Duyên kì ngộ-trang trang [hoàn]

ử Ly cau mày: “Thực ra bên ngoài rất nguy hiểm, mấy chiêu quyền cước của muội có thể ứng phó người không biết võ công, nhưng nếu gặp người có võ công thực sự thì khỏi nói”. A La thở dài, nghĩ tới Lưu Giác biết khinh công, lại biết điểm huyệt, Tử Ly cũng có khinh công nhảy vọt qua tường, trong khi bản thân hì hục trèo tường vất vả, “Đại ca, nhưng muội rất muốn chu du khắp nơi, huynh dạy muội cách kiếm tiền được không?”.
Tử Ly nhìn đôi mắt cầu khẩn của A La, không thể nào từ chối, cười nói: “Vậy muội biết những gì, nói huynh nghe nào”.
Mắt A La sáng lên: “Muội biết nấu ăn, chắc chắn ngon hơn ba món đặc sắc ở Thiên phong lầu”.
Tử Ly lắc đầu, không tin: “Nấu cho huynh ăn huynh mới tin”.
A La vui sướng nhảy lên, hỏi: “Đại ca, nếu muội nấu ngon hơn Thiên phong lầu, huynh có chịu bỏ tiền mở tửu lầu cho muội làm không, bạc kiếm được chúng ta chia đôi”.
Tử Ly không nhịn được cười: “Được, cứ quyết như vậy, ta đi thôi”.
A La vui sướng nhảy chân sáo, nhất thời quên mất Tử Ly cũng biết khinh công, kéo chàng ta trèo tường. A La mấy bước đã lên mặt tường, vẫy Tử Ly: “Đại ca, lên đi, mau lên!”.
Tử Ly ngẩng đầu nhìn A La, lúc đó trông nàng như một tiểu đồng lanh lợi. Tiếng sáo u hoài không hợp lứa tuổi nàng, nhưng chỉ cần nàng cất tiếng cười là tựa như thủy tinh trong vắt, không chút sầu vương. Tử Ly thấy lòng xao động, bỗng muốn cùng nàng vượt tường. Chàng sải mấy bước đã tới mặt tường, thấy A La mang ra chiếc thang dây, chàng cười to, ôm lấy nàng cùng vọt ra ngoài.
A La cười hớn hở: “Vui quá, quên mất đại ca biết khinh công”.
A La không cải trang, Tử Ly gọi tùy tùng thuê chiếc kiệu, nói với nàng: “Khi nào muội cải nam trang, đại ca sẽ dạy muội cưỡi ngựa”.
 
Ngồi kiệu cũng tốt, vừa đi vừa thong thả ngắm cảnh bên đường, A La ngồi trong kiệu vén rèm, háo hức nhìn ra. Tử Ly cưỡi ngựa đi bên cạnh, thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn nàng, A La bịt miệng cười thầm, dáng chàng cưỡi ngựa tuyệt thật. Đến Thiên phong lầu, không biết Tử Ly nói gì, một vị sư phụ ân cần nói với A La: “Tiểu thư, mời theo tôi vào bếp”. Nàng nhìn Tử Ly. Chàng ngồi bên bàn giả bộ nghiêm nghị: “Khó ăn quá là không được đâu”.
A La đắc ý ngẩng đầu, đi theo sư phụ vào trong. Gần một canh giờ sau mới bê đồ ăn lên bàn.
“Muội vào bếp lâu như vậy, chỉ làm được món canh suông thế này ư? Món này chẳng phải chỉ cần cho rau vào nồi đun sôi là xong hay sao?”.
A La bĩu môi: “Tam tuyệt mỹ vị của Thiên phong lầu còn lâu mới sánh được, cái hay của món này là ở chỗ, mới thoạt nhìn thực khách cứ tưởng chỉ là canh suông bình thường. Đại ca nếm đi”.
Tử Ly cười, múc một thìa đưa lên miệng. Thấy chàng cau mày, rồi vẻ kinh ngạc sung sướng dần dần hiện trên khuôn mặt: “Thiên phong lầu phen này phải đóng cửa thôi”. Chàng nhìn A La, mắt đầy tán thưởng: “Vị thanh mà ngọt lịm, thơm ngon khác thường, làm thế nào vậy?”.
A La bắt đầu tán: “Rau cải trắng chỉ lấy phần nõn trong cùng có màu hơi vàng, để lửa vừa chín tới không được nát. Nước dùng được hầm bằng gà già, vịt già, móng giò, xương sườn, gân bò khô, lại thêm rất nhiều gia vị, mới có được vị ngọt mát như vậy, lại phải hớt hết bọt, sao cho nước dùng trong vắt không một mảy may váng mỡ. Một canh giờ ư? Là muội sợ huynh đợi lâu sốt ruột mới làm vội như thế”.
Tử Ly cười: “Là đầu bếp của tướng phủ dạy muội sao?”.
“Bí mật, chuyện này không thể tiết lộ”.
Tử Ly bắt đầu vừa húp nước canh vừa ăn rau cải. Nhìn chàng ăn rất ngon lành, lòng nàng cũng thấy vui vui. A La nhớ lại, trong thời hiện đại có lần được ăn món canh này, lúc đó không biết nguồn cơn, chỉ thấy một bát canh bán những mười tám đồng thì quá đắt, suýt cãi nhau với chủ quán. Sau mới biết đó là đề thi dùng cho đầu bếp cấp một, bèn đi học nấu bằng được.
 
“Quá ngon, quá ngon, tốt quá, huynh sẽ mở tửu lầu, muội không cần động tay, dạy nhà bếp làm là được. Một bát canh bán mười lượng bạc, chúng ta mỗi người một nửa”.
A La kinh ngạc: “Đắt vậy sao? Có người ăn không?”.
“Muội yên tâm, của hiếm là của quý. Người giàu sẽ thích món này”.
A La nhẩm nhanh con tính, nếu vậy, không đầy mấy tháng mình đã trở thành triệu phú thời cổ đại rồi! Có thể rời tướng phủ, có thể đi ngao du tứ xứ, có thể tự do! A La chắp hai tay, mắt lim dim, miệng thầm thì: “Thời cổ đại cái gì có thể giúp kiếm được nhiều tiền nhất? Trí tuệ hiện đại! Cảm tạ thần linh đưa tôi đến đây mà không cướp đi ký ức của tôi, cảm tạ bà mẹ luôn bận rộn để tôi sống tự lập, cảm tạ bà chủ quán đã thu mười tám đồng bát canh…”.
Tử Ly cảm thấy buồn cười nhìn A La xúc động cầu khấn, khuôn mặt nhỏ nhắn như phát sáng, hàng mi rung rung như cánh bướm sắp bay, trong lòng trào lên nỗi thương cảm, chàng thở dài, nắm tay A La nói giọng chân thành: “A La, để đại ca chăm sóc muội được không?”.
A La sững sờ nhìn chàng. Trong mắt Tử Ly có một thứ khiến nàng giật mình, khiến nàng mơ hồ, khiến nàng lờ mờ hiểu ra, giống như khẩn cầu, giống như thương xót, giống như… Nàng kinh ngạc, cúi đầu cười: “Muội không ngờ ở đây muội lại gặp được một đại ca tốt với muội như vậy! Hy vọng huynh vẫn là bằng hữu cùng phường làm ăn của muội”.
Tủ Ly vừa bực vừa buồn cười, ngẫm nghĩ có lẽ là do nàng ấy còn nhỏ, không hiểu ý mình. Đang định mở miệng thì có tiếng cười lạnh lùng vang lên: “Thì ra đã tìm được chỗ dựa mới ngang nhiên như vậy, khiến tiểu vương gia ta phí công chờ đợi!”.
Giọng nói lọt vào tai A La giống như tiếng sét, nàng sợ đến mức toàn thân run rẩy, ra sức trấn tĩnh, ngoái đầu nhìn, người đứng ở chân cầu thang chẳng phải Lưu Giác sao? Hắn ta đứng tựa vào đó một cách uể oải, dáng người thanh, ngũ quan tuyệt đẹp có một vẻ tuấn tú rỡ ràng. Chỉ có điều mặt cười nhưng mắt lạnh như băng.
Tử Ly nói: “Tiểu vương gia cũng đến Thiên phong lầu dùng cơm?”.
 
“Vốn định thế, nhưng bây giờ không muốn nữa, cáo từ!”. Trong ngữ khí của Lưu Giác đã đặc mùi thuốc súng, lúc bỏ đi, A La cảm thấy ánh mắt lạnh băng của hắn ta dừng lại trên người mình, bỗng thấy tóc gáy dựng ngược.
Tủ Ly nhìn vẻ khiếp sợ của A La, không nén nổi tò mò nên vội hỏi: “Hôm qua không đến chỗ hẹn với người ta sao?”.
Tử Ly quen Lưu Giác ư? Phải một lúc lâu sau A La mới phục hồi thần trí: “Trong Đào hoa yến, muội không biết chàng ta là ai, đánh chàng ta ngất xỉu, trói vào cây, cướp bạc của chàng ta. Trong dạ tiệc thưởng nguyệt trung thu vừa rồi bị chàng ta nhận ra, hôm qua hẹn muội đến ven sông nam thành tỉ thí, nhưng nhà có việc muội không đi được”.
Tử Ly càng nghe, nụ cười trong mắt càng lộ rõ, không ngờ người như Lưu Giác lại bị chết đứng trong tay một cô nương bé nhỏ. Hình dung ra cảnh đó, không nhịn nổi, chàng cười ngất: “A La muội thú vị thật! Đừng sợ! Đại ca sẽ bảo vệ muội”.
A La nhìn Tử Ly thần sắc không đổi, cảm thấy tự tin hơn nhiều, nhưng cũng lại càng thấp thỏm, không biết thân thế người này lớn thế nào, dám chọc giận tiểu vương gia của phủ An Thanh vương. Tử Ly không nói, nàng cũng không tiện hỏi, thầm nghĩ, dù thế nào Lưu Giác cũng là tiểu vương gia của An Thanh vương, cháu ruột Ninh vương, loại công tử quý tộc này là không bao giờ chịu nổi ấm ức. Oán thù nên cởi không nên buộc, vẫn nên tìm Lưu Giác giải thích rõ, ngộ nhỡ liên lụy đến Tử Ly thì phiền lắm.
Chú thích:
8. Lương đệ tức là thiếp của hoàng thái tử; là người có phẩm cấp tương đối cao trong số thiếp của thái tử, vị trí chỉ đứng sau thái tử phi.
9. Tiếng Trug Quốc “Sơn đệ” đọc là shan di, đồng âm với di san, nghĩa là người con thứ ba.
 
Chương 8 Lưu Giác trở về vương phủ, hầm hầm tức giận, triệu tập đám thuộc hạ tỉ thí với mình, chàng ra đòn mạnh như gió lốc, không chút nương tay, đến khi đám thuộc hạ bị đánh ngã ngục, nằm ngổn ngang trên đất, tay chàng đã tê cứng mới dừng lại, không thèm nhìn họ một cái, lập tức bỏ về phòng, tức giận, trợn mắt nhìn bức họa trên tường.
Lưu Anh nơm nớp liếc nhìn khuôn mặt tái xanh, sắt lại của chủ nhân, không hiểu tại sao chúa thượng xưa nay vốn dĩ vui buồn ít bộc lộ, vậy mà hôm nay lại nổi giận đùng đùng như thế, bèn nói nịnh một câu: “Chúa thượng, tìm được cô nương đó rồi định báo thù thế nào?”.
Lưu Giác nghe vậy, hỏa khí lại bốc ngùn ngụt, liếc xéo Lưu Anh cười khẩy: “Tam tiểu thư của Lý tướng, em gái thứ phi tương lai của thái tử, có mối quan hệ không bình thường với tứ hoàng tử, nhà ngươi thấy tiểu gia ta nên báo thù thế nào?”.
Lưu Anh càng nghe càng thấy nóng tai, tiểu a đầu đó thân phận quả không nhỏ, chẳng trách to gan dám đánh ngất tiểu vương gia. Chuyện này không thể công khai ra tay, xem ra tiểu vương gia đang điên đầu vì thế. Nghe nói nàng ta có mối quan hệ không bình thường với tứ hoàng tử, tự dưng trở nên lắm lời, hỏi: “Tứ điện hạ chẳng phải được hoàng thượng ban hôn, sắp cưới Cố tướng thiên kim hay sao?”.
Trong Đào hoa yến, Lưu Giác sau khi nghe Cố Thiên Lâm chơi đàn, rất có cảm tình với cô nương lan tâm tuệ trí này, lại thêm trong dạ tiệc thưởng trăng đêm trung thu nhìn thấy Cố Thiên Lâm múa rất đẹp, đã âm thầm sinh lòng mến mộ. Lúc đó, do có việc phải đi, chàng không kịp nghe tiếng đàn của Lý Thanh Lôi, sau đó nghe tin thái tử động lòng sâu sắc bởi khúc “Thu thủy” của Lý Thanh Lôi, chàng có phần không tin. Trong dạ tiệc trung thu, chàng một mình đi tìm Cố Thiên Lâm, loanh quanh thế nào lại gặp nha đầu đã đánh ngất mình. Hàng ngày chàng trầm ngâm rất lâu trước bức họa, nhìn ngắm Cố Thiên Lâm, nhưng lại không nhận ra đôi mắt đẹp lóng lánh như thủy tinh kia đã in sâu vào tâm trí mình tự lúc nào. Hôm nay Cố Thiên Lâm được ban hôn cho tứ hoàng tử, Lý Thanh La cũng bám lấy chàng ta, Lưu Giác sao không tức giận?
 
Lưu Anh thấy tiểu vương gia đang nhìn ngắm bức họa trên tường, người trong tranh chính là Cố Thiên Lâm, bất giác lấy tay tát vào mặt mình, hối hận cáo tội: “Thuộc hạ nói bậy, tội đáng muôn chết!”.
Lưu Giác nghĩ một hồi mới nảy ra chủ ý: “Thôi được, chuẩn bị ngựa, ta muốn đến thăm Lý tướng”.
Lý tướng thấy Lưu Giác xuất hiện, trong đầu lập tức nảy sinh bao suy đoán. An Thanh vương chiến công hiển hách, bao năm lãnh binh đồn trấn biên thành phía tây, vương phủ trên dưới đều do tiểu vương gia này sắp đặt, cai quản đâu ra đấy, có thể thấy người này năng lực không tầm thường.
Thanh Lôi sắp được gả cho thái tử, bản thân mình đương nhiên dốc lòng ủng hộ Đông cung. Bây giờ triều đình đa phần hướng về thái tử, nhưng có một bộ phận quần thần lại ủng hộ tứ hoàng tử. Thái tử là đích tử do đương kim hoàng hậu sinh ra, tứ hoàng tử là đích tử của hoàng hậu quá cố Trần thị. Ninh vương vẫn tình sâu nghĩa nặng đối với cố hoàng hậu Trần thị, do tổ chế quy định lập con trưởng kế vị và thế lực bên ngoại của đương kim hoàng hậu nên tuy đã lập Lưu Giám làm thái tử, nhưng vẫn âm thầm yêu thương tứ hoàng tử. Ái nữ của Vương thái úy trở thành thái tử phi, tứ hoàng tử rõ ràng ở vào thế bất lợi, Ninh vương lập tức ban ái nữ của Cố tướng cho tứ hoàng tử. Đế tâm khó dò, nếu Ninh vương có ý sau đại hôn lễ sẽ cho tứ hoàng tử kế vị, thì ý kiến của An Thanh vương hết sức quan trọng. Chỉ cần An Thanh Vương ủng hộ tứ hoàng tử, thế lực hai vị hoàng tử tương đương, nhưng nếu ông ta ủng hộ thái tử, tứ hoàng tử trong tay không nắm binh quyền, đương nhiên không có cơ hội. Lúc này tiểu vương gia của An Thanh vương lại đến thăm, không biết có dụng ý gì?
A La vừa từ bên ngoài về, nghe gia nhân truyền báo đến đại sảnh Lý lão gia muốn gặp nàng. Không biết xảy ra chuyện gì, A La đi vào đại sảnh trang nghiêm hành lễ. Vừa nhìn thấy Lưu Giác ngồi một bên cười như một con hồ ly, liền biết chàng ta đến tìm mình, nàng giả bộ lần đầu nhìn thấy, cúi đầu cụp mắt đứng yên.
 
Lý tướng cười khà khà: “A La, tiểu vương gia trong đêm hội yến trung thu nghe con thổi sáo, rất tán thưởng tiếng sáo bay bổng tuyệt tác của con, vô cùng ngưỡng mộ. Tiểu vương gia cũng tinh thông âm luật, muốn mời con tham gia dạ yến tối nay, cùng thổi sáo ngắm trăng, tâm sự hàn huyên, con đi đi”.
Nói dối! A La thầm mắng, nhưng miệng lại lễ phép, ngọt ngào đáp lời: “Cho phép A La trở về sửa sang y phục”. Cúi chào xong, vội lui gót. Ra khỏi phòng lớn, A La thầm thở than, tiểu vương gia này tâm địa hẹp hòi, đúng là tiểu nhân! Chỉ có tiểu nhân mới dùng thủ đoạn bỉ ổi như vậy. Hắn ta, hắn ta và Lý tướng là rắn, chuột cùng một ổ, đều xấu bụng! Phí hoài cái diện mạo đẹp đẽ! Nhìn thấy hắn ta là thấy buồn lòng.
Lý tướng và Lưu Giác nhìn nhau cười, thâm tâm mỗi người đều có toan tính riêng.
Vừa ra khỏi tướng phủ, A La vén rèm kiệu lạnh lùng hỏi Lưu Giác: “Tiểu vương gia định đưa tiểu nữ đi đâu?”.
Lưu Giác cưỡi ngựa đi bên cạnh, thấy nàng hỏi như vậy, tỏ vẻ lạ lùng: “Đi dự tiệc, thổi sáo, nói chuyện hàn huyên”.
A La nghiến răng, sao có chuyện đơn giản thế. Quả nhiên kiệu bỗng dưng bị rung lắc dữ dội, A La bị lắc đến tức ngực, lồng ngực thúc từng cơn, miệng buồn nôn, hít sâu một hơi mới từ từ dịu xuống, nhắm mắt tưởng tượng ra các món ăn, lẩu, cá nướng cay, đậu phụ, bột chua cay… tất cả những thứ có mùi có vị. Lại bắt đầu tưởng tượng tửu lầu mình với Tử Ly hợp tác mỗi tháng thực khách tấp nập, ngân lượng chảy vào túi như nước. Hình dung cảnh tượng đưa thất phu nhân và Tiểu Ngọc đi chu du những miền đất lạ từng đọc trong sách, cố gắng di chuyển sự chú ý. Tuy nhiên, kiệu lại như dốc ngược, đầu lộn xuống dưới. Nàng biết đó là Lưu Giác giở trò, cố nín nhịn, nhưng cuối cùng vẫn phải kêu lên: “Dừng kiệu, dừng kiệu, ta muốn nôn!”.
 
Kiệu dừng, A La xông ra ngoài, chạy đến một góc nôn thốc nôn tháo. Lưu Giác trên lưng ngựa tỏ vẻ phẫn nộ: “Còn đi hơn nửa canh giờ nữa mới đến nơi, các người khiêng thế nào vậy?”. Chàng cố ý bảo phu kiệu khiêng kiểu đó, để A La bị rung lắc, khốn khổ phải cầu xin chàng tha tội.
A La nôn xong, cảm thấy dễ chịu hơn nhiều. Ngẩng nhìn thấy Lưu Giác bề ngoài tỏ ra tức giận mắng phu khiêng kiệu, nhưng trong mắt đầy vẻ đắc ý, biết chàng cố tình, lại nghe nói còn nửa canh giờ nữa. Một tiếng đồng hồ! A La nổi cáu, ngươi đã muốn thấy ta khốn đốn, vậy sẽ để cho ngươi nhìn đã mắt, ta sẽ nôn suốt đường cho ngươi xem, ta quyết không tỏ ra yếu thế! Nàng bình tĩnh ngồi vào kiệu: “Đi thôi, kẻo lỡ mất bữa tiệc tối của tiểu vương gia lại đắc tội”.
Lưu Giác ngớ người, liếc thấy các phu kiệu tỏ ra áy náy, không nỡ, bực mình quất ngựa phóng thẳng: “Gặp nhau ở ven sông Đô Ninh, trên thuyền Lưu Hương”.
Chàng vừa đi khỏi, kiệu lại bình thường, không đến hai khắc đã ra khỏi cổng phía nam đến ven sông Đô Ninh.
Sông Đô Ninh rộng mười ba trượng có dư, nước cuồn cuộn chảy về đông, gió muộn từ mặt sông thổi lên mát rượi, phía chân trời ẩn hiện khói mây màu tím sẫm, A La bất giác nghĩ đến câu thơ “Yên quang ngưng nhi mộ sơn tử, lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”(10). Bây giờ chỉ có vùng núi hẻo lánh mới có thể nhìn thấy sông xanh gợn sóng, không bị ô nhiễm, cảnh sắc này khiến khát khao được đi du ngoạn khắp thế giới kỳ lạ này của nàng càng thêm mãnh liệt. Nếu không phải đi ăn với Lưu Giác, con người đáng ghét này thì nàng đã không cầm lòng muốn hát vang trước một cảnh sắc huyền diệu như vậy! A La nghĩ đến Quyên Nhi, lòng lại nặng trĩu nỗi buồn, tự nhắc mình phải cố nhẫn nhịn, không thể đối đầu với Lưu Giác, chỉ có thể tỏ ra ngốc nghếch khiến chàng ta không nắm được đằng chuôi. Hít một hơi thật sâu không khí trong lành, A La ngẩng cao đầu đi về phía thuyền Lưu Hương.
Ven sông có khoảng chục chiếc thuyền hoa đỗ rải rác, trong ánh hoàng hôn, thuyền nào cũng đã lên đèn ngũ sắc sáng rực. Thuyền Lưu Hương có ba tầng, xà và cột đều chạm trổ hoa văn, thiết kế tinh tế, sang trọng. Nữ tỳ dẫn A La lên tầng cao nhất, Lưu Giác đang đứng tựa cửa sổ trong một gian hậu thất rủ rèm châu.
 
A La nhìn vào, bên ngoài có mấy chiếc tràng kỷ bọc gấm và mấy cái án chạm trổ hoa văn, trên tường treo mấy bức thư họa của những nhà thư pháp nổi tiếng, xung quanh bày rất nhiều hoa. Không gian phía sau bức rèm rộng rãi, khoáng đạt, những chiếc đèn màu tỏa sáng, mấy cái bàn tròn, bên cạnh là ghế bành và gi.ường ngủ. Cửa sổ mở toang, gió sông lồng lộng, trong phòng mát rượi. Tà áo Lưu Giác bay bay, mấy sợi tóc chờn vờn trước trán, nửa khuôn mặt nhìn nghiêng đường nét như tạc, tuấn tú tuyệt vời. A La nghĩ, tốt nhất vẫn nên giải thích mọi chuyện, đổi gươm đao lấy ngọc bội, giải quyết bằng hòa bình để trừ hậu họa. Cách bức rèm châu, nàng lên tiếng: “Hôm đó Ninh vương ban chỉ đến tướng phủ, tiểu nữ thực tình rất muốn giữ lời, rất muốn nói lời xin lỗi, đã để cho tiểu vương gia đợi lâu”.
Lưu Giác quay đầu cầm lên chén trà, nhưng không uống, lơ đãng ngắm nhìn, đột nhiên bật cười: “Có biết hôm nay ta đến quý phủ là vì chuyện gì không?”.
A La không trả lời câu hỏi của chàng, trong đầu chỉ nghĩ nhất thiết phải xin lỗi đã rồi hãy tính: “Thực ra hôm nay tiểu nữ vốn định đến quý phủ tìm tiểu vương gia giải thích rõ. Lần trước ở Đào hoa yến tiểu nữ đã sai, không nên đánh ngất tiểu vương gia. Bởi vì lần đầu xuất phủ, khó khăn lắm mới được ngắm cảnh đẹp vậy mà lại bị tiểu vương gia quấy rầy, trong lòng không vui. Tiểu nữ xin lỗi người lần nữa”.
Lưu Giác thấy A La thái độ thành khẩn, bật cười: “Chuyện lần trước không nói nữa, có điều, nàng đã cướp bạc của ta…”.
A La đỏ bừng mặt, cúi đầu trả lời: “Tiểu nữ sẽ trả lại vương gia”. Hành động này quả là vô đạo đức, lúc đó nàng cũng chỉ nhất thời hồ đồ.
 
Lưu Giác thầm nghĩ, chút bạc đó ta không bận tâm. Nàng ta đã xin lỗi lần nữa, mình vốn không có ý định tính toán với nàng ta về chuyện đó, nhưng vẫn cảm thấy có gì không ổn, “Nói một lời xin lỗi là xong ư?”.
A La nghĩ, đã xin lỗi rồi còn phải làm gì đây? Bèn hỏi Lưu Giác: “Vậy tiểu vương gia nghĩ thế nào?”.
Lưu Giác ớ người, đúng vậy, mình nghĩ thế nào? Nàng ta vẫn chỉ là một tiểu cô nương, cũng đã xin lỗi, tính toán nữa hóa ra mình quá hẹp hòi. Nhưng nếu vậy sẽ không còn cớ để đến tìm nàng ta nữa? Nghĩ đến cảnh A La thân thiết với Lưu Phi, không biết từ đâu nỗi giận vô cớ bùng lên, chàng nói: “Nàng và tứ hoàng tử thân thiết như vậy, ta có thể làm gì?”.
A La sững người: “Tứ hoàng tử nào?”. Đột nhiên vỡ lẽ, người Lưu Giác nói là Tử Ly, bèn hỏi: “Tử Ly? Trần Tử Ly? Là Lưu Phi sao?”.
“Nàng không biết thật hay giả bộ không biết?Trông điệu bộ hai người không phải mới quen ngày một ngày hai, ở Thiên phong lầu nàng còn đích thân xuống bếp nấu ăn cho người ta, thân thiết như thế!”.
Tử Ly chính là tứ hoàng tử? A La không tin, nôn nóng hỏi: “Đại ca ấy bảo cứ gọi là Trần Tử Ly, tứ hoàng tử chẳng phải là Lưu Phi sao?”.
Lưu Giác cười gằn: “Hoàng hậu quá cố họ Trần, Tử Ly là tên tự của huynh ấy, Trần Tử Ly chính là Lưu Phi, Lưu Phi chính là Trần Tử Ly, nàng gọi huynh ấy Tử Ly, gọi cái tên thân thiết như vậy, rõ ràng là quan hệ không bình thường”.
A La há miệng không biết nói sao. Lần đầu gặp Tử Ly, nàng cũng dùng tên giả, còn Tử Ly không muốn người khác biết thân thế của mình đã mượn họ mẹ, và dùng tên chữ, cuối cùng vẫn là dùng tên thật, chẳng có gì giả dối! Nhưng Tử Ly chẳng phải chính là tứ hoàng tử sắp cưới Cố Thiên Lâm sao? Mình đã nhận tứ hoàng tử làm đại ca? Trời ơi! Vốn đã không muốn dính líu với vương thất, chuyện này… A La đột nhiên hoảng hốt, nhưng lại nghĩ khác, chuyện này cũng chẳng sao, giống như trong mắt người khác mình là thiên kim tướng phủ thân phận cao quý vậy, kỳ thực… nàng lắc đầu, những thân phận đó đối với mình chẳng là gì hết. Tử Ly tốt với mình, tình nguyện làm đại ca của mình, vậy huynh ấy chỉ là đại ca của mình mà thôi.
 
Lưu Giác chuyển chủ đề, không nhắc đến Tử Ly nữa, cười nói: “Nghe đồn tiếng sáo của tam tiểu thư rất siêu phàm, liệu có thể tấu một khúc?”.
A La dẹp bỏ ngạc nhiên của mình khi biết thân phận Tử Ly, vén rèm châu bước vào, đến bên án rót trà uống: “Đói rồi, ăn đã, tiểu vương gia thực lòng muốn nghe thổi sáo hay là hẹn đến để chấn chỉnh ta?”.
Lưu Giác châm biếm: “Ta thấy nàng có vẻ không hiểu phép tắc, không giống thiên kim của tướng phủ, khuê nữ chốn danh gia?”.
Trước mặt ngươi việc gì ta phải làm bộ làm điệu? A La nhìn chàng nói tiếp: “Tiểu vương gia lắc kiệu khiến ta khổ sở suốt hơn canh giờ, thức ăn trong bụng nôn hết rồi, vừa đói vừa khát. Làm sao còn sức lực, hứng thú thổi sáo?”.
Lưu Giác nghĩ vậy lấy làm thú vị, cười ha hả, vỗ tay ra hiệu. Nữ tỳ đi vào. Lát sau bưng ra một bàn đồ ăn.
A La rất muốn biết món ăn ở đây hương vị thế nào. “Bắt đầu!”, nói xong lập tức vào cuộc. Đa số các món đều rất ngon, nhưng mấy món chay mùi vị không ổn. Nàng chợt hiểu, món mặn ở Phong thành sắc hương vị đều đậm đà, nhưng món chay làm không tinh, chẳng trách canh đậu phụ ở Thiên phong lầu cũng được coi là món ngon. Thầm nghĩ, ở Phong thành e rằng chỉ có thể dùng món chay làm chiêu câu khách. Nàng gắp cá thịt lia lịa, khiến Lưu Giác cau mày: “Ở tướng phủ nàng không được ăn thịt hay sao?”.
A La đang vui, buột miệng nói: “Bình thường, bữa ăn ở bếp Đường viên đều đạm bạc, mấy năm rồi tiểu nữ không được ăn những món ngon thế này”.
Lòng Lưu Giác không hiểu: “Lý tướng thanh liêm như vậy ư?”.
A La cười: “Mẹ xinh đẹp của ta tuy rất đẹp nhưng lại không được sủng ái, Đường viên chúng ta cuộc sống có thể nói là rất bình thường”.
 
“Vậy mà nàng lại ngang tàng đến thế? Con gái một thứ thiếp không được sủng ái, nhìn thấy những bậc công tử như tiểu vương gia đây càng nên chủ động ân cần mới phải! Ồ, đúng rồi, như nhiệt tình của nàng đối với tứ hoàng tử!”. Lưu Giác không hiểu sao lòng bỗng thấy có gì tựa như thương xót đối với nàng, vội dùng ánh mắt nghiêm lạnh và những lời châm biếm để xua đi cảm giác đó.
A La tức giận, hắn ta coi mình là loại người gì chứ? Nhưng nàng không muốn đối đáp với chàng ta nữa, mới miễn cưỡng chuyển nỗi tức giận vào đôi đũa trong tay: “Cơm đã ăn xong, không biết tiểu vương gia nghe thổi sáo xong có đưa tiểu nữ về nhà không?”.
Lưu Giác thấy A La tư thái điềm tĩnh, đôi mắt trong như ngọc long lanh dưới ánh đèn, khuôn mặt nhỏ nhắn một phần bị mái bờm che khuất trở nên vô cùng sinh động. Những lời nói lúc trước vừa nói ra, chàng đã muôn phần hối hận, nhưng thấy vẻ láu lỉnh trên mặt A La, nỗi bực lại bùng lên, chàng nghịch ly rượu trong tay nói: “Gian ngoài là nơi mua vui”. Dường như ý muốn nói, chàng coi A La chỉ là trò mua vui .
A La nghĩ, nếu một tiểu thư khuê các thời cổ đại, nghe Lưu Giác nói vậy, chưa biết chừng cảm thấy bị sỉ nhục đến nỗi nhảy xuống sông tự vẫn! Dù không tự vẫn cũng sẽ phẫn nộ quở trách! Nàng điềm nhiên rời bàn ra phòng ngoài, tìm một cái ghế băng ngồi xuống, thầm nghĩ, người càng tức, ta càng vui, bèn thổi ngay khúc “Hỷ dương dương!”. Ánh trăng lãng đãng trên sông, hoa trên thuyền lặng lẽ tỏa hương, gió hiu hiu, cảnh tuyệt diệu như vậy làm nền cho tiếng sáo trầm bổng, khúc “Hỷ dương dương” của A La tiết tấu vui nhộn, nhưng Lưu Giác nghe không thấy vui. Chàng liếc nhìn đôi mắt A La cười như hai vành trăng khuyết, cái đầu nhỏ nhắn đung đưa theo tiếng sáo, cảm giác trong lòng chàng không biết là khóc hay cười, thầm nghĩ, a đầu này bề ngoài hình như không tỏ ra tức giận, nhưng trong lòng rất lắm tiểu chiêu. Nghe xong, không đợi A La mở miệng, nói luôn: “Nghe nói đại tỷ nàng chỉ đàn khúc “Thu thủy” mà được lòng thái tử, Lý gia dòng dõi thư hương, liệu có thể chơi một khúc? Ta thưởng nguyệt trên sông, hãy chơi khúc “Thu nguyệt” đi!”.
A La nghĩ đến chuyện đánh đàn thay Thanh Lôi, bèn nói: “Tiểu nữ không biết chơi đàn, con gái Lý gia mỗi người học một ngón khác nhau, tiểu nữ chỉ biết thổi sáo”.
Nàng càng nói không biết, Lưu Giác càng làm khó, chàng đảo mắt nói: “Tiểu vương chỉ muốn nghe đàn. Vốn tâm trạng đã rất tốt, chỉ đợi nàng đánh đàn xong là thanh toán nợ nần, không đến làm phiền nàng nữa, nàng lại nói không biết chơi, như vậy được sao?”. Mặc chàng nói thế nào, A La vẫn nhớ kỹ, nếu để lộ mình biết chơi đàn tất sẽ gieo mầm họa, chỉ một mực lắc đầu. Lưu Giác không thuyết phục được nàng, nói với hầu nữ bên ngoài: “Mang đàn ra đây!”.
 
Lưu Giác ngồi xuống một chiếc ghế thấp, hai tay vuốt nhẹ, một chuỗi âm thanh vút lên, chàng đánh khúc “Bội lan”. A La nhận thấy Lưu Giác cũng là người hay đàn, chàng chơi khá thành thục. Lại nhớ ra khúc nhạc mà Cố Thiên Lâm đã đàn trong Đào hoa yến, thấy Lưu Giác đàn rất chuyên chú, say mê, thầm nghĩ, thì ra Lưu Giác đang hận vì Tử Ly sắp cưới ý trung nhân của chàng ta, bèn không nén nổi ý nghĩ chọc tức chàng: “Hoàng đế đã ban hôn, chưa biết chừng Tử Ly đã để ý tới Cố gia tiểu thư từ lâu, ai bảo tiểu vương gia ra tay muộn!”.
Luu Giác đặt tay lên phím đàn, “phầng” một tiếng, tiếng đàn đột ngột dừng lại: “Lưu Phi và Cố gia tiểu thư là một đôi trời định, rất xứng đôi!”.
A La nghĩ, chẳng lẽ ngươi định khích ta? Nàng vênh cằm cười: “Đúng vậy, tiểu nữ cũng thấy họ rất xứng đôi, một người chơi đàn, một người thổi tiêu, phu xướng phụ tùy, chắc chắn mạnh hơn một số người cô độc thở than”.
Lưu Giác lại không thấy bực, chỉ nói: “E rằng ngay tiếng đàn của Cố tiểu thư, Lưu Phi cũng chưa nghe, Đào hoa yến huynh ấy không dự”.
A La bê lên một cốc trà, thong thả uống: “Bây giờ chưa nghe cũng không sao, sau này nghe càng thú vị! Hai người trai tài gái sắc, như tiểu vương gia nói đấy, rất xứng đôi!”. Không biết tại sao, nàng rất muốn chọc cho Lưu Giác tức khí, nổi máu ghen.
Lưu Giác nói: “Sau này Lưu Phi đã có Cố Thiên Lâm, còn tâm trạng để ý đến nàng không? Muốn huynh ấy suốt ngày đưa nàng xuất phủ du ngoạn e khó rồi”.
A La ngớ người, lại trấn tĩnh, Tử Ly muốn cưới Cố Thiên Lâm cũng phải đợi sau đại hôn lễ của thái tử, đều là chuyện của mùa xuân năm sau, nàng chỉ cần thời gian nửa năm kiếm đủ bạc là chuồn.
Lưu Giác thấy A La ngẩn người, tưởng đã nói trúng tâm tư của nàng, vốn định châm chọc nàng, nhưng thấy nàng quan tâm đến Lưu Phi như vậy, lại không thể nào đắc ý: “Nàng chơi được khúc “Bội lan”, ta sẽ không làm khó nàng nữa”.
A La chớp mắt: “Thực ra nếu tiểu vương gia muốn nghe khúc đó, tin rằng trên thuyền hoa này tất sẽ có người biết chơi, hà tất nhất định phải là tiểu nữ? Huống hồ tiểu nữ lại không biết đàn, khúc này quá khó, tiểu nữ học không được”.
Lưu Giác nói: “Không biết thì học. Hôm nay không biết, ngày mai ta đến phủ đón nàng, khi nào nàng biết, khi ấy chúng ta hết nợ nần”.
A La nhìn chàng: “Sao tiểu vương gia lại không biết điều như vậy? Người ta không biết sao lại ép người ta? Cố học khúc nhạc mà người trong lòng chàng đã chơi, coi như nàng ta đàn cho chàng nghe sao?”.
 
“Cố tiểu thư chơi đàn, ta tự khắc rửa tai cung kính lắng nghe. Nàng ấy không đàn, ta đã nghe một lần, như nghe tiếng đất trời thiên nhiên, sau này có nghe nữa hay không, cũng không quan trọng. Nếu không muốn ta đến quấy rầy, thì hãy đàn cho ta nghe”.
A La đột nhiên nghĩ, xấu tốt gì mình cũng là thiên kim tướng phủ, cũng không phải là con nhà thường dân, Lưu Giác có thật dám làm bừa thế không? Nàng nheo mắt cười, nhấp ngụm trà, bình phẩm: “Trà này hương thanh, dư vị lâu dài, màu sắc đẹp mắt, trà ngon!” mà không nhắc đến chuyện đánh đàn. A La nhấp hai ngụm nữa, cau mày như nghĩ ra điều gì, nói: “Nhìn bóng trăng, không còn sớm nữa, nếu có người nhìn thấy tam tiểu thư Lý tướng phủ đêm khuya còn lang thang bên ngoài, tiểu vương gia nói xem, cha ta sẽ tức đến thổ huyết, sẽ đi tìm vương thượng nói lý trị tội người cho xem”.
Lưu Giác thấy a đầu này rất có mưu kế, lại nghĩ ra chiêu này, thật hết sức thú vị, bèn cười khe khẽ: “Đúng vậy, cha nàng thân là Tả thừa tướng, nếu nghe phường dân gian đồn đại, khuê nữ nhà mình ngồi với đàn ông đến lúc trăng lên đỉnh trời, ông ta liệu có tức đến thổ huyết? Dòng dõi thư hương, danh gia vọng tộc, vậy là gia phong bại hoại trong tay nàng? Chà chà, ông ta sẽ làm thế nào? Đương nhiên sẽ đi tìm vương thượng”.
Chàng cười gian giảo, vòng ra sau lưng A La, cúi người ghé sát tai nàng: “Đi tìm vương thượng nói: Vương thượng, mau ban hôn đi! Mau chóng gả đứa con gái ngỗ nghịch này. Đương nhiên tiểu vương là người rất có trách nhiệm, sao dám làm mất thanh danh tam tiểu thư? Tam tiểu thư vẫn còn chưa đến tuổi cập kê mà, chuyện đại sự sai lầm này tiểu vương quả thật không làm nổi”.
A La nghe tiếng cười thấy cổ nổi da gà, lấy hắn ta? Đừng hòng! Cố kìm nén nỗi bực đối với Lưu Giác, nàng nói: “Đàn thì đàn, nhưng ta đâu có học nhanh như vậy, ít nhất phải cho ta thời gian chứ?”.
Lưu Giác thấy nàng đã ưng thuận, rất vui, cười ha hả: “Không sao, tiểu vương có rất nhiều thời gian, khi xuất phủ lệnh tôn còn ân cần dặn dò, nhất định phải tận vui hết mực mới về. Bây giờ ít nhất còn ba canh giờ trăng mới tới giữa trời, với ngộ tính của tam tiểu thư, không cần biết học thế nào, chơi được cả khúc e không có gì là khó”.
A La lẩm bẩm: “Tiểu nữ không biết đàn, ngay âm vị ở đâu cũng không biết. Tiểu vương gia đưa tiểu nữ về, hôm khác tiểu nữ học xong đến đàn cho tiểu vương gia nghe”.
Lưu Giác thấy nàng môi cong lên, lòng vui ngất trời, đi đến bên cây đàn: “Nào, tiểu vương đích thân dạy nàng”.
 
A La nghiêm chỉnh chống cằm nhìn chàng, lúc hỏi về âm, lúc hỏi về điệu, thấy Lưu Giác vô cùng kiên nhẫn, lại càng hỏi nhiều. Thoắt cái đã một canh giờ, A La hỏi mãi thấy mệt, Lưu Giác nói nhiều cũng mệt. Lưu Giác hỏi: “Biết chưa?”.
A La cười thầm, mắt nheo nheo lắc đầu. Lưu Giác tức quá ném cây đàn: “Sao nàng ngốc thế!”.
Nàng tủi thân nhìn chàng: “Tiểu vương gia, tiểu vương gia dạy tiểu nữ lại lần nữa đi!”.
Lưu Giác kiên nhẫn nói lại lần nữa, nào là các chuẩn như cung, thương, giốc, chủy, vũ, thế tay, cách sử dụng ngón tay. A La cười thầm, chỉ thấy buồn ngủ, chỉ có thể cố gắng lấy tinh thần nghe chàng thao thao. Cuối cùng Lưu Giác hỏi: “Lần này biết chưa?”.
A La lắc đầu, há miệng ngáp, vội lấy tay che, ánh mắt di chuyển trên mặt chàng. Lưu Giác lạnh mặt: “Gây rối suốt nửa ngày định bỡn tiểu vương hay sao?”.
A La ngạc nhiên, không còn buồn ngủ nữa, xua tay nói: “Tiểu vương gia, tiểu nữ quả thực không có cảm giác nào về đàn. Tiểu nữ có thể nhớ được mấy âm, tiểu nữ sẽ chơi cho tiểu vương gia nghe, nhưng ý nghĩa thế nào tiểu nữ cũng không biết”.
Lưu Giác nửa tin nửa ngờ. Nàng biết thổi sáo, sao lại không biết đánh đàn? Mười thanh nữ Phong thành thì có đến chín cô biết chơi đàn, đều chơi rất hay, nàng là ngoại lệ?
A La bắt đầu bịa chuyện: “Nghe nói lúc nhỏ chơi trò đoán sở trường sau này, đại tỷ cầm ngay cây đàn, nhị tỷ vớ ngay cây bút, còn tiểu nữ thì nhấc ngay cây sáo. Về sau nhị tỷ học xong thư pháp cũng đi học đàn, nhưng không tài nào bằng đại tỷ, tiểu nữ thì khỏi nói, chẳng biết tý gì về đàn!”.
“Thôi được, mất hứng quá”. Nói đoạn, Lưu Giác đẩy cây đàn đứng lên.
A La cố nén niềm vui, nhìn Lưu Giác: “Có thể về được chưa? Tiểu nữ buồn ngủ rồi”.
Lưu Giác mất hứng nói: “Đi đi, về đi”.
A La lại nhắc: “Nhớ là chúng ta thanh toán xong, không hận thù gì nữa, tiểu nữ cũng không nợ nần tiểu vương gia”.
Lưu Giác nở nụ cười gian tà: “Ta sao có thể thù hận với nàng? Ta hẹp hòi vậy ư?”.
A La vội nói nịnh: “Tiểu vương gia phong lưu rất mực, hào hoa vô cùng, tài học uyên thâm, gia thế nề nếp, sao có thể là người hẹp hòi”.
Lưu Giác “hừ” một tiếng, lại hỏi: “Ta và tứ hoàng tử ai phong độ hơn, ai hào hoa hơn, ai tài học hơn?”.
A La ngạc nhiên lập tức trả lời: “Mỗi người một vẻ, hi hi. Cá nhân tiểu nữ cho rằng, tiểu vương gia hơn một bậc”. Bụng nghĩ, nịnh thế đủ chưa?
 
Lưu Giác lại cười: “Được tam tiểu thư khen ngợi, ta sẽ không phụ tam tiểu thư”.
A La cảm thấy câu nói của chàng có vẻ kỳ quặc, dường như có ngầm ý sâu xa, nhưng lại không nhận ra là ý gì, đành đi xuống lầu, lòng băn khoăn.
Đi đến cầu thang lầu hai, bên trong có tiếng đàn vọng ra, Lưu Giác dừng bước lắng nghe, A La cũng dừng lại theo. Lưu Giác đột nhiên liếc thấy A La khẽ nhíu mày, rồi sắc mặt lại trở nên bình thường, bất giác thấy kỳ lạ, khi nàng ta nhíu mày là lúc tiếng đàn nhỡ nhịp. Lưu Giác thầm nghĩ, khéo vậy sao? Không biết thế nào, tam tiểu thư của Lý phủ ngoài câu xin lỗi, những lời nói sau đó của nàng ta, chàng không tin câu nào, nhưng lại không tìm ra khẽ hở, rút cục chỗ nào không đúng?
A La trở về tướng phủ, lập tức đi gặp Lý tướng báo cáo. Lý tướng hớn hở nhìn nàng, dáng điệu rất hiền từ: “A La hôm nay đi chơi với tiểu vương gia vui chứ?”.
A La ngoan ngoãn trả lời: “Dùng bữa ở thuyền Lưu Hương, sau đó thổi một khúc sáo, tiểu vương gia không nói gì”.
Lý tướng cười ha hả: “Tiểu vương gia phong lưu hào hoa, gia thế hiển hách, đúng là một đám tốt. A La, con nên năng đi lại với tiểu vương gia”.
A La đột nhiên nghĩ, có nên nhân cơ hội này để được đường hoàng xuất phủ? Liền thăm dò: “Tiểu vương gia hẹn ngày mai gặp, A La có thể đi không?”.
Lý tướng phấn khởi: “Đi chứ, sao lại không, trang điểm thật đẹp mà đi”.
A La mỉm cười: “Con biết rồi, A La về Đường viên đây”.
Có thể đàng hoàng xuất phủ, tránh phải lén lút vượt tường, để lộ điểm yếu của mình. Có được cơ hội này còn phải cảm ơn tiểu vương gia. A La vừa đi vừa cười khe khẽ.
Lưu Giác về tới vương phủ, ngơ ngẩn nhìn bức họa trên tường. Chàng muốn A La học khúc “Bội lan” có thật là do không thể quên Cố Thiên Lâm? Đôi mắt lóng lánh của A La trên khuôn mặt Cố Thiên Lâm cơ hồ ngày càng sinh động, ngày càng có sinh khí. Lưu Giác nằm trên trường kỷ, ngắm nhìn đôi mắt đó, ngón tay gõ nhẹ, rút cục chỗ nào không đúng? Chàng gọi Lưu Anh: “Mau đi tra tình hình Lý tướng phủ, ta muốn biết mọi động tĩnh của tam tiểu thư đó. Còn nữa, từ ngày mai, cho người bám theo nàng ta. Nàng ta biết võ công, cẩn thận một chút”.
“Xin vâng!”.
Chú thích:
10. Trích trong “Đằng Vương các tự” của Vương bột (Đời Đường).
Dịch thơ: “Ánh khói đọng, núi chiều tía”, “Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cô đơn chiếc diều bay, làn nước sông thu vớ bầu trời kéo dài một sắc” (bản dịch của Trần Trọng San).
 
Chương 9 A La mang theo Tiểu Ngọc sải bước dài, nghênh ngang rời khỏi tướng phủ. Đã có lần đầu tiên, sẽ có lần tiếp theo. Nàng đã dạy đầu bếp làm mấy món chay, cùng Tử Ly khai trương tửu lầu một cách suôn sẻ. Tửu lầu lấy tên là “Tố tâm trai”, chỉ có mấy gian phòng riêng, khách muốn ăn phải đặt chỗ trước cả hai tuần.
Trong phủ bắt đầu bận tíu tít chuẩn bị cho hôn lễ của Thanh Lôi và thái tử, hồi đầu khi A La mới xuất phủ, Lý tướng còn hỏi han tiến triển quan hệ giữa nàng và tiểu vương gia, A La ứng phó rất thận trọng, không dám sơ suất. Về sau Lý tướng bận chuyện chính sự, lại lo liệu hôn lễ cho Thanh Lôi, dần dần lơ là A La không hỏi nhiều.
Lưu Giác cơ hồ mất hút, không thấy lộ diện. A La cả ngày say sưa trong niềm phấn khởi kiếm được bạc, mải mê tính toán cần bao nhiêu thời gian có thể thu xếp cuộc đào tẩu. Không bị Lưu Giác quấy rầy, A La và Tử Ly có thời gian học cưỡi ngựa, cuộc sống ngày càng thoải mái vi vu.
Tử Ly không biết A La đã biết thân phận của mình, không hề đả động chuyện đó, A La cũng không hỏi. Chàng nhìn A La rời phủ vui như con chim sổ lồng, bỗng thấy càng thương mến nàng hơn. Ở bên A La, tâm trạng chàng rất thoải mái, dù lòng phiền muộn đến mấy, hễ nhìn thấy nàng là tiêu tan hết.
Một hôm, lần đầu tiên A La có thể cưỡi ngựa phóng như bay, mặt đỏ hồng, hớn hở nhìn chàng, nói: “Đại ca, cảm giác bay lên thật là tự do!”.
Tử Ly cười: “Cảm giác bay lên như thế nào? Muội đã từng bay chưa?”.
Đột nhiên A La nghĩ đến cảm giác lúc ngồi trong khinh khí cầu, bèn nói: “Là cảm giác từ trên không nhìn xuống mặt đất, thấy tâm hồn khoáng đạt bao la”.
“Con người sao có thể bay lên không?”.
A La suy nghĩ rồi bảo tùy tùng của Tử Ly làm một con diều giấy thật to, nói với chàng: “Đại ca, chúng ta làm con diều lớn cho bay lên, đại ca dùng khinh công đứng lên đó thử xem”.
Đến khi Tử Ly vọt lên hai chân đậu vào trong con diều hạ thấp dần, được ngựa kéo chạy như bay, lực gió kết hợp với khinh công của Tử Ly, lúc này chàng đã cảm nhận được cảm giác bay lên như A La nói. Mặc dù, chỉ được một lúc, nhưng chàng nhớ mãi.
 
A La thuộc rất nhiều câu chuyện, nàng kể với Tử Ly: “Có một người phàn nàn với một vị thần rằng, gánh nặng trên vai anh ta quá lớn, anh ta đã quá mệt, quá khổ. Vị thần hứa, nếu anh ta không ngoái đầu lại, vị thần sẽ luôn theo sát anh ta. Chỉ cần đi một chặng, sau này sẽ không khổ, không mệt nữa. Người này vâng lời, mải miết đi không hề ngoái lại. Bao núi cao, đồng rộng, biển sâu, đều vượt qua dễ dàng, càng đi càng phấn chấn, liền hỏi vị thần, sao ngài sao không đi với tôi suốt đời? Có ngài đi cùng, tôi có thể đi xa như vậy, càng đi càng phấn chấn”.
Tử Ly cười: “Đó là do vị thần dùng phép thuật, giúp cơ thể anh ta nhẹ đi, để anh ta không mệt”.
A La cười, nheo mắt nhìn Tử Ly nói: “Vị thần cho anh ta ngoái lại nhìn, lúc đó anh ta đang đứng trước bãi biển, quay đầu lại, chỉ thấy dấu chân của chính mình. Vị thần nói, thực ra ta hoàn toàn không đi cùng ngươi, vị thần của ngươi ở ngay trong lòng ngươi. Ý nói mỗi người nếu có trách nhiệm với việc làm của mình, chiến thắng được bản thân sẽ chiến thắng tất cả”.
Tử Ly nhìn nàng đăm đắm, rất lâu sau mới nói nhỏ một câu khiến A La phát hoảng: “Muội chính là vị thần đó trong lòng ta”. Thoắt cái đã nửa năm trôi qua. Thanh Lôi mặc dù chỉ là thứ phi của thái tử, do được thái tử sủng ái, tuy cùng xuất giá một ngày với Vương Yến Hồi, nhưng cũng được hoàng cung nghênh đón hết sức long trọng linh đình. Hôm diễn ra đại hôn lễ, A La lần đầu tiên nhìn thấy quang cảnh hôn lễ của thái tử thời cổ đại, đương nhiên thái tử phi không phải là Thanh Lôi mà là Vương Yến Hồi. A La chậc lưỡi, sao mà đông người đến thế. Đoàn người đứng dài đến mấy dặm, có phải đây chính là đội nghi lễ quốc gia thời cổ đại?
Khi nàng đang cùng Tiểu Ngọc chơi trên lầu hai của Tố tâm trai thì Lưu Giác đột nhiên xuất hiện: “Đã lâu không gặp. Nghe nói tiểu thư đã học cưỡi ngựa, sống rất vui vẻ?”.
A La thầm mắng hắn ta bám dai như đỉa, cố nặn ra nụ cười thật tươi: “Vâng, nếu tiểu vương gia không xuất hiện tiểu nữ sẽ còn vui hơn”.
Lưu Giác nói nhỏ: “Sau đại hôn lễ của thái tử là đến hôn lễ của tứ hoàng tử”.
A La “ồ” một tiếng, cũng nói nhỏ: “Sau hôn lễ của thái tử, Cố tiểu thư cũng xuất giá”.
Lưu Giác ngẩn người, mỉm cười: “Chẳng phải cả hai ta đều đau lòng hay sao? Cùng đi uống rượu cho vui nhé?”.
 
A La không thèm: “Tiểu vương gia sẽ không mượn rượu giả điên, khiến người khác mất mặt chứ?”.
Lưu Giác cười: “Nếu rượu vào mà lòng nàng vẫn phiền muộn, nàng có thể ôm ta mà khóc”.
A La mắng: “Đăng Đồ Tử(11)…”.
Lưu Giác không hiểu: “Nghĩa là gì?”.
“Đồng nghĩa với mất mặt!”.
“Sao ta có thể mất mặt? Nhiều nhất là khi ở bên nàng, ta sẽ giấu mặt vào lòng”. Nói đoạn cười ngất bỏ đi.
Một tháng sau hôn lễ của thái tử, Tử Ly thổi tiêu hẹn A La ra ngoài, hai người cưỡi ngựa phi thẳng qua cổng tây thành, được một lát thì dừng lại. A La nhảy xuống ngựa thở gấp: “Không ngờ thảo nguyên tháng tư lại nhiều hoa thế. Tại sao hoa ở đây toàn màu tím?”.
Tử Ly mỉm cười: “Loài hoa này tên là Bắc tinh lan, nở rộ vào tháng tư, mùa hoa có thể kéo dài đến cuối tháng sáu”.
A La nhìn thảo nguyên bát ngát tít tắp tận chân trời, hoa cũng phủ rợp tận chân trời, bỗng thốt lên: “Nếu có lều trướng, buổi tối dựng trướng trên thảo nguyên, vừa nướng thịt ăn vừa ngắm sao thì hay biết mấy”.
Tử Ly cười: “Chuyện này có gì khó, bảo người chuẩn bị là được”.
Nét mặt chàng tràn đầy vẻ âu yếm, cưng chiều, A La bỗng cảm động, lại tần ngần: “Buổi tối muội không thể ra ngoài. Bị cha phát hiện thì không ổn!”.
Tử Ly chớp mắt: “Muội ngủ sớm đi, rồi trốn ra ngoài, ta sẽ đến đón muội”.
“Đại ca, huynh vĩ đại quá!”. A La nhảy lên sung sướng. Tử Ly nhìn nàng, nói: “A La, mùa thu này muội đã mười bốn tuổi, đúng không? Ta thấy muội đã cao hơn một cái đầu rồi đấy”.
 
A La dùng tay đo, đúng là đầu nàng vừa tới vai Tử Ly, có thể vẫn còn cao nữa. Cao lên thì tốt, có thể rời khỏi tướng phủ! Nàng hớn hở nói với chàng những thứ cần chuẩn bị, và các loại gia vị dùng cho món thịt nướng. Tử Ly mỉm cười nhất nhất tán đồng, tựa hồ chàng sẵn sàng hái cả sao trời cho nàng.
Tối hôm đó, đợi mọi người ngủ cả, A La khóa trái cửa, lẳng lặng nhảy qua cửa sổ, đi qua sân thật khẽ. Tử Ly đã đứng đợi trong rừng trúc, hai người bịt miệng cười.
Tử Ly cùng nàng vượt tường, cổng thành đã khóa, chàng dẫn nàng loanh quanh qua mấy khúc quành, không biết cuối cùng chui ra bằng lối nào. Chàng cười nói: “Ninh quốc quá cổ kính luôn ẩn giấu những bí mật không ai biết, may mà ta biết con đường bí mật này”. A La cũng cười, thầm nghĩ, chàng là tứ hoàng tử của Ninh quốc, bí mật này chàng không biết mới lạ.
Hai người phi ngựa trên thảo nguyên, trên đầu sao dầy đặc, nhấp nhánh, ánh trăng rất sáng, bầu trời không một gợn mây. Phi một hồi đã nhìn thấy ánh lửa.
Tùy tùng của Tử Ly đã chuẩn bị xong xuôi, thấy hai người đến, họ lẳng lặng rút vào màn đêm.
A La nướng thịt trên đống lửa, vùi khoai trong tro. Hai người vừa gặm thịt xiên vừa nói chuyện. Tử Ly hỏi A La: “Nếu biết ta là hoàng tử của Ninh quốc, muội có còn đi lại với ta?”.
A La nói: “Chẳng phải muội đã qua lại với huynh từ lâu rồi sao, đại ca? Hay là muội nên gọi huynh là Lưu Phi?”.
“Muội đã biết rồi ư?”.
“Phải, Lưu Giác cho muội biết”.
“Sao không hỏi ta?”.
 
Quay lại
Top Bottom