiện của một sự tín nhiệm mới.
Nghĩ nhanh hết sức, Roran đưa mắt nhìn xung quanh. Anh chợt nhìn thấy một cây cung cùng một ống đựng tên buộc sau yên ngựa của một người trong nhóm. Roran mỉm cười. Chỉ vài người trong nhóm là cung thủ, nhưng tất cả bọn họ đều mang theo cung tên để săn bắn lấy thức ăn và giúp nuôi quân khi họ đang ở giữa nơi hoang dã mà không có hỗ trợ từ nhóm Varden.
Roran chỉ căn nhà anh đang tựa vào và nói, “Lấy cung của các anh rồi trèo lên mái, vừa bao nhiêu người thì lên bấy nhiêu, nhưng nếu các anh quý trọng mạng mình, hãy ở ngoài tầm nhìn cho đến khi tôi bảo làm ngược lại. Và khi tôi bảo, hãy bắn và cứ bắn cho đến lúc các anh hết sạch tên hoặc cho đến khi tên cuối cùng chết. Hiểu chứ?”
“Rõ, thưa ngài!”
“Vậy đi đi. Những người còn lại, tìm các căn nhà mà các anh có thể tận dụng để tỉa bớt bọn lính. Harald, nói cho tất cả mọi người biết, rồi tìm mười người dùng giáo và mười người dùng kiếm giỏi nhất trong số ta và đưa họ đến đây càng nhanh càng tốt.”
“Tuân lệnh!”
Với tác phong nhanh nhẹn, người lính vội vàng thi hành. Những người gần Roran nhất lấy cung và ống tên của họ từ sau yên cương rồi đứng lên lưng ngựa, trèo lên mái tranh của căn nhà. Bốn phút sau, phần lớn người của Roran đã vào vị trí trên mái của bảy căn nhà khác nhau – khoảng tám người một mái – và Harald đã quay lại cùng với số người được yêu cầu.
Roran nói với những người lính đang tụ tập quanh anh, “Rồi, giờ nghe đây. Khi tôi phát lệnh, những người ở trên sẽ bắt đầu bắn. Ngay khi mũi tên đầu tiên bay vào bọn lính, chúng ta sẽ xông ra và cố giải cứu Đội trưởng Edric. Nếu ta không thể, ta sẽ phải làm sao cho mấy cái áo đỏ kia biết mùi thép lạnh. Các cung thủ chắc sẽ làm bọn lính bối rối đủ cho ta lại gần chúng trước khi chúng kịp dùng đến mấy cái nỏ. Hiểu rồi chứ?”
“Rõ, thưa ngài!”
“Thế thì bắn!” Roran hét lên.
Với những tiếng thét đến lạc giọng, những người lính trên mấy căn nhà nhô ra khỏi rìa mái và đồng loạt nhả tên vào bọn lính phía dưới. Cơn mưa tên rít lên trong không khí như những con chim bách thanh khát máu lao xuống con mồi của mình.
Một khoảnh khắc sau, khi những tên lính bắt đầu gào thét đau đớn vì những vết thương, Roran nói, “Giờ xông lên!” và nện gót chân vào Hỏa Tuyết.
Cùng nhau, anh và người của mình phi nước đại vòng qua căn nhà, kéo những con chiến mã của mình quẹo ngặt đến mức họ gần như lộn nhào. Trông cậy vào tốc độ của mình và trình độ của những cung thủ bên trên, Roran lượn vòng qua đám lính, chúng đang vùng vẫy một cách hỗn loạn, cho đến khi anh đến địa điểm cuộc tấn công tai họa của Edric. Mặt đất ở đó loang đầy máu, và những xác chết của rất nhiều chiến binh chiến mã rải rác khắp khoảng trống giữa các căn nhà. Lực lượng còn sót lại của Edric đang phải đánh giáp lá cà với bọn lính. Roran ngạc nhiên thấy Edric vẫn còn sống, đang chung lưng chiến đấu với năm người lính của ông.
“Đi cùng tôi!” Roran hét lên với những người đi cùng anh khi họ lao vào trận chiến.
Bằng hai cú đá bất ngờ, Hỏa Tuyết hạ gục hai tên lính, đánh gãy tay cầm kiếm và phá thủng lồng ngực chúng. Hài lòng với chiến mã, Roran quai búa tứ tung, gầm gừ trong sự hân hoan điên cuồng của trận chiến khi anh đốn ngã hết tên này đến tên khác, không một tên nào có thể trụ được trước những cú đánh tàn bạo của anh. “Theo tôi!” anh hét lên khi anh lên ngang hàng với Edric và những người còn sống sót khác. “Theo tôi!” Trước mặt anh, trận mưa tên vẫn tiếp tục đổ xuống bọn lính, buộc chúng phải che chắn bằng khiên đồng thời cố gắng né gạt những thanh kiếm và mũi giáo của quân Varden.
Khi anh và lính của mình đã vây quanh nhóm Varden đang đứng, Roran hét lên, “Lui! Lui! Về chỗ mấy cái nhà!” Từng bước một, tất cả bọn họ rút lui cho đến khi họ ở ngoài tầm chém của bọn lính, và rồi họ quay đầu chạy thẳng về phía căn nhà gần nhất. Bọn lính bắn và giết mất ba người Varden trên đường chạy, nhưng số còn lại đến được căn nhà mà không bị thương tích gì.
Edric ngồi sụp xuống cạnh căn nhà, hớp hơi để thở. Khi đã nói lại được, ông ra dấu về phía người của Roran và nói, “Can thiệp rất đúng lúc và rất được hoan nghênh, Cây-búadũng-mãnh, nhưng sao ta lại thấy cậu ở đây, mà không phi ra từ giữa đám lính, như ta trông đợi?”
Rồi Roran giải thích những việc mình đã làm và chỉ cho ông thấy các cung thủ trên mái nhà. Trán Edric sa sầm khi ông nghe Roran báo cáo. Tuy nhiên ông không truy cứu Roran vì tội bất tuân của mình mà chỉ nói, “Cho những người kia xuống ngay. Họ đã thành công trong việc phá hàng ngũ bọn lính. Giờ chúng ta phải trông cậy vào việc chơi kiếm trung thực để loại chúng.”
“Chúng ta còn quá ít người để tấn công trực tiếp bọn lính!” Roran phản đối. “Chúng áp đảo ta còn hơn ba trên một.”
 
“Thế thì ta sẽ lấy can trường bù số lượng!” Edric rống lên. “Ta được biết là cậu có can đảm, Cây-búa-dũng-mãnh, nhưng rõ ràng lời đồn đã lầm và cậu nhát như một con thỏ đế đang run vậy. Giờ thì làm như ta nói, và đừng chất vấn ta lần nữa!” Người đội trưởng chỉ một người của Roran. “Cậu kia, cho ta mượn con ngựa.” Sau khi người lính xuống ngựa, Edric trèo lên và nói, “Một nửa số các cậu lên ngựa, theo ta; ta đi tiếp viện cho Sand. Những người khác, ở lại với Roran.” Đá vào sườn con ngựa, Edric phi nước đại cùng những người ông chọn theo, phi từ nhà này sang nhà khác khi tìm đường đi vòng qua đám lính đang túm tụm ở trung tâm ngôi làng.
Roran lắc đầu tức giận nhìn họ rời đi. Anh chưa từng bao giờ để cho ai chất vấn lòng can đảm của mình mà không đáp lại lời chỉ trích bằng lời hoặc bằng những cú đánh. Tuy nhiên khi mà trận chiến còn tiếp diễn thì sẽ không thích đáng cho anh đối đầu với Edric. Được lắm, Roran nghĩ, ta sẽ cho Edric thấy lòng can đảm mà ông ta tưởng mình thiếu. Nhưng đó sẽ là tất cả những gì ông ta lấy được của mình. Mình sẽ không cho cung thủ ra đối mặt với bọn lính khi mà ở vị trí hiện giờ họ an toàn hơn và hiệu quả hơn.
Roran quay lại xem xét những người mà Edric đã để lại cho anh. Trong số những người mà họ cứu được, Roran mừng vì thấy Carn, trầy xước và máu me, nhưng về tổng thể, vô sự. Họ gật đầu với nhau, và Roran nói với cả nhóm: “Các anh đã nghe Edric nói đấy. Tôi không đồng ý. Nếu làm theo ý ông ta, tất cả chúng ta sẽ tàn đời thành một đống trước khi mặt trời lặn. Chúng ta vẫn có thể thắng trận này, nhưng không phải bằng cách bước thẳng vào chỗ chết! Chúng ta thiệt về số lượng, thì có thể bù lại bằng khôn ngoan. Các anh biết tôi đã đến gia nhập Varden như thế nào. Các anh biết tôi đã từng chiến đấu và đánh bại Đế quốc, và chỉ trong một làng như vậy thôi! Chuyện này tôi làm được, tôi thề với các anh. Nhưng tôi không thể làm một mình. Các anh có theo tôi không? Nghĩ kĩ đi. Tôi sẽ nhận trách nhiệm vì bỏ qua lệnh của Edric, nhưng ông ta và Nasuada có thể vẫn trừng phạt bất cứ ai có liên quan.”
“Thế thì họ là đồ ngốc,” Carn làu bàu. “Họ thích chúng ta chết ở đây à? Không, tôi nghĩ là không. Anh có thể tin tưởng tôi, Roran.”
Ngay khi Carn tuyên bố, Roran thấy những người khác giữ thẳng vai, cân lại hàm và mắt họ bừng cháy với quyết tâm mới, và anh biết họ đã quyết định chia sẻ số phận với anh, cho dù là vì họ không muốn bị tách ra khỏi pháp sư duy nhất của đội. Rất nhiều người là những chiến sĩ Varden đã nợ ơn cứu mạng của một thành viên trong Du Vrangr Gata, và những kỵ binh mà Roran đã gặp thà tự đâm vào chân mình còn hơn là ra chiến trận mà không có một pháp sư ở kề bên.
“Được,” Harald nói. “Anh cũng có thể tin tôi, Cây-búa-dũng-mãnh.”
“Vậy theo tôi!” Roran nói. Với tay xuống, anh kéo Carn lên lưng Hỏa Tuyết ngồi sau anh, rồi khẩn trương đưa nhóm của mình quay lại vòng qua làng đến chỗ những cung thủ trên mái nhà, họ vẫn tiếp tục bắn tên vào bọn lính. Trong lúc Roran và người của anh phi từ nhà này sang nhà khác, các mũi tên vù vù sướt qua họ – âm thanh nghe như những con côn trùng khổng lồ giận dữ – và một cái thậm chí còn xuyên một nửa qua khiên của Harald.
Khi họ đã an toàn sau chỗ nấp, Roran bảo những người trên ngựa đưa cung tên cho những người dưới đất, và những người này lại trèo lên mái tham gia với các cung thủ kia. Khi họ trèo lên theo lời anh, Roran ra hiệu với Carn, anh này đã nhảy khỏi Hỏa Tuyết ngay khi họ dừng lại, và nói, “Tôi cần một thần chú của cậu. Cậu có thể che chắn cho tôi và mười người khác khỏi bị tên bắn không?”
Carn ngần ngừ. “Bao lâu?” “Một phút? Một giờ? Ai mà biết?”
“Che chắn từng đấy người khỏi một nắm tên thôi sẽ nhanh chóng vượt quá giới hạn của tôi… Nhưng nếu anh không phiền việc tôi chặn những mũi tên trên đường bay, tôi có thể bẻ hướng của chúng khỏi các anh, như thế –”
“Thế cũng được.”
“Chính xác anh muốn tôi bảo vệ ai?”
Roran chỉ những người anh chọn để đi cùng mình, và Carn hỏi tên từng người họ. Đứng gù vai lên, Carn bắt đầu lẩm nhẩm bằng cổ ngữ, mặt tái đi và căng thẳng. Ba lần anh ta cố tung phép, nhưng cả ba lần đều hỏng. “Xin lỗi,” anh nói, run run thở ra. “Tôi không tập trung được.”
“Chết tiệt, đừng xin lỗi,” Roran làu bàu. “Cứ làm đi!” Nhảy khỏi Hỏa Tuyết, anh nắm lấy hai bên đầu Carn, giữ anh ta đứng yên. “Nhìn tôi này! Nhìn thẳng vào mắt tôi này. Đúng rồi. Cứ nhìn tôi… Tốt. Giờ đặt phép xung quanh chúng tôi đi.”
Nét mặt Carn thư thái và vai anh thả lỏng, rồi với một giọng tự tin, anh lặp lại câu thần chú. Ngay khi bật ra từ cuối cùng, anh khẽ đổ vào tay Roran trước khi hồi phục lại. “Xong rồi,” anh nói.
Roran vỗ nhẹ vào vai anh ta, rồi lại trèo lên Hỏa Tuyết. Lướt mắt qua mười kỵ sĩ, anh nói, “Yểm trợ sau lưng và hai cánh của tôi, nhưng cứ ở sau tôi chừng nào mà tôi vẫn còn vung được búa.”
“Tuân lệnh!”
“Hãy nhớ, những mũi tên không thể làm hại được các anh nữa. Carn, cậu ở đây. Đừng cử động quá nhiều; giữ sức đi. Nếu cậu thấy không thể duy trì được thần chú nữa, ra hiệu cho chúng tôi trước khi cậu kết thúc. Đồng ý không?”
Carn ngồi trên bậc cửa của căn nhà, gật đầu. “Đồng ý.”
Siết lại tay quanh khiên và búa, Roran hít thật sâu, cố trấn tĩnh. “Cố lên nào,” anh nói, và chắt lưỡi cho Hỏa Tuyết chạy.
Với mười người lính cưỡi ngựa sau lưng, Roran phi ra giữa con đường đất chạy giữa các căn nhà và đối diện bọn lính một lần nữa. Năm trăm tên hay khoảng đó trong đoàn quân của Galbatorix vẫn đang ở trung tâm ngôi làng, hầu hết bọn chúng đều cúi hoặc quỳ đằng sau khiên của mình trong khi cố gắng lên lại nỏ. Thỉnh thoảng một tên lại đứng lên và nhả một mũi về phía các cung thủ trên mái nhà trước khi lại thụp xuống đằng sau cái khiên khi một mũi tên xé gió bay qua chỗ hắn vừa mới đứng. Khắp khoảng trống vương xác người, những mũi tên rải rác đầy mặt đất như lau sậy đâm ra từ đất đẫm máu. Vài chục thước phía bên kia bọn lính, Roran có thể thấy một nhóm th.ân thể vùng vẫy, và anh cho rằng đó là chỗ mà Sand, Edric, và bất cứ thứ gì còn lại trong lực lượng của họ đang chiến đấu với bọn lính. Nếu người phụ nữ trẻ và cậu bé đang ở trong khoảng trống, anh không nhận ra họ.
Một mũi tên lao đến Roran. Khi mũi tên còn cách ngực anh không tới một thước, nó đột ngột đổi hướng và bay nghiêng đi, trượt khỏi anh và đồng đội. Roran nao núng, nhưng mũi tên đã bay qua rồi. Họng anh nghẹn lại, và nhịp tim tăng gấp đôi.
Liếc xung quanh, Roran phát hiện một cái xe hàng đổ vỡ tựa vào một căn nhà bên tay trái. Anh chỉ vào nó và nói, “Kéo cái kia ra đây và lật ngược nó lại. Chắn bớt càng nhiều đường càng tốt.” Anh hét lên với các cung thủ, “Đừng để bọn lính lẻn sang đánh từ hai cánh! Lúc nào chúng xông vào ta, làm mỏng lực lượng chúng đi càng nhiều càng tốt. Còn lúc nào hết tên là xuống gia nhập với bọn tôi ngay lập tức!”
“Rõ!”
“Coi chừng bắn nhầm bọn tôi, không tôi thề là sẽ ám nhà các anh đến ngày tận thế!”
“Rõ!”
Thêm nhiều mũi tên nữa bay vào Roran và những người lính, nhưng trong mọi trường hợp các mũi tên đều trượt khỏi vòng bảo vệ của Carn và đổi hướng đâm vào tường hoặc xuống đất hoặc biến luôn lên trời.
Roran nhìn người của anh kéo cái xe hàng ra đường. Khi họ gần xong, anh ngẩng đầu, hít hơi đầy phổi, rồi hướng giọng nói về phía bọn lính, anh rống lên, “Này bọn chó thối tha rúm ró kia! Xem mười một người bọn ta chặn đường bọn mày đây. Thắng bọn tao, thì bọn mày sẽ được tự do. Thử dùng tay đi nếu chúng mày có gan. Sao? Do dự à? Dũng khí đàn ông của chúng mày đâu rồi, bọn giòi bọ biến dạng, bọn sát nhân mặt heo bệnh hoạn kia? Cha chúng mày là đồ ngu si chảy nhớt đáng lẽ phải chết chìm từ lúc mới sinh! Đúng, và mẹ chúng mày là đồ rác rưởi vô giá trị, là thê thiếp của lũ Urgals!”
Roran cười thỏa mãn khi vài tên trong bọn lính hú lên giận dữ và bắt đầu nhục mạ lại anh. Tuy nhiên, một tên trong bọn có vẻ đã mất tinh thần chiến đấu tiếp, vì hắn bật dậy và chạy về phía bắc, che chắn mình bằng cái khiên và nhảy nhặng xị từ bên này sang bên kia trong nỗ lực tuyệt vọng tránh né các cung thủ. Bất chấp nỗ lực của hắn, nhóm Varden bắn hắn chết tươi trước khi hắn chạy được hơn ba mươi thước.
“Ha!” Roran kêu lên. “Đồ hèn, tất cả chúng mày, đồ chuột sông chấy rận! Nếu tin này cho chúng mày thêm can đảm, thì cho chúng mày biết: Roran Cây-búa-dũng-mãnh là tên của tao, và Eragon Khắc-tinh của Tà-thần là em họ tao! Giết được tao, lão vua thối tha đó sẽ thưởng chúng mày chức bá tước đấy, có khi còn hơn. Nhưng chúng mày sẽ phải giết tao với một lưỡi gươm; nỏ của chúng mày không ích gì với tao đâu. Tới đi, đồ ốc sên; đồ con đỉa; đồ ve trắng chết đói! Tới hạ tao đi nếu chúng mày có thể!”
Những tiếng hét xông trận vang lên xôn xao, một nhóm ba chục tên lính liệng mấy cây nỏ đi, rút những thanh kiếm sáng loáng ra, và, khiên giơ cao, chạy về phía Roran và người của anh.
Qua vai phải của mình, Roran nghe Harald nói, “Thưa ngài, chúng đông hơn ta nhiều.” “Đúng,” Roran nói, dán chặt mắt vào bọn lính. Bốn tên trong số chúng vấp ngã và nằm bất động trên đất, bị xuyên thủng bởi vô số mũi tên.
“Nếu cả bọn đánh cùng một lúc, chúng ta không có cơ đâu.”
“Đúng, nhưng không đâu. Nhìn xem, chúng bối rối và mất tổ chức rồi. Chắc chỉ huy của chúng gục rồi. Miễn là chúng ta giữ vững đội hình, chúng không đè bẹp được ta đâu.”
“Nhưng mà, Cây-búa, chúng ta cũng không thể giết hết từng đấy tên được!”
Roran liếc Harald ở phía sau. “Chắc chắn có thể! Chúng ta chiến đấu để bảo vệ gia đình chúng ta và để giành lại nhà và đất của chúng ta. Còn chúng chiến đấu là vì Galbatorix bắt chúng làm thế. Chúng không có được trái tim cho trận đánh này. Cho nên hãy nghĩ về gia đình anh, nghĩ về nhà anh, và nhớ rằng anh đang bảo vệ những điều đó. Một người đàn ông chiến đấu vì những điều lớn lao hơn bản thân anh ta có thể giết bay cả trăm tên lính!” Trong lúc nói, Roran nhìn thấy trong tâm trí anh hình ảnh Katrina trong bộ váy cưới màu xanh dương, và anh ngửi thấy hương thơm từ da cô, và anh nghe thấy giọng nói câm lặng của cô trong cuộc nói chuyện của họ khuya đêm đó.
Katrina.
Rồi bọn lính đã ở trước mặt họ, và trong một lát Roran không nghe thấy gì ngoài những tiếng thịch thịch của kiếm nảy ra khỏi khiên của anh và tiếng loảng xoảng khi búa của anh giộng xuống mũ sắt và những tiếng kêu la của bọn lính khi chúng bẹp rúm dưới búa của anh. Bọn lính quăng mình vào anh với sức mạnh tuyệt vọng, nhưng chúng không phải đối thủ của anh và đồng đội. Khi anh hạ gục tên lính cuối cùng, Roran phá ra cười phấn khởi. Thực là vui khi được nghiền nát những kẻ sẽ làm hại vợ và đứa con chưa chào đời của anh!
Anh vui mừng thấy không một ai trong số lính của anh bị thương nghiêm trọng. Anh cũng nhận thấy trong cuộc đụng độ, vài cung thủ trên mái đã xuống khỏi mái nhà và chiến đấu trên lưng ngựa với họ. Roran cười toe với mấy người mới và nói, “Chào mừng đến với trận chiến!”
“Nhiệt liệt là đằng khác!” một người đáp lại.
Đưa cây búa phủ máu của anh chỉ vào lề đường bên phải, Roran nói, “Anh, anh, và anh, chất đống mấy cái xác ra kia. Dùng thêm cái xe để tạo ra một cái phễu, như thế mỗi lượt sẽ chỉ có hai hay ba tên xông vào được thôi.”
“Tuân lệnh!” những người lính trả lời, nhảy khỏi lưng ngựa.
Một mũi tên rít lên lao vào Roran. Anh phớt lờ nó và tập trung vào nhóm lính chính, ở đó có một toán nữa, có lẽ khoảng một trăm tên, đang tụ tập lại chuẩn bị cho trận kịch chiến thứ hai. “Nhanh lên!” anh hét lên với những người đang dời chỗ mấy xác chết. “Chúng đến ngay trước mặt rồi. Harald, đi giúp đi.”
Roran liếm môi, hồi hộp khi nhìn người của anh làm việc trong khi bọn lính đang đến gần. Anh nhẹ nhõm nhìn bốn người Varden kéo cái xác cuối cùng vào chỗ và trèo trở lên ngựa trước khi toán lính bổ tới.
Những căn nhà ở hai bên đường, cũng như cái xe hàng lật ngược và rào chắn kinh khủng bằng xác người, làm chậm và ngăn cản dòng lính, cho đến khi chúng gần như bị tắc lại khi đến được chỗ Roran. Đám lính bị ép lại quá chật, chúng vô phương thoát khỏi những mũi tên cắm xuống chúng từ phía trên.
Hai hàng lính đi đầu mang giáo, và chúng dùng để đe dọa Roran và những người Varden khác. Roran né được ba nhát đâm, nguyền rủa vì anh không thể với quá được cây giáo bằng cái búa của mình. Rồi một tên đâm trúng Hỏa Tuyết vào phần vai, Roran cúi rạp ra trước để khỏi bị quẳng xuống đất khi con ngựa hí vang và lồng lên.
Khi Hỏa Tuyết hạ trở xuống, Roran trượt ra khỏi yên, giữ con ngựa ở giữa anh và hàng rào lính dùng giáo. Hỏa Tuyết nhảy lên khi một cây giáo nữa xuyên vào da nó. Trước khi bọn lính có thể làm nó bị thương tiếp, Roran giật cương Hỏa Tuyết và bắt nó nhảy lùi ra sau cho đến khi đủ khoảng trống giữa những con ngựa khác để nó có thể xoay trở. “Yah!” anh hét lên, và phát vào mông con ngựa, cho nó phi nước đại ra khỏi làng.
“Tránh đường!” Roran gầm lên, vẫy nhóm Varden. Họ tạo một khoảng trống cho anh giữa đám ngựa của họ, và anh lại vọt lên tuyến đầu của trận đánh, giắt búa vào thắt lưng.
Một tên lính thọc giáo vào ngực Roran. Anh chặn nó bằng cổ tay, bị cái cán bằng gỗ cứng làm thâm tím, rồi giật cây giáo khỏi tay tên lính. Hắn ngã dập mặt xuống đất. Quay cây giáo trong tay, Roran đâm tên lính, rồi nhào ra trước và đâm luôn hai tên nữa. Roran đứng rộng chân, trụ vững hai chân trên nền đất tươi tốt nơi mà một lần nữa anh lại mong ước được gây dựng mùa màng, rồi vung vẩy cây giáo vào đám lính, hét lớn, “Tới đi, lũ khốn đê tiện! Giết tao đi nếu chúng mày làm được! Tao là Roran Cây-búa-dũng-mãnh, và tao không sợ thằng nào cả!”
Bọn lính bước tới trước, ba tên bước qua xác các đồng đội cũ của chúng để giao chiến với Roran. Nhảy sang một bên, anh xiên cây giáo vào hàm tên ngoài cùng bên phải, làm tan tành răng của hắn. Máu loang ra trên lưỡi giáo khi anh rút nó ra và, quỵ xuống một gối, anh xỏ lụi tên ở giữa vào trúng nách hắn.
Một va chạm làm rung động vai trái Roran. Khiên của anh dường như nặng hơn gấp đôi. Nhô đầu lên, anh thấy một cây giáo đang ghim vào tấm ván gỗ sồi trên khiên của anh, và tên lính còn lại của bộ ba nhào vào anh với một thanh kiếm tuốt trần. Roran đưa cây giáo lên quá đầu như là anh đang chuẩn bị ném nó và, khi tên lính chùn bước, anh đá vào giữa hai chân hắn. Anh giải quyết hắn với một cú duy nhất. Trong khoảng tạm lắng ngắn ngủi sau đó của cuộc chiến, Roran gỡ cái khiên vô dụng khỏi tay và liệng nó cùng với cây giáo đang găm vào xuống dưới chân bọn lính, hy vọng làm rối chân chúng.
Thêm nhiều tên lính bước tới, nao núng vì nụ cười toe toét hung tợn và cây giáo thọc xỉa của Roran. Một núi xác người mọc lên trước mặt anh. Khi nó lên đến ngang hông, Roran nhảy lên trên cái khoảng hẹp đẫm máu, và anh đứng nguyên ở đó, bất chấp khó giữ thăng bằng, vì độ cao cho anh lợi thế. Do bọn lính buộc phải trèo lên một dốc xác người để với đến chỗ anh, nên anh có thể giết cả mớ bọn chúng khi chúng vấp phải một cái tay hay một cái chân hay giẫm lên cái cổ mềm oặt của một trong số những kẻ tiền nhiệm của mình, hay trượt chân trên một cái khiên nằm nghiêng.
Từ vị trí cao của mình, Roran thấy những tên lính còn lại đều đã tham gia hết vào cuộc tấn công, trừ hai chục tên ở đầu kia làng vẫn đang đánh với lính của Sand và Edric. Anh nhận ra anh sẽ không thể nghỉ ngơi gì nữa cho đến khi trận đánh kết thúc.
Thời gian trôi qua, Roran lãnh thêm hàng tá vết thương. Nhiều vết thương không đáng kể
– một vết cắt ở mặt trong cẳng tay, một ngón tay gãy, một vết rách dọc sườn chỗ mà một con dao găm đã rạch xuyên áo giáp – nhưng những vết khác thì không. Một tên nằm trên đống xác đã đâm Roran vào bắp chân phải, làm anh cà nhắc. Không lâu sau đó, một tên to đùng chắc nịch bốc mùi hành và phó mát ngã đè lên Roran và, trong hơi thở hấp hối, hắn đâm một mũi tên vào vai trái Roran, khiến sau đó anh không thể nhấc tay mình lên quá đầu. Roran cứ để mũi tên găm vào thịt, vì anh biết anh có thể chảy máu đến chết nếu rút nó ra. Đau đớn trở thành cảm giác thống trị anh; mọi cử động của anh đều gây ra những đau đớn mới, nhưng đứng yên có nghĩa là chết, do đó anh tiếp tục tung ra những cú chết người, bất chấp những thương tích và bất chấp sự kiệt sức.
Thỉnh thoảng Roran ý thức được nhóm Varden ở sau lưng hoặc bên cạnh anh, như khi họ ném một cây giáo ngang qua anh, hay khi một lưỡi gươm phóng qua vai, hạ gục một tên sắp sửa đánh vỡ sọ anh, nhưng chủ yếu Roran đơn độc đối diện bọn lính, do đống xác mà anh đang đứng ở trên và khoảng trống giới hạn giữa cái xe hàng lật ngược và mấy căn nhà. Phía trên, các cung thủ vẫn còn tên tiếp tục bắn yểm trợ, những mũi tên xám lông ngỗng của họ đâm thấu bất kể xương hay gân.
Lâu sau đó, Roran xiên cây giáo của mình vào một tên lính, và khi mũi giáo đâm vào áo giáp hắn, cái cán liền nứt ra và tách dọc. Tên lính có vẻ bất ngờ vì thấy mình còn sống, vì hắn ngập ngừng trước khi vung kiếm lên trả đòn. Sự chậm trễ bất cẩn của hắn cho phép Roran cúi xuống bên dưới thanh thép đang rung lên, nhặt một cây giáo khác trên mặt đất, rồi dùng nó kết liễu tên lính. Roran chán nản và phẫn nộ nhận thấy cây giáo thứ hai cũng không trụ được tới một phút trước khi vỡ tan trong tay anh. Ném những mảnh vụn vào bọn lính, Roran lấy một cái khiên từ một cái xác và rút búa ra khỏi thắt lưng. Ít nhất, cây búa của anh chưa bao giờ làm anh thất vọng.
Kiệt quệ chứng tỏ là kẻ thù lớn nhất của Roran khi mấy tên cuối cùng trong bọn lính từ từ tiếp cận, tên nào cũng đợi đến lượt mình đấu với Roran. Tứ chi anh nặng nề và thiếu sức sống, thị lực anh chập chờn, và có vẻ anh không thể hớp đủ không khí, vậy mà làm cách nào đó anh vẫn triệu tập được sức mạnh để hạ gục đối thủ tiếp theo của mình. Do phản xạ của anh chậm đi, bọn lính gây thêm cho anh vô số vết cắt và thâm tím mà trước đó anh đã có thể tránh dễ dàng.
Khi khoảng trống hiện ra giữa mấy tên lính, và qua đó Roran thấy không gian rộng mở, anh biết cuộc thử thách của anh đã gần kết thúc. Anh không tỏ ra khoan dung với mười hai tên cuối cùng này, chúng cũng không hề yêu cầu điều đó, mặt dù chúng không thể hy vọng vượt qua được anh và nhóm Varden đằng sau. Chúng cũng không hề cố chạy trốn. Thay vào đó, chúng nhào vào anh, gầm gừ, chửi rủa, chỉ mong muốn giết kẻ đã tàn sát bao nhiêu đồng đội của chúng trước khi chúng tới được khoảng trống.
Ở một mức nào đó, Roran khâm phục lòng can đảm của chúng.
 
Tên bắn xuyên ngực bốn tên trong bọn, quật ngã chúng. Một mũi giáo ném ra từ đâu đó sau lưng Roran trúng xương đòn tên thứ năm và hắn cũng đổ xuống cái gi.ường xác chết. Thêm hai cây giáo nữa chọn được nạn nhân, và rồi mấy tên lính đến được chỗ Roran. Tên đi đầu chặt vào Roran bằng một cái rìu gắn đinh. Mặc dù Roran có thể cảm thấy đầu mũi tên nghiến vào xương, nhưng anh vẫn vung tay trái lên dùng khiên chặn cái rìu. Hú lên vì đau và điên tiết, cũng như khát khao cháy bỏng được kết thúc trận đánh, Roran quay vòng cây búa và kết liễu tên lính với một quả vào đầu. Không dừng lại, Roran nhảy tới trên cái chân lành lặn và nện tên tiếp theo liền hai quả vào ngực trước khi hắn có thể phòng thủ, đập vỡ xương sườn hắn. Tên thứ ba tránh được hai đòn của Roran, nhưng rồi Roran lừa hắn với một cú nghi binh và khử luôn hắn. Hai tên cuối cùng kéo về Roran từ hai phía, chém vào mắt cá anh khi chúng trèo lên đỉnh của đống xác. Sinh lực bùng lên, Roran cầm cự với chúng trong một lúc lâu và mệt nhọc, cả hai bên cùng cho và nhận thương tích, cho đến cuối cùng anh giết một tên bằng cách đục thủng mũ giáp của hắn và tên kia bằng cách đập gãy cổ hắn với một cú chuẩn xác.
Roran chao đảo rồi gục xuống.
Anh thấy mình được đỡ dậy, liền mở mắt ra và thấy Harald đang kề một túi rượu vào miệng mình. “Uống đi,” Harald nói. “Anh sẽ thấy đỡ hơn.”
Ngực phập phồng, Roran vừa hớp hơi vừa uống vài ngụm. Rượu ấm làm cay xè khoang miệng méo mó của anh. Anh cảm thấy chân mình vững lại và nói, “Ổn rồi, anh cứ thả tôi ra.”
Roran tựa vào cây búa và quan sát chiến trường. Lần đầu tiên anh nhận thức được đống xác người đã dâng cao đến thế nào; anh và đồng đội phải đứng cao ít nhất là sáu thước trong không trung, gần như ngang nóc mấy căn nhà ở hai bên. Roran thấy hầu hết bọn lính chết vì tên bắn, nhưng kể cả thế, anh biết tự anh cũng đã tàn sát một lượng vô kể.
“Bao… bao nhiêu?” anh hỏi Harald.
Người lính máu me đầy người lắc đầu. “Sau ba mươi hai thì tôi mất dấu. Chắc người khác biết đấy. Những gì anh đã làm, Cây-búa-dũng-mãnh… Chưa bao giờ tôi thấy một kỳ công như vậy, thực hiện bởi một người với khả năng của người thường. Rồng Saphira đã chọn đúng; người trong gia đình anh đúng là những chiến binh không giống ai. Không một sinh vật nào sánh được can trường của anh, Cây-búa ạ. Dù hôm nay anh đã tàn sát bao nhiêu, tôi –”
“Một trăm chín mươi ba!” Carn kêu lên, trèo lên chỗ họ.
“Cậu chắc không?” Roran hỏi, nghi ngờ.
Carn gật đầu khi anh đến chỗ họ. “Chính xác! Tôi đã quan sát, và tôi đếm rất cẩn thận. Một trăm chín mươi ba tên, là - chín mươi tư nếu anh tính cả cái thằng mà anh đâm thủng ruột trước khi đội cung xử hắn.”
Con số làm Roran sững sờ. Anh không ngờ con số tổng thể lại lớn đến thế. Anh bật ra một tiếng cười khan. “Tiếc là không có thêm. Thêm bảy thằng nữa là tôi có chẵn hai trăm.”
Những người khác cũng cười.
Lo lắng phủ lên gương mặt gày gò, Carn đưa tay đến cái chốt đâm ra từ vai trái Roran, nói, “Đây, để tôi xem vết thương cho.”
“Không!” Roran nói, và gạt tay anh ta ra. “Có thể có những người khác bị nặng hơn tôi. Xem cho họ trước đi.”
“Roran, có mấy vết cắt có thể nguy hiểm tính mạng nếu tôi không cầm máu lại. Sẽ chỉ mất –”
“Tôi ổn,” anh càu nhàu. “Cứ mặc tôi.”
“Roran, nhìn lại anh kìa!”
Anh nhìn rồi ngoảnh đi. “Vậy thì nhanh nhanh lên.” Roran nhìn chăm chăm bầu trời quang đãng, tâm trí trống rỗng khi Carn kéo mũi tên ra khỏi vai anh và lẩm nhẩm vài câu thần chú. Ở mỗi chỗ thần chú phát tác, Roran cảm thấy da anh ngứa lên và ngọ nguậy, tiếp theo đó là sự sung sướng khi cơn đau chấm dứt. Khi Carn đã xong, Roran vẫn đau, nhưng không quá đau nữa, và tâm trí sáng sủa hơn trước.
Việc chữa trị làm Carn xám mặt và run rẩy. Anh tì vào đầu gối cho đến khi cơn run rẩy ngừng lại. “Tôi sẽ đi…” Anh ngừng lại lấy hơi. “…đi giúp những người bị thương khác.” Anh đứng thẳng người và tìm đường trèo xuống dưới, lắc lư như đang say rượu.
Roran nhìn anh ta đi, lo lắng. Rồi anh chợt thắc mắc về số phận những người còn lại trong đoàn của họ. Anh nhìn về phía đầu kia của làng, không thấy gì ngoài những th.ân thể vương , một số trong trang phục đỏ của Đế quốc, số khác là len nâu của Varden. “Edric với Sand sao rồi?” anh hỏi Harald.
“Tôi xin lỗi, Cây-búa, nhưng tôi chẳng thấy gì ngoài tầm gươm của tôi.”
Gọi mấy người vẫn đứng trên mái nhà, Roran hỏi, “Edric với Sand sao rồi?” “Chúng tôi không biết, Cây-búa!” họ đáp.
Dùng búa giữ thăng bằng, Roran từ từ trèo xuống đống xác người, với Harald và ba người khác bên cạnh, họ băng qua trảng trống ở trung tâm làng, xử tử bất cứ tên lính nào còn sống. Khi họ đến rìa trảng trống, nơi số Varden chết thảm vượt trội số quân lính, Harald đập kiếm lên khiên và la lên, “Có ai còn sống không?”
Một lúc sau, một giọng nói đáp lại từ phía những căn nhà: “Xưng tên đi!”
“Harald và Roran Cây-búa-dũng-mãnh và những người Varden khác. Nếu ngươi phục vụ Đế quốc, thì hãy đầu hàng đi, vì đồng đội của ngươi chết hết rồi và ngươi không thể đánh được bọn ta đâu!”
Từ đâu đó giữa mấy căn nhà có tiếng loảng xoảng kim loại rơi, và rồi một hai người một, các chiến binh Varden hiện ra từ chỗ trốn và đi khập khiễng ra trảng trống, nhiều người đang dìu những đồng đội bị thương. Họ tỏ vẻ sửng sốt, và vài người bị dính rất nhiều máu, khiến Roran lúc đầu nhầm họ với những tên lính bị bắt. Anh đếm được hai mươi tư người. Trong số những người đi sau cùng có Edric, đỡ theo một người bị mất cánh tay phải trong trận đánh.
Roran ra hiệu, và hai người của anh vội tới đỡ cho Edric. Người đội trưởng thẳng người dậy. Từng bước chậm chạp, ông đến chỗ Roran và nhìn thẳng vào mắt anh, vẻ mặt khó hiểu. Cả ông và Roran đều không chuyển động, và Roran nhận thấy khoảng đất trống trở nên đặc biệt yên lặng.
Edric là người đầu tiên nói. “Bao nhiêu người của cậu còn sống?”
“Hầu hết. Không phải toàn bộ, nhưng hầu hết.”
Edric gật đầu. “Còn Carn?”
“Cậu ấy sống… Thế còn Sand?”
“Một tên bắn trúng anh ta lúc hắn tấn công. Anh ta chết chỉ vài phút trước.” Edric nhìn trượt qua Roran, rồi nhìn về phía đống xác chết. “Cậu làm trái lệnh ta, Cây-búa-dũngmãnh.”
“Vâng.”
Edric đưa một bàn tay mở về phía anh.
“Đội trưởng, không!” Harald kêu lên, bước tới trước. “Nếu không nhờ Roran, chúng tôi đã chẳng còn ai đứng đây. Và lẽ ra ngài phải thấy anh ấy đã làm những gì; anh ấy tự tay hạ gần hai trăm tên!”
Lời cầu xin của Harald không gây ấn tượng gì với Edric, ông tiếp tục đưa tay ra. Roran cũng giữ nguyên vẻ thản nhiên.
Harald liền quay sang anh nói, “Roran, anh biết mọi người ủng hộ anh. Nói đi, chúng tôi sẽ –”
Roran liếc mắt ra dấu cho anh ta yên lặng. “Đừng ngốc thế.”
Edric nói qua đôi môi mỏng, “Ít nhất cậu cũng không hoàn toàn mất khôn. Harald, ngậm cái miệng cậu lại trừ khi cậu muốn dẫn đầu đám ngựa thồ suốt đường về.”
Nâng cây búa lên, Roran trao cho Edric. Rồi anh mở khóa đai lưng, thanh kiếm và dao găm của anh giắt ở đó, và anh cũng nộp luôn cho Edric. “Tôi không có vũ khí nào khác,” anh nói.
Edric gật đầu dữ tợn, và ngoắc cái dây lưng lên vai. “Roran Cây-búa-dũng-mãnh, bằng việc này ta sa thải cậu khỏi đội. Ta có lời hứa danh dự của cậu rằng cậu sẽ không cố bỏ trốn chứ?”
“Thưa có.”
“Vậy thì cậu có thể trở nên hữu ích ở chỗ nào cậu có thể, còn trong mọi trường hợp khác, cậu sẽ cư xử như một tù nhân.” Edric nhìn quanh và chỉ vào một người lính, “Fuller, cậu sẽ nhận vị trí của Roran cho đến khi chúng ta trở lại trụ sở chính của Varden và Nasuada sẽ quyết định phải làm gì về việc này.”
“Rõ, thưa ngài,” Fuller nói.
Trong vài giờ, Roran cúi người cùng các chiến binh khác thu nhặt các xác chết của người bên họ và chôn trên con đường rìa làng. Trong lúc làm việc, Roran nhận ra chỉ có chín người trong số tám mươi mốt lính của anh bị chết trong trận đánh, trong khi Edric và Sand đã mất gần một trăm năm mươi người, và Edric lẽ ra đã mất nhiều hơn, không kể một nhóm lính đã đi theo Roran sau khi anh đến cứu họ.
Khi họ đã mai táng xong những người thương vong, nhóm Varden nhặt lại các mũi tên, rồi dựng một giàn thiêu ở giữa làng, lột bỏ quân trang của bọn lính, kéo chúng lên trên đống gỗ, rồi châm lửa. Những cái xác cháy làm bốc đầy trời những cột khói đen nhờn mỡ kéo lên phải đến hàng dặm. Qua làn khói, mặt trời nhìn như một cái đĩa dẹt màu đỏ.
Không thể tìm thấy người phụ nữ trẻ và cậu bé mà bọn lính đã bắt giữ. Vì không thấy xác của họ trong số xác chết, Roran đoán hai người đã trốn khỏi làng khi trận chiến nổ ra, và anh nghĩ đó là điều hay nhất mà họ có thể làm được. Anh chúc họ may mắn, dù họ đã đi bất cứ đâu.
Roran ngạc nhiên và vui mừng thấy Hỏa Tuyết chạy nước kiệu vào làng vài phút trước khi nhóm Varden chuẩn bị rời đi. Ban đầu con ngựa bất kham và cảnh giác, không cho phép ai đến gần, nhưng bằng cách nói chuyện nhẹ nhàng với nó, Roran đã xoay sở trấn tĩnh được con ngựa đủ để làm sạch và băng bó vết thương ở vùng vai của nó. Vì cưỡi Hỏa Tuyết lúc nó còn chưa lành hoàn toàn là không khôn ngoan, Roran buộc nó vào trước mấy con ngựa thồ, và con ngựa tỏ ra không thích ngay lập tức, nó cụp tai lại, quất đuôi sang hai bên, và cong môi lên để nhe răng ra.
“Ngoan nào,” Roran nói, vuốt ve cổ con ngựa. Hỏa Tuyết đảo tròng mắt nhìn anh và hí khẽ, tai nó từ từ thả lỏng.
Rồi Roran nhảy lên một con ngựa thiến vốn thuộc về một người Varden đã chết và đi đến cuối hàng người tập trung giữa những căn nhà. Roran tảng lờ nhiều cái liếc nhìn của họ, mặc dù anh thấy phấn khởi khi vài người bọn họ lẩm bẩm, “Tốt lắm.”
Trong lúc ngồi đợi Edric ra lệnh xuất phát, Roran nghĩ đến Nasuada và Katrina và Eragon, và một cảm giác sợ hãi bao trùm suy nghĩ của anh khi anh tự hỏi liệu họ sẽ phản ứng ra sao khi biết sự nổi loạn của mình. Roran gạt bỏ những lo lắng của mình một giây sau đó. Mình đã làm những gì đúng đắn và cần thiết, anh tự nhủ. Mình sẽ không hối tiếc, không cần biết kết quả có thể ra sao.
“Đi thôi!” Edric hét lên từ phía đầu đoàn người.
Roran thúc con ngựa đi nhanh hơn, và anh cùng những người khác đồng loạt tiến về phía tây, ra khỏi làng, bỏ lại đống xác lính cháy dần vào hư không.
 
37. Thông Điệp Trong GươngÁnh bình minh phủ khắp người Saphisra, thấm vào người một sự ấm áp dễ chịu. Cô nàng nằm phơi nắng trên một phiến đá bên trên căn lều bọc vải trống trơn của Eragon chừng vài bộ. Hành động đêm qua: bay trinh sát các cứ điểm của triều đình, việc mà cô ả làm mỗi đêm kể từ khi Nasuada gởi Eragon tới núi rỗng ruột Farthen Dûr, đã khiến cô nàng uể oải. Những chuyến bay này thật cần thiết để che dấu sự vắng mặt của Eragon, nhưng chương trình này khiến cô nàng bị hao mòn thể lực, mặc dù màn đêm không khiến cô ả hoảng sợ, nhưng cô nàng không phải là kẻ có thói quen sống về đêm, vả lại cô ta không thích làm chuyện gì mà có tính đều đặn như vậy. Hơn nũa, phải một khoảng thời gian dài người Varden mới di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, cho nên hầu hết thời gian là cô nàng bay qua bay lại cùng một phong cảnh mỗi đêm. Lần kích thích duy nhất là cô nàng phát hiện tên chậm tiêu rồng vảy đỏ Thorn đang bay thấp ở chân trời đông bắc buổi sáng hôm trước. Hắn không có quay lại đối phó với cô nàng nhưng lại tiếp tục lên đường hướng sâu về phía triều đình. Khi Saphira báo cáo lại điều này, Nasuada, Arya và các người lùn canh giữ Saphira đã phản ứng như một bầy chim sẻ bị hoảng sợ, la hét rên rỉ với nhau rồi phóng đi tứ phía. Họ còn khăng khăng muốn tên tóc xanh đen như sói Blödhgarm, bay với cô nàng làm thế thân cho Eragon, dĩ nhiên cô nàng từ chối. Cho phép thần tiên đặt một nhân ảnh ma nước của Eragon lên lưng là một chuyện, nhưng cô nàng không sẵn lòng để ai khác ngoài Eragon cưỡi trừ khi là trong một trận chiến không thể tránh khỏi, nhưng cho dù thế cũng chưa chắc được.
Saphira ngáp dài, duỗi chiếc chân trước bên phải, vươn các ngón có móng trong lòng bàn tay. Lại lần nữa thư giãn, cô nàng cuộn đuôi quanh người và sửa tư thế đầu và bàn tay một chút, viễn cảnh của hươu và các con mồi khác trôi từ từ qua tâm trí của cô nàng. Không lâu sau, cô ả nghe tiếng chân lạch bạch của ai đó chạy qua doanh trại, hướng về phía căn lều bướm nhộng cách xếp đỏ của Nasuada. Saphira không chú tâm tới âm thanh này; đám người truyền tin lúc nào cũng luôn gấp rút đi tới đi lui.
Vừa khi tính chợp mắt, Saphira nghe tiếng một người nữa chạy nhanh qua, rồi sau một chút, thêm hai người nữa. Không cần mở mắt, cô nàng thò lưỡi ra nếm không khí. Không phát hiện được mùi lạ nào. Quyết định rằng lần náo động này không đáng điều tra, cô nàng thiếp đi mơ đến nhảy xuống bắt cá ở một hồ nước lạnh trong xanh. Tiếng la hét tức giận đánh thức Saphira.
Cô nàng không nhúc nhích nằm lắng nghe một đám người hai giò tai tròn cãi lộn với nhau. Bọn họ quá xa để có thể nghe được chuyện gì, nhưng từ âm điệu có thể thấy bọn họ giận đến mức sẵn sàng giết người. Tranh chấp đôi khi xảy ra giữa người Varden, giống như bất cứ tộc lớn nào, nhưng chưa bao giờ cô nàng nghe kể đám hai chân này cãi dai với nhiều cảm xúc như vậy.
Mạch máu đập nhè nhẹ ở gáy Saphira khi đám hai chân càng lúc càng hò hét lớn hơn. Cô nàng co vuốt trên mặt đá và sau tiếng rạn, từng mảng đá thạch anh văng ra dưới móng vuốt cô nàng.
"Ta sẽ đếm đến bảy mươi ba," cô nàng nghĩ, "và nếu bọn họ còn không dừng thì họ nên hy vọng là chuyện gì khiến họ nổi giận đáng phá ngang giấc nghỉ ngơi của người con của gió này."
Khi đếm đến bảy hai mươi, bọn hai chân đã yên lặng trở lại. "Cuối cùng cũng xong!" nhích người sang tư thế thoải mái hơn, cô nàng chuẩn bị quay về giấc ngủ vốn đang rất cần thiết.
Tiếng sắt thép leng keng, tiếng cỏ vải da sột xoạt, tiếng móng bọc nện xuống đất, lại còn mùi không thể lầm lẫn của chiến sĩ da đen Nasuada thoảng qua phía Saphira. "Gì đây?" cô nàng ngạc nhiên rồi một ý nghĩ muốn gầm lên một tiếng cho mọi người hoảng sợ bỏ chạy để cô nàng được một mình yên tịnh thoáng qua đầu.
Saphira mở một mắt và thấy Nasuada và sáu vệ sĩ sải bước tới chỗ cô nàng đang nằm. Saphira hạ lệnh cho vệ sĩ dừng chân ở phía đầu thấp của phiến đá coi chừng Blödhgarm và một số người lùn khác, lúc đó vẫn còn đang cãi nhau trên một dải cỏ nhỏ, rồi sau đó cô mới tự mình trèo lên phiến đá.
"Xin chào Saphira," Nasuada nói. Cô mặc một bộ áo đỏ, màu sắc tương phản với cành lá xanh tươi của cây táo phía sau lưng. Ánh sáng phản chiếu từ vảy của Saphira điểm lốm đốm lên mặt cô.
Saphira nháy mắt đáp lễ, cảm thấy không cần thiết phải đáp lại bằng lời. Sau khi liếc nhìn xung quanh, Nasuada bước đến gần bên tai Saphira và thì thầm: "Saphira, ta cần nói chuyện riêng với cô. Cô có thể thăm dò ý nghĩ trong đầu ta nhưng ta lại không thể thăm dò. Vậy cô có thể ở trong đầu ta để ta có thể truyền đạt những thứ ta muốn nói và cô có thể nghe được?"
Saphira vươn người về phía cô gái đang mệt mỏi căng thẳng này, truyền đạt tới cô ấy sự bực bội vì không ngủ được rồi nói: "Ta có thể thăm dò cô được nhưng ta cũng không bao giờ làm vậy khi không được cô cho phép."
"Đương nhiên," Nasuada trả lời. "Ta hiểu mà." Lúc đầu, Nasuada chỉ nhận được những hình ảnh và cảm nhận rời rạc của nàng: một thòng lọng treo cổ trống không, máu ở dưới đất, những khuôn mặt gầm gừ, khiếp sợ, mệt mỏi, định lực nhẫn tâm ngấm ngầm. "Tha thứ cho ta," Nasuada nói, "hôm nay ta đã ráng hết sức rồi. Nếu ý tưởng của ta trải quá nhiều nơi, thì xin hãy chịu đựng với ta một chút."
Saphira lại nháy mắt. "Chuyện gì mà làm khuấy động người Varden vậy? Một nhóm đàn ông nóng tính cãi lộn đánh thức ta trong giấc ngủ, và trước đó, ta có nghe một số người truyền tin chạy qua doanh trại.
Nasuada mím môi quay lưng lại Saphira khoanh hai tay, gác cánh tay còn bàn tay thì nắm lại. Màu sắc trong ý tưởng của cô trở nên đen như mây đêm, đầy vẻ chết chóc và bạo lực. Sau khi ngưng một lúc lâu trái với bản sắc hàng ngày, cô nói: "Một người đàn ông Varden tên Othmund, lén vào doanh trại Urgals tối qua và giết chết ba tên trong lúc bọn chúng đang say ngủ bên lửa trại. Đám Urgals không có bắt được Othmund lúc đó, nhưng sáng nay hắn ta tự nhận chiến tích cho vụ này và khoe khoang khắp quân đội. "Tại sao hắn ta làm như vậy?" Saphira hỏi, "bộ đám Urgals giết gia đình của hắn ta à?" Nasuada lắc đầu: "Ta thật gần muốn là như vậy, nếu vậy thì đám Urgals đâu có giận dữ như vậy; trả thù, ít nhất bọn họ hiểu điều này. Không phải, đây là phần lạ trong vụ việc này; Othmund ghét đám Urgals không ngoài nguyên do gì khác chính là vì họ là Urgals. Họ chưa bao giờ có gì sai trái với hắn, hoặc với người thân hắn, vậy mà hắn vẫn thù ghét người Urgals với từng thớ thịt của hắn. Ta chỉ biết có vậy sau khi nói chuyện với hắn mà thôi."
"Cô tính xử hắn ta cách nào đây?"
Nasuada nhìn Saphira một lần nữa, một nét buồn sâu thẳm lộ ra trong mắt nàng. "Hắn ta sẽ bị treo cổ vì tội ác này. Khi ta chấp nhận xác nhập Urgals vào với người Varden, ta đã ra sắc lệnh bất kỳ ai tấn công Urgals sẽ bị trừng phạt như thể hắn ta tấn công một người bình thường khác. Ta không thể lật ngược lời nói của mình."
"Cô có hối hận vì lời hứa hẹn này không?"
"Không. Mọi người cần biết rằng ta không tha thứ những hành động như vậy. Nếu không, bọn họ đã trở mặt với tụi Urgals ngay ngày Nar Garzhvog và ta có hiệp định. Bây giờ, ta lại phải cho bọn họ thấy đã hứa là làm. Nếu không làm vậy thì sẽ có nhiều vụ giết chóc, rồi sau đó giống Urgals sẽ tự làm chủ lấy vấn đề này, rồi cả hai giống sẽ lại đòi bẻ cổ nhau nữa. Việc Othmund sẽ bị chết là đáng lắm cho việc giết hại giống Urgals và cho việc chống lại mệnh lệnh của ta, nhưng ôi thôi, Saphira, người Varden sẽ không thích chuyện này. Ta đã phải hy sinh cả tính mạng để giành lấy sự trung thành của bọn họ, nhưng giờ đây, họ sẽ ghét ta vì đã mang Othmund đi treo cổ… Họ sẽ ghét ta vì đã đánh đồng sinh mạng của giống Urgals với của loài người." Nasuada hạ hai tay xuống rồi nhét vào ống tay áo. "Và ta không thể nói là ta thích chuyện này hơn họ. Cho dù mọi cố gắng của ta về việc đối xử rộng mở, công bằng đối với họ, như chính cha ta mong muốn, ta cũng không tự kềm chế được nhớ lại những cảnh giống Urgals giết hại người Varden trong trận chiến Farthen Dûr. Ta không tự kềm chế được nhớ lại những câu truyện thiếu nhi về giống Urgals càn quét các đồi núi, giết người vô tội trong giấc ngủ. Ta không tự kềm chế được nhớ lại tất cả những việc này, Saphira, và ta tự hỏi có phải là mình đã quyết định đúng đắn hay không."
"Cô không kềm chế được là vì cô là loài người," Saphira nói, cố gắng an ủi Nasuada. "Nhưng cô cũng không cần bị ràng buộc bởi những thứ người chung quanh tin tưởng. Cô có thể trưởng thành vượt quá giới hạn sắc tộc nếu cô có ý chí. Nếu những việc trong quá khứ có thể dạy chúng ta điều gì thì đó là các vua, hoàng hậu và các lãnh tụ có thể kéo gần các sắc dân lại với nhau là những người đạt được những điều tốt nhất cho Alagaësia. Xung đột và nóng giận là những thứ chúng ta luôn phải giới hạn, nhưng cũng không nên đào sâu mối quan hệ với những kẻ cựu thù. Nên ghi nhớ sự nghi ngờ đối với giống Urgals vì chính họ đáng bị vậy nhưng cũng nên ghi nhớ quan hệ giữa người lùn và rồng từng không khác gì giữa nhân loại và giống Urgals. Loài rồng chúng ta đã từng gây chiến tranh với người lùn và đã có thể diệt tộc bọn họ. Những việc này đã từng là sự thật nhưng nay đã không còn, vì có những người như cô, dám gạt căm thù sang một bên thắc chặc mối quan hệ bằng hữu mà xưa nay chưa hề có.
Nasuada đẩy mạnh trán vào ngang một bên hàm của Saphira rồi nói: "Cô rất là uyên bác, Saphira."
Saphira lấy làm buồn cười, ngẩng đầu lên và lấy mũi cọ vào trán của Nasuada: "Ta chỉ nói lên sự thật mà ta cảm nhận được, không hơn không kém. Nếu cô cho đó là khôn ngoan thì thật là hoan ngênh; nhưng mà ta tin cô có đủ trí khôn ngoan cần thiết. Xử tử Othmund có lẽ sẽ phật lòng người Varden, nhưng phải cộng thêm nhiều việc khác nữa để có thể phá vỡ lòng sùng bái của người Varden đối với cô. Hơn nữa ta tin chắc cô có thể tìm ra cách để xoa dịu bọn họ.
"Ài," Nasuada vừa nói vừa chùi khoé mắt: "Đương nhiên rồi." Sau đó cô mỉm cười, vẻ mặt đã hoàn toàn thay đổi. "Nhưng Othmund không phải là lý do ta đến tìm cô. Eragon vừa liên lạc với ta và yêu cầu cho cô gia nhập hành động với anh ta tại Farthen Dûr. Mấy người lùn…"
Saphira ngửa cổ hống một tiếng lớn lên trời, lửa từ trong bụng khè ra khỏi miệng từng mảng bập bùng. Nasuada lảo đảo bước ra sau trong khi mọi người chung quanh đứng lặng đó nhìn chằm chằm tới Saphira. Saphira nhỏm lên lắc một cái từ đầu tới đuôi, lúc này cô đã hoàn toàn quên đi sự mệt nhọc, cánh giang rộng ra chuẩn bị phi hành. Đám vệ sĩ của Nasuada tính đi về phía cô nhưng cô ra dấu cản bọn họ lại. Một màn khói thổi qua người khiến cô phải lấy dải áo vừa che mũi vừa ho. "Sự hăng hái của cô thật đáng tuyên dương Saphira, nhưng…"
"Eragon có bị thương tích hay không?" Saphira hỏi. Cô ả hơi hoảng khi thấy Nasuada ngập ngừng.
"Anh ta khỏe như mọi khi," Nasuada trả lời. "Nhưng, có một chuyện… xảy ra… hôm qua."
"Chuyện gì?"
"Anh ta và đám vệ sĩ bị tập kích."
Cả người Saphira đều không nhúc nhích trong lúc Nasuada kể lại cuộc đối thoại giữa cô và Eragon. Sau đó, Saphira nhe răng: "Dûrgrimst Az Sweldn rak Anhûin nên biết ơn là ta không có ở đó với Eragon; Ta sẽ không để bọn chúng trốn thoát dễ dàng như vậy sau khi muốn giết anh ấy."
Nasuada cười mỉm nói: "Vì thế cho nên cô ở đây có lẽ là tốt hơn."
"Có lẽ vậy," Saphira cũng đồng ý rồi hà ra một đám khói nóng bỏng trong lúc cái đuôi lúc lắc. "Tuy vậy chuyện này không làm ta ngạc nhiên. Mỗi lần Eragon và ta rời nhau, thể nào cũng có người tập kích anh ấy. Thật khiến vảy toàn thân ta ngứa ngáy mỗi khi để anh ấy rời khỏi tầm mắt hơn vài tiếng đồng hồ."
"Anh ta có thừa khả năng để tự bảo vệ mà."
"Đúng vậy, nhưng đám kẻ thù của chúng ta cũng không tệ." Saphira nôn nóng, cả người dịch chuyển, giơ cánh càng cao hơn. "Nasuada, ta thật muốn rời khỏi đây. Còn chuyện gì khác ta cần biết không?"
"Không," Nasuada nói. "Bay nhanh tới nơi Saphira, đừng chậm trễ tới ngay Farthen Dûr. Ngay khi cô rời khỏi đây, chúng tôi chỉ còn vài ngày ngắn ngủi trước khi triều đình nhận ra là ta đã không còn gởi cô và Eragon đi trinh sát trên không nữa. Galbatorix có thể quyết định tấn công chúng tôi trong lúc cô bỏ đi, nhưng mỗi giờ cô vắng mặt khả năng sẽ càng tăng lên. Còn nữa, ta thích có cả hai người bọn cô với chúng tôi khi tập kích Feinster. Chúng tôi có thể lấy được thành này không cần cô, nhưng sẽ tốn thêm nhiều sinh mạng lắm. Nói ngắn gọn một chút, vận mạng của toàn dân Varden tùy thuộc vào tốc độ của cô."
"Chúng ta sẽ nhanh như gió bão." Saphira đảm bảo.
Sau khi Nasuada chào tạm biệt và cất bước đi khỏi phiến đá, Blödhgarm và các thần tiên khác đổ xô tới cạnh Saphira buộc yên ghế của Eragon lên lưng Saphira rồi chất một đống thực phẩm và dụng cụ cần thiết lên đó như thể cô nàng đang chuẩn bi bay với Eragon. Thật sự thì cô nàng không cần những thứ này cũng như không với ra sau được, nhưng để đánh lừa kẻ địch, cô ả bắt buộc phải mang theo những thứ này. Sau khi cô nàng đã sửa soạn xong, Blödhgarm chắp tay xéo ngực theo cử chỉ tôn kính của các thiên thần và nói bằng cổ ngữ: "Tạm biệt Saphira Vảy Sáng. Chúc cô và Eragon mau trở về với chúng ta mà không vẫn bình an."
"Tạm biệt, Blödhgarm"
Saphira chờ cho các thần tiên tóc xanh đen như sói kia tạo ra một nhân ảnh ma nước của Eragon rồi bóng ma kia bước ra khỏi lều đạp lên chân trước rồi leo lên vai cô. Khi Blödhgarm gật đầu cho biết bóng ma Eragon kia đã yên vị, cô nàng vỗ cánh phóng lên khỏi phiến đá.
Khi cả người rời khỏi cái lều xám bên dưới, cô nàng phẩy cánh lần nữa đẩy người lên cao khỏi mặt đất cứng kia. Cô nàng quay về hướng Farthen Dûr và bắt đầu bay lên tần khí quyển lạnh bên trên, hy vọng tìm đước làn gió ổn định để trợ lực cho chuyến phi hành. Cô nàng bay một vòng quanh bờ sông đầy gỗ mà người Varden dừng chân hồi tối, toàn thân cảm thấy vui sướng mãnh liệt. Không còn phải chờ trong lúc Eragon đi phiêu lưu mà không có cô. Không còn phải tốn cả đêm bay qua bay lại một chỗ. Và cũng không còn phải để cho đám người dám khiến cho người bạn đồng tâm hợp ý của cô trốn chạy khỏi sự phẫn nộ của cô! Saphira hả họng thiệt lớn thét tiếng vui mừng tự tin cho cả thế gìới hay, thách đố bất kỳ thánh thần nào dám thách thức cô ả, vì cô nàng chính là con của Iormûngr và Vervada, hai con rồng dũng mãnh nhất trong thế hệ của họ. Khi vừa đạt đến cao độ khoảng một dặm ở trên Varden và tìm được một cơn gió thuận hướng tây nam, Saphira xoay người nương theo chiều gió bay trên phất phới trên vùng đất đai đang thấm nhuần ánh mặt trời.
Cô ả nghĩ trong đầu: "Em đang trên đường tới đây, tiểu ca!"
 
38. Bốn nhịp trống đánhEragon nghiêng người về phía trước, từng bắp thịt trên cơ thể nó căng ra, khi phụ nữ người lùn tóc trắng Hadfala, tộc trưởng của bộ tộc Ebardac, đứng dậy khỏi cái bàn, nơi mà hội đồng thị tộc đang tụ họp, phát biểu một dòng ngắn bằng ngôn ngữ của bà ta.
Thì thầm vào tai trái của Eragon, Hûndfast dịch lại: "Thay mặt bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi."
Eragon thở phào nhẹ nhõm. Một. Điều kiện để trở thành nhà cầm quyền trong tộc người lùn, là một tộc trưởng phải thắng đa số phiếu bầu từ các tộc trưởng khác. Nếu không ai đạt được, thì theo luật tộc người lùn, tộc trưởng nào với số phiếu bầu ít nhất sẽ bị loại ra khỏi vòng đấu và cuộc họp sẽ hoãn lại ba ngày trước khi tiếp tục cuộc bầu cử. Quá trình sẽ tiếp tục diễn ra đến khi nào một tộc trưởng chiếm được số phiếu bầu cần thiết, vào thời điểm đó, tất cả sẽ phải thề trung thành với ông ta hoặc bà ta như là người đứng đầu mới. Tính toán khoảng thời gian eo hẹp mà Varden cho phép, Eragon tràn trề hy vọng rằng cuộc bầu cử này sẽ không kéo dài quá một vòng, và nếu sự việc diễn ra như thế, người lùn sẽ không tốn nhiều thời gian hơn vài giờ. Nếu việc đó xảy ra, nó nghĩ chắc nó sẽ đập vỡ cái bàn đá ở giữa phòng ra vì thất vọng.
Hadfala đó, tộc trưởng đầu tiên bỏ phiếu, đã cho thấy cảm tình của bà ta đối với Orik. Hadfala, theo như Eragon biết, đã từng theo phe Gannel của bộ tộc Quan trước khi cuộc ám sát Eragon xảy ra. Nếu lòng trung thành của Hadfala thay đổi, thì rất có thế những thành viên còn lại trong liên minh của Gannel, Tộc trưởng Ûndin—có thể sẽ bỏ phiếu bầu của ông ta cho Orik.
Tiếp theo, Gálhiem của bộ tộc Feldûnost đứng dậy khỏi bàn, mặc dù ông ta rất là lùn, ông ta vẫn cao khi ngồi hơn là khi đứng dậy. "Thay mặt bộ tộc của tôi," ông ta tuyên bố, "Tôi bầu cho Tộc trưởng Nado như là vị vua mới của chúng tôi."
Nghiêng đầu về một phía, Orik nhìn qua Eragon và nói với nó bằng một giọng rất nhỏ, "Đúng như những gì chúng ta dự đoán."
Eragon gật đầu và nhìn về phía Nado. Ông lùn mặt tròn đang vuốt chòm râu vàng của ông ta, vẻ mặt rất hài lòng.
Sau đó Manndrâth của bộ tộc Ledwonnû nói, "Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi." Orik gật đầu cảm ơn, và Manndrâth gật đầu đáp trả, chóp mũi dài của ông ta lắc lư.
Khi Manndrâth ngồi xuống, Eragon và mọi người khác đều nhìn về phía Gannel, và căn phòng trở nên cực kỳ im lặng, Eragon còn không nghe tiếng thở của các ông lùn. Như là tộc trưởng của bộ tộc tôn giáo, Quan, và là vị pháp sư cao nhất của Gûntera, vua của các thần linh người lùn, Gannel chiếm một vị trí quan trọng trong chủng tộc; Bất cứ gì ông ta chọn, đám đông đều vui lòng theo sau.
"Thay mặt cho bộ tộc của tôi," Gannel nói, "Tôi bầu cho Tộc trưởng Nado như là vị vua mới của chúng tôi."
Một làn sóng xầm xì nổ ra từ những người lùn đang đứng xem ở ngoài vòng họp của căn phòng tròn, và vẻ mặt hài lòng của Nado càng lộ ra hơn. Nắm chặt tay lại, Eragon im lặng nguyền rủa.
"Đừng từ bỏ hy vọng ngay bây giờ, chàng trai trẻ à," Orik thì thầm. "Chúng ta chỉ mới chưa biết hết. Việc này đã từng xảy ra khi tộc trưởng của Quan mất phiếu bầu."
"Vậy việc này có thường xuyên xảy ra không?" Eragon thầm thì. "Vừa đủ."
"Vậy lần cuối xảy ra là khi nào?"
Orik chuyển hướng nhìn sang chỗ khác. "Tám trăm hai mươi bốn năm về trước, khi mà Nữ hoàng—"
Ông ta đột nhiên im lặng khi Ûndin của bộ tộc Ragni Hefthyn tuyên bố, "Thay mặt cho tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Nado như là vị vua mới của chúng tôi."
Orik khoanh tay lại. Eragon chỉ có thể thấy mặt ông ta từ một phía, nhưng chắc chắn là Orik đang giận dữ.
Cắn mặt trong của má, Eragon nhìn chằm chằm xuống sàn nhà đầy hoa văn, đếm số phiếu đã bầu, cũng như số phiếu còn lại, cố gắng xác định xem liệu Orik vẫn còn có thể thắng cuộc bầu cử này. Cho dù trong tình huống tốt nhất, thì việc vẫn rất cần thiết. Eragon càng nắm chặt tay lại, móng tay của nó cắm sâu vào mặt trong của tay nó.
Thordris của bộ tộc Nagra đứng lên và vén dải viền áo dài, mỏng của bà ta lên một tay. "Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi."
"Vậy là ba phiếu so với ba." Eragon nói trong giọng hạ thấp. Orik gật đầu.
Tới lượt Nado nói. Vuốt thẳng chòm râu bằng một tay, vị tộc trưởng của bộ tộc Knurlcarathn cười với nhóm người của ông ta, một tia nhìn tà đạo trong mắt ông loé lên. "Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho chính bản thân tôi như là vị vua mới của chúng tôi. Nếu các bạn có tôi, tôi hứa sẽ loại bỏ quốc gia chúng ta khỏi lũ ngoại tộc làm ô nhiễm quốc gia, và tôi hứa sẽ mang lại vàng và các chiến binh để bảo vệ mọi người, và không phải bảo vệ cổ của lũ thần tiên, lũ người, và lũ Urgal. Điều này tôi thề trước danh dự của dòng họ tôi."
"Bốn trên ba," Eragon lưu ý.
"Đúng thế," Orik nói. "Tôi biết thế nào thì Nado cũng sẽ không bầu cho ai cả ngoại trừ chính hắn ta."
Đặt dao và gậy qua một bên, Freowin của bộ tộc Gedthrall nhấc thân hình nặng nề của ông ta ra khỏi cái ghế, và giữ góc nhìn xuống, nói trong một giọng trầm thầm thì, "Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Nado như là vị vua mới của chúng tôi." Sau đó, ông ta hạ mình xuống chỗ ngồi của ông và tiếp tục khắc con quạ, mặc kệ bầu khí ngạc nhiên đang quét qua căn phòng. Vẻ mặt của Nado thay đổi từ hài lòng sang tự mãn.
"Chết tiệt," Orik gầm gừ, cơn giận của ông tăng thêm. Cái ghế của ông ta kêu cọt kẹt khi ông ép cẳng tay xuống tay dựa, gân tay nổi lên và căng ra. "Tên giả vờ phản bội. Hắn ta hứa sẽ bỏ phiếu của hắn cho tôi!"
Bao tử của Eragon kêu la. "Tại sao ông ta lại phản bội anh?"
"Hắn ta đến thăm đền Sindri hai lần trong ngày. Đáng lẽ ra tôi phải biết là hắn sẽ không đi ngược lại ý muốn của Gannel chứ. Chết tiệt! Tên khốn Gannel đang chơi tôi hầu hết thời gian. Tôi—" Vào lúc đó, sự quan tâm của hội đồng thị tộc đổ về phía Orik. Che dấu nỗi tức giận của mình, Orik để chân xuống và nhìn chung quanh bàn tới mỗi tộc trưởng khác, và với ngôn ngữ riêng của mình, ông ta nói, "Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho chính mình như là vị vua mới của chúng tôi. Nếu các bạn có tôi, tôi hứa sẽ mang lại vàng và sự tự do để sống ở trên mặt đất mà không phải sợ Galbatorix phá huỷ nhà của chúng ta. Điều này tôi thề trước danh dự dòng họ tôi."
"Năm trên bốn," Eragon nói với Orik khi ông ta trở về chỗ ngồi. "Và không phải có sự ủng hộ nào."
Orik càu nhàu. "Tôi có thể đếm, Eragon."
Eragon đặt khuỷu tay lên đầu gối, mắt nó ném từ người lùn này tới người lùn khác. Lòng thèm muốn hành động đang gặm nhấm trong nó. Bằng cách nào, nó không biết, nhưng với nhiều cách, nó cảm thấy là nó phải tìm một cách để đảm bảo Orik sẽ trở thành vua và, vì thế, tộc người lùn sẽ tiếp tục viện trợ cho Varden trong công cuộc đấu tranh chống lại Đế quốc. Đối với tất cả những việc mà nó đang cố gắng, tuy nhiên, Eragon chỉ có thể nghĩ không có gì để làm bằng việc ngồi và đợi.
Người lùn tiếp theo đứng dậy là Havard của bộ tộc Fanhur. Với cái cằm gấp chống vào xương ức, Havard đẩy môi ra và gõ nhẹ vào bàn với hai ngón tay mà ông ta còn trên bàn tay phải, xuất hiện chỉnh chu. Eragon nhích tới trước trên chỗ ngồi của nó, tim nó đập thình thịch. Liệu ông ta có giữ nguyên thoả thuận với Orik không? Eragon tự hỏi.
Havard gõ bàn lần nữa, rồi đập lên đá với tay của ông. Nhấc cằm lên, ông ta nói, "Thay mặt cho bộ tộc tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi."
Việc này làm cho Eragon cảm giác hài lòng khi nhìn vào đôi mắt to rộng của Nado, và sau đó ông lùn nghiến răng mình, cơ bắp trong má của ông ta giật giật. "Hà!" Orik thì thầm." Việc này như đặt gai trong râu hắn ta."
Chỉ còn hai tộc trưởng chưa bỏ phiếu là Hreidamar và Íorûnn. Hreidamar, tộc trưởng đầy cơ bắp vạm vỡ của bộ tộc Urzhad, xuất hiện không dễ dàng với tình trạng thế này, trong khi Íorûnn—bà ta thuộc bộ tộc Vrenshrrgn, các con sói chiến—vạch ra vết sẹo hình trăng lưỡi liềm trên má trái của bà ta, với đầu của móng tay và nụ cười như con mèo tự mãn.
Eragon giữ hơi thở của nó và chờ nghe những gì mà hai người họ nói. Nếu Íorûnn bầu cho chính bà ta, nó nghĩ, và nếu Hreidamar vẫn còn trung thành với bà ta, thì cuộc bầu cử này sẽ phải diễn ra vòng hai. Không có lý do gì cho bà ta làm thế cả, tuy nhiên, ngoại trừ muốn sự kiện này chậm trễ, và theo xa nhất mà mình biết, bà ta sẽ không được lợi ích gì từ sự chậm trễ này. Bà ta cũng không hy vọng trở thành nữ hoàng trong thời điểm này; tên của bà ta sẽ bị loại bỏ trước khi bắt đầu vòng hai, và mình đoán là ba ta sẽ không ngu ngốc đến nỗi lãng phí quyền lực mà bà ta có bây giờ để chỉ khoe khoan cho con cháu là bà ta đã một lần làm ứng cử viên cho ngôi vua. Nhưng nếu Hreidamar theo bà ta, như thế thì cuộc bầu cử này vẫn phải tiếp tục diễn ra và liệu chúng ta sẽ tiếp tục vào vòng thứ hai hay không... Argh! Ước gì mình có thể nhìn thấu tương lai được! Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Orik thua? Mình có nên bắt lấy cơ hội này mà điều khiển hội đồng thị tộc? Mình có thể niêm phong căn phòng lại để không ai có thể vào cũng như ra, và rồi... Nhưng không, mà có thể—
Íorûnn làm gián đoạn suy nghĩ của Eragon bằng cách gật đầu với Hreidamar và rồi chiếu tia nhìn nặng nề về hướng Eragon, làm cho nó cảm thấy như nó là phần thưởng mà bà ta đang kiểm tra. Cái vòng của cái áo giáp của ông ta kêu lẻng kẻng, Hreidamar đứng thẳng lên và nói, "Thay mặt bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi."
Cổ họng của Eragon siết lại.
Đôi môi đỏ của bà ta cong lên như trò đùa, Íorûnn đứng dậy khỏi ghế với một động tác uyển chuyển và nói với một giọng thấp, khàn khàn, "Dường như đổ hết lên tôi để quyết định kết quả của cuộc họp ngày hôm nay. Tôi đã lắng nghe rất kỹ lý lẽ của ông, Nado, và lý lẽ của ông, Orik. Trong khi cả hai đã nêu lên những điểm mà tôi đồng ý với một số các chủ đề, vấn đề quan trọng nhất là chúng ta phải quyết định có hay không cam kết với chiến dịch của Varden để chống lại Đế quốc. Nếu chỉ là cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc, thì sẽ không thành vấn đề cho tôi nếu bên nào thắng, và tôi chắc chắn sẽ không cân nhắc để các chiến binh của bộ tộc chúng tôi cho lợi ích của người ngoài. Tuy nhiên, trường hợp này không phải như thế. Tính xa hơn. Nếu Galbatorix xuất hiện chiến thắng từ cuộc chiến tranh này, thì ngay cả Núi Beor cũng không thể bảo vệ chúng ta khỏi sự tức giận của hắn ta. Nếu chúng ta muốn sống sót, chúng ta phải chứng kiến Galbatorix bị lật đổ. Hơn thế nữa, điều đó thúc đẩy tôi rằng trốn tránh trong hang động và các hầm thế này trong khi những người khác quyết định số phận của Alagaësia là không thích hợp cho một chủng tộc vừa già vừa mạnh như chủng tộc ta. Khi sử biên niên của thời đại ghi chép, thì họ có viết về chúng ta chiến đấu cùng với tộc người và tộc thần tiên, như là các đấng anh hùng già dặn, hay viết là chúng ta ngồi co rúm, sợ hãi trong khi một trận chiến đang diễn ra phía bên ngoài? Tôi, vì một điều, tôi biết câu trả lời của riêng tôi." Íorûnn hất mái tóc của bà ta về phía sau, rồi nói, "Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi!"
Các bô lão của năm nhà luật học đang đứng tựa vào bức tường tròn bước lên phía trước và dọng đầu cuối của cây gậy bóng láng vào sàn đá và tuyên bố, "Tất cả hãy hoan nghênh Vua Orik, vị vua thứ bốn mươi ba của Tronjheim, Farthen Dûr, và tất cả các knurla ở trên và dưới của Núi Beor!"
"Tất cả hãy hoan nghênh Vua Orik!" hội đồng thị tộc gầm lên, giơ cao chân họ lên với một tiếng sột soạt ầm ỹ của quần áo và áo giáp. Đầu nó như đang bơi, Eragon cũng làm tương tự, nhận thức được ràng nó đang có mặt trong hoàng tộc. Nó nhìn về phía Nado, nhưng mặt của ông lùn là một cái mặt nạ mù.
Chòm râu trắng của các nhà luật học dọng cây gậy xuống sàn một lần nữa. "Hãy để các nhà ghi chép cùng lúc quyết định của hội đồng thị tộc, và hãy để cho tin tức này lan truyền cho từng người trong vương quốc. Sứ giả đâu! Thông báo cho các pháp sư với gương bói của họ tiết lộ việc gì xảy ra vào hôm nay, và sau đó tìm người giám sát của núi và nói với họ, 'Bốn nhịp trống. Bốn nhịp, và lắc cái vồ của nhà ngươi như ngươi chưa bao giờ lắc trước đây trong đời, bởi vì chúng ta có vị vua mới. Bốn nhịp với hết sức mạnh, Farthen Dûr chính nó sẽ phải rung chuyển vì tin này.' Nói với họ như thế, tôi giao nhiệm vụ cho các anh đó. Đi!"
Sau khi các sứ giả rời khỏi, Orik đẩy mình ra khỏi ghế và đứng dậy nhìn khắp xung quanh. Vẻ mặt của ông ta, theo Eragon, dường như là vẫn đang sững sờ, như là ông ta không nghĩ là có thể giành được ngôi vua. "Đối với trách nhiệm tuyệt vời này," ông ta nói, "Tôi rất cảm ơn mọi người." Ông ta dừng lại, rồi tiếp tục, "Ý nghĩ ngay bây giờ của tôi là sự cải thiện tốt hơn cho quốc gia chúng ta, và tôi sẽ theo đuổi mục đích đó mà không nao núng cho đến ngày tôi trở về thành đá."
Sau đó các tộc trưởng bước lên trước, từng người một, và quỳ trước mặt Orik và thề lòng trung thành của họ cho ông ta. Khi đến lượt Nado thề, ông lùn biểu lộ ra không tình cảm gì ngoại trừ những từ ngữ mà lời thề bắt buộc với không chuyển giọng, những từ thốt ra từ của miệng ông ta như là thanh chì rơi xuống.Bầu không khí xuyên qua phòng họp có cảm giác nhẹ hẳn khi ông ta kết thúc lời thề.
Sau khi nghi thức thề trung thành kết thúc, Orik ra lệnh rằng lễ đăng quang của ông sẽ diễn ra vào sáng ngày hôm sau, và rồi ông ta và nhóm người của ông rút qua phòng kế bên. Ở đây Eragon nhìn Orik, và Orik nhìn Eragon, và không ai nói gì cho tới khi một nụ cười rộng xuất hiện trên mặt Orik và ông ta cười thật lớn, má ông ta chuyển sang màu đỏ. Cười với ông ta, Eragon túm lấy ông ta bằng cẳng tay và ôm chặt ông ta. Vệ sĩ và cố vấn của Orik tập hợp xung quanh, vỗ vai Orik và chúc mừng ông với những lời thật tâm.
Eragon thả Orik ra, nói, "Tôi không nghĩ là Íorûnn sẽ ở bên phe chúng ta."
"Đúng vậy. Tôi mừng là bà ta ở bên phe ta, nhưng việc này làm cho vấn đề thêm phức tạp, đúng thế." Orik nhăn mặt. "Tôi nghĩ là tôi sẽ phải thưởng cho sự trợ giúp của bà ta bằng một vị trí trong hội đồng của tôi, chắc là phải thế thôi."
"Nếu thế thì tốt nhất là vậy!" Eragon nói, căng thẳng làm nó nghe như có cơn chấn động. "Nếu các con sói chiến giống nhau về tên của chúng, chúng ta rất cần chúng trước khi chúng tới các cánh cửa của Urû'baen."
Orik bắt đầu trả lời, nhưng rồi một nốt nhạc dài, trầm của âm thanh kỳ lạ vang dội khắp các sàn và trần và không khí của các phòng, làm xương của Eragon rung chuyển với mức năng lượng của chính nó. "Lắng nghe!" Orik la lên, và giơ một tay lên. Tất cả rơi vào im lặng.
Bốn lần trong tổng số nốt bass vang lên, làm rung động các phòng với từng âm thanh cứ lập lại, như là một gã khổng lồ đang đập mạnh vào bên hông của Tronjheim. Sau đó, Orik cho biết, "Tôi chưa từng nghĩ sẽ nghe tiếng trống của Derva thông báo lễ lên ngôi vua của tôi."
"Cái trống này lớn thế nào?" Eragon hỏi, run sợ.
"Khoảng năm mươi feet, nếu tôi nhớ đúng."
Một ý nghĩ loé lên trong đầu Eragon là mặc dù người lùn thấp nhất trong các chủng tộc, họ đã xây dựng lên cấu trúc lớn nhất ở Alagaësia, mà dường như điều đó là kỳ lạ đối với nó. Có lẽ, nó nghĩ, bằng cách làm những vật khổng lồ như thế, họ không cảm thấy họ bé nhỏ. Nó đã định đề cập giả thuyết của nó cho Orik nhưng quyết định là điều đó có thể xúc phạm đến ông lùn, do đó nó giữ lưỡi lại.
Bao vây xung quanh, nhóm người của Orik bắt đầu hỏi ý kiến ông về tương lai của tộc người lùn, thường xuyên khi người này đang nói người khác xen ngang với giọng lớn, và Eragon, nó đang muốn hỏi Orik một câu khác, nhận ra nó đang bị bỏ rơi vào một góc. Nó cố gắng kiên nhẫn chờ đợi để có một cuộc trò chuyện im ắng, nhưng sau vài phút, có vẻ nhóm người lùn này không ngừng tiếp tục chất vấn Orik với hàng ngàn câu hỏi và lời khuyên, vì thế, nó cho rằng, đó là bản chất của họ.
Vì vậy, Eragon nói, "Orik Könungr (Tâu vua Orik)," và nó nhúng ngôn ngữ cổ vào, chia một phần năng lượng, như vậy nó có thể thu hút được sự quan tâm của tất cả mọi người hiện tại. Căn phòng trở nên im lặng, và Orik nhìn về phía Eragon và nhướng một lông mày lên. "Tâu bệ hạ, tôi có thể có sự cho phép của ngài để lui ra không? Có một số . . . vấn đề mà tôi muốn tham gia vào, nếu như không quá trễ."
Lông mày của Orik sáng ra. "Bằng mọi cách, nhanh lên! Nhưng cậu cũng không cần phải gọi tôi bằng bệ hạ, Eragon, cũng không gọi bằng ngài, cũng không gọi bằng các danh hiệu khác. Dù gì, chúng ta là bạn bè và cũng là anh em kết nghĩa."
"Vâng, thưa bệ hạ." Eragon trả lời, "nhưng với thời gian sắp tới, tôi tin chắc điều này thích hợp hơn khi tôi nên gọi giống mọi người khác. Anh là vua của chủng tộc anh bây giờ rồi, và cũng là vua của tôi, vì tôi là một thành viên của bộ tộc Ingeitum, và điều này tôi không thể không để ý."
Orik suy ngẫm một chút, như là một khoảng cách xa xăm, và sau đó gật đầu và nói, "Theo ý cậu vậy, Kỵ sĩ rồng."
Eragon cúi chào và rời khỏi phòng. Theo sau là bốn vệ sĩ, nó đi xuyên qua đường hầm và lên cầu thang dẫn tới tầng mặt đất của Tronjheim. Khi bọn nó tới nhánh phía nam của bốn hành lang chính chia thành-phố-núi, Eragon quay qua Thrand, đội trưởng đội cận vệ của nó, và nói, "Tôi muốn chạy hết con đường còn lại. Vì ông sẽ không thể theo kịp tôi, tôi nghĩ ông nên dừng lại và đi tới cửa nam của Tronjheim và chờ tôi trở lại."
Thrand trả lời, "Bàn-Tay-Bạc à, xin ngài đừng đi một mình. Tôi không thể thuyết phục ngài giảm tốc độ để chúng tôi có thể theo ngài sao? Chúng tôi có lẽ không nhanh như thần tiên, nhưng chúng tôi có thể chạy từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, và trong lúc áo giáp vẫn còn trên người."
"Tôi hiểu sự quan tâm của ông." Eragon nói, "nhưng tôi sẽ không chần chừ lâu hơn một phút, ngay cả khi nếu tôi biết có kẻ ám sát đang ẩn mình đằng sau mỗi cột đá. Tạm biệt!"
Và ngay lập tức, nó chạy xuống hành lang rộng, lắt léo né các người lùn đang cản đường nó.
 
39. Tái HợpTừ nơi Eragon bắt đầu cách cổng nam của Tronjheim chừng một dặm, nó chạy đoạn này chỉ mất vài phút, tiếng bước chân vang lên trên nền đá. Vừa chạy nó vừa thấy những tấm thảm lộng lẫy treo trên lối vào các hành lang hai bên, cũng đồng thời thấy những tượng đá kỳ dị của các mãnh thú, quái vật ẩn hiện giữa các cột đá bằng huyết ngọc thạch dựng dọc theo một đại lộ có mái che. Thông đạo bốn tầng này thật lớn quá, Eragon dễ dàng tránh né đám người lùn cư trú ở đây, tuy vậy có một lần một đám người lùn Knurlcarathn bước tới ngay trước mặt của nó và nó không còn chọn lựa nào khác ngoại trừ phóng qua đầu bọn họ lúc đó vừa cúi người né vừa la hét kinh hãi. Eragon thích thấy cái nhìn ngạc nhiên của bọn họ khi nó phóng qua đầu người ta.
Eragon chạy nhẹ nhàng từng bước dài dưới cánh cổng gỗ khổng lồ bảo vệ cửa nam của thành núi này, lại nghe tiếng thị vệ canh cổng hét lên: "Dừng lại, Argetlam!" khi nó vừa lướt qua. Ra khỏi được độ hai mươi thước, thì cánh cửa gỗ đóng sầm xuống nền móng của Tronjheim, nó lúc này chạy hết lực giữa hai tượng quái vật sư tử đầu chim đúc bằng vàng khổng lồ đang dõi mắt nhìn xa xăm về phía chân trời, vùng đất rộng mở đã hiện ra trước mặt.
Không khí ẩm uớt lạnh mang theo mùi mưa vừa rơi. Mặc dù vẫn còn là buổi sáng, ánh hoàng hôn xám đã phủ lấy khu đất bằng hình dĩa bao quanh Tronjheim, vùng đất mà cỏ không lên nổi, chỉ có rêu, địa y và vài khoảnh nấm mũ độc sộc mùi là có thể mọc được. Ở phía trước, Farthen Dûr cao sừng sững mười dặm với lối vào hẹp, chỉ có ánh sáng phản chiếu yếu ớt lọt vào miệng núi lửa khổng lồ này. Eragon khó khăn lắm mới nhận biết được mức độ to lớn của trái núi này khi nó ngước nhìn lên.
Vừa chạy, nó vừa lắng nghe tiếng đơn điệu đều đặn của từng nhịp thở cũng như tiếng từng bước chân vang vọng xuống đường. Ngoại trừ một con dơi tò mò đang từ trên cao nhào xuống phát ra những tiếng chít chít lanh lãnh thì nó chỉ có một mình. Trạng thái yên tĩnh bao trùm khu núi rỗng này khiến nó thoải mái, giải tỏa mọi ưu phiền thường ngày của nó.
Eragon đi theo con đường lát đá trải dài từ cửa nam Tronjheim tới tận hai cánh cổng đen cao ba mươi bộ phía nam chân núi Farthen Dûr. Lúc nó dừng lại, hai người lùn hiện ra từ một trạm gác bí mật lanh lẹ mở cổng, để lộ ra một đường hầm gi.ường như vô tận ở phía trước.
Eragon tiếp tục đi tới. Những cột đá hoa dát ngọc rubi đỏ và đá thạch anh tím xếp dọc suốt năm chục bộ đầu của đường hầm. Qua khỏi đoạn đó, đường hầm trở nên trống trải hoang vắng, tường xung quanh trơn tru cách mỗi hai chục thước có treo một ngọn đèn lồng không lửa, và cách một khoảng không cố định lại có một cổng bị đóng lại hay một cánh cửa. "Không biết lối này dẫn đến đâu nữa đây," Eragon nghĩ thầm. Và nó lại tưởng tượng ra cảnh đá trên đầu dồn xuống đè nó khiến lúc đó đường hầm tạo nên áp lực nặng nề không chịu được. Nó nhanh chóng xóa hình ảnh đó ra khỏi đầu.
Đi được nửa đường hầm, nó cảm giác được cô nàng.
"Saphira!" nó hét lên, bằng cả giọng nói lẫn ý nghĩ, tên của cô nàng dội lại từ những tường đá xung quanh như cả tá tiếng la hét.
"Eragon!" Một lúc sau, thanh âm ầm ĩ yếu ớt từ xa vọng tới kéo nó đi về hướng cuối đường hầm.
Eragon tăng tốc gấp đôi, mở rộng tâm ý đón Saphira, gỡ đi mọi cấm chế quanh người để cả hai có thể liên thông với nhau không hạn chế. Như một giòng nước lũ ấm áp, ý thức của Saphira tràn tới nó cũng như của nó tràn tới cô nàng. Eragon thở hổn hển vấp và xuýt nữa thì bị ngã. Cả hai quấn lấy nhau trong tư tưởng, xiết chặc lấy nhau còn hơn những đụng chạm thực thụ, khiến thân phận cả hai lại lần nữa trở nên đồng nhất. Niềm an ủi lớn nhất đối với bọn họ rất đơn giản: họ không còn bị lẻ lỏi nữa. Biết được bạn đang ở bên người luôn lo lắng cho bạn, luôn hiểu cả con người bạn, và sẽ không bao giờ bỏ bạn ngay cả trong tình huống tuyệt vọng nhất, đó là mối quan hệ trân quý nhất mà một người có thể có được, và cả Eragon lẫn Saphira đều quý mến điều này.
Không lâu sau Eragon thấy Saphira từ xa vội vàng tiến về phía nó ráng không để đầu bị đụng lên trần hay cánh quẹt lên các bức tường xung quanh. Móng vuốt của cô nàng cạ xuống nền đá xẹt lửa khi lướt tới trước mặt Eragon.
Eragon vui mừng hét lên, nhảy tới trước cô ả, mặc kệ lớp vảy bén, mở rộng vòng tay hết sức xiết chặt lấy cô nàng, hai chân của nó đung đưa cách mặt đất vài gang tay. "Tiểu ca," Saphira nói, giọng cô nàng ấm áp. Cô nàng từ từ hạ nó xuống sàn, khịt một tiếng rồi nói: "Tiểu ca, trừ khi là anh muốn xiết cổ em, anh phải thả tay ra một chút."
"Xin lỗi," nó toét miệng cười lui ra sau một chút rồi lấy trán ịn vào mũi cô nàng rồi bắt đầu gãi gãi hai bên hàm của ả.
Tiếng ầm ừ của Saphira vang dội cả đường hầm.
"Em mệt rồi," nó nói.
"Em chưa bao giờ bay xa mà nhanh như vậy. Em chỉ dừng lại một lần từ lúc rời khỏi Varden, và em đáng lẽ cũng không dừng lại nếu không phải vì khát nước quá." "Em nói là cả ba hôm nay em chưa ăn chưa ngủ gì cả à?"
Cô nàng đá mắt với nó một cái, che đậy cặp mắt trong xanh như ngọc saphia trong một khoảnh khắc.
"Chắc em đói lắm rồi!" Eragon lo lắng la lên. Nó nhìn khắp thân cô nàng xem có vết thương tích gì hay không. Cũng may là nó không tìm thấy gì.
"Em mệt lắm." Cô nàng thừa nhận. "Nhưng không có đói. Chưa tới lúc. Khi nghỉ ngơi xong, thì em mới ăn. Hiện giờ, em không nghĩ là em có thể ăn ngay cả chỉ một con thỏ… Mặt đất dưới chân thấy không chắc chắn tí nào, em cứ tưởng như vẫn còn đang bay. Nếu bọn họ không có bị cách xa bấy lâu, Eragon có lẽ sẽ trách cô ả vì thiếu thận trọng như vậy, nhưng như vầy, nó lại cảm thấy cảm động và dễ chịu khi thấy cô nàng cố gắng như vậy. "Cảm ơn em," nó nói, " thiệt bực nếu còn phải đợi thêm một ngày nữa để chúng ta được gặp nhau."
"Em cũng vậy," cô nàng nhắm mắt cạ đầu vào bàn tay nó trong lúc nó vẫn đang tiếp tục gãi gãi nơi quai hàm. "Ngoài ra, em cũng không nên đến trễ lễ đăng quang chứ hả? Ai sẽ là người…"
Trước khi cô nàng hỏi xong, Eragon đã truyền hình ảnh của Orik sang.
"A!" cô nàng thở phào, lộ rõ vẻ hài lòng. "Ông ta sẽ là một vì vua tốt."
"Anh cũng hy vọng vậy."
"Đã chuẩn bị Tảng ngọc Hình Sao cho em tu bổ chưa?"
"Nếu người lùn còn chưa nối cái miếng nhỏ lại với nhau, anh chắc là ngày mai họ sẽ làm xong."
"Vậy là tốt rồi." Cô nàng mở một mí mắt ra nhìn thẳng vào mắt nó. "Nasuada nói với em về âm mưu của Az Sweldn rak Anhûin. Anh lúc nào cũng đụng phải rắc rối lúc em không có ở đó."
Nó toét miệng cười, "còn lúc em ở đó thì sao?"
"Em ăn thịt phiền phức trước khi phiền phức ăn thịt anh."
"Thiệt vậy sao. Vậy còn lần đám quái Urgals phục kích chúng ta ở Gil’ead rồi bắt giữ anh thì sao?"
Một làn khói xả ra từ giữa hàm răng nanh của Saphira. "Lần đó không tính. Em lúc đó còn nhỏ, thiếu kinh nghiệm. Bây giờ thì không thể nào. Với lại anh bây giờ cũng không vô dụng như vậy."
"Anh có bao giờ vô dụng đâu," nó phản đối. "Anh chỉ có địch thủ mạnh thôi." Vì lý do gì đó, Saphira cảm thấy câu cuối của nó rất buồn cười; cô nàng bắt đầu cười sằng sặc khiến Eragon cũng phá ra cười. Cả hai không thể dừng cười được cho tới khi Eragon nằm lăn ra đất hả họng ra lấy hơi, còn Saphira thì phải ráng kềm lại những tia lửa đang khịt ra từ lỗ mũi. Sau đó Saphira đánh ra một tiếng lạ mà Eragon chưa nghe bao giờ, một tiếng gầm gừ dựng lên kỳ cục, và nó cảm nhận được một cảm giác lạ lùng qua đường liên hệ của hai bên.
Saphira lại làm ra tiếng đó một lần nữa, rồi lắc đầu một cái như muốn dẹp bỏ đi cái cảm giác bồn chồn trong bụng đó. "Trời ạ," cô nàng nói. "Hình như em bị nấc cục rồi." Eragon há họng ra giữ nguyên tướng đó một hồi rồi mới trở mình cười dữ hơn, nước mắt chảy ra luôn trên mặt. Mỗi khi sắp nín được, Saphira lại nấc một cái, đầu cô nàng gục gặc như quả lắc khiến nó lại cười đến thắt ruột. Cuối cùng nó đành lấy ngón tay bịt hai tai, ráng nhìn lên nóc và lặp lại tên các kim loại, đá quý mà nó có thể nhớ được. Sau khi đọc xong, nó mới hít một hơi dài rồi đứng dậy.
"Đỡ chưa?" Saphira hỏi. Hai vai cô nàng rung lên vì một cơn nấc cục nữa. Eragon ráng cắn lười trả lời, "Đỡ rồi… Thôi đi, chúng ta đi tới Tronjheim. Em cũng cần uống chút nước rồi. Có lẽ sẽ giúp đõ được một chút. Rồi sau đó đi ngủ đi." "Anh không chữa nấc cục bằng thần chú được à?"
"Có thể được. Có lẽ được. Nhưng cả sư phụ Brom lẫn Oromis cũng chưa có chỉ anh thế nào." Saphira lẩm bẩm ra vẻ hiểu, rồi lại tiếp tục bị nấc. Eragon càng phải cắn lưỡi chặt hơn chỉ đành nhìn xuống đôi ủng, "Thôi đi chứ?"
Saphira đưa chân trước bên phải ra mời, Eragon lanh lẹ trèo lên lưng cô nàng rồi leo lên yên ghết ở ngay dưới cổ.
Cả hai bay qua đường hầm về hướng Tronjheim, cả hai đều cảm thấy vui vẻ hạnh phúc vì được chia xẻ niềm vui bên nhau.
 
40. Đăng quang
Tiếng trống của Derva vang lên, triệu tập tất cả người lùn của Tronjheim có mặt để tham dự lễ đăng quang của nhà vua mới.
“Như thường lệ ” Orik đã nói với Eragon vào đêm hôm trước “ Khi các bộ tộc chọn ra một vị vua hoặc một nữ hoàng, hoàng thân này ngay lập tức thi hành quyết định, nhưng chúng tôi không tổ chức lễ lên ngôi trong ít nhất là ba tháng, bởi muốn để tất cả những ai muốn tham dự nghi lễ có thời gian để sắp xếp, hoàn thành công việc và hành hương về Farthen Dur từ những vùng xa xôi nhất của vương quốc Chúng tôi không thường tập hợp tất cả thần dân trong vương quốc, nhưng khi chúng tôi làm vậy, những người hành hương này tổ chức rất nhiều sự kiện, các buổi yến tiệc và ca nhạc trong hàng tuần lễ, và với các trò câu đố, thi sức mạnh và các cuộc thi tài luyện kim, điêu khắc, cũng như các loại hình nghệ thuật khác… tuy nhiên nó khó hơn bình thường rất nhiều.
Eragon đứng cạnh Saphira bên ngoài căn phòng lớn ở trung tâm của Tronjhem, cố lờ đi tiếng trống ầm ĩ kinh khủng. Ở khu khác của đại sảnh rộng hàng dặm, cả trăm người lùn đang tụ tập ở cổng vòm của các tầng, nhìn săm soi vào Eragon và Sophira bằng những cặp mắt đen hình viên đạn.
Cái lưỡi có ngạnh của Saphira tương phản hoàn toàn với những chiếc vẩy khi cô ả liếm mép. Đó là việc cô ả vẫn làm từ khi ngấu nghiến xong 5 con cừu to hết cỡ sáng sớm nay. Rồi ả giơ chân trái trước lên và bịt miệng. Mùi lông cừu cháy ám khắp người. Đừng sốt ruột nữa, Eragon nói, họ đang nhìn chúng ta kìa.
Tiếng gầm khẽ phát ra từ Saphira. Em không thể làm được. Có lông dính ở kẽ răng của em.
Bây giờ thì em nhớ ra là tại sao mình lại ghét ăn thịt cừu rồi. Thật kinh khủng, những thứ lông lá này tạo cho em mấy quả bóng bằng bông khó tiêu hóa.
Anh sẽ giúp em làm sạch kẽ răng khi chúng ta xong chuyện ở đây. Chỉ cần giữ yên được đến lúc đó
Hmph
Có phải Blodhgarm đã đeo rong lửa trong mấy cái túi trên yên không? Nó sẽ làm cho dạ dày của em khá hơn.
Em không biết
Mmm. Eragon nghĩ một lát. Nếu không anh sẽ hỏi Orik nếu họ có tích trữ chúng trong kho ở Tronjhem, chúng ta nên …
Nó tự ngừng lại khi nhịp cuối cùng của tiếng trống vừa dừng. Đám đông đã di chuyển và nó nghe thấy tiếng sột soạt khẽ khàng của quần áo và thỉnh thoảng tiếng xì xầm của vài nhóm người lùn.
Hàng tá kèn lệnh trumpet vọng ra, vang khắp thành phố trong lòng núi với tiếng triệu tập háo hức, và ở đâu đó một đội hợp xướng người lùn bắt đầu cất giọng trầm bổng. Âm nhạc làm da đầu Eragon ngứa ran và nổi da gà, máu thì chảy nhanh hơn, như khi người ta dấn thân vào một cuộc đi săn cổ xưa. Saphira quét đuôi từ bên này sang bên khác, và nó biết rằng cô ả cũng có cùng cảm giác như vậy.
Chúng ta đi thôi, nó nghĩ trong đầu.
Cả hai, nó và Saphira tham gia vào cuộc khám phá căn phòng trung tâm của thành phố núi hòa mình giữa các tộc trưởng, những thủ lĩnh, và những nhân vật đáng kể khác bao quanh, trong căn phòng cao chót vót
Tại chính giữa của căn phòng, ngôi sao sapphire đang được tu sửa vẫn tọa lạc, bao quanh bởi bộ khung bằng cột gỗ. Một giờ trước lễ đăng quang, Skeg đã gửi một lời nhắn đến Eragon nói rằng đội thợ thủ công của ông ta đã hoàn thành lắp ráp mảnh vỡ cuối cùng của viên ngọc lại với nhau và rằng Mitthrim đã sẵn sàng cho Saphira biến nó trở lại hoàn toàn như trước đây.
Chiếc ngai bằng đá granite đen của người lùn đã được chuyển đến, từ vùng đất cổ đã chết sâu trong lòng đất Tronlhem và được đặt trên một chiếc bục bên cạnh ngôi sao sapphire, đối diện với nhánh phía đông của bốn con đường dẫn vào đại sảnh để phân biệt địa vị ở Tronjhem, hướng đông bởi vì đó là phương mặt trời mọc và biểu tượng cho bình minh của một thời đại mới, Hàng ngàn chiến binh người lùn ăn mặc những bộ giáp sắt sáng bóng đứng thành hai đạo lớn trước ngai đá. Trải dài thành hai hàng quanh cổng vào phía đông của đại sảnh và dọc mọi con đường dẫn tới cánh cổng phía đông Tronjhem cách đó 1 dặm. Rất nhiều chiến binh mang giáo cưỡi ngựa cầm cờ hiệu. Hvedra, vợ của Orik đứng đầu đám đông, sau buổi họp bộ tộc quyết định trục xuất Grimstborith Vermund được đưa ra. Orik đưa bà ta đi để đảm bảo cho việc đăng quang. Bà ta chỉ được ở lại Tronjhem vào sáng hôm đó.
Trong nửa giờ đồng hồ, những người chơi kèn trumpet cứ mặc nhiên thổi mà không quan tâm đến tiếng hát của dàn hợp xướng. Thận trọng từng bước một, Orik tiến lại từ cổng Đông tới khu trung tâm của Tronjhem. Bộ râu của ông ta được chải chuốt và uốn cong, ông đi một đôi ủng da thanh lịch và cầu kì nhất với gót ủng như hai mũi giáo bạc, chiếc xà cạp lông màu xám, một chiếc áo sơ mi lụa tím sáng mờ ảo trong ánh đèn lồng, và khoác bên ngoài chiếc sơ mi là một bộ giáp dài, mỗi chi tiết đều được trang trí bằng bạch kim nguyên chất. Một chiếc áo lông chồn được thêu gia huy của Durgrimst Ingeitum chảy dài sau lưng Orik và lết trên sàn nhà phía sau ông. Volund, cây búa chiến đấu của Korgan, vị vua đầu tiên của người lùn, đã được rèn lại, đeo bên eo, thắt lưng đính ngọc ruby. Bởi vì y phục quá cầu kì và bộ áo giáp của ông lộng lẫy, xung quanh Orik nom như đang phát sáng làm Ergon nhìn lóa cả mắt.
Mười hai đứa trẻ người lùn đi theo sau Orik, sáu bé trai và sáu bé gái, hoặc cũng không hẳn vậy bởi Eragon chỉ căn cứ vào kiểu tóc của chúng để đoán. Bọn trẻ mặc những bộ quần áo chùng đỏ và nâu dát vàng. Mỗi đứa bưng trong lòng bàn tay một quả cầu bóng loáng tinh tế đường kính khoảng 6 inche, mỗi quả cầu được làm từ một loại đá quý khác nhau.
Khi Orik đến được tới trung tâm của thành phố, căn phòng được thắp sáng và bóng những chiếc đèn có hoa văn trang trí xuất hiện trên khắp mọi vật. Hơi lúng túng, Eragon liếc nhìn lên và kinh ngạc bắt gặp những cánh hoa hồng rơi lác đác từ đỉnh Tronjhem. Thật nhẹ nhàng, như một trận tuyết dày đặc, những cánh hoa mượt như nhung vương trên đầu và vai của tất cả mọi người tham dự, và dĩ nhiên phủ khắp mặt sàn, tràn ngập trong không trung với hương thơm ngào ngạt. Tiếng trumpet và dàn hợp xướng ngưng bặt khi Orik quỳ trước chiếc ngai đá đen và cúi đầu. Đằng sau ông, mười hai đứa trẻ cũng dừng lại và đứng bất động. Eragon đặt bàn tay lên lớp da ấm áp của Sophira, chia sẻ với cô ả biết về mối quan tâm và thích thú của mình.
Nó không đoán được việc gì sẽ diễn ra tiếp theo, vì Orik đã từ chối kể cho nó nghe về những phần nghi lễ về sau.
Nâng cây quyền trượng cao quá đầu bằng hai tay, Gannel nện nó xuống trên sàn đá tạo nên một tiếng động vang rền. “Hwatum il skilfz gerdûmn!” Ông ta hét lớn, và tiếp tục nói bằng ngôn ngữ của những người lùn trong vài phút, Eragon khó mà nghe hiểu được toàn bộ, bởi nó ko đi cùng người lùn phiên dịch. Nhưng ngay sau đó, tông giọng tenor cao vút của Gannel thay đổi, và Eragon phát hiện ra rằng những gì ông ta đang nói thuộc về một loại ngôn ngữ cổ xưa, và nó nhận ra Gannel đang cố tạo một câu thần chú, nhưng không phải một câu thần chú mà Eragon quen thuộc. Thay vì điều khiển bùa phép với đối tượng hoặc một nguyên tố của thế giới quanh chúng, người chủ tế đã nói bằng một thứ ngôn ngữ thần bí và đầy quyền lực: “Gûntera, Người sáng tạo ra thiên đường và trái đất và sự vô tận của đại dương, hãy lắng nghe tiếng khóc của bầy tôi chân thành tận tụy của Ngài! Chúng con cảm ơn Người bởi lòng hào hiệp của Người, Nòi giống chúng con phát triển thịnh vượng. Hằng năm, chúng con vẫn thờ phụng Người hiến tế những con cừu đực khỏe mạnh nhất trong bầy, và cả những hũ rượu mật ong thơm ngon cùng phần hoa màu thu hoạch, trái cây, rau tươi và ngũ cốc. Đền thờ của Người được xây dựng tráng lệ nhất trên vùng đất này, và không một kẻ nào có thể cạnh tranh được với sự vinh quang của Người. Ôi, Guntera hùng mạnh, vua của những vị chúa trời, hãy nghe lời cầu khẩn của con và chấp nhận thỉnh cầu của kẻ tiểu nhân này: xin hãy dành thời gian để bổ nhiệm cho một người lùn vĩ đại cai quản những vấn đề trần tục của chúng con. Người sẽ rủ lòng nhân từ để ban tặng lời chúc phúc cho Orik, con trai của Thrifk, và để ủng hộ sự nối ngôi của ông?”
Đầu tiên Eragon nghĩ, lời thỉnh cầu của Gannel sẽ không được hồi âm, nó cảm thấy không hứng thú với phép thuật của người lùn khi ông ta khấn xong. Tuy nhiên, ngay sau đó Saphira lại huých nó một phát và nói.
Nhìn xem kìa.
Eragon nhìn theo ánh mắt chăm chú của cô ả và , trên cao 30 feet, nó thấy một luồng không khí bao quanh những cánh hoa đang rơi: một lỗ hổng, có một khoảng chân không tại nơi những cánh hoa bị giữ yên trong không khí, như có một thứ gì đó vô hình chiếm lĩnh không gian. Lỗ hổng căng ra, vươn theo mọi hướng xuống sàn nhà, và chỉ có thể trông thấy được nhờ sự định hình của những cánh hoa như những đường nét của một sinh vật có cánh tay và đôi chân giống như một người lùn hay một con người hoặc một thần tiên hay Urgal, nhưng với một tỷ lệ khác thường hơn bất cứ loài nào mà Eragon được biết. Khuôn mặt sát với bả vai, đôi tay đồ sộ giơ lủng lẳng quá đầu ngối và trong khi thân hình kềnh càng thì đôi chân lại ngắn và xiêu vẹo.
Vị thánh sau đó nói, và giọng của ông ta như là tiếng nghiến của những phiến đá và như tiếng lướt của gió qua đỉnh núi khô cằn như tiếng vỗ của sóng biển vào hang đá. Vị thần nói bằng thứ ngôn ngữ của người lùn, và Eragon không biết những gì đang được nói, nó bỡn cợt với sức mạnh trong những lời nói của vị thần này. Ba lần vị thần hỏi Orik, và ba lần Orik đáp lại, giọng nói của ông yếu ớt so với vị thần kia. Có vẻ, rất hài lòng với những câu trả lời của Orik, Vị thần quỷ quái mở rộng vòng tay trông rất sống động của mình và đặt ngón trỏ lên đỉnh đầu Orik.
Không gian giữa các ngón tay của vị thần gợn sóng, và đỉnh trán Orik hiện lên chiếc vương miện dát vàng mà Hrothgar đã từng đội. Vị thần vỗ vào bụng mình và phát ra tiếng cười ồm ồm vang vọng rồi biến mất dần trong hư không. Những cánh hoa hồng tiếp tục rơi.
“Ûn qroth Gûntera!” Gannel tuyên bố. Ồn ào và vô lối, tiếng trumpet lại vang lên. Từ từ đúng dậy, Orik bước lên bục, quay mặt lại với đám đông và sau đó ngồi chìm nghỉm trên chiếc ngai đá đen bóng.
“Nal, Grimstnzborith Orik!” Những người hô vang, vỗ những chiếc búa vào tấm khiên và những cây giáo được gõ mạnh xuống sàn nhà
“Nal, Grimstnzborith Orik! Nal, Grimstnzborith Orik!”
“ Xin được gửi lời chào tới vua Orik” Eragon hét lên. Căng ngực lên, Saphira rống to tỏ lòng tôn kính và phóng ra 1 cụm khói đen sì qua đầu mấy người lùn,thiêu rụi một vệt những cánh hoa hồng.
Mắt Eragon nhòe đi khi luồng khói nóng phả vào người.
Sau đó Gannel quỳ gối trước Orik và nói thêm một số điều bằng tiếng người lùn. Khi kết thúc, Orik đặt tay vào mái tóc của ông ta và rồi Gannel quay trở lại vị trí của mình trong gian phòng. Nado tiến lại gần ngai vàng và cũng nói cùng một điều tương tự, sau ông, dĩ nhiên là Manndrâth và Hadfala cùng tất cả các tộc trưởng khác, duy chỉ thiếu Grimstborith Vermûnd người đã bị trục xuất từ lễ đăng quang.
Họ phải lấy chính mình ra để thề sẽ phục vụ Orik. Eragon nói với Saphira. Họ có tự nguyện nói những lời đó không?
Aye, không hẳn là đa số. Eragon nhìn Thordis tiến về phía ngai trước khi cất tiếng. Saphira, em có nghĩ là chúng ta đã trông thấy không? Đó có thể thực sư là Guntera hay chỉ là một ảo giác? Khả năng của ông ta dường như rất thật, và anh không biết làm cách nào mà có thể giả mạo được như vậy, nhưng …
Đó có thể chỉ là ảo giác, cô ả nói. Những vị thần của người lùn không bao giờ giúp sức cho họ trên chiến trường hay bất kì sự trợ lực nào khác. Em dám chắc điều đó, Hoặc em không tin rằng một vị thần thực sự sẽ chạy đến vì lời triệu tập của Gannel như một con chó săn được huấn luyện. Em không tin và có thể có vị thần nào vĩ đại hơn một con rồng chứ? … nhưng rốt cục, có rất nhiều điều khó lí giải ở Alagaësia. Có thể là chúng ta đã thấy cái bóng từ một thời đại rất xa xôi bị quên lãng, một tàn dư lờ mờ còn ám ảnh trên mảnh đất này, mong chờ sức mạnh quay lại với nó. Ai mà biết chắc được? Sau khi tộc trưởng cuối cùng trao lời thề cho Orik, các thủ lĩnh bộ lạc cũng tiếp tục như vậy, rồi Orik ra hiệu cho Eragon. Thật chậm rãi và cẩn trọng, Eragon bước ra giữa hàng ghế các chiến binh người lùn đang ngồi, tiến tới thềm của ngai đá và quỳ xuống, như một thành viên bộ tộc Durgrimst Ingeitum, thừa nhận Orik là vị vua của mình và thề sẽ phục vụ cũng như bảo vệ ông. Sau đó hành động như một sứ giả của Nasuada, Eragon chúc mừng Orik thay mặt Nasuada và Varden cũng như hứa hẹn với ông ta về tình hữu hảo của Varden.
Một vài người khác bước tới và nói với Orik khi Eragon đã rút xuống, đó là một chuỗi liên miên dường như không dứt của những người lùn tha thiết bày tỏ lòng trung thành của mình với vị hoàng đế mới.
Quá trình đó cứ tiếp diễn đến vài giờ đồng hồ, và sau đó bắt đầu đến phần tặng lễ vật. Mỗi người lùn mang đến cho Orik một tặng phẩm của bộ tộc hay bộ lạc của mình: một chiếc ly có chân đế làm bằng vàng đựng đầy những viên ngọc ruby và kim cương, một bộ áo giáp được bỏ bùa để không thanh kiếm nào có thể xuyên thủng, một tấm thảm dài hai mươi feet được dệt bằng thứ lông mềm mại mà người lùn chọn lựa từ râu của những con dê sống ở Feldunost, một phiến đá mã não khắc tên tất cả tổ tiên của Orik, một con dao găm làm từ răng rồng, và rất nhiều bảo vật khác. Để đáp lại, Orik ban những chiếc nhẫn cho người lùn để biểu hiện sự cảm ơn.
Eragon và Saphira là những người cuối cùng tiến đến trước Orik, Một lần nữa quỳ gối ở bậc thềm của ngai đá, Eragon rút ra từ áo, một chiếc vòng đeo cổ tay mà nó luôn cất giữ cẩn thận từ cái đêm hôm những người lùn đã tặng nó. Nó nâng lên cao trước mặt Orik và nói “ Đây là lễ vật của tôi thưa vua Orik. Tôi đã không làm ra đồ vật này nhưng tôi đã đặt vào đó một câu thần chú để bảo vệ ngài bất cứ khi ngài còn mặc nó trên người, ngài sẽ không phải lo sợ bị hành thích. Nếu một kẻ ám sát dám đập hay chém ngài hoặc dùng bất cứ thứ gì đâm ngài, vũ khí đó sẽ bị trệch mục tiêu, Những thứ này thậm chí sẽ che chở cho ngài khỏi ma thuật của kẻ thù. Và nó sẽ là vật rất có ích mà ngài cần đến khi gặp nguy hiểm.
Cúi đầu xuống , Orik nhận lấy từ Eragon và nói “ Món quà của cậu là thứ đáng giá nhất, Eragon Khắc tinh của tà thần” Mọi cặp mắt đổ dồn về họ, Orik luồn nhẹ chiếc vòng vào tay trái.
Saphira nói tiếp sau, để mở suy nghĩ của mình cho tất cả mọi người đang chứng kiến. Đây là món quà của tôi, Orik.
Cô ả bước ra đằng sau ngai vàng, những móng vuốt cắm mạnh trên sàn nhà tạo thành tiếng lách cách, ngẩng đầu lên và chân trước vươn tới mép dàn giáo chống quanh ngôi sao sapphire. Cây xà gỗ chắc chắn oẳn lên dưới sức nặng của cô ả, nhưng vẫn còn chống được. Vài phút trôi qua không có chuyện gì xảy ra nhưng Sarphira vẫn đứng y nguyên tại chỗ, nhìn chằm chằm vào khối đá quý.
Những người lùn dõi theo ả không hề chớp mắt, thở sâu khó nhọc.
Em có chắc là mình làm được không? Eragon hỏi, bất tắc dĩ phá tan sự tập trung của cô em rồng.
Em không biết. Em đã dùng phép thuật đến vài lần rồi, em không hề dừng để coi xem mình có đang tạo ra một câu thần chú hoặc là không. Em chỉ dồn toàn bộ ý chí để biến đổi nó, và em đã làm thế. Không sai một bước nào .. em chắc , em sẽ phải đợi cho đến lúc mình cảm nhận được nó để sửa lại Isidar Mithrim
Để anh giúp. Hãy để anh sử dụng một câu thần chú qua em.
Không, không được chút nào. Đây là việc của em, không phải của anh.
Một âm thanh cất lên, nhỏ và trong trẻo, thoảng qua gian sảnh, khúc ca chậm rãi, một giai điệu buồn bã.
Từng người một, những thành viên khác của đội hợp xướng dấu mặt cũng tham gia vào bài hát, Tronjham tràn ngập trong sự đau buồn của âm nhạc. Eragon sẽ đề nghị họ giữ im lặng nhưng Saphira nói. Cũng được thôi, hãy để họ như thế.
Mặc dù không hiểu dàn hợp xướng này hát những gì, Eragon có thể nói từ sắc thái của mình âm thanh đó đang than khóc cho những gì đã từng tồn tại và giờ không còn nữa, như ngôi sao sapphire. Khi bài hát đã đến phần kết, nó tự như thấy những suy nghĩ của chính mình về cuộc sống đã mất ở Palancar Valley, và những giọt nước mắt trào ra nơi khóe mắt.
Thật kinh ngạc, nó cảm nhận thấy được giọng nói quen thuộc trầm ngâm u sầu từ phía Saphira. không đau khổ hay hay ân hận là một phần tính cách thường ngày của cô rồng này. bởi vậy nó ngỡ ngàng và không hề đặt câu hỏi với cô ả. Mặc dù nó nhận thấy sự kích động nào đó sâu sắc từ phía ả, như một sự thức tỉnh của phần nào đó lâu đời, cổ xưa có trong cô nàng.
Bài hát kết thúc ở một quãng dài, nốt nhạc luyến cao, và nó như sự héo tàn của quên lãng. Một dòng năng lượng đang tràn lên phóng ra từ phía Saphira- rất nhiều năng lượng. Eragon há hốc mồm kinh ngạc trước cường độ của nó và cô ả vươn tới, chạm vào ngôi sao sapphire bằng chóp mũi. Các đường nứt trên phiến đá quý khổng lồ bừng lóe sáng rực rỡ như ánh chớp của tia sét, và sau đó dàn giáo vỡ tan và rơi xuống đất, để lộ ra Isidar Mithrim hoàn toàn và vẹn nguyên như cũ.
Nhưng không hẳn là như cũ. Màu sắc của viên ngọc thắm hơn, nhiều sắc đỏ hơn trước , và những vân của cánh hoa hồng là những đường vân bằng vàng tối màu. Những người lùn nhìn chằm chằm kinh ngạc trước Isidar Mithrim, rồi họ dậm chân, phấn khởi và vẫy tay ca ngợi Saphira một cách hăng hái, tiếng người la hét rầm rập như một thác nước. Cô ả rồng quay đầu về phái đám đông rồi tiến lại Eragon, dẫm nát những cánh hoa hồng dưới chân. Cảm ơn, cô ả nói với nó.
Vì điều gì?
Vì đã giúp em. Sự xúc động của anh đã chỉ cách cho em, nếu không có chúng, em có thể sẽ phải ở đây vài tuần trước khi thấy đủ cảm hứng cho việc sửa chữa Isidar Mithrim Giơ hai tay lên, Orik chấn áp đám đông, rồi nói “ Thay mặc cho toàn thể nòi giống của ta, ta xin cảm ơn ngươi về món quà, Saphira. Hôm nay ngươi đã khôi phục lại được niềm tự hào của vương quốc chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ quên kì tích này. Không thể nói rằng hoàng thân này là người vô ơn, từ bây giờ và mãi mãi về sau, tên ngươi sẽ được truyền tụng trong thơ ca của lễ hội mùa đông, nằm cùng tên của những đấng sáng tạo, và khi Isidar Mithrim được trở lại về là viên ngọc của Tronohem, tên tuổi của ngươi sẽ được khắc lên vành đai của ngôi sao hoa hồng Star Rose cùng với Dûrok Ornthrond, người lùn đầu tiên tạc nên khối đá quý.
Orik nói với cả Eragon và Saphira, “ Một lần nữa các ngươi đã chứng tỏ tình hữu nghị của mình tới thần dân của ta. Nó làm ta hài lòng, bằng hành động của mình, các ngươi đã chứng minh cho quyết định của cha nuôi là đúng đắn khi nhận ngươi là con của Dûrgrimst Ingeitum.”
cuối cùng, sau vô số lễ hội tiếp theo sau lễ đăng quang, và sau khi Eragon giúp lấy những mớ lông mắc trong răng của Saphira – một nhiệm vụ trơn tuột, nhày nhụa, và nặng mùi làm cho nó cần phải đi tắm ngay- Cả hai đứa đều được mời bữa yến tiệc danh dự của Orik. Một bữa ăn ồn ào, huyên náo và kéo dài suốt đêm.
Những nghệ sĩ tung hứng và uốn dẻo mua vui cho khách mời, cùng với một đoàn kịch với những diễn viên nhảy một điệu gọi là Az Sartosvrenht rak Balmung, Grimstnzborith rak Kvisagûr, điệu mà Hûndfast đã nói cho Eragon biết có nghĩa là Chiến công của vua Balmung xứ Kvisagûr.
Khi tiệc ăn mừng đã tàn và và hầu hết những người lùn đã say bí tỉ, Eragon đi vòng về phía Orik, đang ngồi ở góc đầu chiếc bàn bằng đá và nói “ Tâu bệ hạ”
Orik vẫy một tay :” đừng gọi tôi như thế, cứ tâu bẩm bệ hạ suốt ngày, Eragon à, đừng có làm như thế, nếu như không cần thiết. gọi tên của tôi là được rồi, như kiểu cậu vẫn dùng ấy, đấy là 1 lời đề nghị ” Ông ta với lấy chiếc ly rượu của mình nhưng bị trượt, và gần như đánh phăng chiếc cốc ra xa. Ông ta cười.
Eragon cười nói” Orik, tôi phải hỏi, Gûntera, người đã làm lễ trao vương miện cho ông, ông ta thật ra là người thế nào?”
Cằm của Orik cắm cả xuống ngực, và các ngón tay chặn chiếc cốc, nét mặt trở nên nghiêm túc “Gûntera gần như là thứ mà chúng ta chưa bao giờ từng thấy trên trái đất này. Đó có phải là câu hỏi của cậu không Eragon?”
“ Tôi … tôi nghĩ rằng, Có phải ông ta luôn đáp lại khi được thỉnh cầu không? Ông ta đã bao giờ từng cự tuyệt đăng quang cho một trong những người cai trị?”
Một cái nhíu mày rất hẹp của Orik “ Cậu đã từng nghe về những vị vua và nữ hoàng của Heretic trước đây chưa?”
Eragon lắc đầu.
“Họ là những thân vương không có được lời ban phúc của Gûntera với tư cách là người kế vị tiếp theo mà vẫn khư khư ôm lấy ngai,” Môi Orik cong lên “ Không có ngoại lệ, triều đại của họ đều rất ngắn và bất hạnh”
Ngực Eragon dường như thắt lại “vậy, thậm chí cuộc họp các bộ tộc chọn được người lãnh đạo, nếu Gûntera không trao vương miện cho ông thì giờ ông sẽ không phải là vua?” “Là như thế hoặc tôi sẽ là một ông vua của những cuộc xung đột nội bộ” Orik rụt vai “ Tôi không lo lắng về chuyện đó. Cùng với Varden chống sự xâm lược của Hoàng đế, chỉ có một tên điên mới mạo hiểm phá hủy bình yên của đất nước mình chỉ để đơn thuần là đưa mình lên ngai, và Gûntera có thể là rất nhiều thứ, nhưng ông ta không phải người điên”
“Nhưng ông không biết chắc” Eragon nói.
Orik lắc đầu “ Không cho tới khi ông ấy trao quyền lãnh đạo đặt lên đầu tôi”
 
41.Những Lời Vàng Son"Xin lỗi," Eragon nói vừa lúc đụng tới bồn nước.
Nasuada cau mày, mặt nhăn lại dài ra như một gợn nước đánh trên mặt hồ. "Vì chuyện gì chứ?" cô hỏi. "Tôi tưởng phải nên chúc mừng anh mới đúng. Anh đã làm được nhiều hơn chuyện mà tôi nhờ anh đi làm."
"Không, tôi…" Eragon khựng lại vì nhận thấy cô không thấy được những khuấy động trong nước. Thần chú khiến tấm kiếng của Nasuada có thể nhìn rõ ràng nó và Saphira nhưng không rõ những vật khác. "Tôi dùng tay đụng phải bồn nước rồi, có vậy thôi." "Ồ. Nếu vậy, để tôi chính thức chúc mừng anh, Eragon. Bằng cách bảo đảm ông Orik trở thành vua…"
"Cho dù là bản thân tôi bị tập kích?"
Nasuada mỉm cười. "Đúng vậy, cho dù khiến bản thân anh bị tập kích, anh vẫn phải giữ quan hệ với người lùn, và điều này chính là yếu tố quyết định thành bại. Câu hỏi hiện giờ là, bao lâu thì số quân còn lại của người lùn có thể tham chiến với chúng ta?" "Ông Orik đã ra lệnh cho quân sĩ chuẩn bị xuất binh," Eragon nói. "Họ có lẽ cần vài ngày để tập họp toàn quân, nhưng một khi xong, họ sẽ hành quân ngay lập tức." "Vậy cũng tốt. Chúng ta cần sự giúp đỡ của họ càng sớm càng tốt. Nhắc tới mới nhớ, khi nào thì bọn anh quay về với chúng tôi? Ba ngày? Bốn ngày?"
Saphira vẫy vẫy cánh, hơi thở nóng thổi ngay sau gáy của Eragon. Eragon liếc nhìn cô nàng rồi cẩn thận nói: "Tùy thuộc. Cô còn nhớ cuộc bàn thảo trước khi tôi ra đi không?" Nasuada mím môi. "Dĩ nhiên nhớ, Eragon, tôi…" Cô nhìn sang hình ảnh bên cạnh lắng nghe lời của một người đàn ông khác, giọng của ông ta thầm thì nhỏ khiến Eragon và Saphira không nghe được. Quay trở lại bọn họ, Nasuada nói: "Đoàn quân của chỉ huy trưởng Edric đã trở về. Bọn họ bị tử thương nghiêm trọng, nhưng lính gác cho hay Roran vẫn còn sống."
"Anh ta có bị thương hay không?" Eragon hỏi.
"Tôi sẽ cho anh biết khi hay tin mới. Hiện giờ thì cũng không nên lo lắng quá. Roran có vận may của…" Lại một lần nữa, một tiếng nói khác khiến Nasuada quay ra, rồi cô bước ra khỏi tầm nhìn.
Eragon có chút bồn chồn trong lúc chờ.
"Cho tôi xin lỗi," Nasuada nói, vẻ mặt của nàng lại hiện lên trên bồn nước. "Chúng ta đã tới gần Feinster, hiện giờ đang phải chống chọi với đám lính cướp bóc do phu nhân Lorana gởi đến từ thành thị để làm khó dễ chúng tôi… Eragon, Saphira, chúng tôi cần các vị cho cuộc chiến này. Nếu người dân Feinster chỉ thấy có chúng tôi, người lùn, giống Urgals tụ binh ngoài thành, bọn họ vẫn còn có niềm tin sẽ giữ vững được thành và sẽ chiến đấu dũng mãnh hơn. Đương nhiên là họ sẽ không giữ được điều mà đến giờ họ vẫn chưa nhận thức được. Nếu họ thấy một con rồng và một Kỵ Sĩ cầm đầu ba quân tấn công, đương nhiên là họ sẽ mất hết ý chí."
"Nhưng…"
Nasuada giơ tay lên ngắt ngang nó. "Còn có lý do khác để cho các vị quay về nữa. Vì các vết thương từ sau vụ thử Trường Kiếm, tôi không thể lên ngựa ra trận với người Varden như trước. Tôi cần các vị ngồi vào chỗ của tôi, Eragon, để có thể đem mệnh lệnh của tôi ban ra và cũng đồng thời nâng cao sĩ khí. Còn nữa, tin đồn các vị vắng mặt đã lan tràn khắp trại, cho dù chúng tôi cố gắng bưng bít cách nào đi nữa. Nếu Murtagh và Thorn trực tiếp tấn công vì việc này, hoặc nếu Galbatorix gởi quân chi viện cho Feinster… chỉ sợ, ngay cả có các thần tiên bên cạnh, tôi nghi ngờ khả năng chống giữ bọn họ. Tôi xin lỗi, Eragon, nhưng tôi không thể cho phép anh quay lại Ellesméra bây giờ. Hiện giờ tình thế nguy hiểm quá."
Nhấn tay lên bàn đá lạnh buốt đang giữ cái bồn nước, Eragon nói, "Nasuada, làm ơn đi. Nếu không bây giờ thì khi nào?"
"Sớm lắm. Anh phải kiên nhẫn một chút."
"Sớm lắm." Eragon hít một hơi dài, xiết chặc nắm tay trên bàn. "Sớm cỡ nào?" Nasuada cau mày nhìn nó. "Anh biết là tôi không biết mà. Trước tiên chúng ta phải lấy được Feinster, sau đó khoá chặt vùng nông thôn, rồi…"
"Rồi sau đó cô sẽ tấn công Belatona hay Dras-Leona rồi tới Urû’baen." Eragon nói. Nasuada muốn trả lời nhưng nó không cho cô ta cơ hội. "Càng tới gần Galbatorix thì cơ hội bị Murtagh và Thorn tấn công cao hơn hoặc ngay cả vua cũng sẽ tham chiến, đến lúc đó thì cô lại càng khó lòng để chúng tôi đi… Nasuada, Saphira và tôi không có đủ pháp thuật, trí tuệ và sức lực để giết Galbatorix. Cô biết điều này mà! Galbatorix có thể chấm dứt cuộc chiến bất cứ lúc nào nếu hắn chịu rời lâu đài của hắn và tấn công trực tiếp người Varden. Chúng tôi cần phải nói chuyện với các vị sư phụ lại. Họ có thể cho chúng tôi biết pháp lực của Galbatorix là từ đâu mà ra, và họ có thể chỉ thêm một hai chiêu cho chúng tôi để có thể đánh bại hắn."
Nasuada nhìn xuống đất, ngắm ngía hai bàn tay. "Thorn và Murtagh có thể tiêu diệt chúng tôi lúc hai người bỏ đi."
"Nếu chúng tôi không bỏ đi, Galbatorix sẽ tiêu diệt chúng ta khi tới Urû’bae… Cô có thể chờ vài ngày trước khi tấn công Feinster không?"
"Được, nhưng mỗi ngày chúng tôi còn cắm trại ngoài thành sẽ tốn nhiều nhân sĩ lắm." Nasuada dùng gót bàn tay xoa xoa hai bên thái dương. "Điều anh muốn sẽ rất hao tốn cho một giải pháp không chắc chắn đó Eragon."
"Giải pháp này có thể không chắc chắn," nó nói, "nhưng sự tận vong của chúng ta là không thể tránh khỏi nếu không thử."
"Thật không? Tôi không chắc lắm. Nhưng mà…" Một khoảng thời gian dài khó chịu trôi qua mà Nasuada vẫn im lặng nhìn quá khỏi hình ảnh trước mặt. Cuối cùng cô cũng gật đầu một cái, như quyết định một việc gì rồi nói: "Tôi có thể trì hoãn việc tấn công Feinster khoảng hai hay ba ngày. Có vài thị trấn khác trong vùng mà chúng tôi có thể nắm giữ trước. Một khi tới được thành thị, thì có thể qua thêm hai ba ngày nữa chờ người Varden chế tạo các máy công thành và các công cụ trấn thủ. Chắc không có ai lấy làm lạ đâu. Sau đó thì tôi bắt buộc phải đánh Feinster, không lý do gì khác ngoại trừ chúng tôi cần kho lương thảo của bọn họ. Một đoàn quân vẫn còn trong lãnh thổ của kẻ thù là một đoàn quân đói. Cao nhất là tôi có thể cho anh sáu ngày, và có lẽ chỉ được bốn ngày thôi." Cô ta vừa nói xong Eragon đã nhẩm tính lẹ trong đầu, "Bốn ngày thì không đủ," nó nói, "sáu cũng có lẽ không xong. Saphira cần ba ngày không ngủ mà không phải chở tôi để bay tới Farthen Dûr. Nếu bản đồ tôi có là chính xác thì khoảng cách tới Ellesméra cũng cỡ đó hoặc hơn, tương tự như từ Ellesméra về lại Feinster. Nếu phải chở tôi, Saphira sẽ không có khả năng bay xa lẹ như vậy được."
"Không, em không làm được đâu," Saphira nói với nó.
Eragon tiếp tục: "Dưới tình huống tốt nhất, chúng tôi vẫn cần một tuần để gặp lại mọi người ở Feinster và đó là chỉ tính không ngừng lại phút nào tại Ellesméra." Một vẻ mệt mỏi chán chường phủ lên mặt Nasuada. "Anh có cần phải bay tới tận Ellesméra không? Một khi qua khỏi cấm chế quanh Du Weldenvarden anh có đủ điều kiện để bói thủy tinh cầu với các vị sư phụ hay không? Bớt được chút thời gian nào rất là quan trọng."
"Tôi không biết nữa. Chúng tôi sẽ cố gắng."
Nasuada nhắm mắt một lúc lâu. Bằng giọng khàn khàn cô nói: "Chúng tôi có thể trì hoãn hành quân tới Feinster khoảng bốn ngày… Có đi Ellesméra hay không tôi sẽ để cho anh quyết định. Nếu phải đi thì nên ở đó cho đến khi xong chuyện. Anh nói đúng, trừ khi có cách đánh bại Galbatorix, còn không thì chúng ta không có hy vọng chiến thắng. Cho dù vậy, xin luôn nhớ về sự mạo hiểm kinh khủng mà chúng tôi đang lãnh, những mạng người Varden mà tôi phải hy sinh để giành thêm thời gian cho anh, và bao nhiêu nhân mạng Varden nữa sẽ chết nếu chúng tôi tấn công Feinster mà không có anh." Eragon ủ rủ gật đầu. "Tôi sẽ không quên đâu."
"Tôi hy vọng là vậy. Thôi đi đi! Đừng chậm trễ nữa. Bay! Bay! Hãy bay lẹ hơn chim ưng lao đầu tìm mồi Saphira và đừng để bất cứ chuyện gì làm các vị chậm lại." Nasuada lấy đầu ngón tay chạm vào môi rồi lại dùng ngón tay đó điểm lên mặt vô hình của tấm kiếng, nơi nó biết là đang giữ hình ảnh của nó và Saphira. "Chúc may mắn đến với cuộc hành trình của hai vị, Eragon, Saphira. Nếu chúng ta còn gặp mặt, lần sau sợ rằng là ở trên chiến trường rồi đó."
Rồi cô rời khỏi tầm nhìn của họ, sau đó Eragon giải bỏ thần chú và mặt bồn nưóc lại trở nên trong veo.
 
42.Cây giá hành hình.Roran ngồi thẳng lưng và nhòm chòng chọc phía sau Nasuada, đôi mắt nhìn xa xăm vào một nếp gấp của chiếc lều đỏ tía.
Anh có cảm giác là Nasuada đang phân tích mình, nhưng anh không dám nhìn thẳng vào ánh mắt chằm chằm đó. Suốt một hồi lâu, sự im lặng nặng nề bao phủ, Anh suy tính một loạt những khả năng kinh khủng có thể xảy ra, và thái dương giật mạnh vì một cơn nóng dữ dội. Anh ước giá mình bước ra khỏi cái lều ngột ngạt này và hít thở không khí mát lạnh bên ngoài.
Cuối cùng Nasuada nói
“Tôi sẽ làm gì với anh đây, Roran ?”
Anh gồng thẳng người hơn
“Bất cứ điều gì cô muốn, thưa công nương.”
“Câu trả lời tuyệt vời, Cây búa dũng mãnh, nhưng cách đó không giải quyết được tình thế khó xử của tôi” Nasuada nhấp một ngụm rượu vang trong cốc
“Anh đã hai làn coi thường mệnh lệnh chỉ thị của đội trưởng Edric, nếu lúc đó anh không làm vậy thì cả ông ta lẫn anh hay cả nhóm người đã tử trận các anh cũng sẽ không thể còn nói năng được gì về chuyện này. Dẫu vậy, sự thành công của anh không thể phủ nhận sự thật về sự bất phục tùng của anh. Theo như anh giải thích, anh đã cố tình làm trái mệnh lệnh, và tôi phải trừng phạt anh nếu muốn duy trì kỉ luật cho Varden.” “Vâng thưa công nương”
Trán cô ta tối sầm lại
“Tức muốn chết! Cây búa dũng mãnh, nếu anh là bất cứ ai khác ngoại trừ anh họ của Eragon, và nếu màn khởi đầu của anh ít có ảnh hưởng hơn, tôi sẽ trói anh lại và treo lên vì hành vi sai quấy này”
Roran nuốt nước miếng khi tưởng tượng ra cảnh một chiếc thòng lọng quấn quanh cổ. Bằng ngón giữa bàn tay phải, Nasauda gõ nhẹ vào tay vịn chiếc ghế dựa cao Với nhịp ngày càng nhanh trước khi ngừng lại, cô nói “ Anh có muốn tiếp tục chiến đấu cùng Varden không Roran ?”
“Có, thưa công nương” anh đáp lại không hề ngập ngừng.
“ Anh sẽ làm gì để tuân thủ mệnh lệnh nhằm tiếp tục đứng trong quân đội của tôi?” “ Bất cứ điều gì tôi phải làm thưa công nương”
Sự căng thẳng trên khuôn mặt biến mất, Nasuada gập đầu, sự hài lòng lộ rõ”Tôi hy vọng rằng anh sẽ nói vậy. Theo tiền lệ và các quy định trước đây, tôi có ba sự lựa chọn. Một là, tôi sẽ trói anh lại, nhưng tôi sẽ không làm vậy,… Vì vô số lí do. Hai là, tôi sẽ phạt anh 30 roi rồi cắt chức anh trong hàng ngũ của Varden. Hoặc điều thứ ba, tôi sẽ phạt anh 50 roi và giữ anh lại dưới sự chỉ huy mình”
50 roi không nhiều hơn 30 là mấy, Roran nghĩ, cố nén sự can đảm của mình xuống. Anh liếm môi “ Tôi có bị đánh ở nơi tất mọi người đều thấy không?”
Lông màu Nasuada nhíu lại một phần vài inch. “Sự kiêu hãnh của anh không có phần tại đây, Cây búa dũng mãnh ạ. Sự trừng phạt phải rất khắt khe để những người khác không kích động theo bước của anh, và nó phải được công khai để toàn thể Varden có thể có được bài học từ đó.Nếu anh chỉ thông minh bằng một nửa những gì đã thể hiện, anh sẽ biết khi làm trái lệnh Edric rằng quyết định của mình sẽ có hậu quả và rằng những hậu quả đó sẽ không mấy dễ chịu gì. Sự lựa chọn của anh bây giờ rất đơn giản: Anh sẽ ở lại cùng Varden hay từ bỏ bạn bè, gia đình và đi con đường của riêng anh?” Roran ngẩng cao cằm, tức giận vì cô ta đã nghi ngờ về lời hứa của anh
“Tôi sẽ không đi đâu thưa quý công nương Nasuada. Cô phạt cho tôi bao nhiêu roi không thành vấn đề, chúng không thể đau đớn bằng việc mất người cha và gia đình của tôi.” “Không” Nasuada nhẹ nhàng nói.
“ Chúng không bằng … một phù thủy của Du Vrangr Gata sẽ theo dõi trận đòn này và chăm sóc cho anh sau đó, để đảm bảo tuyệt đối là anh không bị thương tật vĩnh viễn. Tuy nhiên, họ sẽ không hoàn toàn chữa khỏi thương tích của anh, hoặc không anh có thể kiếm một phù thủy để chữa lưng cho mình”
“Tôi hiểu”
“Trận đòn của anh sẽ sớm được tiến hành khi Jörmundur có thể sắp xếp xong quân lính. Cho đến sau đó, anh sẽ ở nguyên dưới sự canh gác trong một căn lều gần giá chịu phạt. Roran bớt căng thẳng hơn rằng anh không phải đợi quá lâu, anh không muốn phải gồng mình nhiều ngày dưới bóng tội lỗi phủ xuống mình.
“Công nương của tôi” anh nói, nhưng cô ta đã ra hiệu cho anh rút ra bằng một cái vẫy ngón tay.
Quay gót giày, Roran bước đều ra khỏi căn lều. Hai người lính canh dẫn anh tới chỗ của mình khi anh xuất hiện. Không thèm nhìn hoặc nói bất cứ điều gì với anh, họ dẫn anh qua khu doanh trại cho đến khi tới một căn lều nhỏ trống không, không xa lắm với chiếc cột xử phạt tối sẫm đang đứng trên một gò đất mỏng xa xa rìa của khu doanh trại. Chiếc cột cao sáu feet rưỡi và có một thang ngang như một cây thập giá ở gần phía trên để trói tay phạm nhân. Hàng dài những vết xù sì do vết cào từ móng của các nạn nhân phủ kín cây thập giá.
Roran ép mình nhìn đi hướng khác rồi cúi xuống chui nhanh vào lều. Thứ đồ dùng duy nhất bên trong là một chiếc ghế đẩu méo mó. Anh ngồi xuống và tập trung vào hơi thở của mình, xác định rõ lại mọi chuyện để tĩnh tâm.
Một vài phút trôi qua, Roran bắt đầu nghe thấy âm thanh nặng nề của những đôi giày và giáp trận khi quân Varden tập hợp quang cây cột hành quyết. Roran hình dung ra hàng nghìn người, đàn ông và đàn bà nhìm chòng chọc vào anh, bao gồm cả những dân làng Carvahall. Mạch anh đập nhanh và mồ hôi chảy như suối trên trán.
Sau khoảng nửa giờ, cô phù thủy Trianna bước vào lều và bắt anh thay quần khiến Roran rất bối rối, mặc dù người phụ nữ này có vẻ như không quan tâm đến việc đó. Trianna kiểm tra anh từ đầu tới chân và thậm chí còn niệm thêm cả thần chú để khám chữa cho cái vai trái của anh, chỗ anh đã bị một tên lính bắn trúng.
Sau khi tự nhiên sửa chữa khắp cơ thể anh, cô ta đưa cho anh một chiếc áo sơ mi thụng của lều giam.
Roran vừa kéo xong chiếc áo qua khỏi đầu khi Katrina bước vào lều. Vừa trông thấy cô, sự vui sướng lẫn cả lo sợ tràn ngập Roran.
Katriana nhìn anh và Trianna rồi khẽ nhún người chào với cô phù thủy. “ Tôi có thể nói chuyện riêng với chồng tôi một lúc không thưa bà?”
“Dĩ nhiên là được, tôi sẽ chờ ở ngoài “
Ngay lập tức Trianna biến đi, Katrina vội vàng lao về phía Roran, vòng tay ôm ghì lấy anh. Anh cũng ôm chặt lấy cô mãnh liệt bù cho những ngày anh đã không được gặp cô kể từ khi trở về Varden.
“Oh, em mới nhớ anh làm sao” Katrina thầm thì vào tai phải anh
“ Và anh cũng vậy” anh nói nhỏ.
Họ đã phải cố rời xa nhau quá lâu vì thế họ có thể nhìn mãi vào mắt nhau, và rồi Katrina giận giữ.
“ Đây là một sai lầm. Em đã đến chỗ Nasuada, và em đã cầu xin cô ấy tha cho anh hay ít nhất là bớt đi số roi anh phải chịu, nhưng cô ấy đã từ chối chấp nhận lời khẩn cầu của em”
Âu yếm xoa bàn tay vào lưng Katrina, Roran cất tiếng. “Anh ước rằng em đã không làm như vậy”
“Sao không?”
“ Bởi vì anh đã nói rằng anh sẽ ở lại cùng Varden, và anh sẽ không quay lưng lại với lời hứa của mình”
“Nhưng như thế đâu có đúng ” katrina nói, ôm chặt lấy vai anh.
“Carn đã nói với em những việc anh đã làm Roran ạ: anh đã tự hạ gục được gần 200 tên lính, và nếu không có hàng động anh hùng của anh, sẽ không có ai kể cả anh còn sống sót. Nasuada phải ca ngợi tán dương và tặng tặng vật cho anh chứ không phải phạt đòn anh như một tên phạm tội tầm thường!”
“ Không phải vấn đề là đúng hay sai” anh nói với cô “ Đó là cần thiết. Nếu anh ở địa vị của Nasuada anh cũng sẽ ra lệnh như vậy”
Katrina rùng mình “ 50 roi, dù sao … nó có phải nhiều đến như thế không? Một người có thể sống đi chết lại rất nhiều lần với chừng ấy roi vọt. ”
“ Chỉ khi trái tim họ quá hèn yếu thôi. Đừng lo lắng gì, sẽ cần hiều hơn thế mới hạ được anh.”
Một nụ cười ngượng gạo nở trên môi Katrina, cô thôi nức nở và dựa khuôn mặt mình vào cổ anh. Anh nâng niu cô trong vòng tay vuốt ve mái tóc cô và làm cô yên lòng bằng cách tốt nhất mà anh có thể, mặc dù anh cảm thấy mình làm việc đó không giỏi bằng cô. Sau đó vài phút, Roran nghe thấy tiếng tù và bắt đầu thổi phía ngoài lều, và anh biết rằng thời khắc họ phải rời nhau đang đến rất gần. Tách mình khỏi vòng tay Katrina, anh nói “Có vài việc anh muốn em làm giúp anh”
“ Việc gì vậy?” Cô hỏi, chớp nhẹ đôi mắt.
“Hãy đi về lều của chúng ta và đừng rời khỏi đó cho đến hết cuộc hành hình này” Katrina thấy shock vì lời đề nghị của anh.
“ Không! Em sẽ không bỏ anh lại …. Không phải bây giờ”
“ Làm ơn đi mà” anh nói “ Em không nên chứng kiến điều này”
“ Và anh không nên phải chịu đựng điều này” Cô vặn lại.
“ Quên điều đó đi. Anh biết em muốn bên cạnh anh, nhưng anh có thể chịu đựng được nó đỡ hơn nếu anh biết rằng em không ở đó để chứng kiến … Anh Anh đã tự chuốc lấy điều này, Katrina, và anh không muốn em phải đau khổ bởi vì nó “
Nét mặc cô trở nên miễn cưỡng.
“ Biết về vận mệnh anh đang phải gánh chịu sẽ làm tổn thương em bất kể em có đứng ở đâu đi nữa. Tuy nhiên …. Em sẽ làm như anh bảo, nhưng chỉ vì bởi điều đó sẽ giúp anh vượt qua thử thách này … Anh biết rằng em ước mình chịu thay anh những phát roi quất lên cơ thể anh nếu em có thể .“
“ Và em biết “ anh nói, hôn lên hai má cô “ rằng anh không muốn em đến gần đó” Nước mắt lại trào ra ướt nhòe đôi mắt, cô kéo anh lại gần hơn, ôm anh thật chặt, anh phải rất khó mới thở nổi.
Họ vẫn quấn lấy nhau khi tiếng người xôn xao trên lối đi tiến về phía căn lều đã yên ắng và Jörmundur đã đi vào, cùng với hai người của nhóm Ó đêm. Katriana rời khỏi Roran, nhún người chào Jörmundur sau đó cúi người bước khỏi căn lều trong im lặng. Jörmundur chỉ tay về phái Roran “ Đã đến giờ”
Gật đầu, Roran đứng dậy đi theo Jörmundur và những người lính gác bày tỏ lòng kính trọng với anh xung quanh cây cột hình phạt. Hàng nối hàng, những người Varden quây quanh cây cột, mọi người, đàn ông, đàn bà, cả người lùn và Urgal đều đang đứng thằng người và nghiêng vai. Sau kho liếc qua một lượt, Roran tập trung nhìn chằm chằm vào đường chân trời, đó là cách tốt nhất để anh có thể phớt lờ mọi khán giả chung quanh. Hai người lính nhấc tay Roran lên cao quá đầu và buộc chặt cổ tay vào thanh ngang của cây cột. Trong khi đó, Jörmundur bước quanh đằng trước chiếc cột và cầm một cuộn vải da. “Đây, cắn vào đây” ông nói bằng một giọng nhẹ nhàng “ nó sẽ giữ cho anh khỏi tự làm mình bị thương”
Một cách biết ơn, Roran mở miệng và để cho Jörmundur nhét cuộn da giữa hai hàm răng. Mảnh da có vị đăng đắng, như quả dầu xanh.
Sau đó một tiếng tù và và một hồi trống vang lên rồi Jörmundur đọc to những lời buộc tội chống lại Roran và những người lính cắt rách chiếc áo sơ mi thụng của Roran. Anh rùng mình khi khi luồng không khí lạnh lướt qua nửa thân trên để trần. Ngay trước khi bị đánh, Roran còn nghe thấy tiếng roi rít lên trong không trung.
Cảm giác giống như một cây gậy nung đỏ quất vào d.a thịt. Roran uốn cong lưng và cắn mạnh vào miếng vải chặn trong miệng. Một tiếng rên rỉ vô tình buột ra, dù vậy miếng vải đã chặn âm thanh đó lại nên anh nghĩ rằng sẽ không một ai nghe thấy được cả. “Một” Tiếng người thi hành án vang lên cùng với tiếng roi.
Roi thứ hai quất xuống làm cho Roran lại thốt lên một tiếng rên, nhưng sau đó anh lập tức im lặng, quyết tâm không được tỏ ra yếu đuối trước toàn thể Varden. Roi đánh cũng đau đớn như bất cứ vết thương nào Roran đã phải trải qua vài tháng trước đây, nhưng sau mười hai hoặc nhiều hơn, anh phải cố gắng chống lại sự đau đơn và nhượng bộ, anh dần rơi vào chạng thái hôn mê lờ mờ. Thị lực yếu dần cho tới khi thứ duy nhất anh trông thấy là chiếc cột gỗ đã mòn phía trước mặt, những lúc đó, khung cảnh trước mặt anh như chập chờn và trống không khi bị cuốn vào cơn lũ dữ dội của trạng thái vô thức.
Sau một một hồi tưởng như vô tận, anh nghe thấy như không rõ ràng và rất xa xôi một giọng nói cất vang, “ ba mươi” và sự tuyệt vọng vây chặt khi anh kinh ngạc, làm sao mình có thể chịu đựng được hai mươi roi còn lại? Rồi anh nghĩ tới Katrina và đứa trẻ chưa sinh của họ, điều đó tiếp cho anh thêm sức mạnh.
Roran tỉnh dậy thấy mình đang nằm úp ngực trên võng trong căn lều của anh và Katrina. Katrina đang quỳ gối cạnh anh, vuốt ve mái tóc anh và thì thầm vào tai anh, trong khi một ai đó đang bôi một thứ chất lành lạnh, nhày nhày lên những hằn roi trên lưng anh. Anh cau mày và gồng mình khi người lạ mặt đó ấn ngón tay vào một điểm đặc biệt nhạy cảm.
“ Đó không phải là cách tôi đối xử với bệnh nhân của mình” Anh nghe thấy Trianna nói bằng một giọng kiêu ngạo”
“Nếu bà hành hạ tất cả bệnh nhân của mình như đang làm với Roran” một phụ nữ khác đáp lại.
“ Tôi ngạc nhiên là có ai còn sống sót vì sự chữa trị của bà”
Sau một lát, Roran nhận ra giọng nói của người lạ thứ hai, bà lang mắt sáng Angela. “Tôi xin bà tha lỗi” Trianna nói “ Tôi sẽ không ngồi đâu và chịu lăng mạ bởi một mụ hát rong lẩm cẩm,người phải cố gắng lắm mới miện được câu thần chú cơ bản nhất” “Ngồi xuống, rồi, nếu việc đó làm cô hài lòng, nhưng nếu cô ngồi hay đứng, tôi cũng sẽ tiếp tục làm phật ý cô cho đến khi cô chấp nhận rằng huyệt trên lưng của cậu ta nằm ở đây chứ không phải ở đấy” Roran cảm thấy một ngón tay chạm vào anh ở hai điểm khác biệt, cách nhau nửa inch.
“Oh” Trianna nói, và rời khỏi lều.
Katrina cười với Roran, và lần đầu tiên, anh nhận thấy nước mắt chảy dài trên mặt cô. “Roran, anh có hiểu em nói gì không?” Cô hỏi “Anh tỉnh dậy chưa?”
“ Anh … anh nghĩ vậy” anh đáp, giọng bực bội. Quai hàm anh nhức nhối vì cắn vào miếng bịt miệng quá lâu. Anh ho đằng hắng, rồi nhăn mặt khi tất cả vết hằn của 50 roi cùng hợp lại làm anh đau nhức nhối.
“Tôi đi đây” Angela nói.
“Tất cả đã xong”
“Thật ngạc nhiên. Tôi đã không mong chờ bà và Trianna lại làm nhiều đến vậy “ Katrina nói.
“Theo lệnh của Nasuada”
“ Nasuada? … Tại sao….”
“ Cô sẽ phải tự đi hỏi cô ta, nói với cậu ta đừng dùng đến lưng nếu muốn nó lành. Và bắt cậu ta lật người lại nếu không muốn nước mắt làm nhiễm trùng vết thương.” “Cám ơn bà “ Roran thì thào.
Angela cười lớn phía sau anh. “Đừng nghĩ ngợi về nó, Roran. Hoặc tốt hơn, nghĩ vài điều về nó, nhưng đừng nghĩ nó quá quan trọng. Ngoài ra, nó làm ta thấy thú vị khi chăm sóc vết thương cho cả lưng ngươi và lẫn lưng Eragon. Phải, sau này ta dự trữ sẵn, Đề phòng để khỏi phải đi tìm”
Khi bà lang đã đi, Roran nhắm mắt lại. Những ngón tay mềm mại của Katrina vuốt nhẹ trán anh. “ Anh đã rất can đảm” Cô nói.
“Anh ư?”
“Aye, Jörmundur và mọi người khác em đã nói chuyện đều kể rằng anh không hề khóc lóc hay van xin dừng đánh”
“Tốt” Anh muốn biết vết thương của mình nghiêm trọng đến mức nào nhưng anh đã miễn cưỡng buộc cô miêu tả lại những chấn thương trên lưng mình.
Katrina dường như ý thức được yêu cầu của anh, tuy nhiên, thay vào đó cô nói “ Angela tin rằng với một chút may mắn anh sẽ không có những vết sẹo quá xấu xí. Bất kì lúc nào, anh sẽ chóng lành vết thương, Eragon hoặc ai phù thủy nào đó có thể xóa những vết sẹo khỏi lưng anh và nó sẽ như thể anh chưa từng bị đòn lần nào.”
“Mmh.”
“Anh có muốn uống chút gì không?” Cô hỏi.
“Em có một bình trà thảo mộc đang pha”
“Có, cho anh xin”
Khi Katrina đứng dậy, Roran nghe thấy một người khác bước vào lều. Anh mở một mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy Nasuada đang đứng cạnh cây cột trước lều.
“ Công nương” Katrina nói, giọng cô sắc lạnh. Bất chấp những vết thương trên lưng, Roran trở mình một phần với sự giúp đỡ của Katrina, cố ngồi dậy. Dựa vào Katrina, anh bắt đầu đứng lên, nhưng Nasuada đã giơ tay “Làm ơn đừng. Tôi không muốn là nguyên nhân khiến anh đau đớn hơn nữa so với những gì tôi đã làm”
“Tại sao cô tới đây, công nương Nasuada?” Katrina hỏi.
“Roran cần nghỉ ngơi và bình phục, không phải dành thời gian tiếp chuyện nếu anh ấy không bị bắt buộc”
Roran rời một tay khỏi vai trái Katrina “ Anh có thể tiếp chuyện nếu anh phải làm vậy” Anh nói.
Tiến gần hơn vào trong lều, Nasuada nắm lấy gấu váy xanh của cô và ngồi xuống chiếc rương nhỏ của Katrina được mang đi theo cô từ Carvahall. Sau khi xếp lại nếp váy, cô ta nói ”Tôi có một nhiệm vụ khác cho anh, Roran: một cuộc đột kích bất ngờ nho nhỏ mà anh sẵn sàng tham gia.”
“Khi nào thì tôi sẽ đi?” Anh hỏi, bối rối vì cô ta đã phải quấy rầy anh chứ không phải ai khác như một phân công đơn giản.
“Ngày mai”
Mắt Katrina trợn lên. “Cô có điên không?” cô la lên.
“Katrina … “ Roran lầm bầm, cố gắng trấn tĩnh cô, như cô làm lơ anh và nói ” Chuyến đi gần nhất cô bắt anh ấy đi suýt đã giết chết anh ấy, và cô lại vừa quất chồng vào từng inch một lên cuộc sống của anh ấy! Cô không thể ra lệnh cho anh ấy trở lại chiến đấu quá nhanh. Anh ấy sẽ không thế tiếp tục chống lại quân đội của Galbatorix thêm một phút nào nữa!”
“Tôi có thể và tôi phải làm vậy!” Nasuada cất giọng đầy quyền lực, Katrina giữ lời và chờ đợi để nghe Nasuada giải thích, mặc dù Roran có thể nói rằng sự tức giận của cô đã giảm bớt. Nhìn chằm chằm vào anh một cách dữ dội, Nasuada nói.
“Roran, nếu anh có hoặc không biết rằng, liên minh của chúng ta với Urgal đang trên bờ đổ vỡ. Một trong số những người của ta đã giết ba Urgal trong khi anh đang phục vụ dưới trướng đội trưởng Edric, là ai, anh có thể không cần quan tâm, đó là một đội trưởng không hơn. Dù vậy, tôi đã có một người giết Urgal xấu số bị treo cổ, nhưng từ việc đó, mối quan hệ với những con đực của Garzhvog trở nên càng ngày càng bất hòa.“ Nasuada mím môi rồi nói”Tôi cần thuyết phục Varden chấp nhận sự hiện diện của Urgal mà không có thêm đổ máu, và cách tốt nhất tôi có thể làm đó là chứng minh cho Varden thấy rằng hai loài có thể cùng nhau làm việc trong hòa bình để tiếp tục theo đuổi việc chia sẻ cùng một thắng lợi. Theo phương châm đó đến cùng, nhóm của anh sẽ hành quân với quân số bao gồm cả con người và Urgal với số lượng như nhau.”
“Nhưng như thế vẫn không …” Katrina bắt đầu nói.
“Và tôi đang đặt tất cả họ dưới sự chỉ huy của anh, cây búa dũng mãnh.” “Tôi ư?” giọng nói the thé, đầy kinh ngạc “Tại sao?”
Với nụ cười tỉnh queo, Nasuada nói” Bởi vì ai sẽ làm bất cứ điều gì phải làm để ra lệnh bảo vệ những người bạn và gia đình. Về điều đó, anh giống tôi, mặc dù gia đình tôi lớn hơn của anh, đó là tôi nói đến toàn thể Varden, những người ruột thịt đối với tôi. Ngoài ra, bởi vì anh là anh họ Eragon, tôi không thể để anh lại trái lệnh để dưỡng bệnh, tôi không thể chọn giữa việc xử phạt anh hay trục xuất anh khỏi Varden. Tôi cũng không muốn làm vậy.”
“Giả thuyết là, tôi đang trao cho anh quyền chỉ huy tự quyết bởi thế không ai có thể trái lệnh anh trừ tôi. Nếu anh phớt lờ các mệnh lệnh, tốt nhất đó là vì mục đích tiêu diệt Galbatorix, thì không cần một lí do nào khác để cứu anh tránh xa những trận roi như anh đã nhận được hôm nay.
Và tôi trao anh quyền chỉ huy này, bởi anh đã chứng minh rằng anh có thể thuyết phục những người khác đi theo mình, mặc dù thực tế có rơi vào hoàn cảnh gian nan nhất. Anh có khả năng tốt để để duy trì sự kiểm soát đối với cả nhóm người và Urgal. Tôi sẽ cử Eragon nếu tôi có thể, nhưng cậu ta không có ở đây, trách nhiệm này rơi vào tay anh. Khi Varden nghe rằng chính anh họ Eragon, Roran, Cây búa dũng mãnh- anh người đã tự tay tiêu diệt gần hai trăm quân địch-đến với sứ mệnh với Urgal và sứ mệnh đó đã thành công, rồi chúng ta có thể giữ cho liên minh với Uragal trong thời điểm cuộc chiến này. Đó là lí do tôi cử Angela và Trianna tới chữa trị cho anh nhiều hơn là thường lệ: Không phải là thừa đâu, nhưng bởi vì tôi cần anh đảm nhận sự lãnh đạo này. Nào, những gì tôi nói với anh, Cây búa dũng mãnh? Tôi có thể đặt cược vào anh không?”
Roran ngước nhìn Katrina. Anh biết cô đã ước liệu rằng anh sẽ nói với Nasuada là anh không thể chỉ huy một cuộc đột kích. Ánh mắt anh dịu đi bởi anh đã không phải nhìn thấy cô đau buồn, Roran nghĩ về sự kích thước khổng lồ của đội quân tương phản với Varden, và rồi, bằng một giọng khàn khàn rất khẽ anh nói:
“Cô có thể đặt cược vào tôi, công nương Nasuada.”
 
43. Giữa Các Tầng Mây
Từ Tronjheim, Saphira bay năm dặm tới tường trong của Farthen Dûr, rồi cô nàng và Eragon đi vào đường hầm đào theo hướng đông trải dài hàng dặm dưới chân Farthen Dûr. Eragon có thể chạy hết đoạn đường hầm này trong mười phút nhưng nóc hầm khiến Saphira không thể bay hay nhảy được cho nên cô nàng sẽ không thể giữ tốc độ với nó được, vì thế nó chỉ giới hạn bản thân bằng cách đi bộ thật lẹ thôi.
Một tiếng sau, bọn họ xuất hiện tại thung lũng Odred trải dọc theo hướng nam bắc. Xen giữa các chân đồi ở ngay đầu hẹp của thung lũng đầy dương xỉ này là hồ Fernoth-mérna, một hồ khá lớn trông xa giống như một giọt mực đen giữa các rặng núi cao của dãy Beor. Đầu phía bắc của hồ Fernoth-mérna là giòng Ragni Darmn, chảy quanh co trong thung lũng cho tới khi được nhập vào hồ Az Ragni ở ngay sườn núi Moldûn the Proud, ngọn núi cực bắc của dãy Beors.
Bọn họ rời khỏi Tronjheim từ sớm trước khi trời sáng và cho dù đường hầm khiến họ bị chậm lại, lúc này vẫn còn đang trong buổi sáng sớm. Những dải mây tả tơi trên trời xen lẫn với những tia nắng vàng le lói qua đỉnh các ngọn núi cao chót vót. Ở thung lũng bên dưới, những gợn mây bám vào các ngọn núi như những con rắn khổng lồ. Từng lọn mây mù bay lơ lửng trên mặt hồ trong như gương.
Eragon và Saphira dừng lại cạnh hồ Fernoth-mérna để uống nước và thấm mát da cho chặng tới của hành trình. Nước hồ được tan ra từ tuyết và đá ở trên cao ngọn núi. Nước lạnh khiến răng Eragon hơi nhức. Nó nhắm mắt, dậm chân, la hét khi bị lạnh buốt lên tới đầu.
Khi đã đỡ nhức một chút, nó nhìn ngang hồ. Giữa tấm màn sương mù, nó thấy được một lâu đài đổ nát xây trên đá nằm trải dài trên một ngọn núi. Dây leo quấn chằng chịt chung quanh các bức tường đổ nát, nhưng ngoài việc đó ra, cả kiến trúc không hề có sức sống. Eragon rùng mình. Toà nhà bỏ không nhìn u ám, đáng ngại giống như một xác chết bị rữa ở giữa bầy thú rừng bẩn thỉu.
"Xong chưa?" Saphira hỏi.
"Xong rồi," nó nói rồi leo lên yên ghế.
Từ hồ Fernoth-mérna, Saphira bay theo hướng bắc, dọc theo thung lũng Odred ra khỏi rặng núi Beor. Thung lũng này không dẫn thẳng tới Ellesméra vốn ở xa hơn nữa về hướng tây, nhưng bọn họ không có chọn lựa nào khác nên đành phải ở trong thung lũng vì các hẻm núi ở đây đều cao hơn năm dặm.
Saphira chỉ bay cao đến mức Eragon có thể chịu đựng nổi vì cô nàng bay càng cao nơi không khí loãng hơn, thì càng lẹ. Eragon chống cái lạnh cóng bằng cách mặc nhiều lớp áo và dùng thần chú để tách luồn hàn khí dạt sang hai bên.
Ngồi trên người Saphira cũng không phải dễ chịu lắm, nhưng cô nàng ráng quạt cánh chậm và đều đặng nên Eragon cũng không phải chú tâm giữ thăng bằng như khi cô nàng đảo người, bổ nhào hoặc thi triển những thao tác phức tạp khác. Hầu hết thời gian là nó chia ra giữa nói chuyện với Saphira và suy nghĩ về những chuyện xảy ra trong vài tuần qua cũng như luôn quan sát học hỏi những cảnh vật bên dưới.
"Anh dùng pháp thuật mà không cần tới cổ ngữ khi người lùn tấn công anh," Saphira nói. "Làm vậy nguy hiểm lắm."
"Anh biết, nhưng anh không có thời gian để nghĩ ra chữ. Hơn nữa, mình không cần phải dùng cổ ngữ khi niệm thần chú.
"Cái đó thì khác. Em là rồng. Tụi em không cần cổ ngữ để biểu lộ ý tưởng; chúng em biết mình muốn gì và suy nghĩ cũng không thay đổi dễ dàng như loài người hay các thần tiên."
Mặt trời chỉ mới nhú lên khỏi chân trời một bàn tay là Saphira đã lướt qua khỏi miệng thung lũng lên một khoảng đất cỏ bằng phẳng không bóng người giáp ranh với rặng núi Beor. Ngồi thẳng người trên yên, Eragon ngó kỹ xung quanh rồi lắc đầu, vô cùng ngạc nhiên về khoảng cách bọn họ vừa bay qua. "Nếu chúng ta bay tới Ellesméra trước," nó nói. "Chúng ta có lẽ có nhiều thời giờ với Oromis và Glaedr hơn." Saphira chỉ gật đầu đồng ý.
Saphira bay cho tới khi mặt trời lặn và các vì sao bao phủ khắp trời và các ngọn núi chuyển sang màu tím đen mờ mờ phía sau. Cô nàng có lẽ còn muốn bay nữa nhưng Eragon nhất quyết muốn bọn họ phải nghỉ ngơi. "Em vẫn còn mệt lắm sau chuyến đi Farthen Dûr. Chúng ta có thể bay nguyên đêm ngày mai và ngày mốt cũng được, nếu cần, nhưng tối nay em phải ngủ.”
Mặc dù Saphira không thích đề nghị này lắm nhưng cô nàng cũng đồng ý và lựa một đám liễu mọc bên bờ một dòng suối để dừng chân. Khi Eragon vừa nhảy khỏi yên, nó phát hiện cả hai chân đều cứng lại, khiến nó phải khó khăn lắm mới đứng vững được. Nó cởi yên ra khỏi Saphira, rồi trải một tấm thảm lên mặt đất kế cô nàng và nằm xuống, lưng đụng vào th.ân thể ấm áp của cô ả. Nó không cần lều vì cô nàng dùng cánh bao bọc lấy nó như một con chim mẹ che chở chim con. Cả hai mau chóng chìm vào giấc ngủ mộng mị lại liên kết được với nhau trong mộng vì đường truyền tinh thần của cả hai vẫn còn đó. Ánh sáng vừa xuất hiện ở phía đông là Eragon và Saphira đã tiếp tục lên đường, bay cao trên những đồng bằng xanh tươi.
Đến giữa sáng thì đụng phải gió ngược khiến Saphira chậm lại phân nửa tốc độ bình thường. Cho dù cố cách mấy, cô nàng vẫn không bay cao hơn ngọn gió này được. Cô nàng cả ngày phải chống cự lại gió cuốn, công việc thật khó khăn cho dù có Eragon bên cạnh giúp thêm sức, đến trưa thì rõ ràng cô nàng đã mệt nhoài. Cô nàng bổ nhào xuống một gò đất trên đồng cỏ và xếp cánh ngồi đó, thở hổn hển, cả người rung rẩy. "Tối nay chúng ta nên ở lại đây." Eragon nói.
"Không."
"Saphira, tình trạng em không khá để đi tiếp. Hãy dựng trại cho tới khi em hồi phục. Biết đâu chiều mai gió sẽ giảm bớt."
Nó nghe tiếng xoẹt xoẹt ươn ướt khi cô nàng liếm miệng rồi cố thở phịch một cái rồi tiếp tục thở hổn hển.
"Không," cô nàng nói. "Trên những đồng bằng này, gió có thể thổi mấy tuần hoặc mấy tháng lận. Chúng ta không thể nào chờ cho dịu lại được."
"Nhưng..."
"Em sẽ không chịu thua chỉ vì mệt một tí đâu, Eragon. Quá nhiều thứ được đánh cược trong chuyến đi này..."
"Vậy để anh đem năng lực từ chiếc nhẫn Aren chuyền cho em. Nhẫn còn đủ để giúp em từ đây tới Du Weldenvarden."
"Không," cô nàng khăng khăng. "Chừa Aren lại khi chúng ta không còn cách nào khác. Em có thể nghỉ và phục hồi trong rừng. Nhẫn Aren chúng ta có thể cần phải dùng bất cứ lúc nào; anh không nên hao phí như vậy chỉ đễ em dễ chịu một chút."
"Anh không thích thấy em bị đau nhức như vậy."
Một tiếng gầm nhẹ rời khỏi miệng cô nàng. "Tổ tiên của em, loài rồng hoang dã, không phải thấy gió tí tẹo vậy mà rụt mình, em cũng vậy thôi."
Nói xong, cô nàng bay lên không tiếp tục mang nó theo vào cơn gió lốc. Đến gần cuối ngày, gió vẫn còn gào thét chung quanh họ, đẩy ngược vào người Saphira như thể vận mạng không muốn họ tới được Du Weldenvarden, Eragon nghĩ tới cô gái người lùn Glûmra và lòng tin của cô ta ở các vị thần người lùn, và đây là lần đầu tiên trong đời, nó có ý định muốn cầu nguyện. Eragon rút bỏ liên lạc tinh thần giữa hai người, cô nàng lúc này cũng mệt và lo ra quá nên không để ý, Eragon thì thầm, "Gûntera, vua của các vị thần, nếu quả người hiện hữu, và có thể nghe được con, nếu có thể, xin người hãy dừng cơn gió này lại. Con biết con không phải là người lùn, nhưng vua lùn Hrothgar đã nhận con vào bộ tộc của ông ta vì thế con nghĩ con có quyền cầu nguyện tới người. Gûntera, van xin người, chúng con phải đến được Du Weldenvarden càng sớm càng tốt, không phải chỉ vì lợi ích của dân chúng Varden mà còn là lợi ích của con dân của ngài, người lùn. Van xin ngài, xin ngài làm gió ngừng lại. Saphira sẽ không còn chịu đựng được bao lâu nữa." Sau đó cảm thấy như hơi bị khờ tí, Eragon nối lại sợi dây tinh thần với tri thức của Saphira, nháy mắt tội nghiệp khi nó cảm nhận được bắp thịt cô nàng như đang bị thiêu đốt.
Đêm đó, khi mọi thứ đều trở nên lạnh và đen thủi, cơn gió lúc này liền dịu lại, và cuối cùng chỉ còn đôi lúc tạt vào người một làn gió mạnh mà thôi.
Đến khi trời sáng, Eragon nhìn xuống thì thấy mảnh đất khô cằn của sa mạc Hadarac. "Chết thật," nó nói vì bọn họ không đi xa được như ý nó muốn. "Chúng ta sẽ không đến kịp Ellesméra hôm nay phải không?"
"Trừ khi gặp gió thuận có thể đẩy chúng ta từ sau lưng." Saphira ráng sức thêm được vài phút rồi nói thêm, "nhưng trừ khi có gì trục trặc, bọn mình sẽ tới Du Weldenvarden lúc buổi chiều."
Eragon làu bàu.
Hôm đó bọn họ chỉ dừng chân hai lần. Trong một lần dừng chân, Saphira nuốt cả đàn vịt hoang bắt được và giết bằng cách khà ra một đám lửa, nhưng ngoài ra thì không ăn gì khác hết. Để bớt giờ, Eragon chỉ đành ăn trên yên.
Như Saphira dự đoán, Du Weldenvarden hiện ra trong tầm mắt trước khi mặt trời lặn. Khu rừng trước mặt trở nên một dải xanh tươi vô tận. Các loại cây sồi, cây thích mọc đầy ngoài bìa rừng nhưng càng vào sâu, Eragon biết là những cây thông cấm tạo nên phần lớn các loại cây trong đó.
Bóng tối bắt đầu phủ lên trên vùng cây xanh này khi bọn họ vừa tới ven Du Weldenvarden, Saphira lượn nhẹ xuống một nhánh cây to của một cây sồi khổng lồ. Cô nàng xếp cánh ngồi một chút, không còn sức để đi nữa. Cái lưỡi đỏ tươi của cô nàng thè ra ngoài. Trong khi cô ả nghỉ mệt, Eragon lắng nghe tiếng sột soạt của cành lá trên đầu, tiếng cú kêu ư ử, tiếng chíp chíp của các loài sâu bọ côn trùng về đêm.
Khi đã tương đối hồi phục, Saphira đi về phía trước, qua khỏi hai cây sồi khổng lồ bám đầy rêu, tiến nhập Du Weldenvarden bằng chân. Các vị thần tiên đã khiến cho bất kỳ ai cũng không thể nào vào rừng bằng pháp thuật, mà loài rồng thì không chỉ đơn giản dùng th.ân thể để bay, cho nên Saphira không thể tiến nhập trong lúc còn ở trên không trung, nếu không đôi cánh sẽ không hoạt động được và cô nàng sẽ rơi xuống đất. "Xa tới đây là đủ rồi," Saphira nói, rồi dừng chân ở một bãi cỏ cách bìa rừng vài trăm thước. Eragon cởi dây buộc quanh chân và trượt xuống bên hông Saphira. Nó tìm trong bãi cỏ cho tới khi thấy được một khoảng đất trống. Nó liền dùng hai tay móc lên một cái lỗ sâu chừng hai gang tay và chiều ngang cỡ nửa như vậy. Nó triệu nước tới để đổ đầy lỗ rồi thốt ra những câu thần chú về bói thủy tinh cầu.
Mặt nước mờ đi và đổi thành màu vàng óng ánh trong lúc Eragon ngắm nhìn bên trong túp lều của sư phụ Oromis. Vị thần tiên tóc bạc này đang ngồi ở bàn ăn đọc một cuộn giấy rách tả tơi.
"Sư phụ," Eragon nói, rồi lấy hai tay chắp ngang ngực.
"Chào con, Eragon. Ta đang chờ con đây. Con ở đâu vậy?"
"Con và Saphira vừa mới tới rừng Du Weldenvarden... Sư phụ, con biết là tụi con có hứa sẽ quay về Ellesméra, nhưng người Varden chỉ còn cách vài ngày là tới thành Feinster, và bọn họ thật sự có yếu điểm nếu tụi con không ở đó. Chúng con không có giờ để bay tới tận Ellesméra. Sư phụ có thể giải đáp vài thắc mắc của con qua thủy tinh cầu này không?"
Oromis ngả lưng ra ghế, vẻ mặt sắc cạnh của ông trầm ngâm nghiêm trọng. Sau đó ông nói, "Ta sẽ không chỉ dẫn pháp thuật cho con qua khoảng cách thế này được, Eragon. Ta có thể đoán biết những điều con muốn hỏi là gì, nhưng đây là những chuyện phải trực tiếp gặp mặt bàn thảo con ạ."
"Sư phụ, làm ơn nha. Nếu Murtagh và Thorn..."
"Không được, Eragon. Ta hiểu nguyên do của sự cấp bách của con, nhưng học hỏi của con cũng rất quan trọng với người Varden, có lẽ còn nhiều hơn vậy. Chúng ta phải làm cho đúng cách, nếu không thì đừng làm."
Eragon thở dài gục người về phía trước, "dạ, sư phụ."
Oromis gật đầu. "Glaedr và ta sẽ chờ con. Bay nhanh và lẹ tới đây. Chúng ta có nhiều chuyện để bàn lắm."
"Dạ, sư phụ."
Sau khi kết thúc pháp thuật, Eragon liền cảm thấy cả người tê tái mệt mỏi. Nước đã ngấm cả xuống đất. Nó lấy hai tay ôm đầu, nhìn khoảng đất ẩm ở dưới chân. Tiếng thở ồn ào của Saphira ở ngay bên cạnh. Nó nói, "anh đoán bọn ta phải tiếp tục lên đường rồi. Xin lỗi nha."
Cô nàng ngưng thở một chút liếm liếm miệng. "Không sao mà. Em chưa có bị ngã gục đâu."
Nó nhìn lên nói. "Em có chắc không?"
"Chắc."
Eragon miễn cưỡng nhất người lên, trèo lại lên lưng cô nàng. "Nếu mà chúng ta phải đi tới Ellesméra," nó vừa nói vừa xiết dây buộc ở chân, "vậy cũng nên tới thăm lại cây Menoa đi. Chúng ta rốt cuộc có thể biết con ma mèo Solembum nói gì. Anh dĩ nhiên cũng cần một thanh kiếm mới."
Lần đầu Eragon gặp Solembum ở Teirm, con ma mèo có nói nó, "khi thời cơ đến và người cần một vũ khí tùy thân, hãy tìm dưới gốc cây Menoa. Rồi nếu khi ngươi thấy lạc hướng và năng lực bản thân không còn đủ, hãy đi tới Tảng Đá Kuthian và xưng tên để mở được Hầm chứa Linh Hồn." Eragon đến giờ vẫn chưa biết Tảng Đá Kuthian là gì nhưng lần ở Ellesméra, nó và Saphira đã có vài cơ hội xem xét cây Menoa. Lần đó bọn họ không phát giác được đầu mối gì về vị trí của vũ khí này. Rêu, đất, vỏ cây và cả kiến nữa là những thứ duy nhất mà họ tìm thấy ở gốc cây Menoa, và không có cái gì trong đó cho biết chỗ nào để mà đào.
"Solembum có lẽ không chỉ về một thanh kiếm," Saphira chỉ ra. "Ma mèo thích chơi câu đố như loài rồng vậy. Cho dù là có, vũ khí đó có lẽ là một đám giấy da có thần chú in lên đó, hoặc là một quyển sách, một bức tranh, một cục đá nhọn hay là những thứ nguy hiểm khác."
"Mặc kệ là gì, anh hy vọng chúng ta tìm được. Ai biết được khi nào lại có cơ hội quay lại Ellesméra lần nữa?"
Saphira cào bay một cây đổ nằm trước mặt cô nàng, rồi cúi người mở rộng đôi cánh mượt như nhung, bắp vai cô nàng cuồn cuộn. Eragon kêu lên một tiếng rồi nắm lấy phía trước yên trong lúc cô nàng phóng về phía trước bằng một sức lực không ngờ, phóng cao phát chóng mặt lên trên các ngọn cây.
Phóng qua một biển các nhành cây, Saphria hướng mình về phía tây bắc rồi theo hướng đó tiến về kinh thành của các thần tiên, nhịp cánh của cô nàng trở nên chậm chạp, nặng nề.
 
44. Butting heads
Đoàn xe chở lương đã đến đúng như Roran dự đoán" ba ngày sau khi rời đoàn quân chính của Varden, anh và những kị binh của mình đã hạ trại tại một hẻm núi và tấn công đoàn xe buồm chở lương thực từ bờ sông. Trong khi đó, những Urgal nấp sau những tảng đá rải rác trên hẻm núi và tấn công đoàn xe từ phía trước, ngăn đoàn lính lại trong trận công kích. Những tên lính và người đánh xe bị tấn công bất ngờ, nhưng trận mai phục đã tóm gọn chúng trong khi đang ngủ và đội hình lỏng lẻo, đơn vị của Roran đã nhanh chóng áp đảo chúng. Không người lính hay Urgal nào bị chết trận, chỉ có ba bị thương: hai người và một Urgal.
Roran đã tiêu diệt được rất nhiều tên địch, nhưng phần lớn thời gian, anh lui lại phía sau và tập trung và việc chỉ huy trận đánh, bây giờ đó là trách nhiệm của anh. Anh vẫn còn thấy đau nhức từ những vết thương, anh không muốn tự tham gia nếu không thực sự cần thiết vì sợ làm rách toác vết thương cũ đang khô tróc trên lưng.
Ngoại trừ điều đó, Roran không mấy khó khăn để duy trì kỷ luật giữa hai mươi người lính và hai mươi Urgal này. Dù vậy, rõ ràng là cả hai nhóm này đều không ưa thích hay tin tưởng nhóm kia – anh cũng thấy như vậy, vì thế nên thái độ của anh đối với những Urgal này chỉ ở mức cảnh giác và khinh thường như bất cứ người đàn ông nào trưởng thành từ dãy núi Spine thân yêu - họ đã thành công trong việc cùng hợp tác trong suốt ba ngày qua mà không than phiền một lời. Cả hai nhóm được phân công để ở cùng nhau hòa hợp, anh biết vậy, không có nhiều việc để sử dụng quyền chỉ huy của anh. Nasuada và Nar Garzhvog đã rất cẩn thận chọn lựa những chiến binh cho chuyến đi của anh, chỉ chọn họ dựa trên tiêu chí nổi bật nhất về sự nhanh nhẹn, có tiếng nói công bằng, và trên tất cả là phải bình tĩnh và tính khí điềm đạm.
Tuy thế, sau của cuộc đột kích xe lương, khi những người lính đang bận rội kéo lê những xác địch và người kéo xe đến dàn hỏa thiêu, và Roran đang cưỡi ngựa quanh hàng xe thùng để xem xét công việc, anh nghe thấy một tiếng hét đau đớn từ đâu đó đằng xa cuối dãy xe. Nghĩ rằng đó có thể là một tên lính may mắn trốn thoát, Roran la lớn gọi Carn và vài người lính khác đi cùng anh, khi anh thúc bàn đạp vào mạn sườn Hỏa Tuyết và phi nước đại về phía sau những chiếc xe thùng.
Bốn Urgal đã trói chặt một tên lính địch vào thân một cây liễu gai và đang vui sướng nhảy múa, đâm hắn bằng kiếm. Rủa thề, Roran nhảy xuống khỏi lưng Hỏa Tuyết, kết liễu gã lính khỏi sự đau khổ bằng nhát búa của mình.
Một luồng mây đen âm u phủ quanh nhóm của Carn và bốn người lính phi ngựa về phía cây liễu. Họ ghìm cương và tập trung ở một hướng khác chỗ Roran đang đứng, nắm vũ khí trong tư thế sẵn sàng.
Urgal to lớn nhất, một con đực tên là Yarbog, tiến lại.
"Cây búa dũng mãnh, tại sao anh lại kết thúc trò chơi của chúng tôi? Hắn ta còn muốn nhảy với chúng tôi lâu hơn mà."
Rít qua kẽ răng, Roran nói” “Bao giờ anh còn dưới quyền chỉ huy của tôi, anh sẽ không được tra tấn tù binh vì bất kỳ lí do nào. Tôi không biết hay sao chứ? Rất nhiều những người lính này bị ép buộc phục dịch cho Galbatorix trái với ý muốn của họ. Rất nhiều người trong số họ là bạn hay người nhà hay láng giềng của chúng tôi, trong khi đó chúng tôi lại phải tiêu diệt họ, tôi sẽ không để các anh hành hạ họ nếu không cần thiết phải ra tay tàn ác. Nếu không do số phận, sẽ không một ai muốn ở vị trí của họ. Họ không phải là kẻ thù của chúng tôi, mà là Galbatorix, cũng như hắn là kẻ thù của các anh." Vầng trán nặng nề của tên Urgal dày như một chiếc đe, gần như che khuất cặp mắt vàng sâu hoắm. "Nhưng anh vẫn giết chúng phải không? Tại sao chúng tôi lại không thể thưởng thức cảnh chúng quằn quại và co giật trước được?
Roran tự hỏi sọ của Urgal có quá dày để bị vỡ nát vì cây búa của anh không. Đấu tranh để kìm nén cơn tức giận, anh nói, " Bởi vì việc đó là sai trái, không có gì để bàn!" Chỉ vào tên lính đã chết, anh nói, " Việc gì xảy ra nếu như hắn ta là một người trong số giống nòi của anh, một kẻ bị tà thần Durza bắt làm nô lệ? Anh vẫn muốn tra tấn hắn như vậy chứ?"
" Tất nhiên" Yarbog nói. " Họ sẽ mong muốn chúng tôi hành hạ họ bằng kiếm, vì như vậy họ có thể có cơ hội chứng tỏ sự gan dạ của mình trước khi chết. Nó không giống cách của những người không sừng các anh ư, hay là các anh không có dạ dày để đâm thủng?” Roran hơi mơ hồ về sự nghiêm trọng trong một lời lăng mạ của đám Urgal khi gọi người khác là kẻ không sừng, nhưng dù vậy, anh không nghi ngờ rằng, hỏi một ai đó về sự can đảm của họ là một sự công kích đối với cả Urgal lẫn cả con người, nếu không thì còn tệ hơn thế.
"Bất cứ ai trong số chúng tôi cũng có thể chịu đựng vết thương mà không khóc lóc một tiếng giỏi hơn anh đấy, Yarbog,” anh nói, nắm chặt cán búa và tấm khiên. "Bây giờ, nếu anh không muốn phải nếm trải một sự đau đớn tột độ mà anh không thể hình dung nổi thì hãy bỏ kiếm xuống đầu hàng cho tôi, xong rồi cởi trói cho con người khốn khổ này và mang hắn đến chỗ an nghỉ của những xác chết. Sau đó, đi kiếm những bộ yên cương. Chúng là của anh trông coi cho đến lúc trở lại Varden.”
Không cần đợi sự tuân lệnh từ tên Urgal, Roran quay ngựa, nhấn chân vào bàn đạp của Hỏa Tuyết và chuẩn bị trèo lên lưng ngựa.
"Không" Yarbog rống lên.
Roran đứng trân tay cầm cương ngựa, và tự rủa thầm mình. Anh đã hy vọng rằng không hề có một tình huống nào phát sinh trong suốt chuyến hành trình. Nhẹ nhàng quay người lại, anh nói, "Không ư? Anh đang phản đối việc chấp hành mệnh lệnh của tôi đấy à?" Cong môi trên lên lộ những chiếc răng nanh ngắn, Yarbog nói, “Không, tôi đã thách thức anh về quyền lãnh đạo của bộ tộc, Cây búa dũng mãnh ạ,"
Và gã Urgal ngửa cái đầu đồ sộ của mình về phía sau, rống to để những người lính đang rỗi rãi và Urgal dừng việc đang làm lại và chạy đến chỗ cây liễu cho đến khi tất cả bốn mươi người bọn họ tụ tập quanh Yarbog và Roran
"Chúng tôi sẽ hạ tên súc vật này cho anh nhé?" Carn hỏi, giọng như chuông ngân. Ước rằng không có nhiều khán giả như vậy, Roran lắc đầu.
"Không, tôi sẽ tự xử lý hắn ta" Lời nói đầy tức giận, anh mừng vì có những người lính của mình bên cạnh, đối diện với một hàng lộn xộn những những Urgal làn da xám ngoắt. Loài người bé nhỏ hơn so với Urgal, ngoại trừ Roran, tất cả đều đang cưỡi ngựa, điều đó làm họ có một chút ưu thế nếu có một trận chiến giữa hai nhóm. Nếu điều đó xảy ra, pháp thuật của Carn sẽ không giúp ích được nhiều, vì Urgal có một người làm phép bảo vệ riêng, một pháp sư tên là Dazhgra, và từ những gì Roran được chứng kiến, Dazhgra có năng lực phép thuật mạnh hơn, nếu không thì hắn cũng có kĩ năng khéo léo hơn trong việc vận dụng thứ nghệ thuật kì lạ của bọn họ.
Roran nói với Yarbog, " Đó không phải là tục lệ của Varden, quyết định quyền lãnh đạo dựa trên phán xét của sự thách đấu. Nếu anh muốn đánh, tôi sẽ đánh, nhưng anh sẽ không được lợi lộc gì trong việc này. Nếu tôi thua, Carn sẽ tiếp nhận quyền chỉ huy của tôi, và mọi người sẽ phục tùng cậu ta thay tôi."
"Chà" Yarbog nói, " Tôi không thách thức anh để chỉ huy loài các anh, tôi thách thức anh về quyền chỉ huy đối với loài của tôi, những con đực thiện chiến của tộc Bolvek! Anh đã không thể hiện được mình, Cây búa dũng mãnh ạ, bởi thế, anh không thể có quyền phán quyết của thủ lĩnh. Nếu anh thua, tôi sẽ trở thành thủ lĩnh ở đây, và chúng tôi sẽ không ngẩng cao cằm với anh, Carn, hay bất cứ sinh vật nào quá yếu đến mức không thể tự kiếm lấy sự tôn trọng của chúng tôi!”
Roran cân nhắc về tình huống của mình trước khi chấp nhận sự việc bất tắc dĩ này, Thậm chí nếu nó có làm anh mất mạng, anh vẫn phải thử để duy trì quyền lực của mình đối với những Urgal này, thêm vào nữa Varden sẽ đánh mất họ như là những đồng minh. Thở một hơi, anh nói “ Trong loài của tôi, theo tục lệ, những người bị thách đấu được lựa chọn thời gian và địa điểm để quyết đấu cũng như vũ khí mà hai bên sử dụng." Cười khùng khục trong cổ họng, Yarbog nói, "Thời gian là ngay bây giờ, Cây búa dũng mãnh ạ. Địa điểm là tại đây, và trong loài của tôi, chúng tôi đánh nhau chỉ mặc khố và không dùng vũ khí."
"Thế thì thật khó mà công bằng cho được, vì lẽ tôi không có sừng," Roran chỉ ra. "Anh có đồng ý để tôi dùng cây búa của mình để bù đắp cho sự thiếu thốn của tôi được không?” Yarbog nghĩ về điều đó rồi nói, " Anh có thể mang giáp và khiên, nhưng không có búa. Vũ khí không được mang theo khi chúng tôi chiến đấu giành quyền thủ lĩnh." "Tôi biết rồi … vậy, nếu tôi không thể có cây búa của mình, tôi cũng sẽ không cần mang giáp và khiên. Luật lệ thách đấu là gì, và chúng ta sẽ phân định người thắng như thế nào?"
"Chỉ có một luật thôi, Cây búa dũng mãnh: Nếu anh bỏ chạy, anh bị loại khỏi trận đấu và bị trục xuất khỏi đàn của anh. Anh thắng khi chứng tỏ được để địch thủ đầu hàng, nhưng tôi chưa bao giờ đầu hàng, tôi sẽ chiến đấu đến chết.”
Roran gật đầu. Đó có thể là điều anh sẽ làm, nhưng mình sẽ không giết anh ta nếu mình có thể.
"Bắt đầu nào" anh gào to, đập mạnh cây búa của mình vào tấm khiên.
Với sự chỉ huy của anh, những người lính và Urgal phát quang một khoảng giữa khe núi và đóng những chiếc cọc thành một bãi đất, mỗi chiều hai mươi bước. Rồi Roran và Yarbog để trần, hai Urgal to lớn bôi mỡ lên khắp người Yarbog trong khi Carn và Loften, một con người khác, cũng làm như vậy với Roran.
"Anh có thể bôi được đến đâu thì bôi" Roran làu bàu. Anh muốn để những vết thương đang lành được yên nếu có thể cũng như bôi ít nhất vào những nơi anh bị quất roi. Hướng người lại gần anh, Carn nói, "Sao anh lại từ chối khiên và áo giáp?" "Chúng sẽ chỉ làm tôi chậm chạp thôi. Tôi sẽ phải nhanh như một chú thỏ rừng đang hoảng loạn nếu tôi muốn tránh bị anh ta bóp nát." Khi Carn và Loften đang bôi mỡ lên chân tay anh, anh nghiên cứu đối thủ của mình, tìm kiếm bất cứ điểm yếu nào có thể giúp anh đánh bại được gã Urgal đó.
Yarbog cao hơn sáu feet. Lưng của gã ta to rộng, ngực dày, và các khớp tay và chân được yểm trợ bằng những mấu xương cứng chắc. Cổ của gã ta dày như của một con bò tót vì nó phải chống đỡ sức nặng của cả cái đầu và cặp sừng cong vút. Ba vết thương theo ba hàng dài trên hông trái như từng bị một con thú nào đó cào. Những sợ lông đen lưa thưa mọc khắp cơ thể.
Chí ít thì gã ta cũng không phải là một tên Kull, Roran nghĩ. Anh tin tưởng vào sức mạnh của mình, nhưng thậm chí là vậy, anh không tin rằng mình lại khỏe hơn Yarbog với sức mạnh dữ dội. Hiếm khi con người có hy vọng đánh lại được kĩ năng tuyệt đối của một con đực Urgal khỏe mạnh. Ngoài ra, Roran biết rằng, những chiếc móng to đen, răng nanh và cặp sừng, lớp da dày của gã ta đều chứng tỏ Yarbog chiếm ưu thế đáng kể trong trận thách đấu tay không mà họ thường đấu. Nếu mình có thể, mình sẽ, Roran quả quyết, nghĩ về mọi mánh vặt mà anh có thể dùng đối với Urgal, vì chiến đấu với Yarbog sẽ không như đấu vật với Eragon hay Baldor hoặc bất cứ người đàn ông nào ở Carvahall, khó hơn nhiều, Roran chắc rằng nó sẽ dã man và vô cùng tàn bạo giữa hai sinh vật hoang dã.
Nhìn đi nhìn lại, mắt Roran quay về cặp sừng thiện chiến của Yarbog, vì chúng, anh biết, sẽ là thứ đặc biệt nguy hiểm nhất của Yarbog. Với chúng, Yarbog có thể húc và đâm thủng Roran không thương tiếc, và chúng cũng sẽ bảo vệ phần đầu của Yarbog đối với bất cứ đòn đánh nào Roran có thể tung ra bằng tay không, dù vậy chúng lại hạn chế tầm nhìn của Urgal. Rồi vụt xuất hiện trong Roran rằng những chiếc sừng là món quà tự nhiên tuyệt vời của Yarbog vậy chúng cũng là sự bất lợi của hắn ta.
Roran vòng vai và xương bánh chè, háo hức vì màn trình diễn được kết thúc. Khi cả Roran và Yarbog được bôi mỡ gấu xong, đến hiệu lệnh thứ hai và họ bước tới ranh giới của khoảng đất đóng cọc xung quanh.
Roran để đầu gối hơi chùng xuống, sẵn sàng nhảy tới với bất cứ dấu hiệu nhỏ nhặt nào của những di chuyển từ phía Yarbog. Đất đá lạnh, nặng và thô ráp bên dưới bàn chân để trần của anh.
Một cơn gió nhẹ làm lung lay cành lá của cây liễu gai. Một con bò kéo chiếc xe dúi chân xuống một lùm cỏ, dây buộc của nó kêu kẽo kẹt.
Cùng với một tiếng gầm nhỏ, Yarbog đột kích.
Roran, duy trì khoảng cách giữa họ bằng ba bước dài. Roran chờ đợi cho tới khi Yarbog tới gần hơn đến chỗ anh, rồi nhảy vồ tới trước. Tuy nhiên, anh đã đánh giá không đúng về tốc độ của Yarbog. Cái đầu đầy đe dọa, gã Urgal đâm đôi sừng vào vai trái Roran và quăng anh tung người qua bãi đất.
Những viên đá sắc nhọn chọc vào người Roran khi anh tiếp đất. Những vết thương dài đau nhói trên lưng, di chứng của những lằn roi đã lành được nửa chừng của anh. Anh cằn nhằn và lồm cồm bò dậy, cảm thấy như vô số vết thương đã nứt toác, phơi ra những thớ thịt chảy máu trong không khí sắc như dao. Bùn đất và những hòn cuội nhỏ dính chặt vào lớp mỡ trên người anh. Giữ cho cả hai chân trên mặt đất, anh lê bước về phía Yarbog, không hề rời mắt khỏi gã Urgal đang gầm gừ.
Yarbog lại tấn công và Roran lại bị đánh văng ra xa. Lần này anh, anh tiếp tục kế hoạch, anh phóng vụt qua gã Urgal hơn vài inch. Quay người lại, Yarbog chạy về phía anh ba lần, và hơn một lần, Roran chủ động để tránh gã ta.
Rồi Yarbog thay đổi chiến thuật.
Tiến lên theo chiều ngang, như một con cua, gã huých mạnh vào người anh, cong tay để tóm lấy Roran và kéo giật anh vào một cái ôm tử thần. Roran chùn bước và thoái lui. Dù có chuyện gì, anh cũng phải tránh ngã vào những chiếc khớp của Yarbog, với sức mạnh to lớn của mình, gã Urgal có thể nhanh chóng kết liễu anh.
Những người lính và Urgal tụ tập quanh bãi đất yên lặng, vẻ mặt thản nhiên khi họ đang chứng kiến Roran và Yarbog đẩy nhau qua lại trong bùn đất. Trong vài phút, Roran và Yarbog trao cho nhau những cú đánh sượt qua người. Roran tránh lại gần Yarbog bất cứ chỗ nào có thể, cố để gây tổn thương cho gã từ tầm xa, nhưng khi trận chiến đang bị kéo dài và Yarbog dường như chẳng hề mệt mỏi hơn lúc họ bắt đầu, Roran nhận ra rằng thời gian không phải là bạn của anh. Nếu anh muốn thắng, anh phải kết thúc trận chiến này không được trì hoãn lâu.
Hy vọng lại chọc tức được Yarbog xung thiên – vì kế hoạch đã vạch ra- Roran rút ra xa tới góc của bãi đất và bắt đầu lên tiếng chế nhạo, nói , " Ha! Anh béo tốt và chậm chạp như một con bò sữa vậy! Anh có thể bắt được tôi không, Yarbog, chân của anh làm bằng mỡ lợn? Anh nên tự xấu hổ mà cưa cặp sừng của mình đi vì đã để một con người biến anh thành trò hề. Hậu duệ của anh sẽ nghĩ gì khi nghe thấy điều này? Anh sẽ kể cho chúng là …"
Yarbog áp đảo lời nói của Roran bằng một tiếng gầm. Gã Urgal lao nhanh tới anh, hơi nghiêng người, định nghiền nát Roran bằng toàn bộ sức nặng cơ thể. Nhảy khỏi đường tấn công, Roran túm chóp sừng phải của Yarbog nhưng hụt mục tiêu và thấy mình suýt ngã vào giữa bãi đất, cả hai đầu gối bị toác cả da. Anh tự rủa mình khi chỉnh lại tư thế đôi chân.
Kiểm tra lại sự liều lĩnh nóng vội của mình ngay trước khi cú đẩy huých anh qua lằn ranh của bãi đất, Yarbob quay lưng, cặp mắt nhỏ tí hi màu vàng tìm kiếm Roran. "Yah!" , la lớn với Roran. Anh giả giọng và làm mọi cử chỉ thô lỗ mà anh có thể nghĩ ra" Anh không thể đâm một cái cây thậm chí nó đứng ngay trước mũi anh!”
"Chết đi, tên người yếu đuối kia!” Yarbog gầm lên và nhảy bổ vào Roran, đôi tay giang rộng. Hai chiếc vuốt của Yarbog đẫm máu cắt qua xương sườn Roran khi anh phóng sang bên trái, nhưng anh vẫn chủ động tóm và giữ lấy một chiếc sừng của gã Urgal . Roran cũng tóm nốt chiếc sừng còn lại khi Yarbog kịp ném anh ra. Dùng những chiếc sừng và lợi thế của cánh tay, Roran giật mạnh đầu của Yarbog sang một bên và kéo căng mọi bắp thịt, ném gã Urgal trên sàn đất. Lưng Roran nóng bừng phản đối sự vận động đó, Vừa khi ngực Yarbog chạm bùn, Roran đè một đầu gối lên vai phải của gã chốt chặt gã tại chỗ. Anh chống chân trên đá và vặn đầu gã Urgal quay hết mức, anh kéo mạnh đến nỗi có thể làm gãy cổ bất cứ một con người nào. Lớp mỡ bôi trên gan bàn tay làm anh khó mà giữ được cặp sừng của Yarbog. Yarbog thả lỏng một lúc, rồi tự quăng mình lên bãi đất bằng cánh tay trái, ném theo cả Roran, và đạp chân loạn xạ chân cố gắng để đá chúng vào dưới người anh. Roran nhăn mặt,vòng lại phía trước cổ và vai Yarbog, Sau một động tác nhún người trong vài giây, Tai trái của Yarbog bị khóa và gã
Cảm thấy cả dạ dày của mình đang trào lại lên.
Cả Roran và Yarbog sẽ bị thương như nhau nếu họ chung một loài. Chỗ họ chạm vào nhau, những chiếc lông cứng trên người Urgal đâm vào Roran như những sợi kim loại. Bùn đất bám đầy người họ. Máu chảy như suối từ những mảnh da phồng rộp của Roran và từ vết thương ở lưng.
Yarbog lại đá và quật khi gã lấy lại hơi, bì bõm trong bùn như một con cá mắc cạn. Roran đã mất toàn bộ sức lực, nhưng anh vẫn kiên trì, cố phớt lờ những viên đá cắt sâu vào bàn chân và cẳng chân. Bằng cách đó, không để mình được nghỉ, tay Yarbog nắm lấy tay anh và rồi dùng căng cổ đập mạnh nhiều lần vào ống tay Roran.
Họ cứ để như thế, cả hai đều không di chuyển nhiều hơn một inch nào khi người này vùng vẫy với người kia.
Một con ruồi vo ve quanh họ và đậu lên mắt cá chân Roran.
Con bò rống lên.
Sau gần mười phút, mồ hôi chảy đầm đìa trên mặt Roran. Anh dường như không thể nạp đầy không khí vào phổi. Cánh tay mất cảm giác. Những vết thương trên lưng như là bị rách toác thành từng mảnh nhỏ. Sườn anh bị dập mạnh ở chỗ bị Yarbog cào. Roran biết anh không thể tiếp tục lâu hơn. Tức thật! anh nghĩ. Gã ta chưa từng đầu hàng ư?
Ngay sau đó, đầu của Yarbog run lên khi một cơ trên cổ gã Urgal bị kéo căng ra. Yarbog kêu lên rên rỉ, đầu tiên, anh ta kêu lên trong hơn một phút và với một giọng thều thào, gã nói khẽ "Giết tôi đi, Cây búa dũng mãnh. Tôi không thể thắng anh."
Chỉnh lại tư thế nắm chặt sừng của Yarbog, gầm lên với một tone giọng cũng thấp như vậy, "Không. Nếu anh muốn chết, thì đi tìm người khác để giết anh đi. Tôi không chiến đấu theo luật lệ của các anh, bây giờ anh sẽ chấp nhận đã thất bại theo luật của tôi. Làm như thế, tôi sẽ để anh đi. Nếu không, tôi sẽ giữ anh ở đây đến khi anh đổi ý, bao lâu không thành vấn đề.”
Đầu Yarbog vòng dưới tay Roran khi gã Urgal cố gắng một lần nữa để tự thoát ra. Anh tức giận, gã đánh vào một đám bụi nhỏ trong không trung rồi gầm rống lên., " Sự sỉ nhục quá lớn, Cây búa dũng mãnh ạ. Giết tôi đi.”
Tôi không thuộc giống loài các anh, và tôi không tuân theo phong tục của các anh," Roran nói. "Nếu anh quá lo về danh dự, hãy nói với những người tò mò rằng anh đã bị đánh bại bởi anh họ của Eragon khắc tinh của tà thần. Điều đó chắc chắn không có gì phải xấu hổ. " Khi vài phút đã trôi qua, Yarbog vẫn không đáp lại, Roran kéo mạnh sừng Yarbog và hét lên, "Vậy?"
Giọng anh lên cao để mọi người lính và Urgal có thể nghe thấy, Yarbog nói, "Gar! Svarvok nguyền rủa tôi; tôi đầu hàng! Tôi không nên thách thức anh, Cây búa dũng mãnh. Anh xứng đáng là thủ lĩnh chứ không phải tôi"
Lập tức, những người lính cổ vũ và la hét, đập chuôi kiếm vào khiên. Những Urgal đứng yên và không nói gì.
Hài lòng, Roran thả cặp sừng của Yarbog và lăn ra khỏi gã Urgal xám ngoắt. Cảm thấy gần như anh vừa trải qua một trận chiến khác, Roran chậm rãi nhấc chân và tập tễnh bước ra khỏi bãi đất đến chỗ Carn đang chờ.
Roran nhăn mặc khi Carn phủ một tấm mềm lên vai anh, tấm vải chà sát vào làn da bị hành hạ. Nhe răng cười, Carn đưa anh một túi da đựng rượu. “ Sau khi anh bị ngã, tôi nghĩ chắc hắn sẽ giết anh mất. Tôi nên học tập từ giờ để không bao giờ đặt cược vào anh , Eh, Roran? Ha! Đó là trận đấu hay nhất tôi từng chứng kiến. Anh là người đàn ông duy nhất trong lịch sử chiến đấu với một Urgal.”
"Có thể là không" Roran nói trong khi nhấp một ngụm rượu. " Nhưng tôi có thể là người đàn ông duy nhất vượt qua trải nghiệm này." Anh mỉm cười khi Carn cười phá lên. Roran nhìn quanh đám Urgal đang tụ tập lại quanh Yarbog, đang nói chuyện với gã bằng những giọng cằn nhằn trong khi hai đồng đạo của chúng lau sạch mỡ và đất bẩn trên người Yarbog. Mặc dù hiện ra rất ít, chúng vẫn không tỏ ra giận dữ hay bực bội. Từ phía xa anh xem xét, và anh tin chắc rằng anh sẽ không có thêm rắc rối nào với chúng nữa. Những vết thương cũ của anh đang tức giận, Roran cảm thấy hài lòng với kết quả của trận đấu. Đây không phải là trận chiến lớn nhất giữa hai loài, anh nghĩ nhưng cho đến lúc chúng ta an toàn trở về Varden, những Urgal này sẽ không phá vỡ tình đồng minh của chúng ta, ít nhất là trong thẩm quyền của mình.
Sau khi nhấp ngụm rượu cuối cùng, Roran đậy lại nắp túi rượu và đưa cho Carn rồi nói lớn. "Được rồi, bây giờ hãy ngừng túm tụm như những con cừu cằn nhằn và hoàn thành việc kiểm kê danh sách những gì có trong những xe thùng kia đi! Loisten, khoanh vùng ngựa địch lại, nếu chúng đang chạy quá xa! Dazhgra, đi tìm con bò. Nhanh lên! Thorn và Murtagh có thể bay đến đây ngay bây giờ đấy. Đi thôi, bắt đầu nhanh lên! "Và, Carn, Cái tay áo của tôi ở chỗ nào?"
 
5. Gia Phả
Ngày thứ tư kể từ khi rời khỏi Farthen Dûr, Eragon và Saphira đến được Ellesméra. Mặt trời sáng trong ở trên đầu khi những toà nhà đầu tiên của thành trì hiện ra. Những toà nhà này là những trái hẹp vặn vẹo với cửa sổ lấp lánh dựng giữa ba cây thông cao, mỗi cây đều mọc cành lá xen lẫn vào nhau. Phía trước những tháp bọc vỏ cây này, Eragon nhận ra được một đám những khu đất lộn xộn đánh dấu một thành thị trải dài. Trong lúc Saphira lướt trên bề mặt khu rừng gập ghềnh thì Eragon điều tra kiếm tri thức của Gilderien Khôn Ngoan, người nắm quyền Ngọn Lửa Trắng Vándil, cũng đồng thời là người bảo hộ Ellesméra khỏi các kẻ thù của thần tiên từ hai ngàn rưỡi năm nay. Eragon dùng cổ ngữ phóng ý thức về phía thành phố, "Gilderien-elda, xin ban phép cho chúng tôi vào thành"
Một giọng trầm ấm vang lên trong đầu Eragon, "Ngươi được vào Eragon, Kẻ Khắc Tinh của Tà Thần và Saphira Vảy Sáng. Miễn là gìn giữ hòa bình, ngươi sẽ được hoan nghênh ở lại Ellesméra."
"Tạ ơn ngài, Gilderien-elda," Saphira nói.
Móng vuốt cô nàng chạm lên đầu các cây thông đen cao hơn ba trăm bộ trong lúc cô nàng lướt qua thành phố gỗ thông và hướng về khu đất dốc cao ở bên mặt kia của Ellesméra. Giữa những cành cây chồng chéo lên nhau ở dưới, Eragon nhìn thoáng thấy bóng dáng những khu nhà dựng theo những cây còn đang sinh trưởng, những thảm hoa nở rộ đầy màu sắc, những dòng suối róc rách, những đèn lồng không ngọn lửa toả ửng màu nâu vàng và đôi khi, những vẻ mặt tái nhợt của một vị thân tiên.
Saphira nghiêng cánh lượn thẳng lên dốc cho tới khi cô nàng đến được bờ vực Tel'naeir cao hàng ngàn bộ trải dài cả dặm về hai bên mà đáy của vách đá trắng này là một khu rừng trọc. Sau đó cô nàng vỗ cánh hai cái để giữ nguyên tốc độ và cao độ rồi xoay sang phải bay về hướng bắc dọc theo một đỉnh núi đá.
Một khoảng đất cỏ bao phủ xuất hiện ở sát vực đá. Một căn nhà trệt được dựng từ bốn loại thông khác khau với phong cảnh cây cối um tùm sau lưng. Một dòng suối róc rách hiện ra từ một rừng cây đầy rong rêu chảy ngay dưới một trong bốn cây thông đó trước khi lại biến mất vào rừng Du Weldenvarden. Đang cuộn mình nằm cạnh căn nhà là con rồng vàng to, óng ánh Glaedr, hàm răng hắn trắng ngà thân răng bự cỡ ngực Eragon, móng vuốt như cái đồ cắt cỏ, cặp cánh đang xếp lại mềm như nhung, cái đuôi lực lưỡng của nó dài cỡ Saphira, sọc của con mắt duy nhất của hắn lóng lánh như ánh sáng bên trong một viên ngọc saphire hình sao. Một chân cụt đằng trước được cả người dấu đi. Ở phía trước Glaedr có một cái bàn tròn nhỏ với hai cái ghế. Ông Oromis ngồi trên chiếc ghế gần con rồng Glaedr nhất, vị thần tiên tóc bạc này nhìn lấp loé như kim loại dưới ánh mặt trời.
Eragon nhỏm người ra đằng trước, Saphira dựng ngược ra sau rồi bay chậm lại. Cô nàng hạ cao độ ào một phát lên một bãi cỏ xanh rồi mới chạy tới vài bước, quạt cánh ra sau trước khi dừng lại.
Ngón tay Eragon còn lọng cọng vì kiệt lực, nó cởi nút dây buộc quanh chân rồi ráng trèo xuống từ chân phải trước của Saphira. Khi nó bắt đầu trèo xuống, cả hai đầu gối đột nhiên thụng xuống và té ào ra đất. Nó giơ tay ra để bảo vệ bộ mặt và thế là cả người bị ngã chỏng bốn vó lên trời, cẳng chân thì bị cào trầy bởi một viên đá nằm khuất trong cỏ. Nó càu nhàu trong đau đớn, cặp giò bị tê cứng như một ông già, bắt đầu ráng đứng lên." Một bàn tay chắn trước mặt nó.
Eragon nhìn lên thì thấy sư phụ Oromis đứng bên cạnh, một nụ cười nhẹ trên khuông mặt muôn đời không đổi của ông. Oromis dùng cổ ngữ nói: "Chào mừng con trở lại Ellesméra, kỵ sĩ Eragon. Và mi cũng vậy Saphira Vẩy Sáng, chào mừng. Chào mừng cả hai con."
Eragon cầm lấy tay sư phụ, rồi ông Oromis kéo nó đứng dậy mà không tốn chút lực nào. Lúc đầu Eragon không nói ra được lời gì vì nó cũng đã lâu không nói chuyện từ lúc cả hai rời khỏi Farthen Dûr và cũng vì quá đuối sức. Nó phải lấy hai ngón tay để lên môi rồi mới dùng cổ ngữ nói được, "Chúc người được nhiều may mắn tiền bối Oromis." Sau đó Eragon cũng dùng lễ đối đáp với con rồng Glaedr. Lúc nào cũng thế, sự lạc quan của rồng cũng khiến Eragon phải cảm thấy khúm núm.
Saphira thì không chào cả ông Oromis lẫn Glaedr, cô nàng đứng nguyên một chỗ, cổ gục xuống cho tới khi mũi đụng đất, còn vai và hai bên hông thì run run như thể bị lạnh. Hai bên mép cô nàng xùi bọt màu vàng đã đóng khô từ lúc nào. Cái lưỡi có ngạnh của cô nàng thì quẹo một bên giữa hàm răng nanh. Eragon giải thích, "tụi con bị ngược gió sau khi qua khỏi Farthen Dûr, và..." Eragon ngừng nói trong lúc Glaedr ngẩng cái đầu khổng lồ lên thò qua phía Saphira, còn cô nàng thì giả vờ như không nhận ra anh chàng này có mặt tại đó. Glaedr thở phì một cái, lửa khịt ra từ hai bên lỗ mũi. Eragon thấy nhẹ nhõm hẳn đi khi nhận thấy năng lực được truyền qua phía Saphira, ráng hồi phục tay chân lúc này vẫn còn đang run rẩy của cô nàng.
Sau một lúc thì lửa từ mũi Glaedr đã tắt chỉ còn một làn khói lởn vởn. "Ta đi săn sáng nay," giọng anh chàng truyền âm vang lên trong đầu Eragon. "Ngươi cứ tới cái cây cành trắng ở cuối cánh đồng sẽ thấy phần còn lại của con mồi của ta. Ăn được bao nhiêu thì ăn."
Saphira chỉ yên lặng cảm ơn. Nhấc cái đuôi rồi khập khiễng bò tới cái cây Glaedr chỉ, ngồi xuống bắt đầu xé xác con nai ở đó.
"Lại đây," ông Oromis nói, rồi chỉ về phía bàn ghế. Trên bàn có một mâm trái cây và các loại hạt, một nửa khúc phó mát, một ổ bánh mì, một bình rượu đỏ và hai ly thủy tinh có chân. Eragon vừa ngồi xuống, ông Oromis đã chỉ bình rượu và hỏi, "con có muốn uống một hớp cho rửa sạch bụi khỏi cổ họng không?"
"Dạ được," Eragon trả lời.
Ông Oromis hết sức nhẹ nhàng mở nắp bình và châm đầy hai ly. Ông đưa Eragon một ly rồi ngồi xuống ghế dùng ngón tay dài, trơn tru, sửa soạn lại áo mặc trên người. Eragon hớp một miếng rượu. Rượu này ngọt dịu và có vị của anh đào và mận. "Sư phụ, con..."
Ông Oromis giơ ngón tay lên ngăn nó. "Trừ khi là quá khẩn cấp, ta muốn đợi cho đến khi Saphira quay lại trước khi bàn chuyện khiến con tới đây. Con đồng ý không?" Eragon lưỡng lự một chút rồi gật đầu chăm chú quay lại ăn uống, thưởng thức mùi vị của trái cây tươi. Oromis cảm thấy hài lòng ngồi yên lặng bên cạnh nó, uống rượu và nhìn ra ngoài bờ vực của Tel’naeír. Đằng sau ông ta, Glaedr nằm nhìn việc xảy ra như một pho tượng sống bằng vàng.
Gần cả giờ đồng hồ Saphira mới nhấc mình khỏi bữa ăn, bò tới dòng suối gần đó liếm nước cả mười phút. Khoé miệng cô nàng còn dính vài giọt nước khi quay lại, cô nàng thở phào một tiếng rồi mới nằm ườn bên cạnh Eragon mí mắt như muốn nhắm lại. Sau đó cô nàng ngáp lớn nhe cả hàm răng rồi mới chào hỏi Oromis và Glaedr. "Có gì thì nói hết đi," cô ả nói. "Nhưng đừng bắt con nói nhiều nha, con có thể ngủ bất cứ lúc nào." "Nếu em muốn thì mọi người có thể chờ em ngủ dậy rồi mới tiếp tục," anh chàng Glaedr nói.
"Được vậy là ... dễ thương lắm," Saphira trả lời, mí mắt lúc này còn muốn sụp xa hơn vừa rồi.
"Thêm rượu không?" Ông Oromis hỏi và nhấc bình rượu lên khỏi bàn. Thấy Eragon lắc đầu, ông đóng nắp bình rồi lấy hai ngón tay nhấn vào nhau, đầu ngón tay tròn trịa bóng láng. Ông nói, "con không cần phải kể lại những chuyện đã xảy ra trên người con mấy tuần vừa qua, Eragon. Từ khi Islanzadí rời khỏi khu rừng, Arya đã giữ mọi người cập nhật về tin tức trong thế gian, và cứ mỗi ba ngày, Islanzadí lại gởi người từ quân đội của chúng ta chạy sang Du Weldenvarden. Vì thế ta có biết về cuộc chiến giữa con và Murtagh và rồng Thorn ở Cánh đồng Cháy. Ta cũng có biết về chuyến đi của con tới Helgrind và cách con trừng phạt lão hàng thịt ở làng. Rồi ta được biết con đến dự hội nghị của người lùn tại Farthen Dûr và những chuyện xảy ra sau đó. Còn chuyện gì khác thì con cứ nói nhưng không cần phải lo là ta đã biết trước rồi."
Eragon lăn một trái việt quất khô trong lòng bàn tay. "Sư phụ có biết về Elva và chuyện xảy ra sau khi con giải trừ cô ta khỏi lời nguyền của con không?"
"Điều đó ta cũng biết. Con có lẽ không có thành công giải trừ toàn bộ thần chú trên người cô ta, nhưng con đã trả xong nợ đối với đứa con nít này, và đó là điều mà Kỵ Sĩ Rồng phải làm: thực hiện mọi giao ước, cho dù nhỏ hay khó cỡ nào cũng vậy." "Cô ta vẫn còn cảm nhận thấy đau đớn của người chung quanh."
"Nhưng bây giờ là do sự lựa chọn của cô ta," ông Oromis nói. "Pháp lực của con không còn ép cô ấy... Mà con cũng không phải tới đây hỏi ý ta về Elva. Là chuyện gì khiến con lo lắng Eragon? Và nếu con muốn sư phụ sẽ mang mọi hiểu biết của mình để ráng trả lời mọi câu hỏi của con.
"Còn nếu con không biết hỏi sao cho đúng thì sao?" Eragon nói.
Một tia sáng lấp lánh hiện lên trong khoé mắt xám của Oromis. "À, con bắt đầu suy nghĩ như một thần tiên rồi. Con phải tin tưởng những sư phụ đã dạy dỗ con và Saphira mà trong đó nhiều thứ con không thèm để ý tới. Và con phải luôn tin tưởng sự phán quyết của chúng ta khi cần thiết phải giải quyết vấn đề, vì có nhiều yếu tố trong sự tu luyện của con không thể đảo lộn thứ tự được."
Eragon đặt trái việt quất ngay giữa khay rồi chặc giọng nói, "hình như thấy sư phụ nói như chưa nói gì cả."
Một khoảng thời gian trôi qua, chỉ còn lại tiếng cành lá sột soạt, tiếng dòng suối chảy róc rách và tiếng chít chít của đám sóc ở xa.
"Nếu ngươi có gì cần tranh cãi với chúng ta Eragon," Glaedr nói, "thì hãy lên tiếng nhưng đừng có ở đó mà gặm lấy cục giận như một cái xương khô cũ rích."
Saphira nhích ngưòi, Eragon tưởng nghe được tiếng gầm gừ của cô nàng. Nó liếc mắt nhìn nhưng cũng ráng kềm chế những tâm tìmh đang dâng trào trong người, nó hỏi, "Lần trước con ở đây, sư phụ có biết cha con là ai không?"
Ông Oromis gật đầu một cái. "Chúng ta biết."
"Và sư phụ có biết Murtagh là người anh ruột của con không?"
Ông Oromis lại gật đầu một lần nữa. "Chúng ta biết, nhưng mà..."
"Vậy sao không cho con biết!" Eragon hét lên, rồi nhảy xuống đất khiến cái ghế bị đổ. Nó lấy nắm tay dọng vào hông, rồi bước đi vài bước, nhìn chằm chằm tới bóng của khu rừng ở đằng xa. Eragon xoay qua xoay lại, cơn giận dữ nổi lên đùng đùng trong lúc ông Oromis vẫn bình tĩnh như trước. "Đến khi nào mới cho con biết? Có phải sư phụ muốn giấu sự thật về bí mật thân thế của con để con chú tâm tu luyện phải không? Hay là sợ con sẽ trở nên giống cha con?" Một ý nghĩ tồi tệ hơn hiện lên trong đầu Eragon. "Hay là sư phụ nghĩ nó không quan trong lắm để nhắc tới? Còn Brom thì sao? Ông ta có biết hay không? Ông ấy chọn làng Carvahall để ẩn mình là vì con, là vì con là đứa con của kẻ thù ông ta sao? Sư phụ không nghĩ là con tin mọi thứ đều là ngẫu nhiên khiến ông ta và con chỉ sống cách nhau vài dặm và Arya lại chỉ 'ngẫu nhiên' đưa quả trứng Saphira cho con ở dãy núi Spine."
"Chuyện Arya làm chỉ là một tai nạn thôi," ông Oromis chêm vào. "Cô ta lúc đó không biết về con."
Eragon nắm lấy chuôi đoản kiếm của nó, bắp thịt cả người gồng lên cứng như sắc. "Khi Brom nhìn thấy Saphira lần đầu, con có nhớ ông ta tự nói không chắc 'cái vật này' là hỷ kịch hay bi kịch. Lúc đó, con cứ tưởng ông ta nói tới chuyện một người nông dân bình thường như con lại trở thành Kỵ Sĩ thứ nhất trong vòng mấy trăm năm qua. Nhưng đó không phải là ý này phải không? Ông ta đang tự hỏi không biết là hỷ hay bi kịch mà con út của Morzan lại khoác lên người áo Kỵ Sĩ."
"Đây có phải là lý do tại sao sư phụ và ông Brom muốn huấn luyện con, để trở thành không gì khác ngoài vũ khí đối địch Galbatorix để con có thể đền bù tội ác của cha con phải không? Con chỉ là như vậy với các người hay sao, một cục sắt giữ thăng bằng trên bàn cân?" Trước khi Oromis có thể trả lời, Eragon thề nói, "Cả cuộc sống của con đều là một sự giả dối! Từ khi con sinh ra, không có ai ngoài Saphira muốn con; không phải mẹ, không phải Garrow, không phải dì Marian, cũng không phải ông Brom. Ông Brom chỉ thích con vì Morzan và Saphira. Con lúc nào cũng là một sự phiền phức. Sư phụ nghĩ con thế nào cũng được, con 'không' phải là cha con, hay anh con, và con từ chối tiếp nhận theo gót bọn họ." Nắm lấy cạnh bàn, Eragon nhỏm người ra trước. "Con không phản bội các vị thần tiên hay người lùn hay người Varden trước mặt Galbatorix, nếu đó là điều các người lo lắng. Con sẽ làm chuyện con phải làm, nhưng từ giờ trở đi, các người không còn được lòng trung thành và sự tin tưởng của con. Con sẽ không..."
Không khí chung quanh lay động khi Glaedr gầm lên, mép trên của hắn kéo lại thò ra cả hàm răng nanh. "Ngươi có nhiều lý do để tin tưởng chúng ta hơn mọi ai khác, con chim mới nở," hắn nói, thanh âm của hắn như tiếng sấm vang lên trong đầu Eragon. "Nếu không phải chúng ta bỏ sức, ngươi đã chết từ lâu rồi."
Sau đó, khiến Eragon ngạc nhiên, Saphira nói với Oromis và Glaedr, "nói cho anh ấy biết đi." và điều này khiến nó thất kinh khi thấy nỗi đau đớn trong tư tưởng cô nàng. "Saphira?" nó hoang mang hỏi. "Nói với anh cái gì?"
Cô nàng lờ nó, "chuyện cãi lộn này không phải là không có nguyên nhân. Đừng khiến Eragon khó chịu hơn nữa."
Một bên mí của Oromis nheo lại. "Mi biết hả?"
"Con biết."
"Em biết cái gì?" Eragon rống lên, thiếu điều muốn tuốt kiếm khỏi vỏ và ép họ phải nói ra.
Ông Oromis dùng một ngón tay dài chỉ vào cái ghế ngã nói, "ngồi xuống". Khi Eragon vẫn còn đứng đó, quá giận và đầy phẫn uất để nghe lời, ông Oromis chỉ đành thở dài. "Ta hiểu chuyện này quá khó chịu đối với con Eragon, nhưng nếu con cứ muốn hỏi và từ chối nghe trả lời, thì chỉ được thất vọng mà thôi. Bây giờ, hãy ngồi xuống, chúng ta có thể nói chuyện với nhau cho lịch sự một chút."
Eragon trợn mắt, cầm cái ghế dựng lên rồi ngồi phịch xuống. "Tại sao?" nó hỏi. "Tại sao mọi người không cho con biết Morzan là cha của con, người cầm đầu của đám Phản Đồ?" "Lúc đầu," ông Oromis nói, "chúng ta sẽ may mắn nếu con không giống chút gì với cha con, điều này thật sự là ta đã tin rồi. Và ta tính cho con hay trước khi con ngắt lời ta, Murtagh không phải là anh ruột của con, mà chỉ là anh cùng mẹ khác cha thôi." Trái đất xung quanh Eragon như bị đảo lộn lên, cảm giác chóng mặt thật mạnh khiến nó phải nắm lấy cạnh bàn để giữ vững người. "Anh em cùng mẹ khác cha.. Nếu vậy thì ai...?"
Ông Oromis khều một quả mọng từ trong khay, ngắm nghía một hồi rồi mới ăn. "Glaedr và ta không muốn giấu bí mật này với con nhưng chúng ta không có quyền lựa chọn khác. Cả hai đều đã hứa, với lời tuyên thệ ràng buộc nhất, là chúng ta sẽ không bao giờ tiết lộ lai lịch của cha con, hay của người anh cùng mẹ khác cha kia, hay bàn thảo chuyện dòng dõi của con với con, trừ khi con đã tự khám phá ra sự thật hoặc lai lịch của người thân của con khiến con lâm vào hiểm cảnh. chuyện bị tiết lộ ra giữa con và Murtagh trong trận chiến Cánh đồng Cháy đã đáp ứng được các điều kiện ràng buộc của lời thề, bây giờ chúng ta có thể tự do bàn bạc vấn đề này."
Cả người Eragon run rẩy vì ráng kềm chế cảm xúc, nó nói, "Tiền bối Oromis, nếu Murtagh chỉ là người anh cùng mẹ khác cha của con, vậy thì ai là cha con?" "Hãy nhìn kỹ vào tâm của ngươi Eragon," Glaedr nói. "Ngươi vốn đã biết ông ta là ai, và cũng đã biết khá lâu rồi."
Eragon lắc đầu. "Ta không biết! Ta không biết! Làm ơn...."
Lửa và khói bắn ra từ hai lỗ mũi của Glaedr khi hắn khịt một cái. "Còn không rõ ràng sao? Cha của ngươi chính là ông Brom."
 
46. Đôi uyên ương bất hạnhEragon nhìn chằm chằm con rồng vàng.
“Nhưng như thế nào?” nó kêu lên. Trước khi Glaedr hay sư phụ Oromis có thể trả lời, Eragon lao về phía Saphira và, bằng cả ý nghĩ lẫn lời nói, nó gào lên: “Em đã biết phải không? Em đã biết, và em đã để anh tin rằng Morzan là cha anh suốt cả thời gian vừa qua, dù cho … dù cho anh – anh …” Ngực phập phồng, Eragon lắp bắp và hạ giọng, không đủ khả năng nói một cách mạch lạc. Tự nhiên, những ký ức về ông Brom ùa về, cuốn sạch những suy nghĩ khác của nó. Nó nghĩ về ý nghĩa của từng lời, từng câu ông Brom đã nói, và trong chốc lát, cảm giác về sự hợp lý đọng lại trong Eragon. Nó vẫn còn muốn những lời giải thích, nhưng nó không cần chúng để xác định tính xác đáng trong lời nói của Glaedr, vì từ tận xương tuỷ, Eragon cảm nhận được sự thật trong những gì Glaedr đã nói.
Eragon bắt đầu khi sư phụ Oromis chạm vào vai nó. “Eragon, con cần phải giữ bình tĩnh”, vị tiên già nói với giọng dịu dàng. “Hãy nhớ tới những kỹ năng ta đã dạy con về cách vượt qua tâm trạng căng thẳng. Kiểm soát hơi thở, và tập trung đẩy sự căng thẳng đó thoát khỏi tứ chi xuống mặt đất phía dưới con … Đúng, như thế. Lại lần nữa, và thở sâu vào.”
Đôi bàn tay Eragon trở nên bất động và nhịp tim chậm đi khi nó làm theo lời hướng dẫn của sư phụ Oromis. Khi những ý nghĩ đã được rũ sạch, nó nhìn Saphira lần nữa và hỏi bằng giọng nhẹ nhàng, “Em đã biết phải không?”
Saphira nâng đầu lên khỏi mặt đất. Ôi, Eragon, em đã rất muốn nói với anh. Em đau đớn khi thấy những lời của Murtagh dày vò anh mà không thể giúp anh. Em đã cố gắng giúp
– em đã cố rất nhiều lần – nhưng giống với sư phụ Oromis và Glaedr, có quá nhiều lời thề bằng cổ ngữ giữ cho thân thế của ông Brom là bí mật đối với anh, và em không thể phá vỡ lời thề của mình được.

“Ô…ông ấy nói với em khi nào?” Eragon hỏi, xúc động đến nỗi nó lại tiếp tục nói to. Một ngày trước khi bọn Urgals tấn công chúng ta bên ngoài thành Teirm, khi anh vẫn còn bất tỉnh.
“Đó có phải là lúc ông ấy nói cho em cách liên lạc với Varden ở Gil’ead không?” Phải. Trước khi em biết được Brom định nói gì, ông ấy đã bắt em thề sẽ không bao giờ nói điều này với anh trừ khi anh tự khám phá ra. Rất tiếc, em đã đồng ý. “Ông ấy còn nói với em điều gì nữa không?” Eragon hỏi, cơn giận của nó lại bùng lên. “Còn có những bí mật nào khác mà anh phải biết không, như Murtagh không phải là anh ruột duy nhất của anh, hay cách đánh bại Galbatorix?”
Trong suốt hai ngày em và ông Brom săn tìm để diệt bọn Urgal còn lại, ông ấy đã thuật lại các chi tiết về cuộc đời ông ấy để nếu ông ấy chết, và để nếu có khi nào anh tìm ra được mối liên hệ với ông ấy, thì con trai ông có thể biết được ông ấy đã là một người như thế nào và tại sao ông phải hành động như vậy. Ông cũng gửi em một món quà dành cho anh.
Một món quà sao?
Một ký ức của ông ấy nói chuyện với anh như cha của anh chứ không phải là Brom người kể chuyện.

“Tuy nhiên, trước khi Saphira chuyển ký ức này cho con,” sư phụ Oromis nói, và Eragon nhận thấy cô rồng đã cho phép vị tiên ông cùng nghe những lời của nó, “ta nghĩ tốt nhất là con phải biết làm cho điều này qua đi. Con sẽ nghe ta một lúc chứ, Eragon?” Eragon lưỡng lự, không chắc lắm về điều sư phụ nó muốn, rồi nó gật đầu. Nâng cái ly pha lê có chân của mình lên, sư phụ Oromis uống phần rượu của ông, rồi đặt cái ly trở lại bàn và nói: “Con biết rồi đấy, cả Brom và Morzan đều là học trò của ta. Brom, ít hơn 3 tuổi, dành cho Morzan sự quý trọng cao tới nỗi, làm cho Morzan xem thường ông ấy, sai bảo ông ấy, và thậm chí đối xử với ông ấy một cách đáng xấu hổ nhất.”
Bằng giọng cáu kỉnh, Eragon nói, “Khó mà tưởng tượng ông Brom lại để ai đó sai bảo mình”.
Oromis nghiêng đầu như thể một con chim. “Và đã là như thế. Brom yêu quý Morzan như anh trai, bất chấp thái độ của hắn. Chỉ duy nhất khi Morzan phản bội lại các Kỵ sĩ để đi theo Galbatorix và Forsworn giết chết Saphira, con rồng của Brom, thì Brom mới nhận ra bản chất thật của Morzan. Cũng mạnh như sự yêu mến mà Brom đã dành cho Morzan, nỗi căm ghét thay thế đó giống như một lò luyện ngục thay vì một cây nến như trước đây. Brom đã thề sẽ cản trở Morzan bằng mọi cách và mọi nơi ông ấy có thể, để xoá bỏ mọi thành quả của hắn và đưa những tham vọng của hắn trở thành những nỗi ân hận cay đắng. Ta đã cảnh báo Brom tránh khỏi con đường đầy rẫy căm ghét và bạo lực, nhưng ông ấy đã phát điên vì nỗi đau gây ra bởi cái chết của Saphira, và ông ấy không nghe lời ta.” “Trong những thập kỷ tiếp sau đó, sự căm ghét của Brom không hề suy giảm, ông ấy chưa hề chùn bước trong những cố gắng chống lại Galbatorix, giết Forsworn, và, trên tất cả, là trả cho Morzan những nỗi đau mà ông ấy đã phải chịu. Sự bền bỉ của Brom là không giới hạn, tên ông ấy trở thành ác mộng đối với Forsworn và là sự soi sáng của hy vọng cho những ai vẫn còn muốn chống lại Đế quốc.” Sư phụ Oromis nhìn về dải trắng phía chân trời và uống thêm một ngum rượu nữa. “Ta rất tự hào về những gì ông ấy đã làm được bằng chính bản thân mình khi không còn con rồng của ông ấy trợ giúp. Đó luôn là một sự khích lệ đối với một người thầy khi nhìn thấy một trong những học trò của mình trở nên xuất sắc, tuy vậy nó phải … Nhưng ta lạc đề mất rồi. Sau đó, cách nay 20 năm, phe Varden bắt đầu nhận được những báo cáo gửi từ các điệp viên của họ trong lòng Đế quốc về những hoạt động của một phụ nữ bí ẩn chỉ được biết đến với cái tên Bàn Tay Đen.”
“Mẹ của con,” Eragon nói.
“Mẹ của con và Murtagh,” sư phụ Oromis chữa lại. “Lúc đầu Varden không biết gì về bà ta, ngoại trừ việc bà ta vô cùng nguy hiểm và bà ta trung thành với Đế Quốc. Đến lúc, và với rất nhiều đổ máu, mới phát hiện ra bà ta phục vụ Morzan, rằng Morzan độc thân, và rằng hắn dựa vào bà ta để thực hiện những ý muốn của mình trên khắp Đế quốc. Biết được điều này, Brom khởi hành đi giết Bàn Tay đen và vì thế đánh lại Morzan. Khi Varden không thể đoán được nơi mẹ con sẽ xuất hiện lần tới, Brom bèn đi đến lâu đài của Morzan và do thám cho tới khi ông ấy tìm ra cách thâm nhập lâu đài.”
“Lâu đài của Morzan đã ở ạ?”
Đang, chứ không phải đã; lâu đài đó vẫn còn. Hiện giờ Galbatorix dùng nó cho chính hắn. Nó nằm giữa những chân núi của rặng Spine, gần bờ tây bắc của hồ Leona, được giấu rất khéo khỏi những phần đất còn lại.”
Eragon nói, “ông Jeod đã nói với con rằng ông Brom đã lọt vào lâu đài nhờ giả làm một trong những người phục vụ.”
“Ông ấy đã làm thế, và đó không phải một nhiệm vụ dễ dàng. Morzan đã yểm vào pháo đài của hắn hàng trăm câu thần chú nhằm bảo vệ hắn khỏi kẻ thù. Hắn cũng ép mọi kẻ phục vụ mình phải thề trung thành, và thường là với tên thật của họ. Tuy vậy, sau nhiều thử nghiệm, Brom tìm ra kẽ hở của Morzan cho phép ông ấy kiếm được một chân làm vườn tại điền trang của hắn, và trong lớp vỏ nguỵ trang đó ông ấy đã gặp mẹ con lần đầu” Liếc nhìn xuống đôi tay mình, Eragon nói, “Con đoán rằng rồi sau đó ông ấy dụ dỗ mẹ con làm hại Morzan”
“Không hoàn toàn như vậy,” sư phụ Oromis đáp. “Đó có thể là ý định ban đầu của ông ấy, nhưng sau đó đã có điều gì đó xảy ra mà cả ông ấy lẫn mẹ của con không lường trước được: họ yêu nhau. Dù tình yêu mẹ con từng dành cho Morzan đã như thế nào, thì nó cũng không còn nữa bởi cách đối xử ác nghiệt của ông ta đối với bà và đứa con mới sinh của họ, Murtagh. Ta không biết chính xác trình tự các sự kiện, nhưng ở vài điểm nào đó Brom hẳn đã bộc lộ nhân dạng thật của mình cho mẹ con. Thay vì làm lộ ông ấy, bà đã cung cấp cho Varden những thông tin về Galbatorix, Morzan, và phần còn lại của Đế quốc.”
“Nhưng,” Eragon nói, “không phải chính Morzan đã có được lời thề trung thành bằng cổ ngữ của mẹ con sao? Bằng cách nào mà bà có thể quay sang chống lại hắn được?” Một nụ cười hiện ra trên đôi môi mỏng của sư phụ Oromis. “Bà ấy có thể bởi vì Morzan cho phép bà ở một mức độ nào đó được tự do hơn những kẻ tôi tớ khác của hắn để bà có thể sử dụng tài khéo léo và sáng kiến của mình khi thực hiện những mệnh lệnh của hắn. Chính vì tính kiêu ngạo của mình, Morzan tin rằng tình yêu mà bà ấy dành cho hắn sẽ đảm bảo lòng trung thành của bà tốt hơn bất cứ lời thề nào. Ngoài ra, bà ấy không còn là người đàn bà đã tự nguyện đến với Morzan; làm mẹ và gặp Brom làm thay đổi tính cách bà làm cho tên thật của bà thay đổi, điều này đã giải thoát cho bà khỏi những cam kết trước đó. Nếu Morzan đã cẩn trọng hơn – nếu, giả dụ như, hắn đã bố trí một câu thần chú có thể cảnh báo hắn khi nào bà ấy không còn tiếp tục giữ đúng lời hứa nữa – thì hắn đã có thể biết được cái khoảnh khắc hắn mất đi quyền lực đối với bà. Nhưng đó luôn luôn là một thiếu sót của Morzan; hắn có thể nghĩ ra một câu thần chú khôn khéo, nhưng sau đó trở nên vô dụng bởi vì, bằng tính nôn nóng của mình, hắn bỏ sót vài chi tiết cốt yếu.” Eragon tư lự. “Vậy sao mẹ con không rời bỏ Morzan ngay khi bà có cơ hội?” “Sau mọi việc bà đã làm dưới danh nghĩa của Morzan, bà cảm thấy mình có nghĩa vụ phải giúp Varden. Nhưng quan trọng hơn là, bà không thể cho phép mình bỏ Murtagh lại cho cha nó”
“Bà không thể đưa hắn đi cùng mình sao?”
“Nếu điều đó nằm trong khả năng của bà, ta chắc chắn bà đã làm rồi. Morzan nhận thấy đứa trẻ đem lại cho hắn một quyền năng vô cùng lớn đối với mẹ con. Hắn ép bà phải giao Murtagh cho một vú em vô tích sự và chỉ cho phép bà tới thăm nó ngắn ngủi và không thường xuyên. Điều mà Morzan không biết đó là, trong những khoảng thời gian ngắn ngủi này, bà cũng gặp cả Brom nữa.”
Tiên ông Oromis đưa mắt nhìn đôi chim nhạn đang chao liệng trên bầu trời xanh. Nhìn nghiêng, những đường nét thanh tú của ông gợi Eragon nghĩ tới một con chim ưng hay một con mèo đẹp mã. Vẫn nhìn chăm chú vào đôi chim nhạn, sư phụ Oromis nói, “Mẹ con không biết trước nơi Morzan sẽ cử mình đến vào lần tới, cũng như không biết khi nào thì bà có thể trở về lâu đài của hắn. Vì thế, Brom phải lưu lại điền trang của Morzan thêm một thời gian nếu ông ấy muốn gặp bà. Trong gần ba năm, Brom đã phục vụ với vai trò một người làm vườn của Morzan. Khi đó và sau này, ông ấy có thể thoát ra để gửi cho Varden một lời nhắn hoặc liên lạc với những gián điệp của ông ấy trên khắp Đế quốc, nhưng không làm thế, ông ấy đã chẳng hề rời khỏi khu vực lâu đài.”
“Ba năm! Ông ấy không sợ Morzan có thể nhìn thấy và nhận ra mình ư?” Sư phụ Oromis hạ thấp cái nhìn khỏi bầu trời, chuyển sang nhìn Eragon. “Brom là một người lão luyện trong việc tự cải trang, và đã nhiều năm kể từ khi ông ấy và Morzan mặt đối mặt lần cuối.”
“Ra vậy.” Eragon xoay cái ly nhỏ bằng những ngón tay, tìm hiểu ánh sáng khúc xạ qua pha lê như thế nào. “Rồi điều gì đã xảy ra vậy, thưa sư phụ?”
“Sau đó,” sư phụ Oromis trả lời, “một trong những đặc vụ của Brom ở thành Teirm đã liên hệ cùng với một học giả trẻ tên là Jeod mong muốn được gia nhập Varden và khẳng định rằng anh ta đã khám phá ra bằng chứng của một đường hầm dẫn đến lâu đài do loài tiên xây dựng ở Urû’baen mà cho đến khi ấy vẫn còn là bí mật. Brom đã cảm thấy một cách đúng đắn rằng phát hiện của Jeod quá quan trọng để mà bỏ qua, vì thế ông ấy thu vén đồ đạc, giải thích với những bạn cùng làm, và đến thành Teirm với tất cả sự vội vã.” “Mẹ con thì sao?”
“Bà ấy đã ra đi cho một nhiệm vụ khác của Morzan trước đó một tháng.” Cố gắng chắp nối những đầu mối để làm thành một bức tranh tổng thể từ những miêu tả rời rạc nó đã nghe từ nhiều người khác nhau, Eragon nói, “Rồi sau đó … ông Brom gặp ông Jeod, và ông ấy tin chắc rằng đường hầm là có thật, ông thu xếp để một thành viên của Varden cố gắng trộm ba trứng rồng mà Galbatorix cất giữ tại Urû’baen.” Gương mặt của sư phụ Oromis tối lại. “Thật không may, bởi những nguyên nhân không bao giờ được làm rõ, người họ lựa chọn cho nhiệm vụ, Hefring của Furnost, đã thành công trong việc đánh cắp duy nhất một trứng – là Saphira – khỏi kho tàng của Galbatorix, và ngay khi có được quả trứng, anh ta lẩn trốn cả phe Varden lẫn Galbatorix. Vì sự phản bội này, Brom đã phải bỏ ra 7 tháng tiếp theo để tìm đem Hefring về và vượt qua vương quốc trong một nỗ lực tuyệt vọng đoạt lại Saphira.”
“Và trong thời gian đó, mẹ con đã bí mật quay về Carvahall, nơi bà đã sinh con năm tháng sau đó?
Sư phụ Oromis gật đầu. “Con được thụ thai ngay trước khi mẹ con đi thực thi nhiệm vụ cuối cùng. Kết quả là, Brom chẳng biết gì về tình trạng của bà khi ông ấy truy tìm Hefring và trứng của Saphira … Cuối cùng khi Brom và Morzan đối đầu nhau ở Gil’ead, Morzan đã hỏi Brom có liên quan đến sự biến mất của Bàn Tay Đen hay không. Thật không thể ngờ được Morzan lại nghi ngờ sự dính líu của Brom, vì Brom đã nhiều lần cố gắng giết Forsworn. Tất nhiên Brom ngay lập tức kết luận rằng đã có gì đó kinh khủng xảy đến với mẹ con. Sau này ông ấy nói với ta rằng chính niềm tin đó đã đem đến cho ông sức mạnh và sự dũng cảm ông cần để giết Morzan và con rồng của hắn. Khi cả hai đã chết, Brom lấy trứng của Saphira từ xác của Morzan – vì Morzan đã tìm ra Hefring và tịch thu quả trứng – và rồi Brom rời khỏi thành phố, chỉ ngừng lại đủ lâu để giấu Saphira tại nơi mà ông ấy biết Varden sẽ tìm thấy.”
“Vậy ra đó là lý do vì sao Jeod nghĩ ông Brom đã chết ở Gil’ead,” Eragon nói. Sư phụ Oromis gật đầu lần nữa. “Bị tác động bởi nỗi sợ, Brom không dám chờ những cộng sự của mình. Kể cả khi mẹ con còn sống và khoẻ mạnh, Brom lo ngại rằng Galbatorix sẽ quyết định khiến Selena làm Bàn Tay Đen cho ông ta và bà ấy sẽ không bao giờ có cơ hội thoát khỏi việc phải phục vụ Đế quốc lần nữa.”
Eragon thấy mắt nó ướt. Ông Brom đã yêu mẹ mình đến thế nào, để bỏ lại mọi người khi ông biết bà đang gặp nguy hiểm.
“Từ Gil’ead, Brom phi ngựa thẳng tới lâu đài của Morzan, chỉ dừng lại để ngủ. Tuy nhiên với tốc độ ấy, ông ấy vẫn quá muộn. Khi ông ấy tới lâu đài, ông phát hiện ra rằng mẹ con đã trở về từ hai tuần trước, yếu ớt và kiệt sức vì hành trình bí mật của bà. Các thầy thuốc của Morzan đã cố gắng cứu bà ấy, nhưng mặc dù những cố gắng của họ, bà ấy vẫn đi vào cõi hư vô chỉ vài giờ trước khi Brom đến được lâu đài.”
“Ông ấy không bao giờ nhìn thấy bà sao?” Eragon hỏi, cổ họng nghẹn lại. “Không bao giờ nữa.” Sư phụ Oromis ngừng lại, và lời lẽ của ông dịu dàng hơn nữa. “Mất bà ấy, ta nghĩ, đối với Brom cũng khó khăn như khi ông ta mất con rồng của mình, và nó dập tắt gần hết lửa trong tâm hồn ông ấy. Nhưng, ông ấy đã không đầu hàng, cũng không hoá điên như khi Forsworn giết chết Saphira. Thay vào đó, ông ấy quyết định tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến cái chết của mẹ con và trừng phạt những kẻ có trách nhiệm nếu ông đủ khả năng. Ông tra hỏi những thầy thuốc của Morzan và ép họ mô tả bệnh tật của mẹ con. Từ những gì họ nói, và dựa vào những chuyện ngồi lê đôi mách mà ông nghe thấy những người phục vụ trong lâu đài nói với nhau, Brom đoán ra sự thật về việc mẹ con mang thai. Bị ám ảnh bởi hy vọng đó, ông ấy cưỡi ngựa đến một nơi ông biết để nhìn lại: nhà của mẹ con ở Carvahall. Và tại đó ông ấy thấy con trong sự bảo bọc của cậu và mợ.”
“Tuy vậy Brom không sống tại Carvahall. Ngay khi ông đảm bảo rằng không ai ở Carvahall biết rằng mẹ con là Bàn Tay Đen và rằng không có nguy hiểm gì sắp xảy đến với con, Brom bí mật quay về Farthen Dûr, nơi ông tự nguyện phục vụ Deynor, lúc đó là thủ lãnh của Varden.
Deynor đã kinh ngạc khi gặp ông ấy, vì cho đến khi đó, mọi người đều tin rằng Brom đã hy sinh ở Gil’ead. Brom đoan chắc Deynor giữ cho sự tồn tại của ông ấy là một bí mật đối với tất cả trừ một số người được chọn lựa, và sau đó—“
Eragon giơ một ngón tay lên. “Nhưng vì sao? Vì sao ông ấy phải giả vờ là đã chết?” “Brom muốn sống đủ lâu để trợ giúp dạy dỗ Kỵ sĩ mới, và ông ấy biết một cách duy nhất để tránh bị ám sát để trả thù cho việc giết Morzan là để Galbatorix tin rằng ông ấy đã chết và đã được chôn cất. Mặt khác, Brom hy vọng tránh thu hút sự chú ý không cần thiết tới Carvahall. Ông ấy muốn định cư ở đó để được gần con, quả thực ông ấy đã làm thế, nhưng ông ấy đã quả quyết rằng Đế quốc cuối cùng cũng không biết đến sự hiện diện của con.”
“Khi còn ở Farthen Dûr, Brom giúp Varden thương lượng một bản thoả ước với Nữ hoàng Islanzadí về việc làm thế nào mà tiên và người có thể luân phiên canh giữ trứng rồng và Kỵ sĩ mới sẽ được huấn luyện ra sao, nếu và khi quả trứng nở. Rồi Brom hộ tống Arya khi cô vận chuyển trứng từ Farthen Dûr tới Ellesméra. Khi tới đây, ông ta kể với ta và Glaedr những gì ta vừa kể cho con, vì thế sự thật về nguồn gốc của con sẽ không bị quên lãng nếu ông ta chết. Đó là lần cuối cùng ta gặp ông ta. Kể từ đó, Brom trở về Carvalhall, nơi ông ta tự giới thiệu mình là một nhà thơ và một người kể chuyện. Những gì xảy ra kế tiếp, con đã biết cụ thể hơn ta.”
Sư phụ Oromis trở nên im lặng, và trong một lúc, không ai nói gì.
Nhìn chăm chăm xuống đất, Eragon nghĩ về mọi lời sư phụ Oromis đã nói với nó và gắng sắp xếp những cảm nghĩ của mình. Cuối cùng nó nói, “Và ông Brom thực sự là cha của con, chứ không phải Morzan phải không ạ? Ý con là, nếu mẹ của con là vợ của Morzan, rồi sau đó …” Nó nói nhỏ dần, quá lúng túng để tiếp tục.
“Con là con trai của cha con,” tiên ông Oromis nói, “và cha của con là Brom. Về điểm này không còn nghi ngờ gì nữa”
“Vậy còn nghi ngờ ở điểm gì nữa không ạ?”
Sư phụ Oromis lắc đầu. “Không con ạ.”
Sự choáng váng cuốn lấy Eragon, và nó nhận thấy nó đang ngưng thở. Thở hắt ra, nó nói, “Con nghĩ con hiểu vì sao” – nó dừng một chút để lấp đầy không khí vào buồng phổi – “vì sao ông Brom đã không nói gì về điều này trước khi con tìm thấy trứng của Saphira, nhưng tại sao ông không nói với con sau đó? Và tại sao ông tiết lộ cho sư phụ và cho Saphira điều bí mật ấy? … Chẳng phải ông muốn khẳng định con là con trai của ông sao? Hay ông đã xấu hổ vì con?”
“Ta không thể giả vờ là mình biết nguyên do mọi hành động mà Brom đã làm, Eragon à. Tuy nhiên, về điều này thì ta rất chắc chắn: Brom không muốn gì hơn gọi con là con trai ông ấy và nuôi nấng con trưởng thành, nhưng ông ấy không dám để lộ ra rằng con có liên quan đến mình, vì sợ Đế quốc có thể tìm ra con và gắng làm hại ông thông qua con. Sự cẩn trọng của ông ấy cũng đã được minh chứng. Hãy nhìn cái cách mà Galbatorix đã cố gắng để bắt người anh họ của con hòng sử dụng anh ta để ép con đầu hàng.” “Ông Brom lẽ ra nên nói cho cậu con biết,” Eragon phản đối. “Cậu Garrow sẽ không phản bội ông Brom để theo phe Đế quốc.”
“Nghĩ xem, Eragon. Nếu con sống cùng Brom, và nếu tin tức về việc Brom còn sống tới tai những kẻ do thám của Galbatorix, thì cả hai đều phải trốn chạy khỏi Carvahall vì lo sợ cho cuộc sống của hai người. Bằng việc giấu sự thật với con, Brom hy vọng bảo vệ con khỏi những nguy hiểm đó.”
“Ông ấy đã không thành công. Dù sao chúng con cũng đã phải trốn chạy khỏi Carvahall.” “Đúng,” sư phụ Oromis nói. “Sai lầm của Brom, như đã là xảy ra, mặc dầu ta đánh giá nó đem lại nhiều điều tốt hơn là không tốt, là ông ấy không chịu được việc phải chia tách hoàn toàn khỏi con. Nếu ông ấy có đủ sức tự kiềm chế quay về Carvahall, con đã có thể không bao giờ tìm thấy trứng của Saphira, bọn Ra’zac đã không giết cậu của con, và rất nhiều việc lẽ ra không xảy ra thì đã xảy ra, và rất nhiều việc lẽ ra phải xảy ra thì lại không xảy ra. Dầu vậy, ông ấy không thể chia cắt con ra khỏi trái tim mình.”
Eragon nghiến chặt hai hàm khi một cơn rùng mình xuyên suốt người nó. “Và sau khi biết Saphira đã nở ra cho con?”
Sư phụ Oromis ngập ngừng, và vẻ điềm tĩnh của ông trở nên có chút gì đó băn khoăn. “Ta không chắc lắm, Eragon à. Có thể Brom đã vẫn cố bảo vệ con khỏi những kẻ thù của ông ấy, và ông ấy không nói với con cùng một lý do với việc ông ấy đã không đưa con thẳng tới Varden: con chưa sẵn sàng. Có thể ông ấy dự định nói cho con biết ngay trước khi con đến với Varden. Dù thế, nếu phải đoán, ta đoán rằng Brom kín tiếng không phải vì ông ấy xấu hổ vì con mà bởi vì ông ấy đã trở nên quen với việc sống cùng những bí mật của mình và rất miễn cưỡng phải xa rời chúng. Và còn bởi – và điều này chỉ đơn thuần là sự suy đoán – bởi ông ấy không chắc về phản ứng của con đối với tiết lộ ấy. Chính bản thân con cũng đã không quen biết lắm với Brom trước khi con rời Carvahall với ông ấy. Đó là lẽ đương nhiên khi ông ấy lo sợ rằng con có thể sẽ ghét ông ấy nếu ông ấy nói cho con biết ông ấy là cha đẻ của con.”
“Ghét ông ấy ư?” Eragon thốt lên. “Con sẽ không ghét ông ấy. Dẫu cho …con có thể sẽ không tin ông ấy.”
“Và con có thể tin tưởng ông ấy sau sự tiết lộ như thế không?”
Eragon cắn vào bên trong má mình. Không, con sẽ không.
Sư phụ Oromis tiếp tục, “Brom đã làm điều tốt nhất mà ông ấy có thể trong một hoàn cảnh phải cố gắng đến đáng kinh ngạc. Trên hết, đó là trách nhiệm của ông ấy phải đảm bảo cho con sống sót và khuyên bảo, dạy dỗ con, Eragon ạ, thế nên con mới không sử dụng sức mạnh của mình cho những phương tiện cá nhân, giống như Galbatorix vẫn làm. Bằng việc đó, Brom đã làm trọn bổn phận với sự khác biệt rõ ràng. Ông ấy có thể đã không là người cha như con hằng mơ ước, nhưng ông đã để lại cho con một di sản thừa kế vĩ đại mà chưa người con trai nào trên đời này từng nhận được.”
“Chẳng hơn gì điều mà ông ấy cũng sẽ làm cho bất cứ ai trở thành Kỵ sĩ mới.” “Điều đó không làm giảm giá trị nó chút nào,” thầy Oromis nhấn mạnh. “Nhưng con đã lầm; Brom đã làm cho con nhiều hơn ông ấy sẽ làm cho bất cứ ai. Con chỉ cần nghĩ đến việc ông ấy đã hy sinh bản thân như thế nào để tránh cho con khỏi sự thật ấy.” Bằng móng ngón trỏ phải, Eragon sờ vào cạnh bàn, lần theo một dấu vết mờ nhạt tạo nên bởi một trong những vòng tròn của thớ gỗ. “Và thực sự chỉ là tình cờ khi Arya chuyển trứng Saphira cho con?”
“Đúng thế,” sư phụ Oromis thừa nhận. “Nhưng không hoàn toàn là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Thay vì chuyển trứng cho người cha, Arya lại làm nó xuất hiện trước mắt người con.”
“Làm sao điều đó lại xảy ra khi cô ấy không biết chút gì về con?”
Sư phụ Oromis nhún đôi vai gầy guộc của ông. “Dẫu hàng ngàn năm học tập, chúng ta vẫn không thể tiên lượng hoặc giải thích mọi tác động của phép thuật.”
Eragon vẫn tiếp tục lần ngón tay theo dấu vết ở cạnh bàn. Mình có một người cha, nó nghĩ. Mình đã nhìn ông chết, và mình không hề biết ông là gì của mình … “Cha mẹ con,” nó nói, “họ đã bao giờ làm lễ cưới chưa?”
“Ta hiểu vì sao con hỏi vậy, Eragon à, và ta không biết câu trả lời của ta có làm con hài lòng hay không. Cưới không phải là một phong tục của loài tiên, và sự tinh tế của nó thường không đọng lại trong ta. Không ai từng buộc tay Brom với tay Selena trong một đám cưới, nhưng ta nghĩ họ đã tự cho rằng họ là vợ chồng. Nếu con đủ sáng suốt, con sẽ không phiền lòng về việc những kẻ khác trong loài người của con có thể gọi con là đồ con hoang mà nên bằng lòng được biết rằng con là con của cha mẹ mình và họ đã trao cho con cuộc sống mà con hằng tận hưởng.”
Eragon ngạc nhiên khi nó thấy mình bình thản đến thế. Trong cả đời mình nó đã suy ngẫm về nhân dạng cha nó. Khi Murtagh tuyên bố đó là Morzan, sự tiết lộ đã làm Eragon choáng váng dữ dội tương tự cái chết của cậu Garrow. Những lời nói ngược lại của rồng Glaedr rằng cha của Eragon là ông Brom lại cũng làm nó choáng váng, nhưng sự choáng váng dường như như chưa thể qua đi, có lẽ bởi vì, lần này, điều được tiết lộ không phải là một điều làm nó đau khổ. Vẫn yên lặng, Eragon nghĩ phải mất nhiều năm nữa nó mới có thể chắc chắn về cảm nghĩ của nó về cha mẹ mình. Cha của mình là một Kỵ sĩ và mẹ của mình là vợ của Morzan và cũng là Bàn Tay Đen.
“Con có thể nói với Nasuada được chứ?” Nó hỏi.
Sư phụ Ormis xoè đôi bàn tay “Nói với bất cứ ai con muốn; bí mật đó giờ đây thuộc về con toàn quyền hành động. Ta ngờ rằng con sẽ gặp nhiều nguy hiểm hơn nếu cả thế giới biết rằng con là người thừa kế của Brom.”
“Murtagh.” Eragon nói. “Hắn tin rằng chúng con là anh em ruột. Hắn đã nói vậy với con bằng cổ ngữ.”
“Và ta chắc rằng Galbatorix cũng vậy. Chính cặp sinh đôi đã khám phá ra rằng mẹ của Murtagh và mẹ của con chỉ là một người, và chúng tin đó cho tên vua kia. Nhưng chúng đã không thể báo cho hắn về sự dính líu của Brom, vì không ai trong Varden chia sẻ thông tin bí mật đó.
Eragon ngước nhìn cặp chim nhạn sà xuống phía trên đầu nó, và nó tự cho phép mình nở một nụ người nửa miệng gượng gạo.
“Vì sao con cười?” sư phụ Oromis hỏi.
“Con không chắc Người sẽ hiểu.”
Vị tiên khép đôi tay vào giữa hai đùi. “Ta có thể, đúng thế. Nhưng, con không thể biết chắc chắn khi con không thử giải thích.”
Eragon mất một lúc để tìm ra những từ ngữ nó cần. “Khi con còn nhỏ, trước khi … mọi việc này diễn ra” – nó khoát tay chỉ Saphira, sư phụ Oromis và Glaedr và cả thế giới nói chung – “con thường tự tiêu khiển bằng cách tưởng tượng ra rằng, bởi sự hóm hỉnh và sắc đẹp vượt trội, mẹ con đã được đưa đến một trong số các cung điện của Galbatorix. Con đã tưởng tượng rằng bà đi từ thành phố này sang thành phố khác và ăn tối cùng với các bá tước và các quý bà trong những đại sảnh của họ và rằng … ờ, bà đã liều lĩnh đem lòng yêu một người giàu có và quyền thế, nhưng vì những lý do nào đó, bà bắt buộc phải giấu con khỏi ông ấy, vì vậy bà trao con cho cậu Garrow và mợ Marian nuôi giữ, và một ngày nào đó bà sẽ trở lại và nói cho con biết con là ai và rằng bà chưa bao giờ muốn để con xa bà.”
“Điều đó chẳng khác là mấy so với những gì đã thực sự xảy ra,” sư phụ Oromis nói. “Vâng, nó không khác, nhưng … con đã tưởng tượng ra rằng cha mẹ con là những người quan trọng và con cũng vậy. Định mệnh đã đem lại cho con những gì con từng muốn, nhưng sự thật thì không đẹp và hạnh phúc như con đã từng nghĩ … con nghĩ rằng con đã cười vào sự ngu dốt của mình, và cười cả với sự chẳng giống ai của mọi việc xảy ra với con.”
Một cơn gió nhẹ cuốn qua mặt cỏ thưa gợn sóng dưới chân họ và làm rung rinh các cành nhánh trên những cái cây trong khu rừng bao quanh họ. Eragon ngắm nhìn sự dao động trên mặt cỏ trong một thoáng, rồi hỏi chậm rãi, “Mẹ con có phải là người tốt không ạ?” “Ta không thể nói gì, Eragon. Những sự kiện trong cuộc đời bà thật phức tạp. Sẽ thật ngu ngốc và ngạo mạn khi ta mạo muội phán xét một người ta biết rất ít.”
“Nhưng con cần phải biết!” Eragon nắm chặt đôi bàn tay, những ngón tay nó cùng với những cục chai sần trên khớp tay siết lại. “Khi con hỏi Brom có biết bà không, ông ấy đã nói rằng bà đã rất kiêu hãnh và có phẩm giá và rằng bà đã luôn giúp những người nghèo khó và kém may mắn hơn bà. Nhưng làm sao mà bà làm được? Làm sao mà bà vừa là một người như thế vừa là Bàn Tay đen? Ông Jeod đã kể với con những câu chuyện về những việc – những việc xấu xa, kinh khủng – mà bà đã làm khi phục vụ Morzan … Bà là quỷ dữ khi đó, phải không? Phải chăng bà không quan tâm đến quyền lực của Galbatorix? Tại sao bà lại đi cùng Morzan ngay từ đầu?”
Sư phụ Oromis ngập ngừng. “Tình yêu có thể là một lời nguyền khủng khiếp, Eragon ạ. Nó có thể làm con không nhận thấy thậm chí là những điểm xấu lớn nhất trong cách hành xử của một con người. Ta ngờ rằng mẹ con đã biết hết về bản chất thật của Morzan khi bà rời Carvahall cùng hắn, và đã có một thời gian hắn không cho phép bà bất tuân những ý muốn của hắn. Bà trở thành một nô lệ của hắn về mọi lẽ trừ cái tên, và đó chỉ là khi bà thay đổi bản chất, bà mới có thể thoát khỏi vòng kiểm soát của hắn.”
“Nhưng ông Jeod đã nói rằng bà ấy đã thích thú với những gì bà làm khi là Bàn Tay Đen.”
Một sự khinh bỉ thoáng hiện làm thay đổi nét mặt của sư phụ Oromis. “Những miêu tả về các hành động tàn bạo đã qua thường cường điệu và bị bóp méo. Đó là những gì con nên lưu lại trong đầu mình. Không ai ngoại trừ mẹ con biết chính xác những gì bà đã làm, hay vì sao, hay bà cảm thấy thế nào về những việc đó, và bà không còn là một sinh linh sống để tự mình giải thích nữa.”
“Vậy, con biết phải tin ai?” Eragon van nài, “Brom hay Jeod?”
“Khi con hỏi Brom về mẹ mình, ông ấy đã nói với con những gì ông ấy nghĩ là những phẩm chất quan trọng nhất của bà. Lời khuyên của ta là không nên tin vào những gì ông ấy biết về bà. Nếu điều đó không làm nguôi được sự ngờ vực của con, thì hãy nhớ rằng dù những tội ác nào mà bà đã tận tâm phục vụ khi là Bàn Tay Đen của Morzan, thì rút cục bà đã theo phe Varden và ra đi với những sức mạnh phi thường để bảo vệ con. Biết được điều đó rồi, con không nên tự dằn vặt mình nhiều hơn về bản chất thực sự của bà nữa.”
Được đẩy tới bởi ngọn gió, một con nhện treo mình trên sợi tơ cuốn qua Eragon, trầm bổng trong những xoáy khí vô hình. Khi con nhện đã ra khỏi tầm nhìn, Eragon nói, “Lần đầu con đến Tronjheim, bà thầy bói Angela đã nói với con rằng đó là sự trớ trêu của cuộc đời Brom khi ông thất bại ở mọi việc ông cố gắng, trừ việc giết Morzan.” Sư phụ Oromis nghiêng đầu. “Có người thì nghĩ thế. Người khác lại kết luận rằng Brom đã làm được nhiều điều khó khăn và vĩ đại. Điều đó phụ thuộc vào việc con chọn cách quan sát thế giới như thế nào. Những lời của các thầy bói hiếm khi dễ dàng giải đoán. Ta đã có kinh nghiệm rằng những lời tiên đoán của họ không bao giờ cho phép đầu óc ta được nghỉ ngơi. Nếu con muốn được hạnh phúc, Eragon à, thì đừng nghĩ gì về điều sẽ xảy tới hay về điều con không kiểm soát được, mà nên nghĩ tới hiện tại và tới những gì con có khả năng làm thay đổi.”
Một ý nghĩ xuất hiện trong Eragon khi đó. “Blagden,” nó nhắc đến con quạ trắng luôn ở bên Nữ hoàng Islanzadí. “Nó cũng biết Brom phải không?”
Một bên lông mày sắc nét của sư phụ Oromis nhướng lên. “Nó ấy à? Ta chưa bao giờ nói về điều đó với nó. Nó là một tạo vật hay thay đổi và không nên đặt niềm tin.” “Cái ngày con và Saphira bay tới Cánh đồng Cháy, nó đã đưa ra một câu đố cho con … Con không thể nhớ mọi câu, nhưng đó là về cái gì đó mà hai thành một, khi mà một lại thành hai. Con nghĩ nó ám chỉ con và Murtagh có cùng cha mẹ.”
“Điều đó là có thể,” sư phụ Oromis nói. “Blagden đã ở đây, tại Ellesméra khi Brom nói với ta về con. Ta không ngạc nhiên nếu tên trộm mỏ nhọn đó đã đậu trên một cái cây gần đây khi chúng ta nói chuyện. Nghe lén là một thói quen không may của nó. Cũng có thể câu đố đó là kết quả của sự thấy trước tương lai đôi khi cũng diễn ra với nó.” Lát sau, rồng Glaedr chuyển động, và sư phụ Oromis quay lại và liếc nhìn con rồng vàng. Vị tiên đứng dậy khỏi ghế với một dáng vẻ thanh nhã, nói, “Hoa quả, các loại hạt và bánh mỳ luôn sẵn, nhưng sau hành trình của mình, con nên nạp vào dạ dày thứ gì đó bổ dưỡng hơn. Ta có một nồi súp cần giữ cho sôi trong lều của ta, nhưng, đừng có cựa quậy. Ta sẽ đem nó cho con khi xong.” Với những bước chân nhẹ trên cỏ, sư phụ Ormis đi về phía ngôi nhà phủ vỏ cây của ông và khuất vào trong đó. Khi cánh cửa chạm khắc đóng lại, Glaedr thở ra và nhắm mắt lại, dường như chìm vào giấc ngủ.
Và mọi vật đều im lặng, để lại tiếc xào xạc của cành lá đu đưa trong gió.
 
47. Di sản thừa kếEragon ngồi yên một lúc bên chiếc bàn tròn, sau đó đứng dậy và đi về phía bờ vực đá Tel’naeír, tại đó nó hướng tầm mắt bao quát khu rừng trải rộng phía dưới ba trăm thước. Nó dùng mũi giày đẩy hòn sỏi qua vách đá, nhìn nó nảy trên mặt đá dốc cho đến khi mất hút dưới những vòm cây sâu thẳm.
Có tiếng cành cây gãy răng rắc khi Saphira tiến tới từ phía sau. Ả rồng thu mình bên cạnh nó, những cái vảy của cô nàng lấp lánh như hàng trăm đốm sáng xanh nhảy múa, và cũng nhìn về hướng nó đang nhìn. Anh giận em à? ả hỏi.
Không, đương nhiên là không. Anh hiểu là em không thể phá vỡ lời thề bằng cổ ngữ… Anh chỉ ước rằng chính ông Brom nói điều này với anh, và rằng ông ấy đã không thấy cần thiết phải che giấu sự thật với anh.
Ả đưa đầu về phía nó. Vậy anh cảm thấy thế nào, Eragon?
Em biết rõ như anh mà.
Vài phút trước thì thế, nhưng giờ thì không. Anh lặng lẽ quá, và nhìn vào tâm tư của anh như soi vào mặt hồ sâu thẳm, em không thể nhìn thấy đáy. Điều gì chứa đựng trong anh, tiểu huynh? Tức giận? Hạnh phúc? Hay không có xúc cảm gì hết?
Những gì trong anh bây giờ là sự chấp nhận , nó nói, và quay sang đối diện với Saphira. Anh không thể thay đổi việc cha mẹ anh là ai, anh đã tự thích nghi với điều đó sau trận chiến ở Cánh Đồng Cháy. Điều đó nghĩa là gì, dù anh có nghiến vụn răng mình ra thì cũng không thay đổi được. Anh nghĩ là anh…vui, khi coi Brom là cha mình. Nhưng anh không chắc… Quá nhiều thứ để có thể nắm bắt cùng một lúc.
Em có cái này có thể giúp anh. Anh có muốn xem ký ức mà ông Brom đã để lại cho anh không, hay anh muốn đợi?
Không, không đợi
, nó nói. Nếu trì hoãn, có thể anh sẽ không bao giờ còn cơ hội.
Vậy thì hãy nhắm mắt lại, và để em cho anh thấy điều gì đã từng xảy ra.

Eragon làm như ả nói, và thông qua Saphira, một dòng chảy cảm xúc lướt tới: những hình ảnh, âm thanh, mùi vị, và hơn thế, nó cảm nhận được mọi thứ cô rồng trải qua vào thời điểm đó.
Trước mặt, Eragon thấy một khoảng thưa của một khu rừng nằm đâu đó giữa những chân đồi chồng chất ở phía tây rặng Spine. Cỏ dày và tươi tốt, và những tấm màn địa y màu lục nhạt rủ xuống từ những thân cây cao, ủ rũ, phủ đầy rêu. Nhờ những trận mưa từ đại dương quét qua vùng đất, cây cối xanh hơn và ẩm ướt hơn nhiều so với ở Thung lũng Palancar. Dưới con mắt của Saphira, màu xanh lục và màu đỏ trở nên dịu hơn so với cái nhìn của Eragon, trong khi mọi gam màu lam đều nổi bật lên. Mùi đất ẩm và gỗ mục tràn ngập không khí.
Tại chính giữa trảng trống là một thân cây đổ, và ngồi trên thân cây đó chính là Brom.
Cái mũ trùm của ông già được kéo ra sau, để lộ đầu trần. Thanh kiếm của ông để ngang đùi. Cây gậy xoắn lượn chạm trổ những hình bí ẩn đứng dựa vào khúc cây. Chiếc nhẫn Aren lấp lánh bên bàn tay phải ông.
Trong một lúc lâu, Brom không dịch chuyển, rồi ông nheo mắt nhìn lên trời, cái mũi khoằm của ông đổ bóng dài trên mặt. Giọng ông nghe khó chịu, và Eragon chao đảo, cảm thấy như bị lạc nhịp khỏi thời gian.
Brom nói, “Mặt trời vẫn theo lối từ chân trời này đến chân trời kia, mặt trăng vẫn theo sau, và ngày tháng vẫn trôi qua mà không hề bận tâm đến những cuộc đời mà chúng đang đè nén, từng cuộc đời một”. Hạ thấp mắt, Brom nhìn thẳng vào Saphira, và qua nó, thẳng vào Eragon. “Dù cố gắng đến đâu, không ai có thể trốn tránh mãi cái chết, ngay cả thần tiên hay những linh hồn. Tất cả đều sẽ có một kết thúc. Nếu con đang quan sát ta, Eragon, tức là ngày tàn của ta đã tới rồi, và ta đã chết, và con biết rằng ta là cha của con”.
Từ cái túi da đeo bên mình, Brom rút ra cái tẩu thuốc của ông, nhồi đầy cỏ cardus, rồi nhóm lửa bằng cách khẽ lẩm bẩm “Brisingr”. Ông bập bập cái tẩu thuốc vài lần cho lên lửa, trước khi trở lại cuộc nói chuyện. “Nếu con thật sự nhìn thấy điều này, Eragon à, ta hi vọng rằng con được an toàn và hạnh phúc, và rằng Galbatorix đã chết. Tuy nhiên ta thấy là chuyện đó rất khó xảy ra, nếu xét riêng cái lý do con là một Kỵ sĩ rồng, và một Kỵ sĩ rồng có thể không bao giờ được nghỉ ngơi khi mà sự bất công vẫn còn hiện diện trên mảnh đất này.”
Brom khẽ bật cười, và ông lắc đầu, chòm râu gợn sóng như làn nước. “A, ta không có đủ thời gian để nói dù chỉ là một nửa những gì ta muốn nói, ta sẽ phải già gấp đôi hiện giờ trước khi ta kể xong. Để cho ngắn gọn, ta sẽ cho rằng Saphira đã cho con biết mẹ con và ta đã gặp nhau ra sao, Selena đã chết như thế nào, và làm sao mà ta lại đến sống tại Carvahall. Ta ước rằng ta và con có thể nói chuyện trực tiếp, Eragon à, chúng ta sẽ vẫn chia sẻ kí ức này, còn Saphira sẽ không cần phải chia sẻ với con, nhưng ta nghi ngờ điều đó. Những năm tháng khổ đau đè nặng lên ta, Eragon à, và ta cảm thấy một sự lạnh lẽo len vào tứ chi, một thứ mà ta chưa bao giờ phải lo lắng trước đây. Ta nghĩ đó là vì ta biết giờ đã đến lượt con phải gánh vác nhiệm vụ này. Vẫn còn rất nhiều thứ ta hi vọng đạt được, nhưng không cái gì là dành cho bản thân ta cả, chỉ cho con thôi, và con sẽ che át đi mọi thứ ta đã từng làm. Ta hoàn toàn chắc chắn về điều đó. Dù vậy, trước khi nấm mồ nuốt lấy ta, ta vẫn muốn có thể, dù chỉ một lần này, gọi con là con trai… con trai của ta… Trong cả cuộc đời con, Eragon ơi, ta đã mong mỏi được nói với con ta là ai. Đó là niềm hân hoan không thể tả xiết đối với ta khi được trông thấy con trưởng thành, nhưng cũng là sự tra tấn khủng khiếp bởi sự thật mà ta đang che giấu trong tim mình.”
Rồi Brom cười, giọng khắc nghiệt, ngắt đoạn và khô khốc. “Ừ, ta đã không thực sự giữ được con an toàn khỏi Đế quốc, còn giờ thì sao? Nếu con vẫn tự hỏi ai là kẻ phải chịu trách nhiệm trước cái chết của cậu Garrow, thì con không phải tìm đâu xa đâu, bởi vì hắn đang ngồi đây này. Đó hoàn toàn là sự dại dột của ta. Ta không bao giờ nên trở lại làng Carvalhall. Và bây giờ thì xem này: Garrow chết, và con, một Kỵ sĩ rồng. Ta cảnh báo với con, Eragon à, hãy thận trọng đối với người mà con yêu, bởi vì định mệnh có vẻ quan tâm đến gia đình ta một cách dễ sợ.”
Ngậm vào cái ống tẩu, Brom rít thuốc vài lần, thổi làn khói trắng sang một bên. Mùi cay nồng xông vào mũi Saphira. Brom nói, “Trong đời ta đã phải hối tiếc rất nhiều rồi, nhưng con không phải là một trong số đó, Eragon à. Có thể đôi khi con cư xử như một tên ngốc mất trí, như vụ con để cho lũ Ugals đáng nguyền rủa này trốn thoát, nhưng con cũng không ngốc nghếch hơn ta khi ta bằng tuổi con đâu.” Ông gật gù. “Thật ra là còn ít ngốc hơn. Ta tự hào vì con là con trai của ta, Eragon à, tự hào hơn con có thể tưởng tượng ra đấy. Ta không bao giờ nghĩ rằng con sẽ trở thành một Kỵ sĩ như ta, hay mong rằng tương lai đó sẽ đè lên con, nhưng nhìn con và Saphira, nó làm ta cảm thấy muốn gáy lên mặt trời như một con gà trống vậy.”
Brom lại đưa cái tẩu lên hút “Ta hiểu con có thể sẽ giận ta vì đã giấu con chuyện này. Ta không thể nói là ta sẽ hạnh phúc nếu khám phá ra tên của chính cha ta theo cách này. Nhưng dù con có muốn hay không, chúng ta vẫn là một gia đình, ta và con. Bởi vì ta không thể dành cho con sự quan tâm mà ta nợ con như một người cha, nên thay vào đó, ta sẽ cho con một thứ, đó là lời khuyên. Cứ ghét bỏ ta nếu con muốn, Eragon à, nhưng hãy lưu ý những gì ta nói, bởi ta biết rõ ta nói về cái gì.”
Ông nắm chặt vỏ thanh kiếm bằng tay kia, mạch máu phồng lên trên mu bàn tay. Ông đảo tẩu thuốc sang một góc miệng.
“Rồi. Bây giờ, lời khuyên của ta có hai phần. Bất kể con có làm gì đi nữa, hãy bảo vệ những người mà con quan tâm. Không có họ, cuộc sống của con sẽ đau khổ hơn con có thể tưởng tượng ra. Một điều hiển nhiên, ta biết, nhưng đúng là như vậy đó. Đó, phần đầu lời khuyên của ta. Về phần còn lại… nếu con có may mắn giết được Galbatorix - hoặc là nếu ai đó thành công cắt họng được tên phản đồ đó - thì xin chúc mừng. Còn nếu không, thì con phải nhận ra rằng Galbatorix là kẻ thù lớn nhất và nguy hiểm nhất của con. Khi nào mà hắn còn chưa chết, cả con và Saphira sẽ không thể tìm thấy sự yên bình. Con có thể chạy đến nơi cùng trời cuối đất, nhưng trừ khi con theo phe Đế quốc, còn không một ngày nào đó con sẽ phải đương đầu với Galbatorix. Ta rất tiếc, Eragon, nhưng đó là sự thật. Ta đã chiến đấu với rất nhiều pháp sư, và vài tên Phản đồ, và cho đến giờ, ta luôn luôn đánh bại đối thủ của mình.”
Những nếp nhăn trên trán ông hằn sâu hơn. “Ừ, chỉ trừ một lần duy nhất, nhưng đó là vì ta chưa hoàn toàn trưởng thành. Dù sao đi nữa, lí do mà ta đã luôn luôn chiến thắng, là bởi vì ta sử dụng bộ óc, không như hầu hết mọi người. Ta không phải pháp sư mạnh, so với Galbatorix, và con cũng thế, nhưng trong quyết đấu của phù thủy, trí thông minh còn quan trọng hơn sức mạnh. Cách để đánh bại một pháp sư khác, không phải là mù quáng đập lia lịa vào tâm trí kẻ đó. Không! Để đảm bảo thắng lợi, con phải tìm ra cách mà kẻ thù của con phân tích thông tin và cách hắn phản ứng với vạn vật. Khi đó con sẽ tìm được điểm yếu của hắn, và nhằm vào đó mà tấn công. Mấu chốt không phải là sáng tạo ra một thần chú mà chưa ai từng nghĩ ra, mấu chốt là tìm ra câu thần chú mà kẻ thù đã bỏ qua và sử dụng nó chống lại hắn. Mấu chốt không phải là cày xuyên qua rào chắn trong tâm trí ai đó, mấu chốt là lách xuống dưới hoặc vòng qua rào chắn đó. Không ai thông suốt được mọi sự, Eragon ạ. Hãy nhớ điều đó. Galbatorix có thể có quyền năng vô song, nhưng hắn không thể lường trước mọi khả năng. Dù con có làm gì, con phải giữ được sự lanh lợi trong đầu óc mình. Đừng quá bám lấy một niềm tin nào đó đến mức không thể nhìn vượt tới một khả năng khác. Galbatorix bị điên và vì thế không thể đoán được hắn làm gì, nhưng hắn cũng gặp phải những lỗ hổng trong suy luận mà một người bình thường sẽ không mắc phải. Nếu con có thể tìm thấy điểm yếu đó, Eragon à, khi đó con và Saphira có thể đánh bại hắn.”
Brom hạ thấp tẩu thuốc, khuôn mặt ông nghiêm nghị. “Ta hy vọng con làm được. Mong muốn lớn nhất đời ta, Eragon ơi, là con và Saphira sẽ sống thật lâu và xán lạn, không âu lo về Galbatorix và Đế quốc. Ta ước rằng ta có thể bảo vệ con khỏi tất cả những hiểm nguy đang đe dọa con, nhưng than ôi, điều đó không nằm trong khả năng của ta. Tất cả những gì ta có thể làm là cho con những lời khuyên và dạy con những gì ta có thể dạy lúc này khi mà ta vẫn còn đây… Con trai ta. Dù điều gì xảy ra với con đi nữa, hãy biết rằng ta yêu con, và mẹ con cũng vậy. Cầu mong những vì sao dõi theo con, Eragon Bromsson.”
Khi những lời cuối cùng của Brom vang lên trong tâm trí Eragon, ký ức mờ nhạt đi, để lại đằng sau bóng tối trống rỗng. Eragon mở mắt, bối rối khi nhận thấy những giọt nước mắt đang chảy trên má mình. Nó bật cười nghẹn ngào, và lau mắt bằng rìa cái áo trấn thủ.Brom đã thật sự sợ rằng anh sẽ ghét ông, nó nói, sụt sịt mũi.
Anh sẽ ổn chứ? Saphira hỏi.
, Eragon nói, ngẩng đầu lên. Thật sự anh nghĩ là thế. Anh không thích một số chuyện Brom đã làm, nhưng anh tự hào khi gọi ông là cha của anh, và được mang tên ông. Ông là con người vĩ đại... Nhưng anh thấy buồn bực vì không bao giờ có dịp để nói chuyện với cha và mẹ anh như cha mẹ.
Ít nhất anh đã có thời gian ở bên ông Brom. Em còn không được may mắn như vậy, cả cha và mẹ em đều đã chết rất lâu trước khi em sinh ra. Mức gần nhất em có thể đến với họ chỉ là một vài kí ức mơ hồ từ Glaedr.
Eragon đặt một bàn tay lên cổ ả rồng, và chúng cố gắng làm dịu lòng nhau bằng cách tốt nhất có thể trong khi đứng ở rìa vực Tel’naeír và trải tầm mắt ra khu rừng của thần tiên.
Không lâu sau đó, Oromis hiện ra từ túp lều của ông, mang theo hai bát súp, và Eragon với Saphira quay lại, chậm rãi bước về phía chiếc bàn nhỏ phía trước thân hình đồ sộ của Glaedr.
 
48. Những linh hồn trong đá
Khi Eragon đẩy chiếc bát trống không của nó ra xa, Oromis nói " Con có muốn xem bức fairth của mẹ con không, Eragon?"
Eragon đông cứng người mất một lúc, kinh ngạc. "Có, xin thầy" Từ những nếp gấp của chiếc áo chùng trắng, Oromis rút ra một phiến đá mỏng màu xám đưa cho Eragon. Tảng đá lạnh và trơn nhẵn giữa những ngón tay Eragon, Trên mặt kia của phiến đá, nó biết, nó sẽ tìm thấy được một hình dung hoàn hảo về mẹ mình, được vẽ lên bởi một câu thần chú với những màu sắc mà một thần tiên đã đưa vào phiến đá này nhiều năm về trước. Một cơn lo lắng kích động chạy qua người Eragon. Nó luôn muốn nhìn thấy mẹ, dù bây giờ cơ hội đó đang trước mắt, nó lại sợ rằng thực tế sẽ làm nó thất vọng.
Cùng một sự cố gắng, nó quay phiến đá lại và trông thấy một bức vẽ - trong trẻo như một ảo ảnh nhìn qua khung cửa sổ - của một khu vườn hoa hồng đỏ và trắng lung linh trong những tia nắng mờ ảo của buổi bình minh. Con đường nhỏ rải sỏi chạy qua những luống hoa hồng. Và ở chính giữa con đường là một người phụ nữ, đang quỳ gối, một bông hồng trắng đặt giữa hai lòng bàn tay đang khum khum và bà cười với nhành hoa, mắt bà khép lại nụ cười khẽ nở trên môi. Bà ấy thật xinh đẹp, Eragon nghĩ. Nét mặt bà thật dịu dàng và nhân từ, lúc đó bà đang mặc một bộ quần áo bằng da, với một chiếc bao tay bắn cung đen thẫm đeo ở cánh tay những chiếc giáp che nơi ống quyển, một cây kiếm và một con dao găm quàng trên vai. Trong những đường nét khuôn mặt bà, Eragon có thể nhận một nét đặc trưng của chính mình cũng như một chút sự tương đồng với cậu Garrow, anh trai bà.
Hình ảnh đó làm Eragon bị mê hoặc, Nó đặt tay mình lên mặt tấm fairth, ước rằng nó có thể với vào bên trong và chạm tay tới bà.
Mẹ
Oromis nói, "Brom đã trao tấm faith này cho ta cất giữ an toàn trước khi ông ấy rời Carvahall, và giờ ta trao nó lại cho con."
Không hề ngước lên, Eragon hỏi, " Thầy có thể giữ nó an toàn thật tốt hộ con không? Nó có thể sẽ bị vỡ trong suốt cuộc hành trình và chiến đấu của chúng con."
Sự yên lặng theo sau làm Eragon chú ý. Nó rời ánh mắt chăm chú từ mẹ mình để trông thấy rằng Oromis có vẻ sầu muộn và lơ đãng.
"Không, Eragon ạ. Ta không thể. Con sẽ phải thu xếp cách khác để bảo quản bức faith này"
Tại sao cơ? Eragon muốn hỏi, nhưng sự lo lắng trong mắt Oromis đã ngăn nó lại. Rồi sau đó Oromis nói, "Thời gian của con có hạn, và chúng ta vẫn còn có nhiều vấn đề để thảo luận. Ta sẽ đoán về chủ đề con muốn nói tiếp theo, hay con sẽ nói cho ta điều đó?"
Cùng một sự bất tắc dĩ to lớn, Eragon đạt tấm fairth lên bàn và lật nó lại để hình ảnh trên bề mặt lắng dần. "Hai lần chúng con đã chiến đấu với Murtagh và Thorn, Murtagh đã mạnh hơn bất cứ kẻ bị ràng buộc nào. Trên Cánh đồng cháy, hắn đã đánh bại Saphira và con nhưng bọn con không nhận ra được là hắn mạnh lên bằng cách nào. Nếu không vì sự thay đổi thái độ của hắn, chúng con bây giờ đã là tù binh ở Urubaen. Một lần thầy đã đề cập rằng thầy biết cách mà Galbatorix trở nên hùng mạnh. Thầy sẽ kể với con bây giờ chứ, Sư phụ? Vì sự an toàn của chính chúng con, chúng con cần phải biết." "Đây không phải trách nhiệm của ta để nói cho con về điều này" Oromis nói."Vậy nó là của ai?" Eragon gặng hỏi. "Thầy không thể ..."
Phía sau Oromis, cặp mắt màu kim loại nóng chảy của Glaedr mở một bên, lớn như một tấm khiên tròn, và nói, "Là của tôi ...Nguồn gốc quyền lực của Galbatorix nằm trong những trái tim của loài rồng. Hắn đã ăn cắp sức mạnh từ chúng tôi. Không có sự trợ giúp của chúng tôi, Galbatorix đã bị đánh bại bởi thần tiên và quân Varden từ lâu rồi. Eragon giận dữ. "Tôi không hiểu, tại sao các ngươi lại giúp Galbatorix? Và làm thế nào các ngươi có thể? Chỉ có bốn con rồng và một thần tiên ở Alagaësia ... phải vậy không?" Rất nhiều những con rồng mà thân xác của chúng bị Galbatorix và những lời nguyền giết chết vẫn tồn tại đến ngày nay.
"Vẫn tồn tại ...? " Hoang mang, Eragon liếc nhìn sang Oromis, nhưng vị thần tiên này vẫn yên lặng, nét mặt bí hiểm. Thậm chí lúng túng vì là Saphira dường như không hề bối rối như nó"
Gã rồng vàng nhấc chân để quay đầu nhìn Eragon rõ hơn, những cái vẩy của nó cọ vào nhau. Không giống như hầu hết những sinh vật khác, gã nói, tư tưởng của một con rồng không chỉ trú ngụ trong bộ óc. Nó ở trong những bộ ngực rắn chắc của chúng ta, một vật giống như khối đá quý, giống cấu tạo lớp vẩy chúng ta được gọi là Eldunarí, có nghĩa là " trái tim trong trái tim". Khi một con rồng chui ra từ trứng, Eldunarí của nó trong suốt và không rực rỡ. Thông thường nó tồn tại suốt cả cuộc đời một con rồng và phân hủy cùng với thi hài của con rồng khi chúng chết, Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn, chúng ta có thể chuyển dời tư tưởng của mình vào Eldunarí. Sau đó nó sẽ có được cùng màu sắc như lớp vẩy và bắt đầu cháy rực như than. Nếu một con rồng làm xong việc này, Eldunarí đó sẽ tồn tại lâu hơn cả sự thối rữa của xác thịt, và bản chất của một con rồng có thể sống trong vĩnh viễn. Ngoài ra, một con rồng có thể nhả ra Eldunarí của chúng trong khi vẫn còn sống. Vì lí đó, thân xác của một con rồng và tư tưởng của rồng có thể thoát ra tách biệt nhau mà lúc đó vẫn giữ được sự liên kết. Qua đó, bọn chúng đã bắt chúng ta làm theo mệnh lệnh của chúng, bất chấp hèn hạ.
Sự ngụ ý trong những gì Glaedr đã nói làm Eragon sửng sốt. Di chuyển ánh mắt chăm chú sang Saphira, nó hỏi, Em đã biết về điều này chứ?
những chiếc vẩy trên ngực cô ả gợn sóng khi ả thúc một cú, di chuyển chiếc đầu như một con rắn. Em luôn luôn nhận thức được về trái tim trong trái tim, Luôn luôn em có thể cảm thấy nó bên trong mình, nhưng em không bao giờ nghĩ đến để nói với anh. Làm sao em có thể không nói gì khi nó quan trọng đến như thế?
Anh có nghĩ nó cũng tương tự như nói rằng anh có một cái dạ dày không, Eragon? Hoặc một trái tim hay một lá gan hay bất cứ cơ quan nào khác. Eldunarí của em là một phần không thể thiếu của chính em. Em không bao giờ nhìn thấy dấu hiệu tồn tại rõ ràng của nó... Ít ra là không cho tới khi chúng ta đến Ellesméra lần trước.
Vậy là em đã biết!
Chỉ một chút thôi. Glaedr đã gợi ý rằng trái tim trong trái tim của em, quan trọng hơn em tưởng trước kia, và anh ta đã cảnh báo em để bảo vệ nó, vì sợ rằng em vô tình tự giao chúng vào bàn tay kẻ thù của chúng ta, anh ta không hề giải thích gì hơn nữa, nhưng về sau, em đã rút ra được nhiều điều từ những gì anh ta nói.
Bây giờ đây em vẫn không nghĩ đây là điều đáng bàn ư? Eragon hỏi gặng. Em đã muốn nói, cô ả gầm lên, nhưng cũng như với Brom, em đã hứa với Glaedr rằng em sẽ không nói việc này cho bất cứ ai, không ngoại trừ cả anh.
Và em đã đồng ý à?
Em tin tưởng Glaedr, và em tin tưởng Oromis, anh thì không sao?
Eragon cau có và quay trở lại với vị thần tiên và con rồng vàng. " Sao thầy không kể với chúng con việc này sớm hơn?"
Mở nút chiếc bình cao cổ, Oromis rót đầy cốc rượu vang và nói, "Nằm trong lệnh để bảo vệ Saphira."
"Bảo vệ em ý ư? từ cái gì?"
Từ ngươi, Glaedr nói. Eragon quá kinh ngạc và thấy bị xúc phạm, nó cố điềm tĩnh trở lại đủ tốt để không phản kháng trước khi Glaedr nói tiếp. Trong tự nhiên, một con rồng sẽ học được về Eldunarí từ một tiền bối của nó khi nó đủ hiểu biết để sử dụng Eldunarí. Theo cách đó, một con rồng sẽ không tự chuyển vào trái tim trong trái tim mà không có sự nhận thức đầy đủ ý nghĩa những hành động của chúng. Sống cùng các kị sĩ, một thói quen khác phát sinh, Đầu tiên một vài năm trong sự gắn kết giữa rồng và các kị sĩ chủ yếu là thiết lập một mối quan hệ chặt chẽ giữa cả hai, và những kị sĩ đã nhận ra rằng tốt hơn là đợi cho tới khi sự gắn kết mới mẻ của kị sĩ và rồng trở nên thân thuộc hơn với mỗi người sau đó nói cho họ biết về Eldunarí. Mặt khác, trong hàng động bất cần dại dột của tuổi trẻ, một con rồng có thể quyết định nhả ra trái tim trong trái tim ra chỉ để giải khuây hay gây ấn tượng với kị sĩ của nó. Khi chúng ta trao tặng Eldunarí của mình, là chúng ta đang tặng cả hiện thân với toàn bộ sự sống của mình. Và chúng ta không thể đặt nó quay lại nơi đã thuộc về nó trong cơ thể một khi đã được lấy ra. Một con rồng không nên ở tình trạng chia cắt với tư tưởng soi sáng nó, vì nó sẽ làm thay đổi cách chúng sống thanh thản trong suốt cả cuộc đời, thậm chí nếu chúng có thể tồn tại hàng nghìn năm. "Ngươi vẫn còn trái tim trong trái tim chứ?" Eragon hỏi.
trảng cỏ xung quanh chiếc bàn rũ xuống dưới luồng hơi nóng phun ra từ lỗ mũi Glaedr. Đó không phải là câu hỏi xã giao để hỏi bất cứ con rồng nào trừ Saphira. Đừng bao giờ đánh bạo để hỏi lại tôi điều đó, đồ mới nở.
Mặc dù sự khiển trách của Glaedr làm hai má Eragon nóng ran, nó vẫn cần thiết đáp lại khi phải làm, bằng một phản ứng nhượng bộ và những lời lẽ "Không, thưa tiền bối" rồi nó hỏi, " Điều ... điều gì xảy ra nếu Eldunarí của ngươi bị vỡ?"
Nếu một con rồng đã sẵn sàng chuyển tư tưởng của nó vào trái tim, rồi thực sự chết đi. chúng ta cất giữ trái tim của mình ở Du Fells Nángoröth, những dãy núi trong trung tâm của sa mạc Hadarac. Về sau, khi các kị sĩ tự thành lập trên đảo của Vroengard và xây dựng tại đó một nơi cất giữ Eldunarí, những con rồng hoang dã và những con rồng có liên kết đều giao trái tim của mình cho các kĩ sĩ cất giữ an toàn.
"Rồi sau đó" Eragon nói, "Galbatorix đã đoạt được Eldunarí ?"
Trái với sự trông chờ của Eragon, Oromis lại là người trả lời. "Hắn ta đã làm vây, nhưng không phải tất cả trong một lần. Nó xảy ra từ rất lâu rồi , từ thời không một ai có thể thực sự đe dọa tới các kị sĩ rồng, rất nhiều người trong chúng ta trở nên bất cẩn với việc bảo vệ Eldunarí. trong thời Galbatorix quay sang chống lại chúng ta, Không hề nghi ngờ vì một con rồng nhả Eldunarí của chúng ra chỉ đơn thuần vì bị sự lung lạc bởi lợi ích." "Lợi ích?"
Bất cứ người nào nắm giữ những trái tim của chúng ta, Glaedr nói, có thể liên lạc với con rồng đó từ bất cứ đâu không cần quan tâm tới khoảng cách. Toàn thể Alagaësia có thể cách li kị sĩ và rồng, nếu kị sĩ có bên cạnh Eldunarí con rồng của anh ta, họ có thể chia sẻ ý nghĩ một cách dễ dàng như cậu và Saphira đang làm bây giờ.
"Thêm vào đó" Oromis nói, "một phù thủy chiếm hữu được một Eldunarí có thể rút từ sức mạnh của rồng giúp sức cho những thần chú của hắn, Lại cũng chẳng cần quan tâm đến con rồng đó có thể đang ở đâu. Khi ..."
Một chú chim ruồi màu sắc sặc sỡ làm gián đoạn cuộc nói chuyện của họ bằng cách phóng như tên qua chiếc bàn. Đôi cánh đập mạnh loang loáng, chú chim bay liệng bên trên chiếc bát đựng hoa quả và tớp thứ chất lỏng tràn ra từ một quả mâm xôi bị nát, rồi chuyền cành và bay đi, biến mất giữa những tàng cây của cánh rừng.
Oromis lại đang tiếp tục nói. "Khi Galbatorix giết kị sĩ đầu tiên, hắn đã ăn cắp luôn trái tim rồng của kị sĩ đó. Trong suốt nhiều năm sau Galbatorix ẩn mình trong vùng hoang vu, hắn phá vỡ tâm trí của rồng và chiếm lấy nó cho tham vọng của mình, hình như là cùng với Durza. Và khi Galbatorix bắt đầy sự nổi loạn của hắn trong điềm báo, với Morzan bên cạnh, hắn trở nên mạnh hơn hầu hết tất cả các kị sĩ khác. Sức mạnh của hắn không chỉ là phép thuật mà còn cả trí tuệ từ quyền lực tư tưởng của những Eldunarí gia tăng cho chính hắn.
"Galbatorix không chỉ cố giết những Kị sĩ và rồng. Hắn biến nó thành mục tiêu để chiếm được càng nhiều Eldunarí càng tốt, bằng cách ăn cắp từ kị sĩ hay hành hạ một kị sĩ cho tới khi con rồng của anh ta nhả trái tim trong trái tim ra. Lúc chúng ta nhận ra việc mà Galbatorix đang làm, hắn đã thực sự quá hùng mạnh để ngăn chặn. Điều giúp cho Galbatorix là chẳng những nhiều kị sĩ du hành không chỉ bằng Eldunarí của chính con rồng của họ mà còn với Eldunarí của những con rồng đã chết, vì những con rồng thường trở nên buồn chán với việc ngồi yên một góc và khao khát thám hiểm, dĩ nhiên, một lần Galbatorix và lời thề cướp phá thành phố Doru Araeba trên đảo Vroengrand, hắn đã chiếm được toàn bộ kho cất dấu mà Eldunarí được bảo quản trong đó.
"Galbatorix đạt chiến thắng của mình bằng cách sử dụng sức mạnh và sự thông thái của những con rồng để chống lại toàn thể Alagaësia. Đầu tiên hắn không thể kiểm soát được một số Eldunarí mà hắn chiếm được. Đó không phải là một việc dễ dàng gì để bắt một con rồng phục vụ cho mình, dù cho có mạnh thế nào cũng không là vấn đề. Galbatorix nhanh chóng đè bẹp các kị sĩ và tự dưng hắn lên làm vua của Urûbaen, hắn đã tự vạch ý đồ để khuất phục sự yên nghỉ của những trái tim, từng trái từng trái một. "Chúng ta tin rằng đó là mục tiêu quan tâm chính của hắn trong suốt40 năm sau đó, trong suốt thời gian đó hắn chỉ trả miếng Alagaësia bằng một cuộc tấn công uy hiếp nhỏ - đây cũng là nguyên nhân mà những người Surda có thể li khai khỏi đế quốc. Khi đã hoàn tất Galbatorix lui về sống ẩn dật và bắt đầu áp đặt quyền kiểm soát trên khắp đế quốc và những vùng đất lân cận. Vì một số lí do, sau hai năm rưỡi gia tăng các cuộc thảm sát và nỗi kinh hoàng, hắn lại rút khỏi Urûbaen, hắn chú ý tới những điều chưa từng để ý trước kia, không phải chỉ một như trước, nhưng rõ ràng có một vài kế hoạch chỉ riêng hắn biết. Nhược điểm của hắn rất nhiều, nhưng hắn không tự tỏ ra sơ hở, rất nhiều những điệp viên của Varden đã quả quyết như vậy. Chúng ta cũng không thể phát hiện được gì hơn." Không suy nghĩ nhiều, Eragon nhìn chăm chú vào khoảng không đằng xa. Lần đầu tiên, tất cả những câu chuyện mà nó được nghe về sức mạnh phi thường của Galbatorix được giải thích. Một cảm giác không rõ ràng về sự lạc quan trỗi dậy từ Eragon khi nó tự nói với mình, Mình không chắc là như thế nào, nhưng nếu chúng ta có thể giải phóng những Eldunarí khỏi sự thao túng của Galbatorix, hắn sẽ không còn hùng mạnh hơn bất kì kị sĩ rồng nào khác. Không giống như sự tưởng tượng hình dung, nó khích lệ Eragon khi biết rằng tên bạo chúa đã có một nhược điểm, dù nhỏ như thế nào cũng không quan trọng. Khi Eragon tiếp tục trầm ngâm quanh vấn đề đó, một câu hỏi khác xuất hiện trong nó. " tại sao con chưa bao giờ nghe kể về trái tim của rồng trong những câu chuyện cổ? Nếu chúng quan trọng thực sự, thì các thi sĩ và học giả sẽ phải nhắc đến chứ." Oromis đặt một tay lên bàn và nói, "Trong tất cả những bí mật của Alagaësia, bí mật về Eldunarí là điều được che đậy kín đáo nhất. Suốt trong lịch sử, loài rồng cố gắng dấu đi trái tim trong sự yên nghỉ của thế giới, Chúng đã tiết lộ lối sống của mình cho chúng ta chỉ sau khi hiệp ước về phép thuật giữa các loài được thiết lập, và cũng chỉ một vài điều chọn lọc."
"Nhưng tại sao?"
Ah, Glaedr nói, thường thì chúng ta khinh thường việc cần thiết của sự kín đáo, nhưng nếu kiến thức về Eldunarí từng được chia sẻ, mọi tên vô lại tầm thường trên mảnh đất này sẽ muốn cố gắng để đánh cắp nó, và cuối cùng vài tên có thể đạt được mục đích, đó là kết luận rút ra trong một thời gian dài phòng bị.
"Có phải không có cách nào để một con rồng tự ngăn chúng nghĩ về Eldunarí đúng không?" Eragon hỏi.
Con mắt Glaedr dường như sáng lấp lánh chưa từng thấy. Một câu hỏi thông minh. Một con rồng nhả ra Eldunarí của chúng nhưng chúng vẫn thích sử dụng th.ân thể của chúng nếu có thể, dĩ nhiên, bảo hệ trái tim bằng móng vuốt, răng nanh, và đuôi và với những đập cánh mạnh mẽ. Một con rồng mà th.ân thể của chúng đã chết, dĩ nhiên, không còn lại gì từ những lợi thế đó nữa. Vũ khí duy nhất của chúng là ý chí của mình, tuy nhiên nếu thời điểm đó đến, vũ khí phép thuật là điều mà chúng ta không thể điều khiển bằng ý chí. Đó là một lí do vì sao rất nhiều rồng không chọn kéo dài cách sống lưu lại trong thân xác của chúng. Không thể di chuyển theo ý muốn của cậu, không thể cảm nhận thế giới xung quanh cậu ngoại trừ suy nghĩ của kẻ khác, và chỉ có thể tác động đến các sự việc đang diễn ra bằng suy nghĩ của cậu, hiếm khi và không đoán được sự bùng phát của phép thuật, Một tình trạng khó khăn với hầu hết bất cứ sinh vật nào. Nhưng đặc biệt với loài rồng thì khác, kẻ tự do nhất trong số tất cả những loài từng tồn tại.
"Tại sao chúng làm vậy, rồi sau đó thì sao?" Eragon hỏi.
Thỉnh thoảng cũng xảy ra tai nạn. Khi th.ân thể chúng tôi là yếu điểm, một con rồng có thể hoảng sợ và chạy trốn vào Eldunarí của chúng. Hoặc nếu một con rồng nhả ra trái tim chúng trước khi thân xác chết đi, chúng sẽ không có lựa chọn nhưng vẫn tiếp tục tồn tại. Dù hầu hết, những con rồng chọn sống trong Eldunarí của chúng đã quá già rồi, già hơn cả Oromis và ta bây giờ, đủ già để mối quan tâm của thân xác thôi quan trọng với chúng, chúng quay trở về với chính mình và muốn sống trong sự yên nghỉ vĩnh hằng những thắc mắc mà những con rồng trẻ hơn đang sống không thể hiểu thấu đáo được. Chúng ta sùng kính và gìn giữ những trái tim của rồng đó vì sự hiểu biết rộng lớn và thông thái của chúng. Cả những con rồng hoang dã và những con rồng có gắn kết cũng như những kị sĩ, đểu tìm kiếm lời chỉ bảo từ họ về những vấn đề quan trọng. Vì thế Galbatorix nô dịch họ là một hành động vô đạo gần như tàn bạo và độc ác không thể tưởng tượng được. Bây giờ em đang có một câu hỏi, Saphira nói, sợi dây suy nghĩ phong phú của cô ả chạy qua tâm chí Eragon. Trước tiên nếu một trong số chúng bị giam h.ãm trong Eldunarí chính mình, chúng phải tiếp tục sống hay là điều đó là tùy vào chúng. Nếu chúng không cam chịu sống trong hoàn cảnh đó nữa, thì chúng sẽ tự giải phóng mình khỏi sự giam cầm ở trần gian và đi về bên kia bóng đêm chứ?
"Không phải do chúng tự quyết được" Oromis nói. "trừ phi không có cảm hứng phép thuật bao phủ quanh con rồng và điều đó sẽ cho phép chúng phá vớ Eldunarí từ bên trong, với hiểu biết của ta, điều đó hiếm khi xảy ra. Chỉ có thể chọn cách duy nhất khác là thuyết phục ai đó đập vỡ Eldunarí cho chúng. Sự mất tự chủ là một lí do khác tại sao loài rồng cực kì cảnh giác về việc chuyển mình vào trái tim trong trái tim, vì sợ rằng tự đánh bẫy chính họ trong một nhà tù không có lỗi thoát.
Eragon có thể thấy sự kinh tởm trong ý nghĩ của Saphira về viễn cảnh đó. Cô ả không nói về nó nữa, tuy nhiên, vẫn hỏi, Bao nhiêu Eldunarí bị Galbatorix giữ làm nô lệ? "Chúng ta không biết chính xác con số " Oromis nói, "nhưng chúng ta ước đoán rằng kho chứa của hắn có tới hàng trăm."
Một tia sáng lờ mờ lách qua thân hình lộng lẫy của Saphira. Vậy sau tất cả, giống loài của chúng ta không hề đứng trên bờ diệt vong đúng không?
Oromis ngập ngừng, và Glaedr là người trả lời. Tiểu muội, gã nói, làm Eragon ngạc nhiên khi vì cách gã sử dụng tính ngữ, thậm chí nếu mặt đất có bị chôn vùi cùng với Eldunarí thì giống loài chúng ta cũng vẫn bị kết tội. Một con rồng đã được lưu giữ trong Eldunarí thì vẫn là một con rồng, nhưng chúng không còn ám ảnh bởi sự thôi thúc của thể xác, hay các cơ quan với đầy đủ chức năng. Chúng không thể sinh sản.
Gáy Eragon bắt đầu đau âm ỉ, và đánh thức nhanh chóng tình trạng mệt mỏi từ chuyến du hành bốn ngày trước. Sự kiệt sức làm nó khó mà giữ được suy nghĩ thêm một lúc nữa, trong một sự xao lãng nhỏ nhất, chúng trượt khỏi sự kiểm soát của nó.
Chóp đuôi của Saphira giật giật. Em không ngốc lắm khi tin rằng Eldunarí có thể sinh con đâu. Tuy nhiên, thật dễ chịu cho em khi biết mình không hề đơn độc như đã nghĩ ... Loài chúng em có thể phải mang tội, nhưng ít nhất có nhiều hơn bốn con rồng còn tồn tại trên thế giới, dù chúng có được ở trong thể xác hay không.
"Đó là sự thật" Oromis nói, "nhưng chúng cũng bị giam cầm như Mutagh và Thorn." Giải phóng cho chúng giúp ta có cái gì đó để mà tranh đấu, tuy nhiên, cũng với việc giải cứu quả trứng cuối cùng nữa, Saphira nói.
"Có vài việc cho chúng ta để giải cứu cả hai" Eragon nói, " Chúng ta là hy vọng duy nhất. " nó bóp trán bằng ngón cái phải rồi nói, " Vẫn có vài điều con không hiểu" "Oh?" Oromis hỏi. " Khía cạnh nào làm con lẫn lộn?"
"Nếu Galbatorix tìm thấy sức mạnh từ những trái tim đó, làm cách nào chúng tạo ra năng lượng cho hắn sử dụng?" Eragon ngừng lại, để kiếm cách diễn giải tốt hơn câu hỏi của nó. Nó chỉ vào bầy chim nhạn vút qua trên bầu trời. "Mọi sinh vật sống đều ăn và uống để duy trì sự sống của chính mình, ngay cả với thực vật. Thức ăn cung cấp năng lượng mà cơ thể dùng để hoạt động thực tế. Nó cũng cung cấp năng lượng chúng ta cần cho việc tạo ra phép thuật, theo con, chúng ta dựa vào sức lực của chính mình để tạo một câu thần chú hoặc sử dụng sức mạnh từ những thứ khác. Nó cũng như vậy kể cả với những Eldunarí đó chứ? Chúng không có xương, cơ và da phải không ạ? Chúng không ăn ư? Vậy, làm cách nào chúng tồn tại được? Chúng lấy năng lượng từ đâu?
Oromis cười, những chiếc răng của ông sáng loáng như lớp men sứ. "Từ phép thuật" "Phép thuật?" Nếu định nghĩa phép thuật như là sự vận động của năng lượng, thực tế nó là vậy, thì dĩ nhiên, phép thuật. Nơi chính xác mà các Eldunarí thu năng lượng của chúng là một điều huyền bí đối với cả chúng ta và loài rồng, chưa từng có một ai biết được nguồn gốc. Chúng có thể hấp thụ ánh sáng mặt trời như thực vật hoặc được cung cấp sức mạnh của những sinh vật xung quanh. Dù câu trả lời là gì, nó cũng chứng minh rằng khi một con rồng thoát khỏi thân xác đã chết và tư tưởng của chúng được đặt vào trái tim trong trái tim của chúng, chúng mang theo mình rất nhiều sức mạnh dự trữ bằng cách nào đó từ thân xác đã ngừng hoạt động. Sau đó, kho năng lượng của chúng tăng trưởng một cách đều đặn trong năm đến bảy năm tiếp theo, cho tới khi đạt được sức mạnh tràn đầy, thứ thực sự vô cùng to lớn, Toàn bộ lượng năng lượng của Eldunarí có thể cất giữ phụ thuộc vào kích cỡ của trái tim. Con rồng già hơn, Eldunarí của chúng lớn hơn và nhiều năng lượng hơn nó có thể hấp thụ trước khi trở thành bão hòa.
Nhớ lại khi nó và Saphira chiến đấu với Murtagh và Thorn, Eragon nói, "Galbatorix phải trao cho Murtag rất nhiều Eldunarí. Đó là các giải thích duy nhất cho việc sức mạnh của hắn tăng nhanh chóng."
Oromis gật đầu. " Con rất may mắn, Galbatorix đã không cho hắn mượn thêm một trái tim nào nữa, nếu thêm nữa, Murtagh đã dễ dàng áp đảo con, Arya và tất cả các pháp sư khác cùng với Varden."
Eragon nhớ lại bằng cách nào mà cả hai lần nó và Saphira chạm trán Murtagh và Thorn, Tâm trí của Murtagh như là bao gồm cả những tồn tại phức tạp nữa. Eragon chia sẽ sự tổng hợp lại của mình với Saphira và nói, Những thứ đó phải là Eldunarí anh cảm thấy ... anh tự hỏi về nơi mà Murtagh cất chúng? Thorn không mang yên cương, và anh không thấy bất kì thứ gì phồng ra trên áo Murtagh.
Em không biết, Saphira nói. Anh nhận ra rằng Murtagh đang ám chỉ đến Eldunarí khi hắn nói rằng thay vì đâm nát trái tim của anh, còn hơn là đâm nát những tim của hắn. Những trái tim. không phải là một trái tim.
Em đã đúng! Có thể hắn đang cố cảnh báo cho anh.
Hít vào, Eragon thả lỏng đốt xương bả vai và ngả lưng trên ghế tựa của mình. "Trừ trái tim trong trái tim của Saphira và của Glaedr, còn có Eldunarí nào mà Galbatorix không chiếm được không?"
Những nếp nhăm thoáng xuất hiện quanh khóe miệng Oromis. "Không ai trong chúng ta biết được. Sau khi sự sụp đổ của kị sĩ rồng, Brom đã tìm kiếm Eldunarí mà có thể Galbatorix đã bỏ sót nhưng không thành công, và cũng không, trong tất cả những năm Alagaësia yên bình theo trí nhớ của ta, ta đã tìm kiếm những lời thì thầm của một Eldunarí. Mọi Eldunarí đều bị chiếm đoạt khi Galbatorix và Morzan bắt đầu cuộc chiến tấn công chúng ta, và không một Eldunarí nào biến mất mà không giải thích được. Thật phi thường nếu có bất kì một kho cất giữ Eldunarí đồ sộ nào có thể nằm ẩm mình ở đâu đó, sẵn sàng giúp sức chúng ta nếu chúng ta có thể tìm ra chúng.
Mặc dù Eragon không mong chờ một câu trả lời nào khác, nó vẫn bị thất vọng. "Một câu hỏi cuối cùng. Khi cả kị sĩ hoặc rồng của kị sĩ chết đi, người còn lại của bộ đôi thường bỏ đi xa hoặc sớm tự sát sau đó. Và họ thường trở nên điên loạn sau mất mát đó, con nói đúng không ạ?"
Ngươi đã đúng, Glaedr nói.
"Điều gì sẽ xảy ra, nếu con rồng chuyển tư tưởng của chúng vào trái tim và rồi sau đó th.ân thể của chúng chết đi?"
Qua đế giày, Eragon cảm thấy một sự rung lắc nhẹ của mặt đất khi Glaedr di chuyển vị trí. Con rồng vàng nói, nếu th.ân thể một con rồng từng trải chết đi và lúc đó kị sĩ của chúng vẫn còn sống, Chúng cũng được biết đến như một Indlvan. Sự chuyển đổi trở nên khó mà dễ chịu với một con rồng, nhưng rất nhiều kị sĩ và rồng đã thích ứng được với sự thay đổi và chúng tiếp tục phục vụ các kị sĩ bằng sự lỗi lạc. Tuy nhiên nếu kị sĩ của con rồng là người bị chết, thì con rồng đó thường sẽ đập vỡ Eldunarí của chúng hoặc dàn xếp với ai đó để đập vỡ nó cho chúng nếu thân xác chúng không còn nữa, theo cách đó tự giết mình và đi theo kị sĩ của chúng vào hư không. Nhưng không phải tất cả. Một số con rồng có thể vượt qua được sự mất mát của chúng - như một vài kị sĩ, ví dụ như Brom - và tiếp tục phụng sự xứ mệnh trong nhiều năm sau đó, bằng cả thân xác và trái tim trong trái tim của chúng.
Thầy đã cho chúng con rất nhiều điều để suy nhẫm, Oromis tiền bối, Saphira nói. Eragon gật đầu nhưng vẫn giữ yên lặng, vì nó đang bận cân nhắc về tất cả những gì vừa được nghe.
 
49. Đôi tay của chiến binhEragon nhấm nháp một quả dâu tươi, ngọt lịm trong khi nhìn đau đấu vào bầu trời sâu thăm thẳm. Khi ăn xong, búng đầu ngón tay trỏ, nó vứt cuống vào cái khay trước mặt và sau đó mở miệng nói. Trước khi nó có thể cất tiếng, Oromis đã nói, " Giờ thì sao đây, Eragon?"
"Giờ thì sao ạ?"
"Chúng ta đã vừa nói chuyện rất lâu về những vấn đề mà các con quan tâm. Giờ con và Saphira muốn làm gì? Con không thể chần chừ ở Ellesméra, vậy nên ta tự hỏi con còn mong chờ điều gì khác trong chuyến thăm viếng này hay con sẽ lại khởi hành theo kế hoạch vào sáng mai? "
" Chúng con đã hy vọng " Eragon nói, "rằng khi chúng con trở lại, chúng con có thể tiếp tục sự huấn luyện như trước, Hiển nhiên là chúng con không có thời gian rồi, nhưng còn có một việc khác con muốn làm."
" Và đó là ?"
"... thưa sư phụ, con đã không nói cho người nghe tất cả mọi việc xảy ra khi con và Brom ở Teirm. " Và rồi Eragon thuật kĩ lại nó đã hiếu kì và bị lôi cuốn như thể nào ở của hiệu của Angela và bà ta đã nói về số phận của nó ra sao, và chỉ dẫn của Solembum đã cho nó sau đó.
Oromis đưa một ngón tay lên bên dưới vành môi, Thái độ trầm mặc. " Ta đã nghe nhắc đến bà thầy bói này thường xuyên trong suốt năm trước, cả từ con và báo cáo của Arya về Varden. Bà Angela này hình như là người một thầy thuốc tài giỏi trong những lúc nguy cấp và có mặt ở bất cứ đâu xảy ra những sự kiện đáng chú ý
Đấy là bà ta, Saphira xác nhận.
Oromis tiếp tục nói, " Thói quen của bà ta nhắc ta nhớ nhiều đến một pháp sư đã từng đến thăm các lâu đài của ở Ellesméra một lần, mặc dù bà ta không dùng tên là Angela, có phải Angela là một phụ nữ dáng thấp, đậm người, tóc nâu xoăn, đôi mắt rất sáng và hóm hỉnh sắc xảo đến kì cục không?
"Thầy vừa miêu tả bà ta một cách hoàn hảo, " Eragon nói. " Bà cùng là một người ư?" Oromis búng nhẹ tay trái ra hiệu " Nếu là bà ta, bà ta đúng là một người kì lạ ... cũng như những tiên đoán của bà ta, ta không muốn suy đoán nhiều về chúng. Chúng có thể đúng hoặc cũng có thể không, và không biết được gì hơn, không ai trong chúng ta có thể tác động đến kết cục đó.
"Những gì con mèo ma đã nói, dù gì, cũng đáng để cân nhắc kĩ. Đáng tiếc, ta không thể giải thích được những gì nó tuyên bố. Ta chưa bao giờ nghe về bất cứ nơi nào như là Hầm mộ của những linh hồn, trong khi tảng đá của Kuthian đánh đúng vào điểm quen thuộc trong trí nhớ của ta, ta không thể gọi lại được về nơi ta đã bắt gặp cái tên đó. Ta sẽ tra cứu về nó trong các cuộn giấy da, nhưng bản năng mách bảo rằng ta sẽ chẳng tìm thấy sự đề cập nào về nó trong những ghi chép của thần tiên.
" Vũ khí nào nằm bên dưới cây Menoa ạ?"
" Ta không biết vũ khí gì, Eragon ạ, và ta rất quen thuộc vùng rừng này. Trong tất cả thần tiên ở Du Weldenvarden, có lẽ chỉ có duy nhất hai người có hiểu biết vượt hơn ta về những nơi có liên quan đến khu rừng này. Ta sẽ hỏi họ, nhưng ta nghi ngờ đó chỉ là cố gắng vô ích."
Khi Eragon thể hiện sự thất vọng của mình, Oromis nói. "Ta hiểu rằng con cần một thứ thay thế được cho thanh Zar'roc, Eragon ạ, và điều này thì ta có thể giúp con. Bên cạnh lưỡi kiếm của chính ta, thanh Naegling, thần tiên chúng ta đã trao tặng hai thanh kiếm cho kị sĩ rồng. Chúng là Arvindr và Támerlein. Arvindr hiện nay đang được giữ tại Nädindel, nơi con sẽ không có thời gian để đến đó đâu. Nhưng Támerlein thì ở đây, tại Ellesméra. Nó là báu vật của dòng họ Valtharos, và trong khi huân tước của dòng họ, huân tước Fiolr, sẽ không nhiệt tình muốn xa nó đâu. Ta nghĩ ông ta sẽ tặng nó cho con nếu ta hỏi ông ta một cách kính cẩn. ta sẽ thu xếp cho con gặp ông ta vào sáng mai." "Và sẽ ra sao nếu thanh kiếm đó không phù hợp với con?" Eragon hỏi.
Hãy hy vọng. Tuy nhiên, ngoài ra ta sẽ gửi lời đến thợ rèn Rhunön rằng bà ta có thể đợi con vào chiều muộn."
" nhưng bà ta đã thề sẽ không bao giờ rèn bất kì thanh kiếm nào nữa."
Oromis thở dài. "Bà ta đã thề, nhưng lời khuyên của bà ta vẫn đáng để xin đấy. Nếu ai đó có thể chỉ ra một thanh kiếm phù hợp cho con thì đó là bà ta. Bên cạnh đó, thậm chí nếu con mượn được Támerlein, ta chắc chắn Rhunön sẽ muốn kiểm tra cây kiếm đó trước khi con đi cùng với nó. Hơn một trăm năm trôi qua từ khi Támerlein lần cuối được dùng trong trận chiến và và nó cần được tân trang lại."
"Có thần tiên nào khác có thể rèn một thanh kiếm cho con không?" Eragon hỏi. "Không," Oromis nói. " Không nếu so với sự tinh xảo của Zac'roc hay bất cứ thanh kiếm nào Galbatorix đánh cắp để sử dụng. Rhunön là một trong số những thần tiên nhiều tuổi nhất trong loài của chúng ta, và bà ta là người duy nhất rèn được những thanh kiếm theo yêu cầu của chúng ta."
"Bà ấy nhiều tuổi như những kị sĩ rồng ư? Eragon ngạc nhiên hỏi,
"Thậm chí là già hơn"
Eragon ngừng lại. " Chúng ta sẽ làm gì từ giờ đến mai vậy thưa sư phụ?" Oromis cả Eragon và Saphira rồi nói, " Hãy đi và thăm quan cây Menao đi. Ta biết con sẽ không dễ dàng gì chịu yên nếu chưa làm việc đó. Quan sát chỗ đó nếu con có thể tìm thấy thứ vũ khí mà con mèo ma đã cám dỗ con. Khi con đã thỏa mãn trí tò mò của mình, đến nghỉ ngơi ở khu nhà cây mà người hầu của Islanzadí’s dọn sẵn cho con và Saphira. Sáng mai chúng ta sẽ làm những gì có thể làm."
"Nhưng thưa thầy, chúng ta vẫn còn một ít thời gian ... "
" và cả hai người các con đã quá mệt để chịu thêm bất cứ sự kích động nào nữa hôm nay. Tin ta đi Eragon, con tốt hơn là nên nghỉ ngơi. Ta nghĩ vài giờ sẽ giúp con sắp xếp lại tất cả những gì chúng ta đã nói. thậm chí với địa vị một ông vua, bà hoàng và những con rồng, cuộc thảo luận này của chúng ta không có tính thương lượng lớn đâu." Bất chấp sự cương quyết của Oromis, Eragon thấy chẳng dễ chịu gì về việc dành cả ngày nhàn rỗi. Tình cảnh cấp bách của nó rất lớn, nó muốn tiếp tục công việc thậm chí khi nó đã biết nó bắt buộc phải hồi lại sức.
Eragon nhấp nhổm trên ghế, và bằng hành động nó phải bộc lộ gì đó về sự mâu thuẫn của mình cho Oromis đang cười và nói. " Nếu nó giúp con thư dãn, Eragon, ta hứa với con điều này: Trước khi con và Saphira rời đi vì Varden, con có thể chọn bất kì cách sử dụng phép thuật nào, và ta sẽ chỉ cho con, Ta sẽ dạy cho con mọi thứ ta biết."
Ngón tay cái Eragon xoay xoay chiếc nhẫn quanh ngón trỏ phải và xem xét đề nghị của Oromis, cố gắng để cân nhắc trong tất cả lĩnh vực phép thuật, điều gì nó muốn học nhất. Cuối cùng nó nói, " Con muốn biết cách hiệu triệu những linh hồn."
Gương mặt Oromis tối sầm. " Ta sẽ giữ lời, Eragon, nhưng ma thuật là nghệ thuật hắc ám và không đúng đắn. Con không nên tìm kiếm sự kiểm soát sinh vật khác vì lợi ích của bản thân. Thậm chí nếu con có không màng tới sự xấu của ma thuật, sự tập luyện nó đặc biệt nguy hiểm và vô cùng phức tạp. Một phù thủy đòi hỏi ít nhất ba năm chuyên tâm tu luyện trước khi muốn hiệu triệu những linh hồn mà không bị nó chiếm hữu chính mình. "Ma thuật không giống những phép thuật khác, Eragon ạ, vì thế, con cho con sức mạnh đáng kinh ngạc và những sinh linh thù địch phải tuân theo mệnh lệnh của con, những sinh linh đó dành mọi lúc bị giam cầm của họ để tìm kiếm một kẽ hở trong giao ước bởi thế họ có thể đến với con và làm nô lệ cho con với sự thù hằn.Trong suốt lịch sử, chưa từng có một tà thần nào đồng thời là một kị sĩ cả và với tất cả nỗi kinh hoàng trên đã trải qua của mảnh đất thần tiên, kinh tởm chỉ như việc tồi tệ dễ dàng nhất, tệ hơn cả Galbatorix, Làm ơn hãy chọn lĩnh vực khác đi Eragon, thứ ít nguy hiểm hơn cho con và vì chính nghĩa của chúng ta."
"Vậy," Eragon nói, "Thầy có thể dạy con về tên thật của con không?"
" Lời đề nghị của con, " Oromis nói, " thậm chí trở nên khó hơn nữa, Eragon công tử ạ. Ta sẽ đoán tên thật của con nếu con muốn " Vị thần tiên tóc bạc quan sát Eragon, sự dữ dội tăng lên, đôi mắt ông nặng nề nhìn nó, "Đúng, ta tin ta có thể, nhưng ta sẽ không làm. Một cái tên thật mang ý nghĩa phép thuật to lớn, nhưng nó không phải là một thần chú, tự nó không phải là một thần chú, và vì thế nó được miễn với lời hứa của ta. Nếu sự khao khát của con lớn hơn sự hiểu biết của chính mình, Eragon à, thì hãy tìm cách khám phá thì hãy tự tìm ra tên thật của mình đi. Nếu ta đưa nó cho con, con có thể thuận lợi từ đó, nhưng khôn ngoan hơn thì con nên tìm cách khác để biết được tên thật của mình trong suốt cuộc hành trình đó. Con người phải tự kiếm lấy ánh sáng cho mình, Eragon ạ, Không có kẻ khác ném nó cho con được, bất chấp họ có được kính trọng ra sao," Eragon lại xoay xoay chiếc nhẫn của mình, rồi nuốt nước bọt và lắc đầu. "Con không biết ... những câu hỏi của con trở nên vô vị."
" Ta rất nghi ngờ điều đó, " Oromis nói.
Eragon khó khăn khi tìm kiếm sự tập trung giữa tay nó và vị sư phụ, suy nghĩ của nó trở lại với Eldunarí và Brom. Eragon lại kinh ngạc về chuỗi những sự kiện kì lạ, sự sắp đặt Brom đếm cư trú ở Carvahall, sau đó, đến việc Eragon, chính nó trở thành một kị sĩ rồng. Nếu Arya không ... Eragon dừng lại và cười khi một ý nghĩ xuất hiện với nó. " Thầy sẽ dạy con làm cách nào để di chuyển một vật thể từ nơi này đến nơi khác ngay tức khắc không, như là Arya đã làm với trứng của Saphira?"
Oromis gật đầu. "Một sự lựa chọn tuyệt với. Thần chú này rất tiêu hao, nhưng có thể dùng nhiều lần. Ta chắc nó sẽ tỏ ra hữu ích nhất cho con trong việc cân bằng với Galbatorix và đế quốc. Arya, trong một lần đã chứng tỏ rằng nó hữu dụng. Nhấc chiếc cốc trên bàn lên, Oromis nâng nó lên về hướng mặt trời, và những tia sáng trên cao làm cho thứ rượu vang trong suốt. Ông chăm chú vào loại chất lỏng đó một hồi lâu, rồi hạ thấp chiếc cốc và nói, "Trước khi con đi khám phá thành phố, con nên biết rằng ông ta, người con đã gửi đến sống quanh chúng ta đã đến đây vài lần trước đó." Mất một lúc trước khi Eragon nhận ra người mà Oromis đang nhắc đến. "Sloan đang ở Ellesméra ạ?" Eragon nói, kinh ngạc.
"Ông ta đang sống một mình ở một căn lều nhỏ gần dòng suối phía tây bìa rừng của Ellesméra. Ông ta đã gần như chết đi khi ông ta tới được mé rừng, nhưng chúng ta đã chăm sóc những vết thương của ông ta và giờ ông ấy rất khỏe mạnh. Các thần tiên trong thành phố mang cho ông ấy quần áo và thức ăn và mặt khác trông chừng để chăm sóc ông ta thật tốt. Họ hộ tống ông ta tới bất cứ đâu ông ấy muốn tới và thỉnh thoảng họ đọc cho ông ta nghe, nhưng phần lớn, ông ấy thích ngồi một mình hơn, không nói năng gì với những người đến gần. Hai lần ông ta thử trốn đi, nhưng câu thần chú của con đã ngăn cản ông ta."
Anh ngạc nhiên là lão ta lại đên đây quá nhanh, Eragon nói với Saphira. Sự ép buộc mà anh đặt vào lão ta phải mạnh hơn anh đã tưởng.
Đúng vậy. nói bằng ý nghĩ, Eragon hỏi, " Thầy có thể xem xét chữa trị để trả lại thị lực cho ông ấy không? " Chúng ta không thể."
Tiếng khóc than của người đàn ông vỡ òa bên trong, Glaedr nói. Lão ta không thể nhìn một cách sáng suốt đủ để đôi mắt của lão sáng lại bằng bất cứ cách nào" "Con có nên đi thăm lão ta không? Eragon hỏi. Không chắc về điều mà Oromis và Glaedr trông đợi. " Đó là quyết định của con," Oromis nói. " Gặp lại con có thể chỉ làm ông ta bối rối."
"Tuy nhiên, con có trách nhiệm vì hình phạt của ông ấy, Eragon ạ, Sẽ là sai quấy nếu con quên ông ta đi " "Không thưa sư phụ, con sẽ không quên"
Gật đầu phấn khởi, Oromis đặt chiếc cốc lên bàn và chuyển chiếc ghế của mình tới gần Eragon. " Ngày đang cạn dần, và ta sẽ không giữ con ở đây lâu hơn nữa, e rằng ta đã cản trở sự nghỉ ngơi của con, nhưng có một điều ta muốn quan tâm trước khi con khởi hành: Tay của con, ta có thể kiểm tra chúng không? Bây giờ ta muốn xem những gì họ nói về con. " Và Oromis với cánh tay của ông về phía Eragon.
Duỗi thẳng cánh tay, Eragon đặt tay nó lên gan bàn tay Oromis, Run run khi vị thần tiên chạm những ngón tay lên cổ tay nó. Chỗ chai sần được kéo dài ra đổ bóng trên lưng bàn tay nó, khi Oromis nghiêm bàn tay nó từ phía này qua phía khác. Sau đó, với một sự hăng hái nhỏ nhưng quả quyết, Oromis lật tay Eragon lại và xem xét kĩ gan bàn tay của nó dưới những ngón tay ông.
"Thầy thấy sao ạ?" Eragon hỏi. Oromis quay bàn tay Eragon lại và chỉ chỗ chai trên tay nó. " Giờ con có đôi tay của một chiến binh rồi, Eragon, Hãy giữ để chúng không trở thành đôi tay của kẻ say máu trong chiến trận."
 
50. Cây của sự sống
Từ những vách núi treo leo của Tel’naeír, Saphira bay sát phía trên khu rừng cho tới khi cô ả hạ cánh xuống chỗ cây Menoa. Dày hơn cả 100 cây thông khổng lồ đứng xung quanh, cây Menoa vươn lên bầu trời sừng sững như một cây cột khổng lồ, tán của nó rộng tới hàng ngàn feet. Các tua đan xen nhau như tấm lưới, bao phủ mặt đất rộng tới 10 Mẫu-Anh, trước khi rễ của nó cắm sâu vào lớp đất phù xa mềm. Xung quanh cây Menoa không khí trở lên mát mẻ và ẩm thấp, những giọt sương đọng lại là kết quả của màn sương mù lơ lửng phía trên tấm lưới, tưới cho những đám dương xỉ lớn bám trên thân nó. Vài chú sóc đỏ thi nhau chuyền qua lại trên những cành cây cổ thụ cùng những tiếng ríu rít của hàng trăm chú chim lao ra từ những bụi mâm xôi…Cây Menoa được biết đến với sự tích của 1 vị thần tiên mang tên Linnëa, người mà tinh thần của bà giờ đây đang duy trì sự sống cho cây và cho cả khu rừng.
Eragon cố tìm những chỗ gồ ghề xung quanh với hy vọng có liên quan chút gì đó tới vũ khí, nhưng cũng như trước kia, nó chẳng thể tìm thấy gì cả. Nó chú ý tới một mảnh gỗ đã mọc rêu dưới chân nó và mang tới chỗ Saphira, nó hỏi: Em nghĩ thế nào, nếu anh niệm vào nó một số phép thuật liệu anh có thể đem nó đi chém giết được không? Anh có thể giết chết một tên lính chỉ với một cộng cỏ nếu anh muốn, tuy nhiên để chống lại Murtagh và Thorn hoặc lão vua già và con rồng của hắn thì có lẽ anh phải cần nhiều hơn thế.
Em nói đúng. Nó ném khúc gỗ đi.
Nếu là em, em không cần thiết phải hoàn toàn tin vào những điều Ma mèo nói. Không. Nhưng dĩ nhiên anh nên xem xét các vấn đề khác nếu như anh có thể tìm ra được thứ vũ khí này. Biết đâu nó có thể là 1 hòn đá, 1 cuốn sách hay 1 cái gì đó tương tự, hoặc 1 cây gậy từ 1 trong những cành của cây Menoa cũng rất có thể sẽ trở thành một thứ vũ khí quý giá, anh nghĩ thế.
Nhưng không thể bằng 1 thanh kiếm được.
Không hẳn…Nhưng anh nghĩ không nên lấy đi bất kỳ cành cây nào khi chưa được sự cho phép của bà ấy. Anh không biết làm cách nào để thuyết phục bà ấy đáp ứng yêu cầu của mình.
Saphira uốn cổ, nhìn chằm chằm vào cái cây, rồi lắc đầu và vai để rũ bỏ những giọt nước đọng trên lớp vảy của cô nàng. Khi cành cây tấn công Eragon, nó kêu lên và nhảy lùi lại để tránh. Bà ta nói: Nếu có bất kỳ kẻ nào muốn làm hại cây Menoa, ta sẽ bắt chúng phải trả giá cho lỗi lầm của chúng.
Vài giờ sau đó, hai trong số họ vẫn đi lảng vảng xung quanh, Eragon vẫn tiếp tục hy vọng sẽ vấp phải cái gì đó nơi mà có thể có chiếc rương cũ nào bị dấu đi có chứa 1 thanh kiếm. Kể từ khi Murtagh lấy đi thanh Zar’roc, nó nghĩ đó phải là thanh kiếm mà Rhunön làm cho Brom.
Và cả màu của thanh kiếm nữa chứ. Saphira thêm vào. Con rồng của Brom,cũng tên là Saphira, và nó cũng màu xanh.
Cuối cùng, thất vọng, Eragon cố dùng suy nghĩ thâm nhập vào cây Menoa để giải thích việc tìm kiếm của mình và yêu cầu sự trợ giúp, nhưng có lẽ không dễ dàng gì. Chán nản, nó và Saphira bỏ đi, lúc này mặt trời đã gần khuất núi. Từ khu đất trống, Saphira bay thẳng tới trung tâm của Ellesméra, nơi cái cây mà cô ả hạ cánh và làm phòng ngủ đã được 1 vị tiên sắp xếp cho từ trước. Ngôi nhà gồm những phòng hình cầu giống như một cái vương miện khổng lồ nằm trên 1 cái cây vững trãi cách mặt đất vài trăm feet. Một bữa ăn đơn giản với trái cây, rau xanh, đậu quả và bánh mỳ đang đợi Eragon trong phòng ăn. Sau bữa ăn, nó chui vào trong đôi cánh của Saphira đã được xếp như 1 cái lều. Nó nằm đó, vẫn tỉnh táo và mở tâm trí nhận thức mọi điều xung quanh trong khi Saphira đã chìm sâu vào giấc ngủ. Nó nhìn bầu trời, sao mọc rồi lại lặn, chỉ còn ánh trăng trải trên khu rừng rộng, nó lại nghĩ tới ông Brom và những điều bí mật về mẹ nó. Đêm dần khuya hơn, nó đã chìm vào giấc mơ tự lúc nào không hay, ở đó nó được nói chuyện với cha mẹ. Nhưng nó không thể nghe thấy cha mẹ nó nói gì, giọng của nó và cha mẹ nó không thành tiếng và rất mơ hồ. Tuy nhiên không hiểu sao nó vẫn cảm nhận được tình yêu và niềm kiêu hãnh mà cha mẹ dành cho nó. và mặc dù nó biết họ không còn nữa nhưng nó vẫn trân trọng những kỷ niệm về họ.
Bình minh, một vị tiên nữ đưa Eragon và Saphira nhà Valtharos. Họ bước qua khoảng tối giữa hai cây thông, nơi này thật tĩnh mịch và trống rỗng, nó nhận ra 3 vị tiên đang đứng trên cây cao, dáng thanh nhã lướt đi nhẹ nhàng.
Khi những vị thần tiên tham gia chiến tranh. Saphira quan sát phía sau còn lại không nhiều.
Chúa tể Fiolr đang đợi họ trong phòng lớn được chiếu sáng bởi một vài ngọn đèn. Mặt của ông ta dài, nghiêm nghị và có góc cạnh rõ ràng hơn tất cả. Bởi vậy dáng vẻ của ông làm Eragon liên tưởng tới cây giáo dài và dày. Ông ta mặc cái áo choàng màu xanh lá cây dát vàng, cổ áo loe cao phía sau gáy, giống như lông cổ của một chú chim quý hiếm. Tay trái ông cầm một chiếc gậy phép làm bằng gỗ trắng với nét trạm trổ từ Liduen Kvaedhí. Phía trên cùng có gắn 1 hạt ngọc sáng chói.
Uốn cong thắt lưng, ông cúi chào. Eragon cũng làm vậy. Sau đó họ thi hành những nghi lễ chào hỏi của thần tiên. Và nó cảm ơn sự hào phóng của ông vì đã cho phép nó được chiêm ngưỡng thanh kiếm Támerlein.
Fiolr nói: Đã từ rất lâu Támerleinlà một tài sản quý giá của gia đình ta, và nó luôn có ý nghĩa đặc biệt đối với ta. Cậu có biết tí gì về lai lịch của nó không, hỡi Bàn tay bạc? Không.
Bạn của ta, người thông thái và trung thực nhất Naudra, cùng người anh em của cậu ấy Arva, một kỵ sĩ rồng trong thời đại Fall. Naudra đã đến thăm anh ấy ở Ilirea khi Galbatorix và Forsworn quét sạch thành phố như một cơn bão đến từ phía bắc. Arva đã đánh nhau với kỵ sĩ kia nhằm bảo vệ Ilirea, nhưng thanh Kialandí của Forsworn đã kết liễu anh ấy. Khi anh ấy ngã xuống trong trận đánh này anh ấy đã trao thanh Támerlein cho Naudra để giúp cô ấy tự bảo vệ mình. Với thanh Támerlein trong tay cô đã thoát khỏi Forsworn và trở về đây cùng với 1 kỵ sỹ và 1 con rồng mặc dù cô ấy đã chết không lâu sau đó.
Dùng 1 ngón tay, Fiolr che ánh sáng mờ mờ của viên ngọc trên cây gậy phép: Támerlein có ý nghĩa rất lớn đối với tôi, nó cũng giống như không khí đối với phổi vậy. Nhưng có lẽ tôi và dòng tộc không xứng đáng khi sở hữu nó. Támerlein xứng đáng được dành cho 1 kỵ sĩ, còn như chúng tôi thì không. Tôi sẽ cho cậu mượn nó, Bàn tay bạc ạ, coi như là sự giúp đỡ của chúng tôi để cậu chiến đấu chống lại Galbatorix. Tuy nhiên Támerlein vẫn thuộc quyền sở hữu của dòng họ Valtharos, và cậu phải hứa rằng sẽ trả lại nó khi mà ta hoặc người thừa kế của ta yêu cầu.
Eragon đồng ý và sau đó Fiolr đưa họ đi lấy kiếm được đặt trên 1 chiếc bàn lộng lẫy trong phòng khách cùng với bao kiếm.
Lưỡi kiếm màu xanh, tối màu, và bao kiếm cũng thế. Một viên ngọc màu lục gắn phía chuôi kiếm. Thanh kiếm được rèn từ 1 thanh thép màu xanh, có 1 đường trang trí dọc thân kiếm. Bằng ngôn ngữ thần tiên, họ nói: Tôi là Támerlein, người đem lại giấc ngủ cuối cùng.Thanh Támerlein có cùng chiều dài với thanh Zar’roc nhưng lưỡi kiếm rộng hơn, mũi kiếm không nhọn bằng, và tất nhiên nó nặng hơn Zar’roc. Nó thật tuyệt, một vũ khí sắc bén hoàn hảo. Nhưng chỉ nhìn vào nó Eragon cũng biết được rằng Rhunön đã tạo ra Támerlein cho một kỵ sĩ có kiểu chiến đấu không hợp với nó. Một kiểu mà thiên về sức mạnh chứ không thiên về sự nhanh nhẹn và kỹ thuật như Brom đã từng dạy nó. Dùng những ngón tay vuốt ve thanh kiếm, Eragon nhận ra rằng chuôi kiếm quá lớn so với bàn tay của nó, và ngay lập tức nó biết rằng thanh kiếm này không phải thứ nó cần. Nó không được thoải mái như khi cầm thanh Zar’roc. Eragon ngập ngừng, và hy vọng tại một nơi nào đó nó có thể tìm thấy 1 thanh kiếm phù hợp. Arvindr, nó nghĩ tới một thanh kiếm khác mà Oromis đã nhắc tới trước kia.
Saphira nói: Đừng nhận nó, khi anh mang kiếm vào trận đánh cuộc sống của anh và của em sẽ phụ thuộc vào nó, vì thế chúng tao cần phải chọn một thanh kiếm hoàn hảo. Bên cạnh đó em cũng không thích cái điều kiện mà lão già Fiolr đưa ra.
Eragon quyết định từ chối và xin lỗi Fiolr, giải thích rằng tại sao nó không thể nhận thanh kiếm. Không phải là những bộ mặt cau có thất vọng, mà trái lại Eragon thấy vẻ mặt hài lòng của Fiolr.
Từ đại sảnh của nhà Valtharos, Eragon và Saphira đi thẳng tới cái hang động tối nằm trong khu rừng cây sơn thù du, rồi bước vào nhà của Rhunön. Khi họ bước vào Eragon có thể nghe tháy tiếng búa nện trên đe, và nó thấy Rhunön đang ngồi trên chiếc ghế dài trong lò rèn ngay sau cánh cửa. Bà tiên già đang vật lộn với một khối thép trước mặt. Eragon không thể đoán được bà đang làm gì.
Khắc tinh của Tà thần, ngươi vẫn còn sống sao. Miệng nói nhưng mắt bà vẫn không rời khỏi khối thép. Oromis nói với ta rằng con trai của Morzan đã cướp mất thanh Zar’roc của ngươi.
Eragon cau mày và gật đầu thậm chí nghĩ bà ấy không thèm nhìn nó. Vâng thưa Rhunön, hắn đã cướp mất nó trong trận chiến tại Cánh đồng cháy.
Hừm. Rhunön vẫn tập trung vào quai búa với tốc độ khác thường. Rồi bà ngừng lại và nói: Thanh kiếm đã được trở về với đúng chủ của nó, nhưng ta không thích hắn-hắn tên gì nhỉ? Ah,đúng Murtagh và Zar’roc. Nhưng tất cả các kỵ sĩ đều xứng đáng có được thanh kiếm thích hợp. Và ta nghĩ cũng không có thanh kiếm nào thích hợp với con trai của Morzan hơn là thanh kiếm của chính hắn đâu. Bà tiên già liếc nhìn Eragon với cái trán nhăn nheo.
Theo hiểu biết của ta, sẽ tốt hơn nếu ngươi giữ thanh Zar’roc, Khắc tinh của Tà thần ạ. Nhưng ta sẽ rất vui lòng nếu ngươi có một thanh kiếm được chế tạo cho chính ngươi. Có thể Zar’roc phục vụ ngươi rất tốt nhưng hình dáng của nó không phù hợp với thân hình của ngươi. Và càng không phù hợp khi nhắc tới Támerlein. Thật ngớ ngẩn khi nghĩ ngươi sẽ sử dụng nó.
Như bà thấy đấy ,tôi đã từ chối nhận nó.
Tốt. Rhunön gật đầu và tiếp tục công việc.
Nếu Zar’roc thích hợp cho Murtagh, thì thanh kiếm của Brom chắc sẽ thích hợp với tôi chứ?
Rhunön cau mày, ngập ngừng: Undbitr ư? Tại sao ngươi nghĩ lại là kiếm của Brom? Bởi vì ông ấy là cha tôi. Eragon cảm thấy hơi rùng mình khi nói như vậy. Thật vậy sao. Rhunön bỏ búa xuống và đi lại quanh lò rèn rồi đứng đối diện với Eragon. Thân hình mảnh khảnh của bà đã không còn khi từ rất lâu bà vùi đầu và công việc làm lưng còng xuống, và vì thế bà đứng thấp hơn nó vài Inch. Uhm, ta nhìn ngươi trông khá giống Brom. Hắn là một người khiếm nhã. Hắn nói rằng hắn muốn thứ gì đó nhưng không muốn phí lời. Ta thích thế. Ta không thể giữ được nguyên tắc của mình. Chúng thật quá lễ phép, quá thuần khiết, quá hoàn hảo. Ha ha, ta còn nhớ khi những thần tiên cười nhạo và đánh nhau như những sinh vật tầm thường. Và bây giờ họ đã trở nên lãnh đạm và một số dường như không có cảm xúc, thật chẳng khác gì một bức tượng cẩm thạch.
Saphira nói: Thế bà có biết những thần tiên trước kia bằng cách nào đã để các loài khác gia nhập cùng họ.
Rhunön quắc mắt về phía Saphira: Vảy sáng, xin chào mừng. Ta xin nói về thời gian trước khi mối quan hệ giữa thần tiên và loài rồng được thành lập. Ta đã chứng kiến sự thay đổi đó. thật khó tin là nó lại xảy ra, nhưng đó là sự thật, và ta vẫn còn sống đủ để biết chúng ta đã như thế nào trước kia.
Rhunön chuyển cái nhìn sang Eragon: Undbitr không thể trở về với ngươi được. Brom đã mất kiếm của hắn khi hắn ko còn còn là 1 kỵ sĩ đích thực vì cái chết của Saphira-con rồng của hắn. nếu nó không rơi vào tay của Galbatorix thì rất có thể nó đã bị phá hủy hoặc có thế đã bị chôn vùi ở một nơi nào đó phía dưới đống xương vụn của trận chiến đã bị lãng quên từ lâu. Thậm chí nếu như tìm thấy nó ngươi cũng không thể mang nó về trước khi ngươi lại tiếp tục đối mặt với kẻ thù.
Vậy tôi nên làm gì, thưa Rhunön. Eragon bối rối, và nó nói với bà ta về thanh kiếm cong mà nó đã chọn khi còn ở Varden và những phép thuật mà nó đã yểm và thanh kiếm, và việc thanh kiếm bị hỏng khi đánh nhau trong đường hầm phía dưới Farthen Dûr. Rhunön khịt mũi: không nó sẽ không bao giờ được việc. một thanh kiếm được rèn và tôi luyện, mặc dù được yểm hàng đống phép thuật, nhưng thứ kim loại làm ra nó mà ko tốt thì cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì. Một kỵ sĩ cần nhiều hơn thế, một thanh kiếm có thể chịu được tất cả các tác động khủng khiếp và vô hiệu với hầu hết pháp thuật. Điều ngươi cần phải làm là yểm phép thuật lên kim loại nóng từ khi đang trong quá trình kéo dài ra từ quặng, cũng như khi đang trong quá trình rèn nó, có như thế mới làm thay đổi và cải thiện được cấu trúc của kim loại.
Thế làm sao tôi có thể có được 1 thanh kiếm đây, bà có thể làm giúp tôi không, thưa Rhunön. Eragon nói.
Những sợi gân hằn sâu trên khuôn mặt Rhunön. Suy nghĩ, chà sát khủy tay trái, những thớ thịt cuồn cuộn trên bắp tay: Ngươi có biết rằng ta đã thề ta sẽ không bao giờ chế tạo vũ khí cho bất cứ ai nữa chừng nào ta còn sống.
Tôi biết.
Lời thề trói buộc ta, ta không thể phá vỡ nó, và không việc gì ta phải làm thế. Vẫn giữ thái độ, Rhunön đi tới chỗ ngồi và ngồi xuống trước tác phẩm của mình đang làm dở: Và tại sao ta phải làm như thế, hỡi kỵ sĩ.
Cẩn thận trong lời nói, Eragon lên tiếng: Bởi vì nếu bà làm thế bà có thể giúp tất cả thoát khỏi triều đại của Galbatorix. Nếu tôi giết chết ông ta bằng thanh kiếm mà bà chế tạo cho tới khi đó thanh kiếm của bà đã trả thù cho những kỵ sĩ và con rồng của họ đã chết dưới tay của hắn và Forswon. Chẳng phải bà rất ghét việc bọn chúng sử dụng kiếm của bà hay sao. Việc này cũng giúp cân bằng lực lượng giữa 2 phe và sau đó nó cũng là sự chuẩn bị cho cái chết của Galbatorix.
Rhunön dừng tay và nhìn lên bầu trời: Một thanh kiếm…Một thanh kiếm mới. Đã quá lâu rồi ta lại trở lại với nghề…Ánh mắt đau khổ nhìn Eragon và nói: Có thể lắm, có thể ta sẽ có 1 cách để giúp ngươi. Nhưng có thể sẽ là vô nghĩa bởi ta ko thể cố gắng thêm nữa. Tại sao không? Saphira hỏi
Bởi vì ta không có thứ kim loại mà ta cần Rhunön lẩm bẩm. Ngươi không định nghĩ rằng ta sẽ chế tạo kiếm cho 1 kỵ sĩ bằng thứ kim loại tầm thường đó chứ. Không, đã rất lâu rồi ta băn khoăn liệu còn có được mảnh thiên thạch rơi xuống trái đất chỗ người lùn nữa hay không. Những mảnh có chứa quặng thứ mà không giống như bất kì thứ gì ta đã từng làm trước đây. Bởi vậy ta đã đưa tới lò rèn, tinh chế nó, và ta khám phá ra rằng sự pha trộn đó đã tạo ra 1 loại thép vô cùng khỏe và cứng, đồng thời dẻo dai hơn bất kỳ thứ gì trên trái đất này. Ta đặt tên nó là Thép sáng, một phát minh vĩ đại và khi Nữ hoàng Tarmunora đề nghị ta rèn cây kiếm đầu tiên cho Kỵ sĩ, ta đã sử dụng loại Thép sáng này. Về sau bất cứ khi nào ta có cơ hội ta lại tìm kiếm loại quặng đó trong khu rừng ấy. Không mấy khi ta tìm được nhưng mỗi khi thành công ta lại chế tạo kiếm cho kỵ sĩ. Qua nhiều thế kỷ, loại quặng đó trở nên cực kỳ hiếm, cho tới lần cuối cùng ta nghĩ rằng nó không còn trên trái đất này nữa. Ta phải mất 24 năm đẻ tìm thấy vật đó. Nhờ nó ta đã chế tạo thêm được 7 thanh kiếm trong đó có Undbitr và Zar’roc. Kể từ khi thời kỳ kỵ sĩ tan rã ta cố tìm Thép sáng thêm một lần nữa và đó là đêm cuối cùng khi Oromis nói với ta về ngươi. Rhunön nghiêng đầu, đôi mắt rưng rưng nhìn Eragon: Ta đã đi rất xa và rộng, ta đã dùng rất nhiều phép thuật để tìm nhưng chẳng kết quả gì. Nếu may mắn tìm được 1 chút ta sẽ cân nhắc tới việc làm kiếm cho ngươi, Khắc tinh của Tà thần ạ. Bằng không thì chuyện này chỉ là phù phiếm.
Eragon cúi chào và cảm ơn bà đã dành thời gian cho nó, sau đó nó và Saphira cáo từ. Khi họ đi tới 1 trảng đất mà Saphira có thể hạ cánh, Eragon nói: Thép sáng, có phải là thứ mà Solembum ám chỉ. Chắc chắn là thép sáng nằm bên dưới gốc cây Menoa. Nhưng làm cách nào mà nó biết được?
Dĩ nhiên cái cây không tự nói cho hắn. vậy vấn đề là ở đâu?
Thép sáng có thể ở đó hoặc không, cô ả nói, làm thế để lấy bất kỳ thứ gì dưới gốc cây Menoa? Chúng ta không thể bới tung lên. Chúng ta thậm chí còn không biết chỗ nào để đào bới mà tìm nữa.
Anh phải tìm ra cách.
Từ trảng đất của nhà Rhunön, chúng bay tới Ellesméra quay trở lại những vách núi ở Tel’naeír, nơi mà Oromis và Glaedr đang đợi. Saphira hạ cánh và Eragon trèo xuống, cô ả cùng Glaedr nhảy khỏi vách đá và lượn vòng lên phía trên, không thật sự phải đi bất cứ đâu nhưng thật thoải mái khi luôn thấy sự có mặt của nhau.
Trong khi hai con rồng đang bay lượn giữa các tầng mây, Oromis dạy Eragon cách mà 1 pháp sư có thể chuyển 1 vật từ nơi này tới nơi khác mà không phải mang nó đi cũng như không quan tâm tới khoảng cách. Một sự kỳ diệu nhất của phép thuật, Oromis nói: yêu cầu cần thêm nhiều năng lượng để giữ được khoảng cách giữa con và mục tiêu. Tuy nhiên, không có trường hợp cá biệt, nó đòi hỏi cùng 1 lượng năng lượng để chuyển hòn đá trong tay ta đến 1 nơi khác cũng như việc chuyển nó bằng tất cả các con đường tới phia nam Isles. Vì lý do này, Phép thuật có ích nhất khi con chuyển 1 vật bằng phép thuật qua 1 khoảng cách cực lớn, con sẽ chết nếu con chuyển vật đó theo cách thông thường. Mặc dầu vậy, phép thuật này cũng có những yêu cầu khắt khe con chỉ nên dùng nó nếu thực sự không còn cách nào khác. Để dịch chuyển một số thứ lớn hơn như trứng Saphira làm ví dụ, nó sẽ làm con kiệt sức.
Oromis dạy Eragon câu thần chú thực hiện phép đó và một số biến dạng của nó. Chỉ cần 1 lần nó phải cố nhớ những câu thần chú này để làm vừa lòng vị sư phụ già người mà bắt nó phải dịch chuyển hòn đá nhỏ nó đang cầm trong tay.
Ngay khi nó hoàn thành toàn bộ những câu phép thuật đó hòn đá đã biến mất, và trong chốc lát nó xuất hiện lại ở giữa khu đất trống với ánh sáng màu xanh cùng một tiếng nổ lớn một đám lửa lớn bùng cháy trong không khí. Eragon hơi hoảng hốt sau tiếng nổ và níu vào 1 cành cây gần đó để đứng vững khi hai đầu gối nó chùn xuống, một sự ớn lạnh khắp người. Đầu nó ù đi khi mắt nhìn vào hòn đá đang nằm giữa đám cỏ cháy, và nó lại nhớ tới lần đầu tiên nó bắt được trứng Saphira.
Làm tốt lắm. Oromis nói: bây giờ con thể nói cho ta biết tại sao viên đá lại gây tiếng động khi nó được chuyển tới bãi cỏ không?
Eragon ra vẻ chú ý tới mọi điều Oromis nói, nhưng bỏ qua bài học nó tiếp tục suy nghĩ đến câu hỏi của cây Menoa, thậm chí khi biết Saphira đang bay ngay phía trên. càng suy nghĩ nó càng thất vọng vì không tìm ra giải pháp.
Khi Oromis kết thúc bài giảng về cách đi chuyển vật, vị tiên già hỏi: Từ khi nào mà con và saphira từ chối thanh Támerlein, con và Saphira tính ở lại đây lâu hơn hay sao? Con không biết, sư phù à. Nó đáp lại: Có một số điều con muốn tìm hiểu thêm về cây Menoa, nhưng nếu không thành công thì không còn lựa chọn nào khác là trở về Varden với đôi bàn tay không.
Oromis gật đầu: trước khi con đi, hãy cùng Saphira quay lại đây lần cuối cùng. Vâng thưa thầy.
Khi Saphira bay tới cây Menoa, Eragon ngồi trên lưng, cô ả nói: Tại sao không phải là trước kia mà lại là bây giờ.
Bởi vì bây giờ chính là lúc cần phải làm việc này. thế em có ý kiến nao khác sao. Không, nhưng em không thích thế này. Chúng ta không biết bà ấy sẽ phản ứng thế nào. Nên nhớ, trước khi Linnëa biến thành cây bà ấy đã giết chết người đàn ông đã phản bội tình cảm cả bà ấy. Bà ấy có thể giận dữ trở lại đó.
Bà ấy không dám đâu khi mà có em ở đây bảo vệ anh.
Uhm.
Saphira bay vòng vòng phía trên cây Menoa cách khoảng vài trăm feet. Những chú sóc trên những cây thông khổng lồ sợ hãi cảnh báo đồng loại về sự xuật hiện của cô ả. Trượt xuộng dưới, Eragon chống tay xuống đùi, càu nhàu: Không thể lãng phí thời gian được. Nhẹ nhàng từng bước, nó chạy lại gần thân cây, dang hai cánh tay ra để giữ thăng bằng. Saphira cũng theo sau với từng bước chậm chạp, móng vuốt của cô ả cào rách lớp vỏ cây.
Eragon ngồi xổm trên một cành trơn trượt, mống tay bấu vào những kể nứt nẻ trên thân cây để giữ cho nó khỏi bị té. Nó chờ cho đến khi Saphira cũng leo lên được phía bên trên nó, nó nhắm mắt, thở sâu để hít cái không khí lạnh và ẩm ướt, rồi nó phóng suy nghĩ tới cái cây.
Cây Menoa dường như không làm gì để cản trở nó. Ý thức của bà ta thật quá sâu rộng và khác thường. Bất kỳ ai có ý muốn điều khiển cái cây này cũng cần phải so một ý thức cực kỳ to lớn và mạnh mẽ, mà một người đơn độc có nằm mơ mới đạt được. Từ chỗ chiếc cây, Eragon có thể cẩm giác xung quanh, từ cái ấm áp của chỗ đất bị rễ cây nén lại trải ra hàng trăm thước Anh về mọi hướng. Nó cảm nhận được sự di chuyển của một con ruồi trâu bay qua các cành lá chằng chịt, và dòng chất lỏng nhờn nhờn rỉ ra từ những vết cắt trên thân cây, nó cảm nhận được các cây xung quanh cũng như thế. So sánh với đêm diễn ra lễ Huyết thệ, cái cây dường như đang chìm trong giấc ngủ. Chỉ có 1 điều Eragon có thể nhận ra di chuyển quá chậm và không thể biết đó là cái gì. Tập trung nội lực, Eragon cố ném ý thức của mình qua cây Menoa: Xin hãy nghe tôi, hỡi cây khổng lồ kia! Tôi cần sự giúp đỡ của bà. Khắp nơi đang xảy ra chiến tranh, các vị tiên đã rời bỏ khu an toàn Du Weldenvarden, tôi thì cần một thanh kiếm để chiến đấu. mèo ma Solembum nói với tôi rằng khi tôi cần 1 vũ khí hãy đến tìm dưới cây Menoa. Và bây giờ chính là lúc. Xin hãy nghe tôi, hỡi Mẹ của rừng, xin hãy giúp tôi. Trong khi nói, nó cố chuyển những hình ảnh về Murtagh và Thorn và thế lực của Đế quốc. Cộng them một vài ký ức lẫn lộn, Saphira cũng giúp nó bằng nguồn nội lực từ bên trong cô ả. Tiếp tục cố gắng, nhờ nguồn nội lực mạnh mẽ của cô ả rồng, Eragon cố gửi những lời lẽ và những hình ảnh tới cây Menoa với hy vọng sẽ kích thích được trí tò mò của Bà ta. Vài phút sau, cái cây dường như vẫn không nghe những gì Eragon nói, Eragon bắt đầu thấy chán nản. Nó hy vọng cái cây di chuyển chậm chạp hơn loài tiên và cả loài người nhưng vẫn sẽ có phản ứng mặc dù là không phải ngay tức khắc.
Bọn ta không còn đủ sức lực nữa. Saphira nói, bằng không chúng ta phải quay trở lại Varden cho kịp thời gian thôi.
Eragon đồng ý và miễn cưỡng ngắt dòng suy nghĩ.
Trong khi họ tiếp tục nài nỉ cây Menoa, mặt trời đã lên tới đỉnh và bắt đầu ngả bóng. Những đám mây cuồn cuộn hối hả trôi về phía cuối trời. Những chú chim lao như tên bắn, vài chú sóc giận dữ la hét gọi bầy, mấy chú bướm dập dờn qua lại, một đàn kiến hành quân ngang qua giầy của Eragon mang những chiến lợi phẩm nhỏ màu trắng trên những đôi càng to khỏe của chúng.
Saphira gầm lên làm lũ chim hoảng hốt sợ hãi. Sự kiên nhẫn của ta như thế là quá đủ rồi đấy. Ta là 1 con rồng, ta sẽ không bỏ qua đâu, bất kỳ một cây nào.
Không, đợi đã. Eragon nức nở. Biết được ý định của cô ả, nhưng cô ả vẫn phớt lờ. Lùi lại vài bước Saphira dùng móng vuốt cào sâu vào rễ cây, giật mạnh làm ba miếng gỗ lớn bật ra khỏi rễ cây. Ra đây và hãy nói chuyện với bọn ta. Cô ả gầm lên. Cô ả rụt đầu lại và phun ra 1 luồng lửa giữa hai quai hàm làm thân cây chìm trong bão lửa màu trắng xanh. Che mặt lại, Eragon nhảy ra xa để tránh hơi nóng.
Dừng lại Saphira. Nó gào lên.
Em sẽ chỉ dừng lại chừng nào bà ta chịu trả lời chúng ta.
Một đám mây mù trĩu nước đem mưa tới. Ngước lên, Eragon thấy những cành thông đang đung đưa và rung mạnh dần, tiếng rên rỉ của gỗ phảng phất trong không khí. Cùng lúc đó một mảnh băng lạnh lao vút tới má của Eragon, và nó nghĩ nó đã ngã lăn đùng ra xuống dưới chân. Xung quanh nó thấy dường như tất cả các cây rung lên, cao hơn và dữ tợn hơn. Nó cảm nhận được rằng các cành cây của chúng đang nhắm về nó như những chiếc móng vuốt.
Eragon bắt đầu thấy sợ.
Saphira…, nó gọi, khom người xuống sẵn sàng để chạy hoặc chiến đấu. Ngừng phun lửa, Saphira quan sát xung quanh. Khi cô ả chú ý tới vòng vây do các cây tạo thành, vảy cô ả như dựng ngược vì tức giận. Cô ả gầm vang cả khu rừng, dang cánh định bay thoát khỏi cây Menoa. Nhanh, leo lên lưng em nào.
Trước khi Eragon có thể tiến thêm 1 bước, một cái rễ lớn đâm lên khỏi mặt đất và quấn lấy chân trái của nó, làm nó không thể di chuyển. Hơn thế nữa một cái rễ lớn hơn xuất hiện từ một phía khác của Saphira và túm lấy chân và đuôi của cô ả, làm cô ả không bay lên được. Saphira rống lên giận dữ, ngoái cổ lại định phun lửa tiếp.
Ngọn lửa thoát ra từ miệng cô ả rồi tắt ngấm khi một âm thanh vang lên trong tâm trí Eragon và cô ả, rất chậm-một tiếng thì thầm giống tiếng lá xào xạc: Ai dám phá vỡ sự thanh tịnh của ta đó? Ai dám cắn ta và đốt ta đó? Xưng tên đi để ta biết kể ta sắp giết là ai.
Eragon nhăn nhó trong đau khổ khi một chiếc rễ xiết chặt quanh mắt cá chân nó. Thêm một chút nữa là nó sẽ bị gãy chân. Tôi là Eragon-Khắc tinh của Tà thần, và đây là Vảy sáng.
Chết đi, Eragon-khắc tinh của tà thần và Saphira-Vảy sáng.
Đợi đã. Eragon nói: Tôi chưa nói hết.
Im lặng hồi lâu rồi giọng nói lại vang lên: Nói tiếp đi.
Tôi là Kỵ sĩ rồng cuối cùng ở Alagaësia, và Saphira là con rồng cái cuối cùng còn sống. Chúng tôi dĩ nhiên là những người duy nhất có thể đánh bại Galbatorix, kẻ phản bộingười đã phá hủy thời đại kỵ sĩ và chiếm lĩnh một nửa Alagaësia.
Tại sao ngươi lại tấn côn ta, con rồng kia? Giọng nói lại vang lên.
Saphira nhe răng: Bởi vì ngươi không chịu nói chuyện với bọn ta, và bởi vì Eragon đã đánh mất thanh kiếm của anh ấy và con mèo ma bảo đến gặp ngươi để tìm vũ khí. Chúng ta đã cố gắng nhưng không tìm thấy gì.
Và sau đó ngươi sẽ chết 1 cách vô ích thôi vì chẳng có vũ khí nào bên dưới bộ rễ của ta đâu.
Cố gắng tiếp tục nói chuyện với cái cây, Eragon nói: Chúng tôi tin rằng con mèo ma muốn ám chỉ Thép sáng, thứ kim loại từ các vì sao rớt xuống mà Rhunön sử dụng để rèn kiếm cho các kỵ sĩ. Nếu không có nó tôi sẽ không có thanh kiếm nào cả.
Mặt đất lồi lên bởi mạng lưới rễ cây làm náo động tất cả các loài động vật sống trong hang dưới mặt đất như thỏ, chuột, khiến chúng phi ra khỏi tổ và tìm chỗ trốn. Phía xa, Eragon thấy vài chục thần tiên chạy đến mái tóc họ óng như nhữn sợi tơ. Xuất hiện trong im lặng, họ dừng lại bên dưới những cái cây đang bao quanh Eragon và Saphira, nhưng họ không tiến lại gần hoặc có dấu hiệu giúp đỡ.
Eragon cố phóng suy nghĩ để gọi cho Oromis và Glaedr, khi giọng nói quay trở lại: Mèo mà biết nó nói về cái gì, đó là một mẩu quặng của Thép sáng được chôn bên dưới bộ rễ của ta, nhưng ngươi sẽ không có được nó vì ngươi đã đánh ta, đốt ta.
Nghe thấy sự tồn tại của mẩu quặng, Eragon phấn chấn hẳn lên: nhưng Saphira là con rồng cái cuối cùng ,bà có chắc là bà muốn giết nó chứ.
Rồng phun lửa giọng nói thì thầm, một cái rùng mình chạy dọc thân cây: Lửa phải được dập tắt.
Saphira gầm lên: Nếu chúng ta không thể ngăn chặn kẻ đã phá hoại thế hệ kỵ sĩ rồng, hắn ta sẽ tới đây và đốt cả khu rừng này, cả ngươi nữa. Nếu ngươi giúp bọn ta, bọn ta có thể sẽ ngăn được hắn.
Một tiếng kêu thất thanh vang vọng giống như khi hai cành cây đập vào nhau: Nếu hắn cố giết các cây yêu quí của ta, hắn sẽ phải chết, giọng nói vang lên. Không ai khỏe bằng sức mạnh của rừng này, không ai có thể hủy điệt được, ta đại diện cho khu rừng dám tuyên bố như thế.
Chúng tôi sẽ chữa thương cho cây có được không. Eragon hỏi.
Cây Menoa không trả lời, nhưng như một cơn gió mạnh thổi thẳng vào tâm trí Eragon: Ngươi là gì, kỵ sĩ kia. Ta biết tất cả cả loài sống trong khu rừng này, nhưng chưa bao giờ gặp 1 kẻ như ngươi.
Tôi không phải thần tiên cũng không phải người. Eragon nói: tôi là sự pha trộn của cả hai. Loài rồng đã thay đổi tôi trong lễ hội Huyết thệ.
Tại sao họ lại thay đổi ngươi, hỡi kỵ sĩ?
Để tôi có thể chiến đấu tốt hơn chống lại Galbatorix và thế lực của hắn. Ta còn nhớ rằng ta đã từng thấy một thế giới hoang tàn trong suốt buổi lễ đó, ta đã nghĩ nó không có gì là quan trọng cả…Nhưng bây giờ có vẻ trở nên quan trọng hơn 1 chút. Hãy cứu mặt trời và mưa.
Chúng tôi sẽ chữa lành vết thương cho rễ và thân cây của bà nếu điều đó làm bà thỏa mãn, nhưng cầu xin bà hãy để chúng tôi lấy Thép sáng.
Những cây khác rên rỉ như những linh hồn sắp chết. Giọng nói lại vang lên: Ngươi sẽ làm những gì ta muốn chứ, Kỵ sĩ rồng?
Nhất định rồi. Eragon đáp không chút do dự. Bất kỳ giá nào nó cũng vui vẻ chấp nhận. Sau vài phút, khu đất trống đang im lặng bỗng mặt đất bắt đầu rung chuyển và những cái rễ cây trước mặt Eragon bắt đầu tách ra trồi lên kéo rẽ đất về hai bên. Sau đó một cục sắt gỉ xuất hiện trên nền đất phù sa màu mỡ đen và dơ bẩn. Eragon cảm thấy dạ dày quặn thắt, một cảm giác nhói đau khó chịu xuất hiện rồi chợt biến mất. Rồi những cái rễ đang quấn vào chân Eragon lỏng dần rồi tuột ra chui xuống biến mất khỏi mặt đất. Chỗ Saphira cũng thế, cô ả không còn bị trói buộc nữa.
Kim loại của ngươi đây. Giọng thì thầm của cây Menoa: Cầm lấy và đi đi… NhưngEragon hỏi.
Đi…Giọng nói từ cây Menoa ẩn đàn rồi biến mất: Đi…Và ý thức từ cây Menoa biến mất khỏi tâm trí của Eragon và Saphira, rút dần ngày càng mờ nhạt cho đến khi Eragon không còn cảm nhận thấy ý thức đó nữa. Xung quanh chúng bóng của những cây thông cũng lùi xa và trở lại vị trí cũ.
Nhưng…Eragon hét to hơn, bối rối vì không thấy cây Menoa đưa ra điều kiện gì. Vẫn còn ngỡ ngàng, nó bước tới chỗ cục quặng, lần những ngọn tay xuống cạnh dưới và nhấc cái khối có trọng lượng khác thường này lên cánh tay nó và cằn nhằn vì nó khá nặng. Ôm chặt nó trước ngực, quay đầu ngược lại phía cây Menoa, nó rảo bước tiến về nhà của Rhunön.
Saphira ngửi khối Thép sáng khí cô ả đi bên cạnh Eragon: Anh đã đúng. Em không nên tấn công bà ta.
Nhưng ít nhất chúng ta cũng có được Thép sáng. và cây Menoa…tốt thôi, anh không biết bà ta sẽ làm gì, nhưng chúng ta sẽ làm, và đó không phải là vấn đề.
Các thân tiên ở đó tụ tập dọc đường đi của Eragon để đi theo và nhìn chằm chằm nó và Saphira khiến nó càng bước nhanh hơn, gáy nó như mốn nổi da gà…
Một luồng khói phun ra từ mũi Saphira: Nếu Galbatorix không giết chúng ta trước, em nghĩ chúng sớm sẽ phải ân hận về điều này
 
51. Ý chí trên thép“Ôi ở đâu ra thế này” Rhunön sững sờ khi thấy Eragon bước vào và thả cục quặng xuống đất ngay trước chân của Rhunön.
Bằng cách ngắn gọn nhất, Eragon giải thích về Solembum và cây Menoa.
Ngồi trước cục quặng, Rhunön vuốt ve bề măt thô ráp của nó, những ngón tay bà mâm mê những mẩu kim loại nằm rải rác trên cục đá. “Ngươi thật điên rồ hoặc có lẽ ngươi thật dũng cảm khi dám thách thức cây Menoa. Bà ta không phải dễ đùa thế đâu.”
“Bằng này có đủ cho 1 cây kiếm không” Saphira hỏi.
“Vài cây cũng đủ, nếu như ta dựa vào kinh nghiệm của mình để khẳng định như thế”. Rhunön nói, sự hưng phấn trong bà đang tăng. Bà tiên già liếc nhìn cái lò rèn của mình nằm chính giữa cửa, vỗ hai tay vào nhau, mắt bà sáng lên với tất cả sự nhiệt huyết và quả quyết. “Bắt đầu thôi, ngươi muốn một cây kiếm phải không, Khắc tinh của Tà thần? Rất tốt, ta sẽ cho ngươi một cây kiếm chưa bao giờ có ở Alagaësia này”.
“Nhưng còn lời thề của bà?”
“Đừng nghĩ về nó, nên nhớ hai ngươi phải quay về Varden đó”
“Đáng lẽ chúng tôi nên rời đi từ cái ngày mà chúng tôi đến”
Rhunön ngừng lại, tâm trạng bị dồn nén: “Ta sẽ phải khẩn trương hơn mức bình thường và sử dụng phép thuật để làm việc, vì nếu không sử dụng phép thuật thì có lẽ phải mất tới cả tuần để hoàn thành. Ngươi và Vảy sáng sẽ giúp ta”. Không phải là một câu hỏi nhưng Eragon vẫn gật đầu đồng ý. “Chúng ta sẽ không nghỉ tối nay, nhưng ta hứa với ngươi, Khắc tinh của Tà thần, sáng ngày mai ngươi sẽ có kiếm để dùng”. Khụy gối, Rhunön nâng cục quặng khỏi mặt đất mà không cần phải tận sức và mang nó tới cái đe chổ đang làm dở tác phẩm của bà.
Eragon cởi bỏ bộ trang phục của mình để tránh khi làm việc sẽ làm hỏng nó, rồi Rhunön đưa cho nó cái áo chẽn da bó sát người và môt cái tạp dề chống cháy. Rhunön cũng mặc như thế. Khi Eragon nhắc tới găng tay, bà cười và lắc lắc cái đầu. “Nó chỉ làm cho người thợ rèn thêm vụng về.”
Rhunön dẫn nó tới một cái hang giống như phòng ngủ ở giữa một cái thân cây to trong khu nhà của bà. Bên trong là những bao chứa than cốc và những viên như đất sét trắng xốp. Dùng phép thuật, họ nâng vài trăm viên lên và mang chúng ra ngoài đưa đến lò rèn, sau đó họ cũng mang chừng ấy bao than tới, mỗi bao còn to hơn cả một người đàn ông.
Chỉ một lần họ đã mang đủ những thứ mà họ cần làm Rhunön rất hài lòng, bà và Eragon cùng bắt tay vào nấu chảy quặng. Việc nấu chảy này khá phức tạp, Rhunön không dám dùng quá nhiều phép thuật can thiệp vào cấu trúc của nó. Bởi vậy việc này mất gần hết buổi chiều. Đầu tiên họ đào một cái hố hình chữ nhật sâu 5 feet để họ có thể đổ đầy cát, sỏi, đất sét, than, tro, và họ tạo một số lỗ và kênh dẫn hơi ẩm để không làm ảnh hưởng tới quá trình nung chảy. Khi lấp đầy hố bằng với mặt đất, họ tạo một cái máng gạch, sử đụng nước và đất sét tạo thành một loại vữa không cháy. Lục lọi trong nhà Rhunön quay lại với một cặp ống bễ để gắn lên những cái lỗ của máng.
Họ giải lao, uống và ăn một ít bánh mì với phó mát.
Sau bữa ăn nhanh, Rhunön đặt một nắm nhỏ cành cây xuống cái máng và nhóm lửa, miệng lẩm bẩm điều gì đó. Khi lửa cháy, bà đặt những miếng gỗ sồi vừa vừa xuống dưới đáy. Gần một giờ, bà trông ngọn lửa, chú tâm như người làm vườn đang trồng hoa hồng, cho tới khi gỗ cháy và thậm chí than đã đỏ rực. Sau đó Rhunön gật đầu với Eragon và nói: “Bắt đầu”.
Eragon nâng cục quặng lên và nhẹ nhàng đặt nó xuống cái máng. Hơi nóng chạm vào tay làm nó không thể chịu đựng nổi nó buông cục quặng ra và nhảy lùi lại, lửa bắn tung tóe giống như một đàn đom đóm bay lượn. Phía trên đỉnh nó dùng xẻng xúc than phủ một lớp dày để làm nguyên liệu cháy.
Eragon phủi lớp bị than dính vào tay, sau đó cầm chiếc bễ thổi đặt vào vị trí và bắt đầu đẩy để tạo gió, trong khi phía bên kia Rhunön cũng đang ra sức đẩy. Lửa được đốt với từng luồng khí cấp đều đặn bởi vậy cục quặng càng được nung nóng hơn. Những chiếc vảy trên ngực Saphira cũng như phía dưới đầu và cổ của cô ả phản chiếu những ánh lửa lấp lánh trong vũ điệu nung chảy. Cô ả khom người ngồi cách xa vài thước Anh, mắt cô ả dán vào trung tâm ngọn lửa: “Em có thể giúp được mà, chỉ mất 1 phút là cục quặng sẽ tan ra như nước thôi.”
“Được đấy.” Rhunön nói, “Nhưng nếu chúng ta nấu chảy nó quá nhanh, kim loại sẽ không kết hợp với than và nó sẽ trở nên không đủ độ cứng và mềm dẻo cần thiết để rèn kiếm. Hãy tiết kiệm ngọn lửa của ngươi, Vảy sáng ạ. Chúng ta sẽ dùng tới nó sau.” Nhiệt từ vật nung và nỗ lực kéo bễ làm người Eragon đẫm mồ hôi, cánh tay trần của nó sáng bóng dưới ánh lửa.
Kể từ bây giờ họ sẽ dừng bễ thổi, dùng xẻng thêm một lớp than lên ngọn lửa. Công việc cứ đều đều như thế làm Eragon quên cả thời gian. Lửa vẫn cháy đều dưới bàn tay kéo bễ thổi của Eragon, nó chú ý đến dáng vẻ thận trọng của Saphira. Nó bất chợt giật mình khi Rhunön nói: “Đủ rồi không cần bễ thổi nữa, nó có thể tự cháy”.
Lau trán xong, Eragon giúp Rhunön xúc những cục than nóng ra khỏi lò và nhúng vào một cái thùng đầy nước. Những cục than kêu xèo xèo và phát ra một làn hơi cay xè. Cuối cùng cũng xuất hiện những vũng kim loại trắng nóng hổi ở đáy phễu-xỉ và những chất cặn khác đã được lấy đi hết trong suốt quá trình nung. Rhunön thu thập kim loại với từng mẩu nhỏ màu trắng,sau đó đưa chúng tới chiếc ghế gần chỗ rèn. “Làm gì bây giờ”. Eragon hỏi.
“Giờ thì đợi”
“Đợi để làm gì”
Rhunön ngước nhìn bầu trời, nơi mà những vết sáng của mặt trời lặn sơn lên những mẳng mây rách nát đủ thứ màu đỏ, tím, vàng. “Phải đợi trời tối chúng ta mới làm tiếp vì lý do tạo màu cho thanh kiếm Thép sáng cần thời gian để nguội đi làm cho nó mềm ra và dễ để tạo hình.”
Với tay ra đằng sau, Rhunön cởi sợi dây buộc tóc, gom lại mớ tóc rồi buộc lại cho gọn gàn: “Trong thời gian chờ đợi, chúng ta hãy nọi chuyện về kiếm của cậu. Cậu dùng kiếm 1 tay hay hai tay?”
Eragon suy nghĩ một chút sau đó nói: “Không nhất thiết. Nếu phải lựa chọn tôi thích cầm kiếm 1 tay và tay kia cầm khiên. Tuy nhiên hoàn cảnh không phải lúc nào cũng thuận lợi, tôi thường phải chiến đấu mà không có khiên. Do vậy tôi thích cầm kiếm cả hai tay để có thể tung ra cú đánh mạnh hơn. Chuôi thanh Zar’roc đủ lớn để tôi cầm bằng tay trái, nhưng đầu chuôi có gắn thêm viên hồng ngọc nên không được thoải mái lắm, nó không tạo cho tôi cảm giác an toàn khi cầm nó. Vì vậy tốt hơn hết là chuôi nên dài hơn một chút.”
“Thế cậu muốn chính xác là một thanh kiếm dùng hai tay hả?”
Eragon lắc đầu: “Nó quá lớn khi đánh nhau trong nhà”
“Còn tùy thuộc vào sự kết hợp giữa lưỡi kiếm và chuôi kiếm, nhưng thông thường, cậu đã đúng. Cậu có muốn một thanh kiếm một tay rưỡi không (hannd-a-halfhand sword) ?”
Một hình ảnh chợt lóe lên trong đầu Eragon về thanh kiếm đầu tiên của Murtagh, nó cười Tại sao không nhỉ: “Đúng, thanh kiêm một tay rưỡi là hoàn hảo, tôi nghĩ thế.” “Thế cậu muốn lưỡi kiếm dài bao nhiêu?”
“không dài hơn thanh Zar’roc”.
“Uhm. Cậu muốn lưỡi kiếm thẳng hay lưỡi kiếm cong ?”
“ Thẳng.”
“Thế còn vấn đề phòng thủ?”
“Không vấn đề gì.”
Khoanh tay, cằm Rhunön chạm xương ức, mắt bà nặng trĩu, môi run run. “Thế độ rộng của bản kiếm, Nên nhớ, nó rất quan trọng để giữ cho thanh kiếm khỏi bị gãy. ”
“Dĩ nhiên là rộng hơn một chút so với Zar’roc”.
“Tại sao?”
“Tôi nghĩ trông nó như thế sẽ tốt hơn.”
Giọng khàn khàn một tiếng cười vỡ ra từ trong họng của Rhunön: “Nhưng bằng cánh nào có thể cải thiện được việc sử dụng kiếm?”
Lúng túng, Eragon không nói một lời nào
“Đừng bao giờ đề nghị ta thay đổi một vũ khí chỉ đơn thuần làm thay đổi diện mạo của nó.” Rhunön quở mắng “Vũ khí là công cụ, nếu nói nó đẹp thì là bởi vì nó hữu dụng. Một thanh kiếm mà không có đủ chức năng của nó thì trong mắt ta nó chỉ là một thứ xấu xí cho dù nó có hình dáng đẹp thậm chí được trang trí bởi những thứ trang sức đẹp mắt, quý giá.” Vị tiên già bĩu môi, ném chúng ra khỏi suy nghĩ: “Một thanh kiếm phải phù hợp trong một trận chiến sống còn, nó phải bảo vệ được cậu trong những đường hầm chật hẹp ở Farthen Dûr. Một thanh kiếm hội tụ đủ các yêu cầu, chiều dài vừa phải, chuôi kiếm sẽ không dài hơn mức bình thường.”
“Một thanh kiếm để kết liễu Galbatorix.” Eragon nói.
Rhunön gật đầu “Và nó cũng phải chống lại được phép thuật nữa…” Cằm bà lại chạm vào ngực. “Áo giáp đã có những bước cải tiến rất lớn trong những thế kỷ trước, bởi vậy vấn đề bây giờ là phải làm thế nào để chọc thủng được miếng kim loại trên áo giáp và đâm sâu vào bên trong. Hừm.” Từ một cái túi bên hông, Rhunön lấy ra một sợi dây rồi bà đo bàn tay và cánh tay của Eragon. Sau đó bà tìm một cái que cời than bằng kim loại và quăng cho Eragon. Nó bắt lấy bằng 1 tay và rướn lông mày nhìn Rhunön. Bà chỉ 1 ngón tay và nói “tiếp tục đi, hãy để ta xem cách cậu di chuyển khi trong tay cầm một thanh kiếm.”
Đi bộ xung quanh lò rèn, Eragon thầm cảm ơn bà vì làm nó gợi nhớ đến những động tác Brom đã dạy nó. Sau vài phút, nó nghe thấy tiếng leng keng của kim loại rơi trên đá, Rhunön ho và nói “Chẳng hy vọng gì.” Rhunön bước tới trước mặt Eragon, cầm một cái que cời than khác.Trán nhăn lại, đôi mắt quắc vẻ nghiêm nghị, khi bà ấy tung chiếc que cời than và hét: “Đỡ này, Khắc tinh của Tà thần.”
Chiếc que cời than nặng trịch của Rhunön rít lên trong không khí lao tới Eragon với một đòn mạnh phi thường. Nhảy qua 1 bên, Eragon né đòn tấn công. Chiếc que cời bật khỏi tay nó khi hai thanh kim loại chạm nhau. Mặc dù Rhunön không thực sự có kinh nghiệm về kiếm thuật, nhưng Eragon vẫn thấy bà là một đối thủ đáng gờm. Cuối cùng họ buộc phải dừng lại hai thanh cời quá mềm và đã bị cong oằn như cành của cây thủy tùng. Rhunön nhặt hai thanh cời đem vất vào chỗ để dụng cụ hỏng. Sau đó quay trở lại, bà tiên già hất cằm và nói “bây giờ thì ta biết chính xác hình dạng thanh kiếm của cậu rồi.”
“Nhưng bà sẽ làm nó như thế nào?”
Sự tinh nghịch lấp lánh trong con mắt Rhunön: “ta sẽ không làm. Chính cậu sẽ làm nó chứ không phải ta, khắc tinh của tầ thần ạ.”
Eragon há hốc mồm nhìn Rhunön một lúc, nó lắp bắp: “tôi hả. Nhưng tôi chưa bao giờ thử làm việc ở một lò rèn. Thậm chí tôi không hề có tí kỹ năng nào để rèn 1 con dao thông thường.”
Vẫn ánh mắt đó, Rhunön nói: “Ấy thế mà chính cậu sẽ là người làm thanh kiếm này đấy.”
“Nhưng bằng cách nào? Bà sẽ đứng cạnh tôi và đưa ra yêu cầu khi tôi nện búa hay sao?”
“Gần như thế” Rhunön nói: “Không, ta sẽ hướng dẫn động tác cho cậu thông qua ý chí để đôi tay của cậu có thể làm cái mà ta không thể. Đó không phải là một giải pháp hoàn hảo, nhưng ta nghĩ còn 1 lý do khác là tránh được việc phá vỡ lời thề của ta và nó cho phép ta tiếp tục nghề nghiệp của mình.”
Eragon tỏ ra lo lắng: “Nếu làm thế thì cũng có khác gì chính tay bà làm đâu.” Rhunön sầm mặt, giọng cộc cằn: “Thế cậu có muốn kiếm nữa hay thôi.” “Tất nhiên là muốn”
“Ngươi thật là phiền phức. Việc rèn kiếm do ngươi làm là khác vì ta nghĩ nó như thế là khác. Nếu không thì chính lời thề của ta sẽ ngăn cản trong quá trình làm việc. Bởi vậy, trừ phi cậu muốn trở về Varden với hai bàn tay trắng, bằng không cậu nên khôn ngoan im lặng mà làm theo.”
“Vâng thưa Rhunön.”
Họ đi tới chổ nung chảy, rồi Rhunön và Saphira chăm chú quan sát khối còn ấm của cục Thép sáng nằm dưới đáy cái phễu gạch. “Đập nó thành những miếng có kích thước ban đầu” Rhunön chỉ đạo, và lùi ra để giữ khoảng cách an toàn.
Nhấc chân trước lên, Saphira đập vào khối thép bằng tất cả sức lực. Đất rung lên, khối thép xuất hiện vài vết nứt. Phải mất ba lần Saphira mới làm thỏa mãn Rhunön về kết quả của mình.
Rhunön thu những miếng thép sắc nhọn lại đặt vào cái tạp dề và mang xuống cái bàn thấp cạnh chỗ rèn. Sau đó bà phân loại dựa theo độ cứng của từng miếng, rồi nói với Eragon, bà có thể quyết định màu cũng như cấu trúc kim loại “Cái thì quá cứng, cái thì quá mềm” bà nói “và trong khi ta tìm ra cái mà ta muốn thì nó cũng đòi hỏi về nhiệt độ nữa. Bởi vậy chỉ sử dụng những miếng thật sự thích hợp để rèn kiếm. Trên lưỡi kiếm thì phải cần thép cứng hơn”-bà chọn những miếng sáng màu, lấp lánh “Thật tốt để làm 1 cái lưỡi sắc bén”.phần giữa cả kiếm nên được làm bằng thép mềm hơn-bà chọn những miếng xám màu và không sáng “Thật tốt để chịu 1 cú đánh mạnh”. Trước khi kim loại được rèn thành hình dạng nhất định, chúng ta cần phải làm sạch nó khỏi cặn bẩn.
“Bằng cách nào?” Saphira hỏi.
“Ngươi sẽ thấy ngay thôi.” Rhunön đi tới cây cột chống đỡ mái nhà của lò rèn, ngồi dựa lưng vào nó, khoanh chân, mắt nhắm lại, khuôn măt điềm tĩnh bà hỏi: “Sẵn sàng chưa, Khắc tinh của Tà thần.”
“Sẵn sàng” Eragon trả lời mặc dù trong bụng nó thật hồi hộp và căng thẳng. Điều đầu tiên mà Eragon chú ý đến Rhunön là khi tâm trí họ gặp nhau giống những âm thanh nhỏ vang vọng xuyên qua bóng tối và những hình ảnh lộn xộn trong đầu bà ta. Tiếng nhạc chầm chậm và thận trọng đâu đó lóe lên một nốt lạ và lơ đãng như tiếng kèn kẹt trong não bà. Điều đó nói lên điều gì về tính cách của bà, Eragon không chắc chắn lắm nhưng những dư âm sợ sệt làm nó cân nhắc lại tới sự cho phép của tâm trí Rhunön để điều khiển con người nó. Nhưng khi nó nghĩ về Saphira đang ngồi bên cạnh, chăm chú nhìn nó, sự lo lắng trong nó giảm dần, những bức tường phòng thủ xùng quanh ý thức nó cũng mờ đi.
Cảm giác giống như có một tấm len thô ráp trượt trên da nó khi Rhunön dùng ý thức xâm chiếm lấy tâm trí nó, Ý thức bà len lỏi vào những nơi riêng tư nhất của cuộc đời nó. Nó rùng mình và mốn cắt đứt mối giao cảm ngay lập tức, nhưng sau đó giọng nói thô ráp của Rhunön vang lên trong đầu nó: “Thư giãn đi, Khắc tinh của Tà thần, tất cả rồi sẽ ổn thôi.”
“Vâng thưa Rhunön”.
Sau đó, Rhunön bắt đầu nâng cánh tay của Eragon lên, dịch chuyển chân của nó, xoay đầu nó và một mặt thử khả năng của cơ thể nó. Thật lạ khi Eragon cảm thấy đầu và tứ chi nó di chuyển ngoài sự điều khiển của chính nó, lạ hơn nữa là mắt nó bắt đầu cử động từ nơi này nhìn sang nơi khác, dường như họ đã hòa hợp làm một. Cảm giác không tự chủ được làm nhóm lên trong lòng Eragon một sư hoảng loạn đột ngột. Khi Rhunön điều khiển Eragon đi bộ về phía trước chân vấp vào một cái xó xỉnh nào đó trong lò rèn, và dường như nó sẽ ngã lăn ra ngay lập tức nếu như nó không phản xạ nắm lấy chiếc đe để giữ thăng bằng.
“Đừng cản trở. Nếu tâm trí cậu can thiệp không đúng lúc trong suốt quá trình rèn kiếm, cậu sẽ tự gây ra cho bản thân những tổn thương vĩnh viễn”.
“Vậy thì bà nên cẩn thận 1 chút” Eragon vặn vẹo.
“Kiên nhẫn nào, Khắc tinh của Tà thần. Sẽ dần tốt hơn, trời đã tối rồi.” Trong khi chờ những vệt sáng cuối cùng mờ dần đi trên nền trời nhưng tấm thảm nhung khổng lồ, Rhunön chuẩn bị sẵn sàng cho công việc, chuẩn bị rất nhiều loại công cụ khác nhau.. Sự vụng về ban đầu của bà thể hiện trên các động tác của cơ thể Eragon sớm biến mất, mặc dù một lần bà vung trượt cây búa nện xuống đầu ngón tay của Eragon đang để trên bàn. Sự đau đớn làm mắt Eragon ngấn lệ. Rhunön xin lỗi và nói: “Cánh tay của cậu dài hơn của tôi.” Một phút sau đó khi họ bắt đầu, Rhunön giải thích: “Thật là may mắn vì cậu có được sự nhanh nhẹn và sức mạnh của thần tiên, Khắc tinh của Tà thần ạ, bằng không chúng ta không thể hoàn thành công việc trong đêm nay đâu.” Lấy một mảnh Thép sáng cứng và một mảnh mềm mà Rhunön đã lựa ra, bà dặt chúng vào trong lò. Thuận theo yêu cầu của bà tiên già, Saphira đốt nóng thanh thép. Saphira hơi há miệng chỉ đủ nhỏ để phun một luồng lửa trắng xanh tập trung thành 1 dòng nhỏ, không để lửa tràn ra những chỗ khác của xưởng rèn. Ngọn lửa nhỏ ào ào tuôn ra thắp sáng cả không gian trước cửa với một luồng sáng màu xanh cực mạnh, nó làm cho vảy của Saphira phản chiếu và lóe lên những tia sáng chói.
Rhunön điều khiển Eragon đưa Thép sáng di chuyển trong ngọn lửa bằng một cái kẹp mỗi khi miếng kim loại này rực đỏ. Bà đặt nó lên chiếc đe, rồi vung hàng loại cú giáng từ chiếc búa tạ xuống, làm dẹt tấm kim loại thành những miếng mà có độ dày chỉ còn vẻn vẹn độ 1 Inch. Bề mặt của miếng kim loại nóng đỏ sáng rực lên bởi những hạt bụi sắt sáng chói. Mỗi khi bà hoàn thành một tấm, bà lại ném nó vào cái máng bên cạnh đựng đầy nước muối.
Tất cả các tấm Thép sáng đã được làm phẳng dẹt, Rhunön kéo những tấm này ra khỏi máng nước, nước muối làm nóng cánh tay Eragon, cọ rửa chúng bằng 1 viên sa thạch để loại bỏ hết những lớp cặn đen bám trên bề mặt. Việc cọ rửa làm lộ ra cấu trúc kết tinh như pha lê của những miếng kim loại, Rhunön chăm chú quan sát. Hơn thế nữa bà phân loại chúng theo độ cứng và sự nguyên chất thông qua cấu trúc tinh thể của chúng.
Eragon vẫn còn bị giữ bí mật với tất cả mọi ý nghĩ và cảm giác của Rhunön, bởi một số lý do khó nói giữa họ. Sự hiểu biết sâu sắc của bà làm nó bất ngờ, bà thấy được nhiều thứ bên trong kim loại mà nó nghĩ chúng không tồn tại, và sự dự liệu của bà có liên quan đến thái độ vượt ra ngoài sự am hiểu của nó. Nó cũng cảm thấy được bà không hoàn toàn hài lòng khi cầm búa để nện dẹt tấm kim loại.
Sự không hài lòng của bà vẫn tiếp tục gia tăng cho đến khi bà nói: “Ô hay. Hãy nhìn những vết lồi lõm trên tấm kim loại kìa. Ta không thể rèn một thanh kiếm giống như thế này được. Sự điều khiển của ta không phù hợp với cánh tay của cậu, và đôi bàn tay không đủ tốt để rèn một cây kiếm tốt.” Trước khi Eragon có thể cố gắng để giải thích lý do với Rhunön thì Saphira đã nói: “Những công cụ này không phù hợp, Rhunön ạ. Hãy chắc chắn rằng bà có thể tìm ra giải pháp để bù lại sự bất tiện này.”
“Bất tiện ư ?” Rhunön khịt mũi. “Ta không có gì hơn là một chú chim non mới ra ràng. ta là một kẻ lạ mặt sống trong một ngôi nhà lạ hoắc”. Vẫn cằn nhằn, bà hơi cúi đầu cân nhắc, thái độ là Eragon thấy khó hiểu. Rồi bà nói tiếp: “Được thôi ta có một giải pháp, nhưng ta cảnh báo trước, ta sẽ không tiếp tục nếu ta không duy trì được sự khéo léo cần thiết.”
Bà không giải thích thêm giải pháp đó là gì, nhưng tự từng người biết, đặt những tấm thép trên đe và bẻ gãy chúng thành những mảnh không rộng hơn cánh hoa hồng. Thu thập một nửa số miếng cứng hơn, Rhunön xếp thành 1 cục sau đó phủ đất sét để giữ chúng lại với nhau. Cục này tiếp tục dày lên và dài khoảng 7 gang tay, tương tự như một người thợ làm bánh mì thêm hoặc bớt những ổ bánh mỳ trong lò nướng. Rhunön đặt phần cuối của thanh dài trên vào giữa lò, và cho Eragon lùi lại xa nhất có thể trong khi một tay nó vẫn còn giữ cái tay cầm. Rồi bà đề nghị Saphira tiếp tục phun lửa, Khung cảnh giữa cánh cửa lại rực sáng bởi một thứ ánh sáng màu xanh cực mạnh. Nhiệt quá lớn đến mức Eragon cảm thấy như phần da trần của mình trở lên khô cứng, và nó thấy những viên đá Granit trong lò bị nung nóng ánh lên sắc vàng rực rỡ. Thép sáng có thể tan chảy trong nửa giờ nung trong than hồng, nhưng với ngọn lửa từ miệng Saphira chỉ cần một ít phút nó đã tan chảy trước khi nó trắng sáng. lúc ấy Rhunön yêu cầu Saphira ngừng thổi lửa, cả lò rèn chìm trong bóng tối sâu thẳm và tĩnh mịch khi Saphira đóng hai hàm răng của cô ả.
Điều khiển Eragon tiến lại gần mang thanh thép nóng cháy sáng gồm những mảnh Thép sáng và đất sét lại chỗ chiếc đe, dùng búa bà nện xuống để hàn những miếng đó lại với nhau thành một khối. Bà tiếp tục giáng những nhát búa xuống cục kim loại cho tới khi nó dài ra và xuất hiện một đường cắt ở giữa, sau đó lại hàn chúng lại với nhau. Những âm thanh vang vọng quanh những cái cây cổ thụ, lởn vởn quanh chiếc cửa lớn. Rhunön điều khiển Eragon mang Thép sáng quay lại chỗ lò, màu sắc của nó đã chuyển từ trắng sang vàng, và Saphira lại tiếp tục phun lửa lên kim loại. Sáu lần Rhunön đốt nóng và quyện thứ kim loại này, mỗi lần như thế nó trở lên mịn hơn và dẻo dai hơn, cho đến khi uốn cong nó mà không tạo ra vết nứt nào.
Khi Eragon quai búa lên kim loại, mọi hành động của nó đều do Rhunön điều khiển. Bà tiên già bắt đầu hát bằng cả tiếng của bà và cả tiếng của nó. Cùng nhau, hai giọng hát tạo thành bài hòa âm khó nghe quyện cùng tiếng búa nện. Một cảm giác ngứa ran chạy dọc xương sống nó khi nó cảm thấy luồng năng lượng đang chảy từ những lời hát ra miệng, và nó nhận ra rằng trong lời hát có chứa phép thuật của sự hình thành, định hình và gắn kết. Bằng hai giọng hát, Rhunön hát lên kim loại Thép sáng đang nằm trên đe, mô tả những đắc tính của nó, phân tích chúng theo những cách mà Eragon không tài nào hiểu được, và yểm vào trong Thép sáng những mạng lưới bùa chú phức tạp để giúp khối thép này trở lên chắc khỏe và dẻo dai hơn bất cứ thứ kim loại thông thường nào. Với cánh tay quai búa của Eragon, Rhunön cũng hát và dưới lời hát ngâm nga dịu dàng của bà mọi cú giáng xuống đều trúng đích.
Rhunön làm nguội thanh Thép sáng sau 6 lần tôi luyện. Bà lặp lại toàn bộ quá trình với nửa số miếng Thép sáng còn lại, tôi luyện giống hệt như thanh đầu tiên. Sau đó bà thu thập số miếng thép mềm, tôi luyện và hàn chúng 10 lần trước khi biến nó thành cái nêm ngắn và nặng.
Tiếp theo, Rhunön nhờ Saphira lại tiếp tục đốt nóng hai thanh thép vừa xong. Rhunön đặt hai thanh thép nóng rực cạnh nhau trên chiếc đe, ghì chặt chúng lại với nhau nhờ 1 cặp kìm kẹp, và sau đó xoắn chúng lại 7 lần. Những tia sáng lóe lên trong không khí khi bà nện búa xuống để hàn chúng lại với nhau thành một tấm duy nhất. Kết quả là một khối Thép sáng đã được Rhunön tôi luyện, hàn, và quại búa xuống làm cho nó tăng chiều dài tới 6 lần. Khi bà hài lòng với chất lượng của kim loại, bà đập dẹt thanh thép thành một miếng phẳng dày hình chữ nhật, cắt miếng đó dọc chiều dài bằng một cái đục vô cùng sắc bén, và uốn cong mỗi thanh ở chỗ giữa, và như thế chúng đã có chiều dài được định hình. Hình chữ V.
Qua đó, Eragon có thể ước tính bà sẽ hoàn thành tiến trình trong một giờ rưỡi nữa. Nó thật kinh ngạc về tốc độ của bà, thậm chí dường như chính cơ thể nó cũng làm nó ngạc nhiên. Chưa khi nào trước đây nó thấy một thợ rèn nào làm việc thoải mái như thế. Và bây giờ không còn việc gì khó khăn nữa, Rhunön tiếp tục hát để thêu dệt lên những cấu trúc phép thuật yểm vào trong Thép sáng và điều khiển cánh tay Eragon chính xác một cách tuyệt đối.
Giữa những tiếng động hỗn tạp, lửa, ánh sáng, và sự nỗ lực Eragon nghĩ thoáng nhìn thấy khi Rhunön nhìn toàn bộ lò rèn qua con mắt của nó, bà cái bóng mảnh mai đứng trước cửa. Saphira biết được sự nghi ngờ của nó, cô ả nói: “Eragon chúng ta không chỉ có 1 mình.”
“Họ là ai?” Eragon hỏi. Saphira gửi cho nó những hình ảnh ngắn, nhăn nheo của con mèo ma Maud, trong hình dạng 1 con người đứng giữa hai vị tiên, những người mà không cao hơn nó. Một trong số họ là nam, một là nữ, và cả hai đều đẹp lạ thường thậm chí đẹp theo cả tiêu chuẩn của loài tiên. Khuôn mặt nghiêm nghị của họ trông có vẻ uyên thâm và vô hại làm Eragon không thể đoán được tuổi của họ. Da họ nhợt nhạt, ánh bạc. Eragon chất vấn Rhunön về sự xuất hiện của hai vị tiên khi bà để cho cơ thể của nó được nghỉ ngơi một chút. Rhunön liếc nhìn họ, tạo cho nó có một cái nhìn dễ dàng hơn sau đó không phá vỡ bài hát của bà, bà nói bằng ý thức: “họ là Alanna và Dusan, chỉ là những đứa trẻ của Ellesméra. Thật là quá đỗi vui mừng khi cách đây 12 năm chúng được sinh ra.”
“Họ không giống các thần tiên khác mà tôi từng gặp.” Nó nói.
“Những đứa trẻ của chúng ta thật là đặc biệt, Khắc tinh của Tà thần ạ. Chúng đã được chúc phúc với những món quà của sức mạnh và vẻ đẹp thanh nhã. Ở độ tuổi của chúng ta không thể như thế mặc dầu phép thuật của chúng ta có từ rất sớm nhưng không bao giờ thực sự ruồng bỏ chúng.”
Rhunön không lãng phí thêm thời gian để nói chuyện. Bà điều khiển Eragon bê cái nêm làm bằng Thép sáng đặt vào giữa hai cái mảnh hình chữ V và nện búa lên chúng cho tới khi những mảnh này bao lấy cái nêm và chúng gắn sát vào nhau. Sau đó Rhunön hàn những mảnh này thành một khối và trong khi kim loại vẫn còn nóng bà bắt đầu kéo nó thành hình gần giống với một thanh kiếm. Miếng nêm mềm trở thành xương sống của kiếm, trong khi hai mảnh cứng trở thành hai lưỡi và mũi kiếm.Công việc trở nên chậm lại khi Rhunön quay trở lại với phần chuôi kiếm và thận trọng nện búa lên lưỡi kiếm để hoàn thành đến những góc cạnh cuối cùng và thật cân đối.
Rhunön nhờ Saphira nung thanh kiếm từng đoạn một, mỗi đoạn không dài hơn 6 hoặc 7 Inch, bằng cách Rhunön cầm kiếm kề sát một lỗ mũi của cô ả, bằng cách đó cô ả chỉ cho 1 ngọn lửa nhỏ đi qua. Bống tối lại bị đẩy lùi ra ngoài cửa mỗi khi ngọn lửa lóe lên.
Trố mắt nhìn, Eragon kinh ngạc khi đôi bàn tay nó đã biến cục kim loại thô thành một vũ khí chiến tranh hoàn hảo. Bằng tất cả các cú đánh, lưỡi kiếm trở lên sáng hơn, từ cục Thép sáng giờ chuyển thành một thanh kiếm mà Rhunön hằng ao ước. Cuối cùng công việc cũng sắp kết thúc, nằm trên chiếc đe là 1 thanh kiếm màu đen dài, mặc dù nó còn thô ráp và chưa hoàn thiện, nhưng nó tỏa ra một cảm giác đầy sát khí.
Rhunön cho phép cánh tay của Eragon được nghỉ ngơi một lúc khi chờ thanh kiếm nguội dần trong không khí. Rồi bà điều khiển Eragon mang thanh kiếm tới một góc khác của xưởng rèn, nơi mà bà đã sắp xếp 6 cái bánh xe khác nhau, những chiếc dũa, chiếc nạo và những hòn đá mài. Bà cố định thanh kiếm bởi hai khúc gỗ và sử dụng 1 giờ tiếp theo để bào mòn bề mặt thanh kiếm bằng một con dao bào, dùng dũa để tạo những đường viền cho thanh kiếm.Trong khi bào dũa, mỗi phát mài hoặc dũa dường như hiệu quả gấp hai lần bình thường, bà biết cách chính xác dùng những công cụ này để lấy đi bao nhiêu lượng thép cần thiết.
Trong khi dũa, Rhunön cho thêm một viên than vào lò, đợi một lúc cho lửa cháy to, bà trộn bùn than, đất sét mịn, tro sấy khô tạo thành thứ đá bọt để đánh bóng và chúng kết tinh thành một loái sáp. Dùng thứ đã pha chế được bà sơn lên thanh kiếm hai lần và nhiều hơn ở chỗ sống của thanh kiếm, bôi lớp dày hơn là đất sét nhão, thanh kiếm nguội dần và tạo một lớp mềm bao phía bên ngoài.
Đất sét nhẹ đi khi Rhunön sấy khô nhanh nó bằng một câu thần chú. Dưới sự điều khiển của bà tiên già, Eragon đi tới chỗ lò. Nó đặt thanh kiếm phẳng phía trên lớp đất sét trộn than, đẩy chiếc bễ thổi bằng tay còn lại, nó kéo chầm chậm hướng về phía hông của nó. Chỉ một lần mũi kiếm chạm lửa, Rhunön lật đi lật lại và lặp lại một cách tuần tự. Bà tiếp tục kéo lưỡi kiếm qua than hồng cho đến khi cả hai bên lưỡi đều đạt được màu vàng cam và sống kiếm màu sáng đỏ. Sau đó ,với một sự di chuyển nhịp nhàng, nâng thanh kiếm lên khỏi than hồng, Rhunön huơ huơ thanh kiếm trong không khí rồi nhúng nó vào trong cái máng đầy nước cạnh lò.
Một tiếng nổ của hơi nước thoát ra từ mặt nước, kèm theo tiếng xèo xèo và bọt xủi xung quanh thanh kiếm. Sau một phút, nước đục lắng xuống, Rhunön rút thanh kiếm ra bây giờ trông nó óng ánh màu ngọc trai xám. Mang trở lại ngọn lửa, bà nung toàn bộ thanh kiếm với nhiệt độ giống nhau để giảm sự vỡ, mẻ của lưỡi kiếm, sau đó lại đem nó đi làm nguội một lần nữa.
Eragon hy vọng Rhunön sẽ buông tha cho cơ thể của nó sau khi họ đã rèn, tôi thanh kiếm, nhưng ngạc nhiên thay, bà vẫn dùng ý chí để điều khiển các chi của nó. Rhunön điều khiển nó tắt lò, sau đó cho Eragon đi tới chỗ chiếc ghế dài với những cái dũa, cái nạo và những hòn đá mài. Bà để nó ngồi xuống và sử dụng những hòn đá mịn hơn để đánh bóng kiếm. Trong ký ức của bà, Eragon nhận ra bà thường sử dụng cả tuần hoặc hơn thế nữa để đánh bóng một thanh kiếm. Nhưng vì có bài hát phép thuật nên việc này chỉ mất 4 giờ, thêm vào đó cũng là để chạm trổ những đường nét tỉ mỉ cho lưỡi kiếm. Khi thép sáng trở lên mịn hơn, màu sắc thực sự của nó mới được bộc lộ, nhìn nó Eragon có thể thấy màu sắc lung linh mờ ảo, những đường viền hoa văn cực đẹp… Cơ bắp trên cánh tay phải Eragon nở ra khi Rhunön cầm cái chuôi kiếm được trang trí khá đẹp, và cái dũa mà nó vẫn cầm trên tay trượt khỏi chuôi kiếm bật ra khỏi các ngón tay của Eragon..
“Đủ rồi” Rhunön nói và rút khỏi tâm trí Eragon.
Bị sốc bởi sự đột ngột này, Eragon đung đưa trên ghế gần như mất thăng bằng trước khi lấy lại sự điều khiển các chi của mình. “Nhưng chúng ta chưa hoàn thành mà” nó miễn cưỡng, quay đầu lại phía Rhunön…
Rhunön đứng dậy và lắc đầu: “Ta không cần cậu giúp đỡ thêm nữa, Khắc tinh của Tà thần ạ. Hãy đi chợp mắt một chút cho tới khi bình minh lên.”
“Nhưng…”
“Cậu đã quá mệt rồi, và thậm chí với phép thuật của ta cậu cũng có thể sẽ làm hỏng thanh kiếm nếu cậu vẫn tiếp tục cố sức. Nào hãy để thanh kiếm đó, ta sẽ chăm sóc nó mà không sợ vi phạm vào lời thề đâu. Nào đi đi. Cậu sẽ tìm thấy một chiếc gi.ường trên tầng hai. Nếu cậu đói thì còn thức ăn trong phòng ăn đó.”
Eragon ngập ngừng, miễn cưỡng dời đi, gật đầu và rời khỏi chiếc ghế dài, lê bước chân vét cả bụi tung lên. Khi đi ngang qua bà, vẫy tay về phía Saphira để chào cô ả và quá mệt mỏi để nói thêm được một lời nào nữa. Quay lại cô ả làm tóc nó rối bù bởi một hơi thở trong không khí và nói: “Em sẽ canh chừng cho, cậu bé ạ.”
Eragon ngừng lại trên ngưỡng cửa nhà Rhunön và nhìn qua cánh cửa tối tới nơi mà Maud và hai vị tiên vẫn còn đứng đó. Nó giơ một tay lên chào, và Maud cười với nó, bộc lộ sự hóm hỉnh của cô ta bằng một cái răng nhọn. Một cảm giác ngứa ran trườn xuống cổ Eragon khi hai vị tiên trẻ nhìn chằm chằm vào nó, đôi mắt to và soi mói của chúng phát sáng lờ mờ trong bóng tối. Khi họ không còn có thêm cử động nào nữa, nó cúi đầu rảo bước vào trong, nằm ngay xuống cái đệm êm ả.
 
52. Kỵ Sĩ Thực Thụ
"Dậy đi tiểu ca," Saphira gọi. "Mặt trời đã mọc và Rhunön đã hết kiên nhẫn nổi rồi kìa." Eragon dựng bật dậy, quăng mền sang một bên dễ dàng như rời bỏ một giấc mơ. Tay và vai của nó đều đau nhừ sau khi dụng lực ngày hôm trước. Nó kéo ủng, háo hức mày mò buộc dây giầy, nắm lấy cái tạp dề cáu bẩn từ dưới sàn nhà rồi phóng xuống cầu thang được chạm trổ tinh vi đi tới cổng vào ngôi nhà cong của Rhunön.
Bầu trời bên ngoài trong xanh với những tia nắng ban mai đầu tiên bắt đầu rọi sáng, cho dù bóng đen vẫn còn bao phủ cánh cửa. Eragon nhìn thấy Rhunön và Saphira đứng ở ngay lò rèn bèn phóng nhanh tới đó, vừa đi vừa lấy mấy ngón tay chải tóc. Rhunön đứng tựa vào cạnh một chiếc ghế dài. Dưới hai mắt bà có quầng mắt đen và những nếp nhăn trên mặt đã hằn sâu hơn trước.
Trước mặt bà có một thanh kiếm được một miếng vải trắng phủ lên suốt chiều dài. "Ta đã làm được chuyện không tưởng được," bà nói, giọng khàn khàn rời rạc. "Ta đúc ra một thanh kiếm mà ta thề sẽ không làm. Hơn thế nữa, ta chỉ tốn chưa tới một ngày lại dùng không phải chính đôi tay của mình. Nhưng thanh kiếm này lại không cùn và cũng không phải là phế phẩm. Không! Đây là thanh kiếm tốt nhất mà ta rèn từ trước tới giờ. Ta có lẽ nên dùng ít pháp thuật trong giai đoạn đúc kiếm, nhưng đó chỉ là mối lo nhỏ, rất nhỏ so với sự hoàn hảo của thành phẩm. Xem đây!"
Bà Rhunön kéo góc miếng vải ra để lộ thanh kiếm.
Eragon há hốc miệng nhìn.
Nó vốn nghĩ chỉ trong vài giờ ngắn ngủi từ lúc nó tạm biệt bà, bà Rhunön chỉ có đủ giờ làm một cái cán đơn sơ và một thanh chắn ngang cho thanh kiếm và nếu có thể một cái vỏ kiếm gỗ bình thường. Thay vì vậy, thanh kiếm mà Eragon nhìn thấy trên ghế thật vô cùng đẹp như các thanh Zar’roc, Naegling, và Támerlein và theo ý nó, còn đẹp hơn những thanh đó nữa.
Bọc lưỡi kiếm làm một vỏ kiếm bóng lưỡng màu lục đậm như màu vảy trên lưng Saphira. Màu sắc lại điểm những đốm nhỏ như những đốm sáng ở đáy một ao nước rừng trong veo. Một miếng thép xanh sáng chạm theo hình một chiếc lá được hàn ở cuối vỏ kiếm trong lúc cổ vỏ kiếm được chạm trổ với những hình dây leo uốn lượn. Thanh ngang của kiếm được đúc thành hình cong cong cũng bằng thép xanh sáng và bốn sợi gân lớn cũng được dùng vật liệu tương tự ôm lấy một viên ngọc saphire lớn tạo thành núm chuôi kiếm. Cán kiếm dài độ một bàn tay rưỡi được làm bằng gỗ đen cứng.
Ráng nén lấy vẻ sùng kính, Eragon thò tay ra chạm thanh kiếm rồi ngừng lại, liếc nhìn bà Rhunön. "Cho phép con nha?" nó hỏi.
Bà gật đầu. "Con có thể dùng. Ta tặng nó cho con, Khắc Tinh của Tà Thần." Eragon nâng thanh kiếm khỏi ghế. Vỏ kiếm và gỗ cán kiếm lành lạnh trong tay nó. Qua vài phút, nó vẫn còn bị ngạc nhiên vì những chi tiết chạm trổ của vỏ kiếm, đồ bảo vệ tay và chuôi kiếm. Sau đó nó xiếc chặt tay quanh cán kiếm và tuốt kiếm khỏi vỏ. Như các bộ phận khác của thanh kiếm, lưỡi kiếm màu lục nhưng lại hơi xanh nhẹ hơn một chút; màu lục này giống nhưng màu vảy trên hốc cổ của Saphira thay vì là vảy lưng của cô nàng. Và cũng giống như thanh Zar'roc, thanh kiếm phát ra ánh sáng ngũ sắc khi Eragon di động nó, màu sắc này trở nên lung linh tạo thành nhiều sắc lục như toàn thân Saphira. Nhưng dù màu sắc có ánh cỡ nào, những đường vân trên lưỡi kiếm bằng thiết sáng kia vẫn rõ mồn một.
Eragon dùng một tay múa thanh kiếm lên không, rồi nó cười khi biết được thanh kiếm này nhẹ và nhanh cỡ nào. Toàn thân kiếm như là vật sống. Nó dùng hai tay nắm lấy thanh kiếm và vô cùng mừng rỡ khi thấy cán kiếm vừa khít với vòng ôm của tay. Nó đâm kiếm tới trước như đang tấn công một kẻ thù với niềm vững tin là kẻ đó sẽ chết dưới đòn tấn công này của nó.
"Đây," bà Rhunön nói, rồi chỉ về về phía ba thanh sắc dựng ngoài lò rèn. "Thử lên thân đám đó xem sao."
Eragon dùng toàn lực để tập trung tinh thần, rồi cất một bước tiến về phía những thanh sắt đó. Nó thét lên một tiếng, chém ra một nhát, tiện đứt cả ba thanh sắt. Lưỡi kiếm phát ra một thanh âm tinh khiết duy nhất rồi từ từ tan biến đi. Khi Eragon kiểm tra lại lưỡi kiếm chỗ vừa mới chạm phải sắt thì thấy sự va chạm không hề làm hư lưỡi kiếm một chút nào.
"Con có hài lòng chưa, Kỵ Sĩ Rồng?" bà Rhunön hỏi.
"Còn hơn là hài lòng nữa tiền bối Rhunön, Eragon vừa nói vừa cúi người cảm ơn bà. "Con không biết lấy gì để cảm ơn bà đã cho một món quà như thế này." "Con có thể giết Galbatorix để cảm ơn ta. Nếu có thanh kiếm nào được dành riêng để giết tên vua điên khùng đó thì đó chính là thanh kiếm này."
"Con sẽ cố hết sức tiền bối Rhunön.
Bà tiên gật đầu, tỏ vẻ hài lòng. "Được rồi, con cuối cùng rồi cũng có một thanh kiếm của riêng mình, điều đó đương nhiên phải thế. 'Bây giờ' con đã trở thành một Kỵ Sĩ Rồng thực thụ."
"Dạ," Eragon nói, rồi chỉa kiếm lên trời, nhìn nó một cách hâm mộ. "Bây giờ con thực thụ là một Kỵ Sĩ."
"Trước khi đi, còn một việc con phải làm," bà Rhunön nói.
"Ồ?"
Bà ta búng ngón tay về phía thanh kiếm. "Con phải đặt một cái tên cho nó để ta có thể chạm lưu ký tương ứng trên lưỡi kiếm và vỏ kiếm."
Eragon tiến về phía Saphira rồi nói, "Em nghĩ sao?"
"Em không phải là người xử dụng kiếm. Anh nghĩ sao cho đúng là được rồi." "Nhưng em cũng cho chút ý kiến đi!"
Cô nàng cúi đầu hửi hửi thanh kiếm rồi nói, "Răng ngọc xanh là tên em sẽ gọi hay là Móng Xanh Đỏ."
"Kêu vậy đối với con người thì hơi lố bịch."
"Hay gọi là Tàn Phá hay Rọc Ruột? Hay có lẽ là Móng Trận hay Gai Lộng Lẫy hay Tàn Chi Kiếm? Anh có thể gọi nó là Khủng Bố hay Đau Đớn hay Đồ Cắn Tay hay Luôn Bén hay Vảy Lăn Tăn, cái này là theo đường vân trên sắt kiếm. Lại còn có Lưỡi Tử Thần hay là Thần Tiên Thiết hay Sao Sắt hoặc nhiều tên khác nữa."
Cô nàng phun ra một tràng khiến Eragon ngạc nhiên. "Em thật có biệt tài cho cái vụ này," nó nói.
"Đặt ra mấy cái tên tào lao dễ lắm. Nhưng đặt tên cho đúng lại có thể làm khó ngay cả đối với thần tiên."
"Hay là Giết Vua đi?" Nó hỏi.
"Rồi nếu chúng ta thật giết được Galbatorix. Sau đó thì sao? Anh nghĩ thanh kiếm này không còn chỗ để dùng à?"
"Ừm," Eragon dựng thanh kiếm dọc theo chân trái của Saphira rồi nói, "nó có cùng màu như em... Anh có thể đặt tên nó theo em."
Saphira làu bàu. "Không được."
Hắn cười phản kích lại, "Em chắc không? Thử nghĩ lúc chúng ta ra trận và..." Cô nàng cắm móng xuống đất. "Không được. Em không phải là thứ đồ mà anh vung vẩy chọc cười được."
"Không phải vậy, em nói đúng rồi. Anh xin lỗi... À, hay là gọi nó là Hy Vọng theo cổ ngữ đi? Za'roc có nghĩa là 'Khốn Cùng', vậy nếu anh đặt tên kiếm ngược lại là đúng rồi." "Lại còn có vẻ tao nhã nữa," Saphira nói. "Nhưng anh thật có cho kẻ địch hy vọng không vậy? Anh có muống đâm Galbatorix bằng hy vọng không?"
"Chơi chữ kiểu này cũng thú đấy chứ," nó cười khúc khích.
"Một lần thôi, là đủ, nhưng không được nữa."
Cảm thấy khó xử, Eragon chỉ nhăn mặt vuốt cằm, ngồi ngắm nhìn những tia nắng loé lên trên thân kiếm lóng lánh. Khi nhìn kỹ vào thân sắt, mắt nó vô tình nhìn thấy mô hình lấm tấm nằm ngay chỗ giao điểm giữa lưỡi kiếm và thân kiếm, rồi nó nhớ lại lời ông Brom thường dùng mỗi khi mồi lửa hút thuốc, cảnh tượng đã từng được Saphira gợi nhớ lại. Rồi Eragon lại nghĩ về Yazuac, nơi mà nó lần đầu xử dụng pháp thuật, và cũng nhớ tới cuộc song đấu với Durza tại Farthen Dûr, và ngay lúc đó nó biết chắc nó đã kiếm được tên cho thanh kiếm.
Eragon bàn thảo với Saphira và khi cô nàng đồng ý với lựa chọn này, nó nâng thanh kiếm lên ngang vai và nói, "Ta đã quyết định. Kiếm kia, ta đặt tên ngươi Brisingr!" Với tiếng gió lồng lộng thổi, lưỡi kiếm đột nhiên phụt lửa, một màng lửa màu lục saphire bao trùm quấn lấy lưỡi sắt vô cùng bén này.
Giật mình thét lên, Eragon buông thanh kiếm và nhảy về phía sau vì sợ bị phỏng. Thanh kiếm rơi xuống đất rồi mà vẫn còn cháy, ngọn lửa trong mờ đốt cháy đen một khoảng cỏ xung quanh. Đến lúc đó Eragon mới nhận thức ra được chính bản thân nó đã truyền năng lực để tạo ra ngọn lửa không tự nhiên này. Nó liền lập tức ngừng pháp thuật và ngọn lửa liền biến mất khỏi thanh kiếm. Vẫn còn thắc mắc về việc tại sao pháp lực được thi triển mà không phải do cố ý, nó lại nhặt thanh kiếm lên rồi lấy ngón tay gõ gõ lên lưỡi kiếm. Lúc này lại không thấy thanh kiếm bị nóng nữa.
Bà Rhunön cau mặt đi tới, giựt lấy thanh kiếm từ tay Eragon và xem xét lại thanh kiếm kỹ lưỡng từ mũi tới chuôi kiếm. "Con may mắn là ta đã dùng pháp lực bảo bọc thanh kiếm tránh sức nóng và va chạm nặng, nếu không là con đã làm trầy kiếm và hủy đi tâm linh của nó. Đừng bao giờ làm rơi kiếm lần nữa, Khắc Tinh của Tà Thần, cho dù là ta có biến thành rắn, ta cũng sẽ lấy lại thanh kiếm và thế vào đó cho con một cây búa cùn." Eragon xin lỗi và có vẻ như mắc cỡ hẳn đi, bà Rhunön thấy vậy bèn đưa thanh kiếm lại cho nó. Bà hỏi, "con có cố ý khiến lửa bốc cháy lên thanh kiếm không vậy?" "Dạ không," Eragon nói mà không biết làm sao để giải thích chuyện vừa xảy ra. "Nói một lần nữa đi." Bà Rhunön ra lệnh.
"Cái gì ạ?"
"Cái tên đó, cái tên thanh kiếm đó, nói lại đi."
Vừa cầm thanh kiếm cách xa người hết cỡ, Eragon vừa hét lên, "Brisingr!" Một cột lửa phực lên bao trùm lấy lưỡi kiếm, sức nóng của nó phà lên mặt Eragon. Lần này Eragon cảm nhận được pháp lực của mình có bị rút đi một chút. Một lúc sau, nó dập tắt ngọn lửa không khói này.
Eragon lại kêu lên một lần nữa, "Brisingr!" Và lần này cũng vậy, lưỡi kiếm sáng mờ ánh màu lục, với ngọn lửa như quyện quanh như những cái lưỡi đang thè ra.
"À đây mới là một thanh kiếm vừa cho một Kỵ Sĩ và một con rồng!" Saphira hài lòng nói. "Thanh kiếm này phóng lửa dễ dàng như ta vậy."
"Nhưng ta đâu có cố ý phóng pháp lực!" Eragon phản đối. "Ta chỉ là gọi tên Brisingr và..." Nó vừa nói tới đó thì thanh kiếm lại phóng lửa ra, rồi nó lại phải dập tắt ngọn lửa tính ra là đã lần thứ bốn.
"Cho ta thử được không?" bà Rhunön hỏi, giơ tay về phía Eragon. Nó đưa bà thanh kiếm và bà ta cũng nói, "Brisingr!" Lưỡi kiếm như rung lên nhưng ngoài chuyện đó ra, nó cứ nằm đó vô tri vô giác. Bà ta chỉ lẳng lặng đứng đó suy nghĩ, rồi trả lại thanh kiếm cho Eragon nói, "ta chỉ có thể đưa ra hai giải thích cho sự kỳ diệu này. Một là vì con có tham gia vào việc rèn kiếm, con đã thấm vào thân nó với tính chất của con vì thế nó đã hòa hợp được với nguyện vọng của con. Một giải thích khác là con đã khám phá ra được cái tên thật của thanh kiếm. Có lẽ cả hai giải thích đều đã xảy ra. Sao cũng được, con đã chọn tốt lắm, Khắc Tinh của Tà Thần. Brisingr! Đúng lắm, ta thật thích cái tên này. Đây là cái tên rất tốt cho một thanh kiếm."
"Một cái tên rất tốt," Saphira cũng đồng ý.
Sau đó bà Rhunön đặt tay lên giữa lưỡi kiếm Brisingr và lẩm bẩm một câu thần chú. Một chữ Lửa theo tiếng Thần Tiên hiện lên trên hai bên lưỡi kiếm. Bà cũng làm y như vậy cho vỏ kiếm.
Eragon lại cúi người chào vị nữ thần tiên này, cả nó và Saphira đều lộ vẻ chân thành cảm ơn với bà. Khuôn mặt già cả của bà Rhunön hiện lên một nụ cười, và bà dùng ngón cái chai sần rờ lên chân mày của mỗi đứa. "Ta rất mừng là ta có thể giúp đỡ các Kỵ Sĩ Rồng thêm một lần nữa. Đi đi, Khắc Tinh của Tà Thần. Đi đi, Vảy Sáng. Hãy quay lại nơi người Varden và khiến cho kẻ thù của các con trốn chạy trong sợ hãi khi bọ chúng nhìn thấy khả năng của thanh kiếm này."
Eragon và Saphira chào tạm biệt bà, rồi cả hai cùng nhau rời khỏi nhà bà Rhunön , Eragon ôm lấy thanh Brisingr trong tay như thể đang bế một em bé sơ sinh.
 
Quay lại
Top Bottom