Duyên kì ngộ-trang trang [hoàn]

A La cúi người bới khoai: “Nóng quá, cầm lấy này!”. Nàng cầm củ khoai đảo qua đảo lại trên tay cho bớt nóng, rồi ném cho Tử Ly: “Muội đã nói rồi mà, nếu huynh muốn sẽ tự nói ra, không muốn nói, muội hỏi làm gì?”.
Tử Ly thong thả bóc vỏ khoai, đưa cho A La, đón lấy củ khác bóc tiếp: “Vậy muội cũng biết hôn sự giữa ta và Cố Thiên Lâm?”.
A La vừa ăn vừa nói: “Đúng, muội đã biết”.
Tử Ly nói: “Muội thấy Cố Thiên Lâm thế nào?”.
“Rất đẹp, kiêu ngạo, thông minh. Ấn tượng của muội về nàng ấy rất tốt”.
“Muội quen nàng ấy thế nào?”.
A La ăn rất hào hứng, rồi nằm xuống ngắm sao: “Trong Đào hoa yến Thiên Lâm chơi khúc “Bội lan”, lựa khúc và chơi đàn đều thượng hạng, dùng tiếng đàn bộc lộ tâm tư, làm say lòng bao người, đến bây giờ nàng ấy vẫn còn fans. À là những người hâm mộ đó”.
“Nhưng tại sao thái tử lại chọn lệnh tỷ mà không chọn nàng ấy?”.
A La không biết nói sao, Tử Ly tiếp tục: “Nghe nói, khúc “Thu thủy” của lệnh tỷ khí thế áp đảo, tiếng đàn tiêu diêu, tấm lòng rộng mở, chí ngút cao xanh, khí độ phi phàm”.
Tử Ly lại nói: “Tuy nhiên, vừa rồi ta có việc đến Đông cung, nhìn thấy lệnh tỷ, thái tử phấn khởi, bảo nàng ấy dạo thử một khúc, ngón đàn tuy phi phàm, nhưng cũng không được như lời đồn”.
A La đành giải thích: “Nhưng sau khi tỷ tỷ được gả cho thái tử, một lòng chỉ muốn giữ bổn phận một hiền thiếp, không như thời còn là khuê nữ”.
Tử Ly nói nhỏ: “A La, muội thích Cố tiểu thư đúng không?”.
“Phải, lúc đó muội còn gọi nàng ấy là Thiên Lâm tỷ tỷ”.
Tử Ly cười,”Vậy thì, A La, muội muốn cưới một phu quân thế nào?”.
A La nghĩ đến câu nói vui về các bà vợ, như “sư tử Hà Đông” , lại nghĩ đến tâm nguyện của các bà “mong chồng vinh hiển, áo gấm xông hương” nghĩ đến nhiều chuyện tình đã xem, cười nói: “Không biết. Muội chưa yêu bao giờ. Nhưng…”. Nàng dừng lại cười cười không nói. Nhìn sao trên trời, A La lại tiếp: “Được quen biết đại ca thật là may mắn, muội đã tưởng ở đây muội sẽ không quen được đấng trượng phu nghĩa hiệp nào”.
Mắt Tử Ly dần dần sáng lên, A La nói: “Mắt huynh rất sáng, như sao trên trời vậy, đại ca, huynh rất tuấn tú. Đúng thế, rất tuấn tú!”.
 
Tử Ly nhìn trời: “Thuở nhỏ mẫu hậu thường bế ta ngắm sao trời, nói mắt Tử Ly sáng như sao. Thuở nhỏ ta rất nghịch ngợm…”.
A La nghe Tử Ly kể chuyện những ngày thơ ấu của chàng, nghe mãi, dần ngủ thiếp lúc nào không biết. Tử Ly ngây người nhìn nàng, kéo mền đắp cho nàng, gối đầu nàng lên đùi mình, ngẩng nhìn sao chi chít trên đầu. Thầm nghĩ, nếu không phải bận tâm tới việc triều chính, cứ như thế này thì tốt biết bao.
Khi A La và Tử Ly vượt tường ra khỏi phủ trốn ra ngoại thành, Lưu Giác trong vương phủ cũng được bẩm báo. Hôm nay không giống mọi lần, Lưu Giác cảm thấy bất an, phiền não. Cứ nghĩ đến cảnh A La và tứ hoàng tử qua đêm trên thảo nguyên, chàng thấy buồn vô hạn. Ngơ ngẩn đi lại trong Tùng phong đường, lặng ngắm nhìn bức tranh trên tường, cuối cùng gọi Lưu Anh nói: “Cho triệu Huyền tổ và Xích tổ, ta muốn ra ngoại thành”.
Lưu Anh nghe Lưu Giác nói muốn triệu Huyền tổ và Xích tổ, lòng lấy làm kinh ngạc. Lén liếc nhìn sát khí ngấm ngầm trên mặt chủ nhân. Đang đêm khuya chúa thượng muốn ra ngoài thành là bởi vì tam tiểu thư của tướng phủ hẹn hò với tứ hoàng tử trên thảo nguyên?
An Thanh vương thân nắm trọng binh, đội Ô y kỵ trong vương phủ được lập ra do tiên đế ban chỉ, gồm những binh sĩ quyết tử chỉ nghe mệnh lệnh của vương phủ, ngoài An Thanh vương, chỉ có tiểu vương gia có quyền điều động, bình thường không ai biết đội quân này trú ở đâu. Ô y kỵ có năm tổ, năm xưa ngay cả khi hộ vệ Ninh vương đăng cơ cũng chỉ điều động bốn tổ, hôm nay lại điều động tới hai tổ kỵ binh. Lưu Anh tự dưng thấy căng thẳng bội phần.
Sau nửa canh giờ, tại Tùng phong đường của vương phủ đã có hơn trăm bóng người lặng lẽ tập hợp. Đội quân vận binh phục màu xanh sẫm, bịt mặt màu đen, áo giáp mềm màu xanh tía là Huyền tổ; Xích tổ vận binh phục màu tiết dê, họ lẫn vào màn đêm, nếu không nhìn kỹ không thể nhận ra.
Lưu Giác lạnh lùng ra lệnh: “Tối nay ta đi săn trên thảo nguyên, Huyền tổ theo hầu, Xích tổ tiếp ứng”.
Hơn trăm bóng đen trước mặt nhất loạt quỳ sụp xuống, khẽ đáp: “Tuân lệnh!”.
Từ lúc tập hợp đến lúc xuất phủ, đội quân hơn trăm người hầu như không phát ra một tiếng động, vó ngựa đã được bọc vải, phi như những cơn lốc đến cửa thành phía nam. Lính gác bị Lưu Giác đánh thức, mắt vừa liếc nhìn, chân đã mềm nhũn, quỳ sụp trên đất, hoàn toàn không biết đám người này xuất hiện từ lúc nào.
Lưu Giác không nhiều lời, tay vừa vung, lệnh bài Xích Long lóe sáng. Đây là lệnh bài chạm rồng màu đỏ, do tiên đế ngự ban cho An Thanh vương trước lúc băng hà, khi triều đình có biến, người cầm lệnh này có quyền sinh quyền sát, có thể trực tiếp cai quản, trấn thủ Phong thành. Không ngờ hôm nay Lưu Giác chỉ vì muốn ra khỏi Phong thành đã dùng đến lệnh bài này.
 
Lính gác vừa nhìn thấy lệnh bài Xích long, liền lập tức mở cổng thành. Đoàn người quất ngựa lao về hướng thảo nguyên, giống như những đám mây đen bay vun vút dưới ánh trăng. Lính gác hoa mắt nhìn theo, nghe thấy người cưỡi ngựa đi sau cùng lạnh lùng ra lệnh: “Các ngươi cứ việc ngủ đến sáng, hãy coi bây giờ đang mộng du! Hiểu chưa?”. Lính gác ngơ ngẩn gật đầu. Thấy đám mây đen đã bay xa lẫn vào màn đêm, họ mới vội vàng đóng cổng thành, chạy vào hậu thất, đắp chăn ngủ tiếp.
Khi đội quân rời khỏi Phong thành năm dặm, Lưu Giác vẫy tay, Xích tổ chia nhóm, rời khỏi đội hình mất hút trong thảo nguyên. Binh sĩ của Huyền tổ theo sau Lưu Giác tiếp tục phóng về phía trước. Không lâu sau đã nhìn thấy những đốm lửa phía xa, Lưu Giác càng thúc ngựa phóng nhanh. Chỉ nghe thấy “vút” một tiếng, có vật gì vòng qua yên ngựa của Lưu Anh, đó là một mũi tên không đầu. Đám cỏ phía trước lay động, mấy chục bóng người chui ra, dưới ánh trăng nhìn rất rõ, chính là đội thị vệ của phủ tứ hoàng tử.
Một người bước lên nói nhỏ: “Có phải Ô y kỵ của phủ An Thanh vương?”.
Lưu Anh hét: “To gan, dám cản đường tiểu vương gia!”.
Người đó cúi chào Lưu Giác, nhưng không nhượng bộ: “Kính chào tiểu tương gia, chúa công chúng tôi đang nghỉ ngơi ngắm cảnh, phiền tiểu vương gia đi đường vòng”.
Lưu Anh tức giận hét: “Làm gì có chuyện đó, tiểu vương gia chúng ta muốn đi săn trong đêm, các ngươi dám ngăn cản?”.
Thị vệ của vương phủ rút đoản đao soàn soạt, khí thế bừng bừng, hàm ý nếu thương lượng không thành sẽ phải động thủ.
Lưu Giác đột nhiên cười lớn: “Thì ra tứ điện hạ đang ở đây, vốn không nên quấy rầy, đã may mắn gặp nhau như vậy, chi bằng cùng ngắm trăng với tứ điện hạ”. Nói đoạn ngẩng nhìn trời, “Sao hôm nay đẹp quá! Các ngươi ở lại đây, người đông làm hỏng cảnh quan”.
Lưu Anh vội nói: “Chúa thượng!”.
Lưu Giác liếc chàng ta một cái. Lưu Anh đành lùi xuống, nói: “Thuộc hạ sẽ đợi ở đây”. Lưu Giác cưỡi ngựa thong thả đi về phía trước, thị vệ của phủ tứ hoàng tử nhìn nhau. Một người nói: “Tiểu vương gia, xin chậm bước, để bỉ chức lên trước bẩm báo”. Bóng người vụt chạy về phía đốm lửa.
Tử Ly đang ngắm nhìn A La say giấc, chàng đã sớm cảm nhận những rung chấn nhè nhẹ của tiếng vó ngựa từ xa, đoán là có người đến, suy nghĩ một lát, chàng liền giơ tay điểm huyệt ngủ của A La, bế nàng vào trong trướng. Sau đó chàng trở ra đứng trước cửa lều, lặng lẽ nghe thị vệ bẩm báo Lưu Giác dẫn Ô y kỵ đi vào thảo nguyên, đang một mình cưỡi ngựa đến đây.
Tử Ly thong thả bước đến ngồi bên đống lửa, chất thêm củi vào lửa. Tiếng chân ngựa đã dừng ngay bên cạnh, Lưu Giác cười sang sảng: “Điện hạ thật có nhã hứng, rất biết hưởng thụ”. Vừa nói vừa đi đến ngồi xuống cạnh đống lửa, lấy ra bầu rượu, nói: “Rượu phụ thân gửi từ Biên Thành về, vị mạnh như lửa, vừa sảng khoái vừa mê ly”.
 
Nụ cười nhạt vẫn trên môi Tử Ly, chàng đón bầu rượu nhấp một ngụm lớn, đoạn ném trả Lưu Giác: “Tiểu vương gia sao lại có sở thích khác thường vậy, thích đi săn trong đêm?”. Lưu Giác ngẩng đầu, cũng tợp một ngụm lớn, cười nói: “Đó là do tứ điện hạ chưa được hưởng cái thú đi săn trong đêm. Nên biết, trong đêm chỉ nhìn mắt con mồi mà săn, quả thực kích thích hơn nhiều so với săn ban ngày!”.
Tử Ly lơ đãng hỏi: “Đêm nay tiểu vương gia đã nhìn thấy mắt con mồi chưa?”. Mắt Lưu Giác liếc nhanh vào trong trướng, cười lớn: “Con mồi sợ mũi tên của ta, nhắm mắt ngủ rồi”. Tử Ly cười nhạt, vươn vai: “Con mồi đã ngủ, xem ra đêm nay tiểu vương gia trắng tay ra về rồi”.
Lưu Giác đứng dậy, cũng vươn vai cười: “Xưa nay ta chưa bao giờ trắng tay ra về, chỉ cần đánh thức con mồi là xong”.
Nói đoạn nhón chân định đi về phía lều. Thoắt cái, Tử Ly đã đứng chắn cửa lều: “Tiểu vương gia hãy ra thảo nguyên mà săn, bản vương không tiễn”.
Lưu Giác lạnh mặt, nói: “Ta nhìn thấy đôi mắt lóng lánh trong trướng, chạy lung tung trong tẩm trướng của điện hạ là không hay, để ta tóm ra đây!”. Giơ tay định vén rèm. Bàn tay Tử Ly đã chặn lại, cười: “Chuyện trong trướng của bản vương khỏi phiền tiểu vương gia phí sức!”.
Lưu Giác cười gằn: “Điện hạ có thể thỏa mãn một chút tính hiếu kỳ của ta không?”. Bóng hai người vụt lay động, cánh tay vung lên. Đột nhiên “vù vù” hai tiếng gió phát ra từ những cánh tay đập vào nhau, chỉ nghe “ầm” một tiếng, chiếc trướng sụp đổ. Tử Ly kinh ngạc, lao vào trong bế A La đang nằm cuộn trong tấm mền.
Lưu Giác dừng tay: “Thật là có lỗi, thì ra tứ điện hạ đã tìm thấy tri kỷ trong đêm thảo nguyên, ta lỗ mãng rồi”.
Sắc mặt Tử Ly rất xấu, chàng lạnh lùng nói: “Đâu có, tiểu vương gia nếu vẫn còn nhã hứng, chi bằng ta uống thêm chén rượu. A La đang ngủ say, chúng ta không nên quấy rầy nàng ấy”.
Lưu Giác liếc nhìn mặt A La, biết nàng đã bị điểm huyệt, vẫn đang say ngủ. Chàng lùi lại hai bước, ngồi xuống bên đống lửa và uống rượu.
Mấy tùy tùng của phủ tứ hoàng tử không biết từ đâu xuất hiện, nhanh nhẹn thu dọn chiếc trướng vừa đổ, xong xuôi lại biến mất. Trên thảo nguyên yên tĩnh chỉ có tiếng củi nổ lép bép trong đống lửa lớn đang cháy rừng rực. Tử Ly đặt A La xuống thảm thật khẽ.
Lưu Giác đột nhiên nói: “Tứ điện hạ thật là có phúc, hai tháng nữa nghênh đón thiên kim tiểu thư của Cố tướng, một trong hai tuyệt sắc Phong thành”.
Tử Ly vẫn cười nhạt: “Đúng là có phúc, đến lúc đó xin mời tiểu vương gia đến chia vui”. Lưu Giác cười ha hả, mắt nhìn A La: “Tứ điện hạ lẽ nào không muốn hưởng hết phúc ở đời?”.
Tử Ly mỉm cười: “Công, phượng đều đẹp. Thế nào? Tiểu vương gia dạo này cũng có ý định thành gia thất ư?”.
 
Lưu Giác cười khanh khách: “Tứ điện hạ chắc chưa biết chuyện, năm trước tôi đã có lời cầu thân với Lý tướng, Lý tướng vui vẻ nhận lời, chỉ đợi ái nữ đến tuổi cập kê là đến rước về”.
Nụ cười ngưng lại trên môi Tử Ly, chàng trầm ngâm giây lát, lại mỉm cười, nói: “Xem ra không chỉ một mình bản vương muốn cầu thân với Lý tướng, một nữ nhi không thể gả hai chồng, lẽ nào Lý tướng định cùng lúc giẫm lên hai con thuyền?”.
Lưu Giác nhìn mặt Tử Ly, thấy chàng thản nhiên nhìn lại, không có vẻ đang nói dối, đột nhiên không hiểu thực hư thế nào. Nghe đồn Lý tướng bản tính xảo quyệt, mưu tính rất sâu, lẽ nào ông ta đã gả một cô con gái cho thái tử lại còn muốn gả một cô cho tứ hoàng tử, sau này bất luận ai nối ngôi, ông ta cũng ung dung hưởng lời. Lưu Giác trong đầu suy nghĩ rất lung nhưng nét mặt vẫn tươi cười: “Chuyện này phải làm thế nào đây, tứ điện hạ? Lẽ nào hai chúng ta phải tỉ thí phân cao thấp? Chuyện mà đồn ra ngoài chẳng phải khó xử lắm sao”.
Tử Ly đã hiểu ý Lưu Giác, người khó xử đương nhiên là Cố tướng, ái nữ còn chưa gả đi, chàng rể quý đã cầu thân với Lý tướng, cái mặt già của Cố tướng biết để vào đâu? Hơn nữa, Cố Thiên Lâm là phi tử đã được Ninh vương ban hôn, nếu chàng làm vậy há chẳng phải không nể mặt phụ hoàng! Tử Ly cười nhạt: “A La còn hơn một năm nữa mới đến tuổi cập kê, hãy để nàng tự quyết định”.
Nói đoạn mắt đột nhiên trở nên sắc lạnh, ánh mắt quét qua mặt Lưu Giác: “Bản vương không muốn có chuyện cưỡng ép xảy ra”.
Lưu Giác thấy hay, lập tức tán đồng, cười lớn: “Doãn Chi đâu phải người không biết thưởng thức, dưa chín ép không ngọt. Đương nhiên nếu tứ điện hạ và Cố tiểu thư phu phụ tình thâm, thay đổi chủ ý, đừng quên nói với ta một tiếng”.
Lưu Giác đứng dậy nhảy lên ngựa, nhìn thấy những quầng sáng le lói phía chân trời, thốt lên: “Phong cảnh nơi này quả rất đẹp”. Nói đoạn, chàng ra roi thúc ngựa.
Tử Ly đột nhiên nói: “Nghe đồn Tùng phong đường của tiểu vương gia vẫn treo bức họa, có phải muốn tranh với bản vương?”.
Lưu Giác sững người. Tử Ly nói tiếp: “Nếu đúng vậy, bản vương khuyên ngươi, không nên có chủ ý với A La nữa”.
Lưu Giác cười lạnh lùng: “Tứ điện hạ tốt với A La như thế, điện hạ đã thương nàng ấy như vậy, lẽ nào để A La chịu tủi phận thứ thiếp?”. Dứt lời, không đợi hồi âm, chàng liền quất roi, ngựa hý một tiếng vút đi.
 
Tử Ly ngẩn người, buông tay nhìn những vệt sáng phía chân trời, một ánh hồng dần dần lan ra khắp chân trời, bất giác thở dài. Chàng vẫy tay, tùy tùng dắt ngựa đến. Chàng ôm A La lên lưng ngựa phi về thành. Gió ù ù bên tai, thảo nguyên sáng sớm tháng tư vẫn còn se lạnh, hai má A La phớt hồng, mắt vẫn nhắm nghiền. Tử Ly ôm riết vào người, hơi ấm truyền ra từ cơ thể mềm mại của A La, khiến lòng chàng không còn trống trải.
Đi vào trong tướng phủ, chàng đánh thức A La: “Đến phủ rồi, dậy thôi”.
A La dụi mắt: “Đại ca, muội ngủ say quá, không thức với đại ca, lại phiền đại ca đưa về tận phủ”.
Tử Ly cười dịu dàng: “Sau này đại ca sẽ đưa muội đi ngắm cảnh đẹp hơn nữa. Muộn rồi, mau về đi”.
A La nhìn Tử Ly, lòng vui lâng lâng, Tử Ly tốt với nàng quá. Nàng vẫy tay với chàng: “Đại ca, tạm biệt!”. Dứt lời, quay đầu chạy khỏi rừng trúc.
Tiểu Ngọc đã dậy, thấy A La chạy từ bên ngoài vào, bèn nói: “Tiểu Ngọc đẩy cửa, thấy đóng chặt, tưởng là tiểu thư chưa dậy”.
A La giơ hai tay, cười: “Ta đến rừng trúc luyện công”. Rồi véo má Tiểu Ngọc, nói: “Lấy hộ ít nước nóng, ta vẫn chưa rửa mặt”.
Sau khi Tiểu Ngọc đi khỏi, A La nhìn trước nhìn sau, lại nhảy qua cửa sổ vào phòng, mở cửa. Ngồi trước gương, nàng nghĩ lại cảnh thảo nguyên trong đêm và tâm trạng đầy phấn kích của mình trước cảnh tượng mênh mang huyền ảo đó, bất giác mỉm cười, lòng thầm nhủ, nếu không bị Lý tướng bắt ép lấy người có chức có quyền, không có những quy tắc lễ nghi ngặt nghèo, được sống tự do trên mảnh đất tươi đẹp này cũng thực dễ chịu. Nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng như ý, vả lại đây đâu phải thời hiện đại, mình muốn làm gì thì làm. A La lại thở dài, cuộc sống thoải mái tự do này, được ngày nào hay ngày đó. Ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, việc cần làm gấp bây giờ là nhanh chóng rời khỏi tướng phủ.
A La dùng xong bữa sáng, đợi thất phu nhân đi thỉnh an trở về, nàng nói với bà: “Mẹ à, bây giờ bạc đã đủ rồi, chúng ta trốn được chưa?”.
Thất phu nhân tươi cười: “Tam Nhi, chúng ta trốn thế nào? Hiện vẫn chưa có kế sách vẹn toàn, không thể khinh suất manh động, nếu không chúng ta chạy được bao xa?”.
A La cũng cười: “Con biết, chỉ là con quá nóng ruột muốn đi. Mẹ yên tâm, sẽ không có sơ suất gì đâu”.
Bây giờ có ngân lượng rồi, ít nhất cũng còn thời gian một năm nữa, đủ để chúng ta vạch định kế hoạch chu đáo, chuẩn bị tốt mọi thứ.
Thất phu nhân mỉm cười, hài lòng.
Chú thích:
11. Đăng Đồ Tử có nghĩa bóng là “kẻ háo sắc”, Thanh La mắng Lưu Giác nhưng chàng ta lại không hiểu hàm nghĩa này.
 
Chương 10 Hôm đó, Tử Ly và A La hẹn nhau ở Tố tâm trai, vừa ngồi xuống gọi món, Lưu Giác đã xuất hiện. Chàng điềm nhiên ngồi xuống cạnh họ, mỉm cười với Tử Ly: “Có thêm ta không thấy phiền chứ? Nghe nói đây là sản nghiệp dưới tên tứ điện hạ, chặn đứt đường làm ăn của Thiên phong lầu, được coi là Phong thành đệ nhất chay yến. Lần đầu ta đến đây, xin chớ đuổi đi”.
Tử Ly cười, nói: “Lần trước uống rượu của tiểu vương gia, lần này đương nhiên phải mời đáp lễ”.
Tử Ly không nói gì, A La cũng không tiện đuổi Lưu Giác, chỉ có điều nhìn thấy chàng, lòng nàng không vui, luôn muốn chỉnh chàng một trận. Nàng rất hoài nghi, thường xuyên chạm trán Lưu Giác, chàng ta có nghìn mắt hay sao? A La tiếc là mình không thể biến thành con gián, con muỗi hay côn trùng, để chàng ta nhìn thấy là tự tránh xa.
Nàng cúi đầu uống trà, đột nhiên nghĩ, tại sao bây giờ mình lại trở nên mềm yếu như thế. Trước đây, ở thời hiện đại, nếu gặp tình huống tương tự, nếu bị gã trai nào quấy rầy, nàng đã thẳng thừng mời gã đi không chút khách khí, ở đây lại phải cân nhắc nhiều như vậy. Càng nghĩ càng bức xúc, giá có thể không cần quan tâm gì hết, thích cáu thì cáu, thích giận thì giận, cứ kìm chế thế này đến phát điên mất. A La nhìn Tử Ly, khuôn mặt chàng vẫn phảng phất nụ cười, lại nhìn Lưu Giác vẫn vẻ phớt đời thường lệ. A La thầm nghĩ, hai vị cứ ngồi nhìn nhau ăn nhé, bản cô nương không muốn tiếp. Nàng đứng dậy, mỉm cười nói: “Muội ra đằng sau một lát, sẽ quay lại ngay”.
A La vừa đi, thức ăn đã bê lên, Lưu Giác cười: “Không khách khí nữa!”. Cầm đũa nếm thử, Tử Ly buồn cười nhìn vẻ ngạc nhiên, tán thưởng dần dần lộ ra trên nét mặt chàng ta. Lưu Giác “chà” một tiếng, hỏi: “Tứ điện hạ thần thông quảng đại, tìm đâu ra đầu bếp cao tay như vậy?”.
Tử Ly cười: “Là do A La dạy đầu bếp làm”.
Thần sắc Lưu Giác hơi biến đổi: “Nàng ấy giúp điện hạ dạy đầu bếp nấu ăn?”.
 
Tử Ly cười, gật đầu: “Nàng ấy chỉ dạy bốn năm món, nói là chỉ biết bằng ấy thứ. Có điều, thực khách đến Tố tâm trai vẫn rất đông. Ở đây cũng còn nhiều món khác nhưng mấy món này vẫn là những món chủ lực hút khách nhất”.
Lưu Giác cười: “Đã đến đây, ắt phải nếm hết các món”.
Hai người ăn được một lát, thấy A La vẫn chưa trở lại, quay ra chuyện phiếm với nhau, hai bên dường như cũng tâm đầu ý hợp. Lưu Giác cảm thấy, càng tiếp xúc với tứ hoàng tử càng phát hiện Lưu Phi có vẻ thân thiện bẩm sinh. Tử Ly cũng thấy Lưu Giác không ngang tàng như vẻ bề ngoài, nói năng rất có chủ kiến. Hai người nhìn nhau, đều nghĩ, người này có thể cùng với mình được mệnh danh đại công tử Phong thành, ắt có chỗ hơn người. Tử Ly nâng chén rượu mời Lưu Giác: “Tiểu vương gia, chén này bản vương mời đệ, nếu sớm biết đệ ái mộ Cố tiểu thư, bản vương nhất định ngăn cản phụ hoàng ban hôn”.
Lưu Giác sửng sốt, mỉm cười: “Điện hạ hiểu nhầm rồi. Tiểu vương chỉ là cảm thấy tiếng đàn của Cố tiểu thư rất phi phàm, nhân tài xuất chúng, đâu có chuyện ái mộ, muốn trở thành tri kỷ”.
Tử Ly cười: “Vậy tại sao Tùng phong đường lại treo bức họa Cố tiểu thư, ngày ngày nhìn ngắm?”.
Lưu Giác giật mình. Tùng phong đường gần như được coi là cấm địa của vương phủ, không được chàng cho phép, không ai được tự tiện ra vào. Hơn nữa, lại được Thanh tổ bảo vệ, chim bay còn khó lọt, Lưu Phi làm thế nào biết được những chuyện vụn vặt đó? Lần trước ở trên thảo nguyên hình như chàng ta cũng nhắc chuyện này. Lưu Giác mặt vẫn không biến sắc, đáp: “Ta thích vẽ mỹ nhân, phàm các thanh nữ đã gặp, xứng là tuyệt sắc ta đều vẽ và lưu giữ. Rượu này nên là ta mời điện hạ, lưu giữ chân dung Cố tiểu thư quả là bất kính với vương phi của tứ hoàng tử. Tối nay sẽ sai người đưa đến quý phủ, xin người thu nhận, chớ cười nhạo”.
Tử Ly mỉm cười: “Ái mộ mỹ nhân, lòng ai chả có, tiểu vương gia biết lễ như vậy, lại khiến bản vương thấy mình quá hẹp hòi”.
Hai người cười ha hả cùng cạn chén.
 
Một người hầu đi đến, nói với Tử Ly: “Tam tiểu thư có lời nhắn, là bỗng thấy người khó chịu, đã về phủ trước, xin hai ngài cứ vui khỏi cần bận tâm”.
Tử Ly mỉm cười, bụng nghĩ, A La ghét Lưu Giác không ở mức bình thường, nhìn thấy chàng ta là không muốn ăn.
Lưu Giác vẻ ngoài vẫn thản nhiên, nhưng lòng nổi sóng, Lý Thanh La! Nàng giỏi lắm, bao mỹ nhân trong thiên hạ mong được ta liếc mắt, còn nàng thấy mặt ta là không còn hứng ăn uống?
Hai người trong lòng đều theo đuổi ý riêng, sắc mặt vẫn không thay đổi, tiếp tục uống rượu. Chén cạn lại rót, thầm khâm phục tửu lượng của nhau. Những nậm rượu trống không trên bàn mỗi lúc một nhiều, bên ngoài trời tối dần. Tử Ly say trước, nói năng có phần thoải mái: “Tiểu vương gia, tửu lượng của tiểu vương gia đáng khâm phục, tốt quá!”.
Lưu Giác cười ha hả, ánh mắt lơ mơ nhìn Tử Ly: “Tiểu vương gia cái gì, nếu không chê, cứ gọi ta là Doãn Chi”.
“Được, Doãn Chi, đừng có điện hạ điện hạ mãi thế, cứ gọi ta là Tử Ly!”. Tử Ly cũng cười ha hả, khuôn mặt vốn dĩ như cười như không giờ đã say khướt.
Lưu Giác lảo đảo đến ngồi xuống bên Tử Ly, dang tay ôm vai chàng, nói to: “Hầu đâu, mang rượu lên!”. Vẻ mặt lơ mơ, miệng cười ngốc nghếch: “Điện hạ… Tử Ly, nói xem, Lý Thanh La có, có điểm nào… hay? Nàng ta kém xa đại tỷ, nhị tỷ, bất kỳ khuê nữ nào ở Phong thành này cũng hơn nàng ta, sao nàng ta không có mắt thế?”.
Nói đoạn đứng lên, tay chắp eo, lảo đảo suýt ngã, miệng líu ríu: “Nàng ta đã nghe danh ngũ đại công tử Phong thành này chưa? Đầu óc Lý tướng để đâu? Nàng ta chẳng qua là con gái một tỳ thiếp bị thất sủng?”. Nói đoạn loạng choạng trở về chỗ ngồi, lại cầm nậm rượu rót tiếp.
 
Tử Ly cười khì khì: “Doãn Chi, đệ đâu biết A La quả là báu vật, quen nhau đã lâu như vậy mà ta vẫn không nhìn ra nàng ấy, nàng ấy rất khác, rất khác biệt. Hoàn toàn không giống một thiếu nữ mười ba, nhưng lòng dạ rất tốt. Nếu cưới được A La làm vợ, ta đây mãn nguyện lắm thay”.
Luu Giác cười khì khì: “Vậy Cố gia thiên kim thì sao?”.
Tử Ly cười tự đắc: “Ta đương nhiên nâng niu A La trên lòng bàn tay. Nếu lòng nàng có ta, thì nàng sẽ hiểu ta chỉ là bất đắc dĩ mà thôi”.
Lưu Giác lại uống hết một nậm rượu, chỉ biết lắc đầu cười. Cuối cùng Tử Ly giơ tay lắc người chàng ta: “Doãn Chi, Doãn Chi, hì hì, ngươi còn say hơn ta”. Nói xong gục đầu xuống bàn.
Lưu Giác cười ha hả đẩy Tử Ly: “Tử Ly, điện hạ, lại còn nói ta say hơn, ha ha!”. Cười mãi, lát sau há mồm nôn thốc nôn tháo, người cũng đổ gục xuống bàn.
Đúng nửa canh giờ sau, bên ngoài cửa sổ một bóng người nhảy vào, đi đến bên Lưu Giác, lặng lẽ nhìn một hồi lâu, tay cầm dao vung lên. Lưỡi dao xé gió nhanh như chớp, bay đến bên Lưu Giác thì dừng đột ngột, Lưu Giác vẫn không động đậy. Người này nói khẽ: “Điện hạ, chàng ta say rồi”.
Tử Ly ngóc đầu khỏi mặt bàn, sắc mặt đã trở lại bình thường, mắt băn khoăn nhìn Lưu Giác hồi lâu, nói với người kia: “Gọi xe ngựa đưa về vương phủ, dọc đường chăm sóc chu đáo”.
Lưu Giác đã say khướt, người mềm nhũn được khiêng vào phủ. Hai tỳ nữ của Tùng phong đường là Tư Thi và Tư Họa bận rộn cuống quýt mới thu dọn sạch sẽ, Lưu Giác lại há miệng nôn tiếp, vật vã hồi lâu mới ngủ thiếp đi.
Hai tỳ nữ nhẹ nhàng khép cửa đi ra. Trong phòng chỉ còn một mình Lưu Giác nằm trên gi.ường. Chàng lắng nghe động tĩnh, biết xung quanh không có ai, mới từ từ mở mắt, hai mắt hoàn toàn tỉnh táo, trong sáng, không một vết tích của say rượu.
 
Từ khi Tử Ly vô tình nói ra bức họa của Cố Thiên Lâm ở Tùng phong đường, Lưu Giác bỗng lưu tâm. Chàng vốn không nên nghi ngờ Tử Ly, nhưng mấy hôm trước trên thảo nguyên bình rượu từ Biên Thành mang về mà chàng ném cho Tử Ly không phải là rượu thường, dù người có tửu lượng cực lớn, chỉ cần uống một ngụm sẽ lập tức bị sặc bởi tửu tính bỏng rát như lửa của nó, nhưng lúc đó Tử Ly lại ngửa cổ tu một ngụm lớn, theo phán đoán của Lưu Giác, tửu lượng của chàng và Tử Ly cũng tương đương, Tử Ly không lý nào lại say trước chàng.
Lưu Giác nghi ngờ nên cũng giả bộ say. Chàng còn cố tình uống thêm hai nậm nữa, rồi vận công ép bụng nôn ra. Chàng gục xuống bàn, khi đã gần hết kiên nhẫn thì nghe thấy tiếng thở từ ngoài cửa sổ, ngay sau đó có bóng người nhảy vào. Người này rút dao vung lên, chàng vẫn không động đậy, lúc đó càng khẳng định Lưu Phi giả say. Trên thảo nguyên chàng biết thị vệ tùy tùng của Tử Ly luôn ẩn nấp đâu đó quanh chàng ta, người vừa nhảy vào nếu không phải là thân tín của Tử Ly, thị vệ của chàng ta sao có thể cho mang dao xông vào, huống hồ trong lúc Lưu Phi đang say.
Quả nhiên sau khi người đó thử ra tay, Tử Ly đã tỉnh ngay, chỉ sai thuộc hạ chăm sóc chàng đưa về phủ. Lưu Giác thâm tâm biết rõ, phụ thân chàng rất quan trọng đối với tứ hoàng tử, nếu hôm nay mình nhân lúc chàng ta say, trở mặt hoặc nói điều gì sơ suất, hậu quả sẽ khôn lường.
Hành động này của tứ hoàng tử là có ý đồ thăm dò gì đây? Thăm dò mình có phải là người của thái tử hay không ư? Bởi vì mình nói dối là đã cầu thân với Lý tướng, mà Lý tướng rõ ràng là người của phe thái tử? Tứ hoàng tử lại thăm dò thái độ của mình đối với Cố gia thiên kim, có phải chàng ta nghi ngờ do bị cướp mất người trong mộng nên mình hận chàng ta?
Lưu Giác nằm trên gi.ường âm thầm suy nghĩ. Tứ hoàng tử có thể biết được những chuyện trong Tùng phong đường, tất đã có nội ứng bên cạnh mình. Nội ứng này thân cận bên mình, lại hiểu rõ Tùng phong đường có thể là ai? Những người có thể ra vào Tùng phong đường đa số là những binh sĩ quyết tử, vốn là trẻ mồ côi được nuôi dưỡng từ nhỏ, rút cuộc chàng ta đã mua chuộc được ai? Người đó do tứ hoàng tử bố trí hay là do Ninh vương bố trí?
Lời của tứ hoàng tử nửa thật, nửa giả. Lưu Giác nhận ra những khi Tử Ly nói năng sơ hở là những lúc có mặt A La, nàng ta là điểm yếu của tứ hoàng tử ư?
 
Lưu Giác nhớ lại, khi say Tử Ly nói A La rất khác thường, chàng ta nhìn không thấu. Chàng đã sai người theo dõi A La, tin tức báo về cho biết, A La từ nhỏ văn tài bình thường, sáo cũng mới học sau khi từ Đào hoa yến trở về. Nàng ta có chỗ nào khác thường? Lưu Giác vắt óc suy nghĩ mỗi câu nói của Tử Ly, một ý nghĩ như ánh chớp vừa lóe trong đầu, chàng ngồi bật dậy.
Tử Ly nói: “Nàng ấy hoàn toàn không giống một thiếu nữ mười ba”, Lưu Giác thở phào, chính câu này. Trong Đào hoa yến, A La mới mười hai tuổi, còn suýt thì bị té xuống suối, thấy đôi chân trần bị người khác nhìn đã đỏ mặt mắng là dâm tặc. Khi gặp lại, thấy nàng ta nằm thản nhiên trên thảm cỏ, không chút e dè, nàng ta còn biết võ công, quyền cước kỳ lạ của nàng ta không biết học được từ đâu, chàng mãi vẫn không điều tra ra. Nàng ta có khuôn mặt trẻ con, nhưng thần sắc và thái độ khi nói lúc đó tuyệt đối không giống một tiểu thư danh giá lần đầu xuất phủ. Theo tin nắm được, Tử Ly bên bờ sông vô tình nghe được tiếng sáo của nàng ta, mấy tháng liền ngày nào cũng đến thổi tiêu, hòa tấu với nhau. Tứ hoàng tử có tài thổi tiêu, điều này triều đình ai cũng biết, tiếng tiêu là do Trần hoàng hậu dạy cho, sau khi Trần hoàng hậu qua đời, tứ hoàng tử càng say mê thổi tiêu. Có thể họa tiêu với anh ta, tiếng sáo của A La chắc chắn không kém bao nhiêu. Nhưng trong bữa tiệc thưởng trăng đêm đó, tại sao nàng ta lại cố ý giấu tài, bỏ qua cơ hội thể hiện trước mọi người.
Lưu Giác nghĩ, lời của Tử Ly ba phần thật, ba phần say, A La này tuyệt đối không bình thường. Chàng lại nằm xuống, càng bội phần hứng thú đối với A La. Nhưng chàng không vội, nhất định có ngày chàng sẽ tìm ra nguyên cớ của mọi nghi ngờ hôm nay.
Sáng sớm vừa tỉnh dậy, Tư Thi đã mang chậu bạc đựng nước nóng cho chàng rửa mặt, nói: “Tối qua vương gia say quá, nô tỳ đã nấu canh giã rượu, sáng sớm uống một bát sẽ ấm dạ”.
Lưu Giác nghĩ một lát, đột nhiên hỏi: “Ta trở về như thế nào?”.
Tư Thi bụm môi cười: “Tiểu vương gia bị người ta khiêng về, hình như là người của phủ tứ hoàng tử”.
Lưu Giác “ồ” một tiếng. Rửa mặt, uống canh xong, lại nhìn bức họa trên tường, nói với Tư Thi: “Bảo người phong bao cẩn thận đưa đến phủ tứ hoàng tử”.
Tư Thi đi gỡ bức họa xuống, Lưu Giác giơ tay ngăn lại: “Gọi Lưu Anh đến đây”.
Tư Thi đi khỏi, Lưu Giác lại ngắm kỹ bức họa, trầm ngâm một lát, lập tức đến bên án thư, vẽ một bức họa khác của Cố Thiên Lâm, dung mạo xiêm y giống hệt bức cũ, chỉ khác có đôi mắt.
Khi Lưu Anh bước vào, Lưu Giác trao cho anh ta bức vẽ mới, nói: “Mang bức này đi hồ lại giống như bức cũ, đưa đến phủ tứ hoàng tử. Nếu có ai hỏi thì nói là vật quay về nguyên chủ”. Lại cầm lên bức họa cũ, nhìn đôi mắt trong đó lần nữa, giao cho Lưu Anh: “Bức này đem đốt đi, nhớ làm cho kín đáo”.
Lưu Anh cầm bức họa đi ra.
 
Lưu Giác tính ngày giờ, chỉ còn một tháng nữa là đến hôn lễ của Tử Ly với Cố Thiên Lâm. Chàng rất muốn biết Tử Ly sẽ ăn nói thế nào với A La. Lý tướng triệu tập cuộc họp toàn gia, A La và thất phu nhân vẫn ngồi ở cuối hàng ghế bên phải. Lý tướng nói: “A Lôi được gả vào Đông cung đã được ba tháng, đại hôn lễ của tứ hoàng tử cử hành vào tháng bảy, vẫn còn nửa tháng nữa. Người của A Lôi từ cung nhắn ra, Đông cung mở tiệc chúc mừng hôn lễ của tứ hoàng tử, để A Lôi đỡ nhớ nhà, đã đặc biệt gửi thiệp mời chúng ta. Lần này đại phu nhân và Ngọc Mai cùng A Phỉ, A La vào cung trước. A Phỉ à, Thành thị lang đã được thăng làm Binh bộ thị lang, đợi hôn lễ của tứ hoàng tử hoàn tất, cha sẽ lo liệu hôn sự cho con”.
Thanh Phỉ đỏ mặt thẹn thùng, khẽ nói: “Cha đứng ra lo liệu là phải lắm”.
Lý tướng cười ha hả: “Hai con gái của Lý gia đã có nơi có chốn, cha quả thật rất vui, may vẫn còn A La ở bên cha”.
A La lập tức ngoan ngoãn trả lời: “Vâng, thưa cha, A La muốn ở bên cha mãi mãi có được không?”.
Lý tướng cười: “Con gái lớn phải gả chồng. A La cũng sắp tròn mười bốn, đến tuổi cập kê, người tìm đến cầu thân e là giẫm nát bậc cửa tướng phủ mất”. Nghe thấy thế, mấy phu nhân cũng cười theo.
A La cười nhạt, nếu không nhìn thấu tâm địa bán con cầu vinh của Lý tướng, bầu không khí này có lẽ là cảnh đại gia đình hòa thuận hiếm hoi đẹp đẽ nhất trong phủ đường.
 
Chương 11 Đây là lần thứ hai Thanh La vào cung, vương cung đối với nàng đã không còn hấp dẫn nữa. Thanh Phỉ lại không nén nổi vui mừng, lâu lắm rồi nàng chưa được gặp chàng trạng nguyên hào hoa tuấn kiệt đó.
Đông cung của thái tử tọa lạc ở sơn cốc sườn phía đông của đại điện, các hoàng tử trước khi lập gia thất đều ở trong những cung điện trên sơn cốc này, đối xứng với cung hoàng hậu và phi tần phía xa. Phủ mới đã xây xong, sau hôn lễ, tứ hoàng tử sẽ chuyển đến vương cung, cặp tân hôn sẽ lưu lại nửa tháng trong vương cung sau đó sẽ chuyển về nơi ở mới, thái tử mở tiệc lúc này theo thông lệ chủ yếu là để thể hiện tình huynh đệ keo sơn.
A La không biết tình cảm của thái tử và Tử Ly như thế nào, không ai nói với nàng về điều đó cả. Nhưng qua đọc sách và những câu chuyện nghe được, nàng đoán là quan hệ giữa họ cũng không mấy thân tình. Không cùng mẹ sinh ra, chỉ vì ngôi báu đó, từ khi sinh ra, sự nghi kỵ đề phòng lẫn nhau giữa các hoàng tử đã lớn hơn cả tình thân. Nàng đã nhìn thấy thái tử, đích thực là dòng dõi long phượng, Tử Ly cũng không thua kém, đều là bậc tài mạo phi phàm. Nếu Tử Ly tầm thường một chút có lẽ lại tốt, thái tử sẽ không nghi ngờ. A La chỉ hy vọng hai người đó có thể chung sống thuận hòa, ít nhất cũng không có hận thù.
Vương Yến Hồi đoan trang ngồi bên thái tử, ngắm mãi nàng ta cũng không đẹp bằng Thanh Lôi. Nhưng cũng khí chất cao quý như vậy, Vương Yến Hồi vừa ngồi xuống bên thái tử, đã thấy ngay sự khác biệt về thân phận so với Thanh Lôi. A La nghĩ đến các quan chức thời hiện đại cũng thế, vị trí của chánh, phó hết sức rõ ràng, tuyệt đối không thể nhầm lẫn. Thanh Lôi dù được sủng ái đến mấy, chỉ cần có mặt Vương Yến Hồi, là phải ngồi lui phía sau, tâm thái của con người tự nhiên cũng thay đổi.
Hôm nay là lần đầu tiên nàng nhìn thấy Tử Ly và Lưu Giác trong trang phục hoàng tộc chính thức. Vừa ngắm vừa thầm xuýt xoa, cả hai người đều vận mãng bào thắt đai ngọc, ngoài hoa văn và màu sắc thêu trên y phục hơi khác một chút, ngoài ra không có gì khác biệt. Người đẹp vì lụa, đổi trang phục khác thì ai biết được ngươi là đồ khốn? Nàng cười thầm, không hiểu tại sao lại nghĩ tới câu đó.
 
Cố Thiên Lâm không đến, chắc là nghĩ sắp đến hôn lễ, nên ở nhà cho đúng gia phong. Thanh Phỉ ngây ngất nhìn vị trạng nguyên của mình, thỉnh thoảng ánh mắt tươi cười của Thành thị lang cũng đáp lại, Thanh Phỉ xúc động run run, tay nắm chặt khăn tay. A La thầm nghĩ, mệnh của Thanh Phỉ vẫn tốt hơn Thanh Lôi .
Thái tử nói: “Hôm nay mở tiệc chủ yếu là chúc mừng đại hôn của tứ đệ. Đại ca này mãi lưu luyến”. Nói đoạn, mắt đã đỏ hoe.
Tử Ly vội rời chỗ, đứng dậy, dáng điệu hốt hoảng e sợ. A La nhìn rất rõ, lòng nàng băn khoăn, đây không phải là hình ảnh tứ hoàng tử mà nàng đã biết. Ấn tượng mà Tử Ly đem đến cho nàng là dù núi Thái Sơn sụp đổ, chàng vẫn không thay đổi sắc mặt, nụ cười thường trực hầu như chưa bao giờ tắt trên môi. Đã mấy lần nàng được chứng kiến điều ấy! Lẽ nào, Tử Ly đang diễn kịch trước mặt thái tử, chỉ có hai khả năng, một là tỏ ra yếu thế để bảo toàn tính mạng, hai là để mê hoặc đối phương. Tử Ly… A La thở dài, không muốn nghĩ tiếp.
Thái tử nói: “Sau này đại ca khó lòng được nghe tiếng tiêu trứ danh của tứ đệ, bây giờ trong sơn cung này chỉ có mình ta, muốn tìm người uống rượu thưởng đàn cũng khó”. Tử Ly tựa hồ cảm kích rưng rưng, giọng nói có phần nghèn nghẹn: “Đại ca, Tử Ly sẽ thường xuyên vào cung thăm đại ca”.
Lát sau thái tử cười, lại tiếp: “Hôm nay phải vui hết mình, nói những chuyện đó làm gì. Tân khách đều là thân bằng cố hữu, mọi người cứ thoải mái tự nhiên. Buổi sớm trời đẹp thế này, ta cùng thưởng thức rượu ngon, nghe múa hát mới phải”. Nói xong vỗ tay ra hiệu, nhạc tấu lên, vũ nữ uyển chuyển bước ra. Thái tử lại nói: “Tứ đệ, trước đây vương phi tương lai cửa tứ đệ cùng với Lôi Nhi của ta được mệnh danh là song tuyệt Phong thành. Ông trời quả khéo se duyên, huynh đệ ta có diễm phúc cưới được hai trang tuyệt sắc”.
Tử Ly khiêm tốn: “Thiên Lâm sao sánh được hiền phi của đại ca, chỉ một khúc “Thu thủy” đã danh chấn Phong thành”.
 
Thái tử cười ha hả, ánh mắt đằm thắm nhìn Thanh Lôi: “Hôm đó tứ đệ không có mặt, khúc “Bội lan” của Cố tiểu thư mới thực lay động lòng quan khách, tâm như lan mà khí chất thông tuệ, đại ca thực lòng rất bối rối. Tiếng đàn của Lôi Nhi đâu sánh bằng, nhưng ta ngưỡng mộ tâm hồn Lôi Nhi”.
Thanh Lôi e lệ cúi đầu. A La nghe vậy thấy buồn cười. Cổ nhân dùng tiếng đàn nói thay tiếng lòng, một khúc cầm đã có thể nhìn nhận đánh giá một con người, thực không phù hợp với quan niệm của người hiện đại. Nếu đúng lời nói là tiếng lòng, thì người ta chỉ cần mấy cái mặt nạ thay đổi, chẳng phải có thể thoải mái lừa gạt hay sao?
Thái tử phi Vương Yến Hồi xen lời: “Nếu tứ đệ hôm đó chưa được thưởng thức khúc “Thu thủy” của Thanh Lôi, vậy tiểu muội có vui lòng gảy lại khúc đó không. Nói thực, ta cũng muốn nghe lại lần nữa”.
Thái tử rất vui: “Phải đấy, Lôi Nhi, sau khi nghe nàng gảy ở Đào hoa yến, ta chưa thấy nàng chơi lại khúc này. Hôm nay gảy lại, để tứ đệ được thưởng thức một phen”.
Lời đã nói đến thế, Thanh Lôi đứng lên thưa: “Cho phép thiếp vào trong chuẩn bị một chút”. Sau khi thi lễ, Thanh Lôi đứng lên, có cung nữ dìu nàng đi về phía tẩm cung. Lúc đi qua bàn A La đột nhiên nói: “A Phỉ, A La hai muội đi cùng tỷ được không?”.
Đại phu nhân, tam phu nhân sắc mặt đã hơi biến đổi, tài đàn của Thanh Lôi không có gì đáng sợ, điều đáng sợ là có thể khiến người nghe nhận ra. Khách dự tiệc hôm nay rất nhiều người giỏi đàn, chỉ cần đàn ý hơi thay đổi họ sẽ lập tức nhận ra. Đại phu nhân, tam phu nhân ra hiệu cho Thanh Phỉ, Thanh La ra theo.
A La hiểu, Thanh Lôi gọi cả Thanh Phỉ là để che mắt mọi người, chủ yếu là muốn gọi nàng. Qua khóe mắt nàng liếc nhìn khuôn mặt mủm mỉm cười của Vương Yến Hồi, thấy nàng ta cũng đang nhìn về phía này, chợt lạnh người, lẽ nào tiếng đàn hàng ngày của Thanh Lôi khiến Vương Yến Hồi nghi ngờ? Nghe đồn nàng ta mưu lược hơn người, hôm nay nhân có tiệc nàng ta yêu cầu Thanh Lôi chơi lại khúc “Thu thủy” liệu có dụng ý gì khác không?
 
Thanh Phỉ và Thanh La đứng lên, đưa Thanh Lôi vào cung thất. Sau khi cho tả hữu lui ra, Thanh Lôi đột nhiên vung tay tát A La. Theo phản xạ nàng lùi xuống để tránh, nhưng cổ vẫn bị móng tay Thanh Lôi cào xước, đau nhoi nhói.
A La cười gằn: “Thanh Lôi, trước khi đánh muội, tỷ phải hiểu, nếu muội ra ngoài với cái mặt hằn dấu tay, quan khách nhìn thấy, tỷ định giải thích thế nào? Dạy dỗ em gái ư? May mà muội tránh kịp”.
Thanh Lôi sắc mặt thoắt biến đổi, đột nhiên ống tay áo vung lên chiếc bình hoa rơi xuống vỡ tan, nàng nhanh tay ấn bàn tay trái lên một mảnh bình vỡ, máu tươi trào ra.
Thanh Phỉ và Thanh La thấy vậy sững người, Thanh Lôi bước đến xô mạnh Thanh La, A La không đề phòng suýt ngã, loạng choạng mấy cái mới đứng vững: “Lý Thanh Lôi tỷ định làm gì?”.
Thanh Lôi nhìn nàng trân trối, ánh mắt vừa phẫn nộ vừa thê lương: “Muội muội của ta, muội muội thích giấu tài của ta, muội giống hệt mẹ mình, bản tính của gái lầu xanh không đổi, cố tìm cách để một lần xuất hiện đã thành danh! Nếu muội không thay ta đàn khúc đó, thì ta đã không khốn khổ thế này, ngày ngày sống trong sợ hãi! Thái tử nghe là khúc đàn của muội, khiến chàng xiêu lòng cũng là tâm hồn muội, là muội! Muội có biết cái vẻ mặt mủm mỉm như cười như không của Vương Yến Hồi khi nghe ta đàn khiến ta tim đập chân run thế nào không? Muội có biết, thái tử càng sủng ái ta, ta càng lo sợ mất chàng hay không? Cứ coi như lúc đó ta không đàn được, ta bị bẽ mặt, ít nhất ta còn chưa yêu chàng! Còn bây giờ thì sao?”. Giọng Thanh Lôi cố nén xuống thấp nhưng vẫn rít lên, nghe như hận đến xương tủy.
A La nghe vậy, lòng buồn não nề. Bàn tay đầy máu của Thanh Lôi thật đáng sợ, A La quay mặt đi nói: “Lúc đó không ai nghĩ đến tâm trạng hôm nay của tỷ, Thanh Lôi, tỷ trách muội cũng chẳng ích gì. Tỷ đã được gả cho thái tử, dẫu lúc đó thái tử do nghe tiếng đàn mà lựa chọn tỷ. Nhưng với cái tài và cái tình của tỷ, dẫu sau này tỷ không bao giờ đàn lại khúc “Thu thủy” kia nữa, thái tử cũng vẫn sủng ái tỷ. Kỳ thực tỷ không cần phải làm tổn thương bàn tay để trốn tránh. Tâm tư lúc tỷ đàn khúc “Thu thủy” hồi ấy khác với tâm tư của người con gái đã được gả cho người mình yêu. Thiếu nữ thuở thiếu thời ngước nhìn bầu trời cao rộng, say mê bầu trời bao la, say mê làn nước mùa thu, mơ ước bay cao bay xa, nay xuất giá đi làm vợ người, tâm hồn trở nên êm dịu thanh bình cũng chẳng có gì không ổn. Tỷ có thể giải thích, tỷ chỉ muốn làm con chim nhỏ dựa vào đấng phu quân, thu lại ước mơ ước bay bổng trên bầu trời. Tự làm tổn thương thế này, tỷ không thấy càng khiến Vương Yến Hồi nghi ngờ hay sao?”.
 
Thanh Lôi đứng sững hồi lâu, ngón tay trái bị rách rất sâu, máu vẫn chảy ròng ròng. Thanh Phỉ ra sức dùng khăn lụa bịt lại, nước mắt từng giọt, từng giọt lớn rơi xuống. Thanh Lôi đột nhiên hét: “Người đâu, truyền thái y! Ta đau quá!”. Bên ngoài có tiếng chân bước vội, Thanh Lôi nhìn A La cười gian giảo: “Mọi chuyện bắt đầu từ muội, cũng kết thúc ở muội! Thanh Phỉ cũng chứng kiến rồi đấy!”. Nói đến câu cuối, ánh mắt dữ tợn nhìn Thanh Phỉ.
A La nổi da gà bởi tiếng cười đó. Thấy Thanh Phỉ người run lên, cúi đầu, A La không kìm được bèn hỏi: “Tỷ định làm gì? Định đổ vạ cho muội làm hiền phi của thái tử bị thương ư? Đại tỷ?”.
Thanh Lôi mặt trắng nhợt, cười lạnh lùng: “Muội thông minh lắm!”.
Lúc đó cung nữ bước vào cuống quýt hỏi: “Nương nương sao thế?”. Sau đó nhìn thấy bàn tay đầy máu của Thanh La và những giọt máu rơi be bét xuống nền liền kinh ngạc kêu lên. Trong cung bỗng chốc trở nên rối loạn.
Có cung nhân vội chạy đi nói nhỏ vào tai thái tử. Mặt thái tử liền biến sắc. Đại phu nhân vốn đã thấp thỏm lo âu, nhìn thấy thái tử tỏ vẻ giận dữ, nóng nảy, lại không nhìn thấy ba cô gái đi ra, càng thêm lo lắng. Nhưng vốn xuất thân chốn danh gia vọng tộc, bà cố trấn tĩnh ngồi yên, hai bàn tay để trên bàn đã nắm chặt run run.
Lúc đó thái tử mỉm cười: “Tứ đệ, các vị cứ việc vui ta đi xem tại sao chị em Lôi Nhi lại chậm trễ như thế”. Thái tử vừa đứng lên đã thấy Thanh Lôi, Thanh Phỉ, Thanh La đi ra. Thanh Lôi mặt vẫn còn ngấn nước, một bàn tay giấu trong ống tay áo, thái tử nhẹ nhàng vén lên, thấy bên trong bó vải trắng, loáng thoáng vết máu, liền hỏi: “Chuyện gì thế này?”.
Thanh Lôi nét mặt hoảng loạn, tỏ vẻ đau đớn, cố nở nụ cười: “Điện hạ, Lôi Nhi đi thay trang phục, không cẩn thận làm vỡ bình hoa, chẳng may bị mảnh vỡ cứa rách ngón tay”.
Thái tử không kìm được trách móc: “Sao lại không cẩn thận như thế? Có đau không?”.
Thanh Lôi nặn ra nụ cười, dịu dàng nói: “Không đau, nhưng thiếp không chơi đàn được, làm cho tứ điện hạ mất hứng”. Nói đoạn cúi đầu, vẻ vô cùng đau buồn tội nghiệp khiến người ta phải mủi lòng.
Vương Yến Hồi nhẹ nhàng: “Yến Hồi đã quên mất khúc “Thu thủy”, hôm nay nhờ phúc của tứ đệ tưởng được nghe lại, thật không may”.
 
Thanh Lôi cúi đầu nhận tội: “Làm mất hứng của tỷ tỷ, Thanh Lôi có tội”. Nước mắt tuôn như mưa trên khuôn mặt yêu kiều khiến thái tử lòng đau như cắt, bất chấp trước mặt mọi người, dịu dàng dỗ dành: “Không sao, sau này có cơ hội đàn cho tứ đệ nghe là được”.
Thanh Lôi nước mắt tuôn càng mau, đột nhiên nói giọng bi thương: “Tay thiếp đã tàn phế, điện hạ!”.
Mọi người nghe vậy thất kinh. Thái tử không tin là thật: “Nàng nói gì? Thái y!”.
Thái y run run bước ra, quỳ xuống bẩm: “Vết thương của nương nương không sâu, nhưng đúng vào kinh mạch của ngón tay, làm việc không ảnh hưởng, chỉ e không đủ linh hoạt để chơi đàn”. Lời vừa dứt, Thanh Lôi bật khóc thành tiếng: “Thanh Lôi sao có thể hầu hạ thái tử được nữa, để thiếp chết đi cho xong!”.
Thái tử nghe thái y nói vậy, mặt càng biến sắc: “Sao lại không thận trọng làm vỡ bình hoa để bị thương nặng đến thế?”.
Thanh Lôi cúi đầu khóc, không nói. Mọi người trong phòng dỏng tai nghe ngóng, xem ra có ẩn tình chi đây.
Thái tử thấy không ai trả lời, to tiếng quát đám cung nữ đang run cầm cập: “Các ngươi hầu hạ nương nương thế nào! Mang ra đánh, đến khi chịu nói ra mới thôi!”.
Mấy cung nữ quỳ sụp xuống khóc lóc: “Điện hạ tha tội! Là nương nương không cho chúng nô tỳ vào hầu, nô tỳ oan uổng quá!”.
Thanh Lôi vừa khóc vừa cầu xin: “Điện hạ, Thanh Lôi và hai tiểu muội mải nói chuyện để xảy ra sơ suất, thực tình không liên quan đến bọn họ”.
A La lạnh lùng chứng kiến, cảm thấy Thanh Lôi lúc này một phần là muốn đổ vạ cho mình, một phần có lẽ thật sự đau lòng: Thái tử coi trọng tiếng đàn của nàng ta như vậy, vốn chỉ định gây vết thương nhỏ, không ngờ lại động vào mạch máu làm cho tay tàn phế không thể chơi đàn được nữa.
Thái tử buồn phiền, với Thanh Lôi chàng vừa yêu vừa xót thương, nghĩ đến không được nghe nàng đánh đàn nữa liền nổi giận bừng bừng, nhưng không thể bộc lộ trước mọi người, đành ôm Thanh Lôi vào lòng an ủi.
A La nãy giờ vẫn đợi xem Thanh Lôi rút cục giá họa cho nàng thế nào, đến lúc này không thấy động tĩnh gì, cảm thấy rất lạ, đột nhiên nghe tiếng Thanh Phỉ, giọng nói tựa hồ không thể nào nhẫn nhịn được nữa: “Chỉ tại A La quá nghịch ngợm”.
 
Lời vừa dứt, Thanh Lôi đang ngồi trong lòng thái tử, trừng mắt nhìn Thanh Phỉ: “Muội im đi, nói lung tung gì thế!”.
A La vẫn không nói gì, thầm cười khẩy, Lý Thanh Lôi, cô muốn Thanh Phỉ đứng ra tố cáo ta, để xem rút cục các người nói gì!
Lúc đó Tử Ly rời chỗ đứng lên, nói: “Đại ca, hôm nay mở tiệc vui, tỷ muội họ vui đùa, chẳng may sơ suất. Lương đệ nương nương hiền đức cưng chiều muội muội, không nỡ trách phạt, coi như cho qua”.
A La thầm cảm kích, Tử Ly tốt quá, chịu đứng ra giải nguy cho mình. Nàng liền nhân cơ nhận tội: “Tỷ tỷ bị thương là do A La, A La trong lòng cũng buồn lắm, tỷ tỷ không trách phạt mà lại yêu chiều tiểu muội. Quả thực muội rất xấu hổ”. Nàng tưởng mình nói như vậy chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, nhận lỗi là được.
Không ngờ Thanh Phỉ có vẻ nhanh mồm nhanh miệng, nói: “Hừ, vừa rồi chẳng phải muội làm vỡ bình hoa, cố tình đẩy đại tỷ ngã, nếu không đại tỷ sao đến nỗi bị bị đứt kinh mạch! Chẳng qua đố kỵ đại tỷ mà thôi! Đại tỷ hiền lương, lại còn cưng chiều như thế!”.
Lời Thanh Phỉ vừa buông ra, không khí trong đại điện vốn đã thoải mái đi nhiều bỗng dưng trở nên căng thẳng hẳn lên. Thái tử trợn mắt nhìn Thanh La, lạnh lùng nói với đại phu nhân: “Tam tiểu thư của Lý phủ thì ra lại ác độc như thế!”.
Thanh Lôi thấy thái tử nổi cơn thịnh nộ, vội vàng kéo áo thái tử khẩn cầu: “Điện hạ, A La còn nhỏ, Thanh Lôi chẳng qua không thể chơi đàn được thôi. Lẽ nào điện hạ sủng ái Thanh Lôi chỉ vì tiếng đàn?”. Nói đoạn nước mắt lại trào ra như suối.
 
Quay lại
Top Bottom