Meika
Thành viên
- Tham gia
- 26/12/2023
- Bài viết
- 51
Chương tám
BỐN MŨI TIẾN CÔNG TÁO BẠO
Cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã tiến tới đỉnh cao quyết liệt nhất. Nhân dân và quân đội ta ở cả hai miền đã giành được những thắng lợi hết sức to lớn. Khi đế quốc Mỹ ồ ạt tăng quân để thực hiện kế hoạch chiến lược « Tìm và diệt », chúng huy động hầu hết những binh đoàn tinh nhuệ nhất : sư đoàn « Anh cả đỏ », sư đoàn « Lính cổ da » mở chiến dịch phản công mang tên At-ten-bo-rơ nhưng đã thất bại thảm hại.
Cuộc chiến tranh phá hoại của chúng vào miền Bắc, với quy mô ngày càng ác liệt, muốn biến miền Bắc « trở lại thời kỳ đồ đá » không còn đủ sức chi viện cho miền Nam, nhưng trái lại miền Bắc vẫn đứng vững và việc chi viện cho tiền tuyến lớn không ngừng tăng lên. Trong lúc các mục tiêu chiến lược của Mỹ ở Việt Nam đều bị phá sản, thì phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới kể cả nhân dân Mỹ với khẩu hiệu « phản đối đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam » lên cao chưa từng thấy. Nhà trắng và Lầu Năm góc Mỹ lâm vào thế bị động, lúng túng đối phó ở mọi phía. Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra rất sáng suốt, nhìn thấy thời cơ chiến lược đã đến, đã lãnh đạo quân và dân miền Nam thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt giành thắng lợi to lớn vào giữa Tết Mậu Thân (1968).
Để góp phần chi viện cho tiền tuyến lớn giành thắng lợi trong trận đánh có ý nghĩa lịch sử ấy, Quân ủy Trung ương và Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ đạo lực lượng vận tải chiến lược đường biển bằng mọi giá kịp thời tiếp tế vũ khí cho chiến trường.
Đoàn 125 nhận được một kế hoạch tuyệt mật từ Bộ Tổng tham mưu đưa xuống, chuẩn bị bốn chiếc tàu loại 100 tấn chở đầy vũ khí, sẽ vào bến đúng đêm ba mươi Tết. Mỗi chiếc tàu đi một hướng, nếu tàu nào bị lộ không được vào bến sẽ trở thành mũi nghi binh thu hút địch, để mũi khác rảnh rang tiến vào điểm đã định.
Tàu C.165 do thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm chỉ huy đi vào bến Vàm Lũng (Cà Mau). Tàu C.235 do thuyền trưởng Phan Vinh chỉ huy, vào bến Hòn Hèo (Phú Khánh), tàu C.43 do thuyền trưởng Đắc Thắng chỉ huy, vào bên Đức Phổ (Quảng Ngãi), tàu C.56 do thuyền trưởng Ba (Râu) chỉ huy vào bến Bà Rịa.
Ngay từ đêm các đội tàu xuất phát , bộ phận B cục tác chiến, sở chỉ huy đoàn 125 luôn có người thường trực theo dõi. Những ngày đêm các đội tàu đã vào tới vùng biển địch kiểm soát, mối lo lắng của những người chỉ huy tăng lên. Tư lệnh Hải quân Nguyễn Bá Phát thường xuyên có mặt ở sở chỉ huy đoàn 125 để kịp thời giúp các đội taù xử trí các tình huống phức tạp.
.. Khi nhận được bức điện của tàu C.235 « Tôi đã thả hàng xong », trong sở chỉ huy đoàn 125 vui mừng xôn xao. Thắng lợi ấy đã được tính toán tới ngay từ khi làm kế hoạch ; đã gửi gắm hy vọng và tin tưởng vào đội tàu C.235, nhất là thuyền trưởng Phan Vinh, nhưng khi bức điện này tới, mọi người vẫn cảm thấy đột ngột.
Hồi 22 giờ 30 phút còn nhận được điện của thuyền trưởng Phan Vinh nói «Cách bờ 19 hải lý, gặp tàu và máy bay địch bám », như vậy đội C.235 đã luồn lách thế nào mà vào được bến an toàn ?
Những người chỉ huy, ai cũng biết, đưa con tàu vào bến Hòn Hèo trong thời kỳ này là việc làm vượt xa sự táo bạo. Cái cửa hẹp để thắng lợi có thể lọt qua được là sự khéo léo, dũng cảm tuyệt vời trong việc lựa chọn thời cơ, mà thời cơ chỉ đến với không gian, thời gian ngắn ngủi nhỏ nhoi, đúng lúc, đúng chỗ địch sơ hở. Bến Hòn Hèo chỉ cách Nha Trang khoảng 12 kilomet, gần quân cảng Cam Ranh, nơi hang ổ của hải quân địch. Hai căn cứ rada gần đó, cùng với tàu chiến, máy bay trinh sát, tuần tiễu không hở một phút.
Thuyền trưởngt Nguyễn Phan Vinh thật xứng đáng với niềm tin cậy của lãnh đạo. Tên anh được những người chỉ huy hải quân có mặt ở sở chỉ huy đoàn 125 nhắc đến như niềm tự hào của chính mình. Người vui nhất lúc này là trung úy tiểu ban tác chiến Trần phong. Phan Vinh là bạn tri kỉ của anh. Cái thằng bạn con chấy cắn đôi ấy đã lập được kỳ công. Nó đã đem lại vinh dự cho bạn bè.
Các đồng chí chỉ huy người đứng, người ngồi trước một cái bàn lớn, trải hải đồ ở trên. Ngọn đèn măng-sông sáng lóa. Khói thuốc lá bay như một lớp sương mỏng khắp căn hầm. Từng nhóm trao đổi cảm nghĩ của mình. Tiếng chính ủy Phúc trầm ngâm :
- Bây giờ là 2 giờ 30, vẫn có khả năng ra kịp.
Chính ủy Phúc ngoảnh lại hỏi anh trợ lý thông tin :
- Bức điện biểu dương C.235 đã gửi chưa ?
- Báo cáo. Gửi rồi !
Tiếng trung tá Huỳnh Công Đạo vang lên :
- Alo .. này .. đồng chí động viên anh em canh máy theo dõi xem C.43 và C.165 có gọi về không. Alô .. C.56 à ..ừ ..ừ .. chúng tôi rất nóng mong tin của nó. Động viên anh em trực canh không được rời máy một phút.
Không khí trong sở chỉ huy bỗng lắng xuống. Mọi người nhìn về phía đoàn phó Huỳnh Công Đạo chờ đợi, lo lắng. Đạo buông ống nghe, cúi xuống xem hải đồ, rồi nói :
- C.156 và C.43 có thể xảy ra chiến đấu, đến bây giờ vẫn chưa có tin gì. C.56 đang gặp ba tàu địch ở khoảng này. Đạo đưa ngón tay xuống một điểm trên hải đồ. Chúng phát tín hiệu yêu cầu ta dừng máy. Máy bay thả pháo sáng, tàu ta vẫn đi. Cán bộ thuyền C.56 nhận định có thể xảy ra chiến đấu. Khả năng C.56 hôm nay vẫn chưa có thể vào được.
Mỗi người góp một ý kiến về cách xử trí cho tàu C.56. Nếu cứ cho tiếp tục vào sẽ xảy ra chiến đấu. Cho nó quay ra liệu có tránh được không. Thôi cứ cho nó ra để thu hút địch. Địch chẳng đã bám C.56 ba ngày liền mà không dám nổ súng là gì ..
Đang bàn bạc sôi nổi chưa ngã ngũ việc xử trí của C.56 nên thế nào, thì nhận được điện của tàu C.235. Bức điện cộc lốc « Tôi bị tàu chiến, máy bay địch phát hiện – Phan Vinh ».
Sở chỉ huy bỗng im phắc. Tiếng rào rào nhè nhẹ của mấy con dơi đang chao đi chao lại xung quanh đèn. Khuôn mặt các cán bộ đều đăm chiêu.
Chưa nắm hết kết quả trận tiến công « 4 mũi » này, nhưng mọi người đều thấy thắng lợi rất hạn chế. Không biết những anh em đi trên những con tàu ấy ra sao. Trần Phong nghĩ nhiều đến Phan Vinh. Mới 10 ngày qua, hôm chia tay nhau, Vinh siết chặt tay mình tạm biệt « hẹn gặp nhau trong ngày quang vinh », nhưng làm sao có thể lường hết được những gì xảy ra trong chiến tranh. Nỗi lo lắng chung, nỗi thương nhớ bạn cồn cào xé ruột, xé gan. Tiếng nói, hinh ảnh của Vinh như còn đâu đây « mày có bộ cánh nào khá hơn đưa tao mặc để đi kiếm cô vợ ..», « Thôi hãy xếp lại. Tao thấy lúc này suy nghĩ nhiều đến riêng tư sẽ khó tiến bước ». « Trời gầm, cái đầu tao cũng không thay đổi .. tao đã tình nguyện làm con lạc đà trong bãi sa mạc cách mạng ..», « Mầy sẽ lục trong va-li của tao, cái gì cần mầy cứ lấy, đưa cho thằng Châu hộp dao bào, cho thằng Thạnh những thứ gì để nó chuẩn bị cưới vợ, đưa cho anh Sử tao mấy chục ..». Liệu những lời lẽ đó có phải là lời trăng chối cuối cùng không ? Đến nay là hơn hai chục năm liên tục chiến đấu, công tác chưa có lúc nào cậu ấy dừng lại tính toán cho riêng mình. Ngay cả số lương hàng tháng cậu ấy cũng đem chia cho bạn bè nào gặp khó khăn. Chưa bao giờ Trần Phong thấy rõ phẩm chất cao quý của Phan Vinh như giờ phút này. « Dù có chết giữa biển cả vì lý tưởng cao đẹp còn hơn cuộc sống yên ổn tầm thường ». Lý tưởng ấy đã trở thành sức mạnh, không có khó khăn, nguy hiểm nào có thể lay chuyển được tinh thần cách mạng của Phan Vinh.
Phó đoàn Đạo , chính ủy Phúc trực suốt ngày đêm để chờ một dòng điện của các đội tàu C.235, C.165, C.43 gửi về, nhưng vẫn biệt vô âm tín.
Qua nhiều ngày không liên lạc được, thấy không còn hy vọng, Đạo hạ lệnh cho thông tin nghỉ thu canh.
Mọi người xoay sang tìm nguồn tin của những con tàu ấy qua các đài phát thanh công khai của địch. Vào các giờ chúng đưa tin chiến sự, các cán bộ chỉ huy, tham mưu cắt canh nhau nghe đài BBC, đài Tự do, đài phát thanh Sài Gòn.
Hồi 13 giờ ngày 24-3-1968 nghe đái Tự do giới thiệu có tường thuật đặc biệt một trận đánh trên biển. Các cán bộ chỉ huy đoàn 125 gọi nhau tới ngồi xúm quanh chiếc đài thu bán dẫn. Tiếng lè nhè của phát thanh viên nói :
« Đây là bài tường thuật vụ đuổi bắt chiếc « tàu ma » ở Nha Trang ». Nghe tới đó mọi người biết là nó đang nói tới chiếc tàu của Nguyễn Phan Vinh. Chính ủy Phúc thở dài nặng nhọc. Anh vặn núm âm lượng cho đài nói to hơn.
..« Cộng sản được lệnh chuẩn bị tăng cường lực lượng vũ khí nhất là bằng đường biển ở Nha Trang.
Hồi 19 giờ 30 ngày 29 tháng 2, phi cơ không tuần của hải quân báo cáo phát hiện nhiều tàu lạ ở ngoài khơi hải phận quốc tế. Gần hải phận Việt Nam có ba, bốn tàu lạ sắp vào hải phận chúng ta ..
Sau khi một chiếc xâm nhập vùng 2 duyên hải lúc 22 giờ (29-2), chiến hạm Ngọc Hồi, H.Q 617, bốn thuyền của duyên đoàn 25 được chỉ thị chặn bắt sống tàu này. Công việc săn đuổi « tàu ma » vô cùng hồi hộp. Trong đêm tối, tàu ta và tàu địch đuổi nhau trên biển. Lúc 22 giờ 30 tàu lạ còn cách Hòn Hèo 10 hải lý, có tốc độ 10 hải lý/giờ. Tàu ta không thắp đèn phải theo dõi bằng rada. Tàu địch bị lộ. Lúc 2 giờ (1-3) cách Hòn Hèo năm hải lý, sau đó tàu lạ chạy vào bờ lẩn trốn. Hồi 1 giờ 36 phút, chiến hạm Ngọc Hồi dùng rada phát hiện được tàu địch, HQ.12. HQ.17 và các thuyền ta đang tìm cách chặn bắt tàu trên. Lúc này, tàu ta được lệnh thắp đèn, tàu không thắp đèn là tàu địch bị khép chặt vào giữa, trong là bờ cạn. Sau hơn một giờ tìm kiếm, địch không chạy thoát. Lúc 1 giờ 51 phút ngày 1 tháng 3, bộ chỉ huy ra lệnh bật đèn sáng và tàu ở sát bờ không đèn là taù địch. Đến 2 giờ 20 phút, ta nhận thấy một tàu nằm sát bờ sau khi đã xác minh chính xác, các tàu được lệnh bắn các loại súng lớn nhỏ từ 12,7 trở xuống với ý định bắt sống tàu. Các pháo lớn bắn vào bờ không cho địch trên tàu tẩu thoát, đồng thời gọi phi cơ đến thả hỏa châu soi sáng. Biết không thể nào tẩu thoát, Việt Cộng ở trên tàu và ở trên bờ đã phản pháo. Lực lượng trên bờ của địch khoảng một tiểu đoàn, có lẽ đã nhận nhiệm vụ yểm trợ tàu. Biết vậy, các chiến hạm của ta đã lệnh bắn pháo lớn vào tàu địch. Sau 30 phút chống trả, tàu địch bốc cháy. Thời gian này phi cơ được gọi đến bắn phá dọn đường ở dọc biển cho một cuộc lục soát. Đến 2 giờ 41 phút (1-3), chỉ huy trưởng vùng 2 chiến thuật chỉ thị đổ bộ ngay trước khi trời sáng, nhưng vì hỏa lực Việt Cộng bắn ra dữ dội nên lực lượng đổ bộ phải rút lui chờ quân chi viện ..».
Nghe xong bài tường thuật lủng ca lủng củng của đài Tự do, anh em đưa ra nhiều nhận xét. Bọn chúng không bao giờ dám đưa ra hết sự thật, mà đã phải nói tới một trận đánh trả quyết liệt và không thu được kết quả gì rõ rệt, như vậy chắc chắn chúng sẽ bị thiệt hại lớn. Ở bến, từ lâu ta đã mất liên lạc, lực lượng nào có pháo lớn phối hợp với tàu lên, đã bị đánh phải bốc quân đi. Anh em tàu C.235 hay ai đánh ? .. Cuối cùng, các thủ trưởng đoàn 125 dựa vào bức điện của thuyền trưởng Phan Vinh báo cáo « .. đã thả hết hàng » và tin địch vừa đưa, để sơ bộ kết luận : .. như vậy là tàu C.235 đã hoàn thánh xuất sắc nhiệm vụ.
Nhiều công việc khác thúc bách cán bộ chỉ huy đoàn 125 rời khỏi sở chỉ huy. Nhưng những con tàu biệt tăm kia vẫn còn khắc khoải trong tâm trí mọi người. Mõi lần họp với cấp trên hoặc có một chuyến đi nào đí vừa trở về, các thủ trưởng đoàn thường tìm hỏi : Có tin gì thêm không ? Và mỗi lần đồng chí trợ lý tác chiến báo cáo có tin của bến nói về tàu C.165, trên cho biết thêm về tàu C.43, là các anh lại vớ lấy cuốn sổ điện, đọc ngấu nghiến.
Hôm ấy, chính ủy đoàn vừa đi họp trên Bộ tư lệnh để nhận nhiệm vụ mới trở về thì nhận được thư của căn cứ sơ tán di tham mưu trưởng Nguyễn Văn Tê viết .. « Anh em tàu C.56 đã trở về an toàn » – Chính ủy đọc một đoạn lại dừng, vì hình ảnh anh em trên những con tàu biệt tăm kia dồn dập hiện lên trong óc, làm anh phân tán tư tưởng. Anh đọc tiếp « Sức khỏe anh em giảm sút nhiều. Tinh thần căng thẳng mệt mỏi nhưng không có hiện tượng tỏ ra tiêu cực. Gần nửa tháng đi trên biển, địch bám sát, anh em dũng cảm mưu trí né tránh, quyết tâm đưa hàng vào bến ». Đồng chí Ba ( thuyền trưởng ) kể : « Khi chuyển hướng vào bờ có một máy bay trinh sát địch lượn hai vòng rồi đi thẳng. Không có hiện tượng rada theo dõi. Đến khoảng 7 giờ tối, có bảy, tám ánh đèn tàu dàn hình vòng cung chặn đường. Chúng tôi cho tàu lao thẳng chẻ đôi đội hình tàu kia. Đến nơi mới rõ là tàu địch cản đường mình. Tôi cho tàu bẻ góc 80 độ, tự nhiên dãy đèn tàu kia tắt dần. Khi tàu ta lại quay hướng vào bờ, thì các đèn đó lại bật sáng. Cùng lúc, đồng chí Ngọc thuyền phó phát hiện một tuyến đèn tàu nửa ở gần bờ, tôi lại cho tàu quặt lên hướng bắc 0 độ. Tất cả những tuyến đèn kia đều tắt hết. Cấp ủy, chúng tôi họp xác định : địch đã biết rõ hướng tàu ta vào, quyết định cho tàu mình quay ra. Vừa quay ra một đoạn, thì đèn pha trên một tàu địch phục sẵn chiếu thẳng vào chúng tôi. Nó phát tín hiệu « đứng lại không sẽ bắn ». Tôi hội ý với anh Sạn chính trị viên thống nhất nhận định : có thể xảy ra chiến đấu. Toàn tàu anh em sẵn sàng đánh. Tôi hạ lệnh tàu bật đèn hành trình như các tàu đánh cá bình thường. Nó bắn một loạt đạn 20, hai phát đạn 57 phía trước mũi, và phía sau tàu ta. Tàu ta bị gãy cột ăng-ten. Ban chỉ huy tàu chúng tôi (Ba, Ngọc, Sạn) đứng trên đài chỉ huy thấy địch bắn cao, phán đoán như vậy là nó vẫn còn bắn dọa. Tôi nhắc anh em không được nổ súng khi chưa có lệnh.
Máy bay địch đến thả pháo sáng. Một tàu khu trục địch thả trôi đèn trước mũi tàu chúng tôi. Nó phát tín hiệu « Dừng lại, không tôi bắn ». Chúng tôi tiếp tục đi tới gần, trông rõ cả số 67 trên mạn tàu khu trục. Anh em đều có ý nghĩ, chúng kèm chặt đến sáng mai chúng mới đánh. Sáng hôm sau, vẫn chiếc tàu khu trục 67 bám theo. Nó đi rất gần. Nó lại phát tín hiệu đòi chúng tôi dừng lại nếu không sẽ nổ súng. Chúng tôi không trả lời. Nó bắn một phát 57 đón trước mũi tàu ta. Ngay lúc đó chúng tôi nhận được lệnh cho tàu trở về ..
Thư náy sơ bộ báo cáo các anh biết một vài diễn biến của tàu C.56. Tôi sẽ hướng dẫn anh em rút kinh nghiệm gửi về sau. Hiện nay, anh em đang nghỉ. Râu tóc cậu nào cậu ấy mọc rậm cứ như người rừng. Nhất là Ba « Râu », không còn nhận ra được nữa. Anh em gửi lời thăm sức khỏe các anh ».
Đọc xong bức thư, chính ủy nói với phó đoàn trưởng :
- Như vậy là đi bốn về được một. Chuyện hy sinh tổn thất mình đã lường trước là khó tránh nhưng vẫn thấy đau quá. Tàu mất còn chịu được, chứ người thì .. toàn là những chiến sĩ ưu tú kiên cường, lão luyện đi biển. Đào tạo được một thuyền trưởng như Phan Vinh đâu phải dễ.
- Trước chuyến đi tôi nói đùa với cậu Vinh « Việc lấy vợ cậu để chúng mình tìm cho, sau chuyến này về cưới » – Phó đoàn trưởng nhắc đến Phan Vinh bằng tình cảm hết sức đặc biệt, như nói tới người em ruột mình đang ở rất xa – Tính cậu ấy cũng lạ. Nói là kén vợ thì cũng chưa hẳn như vậy, nhưng chẳng hiểu nhiều đám cũng khá, nhìn hình thức thì ưng nhưng gặp gỡ nhau vài lần lại chê « lý tưởng yếu». Cậu ấy nêu tiêu chuẩn vợ đẹp cần vừa phải nhưng tâm hồn phải cao thượng. Có ai đó giới thiệu một cô chiến sĩ thi đua của nhà máy dệt Nam Định. Được mấy ngày phép, cậu ấy nhảy xổ xuống Nam Định để tìm hiểu. Khi trở về hỏi .. « Thế nào ? » .. Cậu ấy trả lời « Cô ấu có thể trở thành anh hùng, nhưng là vợ tôi thì còn phải xem xét đã ». Tôi có ý định bàn bạc kỹ với cậu ấy về việc lo liệu vợ con cho nó ổn định. Năm nay 32 tuổi rồi còn gì. Nhưng rồi công việc bận bịu cứ lôi đi, chưa giúp đỡ cậu ấy được gì cả. Bây giờ cảm thấy ân hận ..
Lắng nghe đoàn phó Đạo nói, mắt chính ủy Phúc nhìn đăm đăm vào khoảng không. Anh cũng có cảm nghĩ giống như Đạo : mình lo việc chung thì không đến nỗi .. nhưng chăm lo đến đời sống riêng của anh em thì chưa được bao nhiêu ..
Tuy chưa ai biết ai còn ai mất, nhưng cảm nghĩ chung của người ở nhà về tổn thất vừa qua là lớn. Mỗi lúc rảnh rỗi, anh em thường nhắc đến kỷ niệm của từng người đã đi xa ấy.
Bước vào năm 1968, đế quốc Mỹ bị thất bại nặng nề ở hai miiền Nam – Bắc nước ta. Sau thắng lợi to lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết mậu thân của quân dân ta ở miền Nam. Giôn-xơn buộc phải ngừng ném bom miền Bắc. Nhưng bản chất ngoan cố, hiếu chiến và nham hiểm, xảo quyệt của chúng không hề thay đổi. Đế quốc Mỹ vẫn dồn sức vào ngăn chặn đường chiến lược Trường Sơn, gây cho ta không ít khó khăn. Đoàn 125 trong lúc tạm ngừng trên tuyến đường biển Nam-Bắc, đã ghé vai giải quyết một phần khó khăn của tuyến vận tải bộ, bằng cách đưa hàng từ Hải Phòng vào cảng Sông Gianh lập chân hàng cho Đường mòn Hồ Chí Minh. Công việc bề bộn xô tới nhưng không thể làm cho mọi người lãng quên « những chuyến tàu bặt tin ». Họ vẫn theo dõi và lâu lâu lại có một tin đưa tới với nội dung thật bất ngờ và xúc động :
- Anh em đội tàu C.235 sau khi thả hết hàng, gặp địch đã chiến đấu dũng cảm, bắn đắm một tàu địch. Thuyền trưởng Phan Vinh cùng một số thủy thủ đã chiến đấu với một tiểu đoàn địch có máy bay, tàu chiến yểm hộ, buộc địch phải rút lui. Toàn đội C.235 còn lại năm người, đã mở một cuộc hành quân cực kỳ gian khổ để trở về đơn vị.
- Đội tàu C.43 do thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng và chính trị viên Tuấn chỉ huy, gặp địch còn cách bờ 20 hải lý, đã chiến đấu với tàu chiến và máy bay địch. Bắn chìm và bắn hỏng mọt tàu, bắn rơi một máy bay địch. Sau đó đã phá hủy tàu rồi bơi vào bờ. Anh em đã hành quân vượt Trường Sơn trở về đơn vị.
Riêng tàu C.165 lần lượt đưa về nhiều tin khác nhau. Anh em ở bến báo cáo : đêm 29 – 2 – 1968, anh em gác nhìn ra biển thấy có nhiều ánh chớp và đường đạn lửa vạch lên trời. Địch thả pháo sáng ở khu vực lửa đạn. Anh em phán đoán có một trận đánh ở khơi xa. Trận đánh kéo dài chừng 30 phút, bỗng có ánh chớp lóa phụt từ mặt biển lên cao rồi tung ra như pháo hoa. Chỉ thấy ánh đèn pha quét ngang dọc. Ngay hôm sau, anh em ở bến cử người đi ven theo biển tìm kiếm anh em ta có ai trôi giạt vào không. Mấy ngày đi tìm chỉ thấy những mảnh gỗ bị trôi giạt vào bờ. Ít lâu sau, anh em trong đoàn lại truyền nhau câu chuyện nữa về những chiến sĩ cảm tử C.165. Không rõ nguồn tin ở đâu ? Có người nói qua tình báo ta thu lượm, do một tên lính ngụy đã dự trận chiến đấu đó kể lại. Khi gặp địch, anh em nổ súng trước bắn chìm một tuần tiễu của địch. Nhiều tàu địch dùng pháo bắn, tàu C.165 bị hỏng máy. Thấy anh em ngừng bắn, chúng cho hai chiếc tàu tuần tiễu (cỡ nhỏ) áp mạn C.165 với ý định bắt sống. Hai chiếc tàu địch vừa áp mạn thì C.165 nổ tung, cả ba chiếc tàu cùng chìm nghỉm.
Tất cả những câu chuyện vể những chiếc tàu « mất tích » lúc đầu chỉ có một số cán bộ biết, sau lan rộng dần ra toàn đoàn. Anh em say sưa kể cho nhau như kể về những truyền thuyết của những người bất tử.
Trong câu chuyện về « những đội tàu mất tích » , thực hư thế nào, chúng ta hãy theo dõi những gì đã diễn ra trong chuyến đi đặc biệt của họ.
... Tàu C.235 đi trên biển đến ngày thứ năm thì máy bay địch phát hiện.
Thuyền trưởng Phan Vinh đứng trên đài quan sát, mắt anh không rời chiếc máy bay địch. Khi máy bay địch bay đi, Vinh ném theo một câu « chúng mày định giở trò gì đây ? ». Câu nói đó đang bắt thuyền trưởng phải giải đáp.
Mỗi khi gặp tình huống phức tạp, Lâm Quang Tuyến, chiến sĩ hàng hải thường thăm dò thái độ của thuyền trưởng. Dường như làm thế anh thấy vững tâm hơn. Lần này khi máy bay địch đã bay đi lâu rồi, chốc chốc Tuyến lại nhìn sang phía thuyền trưởng. Anh vẫn thấy thuyền trưởng của mình giữ vững tư thế, hai tay bám vào lan can, người hơi rướn về phía trước, khuôn mặt trái xoan gân guốc già hơn lúc bình thường tới vài tuổi. Dáng dấp tươi trẻ trên khuôn mặt đẹp trai của thuyền trưởng đã mất đi một phần. Nhưng vẻ đẹp khác của anh lại được biểu hiện rõ rệt hơn, đó là sự bình tĩnh, tự tin. Lúc bình thường, anh em thường nói đùa « thuyền trưởng có số đào hoa », thì bây giờ anh có sức hấp dẫn cấp dưới mình sẵn sàng lao vào nơi nguy hiểm để giành thắng lợi.
Từ ngày đầu chung sống trong đội tàu, các thủy thủ đội C.235 đã « mê » thuyền trưởng Phan Vinh. Không riêng trong đội mà toàn đoàn 125 đều khen anh là người thuyền trưởng tài năng, dũng cảm, đã giành thắng lợi 11 chuyến đi. Không phạm sai sót gì đáng kể. Anh đã dành tình cảm của mình cho con tàu, cho con đường đầy sóng gió, cho các thủy thủ trong đội của mình. Hôm trước, trong lúc thư thái, Tuyến ngồi một mình ở mũi tàu ngắm trời, ngắm biển. Vinh lại ngồi bên, hỏi Tuyến :
- Cậu đang nhớ người ở đất liền phải không ?
Tuyến cười hóm hỉnh :
- Tôi đang nghĩ đến giải phóng miền Nam..
- Vào lúc rảnh rang như thế này, mình thường nghĩ đến một người bạn gái. Cho phép mình suy diễn nhé. Vừa rồi cậu nhớ đến cô ả nào đó chứ đâu có chuyện nghĩ tới quốc gia đại sự.
Tuyến cười xòa, thừa nhận như vậy, rồi cả hai thổ lộ chuyện riêng tư như đôi bạn. Lúc này, Tuyến càng thấy thương yêu và kính phục người chỉ huy của mình.
Mấy hôm nay, toàn đội ăn chế độ « tự do » có nhiều thức ăn, nhưng mỗi bữa Vinh chỉ ăn một lưng cơm và uống một ly rượu. Anh em tỏ ra lo lắng cho sức khỏe của thuyền trưởng.
Máy bay địch đi được một lát. Mùi mang lên đài chỉ huy một tô miến và một đĩa cổ cánh gà. Vinh thấy tiếng bát đũa va nhau, anh ngoảnh lại hỏi Mùi :
- Có chất cay nữa chứ ?
Mùi rút chai rượu từ trong túi quần ra, giơ lên :
- Chừng này liệu đủ ấm bụng chưa ?
Vinh dặn Tuyến quan sát, rồi ngồi xuống mâm rượu. Anh đỡ ca rượu của Mùi đưa cho tợp một ngụm ngon lành. Vinh hỏi Mùi :
- Anh có biết tại sao khi uống một ly rượu vào làm trong người ta khoan khoái lâng lâng lúc đi khơi xa không ?
- Hơi men kích thích làm cho nhịp tim đập mạnh hơn, máu lưu thông thì trong cơ thể ta thấy dễ chịu.
- Còn gì nữa ?
- Càng uống thần kinh càng giãn nở và yếu dần không tiếp thu nổi các đề tài suy nghĩ phức tạp, lắt léo. Anh thấy đấy, người say rượu thường suy nghĩ thiếu chín chắn.
Phan Vinh cười ha hả thú vị :
- Suy luận về hoạt động chức năng của cơ thể con người của ông thợ máy thật dễ hiểu. Người say rượu giống bộ máy khi sợi dây chuyền lực bị nhúng vào dầu nhờn « Khà .. khà . khà ..». Thật tuyệt . Uống quá vào một chút, thần kinh lại bị tuột « cua roa », khi gặp địch lại phải đấm vào ngực đọc bài thần chú mới tỉnh. ( Một câu chuyện vui, anh em đoàn 125 thương hay nhắc lại : Một lần tàu vào Trà Vinh mắc cạn. Đồng chí X, ở lại bảo vệ taù. Thấy máy bay địch đến, anh hồi hộp quá nhưng tự trấn tĩnh, bằng cách đấm vào ngực mình và nói : X ơi ! Mày quên rồi à, hồi 9 năm mày đã từng là xạ thủ diệt bao nhiêu là địch).
Chuyện trò vui vẻ của thuyền trưởng làm cho mọi người vui lây.
Ăn uống xong, Mùi cầm bát xương gà hất xuống biển, tuột tay liệng luôn cả bát. Lại một trận cười nữa rộ lên.
Tàu sắp đến điểm chuyển hướng. Thuyền trưởng Vinh và thuyền phó Đàm Văn Nhi xách máy ra đo mặt trời. Thu thập được đủ số liệu thiên văn, hai anh cùng vào phòng hàng hải để tính toán. Trên bàn đặt một chồng sách bảng tra số liệu thiên văn. Mỗi tập sách dày hai ba trăm trang.
Vinh bảo Tuyến, chiến sĩ hàng hải :
- Cậu tìm cho « đen ta tê một » khoảng trang 15 – 16.
Tuyến giở trang 15 thấy ngay hàng số mình cần tìm.
Một lát sau Vinh lại bảo :
- Tìm bảng 8, số trang khoảng 50.
Tuyến giở bảng tra, thấy ngay tham số gốc X ở trang 50. Tuyến phục trí nhớ của thuyền trưởng. Cả về đo đạc tính toán, đáp số anh tìm được bao giờ cũng nhanh. Khi tính toán xong, Vinh có động tác như một thầy giáo, hỏi Pi bao nhiêu ? Lăm-đa bao nhiêu ? .. Anh xem xong mới xòe đáp số của mình ra.
Vinh đánh dấu lên hải đồ đoạn đường vừa tìm được. Nhìn đoạn đường vừa tính vượt qua điểm dự định chuyển hướng khoảng 10 hải lý về phía nam, Tuyến toan hỏi nhưng Vinh đã nói trước :
- Chúng ta sẽ đi vào con đường địch hoàn toàn bất ngờ.
Nhìn điểm chuyển hướng của thuyền trưởng vừa chấm trên hải đồ, Tuyến vẽ một con đường thẳng tưởng tượng trong óc, thấy tàu của mình sẽ qua Hòn Lớn sát Cam Ranh. Nếu đi đường này sẽ phải ngoặt trở lại phía bắc, qua sát một bãi cạn, «trèo » qua bãi đá ngầm có độ sâu chừng 10 mét, rồi vào Hòn Một … Tuyến đường hết sức mạo hiểm, nếu người thuyền trưởng nào không gan góc và tự tin vào tài năng của mình thì không giám nghĩ đến.
Tàu C.235 vừa qua Hòn Một đã thấy dãy đèn trước mặt. Dự kiến xử trí của thuyền trưởng : trong lúc địch không ngờ ta ở phía nam lên, tàu ta tắt hết đèn hành trình lách qua đội hình tàu địch, đã được chi ủy đồng ý.
Tất cả thủy thủ vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Thuyền phó Nhi đi tới từng vị trí kiểm tra và nhắc lại lệnh của thuyền trưởng « Khi nào có lệnh mới được nổ súng”. Không khí vô cùng căng thẳng. Liệu tàu của mình có lọt qua nổi không ?
Tàu địch vẫn dàn sẵn đội hình. Những tàu lớn cách vài hải lý, thả trôi phía ngoài, nhưng hải thuyền loai PCF, Bo Bo, Mai-cơ lăng xăng chạy ở tuyến trong.
Ta vừa bắt được tin qua máy bộ đàm của địch báo cho nhau « Tối nay có một chiếc tàu Việt cộng chạy vào hướng nam, hiện nay mất hút, phải tuần cảnh cẩn mật. Tàu nào không có đèn là tàu Việt cộng ». Khi tới gần khu vực tàu địch, thuyền trưởng Phan Vinh hạ lệnh bật đèn hành trình và cho tàu đi xen vào đội hình hải thuyền địch. Con tàu dường như cũng có linh hồn, nó cảm thấy mình đang đi giữa nơi nguy hiểm, tiếng máy bỗng trầm xuống êm hơn tiếng sóng, chân vịt thôi không gây ra một vệt bọt sáng kéo dài như trước; nó nhẹ nhàng lách qua giữa khoảng cách của hai chiếc Mai-cơ như anh lính đặc công trườn mình qua hàng rào thép gai.
Nhìn thấy bờ chỉ còn cách vài trăm mét nữa, mà bọn địch chưa hề biết, anh em thở phào. Sắp ổn rồi, còn việc giao hàng nữa là hoàn thành nhiệm vụ.
Thuyền trưởng Phan Vinh từ đài chỉ huy xuống đứng bên mạn tàu, chớp đèn tín hiệu gọi bến. Một lần, hai lần, chớp đền lần thứ ba .. thứ bốn, nhìn vào bờ vẫn thấy tối đen và lặng thinh không có tín hiệu đáp lại. Máy trưởng Mùi thở dài :
- Chờ khuya quá, chắc quân ta đi ngủ rồi, nên không có người đón.
Tiếp lời thuyền trưởng, chính trị viên Tương động viên :
- Đã năm sáu ngày đêm sóng gió vất vả, mệt mỏi .. nhưng không có cách nào khác. Địch đang ở bên cạnh chúng ta, nếu chờ đợi liên lạc với bến sẽ mất thời gian .. chúng ta hãy dồn sức lực làm thật nhanh ..
Chính trị viên chưa nói dứt lời, ở dưới hầm hàng đã nói :
- Nào .. chuyển nhanh lên !
- Chú ý nghe tôi phân công cảnh giới. Mai gác sườn phải. Tu sườn trái. Thứ sau lái .. Chú ý quan sát thấy hiện tượng gì khác báo cáo ngay.
- Xuống hầm hàng thêm một người nữa !
- Hai chúng tôi đủ rồi. Nào cố lên nào !
- Liệu con kiến có cõng nổi con sâu to hơn mình không.
- Cứ yên trí !
Tiếng lịch kịch , lục cục, tiếng ho khan, tiếng thở dốc bị tiếng sóng biển đè lên. Dây chuyền chuyển hàng đã được luyện tập, bây giờ khép kín hơn, không có động tác thừa, không có khâu nào chậm chạp. Sức mỗi người như có liều thuốc thần diệu nào đó kích thích, tăng lên gấp rưỡi, gấp đôi. Hòm hàng 50 kilogam cùng một người vác, 60 kilogam cũng chỉ có một người. Những hòm hàng to nhỏ đang loang loáng tuôn chảy từ hầm tàu qua mặt khoang rồi xuống biển.
Mọi người vừa chuyển hàng vừa bàn tán :
- Ngoài biển sao có nhiều đèn sáng thế nhỉ ?
- Pháo sáng.
Thuyền trưởng gọi đồng chí báo vụ :
- Đồng chí đánh điện báo cáo về đoàn, tàu của chúng ta đã thả hết hàng.
Tiếng chuông điện báo động liên hồi, Không khí bỗng hết sức khẩn trương. Tiếng chân chạy, tiếng gọi nhau vội vã :
- Báo động, về vị trí chiến đấu.
- Anh Vinh đâu ? Điện của đoàn chúc mừng thắng lợi của tàu chúng ta.
- Anh ấy trên đài chỉ huy.
- Phong hử ?
- Tuyến đó ư ? Tao lên đạn rồi, chỉ còn chờ nó tới gần.
- Tao mà tiếp đạn thì mày thả sức bắn.
Trên tàu C.235, trật tự lao động đã biến đổi thành trật tự của đội hình chiến đấu chỉ trong vài giây. Thuyền trưởng Phan Vinh, chính trị viên Tương đã đứng trên đái chỉ huy đang dõi theo những ánh đèn pha nhiều màu đan nhau ở phía ngoài tàu mình .
Tàu ta đã nổ máy sẵn sàng cơ động. Các thủy thủ đã đặt ngón tay lên cò súng , đợi lệnh.
Pháo sáng, ánh đèn pha, đèn tàu nhích dần vào trong vịnh. Bọn Mỹ ở đây hiện lên như những con quái vật , có những cặp mắt luôn luôn đổi mày và bàn tay xòe ra với các loại móng vuốt muốn bóp nát con tàu C.235 nhỏ bé.
Một chiếc PCF lao qua cửa vịnh, chiếc khác lao tiếp .. rồi chúng rọi đèn pha về phía tàu ta.
Thuyền trưởng Phan Vinh hét to :
- Bắn !
Hạ sĩ Hà Minh Nhật phóng một phát DKZ vào chiếc tàu PCF gần nhất, các loại hỏa lực khác của ta bồi tiếp theo. Chiếc PCF bị trúng đạn, tuôn ra một luông khói đen, rồi chệnh choạng quay tròn tại chỗ. Một chiếc PCF khác vào tiếp.
Khẩu trọng liên của trung sĩ Nguyễn Văn Phong liên tiếp phun những luồng lửa vàng chói, giăng vào tàu địch. Các loại trung liên, tiểu liên trên tàu C.235 rung lên từng nhịp, hướng vào chiếc hải thuyền của địch. Tiếng đạn nổ, tiếng thép va vào thép, tiếng gầm rít của máy. Những chuỗi lửa đạn đan nhau rối mắt. Vùng biển Hòn Hèo như đang bị sấm sét đốt cháy.
Những tàu cỡ nhỏ của địch không chịu đựng được nổi cuộc tiến công của tàu C.235, phải lui ra phía ngoài. Một khoảnh khắc im lặng. Thuyền trưởng Phan Vinh đi quanh tàu kiểm tra lại lực lượng, chuẩn bị cho đợt chiến đấu mới. Gần nửa giờ chiến đấu, quân số tàu có 20 người, mất 5 người hy sinh, 2 bị thương nặng, 7 bị thương nhẹ. Chỉ còn 6 người lành lặn.
Đầu thuyền trưởng quấn băng như đội một chiếc mũ nồi trắng, tay xách khẩu tiểu liên. Anh nói dõng dạc :
- Chúng ta sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng trên con tàu này. Quyết tâm hực hiện phương án hai ( khi bị lộ cho tàu chạy thẳng vào cảng Nha Tranh, áp tàu mình vào tàu địch hoặc áp sát vào cảng, rồi giật kíp cho 3 tấn bộc phá đã gài sẵn, phá hủy tàu mình đồng thời phá luôn bến cảng và tàu địch.)
Âm thanh của thuyền trưởng lan nhanh ra khắp các vị trí chiến đấu như tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, dội vào tâm hồn mỗi thủy thủ. Những cảm nghĩ cháy bỏng như đang vọng lên lời trăng trối « Chỉ còn giờ phút ngắn ngủi nữa, chiếc tàu của chúng ta sẽ cùng chiếc tàu nào đó của địch nổ tung. Thịt xương chúng ta sẽ nát vụn cùng với con tàu thân yêu của mình. Nhưng chúng ta tự hào ngay trong giây phút vĩnh biệt cõi đời này, chúng ta vẫn làm thêm một việc có ích cho Tổ quốc ».
Những điều suy nghĩ ấy, anh em đội tàu C.235 đã chuẩn bị từ nhiều chuyến đi trước nhưng chưa phải dùng đến, tới giờ phút này nó sắp sửa thành hiện thực.
Tàu C.235 rùng mình rồi lao ra cửa vịnh. Pháo địch từ các khu trục hạm, từ các căn cứ đất liền xối đạn tới. Những cột nước, những cột khói vụt lên chi chít trên mặt vịnh. Một quả đạn pháo trúng gần buồng máy, tàu C.235 bỗng nhiên chậm lại rồi dừng hẳn. Ý định thực hiện phương án hai của anh em buộc phải thay đổi.
Trung sĩ thợ máy Vũ Văn An từ buồng máy đi về buồng lái báo cáo với thuyền trưởng « Máy tàu hỏng nặng ».
Ánh pháo sáng, ánh chớp của đạn pháo soi rõ vào buồng hàng hải. Buồng này trở nên chật chội, ngột ngạt và căng thẳng. Thuyền phó Nhi đứng tựa vào bàn hải đồ, máu đang chảy thành vũng dưới bàn chân. Máy trưởng Trương Văn Mùi nằm co người dưới sàn, một tay đặt vào nơi vết thương ở ngực, tay kia nắm chặt.
Một hồi chuông rền rĩ kéo dài, báo chuẩn bị phá tàu.
Tiếng chận chạy vội vã, tiếng gọi nhau, nhắc nhở nhau gấp gáp.
- Phao cứu sinh xuống chưa ?
- Đưa đồng chí Tương xuống.
- Tôi cõng đồng chí Hải.
- Ôi trời ! Đằng nào tôi cũng chết, để cho tôi chết ở trên tàu.
- Báo cáo .. Hải không chịu đi.
- Tôi là thuyền trưởng hạ lệnh, anh có chấp hành không ?
- Tôi sẽ trở thành gánh nặng cho các anh.
- Không được ! Gắng chịu một chút nào.
- Cậu ấy bị cả hai chân, làm thế nào đưa xuống.
- Có áo phao, cứ đưa cậu ấy xuống .. Này này .. các cậu ở dưới kia nghe rõ không, đưa Hải lên phao cứu sinh nghe không ?
- Nhớ mang theo súng đạn.
- Kìa, nhảy xuống, thêm người đẩy phao cứu sinh, không nó giạt.
An và Thứ chạy theo thuyền trưởng xuống buồng maý. Tiếng máy phụ nổ trầm trầm. Ngọn đèn công tác lắc lư theo nhịp sóng.
Thuyền trưởng Phan Vinh nói bình thản :
- An đóng kíp, rút chốt an toàn. Bình tĩnh làm thật cẩn thận.
Một tay Thứ bị thương giơ lên ngang đầu máu đang nhỏ giọt, tay kia ôm chặt lấy chân An để An nhoài người xuống hầm tàu. Vài phút sau, An đu người lên, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, anh giơ cái chốt an toàn ra trước mặt, có ý bào cáo với thuyền trưởng.
Vinh hỏi :
- Chắc chắn chưa ?
- Lửa xanh rì ra rồi. Tôi đã đậy lỗ kíp.
- Vặn kíp hẹn giờ 15 phút.
Các vị trí phá hủy khác do Trung, Thật , Mai cũng đã rút chốt an toàn.
Phan Vinh giục mọi người :
- Các cậu xuống trước đi, mình còn kiểm tra lại xem.
An, Thật và Thứ nhanh nhẹn nhảy xuống biển.
Tuyến và Phong vẫn dùng khẩu 14,5 bắn máy bay địch. Thuyền trưởng vỗ vai Tuyến :
- Thôi bắn, rời tàu.
Phong chạy về buồng giật vội cái ba lô khoác lên vai, chiếc bi đông buộc ở balô toong teng vướng vào chân.
Tuyến hét :
- Vứt cha nó đi ! Tàu nổ bây giờ ! Nhanh lên.
Phong vứt chiếc balô nhưng vẫn tiếc mấy bộ quần áo. Anh mặc mỗi bộ quần áo lót, xách khẩu súng nhảy xuống biển theo Tuyến.
Tuyến đang bơi nhìn sang bên cạnh, có người tỏ ra đuối sức lúc chìm nghỉm, lúc nhô lên vầng trán hói. Trong lúc vội vã, Tuyến bơi tới dìu người đuối sức đó vào bờ, không kịp nhận mặt, anh chỉ có cảm nghĩ người đó là thuyền trưởng hoặc thuyền phó.
Một phát đạn pháo nổ gần, sóng mạnh xô Tuyến vào một tảng đá, và tay người bạn được anh cứu đã rời khỏi vai anh lúc nào không tõ. Tuyến ngoảnh lại tìm bạn, bỗng có tiếng nổ dữ dội và một đợt sóng lớn hất anh lên bờ. Trong vài giây, Tuyến bị choáng. Khi anh tỉnh lại, nhìn ra mặt vịnh thấy đám lửa cháy loang trên nước, không còn con tàu của mình nữa. Anh lẩm bẩm : « Tàu nổ rồi ».
- Ai đó ? Có tiếng hỏi bên cạnh, làm Tuyến giật mình.
- Tuyến đây.
Tuyến bò lên phía sau một tảng đá để tránh đạn. Người bên cạnh cũng bò theo :
- Phong đấy ư ?
- Ừ. Các cậu ấy đâu cả rồi ?
- Mình bơi gần cậu. Pháo bắn quá chẳng nhìn thấy ai !
Chờ lúc địch ngớt bắn, Phong và Tuyến rủ nhau lên một ngọn đồi.
Tình huống khẩn trương, đêm tối, địch bắn đuổi theo, anh em bơi vào bờ mỗi người giạt một chỗ, mãi tới sáng hôm sau (1-3-1968), thiếu úy thuyền phó Đàm Văn Nhi mới tập hợp được 7 người gồm trung sĩ cơ điện Vũ Long An, hạ sĩ báo vụ Lê Duy Mai, hạ sĩ hàng hải Mai Văn Khung, Lâm Quang Tuyến, hạ sĩ thủy thủ Hà Minh Nhật, trung sĩ thủy thủ Nguyễn Văn Phong. Trong số 7 người, có 2 người bị thương nặng và 5 người bị thương nhẹ. Họ cố dìu nhau lên núi để tìm căn cứ của bến.
Họ đã cố gắng hết sức đi gần hết buổi sáng rồi mà vẫn nghe thấy tiếng hò hét của bọn địch vừa đổ bộ ở dưới chân núi. Trong anh em đã có những ý nghĩ rối ren nảy nở « Đã chắc gì anh em bến còn ở căn cứ, khi đã lộ như thế này ». « Thôi .. cố đi thật nhanh ra khỏi chỗ nguy hiểm này đã ..». « Đi lầm vào vùng địch thì sao ».«Nó bắn rất gần rồi .. nhanh lên … đã bảo cứ đi đã » ! « Nhưng mà đi đâu mới được chứ ? ». « .. Đi xa cái bọn kia kìa ..».
Giục nhau, nhưng không làm sao có thể đi nhanh hơn được, vì sức lực của mọi người đã dốc vào những ngày đêm vất vả trên biển và vết thương đang rỉ máu. Thuyền phó Nhi bị thương cả hai chân. Hạ sĩ Khung bị thương vào ngực máu vẫn rỉ ra theo nhịp thở. Họ không kêu rên một lời. Sức chịu đựng của mỗi người ở đây đã vượt xa sự tưởng tượng. Giá ở lúc bình thường, họ đã gục xuống không thể gượng dậy nổi. Họ đang dìu nhau đi không phải do bản năng ham sống, mà do lý trí tỉnh táo của mỗi người tự nhắc nhở « mình cần phải sống, bạn mình cần phải sống để còn tiếp tục những chuyến đi khác vì sự nghiệp giải phóng miền Nam ».
Một chiếc máy bay lên thẳng bay rất thấp. Đám lá khô dưới nền đất bốc lên cao xoáy tròn như một trận gió lốc. Rừng cây lưa thưa, vào mùa thay lá càng trống trải. Anh em phải tạm chui vào bụi cây mớm đầy gai, nằm ngửa mặt theo dõi xem máy bay địch làm gì. Một tên Mỹ mặt đỏ như mào gà chọi, ló cổ qua cửa sổ máy bay nhìn xuống. Chờ cho máy bay địch bay đi xa, anh em lại tiếp tục dìu nhau tiếp tục đi. Đến một gốc cây cổ thụ, có tán lá xòe rộng, anh em tạm dừng lại nghỉ.
Sau một đêm chiến đấu, bây giờ mới có thời giờ nhìn kỹ hình dạng của nhau. Ôi ! Lạ lùng quá. Người nào người nấy mặt mũi hốc hác, nhem nhuốc, quần áo rách toạc. Khuôn mặt vuông đầy đặn, đôi mắt hiền lành của cậu An lại thay đổi đến thế kia ư ? Hai gò má nhô cao lên, mặt gầy tọp, hai quầng mắt đầy bóng tối, râu ria xồm xoàm như một ông già chứ không phải con trai tuổi đôi mươi nữa. Anh Nhi nữa, nước da xám nhợt như người đã chết, đôi chân quấn đầy băng, đôi môi lúc nào cũng mím chặt đè nén chịu sự đau đớn .. Liệu anh có đủ sức chống đỡ với sự thử thách đang tới nữa không ? ..
Nhi cố gắng mới nói thành lời :
- Có cậu nào .. gặp anh Vinh không ?
An trả lời :
- Anh Vinh và Thứ đã lên bờ, tôi gặp. Anh ấy bảo cậu Thứ đi cùng để kiểm tra nơi giấu các tử sĩ.
- Có thể anh ấy .. đi đường khác .. bây giờ làm thế nào gặp được.
Tiếng súng nổ rất dữ dội, rõ ràng có trận chiến đấu nổ ra ở rất gần. Mọi người im lặng lắng nghe. Trong mớ âm thanh hỗn độn ấy, anh em nhận ra sự khác biệt những tiếng nổ cách đây vài giờ.
- Các cậu có thấy AK nổ không .. đấy .. đấy. Trầm đục hơn tiếng nổ của M.16.
- Chắc bộ phận của anh Vinh gặp địch.
- …
Mỗi người lo lắng hướng về phía trận đánh đang diễn ra. Khoảng nửa giờ sau không thấy tiếng AK nổ nữa, chỉ thấy tiếng nổ liên hồi chồng chéo của tiểu liên M.16, cối tay M.79 và đạn pháo. Như thế có nghĩa là anh em mình đã rút rồi. Mãi sau này anh em mới biết anh Vinh và Thứ ở giữa hai gọng kìm của chúng. Các anh đã chiến đấu dũng cảm chặn cả hai mũi tiến công của địch. Chiến đấu khoảng nửa giờ, các anh đã hy sinh. Bọn địch tiếp tục nổ súng bắn vào nhau, hai cánh quân đều có nhiều thương vong và kêu ầm lên « đã gặp địch mạnh, buộc phải rút lui».
.. Tiếng đạn pháo vẫn nổ thưa thớt đây đó bên sườn núi. Máy bay lên thẳng vòng lượn ngoài ven biển, chúng đến đổ quân hay làm gì chưa rõ.
Nhi bảo Phong và Tuyến là hai người khỏe nhất đi trinh sát tìm đường.
Hai anh em vừa đi vừa tránh đạn pháo của địch. Họ đi về phía tây bắc được hơn một kilomet , nghe tiếng động phía trước, họ dừng laị thận trọng xem xét. Đi thêm vài chục bước nữa họ nhìn thấy bọn lính Nam Triều Tiên đang đào công sự. Hai anh em quay lại đi hướng khác, vẫn gặp lại cảnh ấy.
Tuyến thở dài nói khẽ với bạn :
- Chúng ta bị bao vây rồi !
Thấy Tuyến và Phong trở về, anh em hỏi dồn :
- Lâu thế !
- Liệu có đi được không ?
Tuyến chống súng ngồi bệt xuống đất, ngẩng mặt nhìn theo tiếng máy bay bay qua. Anh thủng thẳng trả lời các bạn :
- Phải mở đường máu.
- Đã cần làm thế chưa, hay ta chờ đến tối rồi tìm cách luồn qua.
Mọi người bàn bạc một hồi rồi lại im lặng nhìn nhau. Cảnh ngộ thật éo le, Những bài võ để đánh kẻ thù trên mặt biển, bây giờ dùng như thế nào đây. Từ nãy đến giờ , thuyền phí Nhi vẫn nằm gác đôi ống chân quấn đầy băng ướt sũng máu lên một tảng đá, lưng anh tựa vào thân cây, mắt đăm đăm nhìn vào khoảng không. Nhi phải cố gắng lắm mới nói được từng tiếng rời rạc :
- Tuyến hiểu về cách .. đánh của bộ binh .. hơn. Từ bây .. giờ sẽ phụ trách về .. quân sự.
Tuyến nhìn địa hình xung quanh rồi suy nghĩ về đội hình chiến đấu. Tuy là lính bộ binh chuyển sang hải quân, nhưng vốn liếng hiểu biết chiến thuật của anh quá ít ỏi, anh cố bới óc ra tìm tòi nhưng chẳng có gì rõ ràng. Vì anh chỉ mới tập luyện tới đội hình của tiểu đội cảnh giới. Có lẽ bây giờ cũng phải làm như vậy. Phải rồi, đội hình kiểu « trâu ngủ rừng » thì hướng nào cũng quan sát được. Tuyến xem địa hình xong, chỉ định từng người vào vị trí. Cái đội hình rất đặc biệt ấy hình thành. Dù sao có người đứng ra chỉ huy anh em cũng thấy yên tâm hơn.
Trời nắng khô như rang. Lần đầu tiên trong đời họ cảm thấy thứ nắng kỳ lạ ấy, nó như có những cái vòi vô hình hút cạn chất nước ở trong cơ thể mỗi người. Tuyến thấy miệng mình đắng ngắt, nước bọt giống như chất hồ dẻo quẹo không nuốt vào nổi. Tuyến nói với Khung :
- Được một bát hoặc chén nước lã thôi cũng dễ chịu.
- Giá mình mang theo được bi đông nước dứa thì ..
Nghe nói nước dứa, mọi người đều nuốt nước miếng.
Tiếng loa chiêu hồi ở trên máy bay trực thăng oang oang phóng xuống « Các anh em đoàn 125. Anh em đã bị bao vây. Con đường sống của anh em là hồi chánh quốc gia ..»
- Hồi chánh cái thằng bố mày.
Nghe câu chửi của An, anh em bật cười.
Tiếng lòa vẫn lải nhải giội từ trên trời xuống, từ sườn núi vọng lên, làm cho không khí càng oi ả thêm.
Thuyền phó Nhi nằm gối đầu lên mô đất cao, khẽ rên rỉ :
- Khát .. qu ..á ..
Những đám mây đen từ phía đông đùn lên cao rồi tản ra đầy trời. Khung trời dần dần hạ thấp xuống. Anh em nhìn qua khoảng trống của vòm cây, mắt sáng lên hy vọng. Nhưng hy vọng chẳng hề làm cho cơn khát dịu đi được phần nào, trái lại nó càng làm cho cơn đói, cơn khát hành hạ cơ thể các anh em thêm.
Mỗi người còn đem theo được một ít viên sinh tố, từ sáng đến giờ chỉ dám nhấm nháp một hai viên C. Họ coi đó là nguồn « lương thực » chủ yếu trong cuộc hành quân này, không ai dám sử dụng tùy tiện.
Tuyến nêu ý kiến :
- Đề nghị tập trung tất cả sinh tố lại giao cho một người giữ và cấp phát vào bữa ăn.
- Ai giữ ?
- Tôi đề nghị đồng chí Mai quản lý.
Mai là một đảng viên chín chắn, ít nói. Lúc bình thường cũng như lúc khó khăn, trong những chuyến đi biển anh luôn tận tình chăm sóc anh em yếu mệt. Nói tới Mai làm quản lý lập tức được mọi người ủng hộ.
- Mai này .. mình còn 10 viên pô-li.
- Mình còn 20 viên C.
- Mình còn 50 viên ..
- …
Mai dồn số « lương thực » vừa thu được vào một cái bao, rồi anh đổ ra đếm trước mặt mọi người.
- Tất cả được 123 viên. Mai nhìn anh em một lượt rồi nói tiếp – Tôi đề nghị phát cho hai đồng chí bị thương nặng mỗi ngày 4 viên pô-li; còn anh em ta mỗi ngày, mỗi người hai viên.
- Đồng ý.
- Đồng ý .. nhưng ngay bây giờ cấp cho mỗi người một xuất, để lấy sức vượt vòng vây đêm nay.
Từng người nhận phần rồi bỏ viên sinh tố vào miệng nhai ngon lành. Anh em nói vui :
- Cảnh voi uống thuốc gió này sẽ kéo dài bao lâu nữa.
- Nhưng ít nhất cũng có tí chất vào ruột.
- Ngày mai sẽ phải cố tìm lá rừng.
Trời gần sáng. Mưa lâm thâm. Họ đi suốt một đêm trong mưa. Mỗi lúc tạm dừng lại, họ lại tranh thủ liếm những lá cây dính chút nước mưa. Cơn khát có dịu đi nhưng cơn rét lại đến. Không ai còn đủ sức điều khiển hai hàm răng của mình buộc nó thôi không gõ vào nhau. Tiếng thì thào ngập ngừng run rẩy động viên nhau :
- Cố lên .. vượt qua được .. vòng vây của .. chúng nó rồi .. đi một đoạn nữa.
- Để tôi cõng anh Nhi một đoạn.
- Xốc nách .. mình .. đi được.
Trời sáng lâu rồi mà không gian vẫn xam xám như màu khói. Nghe tiếng súng liên thanh vọng rất xa ở phía sau. Anh em vui mừng đã vượt qua được đoạn đường khó khăn nhất. Họ tìm chỗ tạm nghỉ.
Tuyến trèo lên một cây cao, nhìn trở lại đoạn đường mình vừa đi qua. Biển hiện ra trước mắt, làm cho Tuyến giật mình. Như vậy là suốt đêm qua mình đi quanh co chỉ được hơn một kilômét thôi ư. Tàu địch vẫn xúm xít ở khu vực tàu của ta tự hủy. Tiếng loa chiêu hồi lại dội vào tai. Nghe chúng nó lảm nhảm làm cho Tuyến điên tiết, muốn chửi cha chúng một hồi. Giả sử có phép gì, tọng luôn vào họng cái con đĩ đang léo nhéo lếu láo kia một quả lựu đạn thì mới hả.
Tuyến tụt từ trên cây xuống. Anh im lặng nhìn mọi người. Khung và Nhi nằm co quắp. Thấy Khung thở khó khăn, tiếng « khò ọ o .. khò o ọ c » kéo dài như tiếng thở hắt ra của người đang hấp hối. Tuyến lo lắng , tới lay gọi bạn :
- Khung .. Khung tỉnh lại.
Khung mở to mắt bang hoàng, cố nhỏm dậy :
- Gì thế ?
- Tôi tưởng .. Vết thương còn ra máu không ?
- Cầm rồi.
Tuyến mừng thầm, sức khỏe của Khung không đến nỗi suy sụp lắm. Cậu ấy vẫn cố gắng đi được, không cần đến người dìu. Chỉ có sức khỏe của thuyền phó là đáng lo ngại.
Tuyến nói lại tình hình vừa quan sát được. Anh em bàn bạc một lát rồi tiếp tục đi.
.. Cuộc hành quân đã đến ngày thứ tư. Mỗi bữa vài viên sinh tố nhỏ xíu. Đói, khát đã lên tới mức cùng cực. Không riêng gì những người bị thương nặng mà cả những người bị thương nhẹ cũng đã kiệt sức. Nhiều lúc cậu Mại bước chệnh choạng và không đủ sức đeo khẩu súng, phải kéo lê nó dưới đất. Hôm nay mỗi đợt chỉ đi được nửa giờ lại phải ngồi nghỉ.
Tuyến và Phong sức khỏe còn khá hơn anh em khác. Mỗi lần dừng chân, hai anh lại đi kiếm một ít ngọn lá cơm tẻ mang về. Mùi vị hăng hăng nhơn nhớt của lá cơm tẻ rất khó nuốt. Có anh vừa ăn vài ngọn vào đã nôn ọe, nhưng rồi cũng phải cố nhai để có một thứ gì vòa ruột cho đỡ đói, khát.
Từ hôm qua, cậu Mai đã phải tự uống nước đái của mình. Bây giờ Mại lại bụm cái lá rừng để lấy nước đái. Chỉ được một chén nước lờ lờ như máu loãng mà khai khú không chịu nổi. Mai đưa lên miệng nhắm mắt định uống, nhưng anh nhăn mặt rùng mình rồi hắt toẹt nó xuống đất.
Tuyến và Phong vẫn cặm cụi dùng que ngoáy vào một hốc cây. Thấy trong hốc có nước. Tuyến mừng quá gọi Mai.
Nghe nói có nước mọi người xô lại.
Cái hốc nằm sâu trong thân cây, gần ngập một cánh tay mới tới nơi, có ít nước lẫn vào mùn gỗ. Chẳng có ai mang theo bát. Tuyến xé phăng vạt áo của mình rồi nhúng vào nước trong hốc cây. Lần lượt mỗi người được nhận phần nước bằng cách vắt nước từ cái vạt áo vào miệng. Nước có mùi ung ủng của gỗ mục, nhưng dù sao cũng còn dễ chịu hơn cái chất nhựa nhơn nhớt của lá cơm tẻ.
Được độ một bát nước mà chia đều cho 7 người, chẳng thấm tháp gì nhất là đối với những người bị thương đã mất nhiều máu. Thuyền phó Nhi bảo Tuyến và Phong bốc hết cả gỗ mục trong hốc ra chia đều cho mọi người. Mỗi người được chia ít mùn gỗ mục ẩm bỏ vào miệng nhai, rồi hít lấy nước như ăn mía.
Nhìn thấy một con ốc sên ở hốc cây bò ra, Nhi bảo Phong bắt lấy đưa cho mình, anh lấy lưỡi lê gạt bỏ vỏ và lấy ruột ốc, bỏ vào miệng nhai ngon lành.
- Ăn được không anh ? – Khung hoỉi.
- Ngọt lắm .. ăn được.
Nghe Nhi nói ăn được, mấy anh em còn khỏe đi bắt về được khoảng hai chục con, chia cho nhau ăn thử. Có người ăn khen ngon, có người vừa bỏ vào miệng đã nôn ọe ra.
Mọi thứ vừa kiếm được chỉ làm dịu nỗi đói khát chút đỉnh, nhưng một lát sau thôi, khi nghe tiếng sóng biển ồn ào dưới chân núi thì cơn khát cháy ruột lại thức dậy. Anh em bàn bạc tìm cách xuống bãi biển tìm nước ngọt. Tuyến và Thật xung phong đi tìm, để anh em được nghỉ.
Phần vì đói khát quá, phần vì chờ đợi người đi tìm nước trở về, không ai ngủ được. Gần nửa đêm, có một con hổ lớn mò tới, nó vòng đi vòng lại xung quanh chỗ anh em đang nằm. Mùi mồ hôi và hơi thở của nó phả ra hôi thối. Tiếng chân nó đi « xàm xạp ..» trên lá khô nghe sởn tóc gáy. Những anh em khỏe nằm phía ngoài đã lên đạn, rê đầu súng theo bước chân của nó, nhưng không dám bóp cò vì sợ lộ bí mật. Khi con hổ chuồn đi chỗ khác, họ thì thầm kể với nhau câu chuyện «cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận ». Từ lúc con hổ đến đã làm tăng thêm vẻ bí ẩn hoang dã của rừng núi trong sự suy nghĩ của mọi người.
Sáng hôm sau vẫn không thấy Tuyến và Thật về. Anh em phán đoán đủ thứ tình huống các cậu ấy có thể gặp : hổ vồ, địch phục kích hoặc đi lạc đường. Họ phải lần theo dấu vết chân để tìm các bạn mình. Đến gần tối mới gặp Tuyến ngơ ngác trở về.
Anh em hỏi dồn :
- Cậu Thật đâu ?
- Có nước không ?
- Chờ lâu quá tưởng rằng phải vĩnh biệt nhau.
Tuyến buồn thiu, kể lại :
- Chúng tôi đi tìm gần đến sáng mới thấy có một vũng nước bẩn lẫn bùn ở gần đây. Cậu Thật về đón các anh. Chắc là đi lạc rồi. Bây giờ làm thế nào ?
Lại thêm một tình huống éo le nữa. Biết tìm cậu Thật ở đâu, giữa nơi rừng núi xa lạ này. Sức lực của mọi người đã cạn rồi, bây giờ biết tính sao. Không lẽ đang tâm bỏ rơi đồng đội trong cơn hoạn nạn này ư ? Bàn bạc mãi không ra kế gì. Anh em quyết định ngủ lại một đêm bên cạnh vũng nước mà Thật đã biết. Nếu cậu ấy không trở về thì đành vậy.
Hướng theo ngọn núi cao, anh em lại tiếp tục cuộc hành trình đói, khát. Trong rừng không có một lối mòn, anh em lúc đi, lúc bò trong những lùm gai dại. Thuyền phó Nhi không còn sức đứng vững nếu không có hai người dìu hai bên. Đúng ra vết thương của anh phải nằm trên cáng hoặc chí ít cũng phải có người cõng, nhưng bây giờ chẳng ai có đủ sức làm việc đó.
Mấy ngày đạp lên gai góc, đôi bàn chân của họ đã mọng lên nhiều nốt mủ trắng. Những người không mang được giầy dép, đều phải lấy cỏ quấn vào chân để đi cho bớt đau. Có đôi dép lúc này quý giá biết nhường nào.
Nhìn đôi bàn chân trần đỏ mọng của Nhi, rón rén đặt lên những gai đá, Phong thấy như chính mình đang chịu nỗi đau đớn, anh cởi đôi dép của mình đang đi đưa cho Nhi.
Cầm đôi dép , tay Nhi run run, nước mắt chảy vòng quanh. Anh không giấu nổi sự xúc động khi xỏ đôi dép vào chân mình. Cái nắng khô nó lại một lần nữa vắt kiệt nước trong cơ thể họ. Nghe tiếng sóng biển gầm, nhìn nước biển đầy như một mâm xôi càng thấy khát khô cháy cổ họng.
Khung rên rỉ :
- Xuống biển .. uống.
- Xuống biển để chểt ư ?
- Đằng nào .. cũng chết .. tôi không chịu được nữa. Tôi đi ..
Nói xong, Khung chống gậy đi xuống dốc.
Vì tìm nước uống đã mất một người rồi, không thể để mất thêm một người nữa. Họ tranh cãi nhau một hồi. Người tán thành, người không tán thành hành động của Khung. Dù sao Khung cũng đã đi rồi. Nhi bảo An đi theo giúp Khung.
Vết thương của An trên đùi đang sưng tấy, anh khập khiễng lần theo lối đi của Khung. Đi được khoảng vài trăm mét, An gặp những tảng đá to bằng mái nhà, xếp chồng lên nhau, từng tảng phẳng lỳ, có độ nghiêng tới 90 độ, không có chỗ bám víu, phải liều mạng lắm mới dám tụt xuống. Không hiểu Khung đi bằng cách nào, mà chỉ cách nhau nửa giờ đã mất hút. Có lẽ sự thôi thúc của cơn khát đã xô cậu ấy xuống những bậc đá kia.
An đang lần mò tìm lối xuống, bỗng có tiếng súng nổ ran ở bên dưới, cách chừng 100 mét. Anh vội vã nép mình vào sau một tảng đá nghe ngóng. An thở dài “ Nguy rồi. Bây giờ không còn cách gì cứu được cậu ấy”. Anh rút lựu đạn, để trước mắt , chờ địch.
Nghe tiếng súng và tiếng lưu đạn dưới sườn núi, tiếp theo đó là tiếng loa chiêu hồi oang oang « Hỡi anh em binh sĩ đoàn 125, chúng tôi hẹn trong 15 phút nữa nếu không chịu hồi chánh sẽ bị tiêi diệt ..».
Anh em nhìn nhau lo lắng. Không ai nói nửa lời. Họ đều tự hiểu sự việc gì đang xảy ra đối với Khung và An. Các cậu ấy có thể hy sinh hoặc bị bắt.
Chúng nỏ lải nhải « chiêu hồi » chán rồi lại bắn. Bắn chán lại « chiêu hồi » .. Thời gian đã qua bốn lần 15 phút của chúng ra điều kiện, mà không thấy có hành động gì khác. Như thế có nghĩa là các cậu ấy đã hy sinh hoặc có bị bắt cũng không khai báo gì. Nếu có một người khai báo thì chúng ngốc gì không đẩy vòng vây gần lại .. Anh em nằm sát nhau trao đổi. Họ xác định : nếu địch tới sẽ chiến đấu tới cùng.
Tiếng súng xa dần và nổ về hướng khác.
Thuyền phó Nhi gọi anh em lại, ngồi xung quanh mình.
Anh nói :
- Cứ để tôi ở lại đây .. Các đồng chí còn sức .. cố gắng đi nhanh lên tìm căn cứ - Nhi đứng lại đốt một điếu thuốc lá, hít một hơi rồi nói tiếp. Tiếng nói của anh yếu dần – Đi đi .. dùng dằng sẽ chết tất cả. Để mình tôi ở đây chờ Khung và An ..
Tiếng nói khẳng khái của anh em :
- Chết thì cùng chết, không bỏ ai ở đây.
Anh em nói gằn từng tiếng, gần như cãi nhau, với thuyền phó :
- Anh sợ chúng tôi không đủ sức dìu anh đi ư ! Bỏ nhau trong cơn hoạn nạn ở giữa rừng, lúc kẻ địch đang bám theo từng bước. Anh nghĩ xem, chúng tôi còn mặt mũi nào mà trở về đơn vị.
Lúc bình thường , tính tình Nhi rất điềm đạm, nhưng lúc này anh gắt lên :
- Thôi ! Không bàn nữa .. Tôi lệnh – Mặt anh trắng bệch như sáp, anh nói trong tiếng thở gấp – Nếu .. cứ để .. tôi .. đi cùng chết đói .. chết khát .. giữa rừng .. các cậu .. đi .. trước .. còn … hy vọng.
Sự thật khắc nghiệt có thể xảy ra « chết đói, chết khát » như thuyền phó nói, anh em đã nghĩ đến điều đó. Hôm trước họ còn phủ định nó bằng những ảo tưởng gặp cái may mắn nào đó. Bây giờ cảnh ngộ Nhi vừa chỉ ra đã ở trong tầm tay rồi. Thuyền phó nói có lý và anh là người chỉ huy, có quyền ra lệnh. Có cách gì loại bỏ điều kiện cay đắng đó nữa không ? Để lại anh em bị thương nặng nằm giữa rừng. Liệu đến bao giờ mới đi đón các đồng chí đó ? Mọi người đều khóc, nước mắt chảy trên gò má, không giấu giếm. Đây là giờ phút tạm biệt hay vĩnh biệt nhau.
Mắt thuyền phó vẫn khô lạnh, cố giấu sự xúc động, nhìn từng thủy thủ.
- Anh Nhi ! – Phong mếu máo và ôm chặt lấy Nhi – Chúng em hứa cố gắng tìm được anh em bến, sẽ tới đón anh ngay.
Nhi gỡ tay Phong và nói :
- Đi nhanh .. rồi đón mình và các cậu ấy.
Anh em cố gạt nỗi đau buồn bảo nhau thu xếp chỗ ở cho thuyền phó.
Không đấy một giờ, anh em đã làm xong công sự vừa là nơi ở phòng thú dữ và phòng địch đến. Tuyến và Phong bắt được khoảng hai ki lô ốc sên và một bó lá cơm tẻ. Mai kiểm tra lại « kho » còn 10 viên đa sinh tố cũng để lại cho Nhi.
Nhi không muốn anh em lưu luyến như vậy. Thỉnh thoảng anh lại nhắc « Đi đi .. nhanh lên .. rồi đón mình ».
Mọi người lần lượt bắt tay thuyền phó, ai nấy đều lưu luyến, không muốn xa rời nhau. Trong cuộc đời mỗi thủy thủ, biết bao nhiêi lần tạm biệt người thân, nhưng chưa bao giờ họ đau buồn trước cảnh kẻ ở người đi như thế. Tuyến nhìn lại không thấy anh Nhi ngồi trên thành công sự nữa, chỉ thấy những tảng đá xếp lên nhau như một nấm mồ. Anh bàng hoàng. Và lúc đó nếu không nghe tiếng nói của anh Nhi thúc giục « Đi đi .. nhanh lên ! » từ trong công sự vọng ra, thì không sao bước nổi.
Các cậu Tuyến, Mai và Phong vừa đi được một đoạn đường thì gặp An, khập khiễng kéo lê khẩu súng đi tới. Mừng mừng, tủi tủi , họ kể lại cho nhau nghe câu chuyện vừa xảy ra, rồi động viên nhau « Đi nhanh lên, cố lên không được để anh Nhi chết đói, chết khát ». Nhưng đi hướng nào sẽ tới được căn cứ. Trong tay không có một phương tiện gì để định tọa độ, không có ai mà hỏi, làm sao có thể đi tới được. Giá bây giờ có cái địa bàn và mảnh bản đồ khu vực thì ổn quá. Thôi, hãy gạt bỏ mọi ảo tưởng, tìm cái gì thực tế hơn .. Khi bàn bạc, nghe thấy tiếng đaị bác địch nổ không xa lắm. Một suy nghĩ táo bạo mới lạ vọt ra như ánh sao băng. Thôi đúng rồi, nơi đạn pháo địch nổ dứt khoát phải là nơi quân ta hoặc gần đâu đó là nơi quân ta ở. Sự lựa chọn đúng đắn và khắc nghiệt đến như thế là cùng. Anh em lại thúc giục nhau « Đi đi .. nhanh lên, hướng tiếng đạn nổ. Nhanh lên! Không thì chính mình chứ không riêng gì thuyền phó sẽ chết ở giữa khoảng rừng khô cằn này ».
Họ cắn răng bước, cắn răng trườn bò qua gai góc. Ba bốn giờ dài dằng dẵng như cả năm, khi ngoảnh lại nhìn cái cây của điểm xuất phát vẫn chẳng được bao xa. Sự chậm chạp của những bước chân sẽ trở thành nguyên nhân của cảnh chết đói, chết khát khó tránh khỏi. Họ nhìn rõ điều đó như nhìn vào bàn tay mình. Nếu cứ chui luồn trong những đám gai góc này khó có thể đi nhanh hơn được « Chúng ta đành phải xuống đi theo bãi cát ven biển. Đường đó dễ bị lộ, nhưng còn kiếm được con cua con ốc .. Có thể chết khi gặp địch phục kích, nhưng còn hơn là chết trong bụi gai mớm ..». Tình thế đã dẫn đến buộc họ phải lựa chọn một lối đi nguy hiểm hơn, một lối đi hôm trước họ phải tránh né. Họ tiếp tục lê bước nhích dần xuống bờ cát ven biển.
Được nhìn thấy biển, được hít thở không khí của biển, được làn gió biển lùa vào mớ tóc rối bù, tâm hồn họ trở lại thanh thản hơn. Những cánh buồm, những con sóng xô đuổi nhau, những cánh chim hải âu chao lượn đưa họ trở lại những chuyến đi. Cảng Hải Phòng, vịnh Hạ Long, Vàm Lũng, cửa Bồ Để .. và những hải đăng đã bị xóa mờ trong những chặng đường hành quân đói, khát vừa rồi, nay lại trở về xôn xao trong lòng họ. Và hy vọng được sống lại bừng lên mãnh liệt.
Đến hôm nay đã là ngày thứ 12 trong cuộc hành quân đặc biệt. Ban ngày họ giấu mình vào bụi gai mím hoặc một lùm cây kín đáo, chờ tới khi mặt trời lặn lại lên đường. Mấy hôm đi theo ven bờ cát, đôi khi cũng kiếm được quả cam thối, con ốc, con cua, nhưng chưa có cái gì làm nguôi được cơn đói, cơn khát.
Hôm ấy, anh em thu mình trong đám cây gai mỏ quạ. Điều không ngờ ở đây lại có tổ kiến vống khá lớn. Khi tan sương, kiến rủ nhau đi kiếm ăn, chúng kéo đàn kéo lũ qua cơ thể gần như trần trụi của anh em. Họ phải ngồi dậy xua đuổi lũ kiến đáng ghét ấy. Nhưng cứ phủi được mấy con trên cổ rơi xuống, thì một lũ khác lại mò vào cạnh sườn. Không sao đánh bại được « các mũi tiến công » của chúng.
An nhón một con kiến, soi vào ánh nắng, thấy cái đuôi nó mọng như một giọt nước. Anh cấu phần mọng của nó cho vào miệng nhấm thử. Chao ! Một vị chua ngọt mát dịu tan trên đầu lưỡi. Vui mừng chỉ còn thiếu reo lên. An nói với vẻ hãnh diện như chính mình vừa phát minh ra một chất dinh dưỡng mới chưa hề có trong đời sống :
- Tao vừa tìm được ra sinh tố K .. tha hồ xài thoải mái.
An giơ một con kiến đang ngọ ngoạy giữa hai ngón tay cho Tuyến xem.
Mỗi người đều ngắt phần bụng một con kiến, bỏ vào miệng nếm thử. « Quả là ngon thật ». Sau lời khen đó, họ không cảm thấy khó chịu khi bị đàn kiến leo lên cơ thể mình nữa. Lũ kiến lần lượt bị đối phương khổng lồ của nó dùng «chiến thuật gọng kìm » tiêu diệt. Chưa đủ, họ còn bò sang bụi rậm khác để thay thế công việc của chim gõ mõ.
12 ngày đêm, đến nay dạ dày của anh em mới được chứa chút thức ăn có chất dinh dưỡng. Ai nấy đều cảm thấy khoan khoái dễ chịu.
Nhìn ra biển đã vắng bóng hải âu, những con tàu đánh cá lên đèn. Tuyến đội mớ cỏ khô trên đầu rồi nhoài người khỏi bụi gai. Anh đưa mắt quan sát dọc theo bờ cát. Cả một vùng ven biển vắng vẻ lạnh lẽo, chỉ có những đợt sóng vô tư đang nô đùa. Đã tới giờ có thể hành quân được rồi. Tuyến khẽ gọi các bạn :
- Dậy dậy ! Đi thôi!
Họ bước đi thất thểu, nghiêng ngả như người say rượu. Chốc chốc lại có người cố rảo bước theo con còng, nhưng hoài công vô ích, họ không còn đủ sức đuổi theo con vật cỏn con đó nữa. Anh thợ máy An gặp dịp may, nhặt được ở một chỗ ba con cua thọt. Những con cua này đã sống từ thuở lọt lòng trong một cái vỏ ốc bằng ngón tay cái, lớn lên thân nó bị vỏ ốc bó cứng, chỉ thò ra được hai cái càng và vài cái chân để sinh sống. Vì thế An mới đủ sức vồ được nó.
An chia cho Mai một con, vì cậu ấy đã kiệt sức, còn lại xé ra làm ba phần đều nhau để chia cho ba người. Bữa ăn hương hoa thế thôi nhưng cũng thấy dễ chịu.
Đang đi, Tuyến nhìn thấy có bóng người lội xuống mép nước, hình như người đó đang thả lưới.
Tuyến xử trí rất nhanh, anh khẽ nói với An :
- Cậu đi men theo bờ dứa, mình đi vòng phía sau vào thật gần bắt sống, để hỏi đường.
Tuyến ra hiệu cho anh em « có động ».
Mai và Phong núp vào bụi cây. Tuyến và An thực hiện kế hoạch. Người kia đang lúi húi kéo mảnh lưới rách, nghe thấy tiếng lên đạn và tiếng hô giơ tây lên bất ngờ, quay sau lưng. Anh ta hoảng hốt kêu lên :
- Đừng bắn !
- Anh phải dẫn chúng tôi vào chỗ có anh em du kích.
Anh Q, người của bến đi kiếm cá, bị bất ngờ, buộc phải giơ tay, nhưng mắt vẫn cố liếc ngang xem kẻ nào lại bắt mình dẫn tìm du kích. Nhìn thấy một người gầy yếu, mặc quần áo rách rưới đang chĩa súng vào sườn mình, anh nghĩ « .. anh em đoàn 125 đây rồi ». Q vội hỏi mật khẩu « Kiến ». An đáp lại « Vàng ». Đúng rồi !
Không còn nghi ngờ gì nữa. Người của mình đây rồi. Q vui mừng quá ôm chầm lấy An.
- Ôi ! Các đồng chí ở dưới tàu lên phải không ? Chúng tôi đi đón các đồng chí mãi không gặp. Ba hôm trước đây, đồng chí Thật đã tới được căn cứ, dẫn chúng tôi đi tìm .. tưởng các đồng chí không còn nữa.
Tới căn cứ của bến, Q vừa báo cáo anh em ở tàu C.235 đã đến, đồng chí Hạnh , phó đại đội trưởng bến trong lán chạy vội ra, vui mừng, xúc động ôm chặt từng thủy thủ :
- Chúng tôi có tội với các đồng chí .. Mấy ngày nay đi tìm .. Anh Hạnh xúc động nói ngắt quãng không rõ ý. Đang nói với các thủy thủ, Hạnh chợt nhớ ra một việc phải làm gấp – Này cô Hường đâu, lấy tất cả số gạo nấu cháo ngay, làm thịt hai con gà vừa bẫy được .. nhanh lên nhé.
Hạnh mời anh em tạm ngồi nghỉ trên mấy chiếc võng treo ở gần đó, rồi nói tiếp :
- Chúng tôi có thiếu sót trong việc tổ chức canh gác không được chu đáo nên mới đến nỗi này.
- Nghe tiếng anh quen quá !
- Tôi là Hạnh, trước là thuyền trưởng ở đoàn 1 được cử vào đây làm phó đại đội trưởng của bến này.
- Tưởng ai xa lạ, ra cũng là người nhà cả. Anh vào đây lâu chưa ?
- Được ba năm rồi. Ở đây còn mấy anh nữa cũng ở quân chủng. Anh Kiên, anh Đối, anh Hường trước ở tàu Tuần la. Các đồng chí về được đây, chúng tôi mừng quá, không thì mang hận suốt đời.
- Chúng tôi còn để thuyền phó Nhi ở giữa rừng. Làm sao đi đón anh ấy về ngay được.
- Các anh còn nhớ phương hướng không ?
Không khí im lặng giây lát, rồi có tiếng đáp :
- Không còn nhớ ra phương hướng nào nữa. Chỉ nhớ ở đó có một cây bàng to.
- Nếu vậy. đành chờ đến sáng mai, một đồng chí nào khỏe dẫn chúng tôi đi.
Nghe các thủy thủ tàu C.235 đã đến, anh em công tác ở bến tìm tới thăm hỏi, chuyện trò mừng tủi không dứt.
Cô Hường đã mang nồi cháo đến. 12 ngày đêm đến giờ mới được ngửi mùi thức ăn quen thuộc. Anh em ăn ngấu nghiến, xong rồi lăn ngủ như chết.
Sáng hôm sau chỉ còn một mình trung sĩ Phong gượng dậy được.
Hạnh đã cùng một số anh em bến chuẩn bị đòn cáng, thấy Phong đến anh nói vồn vã :
- Anh em chúng tôi võng các đồng chí đi quân y.
Phong nói :
- Tôi đề nghị anh cử người đi đón anh Nhi.
- Tôi và đồng chí .. chúng ta đi ngay thôi.
Cô Hường nuôi quân đưa cho Hạnh và Phong mỗi người vài miếng củ mài luộc.
Phong nói với cô Hường :
- Nếu có nước cháo, chị cho tôi xin một bi đông mang đi cho anh Nhi,
- Anh Hạnh tối hôm qua có dặn, tôi tưởng đưa cho mấy đồng chí thương binh kia.
Quăng dây bi đông bên vai , rồi xách khẩu tiểu liên, Phong xăm xăm bước. Lúc này anh chỉ nghĩ tới Nhi, không hề nhớ đến có Hạnh là người của bến đang đi cùng.
Hạnh phải gọi Phong:
- Anh đi đâu đấy ! Đường này kia mà ! Tối hôm qua tôi đã hỏi kỹ chỗ anh Nhi đang ở. Ở đây chúng tôi quen thuộc từng mô đá, cứ nói cây bàng thối một mảng góc là tôi biết rồi. Chỉ độ một tiếng rưỡi đồng hồ là đến nơi.
- Một tiếng rưỡi ư ? Thế mà chúng tôi phải đi mất 6 ngày đường.
Hai người vừa đi vừa chuyện trò. Khi nhìn thấy cái thành công sự xếp bằng đá. Phong hồi hộp nói thì thầm « Đây rồi ! Đây rồi ! Tay anh giữ chặt chiếc bi đông nước cháo còn ấm bên sườn, sung sướng như chính mình đang khát cháy cổ, được nhận phần nươc ». « Anh Nhi ơi ! Tôi đã tới đón anh. Có nước đây rồi ». Phong muốn đánh tiếng trước cho Nhi biết, nhưng sự hồi hộp làm cho lưỡi anh cứng lại, không nói ra thành tiếng.
Nhìn vào trong công sự rỗng không, tự nhiên nước mắt Phong trào ra. Anh Nhi đâu rồi ! Trước mắt Phong hiện ra những hình ảnh hư ảo. Anh Nhi đang gác đôi chân đầy bông băng lên tảng đá. Anh Nhi đang há miệng hứng những giọt nước gỗ mục, từ cái giẻ vạt áo rơi xuống. Anh Nhi mắt sáng long lanh nhìn Phong và dặn dò « Nếu tới được căn cứ, thì tới đón mình ». Anh Nhi ơi, muộn rồi.
- Anh ấy đã đi cách đây ít nhất là hai ngày rồi. Nhìn cái băng kia đủ rõ.
Nghe tiếng Hạnh nói, Phong mới định thần, nhìn kỹ trong công sự. Mảnh vải băng dính đầy máu khô đen nằm dưới lớp lá khô. Đàn ruồi muỗi bay xung quanh đống vỏ ốc.
Họ sục tìm sang những lùm cây xung quanh. Phong nhặt một cái nòng súng giấu dưới lá khô, trao cho Hạnh.
- Như vậy là anh ấy đã tháo súng ra từng bộ phận rồi giấu đi. Anh ấy đã đi khỏi nơi đây.
- Đây nữa, một cái khóa nòng. Hạnh nói – Theo mình, Nhi thấy không thể sống được nữa nên mới phá súng giấu mỗi nơi một bộ phận. Có thể cậu ấy sẽ cố sức bò xuống biển tìm nước.
Họ đã lần theo dấu vết của Nhi trườn bò, cách một quãng lại thấy một cái quần đã xé cụt hai ống, một cái áo dính đầy nhựa cây và máu, bao thuốc lá còn vài điếu .. Đến bãi cát không còn dấu vết gì nữa.
- Nhi đã bò xuống đây uống nước.. vì đuối sức quá rồi.. có thể bị sóng cuốn đi.
Nghe Hạnh nói, tiếng được, tiếng mất trộn lẫn vào âm thanh ồn ào của sóng.
Phong đứng lặng im, nước mắt chảy dài, đăm đăm nhìn ra khơi. Ngọn sóng suy tưởng đang trào lên trong anh. Một mái tóc đen, một vầng trán hói và một bàn tay nữa đang với với trên mặt sóng nhấp nhô. Anh Nhi ! Chúng ta đã thề với nhau « Sống với biển, chết với biển để đánh thắng giặc Mỹ », phải chăng khi vĩnh biệt cuộc đời, anh đã trở về với biển.
Bất giác Phong gào to :
- Anh Nhi ơi ! .. Anh Nhi ơi !
Tiếng « ơ ơ ..ơ » trong hư vô đáp lại. Trong óc Phong lại đọc tiếp lời điếu. Anh Nhi ơi ! Mỗi lần nhìn sóng biển chúng tôi lại nhớ tới anh. Trước ngọn sóng kia, chúng tôi nguyện tiếp tục phấn đấu cho lý tưởng đến thắng lợi hoàn toàn. Vĩnh biệt anh ..
Những làn sóng lao vào bãi cát, tạo thành tiếng ì ầm rền rĩ vọng vào tai Phong như những giai điệu trầm của bản nhạc Hồn tử sĩ.
Tất cả anh em thủy thủ đều phải vào bệnh xá điều trị, chỉ riêng Phong ở lại căn cứ của bến. Phong được chăm sóc đặc biệt. Bữa nay riêng anh được ăn cơm với cá kho, còn tất cả anh em ở bến đều phải ăn củ khoai chấm muối. Cuộc sống của anh em bến rất cực, người nào người nấy đều gày guộc, xanh xao. Phong không muốn được biệt đãi, nhưng anh em bến không chịu. Mọi người yêu mến, chiều chuộng anh với cả tấm lòng chân thật. Đôi lúc Phong bắt gặp cử chỉ ngượng ngùng e ấp của một vài cán bộ. Mãi sau này anh mới hiểu được cái lý do tại sao họ lại có cử chỉ đó. Số là trước ngày tàu 235 đến, anh em bến vẫn phân công nhau canh gác đón tàu. Đúng ngày 29 tháng 2 (ngày tàu vào), một cán bộ trên tỉnh đội tới kiểm tra tình hình, thấy địa hình của bến phức tạp, tàu khó vào, và lúc đó điện đài của bến lại hỏng, không liên lạc được với đoàn 125. Bến đã đón nhiều đêm nhưng lại không thấy tàu đến, đồng chí cán bộ tỉnh đội cho rút một số vọng gác để anh em đi lấy gạo. Đêm 29 vẫn còn môt tổ gác ở chân núi Bàn Thang phát hiện thấy tàu vào, cho người về báo cáo. Nhưng do chậm trễ, quá nửa đêm mới cử người đi đón. Anh em bến mới đi được nửa đường, nghe tiếng súng nổ nhiều ở Hòn Hèo, đã quay trở lại. Hôm sau địch đổ bộ xuống càn quét, bến không có hành động gì chi viện cho C.235.
Phong ăn cơm xong lên võng nằm nghỉ. Mấy năm trước, chiến đấu trên sông Mã, bom đạn không kém phần ác liệt, đồng đội có kẻ mất người còn, nhưng chưa bao giờ anh có nhiều suy tư như bây giờ. Anh mới sống cùng đội tàu C.235 trong một chuyến đi mà cứ tưởng như ăn ở với nhau từ thuở nằm trong nôi. Không có lời lẽ đẹp đẽ nào có thể xứng đáng để diễn tả tinh thần và cách sống cách mạng của anh em trong chuyến đi này. Hình ảnh cao cả xúc động ấy luôn luôn trỗi dậy sống động trong óc anh. Tiếng kêu của Hải xin ở lại cùng chết với con tàu. Bóng dáng bình tĩnh đường hoàng của thuyền trưởng Phan Vinh giữa tình huống hiểm nghèo. Tiếng thúc giục « Đi đi .. nhanh lên » của thuyền phó Nhi...
Trong người Phong mệt mỏi rã rời, anh thèm một giấc ngủ thật dài để bù lại cho những đêm thao thức mất ngủ. Nhưng nghĩ tới những người đã khuất, anh cảm thấy như mình có lỗi, không thể nằm yên được.
Phong cố cưỡng lại mệt mỏi, chống hai tay vào đầu gối định đứng dậy. Thấy cô Hường đi tới, anh lại ngồi xuống võng.
Cô Hường cười, nói :
- Em mang tới kính anh hộp sữa, mẹ em vừa gửi tới.
Nói xong, Hường đặt hai hộp sữa vào trong võng.
- Nhà chị ở gần đây ư ?
- Nhà em ở trong ấp chiến lược, ở đó ta có cơ sở, vẫn liên lạc được. Thỉnh thoảng em cũng về trỏng. Trỏng có tin ra, nó bắt được một anh đã bị thương xuống biển uống nước ngày mùng 4. Chúng nó kháo nhau, đã giết được hai người chỉ huy đi trinh sát trong ngày đầu tiên chúng càn quét. Các anh phải chịu cực nhiều quá ..
Tai Phong cứ ù lên, không biết đoạn sau Hường nói gì nữa. Những điều anh vừa suy nghĩ lại tiếp nối. Ai bị bắt ? Có thể là cậu Khung. Vì ngày mùng 4, anh Nhi vẫn đi cùng với anh em. Những người chỉ huy chết , có phải là anh Vình và anh Thứ không ? Phải đi tìm các anh ấy. Chỉ có một mình mình ở đây ..
Phong vùng đứng dậy đi về phía lán của Hạnh.
Cô Hường ngơ ngác không hiểu, tại sao đang nói chuyện. Phong lại bỏ đi.
- Kìa anh Phong. Anh cứ nghỉ ngơi. Cần nước uống biểu em lấy cho.
Hạnh đang hướng dẫn cho mấy chiến sĩ bến chặt ống pháo sáng ra từng mảnh hình chữ nhật. Thấy Phong tới, Hạnh nói :
- Phong về nằm nghỉ ngơi cho lại sức. Chúng mình đang ..
Phong ngắt lời Hạnh:
- Bây giờ anh đi ngay với tôi đi tìm các tử sĩ được không ?
- Tối qua các cậu An và Tuyến đã cho mình biết danh sách các đồng chí hy sinh và bị lạc. Theo tin tức chúng tôi thu lượm được, thì cậu Khung đã bị địch bắt. Chúng tôi đang chuẩn bị thứ này để làm bia. Việc này phải sớm mai mới đi được. Phong cứ nghỉ cho lại sức để cánh mình lo.
Thấy Phong đứng im lặng, vẻ mặt xúc động, Hạnh khoác tay Phong trở về chỗ võng.
- Trông cậu yếu lắm , cứ nghỉ ngơi. Khỏi lo. Chúng mình sẽ thu xếp chu đáo.
Phong nằm suy nghĩ miên man một lúc rồi ngủ thiếp đi. Cô Hường đi qua, thấy Phong ngủ không có màn. Cô rón rén bước tới lấy mảnh dù pháo sáng đắp trên mặt võng.
Sáng hôm sau, Phong và anh em bến đã tìm được đầy đủ các đồng chí hy sinh.
Họ đã đứng rất lâu ở nơi diễn ra trận đánh không cân sức. Thuyền trưởng Phan Vinh và Ngô Văn Thứ, thợ máy đã chặn đứng hàng tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên, buộc chúng phải rút lui. Các anh vẫn ở tư thế nằm bắn như giữa lúc các anh ghìm hai cánh quân của địch lại. Xung quanh các anh chi chít những hố đạn ám khói, những cây cỏ gãy nát, cháy xám.
Chính nơi đây, bọn Mỹ-ngụy đã la lên rằng « Một tiểu đoàn bộ binh Việt cộng có pháo nặng yểm trợ » đã buộc một tiểu đoàn của chúng phải rút lui. Chính nơi đây đã diễn ra trận quyết chiến kiên cường của hai dũng sĩ hải quân đánh bại cuộc càn quét của địch. Điều ấy làm cho anh em rất tự hào.
Hạnh nói với anh em :
- Các đồng chí thân yêu của chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ rất vẻ vang. Trong tang lễ các đồng chí đó, không có hương khói, nhưng chúng ta có tấm lòng thành kính. Việc mai táng phải làm cho thật chu đáo.
Một chiến sĩ của bến phát biểu :
- Lúc sống , các anh ấy đã dũng cảm vượt qua biết bao hiểm nguy, sóng gió. Lúc hy sinh rất anh dũng, kiên cường vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Tôi đề nghị hướng mai táng để đầu về hướng Bắc, chân về hướng Nam.
Làm lễ hạ huyệt xong, khi đắp lên phần mộ liệt sĩ hòn đất cuối cúng, Phong cố ghìm tình cảm của mình để khỏi bật ra tiếng khóc :
« Anh Vinh, anh Thứ, anh Tương, anh Hải ơi ! » – Phong đọc lời điếu như nói chuyện với người đang sống trước mặt mình – « Các anh đã làm trọn lời thề với Tổ quốc, với Đảng. Cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời, các anh vẫn làm cho kẻ thù khiếp sợ. Chúng tôi xin hứa sẽ không ngừng phấn đấu noi theo gương sáng của các anh. Xin vĩnh biệt ! ».
Tất cả anh em cúi đầu tưởng niệm những người đã khuất. Một cơn gió xoáy đưa tàn tro bay lên cao. Lá cây thiên tuế trồng trên những phần mộ đong đưa như những cánh tay vẫy chào. Tiếng sóng biển trầm trầm như tiếng đổ hồi, như những lời đồng vọng thương cảm những chiến sĩ đã bỏ mình vì nước, vì dân.
..Sau một ngày xảy ra trận chiến đấu của đội tàu C.235 với địch ở Hòn Hèo, đội tàu C.43 mới chuyển hướng vào bờ.
Như thường lệ vào trước giờ tàu chuyển hướng, anh em chuẩn bị bữa ăn chu đáo. Việc nấu nướng bữa nay do hai đầu bếp giỏi là các anh Nguyễn Trọng Tài, thợ máy và Phan Văn Kiểm, thủy thủ trưởng đảm nhiệm.
Nấu nướng xong, Tài và Kiểm khệ nệ bưng thức ăn và cả két bia lên mặt boong.
Các thủy thủ thấy mùi mực nướng thơm phức bay vào khoang, không chờ đầu bếp gọi, đã kéo nhau ra. Ai thích rượu thì uống rượu, ai thích bia thì uống bia, nhắm với thịt gà luộc và mực nướng thả sức. Có anh vừa chạm môi tới cốc bia đã lè nhè nhại những người nát rượu. Chỉ sau hai lần chạm cốc, đủ các thứ chuyện bông phèng nở bung như ngô rang.
Anh thợ máy Nguyễn Trọng Tài trở thành đề tài châm chọc vui vẻ. Chuyện vui đùa về màu da đen của Tài không làm anh tự ái mà chỉ gợi nhớ chuyến đi đầy gian khổ, ác liệt. Cách đây hơn năm tháng, anh có nước da bình thường như anh em khác. Chuyến đưa hàng vào gần Ba Làng An ( Quảng Ngãi ) gặp địch, đội tàu C.43 đã chiến đấu và phá hủy tàu rồi lên bộ đi the đường Trường Sơn trở về Bắc. Trong cuộc hành quân chữ O ấy, Tài bị sốt rét ác tính, tưởng rằng sẽ vĩnh biệt đồng đội, nhưng anh đã trở về được với màu da đã chết. Những ngày mới ốm dậy, mỗi lần soi gương thấy mặt mình đen sạm, anh thấy phảng phất một nỗi buồn. Từ hôm trở về cùng anh em chuẩn bị đi chuyến này, chẳng còn thời giờ nào để ngắm mình và cũng không hề nghĩ tới màu da của mình.
Tàu chuyển hướng vào bờ.
Mặt biển êm ả. Những làn sóng nhẹ dập dìu xô vào mạn tàu. Con tàu lướt nhanh để lại phía sau một vệt dài màu trắng trên mặt nước tím thẫm. Mặt trời đã lặn. Phía tây còn bừng lên như một đám cháy dữ dội. Cảnh trời chiều phẳng lặng như gợi nỗi nhớ. Bỗng dưng Tài thấy lòng bâng khuâng thương nhớ những người thân của mình. Hình ảnh nguời mẹ già gầy guộc tóc bạc phơ, sống cuộc đời góa bụa và đem tất cả sức lực để nuôi con khôn lớn. Hình ảnh người vợ trẻ tần tảo thay mình chăm sóc mẹ già, nuôi con. Hình ảnh thằng con ngây thơ luôn miệng mong «bố đánh giặc Mỹ rồi về đi chơi với con » . Tài nghĩ đến mình là đứa con độc nhất, nều như mình hy sinh, mẹ kính yêu sẽ phải chịu một nỗi đau mất mát, nhưng mình tin rằng mẹ có đủ nghị lực vượt qua.
Trước khi lên đường, Tài đã nghĩ đến điều xảy ra đó và đã viết những bức thư «trăng trối » giấu ở dưới đáy vali dặn dò những người ở lại. Lúc này, những dòng chữ sâu nặng nghĩa tình ấy lại hiện lên trước mắt anh « .. Dù ác liệt, nguy hiểm thế nào tôi cũng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ . Nếu tôi hy sinh trong chuyến đi này, nhờ tổ chức giúp gia đình tôi bớt một phần khó khăn và lần lượt gửi cho gia đình tôi những bức thư trước đây. Mỗi bức thư gửi cách nhau khoảng năm , sáu tháng ..»..Bức thư thứ nhất gửi gia đình : « .. Anh cũng như hàng triệu thanh niên khác lúc lên đường đánh giặc, cứu nước. Xa gia đình lúc này là chuyện thường tình. Lần này anh có thể đi xa lâu và ít biên thư về cho gia đình. Mọi công việc ở nhà đều trút lên vai em, anh thông cảm sâu sắc điều đó, nhưng làm sao khác được. Mong em cố gắng thay anh chăm sóc mẹ và dạy dỗ con nên người ..».
Bức thư thứ hai « .. Chiến đấu để giành lại độc lập, tự do và hòa bình cơm áo cho muôn đời mai sau, không thể không trả giá bằng sự hy sinh xương máu. Nếu anh có chết ở nơi chiến trường, thì em cố nén đau buồn và tự hào về anh. Em hãy dành nỗi tiếc thương anh vào việc chăm sóc mẹ già và nuôi dạy con thành người ..».
Bức thư thứ ba « .. Mẹ ơi ! Con ra đi mang theo công lao tày núi của mẹ mà con chưa có dịp đáp đền. Mẹ hãy tự hào vì đứa con thân yêu của mẹ đã hy sinh vì Tổ quốc quang vinh ..».
- Ai cà phê nóng đây !
Tiếng reo đùa của Kiểm cắt đứt dòng suy nghĩ triền miên của Tài. Anh đổ cốc cà phê còn nóng ở tay Kiểm rồi rụt rè nhìn bạn như mình vừa phạm lỗi gì đó.
Tài leo lên khỏi buồng máy, đứng tựa vào lan can, đốt thuốc lá rồi vừa nhấm nháp cà phê vừa nhìn về những ngôi sao lấp lánh ở phía chân trời. Tâm tư nặng nề của anh tan dần trong các giả định tình huống trước mắt.
Mọi người đã vào vị trí chiến đấu nhưng chưa dứt tiếng chuyện trò, cười nói. Ruệ ngó đầu qua cửa buồng hàng hải, thấy Tài đang đứng ngắm biển, anh gọi to :
- Anh Tài ! Ban nãy dang uống bia bỏ đi đâu ? Vào đây, tôi lấy cháo về cùng ăn.
- Khỏi phải lấy, chúng ta xuống bếp ăn luôn ở đó cho tiện.
Hai anh em xuống chạn bưng ra một soong chảo và soong miến nấu với thịt gà còn đang bốc hơi. Ruệ còn lấy thêm một tô đầy ú thịt gà luộc, mang ra chỗ đơn vị ăn cơm thường ngày.
Tài hỏi :
- Sao còn nhiều vây. Còn ai chưa ăn ?
- Uống bia, ăn mực ngang dạ, các vị không xài nổi.
Trong bữa ăn, vừa chuyện trò, tự nhiên dẫn dắt tới câu chuyện về mối tình vừa bị cắt đứt trước chuyến đi của thủy thủ Nguyễn Đăng Nam.
- Cô ấy cũng xinh gái – Ruệ cười nói – Cô ta đang học Đại học Sư phạm năm thứ ba. Hai đứa theo đuổi nhau đã hai năm. Một hôm cô ta sụt sùi với cậu Nam « Bố em bảo thời chiến này lấy bộ đội cũng như không .. bố em không bằng lòng. Em chẳng biết làm thế nào cả .. nếu em cứ tự ý, tình cảm trong gia đình em rạn nứt thì em khổ tâm lắm ».
- Kiểu này lại muốn ngãng ra. Thế cậu Năm xử ra sao ?
- Cậu ấy nói « .. Tôi rất đau khổ phải nói ra điều này. Từ hôm nay trở đi, quan hệ giữa chúng ta chỉ còn là tình bạn thôi. Vì từ xưa tới nay, nếu là tình yêu thì người ta vượt qua tất cả để đi tới. Cô đã không vượt nổi được khó khăn đó, còn tôi thì chẳng muốn có ai thương hại ..».
- Thằng Năm làm như vậy liệu có nóng vội không ?
- Kiểu cách ấy trước sau cô ta cũng chạy theo tiếng gọi ích kỷ của gia đình .. «Phăng teo » cho đỡ vướng chân.
Ruệ vừa cười vừa bình luận :
- Như vậy là đội ta còn 14 cặp đăng đeo đuổi. Giả dụ nếu gặp những cố như cô «sinh – viên – sư – phạm » của cậu Năm, mà anh em mình lại yếu bóng vía thì chuyến này có cố gắng cũng đẩy được con tàu đến phao số 0.
Câu nói đùa của Ruệ làm cho Tài bật cười và sau tiếng cười anh thấy lòng mình nhẹ nhõm hơn.
Ăn xong, mỗi người lại lao vào công việc của mình . Cậu Giám đang ngồi nhìn đăm đăm vào số máy đang chạy, thấy Tài đi tới, anh lấy tay ra hiệu hỏi :
- Tình hình trên ấy có gì không ?
- Vẫn êm. Cậu lên nghỉ đi, được phút nào hay phút đó. Nếu có gì cũng phải vài giờ nữa.
Tàu C.43 đã đi bảy ngày đêm không gặp trở ngại gì. Anh em đặt nhiều hy vọng : đoạn đường trước mặt sẽ xuôi lọt, vào được bến, thả hàng rổi ra ngay. Ở các vị trí chiến đấu, vẫn vang lên tiếng cười nói lạc quan. Nhất là khẩu đội DKZ ở vị trí mũi tàu, gồm các xạ thủ Phan Văn Kiểm, Nguyễn Nho Tòng và Nguyễn Đăng Năm là nơi không mấy lúc vắng tiếng cười. Ở « trận địa mặt boong » không giống như bất kỳ trận địa nào trên mặt đất, mọi người bị câu thúc về địa điểm cơ động, nhưng chẳng ai hạn chế sự ồn ào, vì tầm nhìn của họ bao giờ cũng thoải mái, không đáng ngại kẻ địch xuất hiện bất kỳ.
Nhìn thấy ở phía bờ có nhiều pháo sáng bắn lên, làm rõ hình núi non, họ gọi nhau :
- Núi, núi .. kìa ! Các anh nhìn thấy không ? Chắc ăn rồi.
- Ừ nhỉ .. mình đưa được tàu vũ khí này vào thì Quảng Ngãi đánh thoải mái.
- Ta đang tiến công vào Saì Gòn, Huế .. nếu Quảng Ngãi đánh mạnh giải phóng được một vùng rộng nối vùng đồng bằng với Tây Nguyên thì cha con thằng Mỹ bỏ mẹ.
Lúc Năm và Kiểm đang nói chuyện, Tòng vào bếp lấy ra một đĩa xôi và một tô thịt gà rang. Tòng giục mọi người :
- Ăn đi .. ăn thật no, sắp sửa có việc làm rồi. Nếu vào được thì có sức chuyển hàng, nếu gặp chúng thì có sức mà nện.
Họ chưa kịp ăn xong đã nghe tiếng thuyền trưởng nói to :
- Chú ý, có tàu địch đang theo phía sau ta.
Kiểm nói đùa :
- Mẹ nó ! Tưởng đã chắc ăn rồi, thế mà chúng nó lại đến phá thối. Kệ xác chúng .. cứ ăn đi, hết đĩa xôi rồi tính chuyện với chúng sau cũng vừa.
Ánh đèn tàu địch vẫn bám phía sau. Tàu C.43 mở hết tốc độ chạy về phía bờ nhưng vẫn không bứt nổi khoảng cách với tàu địch đang thu hẹp dần.
Khoảng 24 giờ 15 phút, máy bay địch tới thả pháo sáng dọc theo hướng tàu ta đang tới. Và ngay sau đó vài phút, đạn pháo lớn của đich từ các chiến hạm rắ như mưa vây lấy tàu C.43. Một lát sau nhiều tàu nhỏ của địch bật đèn pha đủ maù lấp loáng cắt đêm tối trên mặt biển thành những mảng nhỏ. Chúng chuyển dịch dần theo làn đạn pháo.
Kiểm sốt ruột đứng dậy nói to :
- Anh Thắng ! Không cho lệnh nổ súng để nó bắn chết anh em ư ?
- Phải bình tĩnh. Không có lệnh của tôi, tuyệt đối không ai được nổ súng.
Các nòng pháo trên tàu C.43 lặng lẽ rê theo mục tiêu của mình lựa chọn.
Thuyền trưởng Thắng bình tĩnh quan sát xung quanh. Anh phán đoán : Đã có lần tàu địch bắn lầm nhau. Việc bắn pháo vây rộng xung quanh, biểu hiện chúng chưa khẳng định là tàu của ta. Khoảng cách bờ còn 10 hải lý, ta có thể chạy thêm vào gần bờ đoạn nào hay đoạn ấy, chờ thời cơ thật thuận lợi ta hãy nổ súng.
Tiếng đạn pháo bỗng im bặt. Hai chiếc tàu địch từ phía bắc lần lượt cắt qua trước mũi tàu của ta, cách khoảng 500 mét.
Thuyền trưởng Thắng hạ lệnh :
- Chiếm góc mạn phải 30 độ. Bắn!
Thuyền trưởng vừa dứt tiếng, tiếng chuông chuyển lệnh đã rung lên một hồi dài. Các khẩu pháo DKZ, 12,8 nổ đồng loạt vào mạn tàu địch. Một chiếc tàu địch bị trúng đạn, khói tuôn ra mù mịt.
Hàng chục tàu địch từ bên sườn, phía sau xối một trận bão đạn về phía tàu C.43. Những chuỗi đạn lửa đan chéo, đuổi nhau hình cầu vồng bay vút trên không hoặc cắm xuống mặt biển dày đặc trong khu vực C.43 đang đi.
Thuyền trưởng Thắng vẫn ở tư thế đường hoàng trên đài chỉ huy, quan sát và chỉ huy đơn vị tiếp tục chiến đấu. Ruệ đang ngồi ở ghế lái, bị trúng đạn ngã xuống. Thuyền phó Đức đứng bên lập tức lên lái thay Ruệ.
Chính trị viên Tuấn vào xốc Ruệ ngồi dậy và lay gọi :
- Ruệ ơi ! Bị thương ở đâu mình băng cho ?
Tiếng Ruệ trả lời yếu ớt :
- Còn người còn phải chiến đấu bảo vệ tàu. Tôi chết .. tôi gửi lời ..
Tuấn sờ tay Ruệ, thấy mạch cậu ấy không đập nữa, anh đặt Ruệ nằm sát vào vách.
Nghe tiếng gọi « Anh Tuấn, tôi bị thương ». Tuấn vội vàng vào ghế lái thay cho thuyền phó Đức.
Tiếng đạn nổ liên hồi đinh tai nhức óc, không còn phân biệt rõ tiếng nổ nào là của ta, của địch nữa. Tuấn đang hướng con tàu rẽ sóng chạy vào bờ, thấy tay mình tê dại không điều khiển nổi tay lái nữa, anh gọi Hào vào thay thế.
Hai chiếc máy bay lên thẳng của địch nhào tới xả rốc két xuống tàu. Khẩu đội cao xạ của ta kiên cường giáng trả, một chiếc bị trúng đạn, bụng nó phụt lửa sáng rực rồi rơi tõm xuống biển. Cùng lúc đó, tàu C.43 bị một phát rốc két trúng thùng dầu phụ, đám khói từ thùng dầu phụ đùn lên đen đặc. Năm rời vị trí súng nhaỷ vào dập lửa cứu tàu.
Thuyền trưởng Thắng nhìn thấy khầu 12,8 của ta im lặng ngửng nòng lên trời, mấy xạ thủ bị thương nằm dưới chân súng, trong lúc máy bay địch vẫn điên cuồng bắn xuống. Anh rời đài chỉ huy xuống làm xạ thủ. Những loạt đạn dữ dội của thuyền trưởng làm cho chiếc máy bay lên thẳng bay bổng lên cao ..
Từ lúc nổ súng, Tài đứng trong buồng máy, nhưng vẫn cảm nhận được sự ác liệt của trận đánh qua những mảnh đạn va vào thân tàu và những cái lắc lư đột ngột của con tàu. Mắt anh không rời cỗ máy đang chuyển động. Mỗi lần có tiếng va đập mạnh vào vỏ tàu, anh lo lắng nhìn xung quanh rồi nhìn vào máy, xem có xảy ra chuyện gì không.
Một tiếng động trầm đục, cùng lúc có cái gì rất nặng va vào thân tàu, làm cho nó chao đảo, làm cho máy , đèn , điện đều tắt ngấm. Tài thấy bàn chân mình như giẫm lên lửa, rất bỏng. Anh cúi xuống sờ soạng thấy máu nhớp nhớp cả dưới sàn.
Có ánh đèn pin soi xuống buồng máy, và ánh đèn theo nhịp bước của ai đó xuống dần rồi đến bên cạnh. Tài mới nhận ra chính trị viên Trần Anh Tuấn. Tiếng của Tuấn khô đặc, ghé sát vào tai Tài :
- Phá hủy tàu.
Tất cả anh em đã rời khỏi tàu.
Đạn pháo của các pháo hạm địch vẫn không ngớt vây bám xung quanh tàu C.43.
Anh em cố hết sức bơi qua khu vực đạn pháo nổ dày đặc. Vừa bơi được một đoạn, Năm nhìn thấy một viên đạn pháo nổ gần Kiểm. Ngay lúc đó một đợt sóng nâng cả phao của Năm và thuyền trưởng Thắng đang bám lên cao 4 mét, rồi đẩy nhào xuống chân con sóng khác.
Pháo sáng vẫn soi rõ từng nếp sóng, nhưng Năm không nhìn thấy bóng Kiểm đâu nữa. Thay cho lời vĩnh biệt người bạn thân yêu, Năm chỉ kịp gào to một tiếng « Kiểm ! ».
Lúc đầu họ bơi gần nhau, vài phút sau do pháo địch bắn, và do chênh lệch về sức khỏe, đã tạo ra những khoảng cách xa dần. Tài vừa bơi vừa cố gắng đưa mắt nhìn xung quanh nhưng không thấy ai. Mỗi quả đạn pháo nổ làm cho ngực anh ép lại khó thở. Thời gian như ngưng đọng. Tài cảm thấy mình đã vùng vẫy rất lâu dưới biển lạnh mà chưa nhìn thấy bờ. Một đợt sóng do đạn pháo địch gây ra, ập đến. Tài dùng hết sức mình nhoài theo. Chân anh chạm bãi cát ngầm. Mừng quá, thế là sống rồi ! Nhưng làm sao thế này ? Một bên chân anh cứng đơ ra như khúc gỗ, không sao cử động được. Tài tự nhủ : Đến đây rồi mà chịu bó tay là hèn ! Anh dùng hết sức đạp chân xuống cát rồi nhoài người về phía trước. Tay anh đã sờ vào mặt cát mềm dịu, như nắm lấy cái quý giá vừa bị mất. Anh vừa lồm cồm định đứng dậy th.ì một đợt sóng khác chồm tới kéo anh ra xa tít. Anh lại cố hết sức quãy. Chẳng phải chờ lâu, một đợt sóng lớn khác đã đẩy anh một mạch vào tới bờ, rồi lại kéo anh một mạch ra ngoài xa. Vết thương và những ngày đêm đi biển đã khiến anh không sao làm chủ được cơ thể mình. Sóng kéo co xô đẩy ba bốn lần như đùa giỡn với một khúc chuối.
Anh vẫn còn tỉnh táo, đủ sức hiểu tất cả những gì đang xảy ra và có thể xảy ra đối với mình. Không lý do gì đã cố gắng đến đây mà chịu thua những đợt sóng này. Không có lý do gì đã tới gần bờ lại để địch vớt lên tàu của chúng. Một lần nữa anh vận hết sức lực của mình để vùng vẫy ra khỏi bàn tay của thần chết.
Pháo sáng địch giúp anh nhìn rõ bờ không thiếu một chi tiết . Những con thuyền đánh cá nhỏ nằm úp trên bãi cát, những hàng cọc phơi lưới, những mảnh vỏ trai sáng loáng như bạc. Anh ước ao có một cái cọc cắm sát mép nước, sóng đưa tới anh sẽ ôm chặt lấy cọc để đứng dậy. Nhưng mép bờ cát phẳng lỳ, chẳng có một thứ gì khả dĩ bám víu được.
Đợt sóng mới, anh ước lượng thời gian, khi nó vừa xô vào bờ, lập tức anh dùng hết sức nhoài người lên, rồi bò thêm được một đoạn, thoát khỏi bàn tay của sóng. Tài mệt quá nằm ngửa lên để thở. Nhìn bầu trời thoáng rộng và những chùm sao lấp lánh, trí óc anh dịu bớt nỗi căng thẳng. Anh nghĩ tới con tàu và đồng đội của mình. Sao chưa thấy tiếng nổ của bộc phá phá hủy tàu. Anh em mình,ai còn ai mất ? Anh đang suy nghĩ miên man, một tiếng nổ lớn khác tiếng đạn pháo. Cùng lúc đó mặt đất rùng mình nhấc người anh lên một chút rồi lại đặt xuống. « Nổ rồi ». Tài phấn khởi ngồi nhỏm dậy, nhìn ra biển. Một đám khói hình nấm từ mặt biển vụt lên cao dần, xung quanh nó vẫn còn đèn tàu địch đang di động.
Chính trị viên Tuấn đã tập hợp được một số thủy thủ, đang nằm chờ ở một khe nước, nhìn thấy Tài đi ngất ngưởng như người say rượu, anh vội vã chạy ra đón. Vừa xốc nách Tài đi anh vừa hỏi dồn :
- Cậu bị thương ở đâu ? Trong lúc bơi có nhìn thấy ai không ?
Trận đánh kéo dài gần một giờ và bị đạn pháo nổ gấn, tai họ đều điếc đặc, không nghe rõ tiếng nói của nhau, nên hỏi nhau vài câu rồi họ nín lặng bước đi.
Thuyền trưởng Thắng cũng vừa tới, anh lấy tay ra hiệu cho mọi người theo mình lên quả núi trước mặt. Năm và Thắng xốc nách Tài bước theo anh em. Nguyễn Xuân Thơm, thuyền phó khập khiễng đi cuối hàng quân. Lúc rời tàu, anh đã nhường phao cho Hoa, và trong lúc bơi anh lại dìu được một thương binh vào bờ. Không ngờ vết thương đã làm cho sức của anh xuống nhanh như vậy. Anh đang đi, tự nhiên thấy mắt mình tối sầm lại và trời đất như đảo lộn, rồi ngã nhào xuống bất tỉnh. Ở phía trước anh em vẫn rảo bước, không hề biết chuyện gì đã xảy ra đến với Thơm.
Anh em vừa lên được một đoạn trên sườn núi , gặp địch đi tuần lại vội vã quặt đi hướng khác. Đến một lùm cây, họ dừng lại để tìm hướng đi.
Năm nói với thuyền trưởng :
- Tôi có mang theo súng, để mình tôi đi trước, nếu gặp cơ sở của bến tôi quành lại đón .. nghe thấy súng nổ, thì các anh đi tránh.
Thuyền trưởng căn dặn :
- Đi phải quan sát cẩn thận đề phòng nó phục kích.
Năm cởi cái võng và đôi dép đưa cho thuyền phó Đức rồi nhanh nhẹn theo con đường mòn lên núi.
Suy nghĩ một lát, Thắng thấy việc để Năm đi một mình có phần mạo hiểm. Anh nói với chính trị viên :
- Anh Tuấn đi với bộ phận sau, tôi đi cùng với Năm , sợ cậu ấy đi một mình không an toàn.
Thắng đi mải miết vẫn không sao theo kịp được Năm; tới sườn núi chân lại giẫm lên chùm gai mỏ quạ, gỡ được gai thì Năm đã đi mất hút. Trời gần sáng, Thắng vừa bước vội vừa lo. Để đến trời sáng không đưa được đơn vị vào cơ sở, gặp địch càn thì tránh vào đâu. Thấy có tiếng người nói to, cách chừng 100 mét và có ánh đèn Thắng dừng lại lắng nghe. Anh đi giật lùi vài bước rồi quay ngoặt trở lại chạy xuống núi.
Bộ phận do chính trị viên phụ trách chờ đợi lâu quá, sốt ruột không theo hợp đồng cũ. Họ đi men theo những ruộng mía dưới chân núi. Dưới ánh pháo sáng, Tuấn nhìn thấy một em bé chừng 10 tuổi, đang lúi húi trong ruộng mía. Tuấn lấy tay ra hiệu cho anh em dừng lại, rồi một mình anh rón rén tới gần em bé. Bất thình lình anh chộp được em. Em nhỏ hoảng sợ kêu ú ớ một lát sau mới nói được :
- Tôi .. tôi đi nhặt dù hỏa châu.
- Du kích chỗ nào, đưa các anh tới.
Một tay bị thương, còn tay kia Tuấn giữ em bé. Trong lúc chờ nó bình tĩnh lại để trả lời, anh sơ hở để em chạy mất, Tuấn rượt theo.
Anh em du kích đứng trong bụi cây, nhìn thấy mấy người đầu trần, tay không súng đuổi theo em bé, họ đoán : « Không phải là địch .. có thể là các thủy thủ ».
Tuấn đang mải miết đuổi theo em bé, bỗng nghe thấy tiếng quát « Dừng lại », tiếp đó là một người lăm lăm khẩu tiểu liên bước ra khỏi lùm cây.
Tuấn vừa dừng lại, anh chưa kịp suy nghĩ xem tình huống gì đến với mình, thì người cầm súng kia nói dịu giọng :
- Có phải các anh vừa dưới tàu lên không ?
Tuấn vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, nhưng anh không trả lời. Anh vỗ tay ba lần để thay lời đáp. Người cầm súng vỗ tay hai lần vào báng súng.
Họ đã nhận ra nhau qua mật hiệu ! Mọi người đều vui mừng xúc động, cùng reo lên một câu « Các đồng chí ! ..»
Anh em du kích kéo ra mỗi lúc một đông. Họ phân công nhau cáng thương và dìu thương binh vào xóm. Mọi người chuyện trò hỏi han nhau :
- Chúng tôi được lệnh đi đón các anh. Ngay từ lúc địch thả pháo sáng .. đã rất lo. Còn ai bị thương chưa tới không ?
- Đồng chí bị thương vào đâu để chúng tôi cáng .. thôi cứ để chúng tôi cáng .
- …
Tuấn kiểm tra lại số người đã gặp nhau trên bờ, thấy thiếu Thơm và Đức. Mấy người đi trước tìm đường cũng chưa thấy tới. Tuấn vừa nói với chiến sĩ du kích tìm giúp đã thấy Năm xách súng đến.
- Anh Thắng đâu ? – Tuấn hỏi Năm.
- Tôi không gặp ai cả.
Một chiến sĩ du kích nói xen vào :
- Các anh khỏi lo. Nếu các anh em đã lên bờ được, chúng tôi sẽ tìm thấy ngay thôi. Các anh vào trỏng nghỉ ngơi đã !
Không đầy nửa giờ, các thủy thủ đã về đầy đủ. Họ đứng, ngồi thành từng nhóm trên một cái sân khá rộng. Riêng Thơm và Tài vẫn nằm liệt trên hai chiếc cáng.
Các mẹ, các chị em phụ nữ ngồi quây xung quanh Thơm và Tài vừa thăm hỏi vừa khóc nức nở.
Tiếng đồng chí xã đội trưởng dõng dạc :
- Khi anh em bộ đội ăn uống xong, theo như phân công, ai có trách nhiệm đưa thươg binh xuống hầm nghỉ, ai dẫn anh em khỏe về từng nhà thì ở lại. Còn tất cả về ngay vị trí của mình. Gần sáng rồi, phải khẩn trương.
Xã đội trưởng hạ nhỏ giọng nói với Thắng và Tuấn đứng bên cạnh :
- Ngày mai thế nào địch cũng càn tới đây. Chúng tôi đã xếp chỗ an toàn để các đồng chí đi nghỉ ngơi. Việc chống càn đã có chúng tôi lo liệu.
BỐN MŨI TIẾN CÔNG TÁO BẠO
1
Cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã tiến tới đỉnh cao quyết liệt nhất. Nhân dân và quân đội ta ở cả hai miền đã giành được những thắng lợi hết sức to lớn. Khi đế quốc Mỹ ồ ạt tăng quân để thực hiện kế hoạch chiến lược « Tìm và diệt », chúng huy động hầu hết những binh đoàn tinh nhuệ nhất : sư đoàn « Anh cả đỏ », sư đoàn « Lính cổ da » mở chiến dịch phản công mang tên At-ten-bo-rơ nhưng đã thất bại thảm hại.
Cuộc chiến tranh phá hoại của chúng vào miền Bắc, với quy mô ngày càng ác liệt, muốn biến miền Bắc « trở lại thời kỳ đồ đá » không còn đủ sức chi viện cho miền Nam, nhưng trái lại miền Bắc vẫn đứng vững và việc chi viện cho tiền tuyến lớn không ngừng tăng lên. Trong lúc các mục tiêu chiến lược của Mỹ ở Việt Nam đều bị phá sản, thì phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới kể cả nhân dân Mỹ với khẩu hiệu « phản đối đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam » lên cao chưa từng thấy. Nhà trắng và Lầu Năm góc Mỹ lâm vào thế bị động, lúng túng đối phó ở mọi phía. Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra rất sáng suốt, nhìn thấy thời cơ chiến lược đã đến, đã lãnh đạo quân và dân miền Nam thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt giành thắng lợi to lớn vào giữa Tết Mậu Thân (1968).
Để góp phần chi viện cho tiền tuyến lớn giành thắng lợi trong trận đánh có ý nghĩa lịch sử ấy, Quân ủy Trung ương và Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ đạo lực lượng vận tải chiến lược đường biển bằng mọi giá kịp thời tiếp tế vũ khí cho chiến trường.
Đoàn 125 nhận được một kế hoạch tuyệt mật từ Bộ Tổng tham mưu đưa xuống, chuẩn bị bốn chiếc tàu loại 100 tấn chở đầy vũ khí, sẽ vào bến đúng đêm ba mươi Tết. Mỗi chiếc tàu đi một hướng, nếu tàu nào bị lộ không được vào bến sẽ trở thành mũi nghi binh thu hút địch, để mũi khác rảnh rang tiến vào điểm đã định.
Tàu C.165 do thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm chỉ huy đi vào bến Vàm Lũng (Cà Mau). Tàu C.235 do thuyền trưởng Phan Vinh chỉ huy, vào bến Hòn Hèo (Phú Khánh), tàu C.43 do thuyền trưởng Đắc Thắng chỉ huy, vào bên Đức Phổ (Quảng Ngãi), tàu C.56 do thuyền trưởng Ba (Râu) chỉ huy vào bến Bà Rịa.
Ngay từ đêm các đội tàu xuất phát , bộ phận B cục tác chiến, sở chỉ huy đoàn 125 luôn có người thường trực theo dõi. Những ngày đêm các đội tàu đã vào tới vùng biển địch kiểm soát, mối lo lắng của những người chỉ huy tăng lên. Tư lệnh Hải quân Nguyễn Bá Phát thường xuyên có mặt ở sở chỉ huy đoàn 125 để kịp thời giúp các đội taù xử trí các tình huống phức tạp.
.. Khi nhận được bức điện của tàu C.235 « Tôi đã thả hàng xong », trong sở chỉ huy đoàn 125 vui mừng xôn xao. Thắng lợi ấy đã được tính toán tới ngay từ khi làm kế hoạch ; đã gửi gắm hy vọng và tin tưởng vào đội tàu C.235, nhất là thuyền trưởng Phan Vinh, nhưng khi bức điện này tới, mọi người vẫn cảm thấy đột ngột.
Hồi 22 giờ 30 phút còn nhận được điện của thuyền trưởng Phan Vinh nói «Cách bờ 19 hải lý, gặp tàu và máy bay địch bám », như vậy đội C.235 đã luồn lách thế nào mà vào được bến an toàn ?
Những người chỉ huy, ai cũng biết, đưa con tàu vào bến Hòn Hèo trong thời kỳ này là việc làm vượt xa sự táo bạo. Cái cửa hẹp để thắng lợi có thể lọt qua được là sự khéo léo, dũng cảm tuyệt vời trong việc lựa chọn thời cơ, mà thời cơ chỉ đến với không gian, thời gian ngắn ngủi nhỏ nhoi, đúng lúc, đúng chỗ địch sơ hở. Bến Hòn Hèo chỉ cách Nha Trang khoảng 12 kilomet, gần quân cảng Cam Ranh, nơi hang ổ của hải quân địch. Hai căn cứ rada gần đó, cùng với tàu chiến, máy bay trinh sát, tuần tiễu không hở một phút.
Thuyền trưởngt Nguyễn Phan Vinh thật xứng đáng với niềm tin cậy của lãnh đạo. Tên anh được những người chỉ huy hải quân có mặt ở sở chỉ huy đoàn 125 nhắc đến như niềm tự hào của chính mình. Người vui nhất lúc này là trung úy tiểu ban tác chiến Trần phong. Phan Vinh là bạn tri kỉ của anh. Cái thằng bạn con chấy cắn đôi ấy đã lập được kỳ công. Nó đã đem lại vinh dự cho bạn bè.
Các đồng chí chỉ huy người đứng, người ngồi trước một cái bàn lớn, trải hải đồ ở trên. Ngọn đèn măng-sông sáng lóa. Khói thuốc lá bay như một lớp sương mỏng khắp căn hầm. Từng nhóm trao đổi cảm nghĩ của mình. Tiếng chính ủy Phúc trầm ngâm :
- Bây giờ là 2 giờ 30, vẫn có khả năng ra kịp.
Chính ủy Phúc ngoảnh lại hỏi anh trợ lý thông tin :
- Bức điện biểu dương C.235 đã gửi chưa ?
- Báo cáo. Gửi rồi !
Tiếng trung tá Huỳnh Công Đạo vang lên :
- Alo .. này .. đồng chí động viên anh em canh máy theo dõi xem C.43 và C.165 có gọi về không. Alô .. C.56 à ..ừ ..ừ .. chúng tôi rất nóng mong tin của nó. Động viên anh em trực canh không được rời máy một phút.
Không khí trong sở chỉ huy bỗng lắng xuống. Mọi người nhìn về phía đoàn phó Huỳnh Công Đạo chờ đợi, lo lắng. Đạo buông ống nghe, cúi xuống xem hải đồ, rồi nói :
- C.156 và C.43 có thể xảy ra chiến đấu, đến bây giờ vẫn chưa có tin gì. C.56 đang gặp ba tàu địch ở khoảng này. Đạo đưa ngón tay xuống một điểm trên hải đồ. Chúng phát tín hiệu yêu cầu ta dừng máy. Máy bay thả pháo sáng, tàu ta vẫn đi. Cán bộ thuyền C.56 nhận định có thể xảy ra chiến đấu. Khả năng C.56 hôm nay vẫn chưa có thể vào được.
Mỗi người góp một ý kiến về cách xử trí cho tàu C.56. Nếu cứ cho tiếp tục vào sẽ xảy ra chiến đấu. Cho nó quay ra liệu có tránh được không. Thôi cứ cho nó ra để thu hút địch. Địch chẳng đã bám C.56 ba ngày liền mà không dám nổ súng là gì ..
Đang bàn bạc sôi nổi chưa ngã ngũ việc xử trí của C.56 nên thế nào, thì nhận được điện của tàu C.235. Bức điện cộc lốc « Tôi bị tàu chiến, máy bay địch phát hiện – Phan Vinh ».
Sở chỉ huy bỗng im phắc. Tiếng rào rào nhè nhẹ của mấy con dơi đang chao đi chao lại xung quanh đèn. Khuôn mặt các cán bộ đều đăm chiêu.
Chưa nắm hết kết quả trận tiến công « 4 mũi » này, nhưng mọi người đều thấy thắng lợi rất hạn chế. Không biết những anh em đi trên những con tàu ấy ra sao. Trần Phong nghĩ nhiều đến Phan Vinh. Mới 10 ngày qua, hôm chia tay nhau, Vinh siết chặt tay mình tạm biệt « hẹn gặp nhau trong ngày quang vinh », nhưng làm sao có thể lường hết được những gì xảy ra trong chiến tranh. Nỗi lo lắng chung, nỗi thương nhớ bạn cồn cào xé ruột, xé gan. Tiếng nói, hinh ảnh của Vinh như còn đâu đây « mày có bộ cánh nào khá hơn đưa tao mặc để đi kiếm cô vợ ..», « Thôi hãy xếp lại. Tao thấy lúc này suy nghĩ nhiều đến riêng tư sẽ khó tiến bước ». « Trời gầm, cái đầu tao cũng không thay đổi .. tao đã tình nguyện làm con lạc đà trong bãi sa mạc cách mạng ..», « Mầy sẽ lục trong va-li của tao, cái gì cần mầy cứ lấy, đưa cho thằng Châu hộp dao bào, cho thằng Thạnh những thứ gì để nó chuẩn bị cưới vợ, đưa cho anh Sử tao mấy chục ..». Liệu những lời lẽ đó có phải là lời trăng chối cuối cùng không ? Đến nay là hơn hai chục năm liên tục chiến đấu, công tác chưa có lúc nào cậu ấy dừng lại tính toán cho riêng mình. Ngay cả số lương hàng tháng cậu ấy cũng đem chia cho bạn bè nào gặp khó khăn. Chưa bao giờ Trần Phong thấy rõ phẩm chất cao quý của Phan Vinh như giờ phút này. « Dù có chết giữa biển cả vì lý tưởng cao đẹp còn hơn cuộc sống yên ổn tầm thường ». Lý tưởng ấy đã trở thành sức mạnh, không có khó khăn, nguy hiểm nào có thể lay chuyển được tinh thần cách mạng của Phan Vinh.
Phó đoàn Đạo , chính ủy Phúc trực suốt ngày đêm để chờ một dòng điện của các đội tàu C.235, C.165, C.43 gửi về, nhưng vẫn biệt vô âm tín.
Qua nhiều ngày không liên lạc được, thấy không còn hy vọng, Đạo hạ lệnh cho thông tin nghỉ thu canh.
Mọi người xoay sang tìm nguồn tin của những con tàu ấy qua các đài phát thanh công khai của địch. Vào các giờ chúng đưa tin chiến sự, các cán bộ chỉ huy, tham mưu cắt canh nhau nghe đài BBC, đài Tự do, đài phát thanh Sài Gòn.
Hồi 13 giờ ngày 24-3-1968 nghe đái Tự do giới thiệu có tường thuật đặc biệt một trận đánh trên biển. Các cán bộ chỉ huy đoàn 125 gọi nhau tới ngồi xúm quanh chiếc đài thu bán dẫn. Tiếng lè nhè của phát thanh viên nói :
« Đây là bài tường thuật vụ đuổi bắt chiếc « tàu ma » ở Nha Trang ». Nghe tới đó mọi người biết là nó đang nói tới chiếc tàu của Nguyễn Phan Vinh. Chính ủy Phúc thở dài nặng nhọc. Anh vặn núm âm lượng cho đài nói to hơn.
..« Cộng sản được lệnh chuẩn bị tăng cường lực lượng vũ khí nhất là bằng đường biển ở Nha Trang.
Hồi 19 giờ 30 ngày 29 tháng 2, phi cơ không tuần của hải quân báo cáo phát hiện nhiều tàu lạ ở ngoài khơi hải phận quốc tế. Gần hải phận Việt Nam có ba, bốn tàu lạ sắp vào hải phận chúng ta ..
Sau khi một chiếc xâm nhập vùng 2 duyên hải lúc 22 giờ (29-2), chiến hạm Ngọc Hồi, H.Q 617, bốn thuyền của duyên đoàn 25 được chỉ thị chặn bắt sống tàu này. Công việc săn đuổi « tàu ma » vô cùng hồi hộp. Trong đêm tối, tàu ta và tàu địch đuổi nhau trên biển. Lúc 22 giờ 30 tàu lạ còn cách Hòn Hèo 10 hải lý, có tốc độ 10 hải lý/giờ. Tàu ta không thắp đèn phải theo dõi bằng rada. Tàu địch bị lộ. Lúc 2 giờ (1-3) cách Hòn Hèo năm hải lý, sau đó tàu lạ chạy vào bờ lẩn trốn. Hồi 1 giờ 36 phút, chiến hạm Ngọc Hồi dùng rada phát hiện được tàu địch, HQ.12. HQ.17 và các thuyền ta đang tìm cách chặn bắt tàu trên. Lúc này, tàu ta được lệnh thắp đèn, tàu không thắp đèn là tàu địch bị khép chặt vào giữa, trong là bờ cạn. Sau hơn một giờ tìm kiếm, địch không chạy thoát. Lúc 1 giờ 51 phút ngày 1 tháng 3, bộ chỉ huy ra lệnh bật đèn sáng và tàu ở sát bờ không đèn là taù địch. Đến 2 giờ 20 phút, ta nhận thấy một tàu nằm sát bờ sau khi đã xác minh chính xác, các tàu được lệnh bắn các loại súng lớn nhỏ từ 12,7 trở xuống với ý định bắt sống tàu. Các pháo lớn bắn vào bờ không cho địch trên tàu tẩu thoát, đồng thời gọi phi cơ đến thả hỏa châu soi sáng. Biết không thể nào tẩu thoát, Việt Cộng ở trên tàu và ở trên bờ đã phản pháo. Lực lượng trên bờ của địch khoảng một tiểu đoàn, có lẽ đã nhận nhiệm vụ yểm trợ tàu. Biết vậy, các chiến hạm của ta đã lệnh bắn pháo lớn vào tàu địch. Sau 30 phút chống trả, tàu địch bốc cháy. Thời gian này phi cơ được gọi đến bắn phá dọn đường ở dọc biển cho một cuộc lục soát. Đến 2 giờ 41 phút (1-3), chỉ huy trưởng vùng 2 chiến thuật chỉ thị đổ bộ ngay trước khi trời sáng, nhưng vì hỏa lực Việt Cộng bắn ra dữ dội nên lực lượng đổ bộ phải rút lui chờ quân chi viện ..».
Nghe xong bài tường thuật lủng ca lủng củng của đài Tự do, anh em đưa ra nhiều nhận xét. Bọn chúng không bao giờ dám đưa ra hết sự thật, mà đã phải nói tới một trận đánh trả quyết liệt và không thu được kết quả gì rõ rệt, như vậy chắc chắn chúng sẽ bị thiệt hại lớn. Ở bến, từ lâu ta đã mất liên lạc, lực lượng nào có pháo lớn phối hợp với tàu lên, đã bị đánh phải bốc quân đi. Anh em tàu C.235 hay ai đánh ? .. Cuối cùng, các thủ trưởng đoàn 125 dựa vào bức điện của thuyền trưởng Phan Vinh báo cáo « .. đã thả hết hàng » và tin địch vừa đưa, để sơ bộ kết luận : .. như vậy là tàu C.235 đã hoàn thánh xuất sắc nhiệm vụ.
Nhiều công việc khác thúc bách cán bộ chỉ huy đoàn 125 rời khỏi sở chỉ huy. Nhưng những con tàu biệt tăm kia vẫn còn khắc khoải trong tâm trí mọi người. Mõi lần họp với cấp trên hoặc có một chuyến đi nào đí vừa trở về, các thủ trưởng đoàn thường tìm hỏi : Có tin gì thêm không ? Và mỗi lần đồng chí trợ lý tác chiến báo cáo có tin của bến nói về tàu C.165, trên cho biết thêm về tàu C.43, là các anh lại vớ lấy cuốn sổ điện, đọc ngấu nghiến.
Hôm ấy, chính ủy đoàn vừa đi họp trên Bộ tư lệnh để nhận nhiệm vụ mới trở về thì nhận được thư của căn cứ sơ tán di tham mưu trưởng Nguyễn Văn Tê viết .. « Anh em tàu C.56 đã trở về an toàn » – Chính ủy đọc một đoạn lại dừng, vì hình ảnh anh em trên những con tàu biệt tăm kia dồn dập hiện lên trong óc, làm anh phân tán tư tưởng. Anh đọc tiếp « Sức khỏe anh em giảm sút nhiều. Tinh thần căng thẳng mệt mỏi nhưng không có hiện tượng tỏ ra tiêu cực. Gần nửa tháng đi trên biển, địch bám sát, anh em dũng cảm mưu trí né tránh, quyết tâm đưa hàng vào bến ». Đồng chí Ba ( thuyền trưởng ) kể : « Khi chuyển hướng vào bờ có một máy bay trinh sát địch lượn hai vòng rồi đi thẳng. Không có hiện tượng rada theo dõi. Đến khoảng 7 giờ tối, có bảy, tám ánh đèn tàu dàn hình vòng cung chặn đường. Chúng tôi cho tàu lao thẳng chẻ đôi đội hình tàu kia. Đến nơi mới rõ là tàu địch cản đường mình. Tôi cho tàu bẻ góc 80 độ, tự nhiên dãy đèn tàu kia tắt dần. Khi tàu ta lại quay hướng vào bờ, thì các đèn đó lại bật sáng. Cùng lúc, đồng chí Ngọc thuyền phó phát hiện một tuyến đèn tàu nửa ở gần bờ, tôi lại cho tàu quặt lên hướng bắc 0 độ. Tất cả những tuyến đèn kia đều tắt hết. Cấp ủy, chúng tôi họp xác định : địch đã biết rõ hướng tàu ta vào, quyết định cho tàu mình quay ra. Vừa quay ra một đoạn, thì đèn pha trên một tàu địch phục sẵn chiếu thẳng vào chúng tôi. Nó phát tín hiệu « đứng lại không sẽ bắn ». Tôi hội ý với anh Sạn chính trị viên thống nhất nhận định : có thể xảy ra chiến đấu. Toàn tàu anh em sẵn sàng đánh. Tôi hạ lệnh tàu bật đèn hành trình như các tàu đánh cá bình thường. Nó bắn một loạt đạn 20, hai phát đạn 57 phía trước mũi, và phía sau tàu ta. Tàu ta bị gãy cột ăng-ten. Ban chỉ huy tàu chúng tôi (Ba, Ngọc, Sạn) đứng trên đài chỉ huy thấy địch bắn cao, phán đoán như vậy là nó vẫn còn bắn dọa. Tôi nhắc anh em không được nổ súng khi chưa có lệnh.
Máy bay địch đến thả pháo sáng. Một tàu khu trục địch thả trôi đèn trước mũi tàu chúng tôi. Nó phát tín hiệu « Dừng lại, không tôi bắn ». Chúng tôi tiếp tục đi tới gần, trông rõ cả số 67 trên mạn tàu khu trục. Anh em đều có ý nghĩ, chúng kèm chặt đến sáng mai chúng mới đánh. Sáng hôm sau, vẫn chiếc tàu khu trục 67 bám theo. Nó đi rất gần. Nó lại phát tín hiệu đòi chúng tôi dừng lại nếu không sẽ nổ súng. Chúng tôi không trả lời. Nó bắn một phát 57 đón trước mũi tàu ta. Ngay lúc đó chúng tôi nhận được lệnh cho tàu trở về ..
Thư náy sơ bộ báo cáo các anh biết một vài diễn biến của tàu C.56. Tôi sẽ hướng dẫn anh em rút kinh nghiệm gửi về sau. Hiện nay, anh em đang nghỉ. Râu tóc cậu nào cậu ấy mọc rậm cứ như người rừng. Nhất là Ba « Râu », không còn nhận ra được nữa. Anh em gửi lời thăm sức khỏe các anh ».
Đọc xong bức thư, chính ủy nói với phó đoàn trưởng :
- Như vậy là đi bốn về được một. Chuyện hy sinh tổn thất mình đã lường trước là khó tránh nhưng vẫn thấy đau quá. Tàu mất còn chịu được, chứ người thì .. toàn là những chiến sĩ ưu tú kiên cường, lão luyện đi biển. Đào tạo được một thuyền trưởng như Phan Vinh đâu phải dễ.
- Trước chuyến đi tôi nói đùa với cậu Vinh « Việc lấy vợ cậu để chúng mình tìm cho, sau chuyến này về cưới » – Phó đoàn trưởng nhắc đến Phan Vinh bằng tình cảm hết sức đặc biệt, như nói tới người em ruột mình đang ở rất xa – Tính cậu ấy cũng lạ. Nói là kén vợ thì cũng chưa hẳn như vậy, nhưng chẳng hiểu nhiều đám cũng khá, nhìn hình thức thì ưng nhưng gặp gỡ nhau vài lần lại chê « lý tưởng yếu». Cậu ấy nêu tiêu chuẩn vợ đẹp cần vừa phải nhưng tâm hồn phải cao thượng. Có ai đó giới thiệu một cô chiến sĩ thi đua của nhà máy dệt Nam Định. Được mấy ngày phép, cậu ấy nhảy xổ xuống Nam Định để tìm hiểu. Khi trở về hỏi .. « Thế nào ? » .. Cậu ấy trả lời « Cô ấu có thể trở thành anh hùng, nhưng là vợ tôi thì còn phải xem xét đã ». Tôi có ý định bàn bạc kỹ với cậu ấy về việc lo liệu vợ con cho nó ổn định. Năm nay 32 tuổi rồi còn gì. Nhưng rồi công việc bận bịu cứ lôi đi, chưa giúp đỡ cậu ấy được gì cả. Bây giờ cảm thấy ân hận ..
Lắng nghe đoàn phó Đạo nói, mắt chính ủy Phúc nhìn đăm đăm vào khoảng không. Anh cũng có cảm nghĩ giống như Đạo : mình lo việc chung thì không đến nỗi .. nhưng chăm lo đến đời sống riêng của anh em thì chưa được bao nhiêu ..
Tuy chưa ai biết ai còn ai mất, nhưng cảm nghĩ chung của người ở nhà về tổn thất vừa qua là lớn. Mỗi lúc rảnh rỗi, anh em thường nhắc đến kỷ niệm của từng người đã đi xa ấy.
Bước vào năm 1968, đế quốc Mỹ bị thất bại nặng nề ở hai miiền Nam – Bắc nước ta. Sau thắng lợi to lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết mậu thân của quân dân ta ở miền Nam. Giôn-xơn buộc phải ngừng ném bom miền Bắc. Nhưng bản chất ngoan cố, hiếu chiến và nham hiểm, xảo quyệt của chúng không hề thay đổi. Đế quốc Mỹ vẫn dồn sức vào ngăn chặn đường chiến lược Trường Sơn, gây cho ta không ít khó khăn. Đoàn 125 trong lúc tạm ngừng trên tuyến đường biển Nam-Bắc, đã ghé vai giải quyết một phần khó khăn của tuyến vận tải bộ, bằng cách đưa hàng từ Hải Phòng vào cảng Sông Gianh lập chân hàng cho Đường mòn Hồ Chí Minh. Công việc bề bộn xô tới nhưng không thể làm cho mọi người lãng quên « những chuyến tàu bặt tin ». Họ vẫn theo dõi và lâu lâu lại có một tin đưa tới với nội dung thật bất ngờ và xúc động :
- Anh em đội tàu C.235 sau khi thả hết hàng, gặp địch đã chiến đấu dũng cảm, bắn đắm một tàu địch. Thuyền trưởng Phan Vinh cùng một số thủy thủ đã chiến đấu với một tiểu đoàn địch có máy bay, tàu chiến yểm hộ, buộc địch phải rút lui. Toàn đội C.235 còn lại năm người, đã mở một cuộc hành quân cực kỳ gian khổ để trở về đơn vị.
- Đội tàu C.43 do thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng và chính trị viên Tuấn chỉ huy, gặp địch còn cách bờ 20 hải lý, đã chiến đấu với tàu chiến và máy bay địch. Bắn chìm và bắn hỏng mọt tàu, bắn rơi một máy bay địch. Sau đó đã phá hủy tàu rồi bơi vào bờ. Anh em đã hành quân vượt Trường Sơn trở về đơn vị.
Riêng tàu C.165 lần lượt đưa về nhiều tin khác nhau. Anh em ở bến báo cáo : đêm 29 – 2 – 1968, anh em gác nhìn ra biển thấy có nhiều ánh chớp và đường đạn lửa vạch lên trời. Địch thả pháo sáng ở khu vực lửa đạn. Anh em phán đoán có một trận đánh ở khơi xa. Trận đánh kéo dài chừng 30 phút, bỗng có ánh chớp lóa phụt từ mặt biển lên cao rồi tung ra như pháo hoa. Chỉ thấy ánh đèn pha quét ngang dọc. Ngay hôm sau, anh em ở bến cử người đi ven theo biển tìm kiếm anh em ta có ai trôi giạt vào không. Mấy ngày đi tìm chỉ thấy những mảnh gỗ bị trôi giạt vào bờ. Ít lâu sau, anh em trong đoàn lại truyền nhau câu chuyện nữa về những chiến sĩ cảm tử C.165. Không rõ nguồn tin ở đâu ? Có người nói qua tình báo ta thu lượm, do một tên lính ngụy đã dự trận chiến đấu đó kể lại. Khi gặp địch, anh em nổ súng trước bắn chìm một tuần tiễu của địch. Nhiều tàu địch dùng pháo bắn, tàu C.165 bị hỏng máy. Thấy anh em ngừng bắn, chúng cho hai chiếc tàu tuần tiễu (cỡ nhỏ) áp mạn C.165 với ý định bắt sống. Hai chiếc tàu địch vừa áp mạn thì C.165 nổ tung, cả ba chiếc tàu cùng chìm nghỉm.
Tất cả những câu chuyện vể những chiếc tàu « mất tích » lúc đầu chỉ có một số cán bộ biết, sau lan rộng dần ra toàn đoàn. Anh em say sưa kể cho nhau như kể về những truyền thuyết của những người bất tử.
Trong câu chuyện về « những đội tàu mất tích » , thực hư thế nào, chúng ta hãy theo dõi những gì đã diễn ra trong chuyến đi đặc biệt của họ.
... Tàu C.235 đi trên biển đến ngày thứ năm thì máy bay địch phát hiện.
Thuyền trưởng Phan Vinh đứng trên đài quan sát, mắt anh không rời chiếc máy bay địch. Khi máy bay địch bay đi, Vinh ném theo một câu « chúng mày định giở trò gì đây ? ». Câu nói đó đang bắt thuyền trưởng phải giải đáp.
Mỗi khi gặp tình huống phức tạp, Lâm Quang Tuyến, chiến sĩ hàng hải thường thăm dò thái độ của thuyền trưởng. Dường như làm thế anh thấy vững tâm hơn. Lần này khi máy bay địch đã bay đi lâu rồi, chốc chốc Tuyến lại nhìn sang phía thuyền trưởng. Anh vẫn thấy thuyền trưởng của mình giữ vững tư thế, hai tay bám vào lan can, người hơi rướn về phía trước, khuôn mặt trái xoan gân guốc già hơn lúc bình thường tới vài tuổi. Dáng dấp tươi trẻ trên khuôn mặt đẹp trai của thuyền trưởng đã mất đi một phần. Nhưng vẻ đẹp khác của anh lại được biểu hiện rõ rệt hơn, đó là sự bình tĩnh, tự tin. Lúc bình thường, anh em thường nói đùa « thuyền trưởng có số đào hoa », thì bây giờ anh có sức hấp dẫn cấp dưới mình sẵn sàng lao vào nơi nguy hiểm để giành thắng lợi.
Từ ngày đầu chung sống trong đội tàu, các thủy thủ đội C.235 đã « mê » thuyền trưởng Phan Vinh. Không riêng trong đội mà toàn đoàn 125 đều khen anh là người thuyền trưởng tài năng, dũng cảm, đã giành thắng lợi 11 chuyến đi. Không phạm sai sót gì đáng kể. Anh đã dành tình cảm của mình cho con tàu, cho con đường đầy sóng gió, cho các thủy thủ trong đội của mình. Hôm trước, trong lúc thư thái, Tuyến ngồi một mình ở mũi tàu ngắm trời, ngắm biển. Vinh lại ngồi bên, hỏi Tuyến :
- Cậu đang nhớ người ở đất liền phải không ?
Tuyến cười hóm hỉnh :
- Tôi đang nghĩ đến giải phóng miền Nam..
- Vào lúc rảnh rang như thế này, mình thường nghĩ đến một người bạn gái. Cho phép mình suy diễn nhé. Vừa rồi cậu nhớ đến cô ả nào đó chứ đâu có chuyện nghĩ tới quốc gia đại sự.
Tuyến cười xòa, thừa nhận như vậy, rồi cả hai thổ lộ chuyện riêng tư như đôi bạn. Lúc này, Tuyến càng thấy thương yêu và kính phục người chỉ huy của mình.
Mấy hôm nay, toàn đội ăn chế độ « tự do » có nhiều thức ăn, nhưng mỗi bữa Vinh chỉ ăn một lưng cơm và uống một ly rượu. Anh em tỏ ra lo lắng cho sức khỏe của thuyền trưởng.
Máy bay địch đi được một lát. Mùi mang lên đài chỉ huy một tô miến và một đĩa cổ cánh gà. Vinh thấy tiếng bát đũa va nhau, anh ngoảnh lại hỏi Mùi :
- Có chất cay nữa chứ ?
Mùi rút chai rượu từ trong túi quần ra, giơ lên :
- Chừng này liệu đủ ấm bụng chưa ?
Vinh dặn Tuyến quan sát, rồi ngồi xuống mâm rượu. Anh đỡ ca rượu của Mùi đưa cho tợp một ngụm ngon lành. Vinh hỏi Mùi :
- Anh có biết tại sao khi uống một ly rượu vào làm trong người ta khoan khoái lâng lâng lúc đi khơi xa không ?
- Hơi men kích thích làm cho nhịp tim đập mạnh hơn, máu lưu thông thì trong cơ thể ta thấy dễ chịu.
- Còn gì nữa ?
- Càng uống thần kinh càng giãn nở và yếu dần không tiếp thu nổi các đề tài suy nghĩ phức tạp, lắt léo. Anh thấy đấy, người say rượu thường suy nghĩ thiếu chín chắn.
Phan Vinh cười ha hả thú vị :
- Suy luận về hoạt động chức năng của cơ thể con người của ông thợ máy thật dễ hiểu. Người say rượu giống bộ máy khi sợi dây chuyền lực bị nhúng vào dầu nhờn « Khà .. khà . khà ..». Thật tuyệt . Uống quá vào một chút, thần kinh lại bị tuột « cua roa », khi gặp địch lại phải đấm vào ngực đọc bài thần chú mới tỉnh. ( Một câu chuyện vui, anh em đoàn 125 thương hay nhắc lại : Một lần tàu vào Trà Vinh mắc cạn. Đồng chí X, ở lại bảo vệ taù. Thấy máy bay địch đến, anh hồi hộp quá nhưng tự trấn tĩnh, bằng cách đấm vào ngực mình và nói : X ơi ! Mày quên rồi à, hồi 9 năm mày đã từng là xạ thủ diệt bao nhiêu là địch).
Chuyện trò vui vẻ của thuyền trưởng làm cho mọi người vui lây.
Ăn uống xong, Mùi cầm bát xương gà hất xuống biển, tuột tay liệng luôn cả bát. Lại một trận cười nữa rộ lên.
Tàu sắp đến điểm chuyển hướng. Thuyền trưởng Vinh và thuyền phó Đàm Văn Nhi xách máy ra đo mặt trời. Thu thập được đủ số liệu thiên văn, hai anh cùng vào phòng hàng hải để tính toán. Trên bàn đặt một chồng sách bảng tra số liệu thiên văn. Mỗi tập sách dày hai ba trăm trang.
Vinh bảo Tuyến, chiến sĩ hàng hải :
- Cậu tìm cho « đen ta tê một » khoảng trang 15 – 16.
Tuyến giở trang 15 thấy ngay hàng số mình cần tìm.
Một lát sau Vinh lại bảo :
- Tìm bảng 8, số trang khoảng 50.
Tuyến giở bảng tra, thấy ngay tham số gốc X ở trang 50. Tuyến phục trí nhớ của thuyền trưởng. Cả về đo đạc tính toán, đáp số anh tìm được bao giờ cũng nhanh. Khi tính toán xong, Vinh có động tác như một thầy giáo, hỏi Pi bao nhiêu ? Lăm-đa bao nhiêu ? .. Anh xem xong mới xòe đáp số của mình ra.
Vinh đánh dấu lên hải đồ đoạn đường vừa tìm được. Nhìn đoạn đường vừa tính vượt qua điểm dự định chuyển hướng khoảng 10 hải lý về phía nam, Tuyến toan hỏi nhưng Vinh đã nói trước :
- Chúng ta sẽ đi vào con đường địch hoàn toàn bất ngờ.
Nhìn điểm chuyển hướng của thuyền trưởng vừa chấm trên hải đồ, Tuyến vẽ một con đường thẳng tưởng tượng trong óc, thấy tàu của mình sẽ qua Hòn Lớn sát Cam Ranh. Nếu đi đường này sẽ phải ngoặt trở lại phía bắc, qua sát một bãi cạn, «trèo » qua bãi đá ngầm có độ sâu chừng 10 mét, rồi vào Hòn Một … Tuyến đường hết sức mạo hiểm, nếu người thuyền trưởng nào không gan góc và tự tin vào tài năng của mình thì không giám nghĩ đến.
Tàu C.235 vừa qua Hòn Một đã thấy dãy đèn trước mặt. Dự kiến xử trí của thuyền trưởng : trong lúc địch không ngờ ta ở phía nam lên, tàu ta tắt hết đèn hành trình lách qua đội hình tàu địch, đã được chi ủy đồng ý.
Tất cả thủy thủ vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Thuyền phó Nhi đi tới từng vị trí kiểm tra và nhắc lại lệnh của thuyền trưởng « Khi nào có lệnh mới được nổ súng”. Không khí vô cùng căng thẳng. Liệu tàu của mình có lọt qua nổi không ?
Tàu địch vẫn dàn sẵn đội hình. Những tàu lớn cách vài hải lý, thả trôi phía ngoài, nhưng hải thuyền loai PCF, Bo Bo, Mai-cơ lăng xăng chạy ở tuyến trong.
Ta vừa bắt được tin qua máy bộ đàm của địch báo cho nhau « Tối nay có một chiếc tàu Việt cộng chạy vào hướng nam, hiện nay mất hút, phải tuần cảnh cẩn mật. Tàu nào không có đèn là tàu Việt cộng ». Khi tới gần khu vực tàu địch, thuyền trưởng Phan Vinh hạ lệnh bật đèn hành trình và cho tàu đi xen vào đội hình hải thuyền địch. Con tàu dường như cũng có linh hồn, nó cảm thấy mình đang đi giữa nơi nguy hiểm, tiếng máy bỗng trầm xuống êm hơn tiếng sóng, chân vịt thôi không gây ra một vệt bọt sáng kéo dài như trước; nó nhẹ nhàng lách qua giữa khoảng cách của hai chiếc Mai-cơ như anh lính đặc công trườn mình qua hàng rào thép gai.
Nhìn thấy bờ chỉ còn cách vài trăm mét nữa, mà bọn địch chưa hề biết, anh em thở phào. Sắp ổn rồi, còn việc giao hàng nữa là hoàn thành nhiệm vụ.
Thuyền trưởng Phan Vinh từ đài chỉ huy xuống đứng bên mạn tàu, chớp đèn tín hiệu gọi bến. Một lần, hai lần, chớp đền lần thứ ba .. thứ bốn, nhìn vào bờ vẫn thấy tối đen và lặng thinh không có tín hiệu đáp lại. Máy trưởng Mùi thở dài :
- Chờ khuya quá, chắc quân ta đi ngủ rồi, nên không có người đón.
Tiếp lời thuyền trưởng, chính trị viên Tương động viên :
- Đã năm sáu ngày đêm sóng gió vất vả, mệt mỏi .. nhưng không có cách nào khác. Địch đang ở bên cạnh chúng ta, nếu chờ đợi liên lạc với bến sẽ mất thời gian .. chúng ta hãy dồn sức lực làm thật nhanh ..
Chính trị viên chưa nói dứt lời, ở dưới hầm hàng đã nói :
- Nào .. chuyển nhanh lên !
- Chú ý nghe tôi phân công cảnh giới. Mai gác sườn phải. Tu sườn trái. Thứ sau lái .. Chú ý quan sát thấy hiện tượng gì khác báo cáo ngay.
- Xuống hầm hàng thêm một người nữa !
- Hai chúng tôi đủ rồi. Nào cố lên nào !
- Liệu con kiến có cõng nổi con sâu to hơn mình không.
- Cứ yên trí !
Tiếng lịch kịch , lục cục, tiếng ho khan, tiếng thở dốc bị tiếng sóng biển đè lên. Dây chuyền chuyển hàng đã được luyện tập, bây giờ khép kín hơn, không có động tác thừa, không có khâu nào chậm chạp. Sức mỗi người như có liều thuốc thần diệu nào đó kích thích, tăng lên gấp rưỡi, gấp đôi. Hòm hàng 50 kilogam cùng một người vác, 60 kilogam cũng chỉ có một người. Những hòm hàng to nhỏ đang loang loáng tuôn chảy từ hầm tàu qua mặt khoang rồi xuống biển.
Mọi người vừa chuyển hàng vừa bàn tán :
- Ngoài biển sao có nhiều đèn sáng thế nhỉ ?
- Pháo sáng.
Thuyền trưởng gọi đồng chí báo vụ :
- Đồng chí đánh điện báo cáo về đoàn, tàu của chúng ta đã thả hết hàng.
Tiếng chuông điện báo động liên hồi, Không khí bỗng hết sức khẩn trương. Tiếng chân chạy, tiếng gọi nhau vội vã :
- Báo động, về vị trí chiến đấu.
- Anh Vinh đâu ? Điện của đoàn chúc mừng thắng lợi của tàu chúng ta.
- Anh ấy trên đài chỉ huy.
- Phong hử ?
- Tuyến đó ư ? Tao lên đạn rồi, chỉ còn chờ nó tới gần.
- Tao mà tiếp đạn thì mày thả sức bắn.
Trên tàu C.235, trật tự lao động đã biến đổi thành trật tự của đội hình chiến đấu chỉ trong vài giây. Thuyền trưởng Phan Vinh, chính trị viên Tương đã đứng trên đái chỉ huy đang dõi theo những ánh đèn pha nhiều màu đan nhau ở phía ngoài tàu mình .
Tàu ta đã nổ máy sẵn sàng cơ động. Các thủy thủ đã đặt ngón tay lên cò súng , đợi lệnh.
Pháo sáng, ánh đèn pha, đèn tàu nhích dần vào trong vịnh. Bọn Mỹ ở đây hiện lên như những con quái vật , có những cặp mắt luôn luôn đổi mày và bàn tay xòe ra với các loại móng vuốt muốn bóp nát con tàu C.235 nhỏ bé.
Một chiếc PCF lao qua cửa vịnh, chiếc khác lao tiếp .. rồi chúng rọi đèn pha về phía tàu ta.
Thuyền trưởng Phan Vinh hét to :
- Bắn !
Hạ sĩ Hà Minh Nhật phóng một phát DKZ vào chiếc tàu PCF gần nhất, các loại hỏa lực khác của ta bồi tiếp theo. Chiếc PCF bị trúng đạn, tuôn ra một luông khói đen, rồi chệnh choạng quay tròn tại chỗ. Một chiếc PCF khác vào tiếp.
Khẩu trọng liên của trung sĩ Nguyễn Văn Phong liên tiếp phun những luồng lửa vàng chói, giăng vào tàu địch. Các loại trung liên, tiểu liên trên tàu C.235 rung lên từng nhịp, hướng vào chiếc hải thuyền của địch. Tiếng đạn nổ, tiếng thép va vào thép, tiếng gầm rít của máy. Những chuỗi lửa đạn đan nhau rối mắt. Vùng biển Hòn Hèo như đang bị sấm sét đốt cháy.
Những tàu cỡ nhỏ của địch không chịu đựng được nổi cuộc tiến công của tàu C.235, phải lui ra phía ngoài. Một khoảnh khắc im lặng. Thuyền trưởng Phan Vinh đi quanh tàu kiểm tra lại lực lượng, chuẩn bị cho đợt chiến đấu mới. Gần nửa giờ chiến đấu, quân số tàu có 20 người, mất 5 người hy sinh, 2 bị thương nặng, 7 bị thương nhẹ. Chỉ còn 6 người lành lặn.
Đầu thuyền trưởng quấn băng như đội một chiếc mũ nồi trắng, tay xách khẩu tiểu liên. Anh nói dõng dạc :
- Chúng ta sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng trên con tàu này. Quyết tâm hực hiện phương án hai ( khi bị lộ cho tàu chạy thẳng vào cảng Nha Tranh, áp tàu mình vào tàu địch hoặc áp sát vào cảng, rồi giật kíp cho 3 tấn bộc phá đã gài sẵn, phá hủy tàu mình đồng thời phá luôn bến cảng và tàu địch.)
Âm thanh của thuyền trưởng lan nhanh ra khắp các vị trí chiến đấu như tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, dội vào tâm hồn mỗi thủy thủ. Những cảm nghĩ cháy bỏng như đang vọng lên lời trăng trối « Chỉ còn giờ phút ngắn ngủi nữa, chiếc tàu của chúng ta sẽ cùng chiếc tàu nào đó của địch nổ tung. Thịt xương chúng ta sẽ nát vụn cùng với con tàu thân yêu của mình. Nhưng chúng ta tự hào ngay trong giây phút vĩnh biệt cõi đời này, chúng ta vẫn làm thêm một việc có ích cho Tổ quốc ».
Những điều suy nghĩ ấy, anh em đội tàu C.235 đã chuẩn bị từ nhiều chuyến đi trước nhưng chưa phải dùng đến, tới giờ phút này nó sắp sửa thành hiện thực.
Tàu C.235 rùng mình rồi lao ra cửa vịnh. Pháo địch từ các khu trục hạm, từ các căn cứ đất liền xối đạn tới. Những cột nước, những cột khói vụt lên chi chít trên mặt vịnh. Một quả đạn pháo trúng gần buồng máy, tàu C.235 bỗng nhiên chậm lại rồi dừng hẳn. Ý định thực hiện phương án hai của anh em buộc phải thay đổi.
Trung sĩ thợ máy Vũ Văn An từ buồng máy đi về buồng lái báo cáo với thuyền trưởng « Máy tàu hỏng nặng ».
Ánh pháo sáng, ánh chớp của đạn pháo soi rõ vào buồng hàng hải. Buồng này trở nên chật chội, ngột ngạt và căng thẳng. Thuyền phó Nhi đứng tựa vào bàn hải đồ, máu đang chảy thành vũng dưới bàn chân. Máy trưởng Trương Văn Mùi nằm co người dưới sàn, một tay đặt vào nơi vết thương ở ngực, tay kia nắm chặt.
Một hồi chuông rền rĩ kéo dài, báo chuẩn bị phá tàu.
Tiếng chận chạy vội vã, tiếng gọi nhau, nhắc nhở nhau gấp gáp.
- Phao cứu sinh xuống chưa ?
- Đưa đồng chí Tương xuống.
- Tôi cõng đồng chí Hải.
- Ôi trời ! Đằng nào tôi cũng chết, để cho tôi chết ở trên tàu.
- Báo cáo .. Hải không chịu đi.
- Tôi là thuyền trưởng hạ lệnh, anh có chấp hành không ?
- Tôi sẽ trở thành gánh nặng cho các anh.
- Không được ! Gắng chịu một chút nào.
- Cậu ấy bị cả hai chân, làm thế nào đưa xuống.
- Có áo phao, cứ đưa cậu ấy xuống .. Này này .. các cậu ở dưới kia nghe rõ không, đưa Hải lên phao cứu sinh nghe không ?
- Nhớ mang theo súng đạn.
- Kìa, nhảy xuống, thêm người đẩy phao cứu sinh, không nó giạt.
An và Thứ chạy theo thuyền trưởng xuống buồng maý. Tiếng máy phụ nổ trầm trầm. Ngọn đèn công tác lắc lư theo nhịp sóng.
Thuyền trưởng Phan Vinh nói bình thản :
- An đóng kíp, rút chốt an toàn. Bình tĩnh làm thật cẩn thận.
Một tay Thứ bị thương giơ lên ngang đầu máu đang nhỏ giọt, tay kia ôm chặt lấy chân An để An nhoài người xuống hầm tàu. Vài phút sau, An đu người lên, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, anh giơ cái chốt an toàn ra trước mặt, có ý bào cáo với thuyền trưởng.
Vinh hỏi :
- Chắc chắn chưa ?
- Lửa xanh rì ra rồi. Tôi đã đậy lỗ kíp.
- Vặn kíp hẹn giờ 15 phút.
Các vị trí phá hủy khác do Trung, Thật , Mai cũng đã rút chốt an toàn.
Phan Vinh giục mọi người :
- Các cậu xuống trước đi, mình còn kiểm tra lại xem.
An, Thật và Thứ nhanh nhẹn nhảy xuống biển.
Tuyến và Phong vẫn dùng khẩu 14,5 bắn máy bay địch. Thuyền trưởng vỗ vai Tuyến :
- Thôi bắn, rời tàu.
Phong chạy về buồng giật vội cái ba lô khoác lên vai, chiếc bi đông buộc ở balô toong teng vướng vào chân.
Tuyến hét :
- Vứt cha nó đi ! Tàu nổ bây giờ ! Nhanh lên.
Phong vứt chiếc balô nhưng vẫn tiếc mấy bộ quần áo. Anh mặc mỗi bộ quần áo lót, xách khẩu súng nhảy xuống biển theo Tuyến.
Tuyến đang bơi nhìn sang bên cạnh, có người tỏ ra đuối sức lúc chìm nghỉm, lúc nhô lên vầng trán hói. Trong lúc vội vã, Tuyến bơi tới dìu người đuối sức đó vào bờ, không kịp nhận mặt, anh chỉ có cảm nghĩ người đó là thuyền trưởng hoặc thuyền phó.
Một phát đạn pháo nổ gần, sóng mạnh xô Tuyến vào một tảng đá, và tay người bạn được anh cứu đã rời khỏi vai anh lúc nào không tõ. Tuyến ngoảnh lại tìm bạn, bỗng có tiếng nổ dữ dội và một đợt sóng lớn hất anh lên bờ. Trong vài giây, Tuyến bị choáng. Khi anh tỉnh lại, nhìn ra mặt vịnh thấy đám lửa cháy loang trên nước, không còn con tàu của mình nữa. Anh lẩm bẩm : « Tàu nổ rồi ».
- Ai đó ? Có tiếng hỏi bên cạnh, làm Tuyến giật mình.
- Tuyến đây.
Tuyến bò lên phía sau một tảng đá để tránh đạn. Người bên cạnh cũng bò theo :
- Phong đấy ư ?
- Ừ. Các cậu ấy đâu cả rồi ?
- Mình bơi gần cậu. Pháo bắn quá chẳng nhìn thấy ai !
Chờ lúc địch ngớt bắn, Phong và Tuyến rủ nhau lên một ngọn đồi.
Tình huống khẩn trương, đêm tối, địch bắn đuổi theo, anh em bơi vào bờ mỗi người giạt một chỗ, mãi tới sáng hôm sau (1-3-1968), thiếu úy thuyền phó Đàm Văn Nhi mới tập hợp được 7 người gồm trung sĩ cơ điện Vũ Long An, hạ sĩ báo vụ Lê Duy Mai, hạ sĩ hàng hải Mai Văn Khung, Lâm Quang Tuyến, hạ sĩ thủy thủ Hà Minh Nhật, trung sĩ thủy thủ Nguyễn Văn Phong. Trong số 7 người, có 2 người bị thương nặng và 5 người bị thương nhẹ. Họ cố dìu nhau lên núi để tìm căn cứ của bến.
Họ đã cố gắng hết sức đi gần hết buổi sáng rồi mà vẫn nghe thấy tiếng hò hét của bọn địch vừa đổ bộ ở dưới chân núi. Trong anh em đã có những ý nghĩ rối ren nảy nở « Đã chắc gì anh em bến còn ở căn cứ, khi đã lộ như thế này ». « Thôi .. cố đi thật nhanh ra khỏi chỗ nguy hiểm này đã ..». « Đi lầm vào vùng địch thì sao ».«Nó bắn rất gần rồi .. nhanh lên … đã bảo cứ đi đã » ! « Nhưng mà đi đâu mới được chứ ? ». « .. Đi xa cái bọn kia kìa ..».
Giục nhau, nhưng không làm sao có thể đi nhanh hơn được, vì sức lực của mọi người đã dốc vào những ngày đêm vất vả trên biển và vết thương đang rỉ máu. Thuyền phó Nhi bị thương cả hai chân. Hạ sĩ Khung bị thương vào ngực máu vẫn rỉ ra theo nhịp thở. Họ không kêu rên một lời. Sức chịu đựng của mỗi người ở đây đã vượt xa sự tưởng tượng. Giá ở lúc bình thường, họ đã gục xuống không thể gượng dậy nổi. Họ đang dìu nhau đi không phải do bản năng ham sống, mà do lý trí tỉnh táo của mỗi người tự nhắc nhở « mình cần phải sống, bạn mình cần phải sống để còn tiếp tục những chuyến đi khác vì sự nghiệp giải phóng miền Nam ».
Một chiếc máy bay lên thẳng bay rất thấp. Đám lá khô dưới nền đất bốc lên cao xoáy tròn như một trận gió lốc. Rừng cây lưa thưa, vào mùa thay lá càng trống trải. Anh em phải tạm chui vào bụi cây mớm đầy gai, nằm ngửa mặt theo dõi xem máy bay địch làm gì. Một tên Mỹ mặt đỏ như mào gà chọi, ló cổ qua cửa sổ máy bay nhìn xuống. Chờ cho máy bay địch bay đi xa, anh em lại tiếp tục dìu nhau tiếp tục đi. Đến một gốc cây cổ thụ, có tán lá xòe rộng, anh em tạm dừng lại nghỉ.
Sau một đêm chiến đấu, bây giờ mới có thời giờ nhìn kỹ hình dạng của nhau. Ôi ! Lạ lùng quá. Người nào người nấy mặt mũi hốc hác, nhem nhuốc, quần áo rách toạc. Khuôn mặt vuông đầy đặn, đôi mắt hiền lành của cậu An lại thay đổi đến thế kia ư ? Hai gò má nhô cao lên, mặt gầy tọp, hai quầng mắt đầy bóng tối, râu ria xồm xoàm như một ông già chứ không phải con trai tuổi đôi mươi nữa. Anh Nhi nữa, nước da xám nhợt như người đã chết, đôi chân quấn đầy băng, đôi môi lúc nào cũng mím chặt đè nén chịu sự đau đớn .. Liệu anh có đủ sức chống đỡ với sự thử thách đang tới nữa không ? ..
Nhi cố gắng mới nói thành lời :
- Có cậu nào .. gặp anh Vinh không ?
An trả lời :
- Anh Vinh và Thứ đã lên bờ, tôi gặp. Anh ấy bảo cậu Thứ đi cùng để kiểm tra nơi giấu các tử sĩ.
- Có thể anh ấy .. đi đường khác .. bây giờ làm thế nào gặp được.
Tiếng súng nổ rất dữ dội, rõ ràng có trận chiến đấu nổ ra ở rất gần. Mọi người im lặng lắng nghe. Trong mớ âm thanh hỗn độn ấy, anh em nhận ra sự khác biệt những tiếng nổ cách đây vài giờ.
- Các cậu có thấy AK nổ không .. đấy .. đấy. Trầm đục hơn tiếng nổ của M.16.
- Chắc bộ phận của anh Vinh gặp địch.
- …
Mỗi người lo lắng hướng về phía trận đánh đang diễn ra. Khoảng nửa giờ sau không thấy tiếng AK nổ nữa, chỉ thấy tiếng nổ liên hồi chồng chéo của tiểu liên M.16, cối tay M.79 và đạn pháo. Như thế có nghĩa là anh em mình đã rút rồi. Mãi sau này anh em mới biết anh Vinh và Thứ ở giữa hai gọng kìm của chúng. Các anh đã chiến đấu dũng cảm chặn cả hai mũi tiến công của địch. Chiến đấu khoảng nửa giờ, các anh đã hy sinh. Bọn địch tiếp tục nổ súng bắn vào nhau, hai cánh quân đều có nhiều thương vong và kêu ầm lên « đã gặp địch mạnh, buộc phải rút lui».
.. Tiếng đạn pháo vẫn nổ thưa thớt đây đó bên sườn núi. Máy bay lên thẳng vòng lượn ngoài ven biển, chúng đến đổ quân hay làm gì chưa rõ.
Nhi bảo Phong và Tuyến là hai người khỏe nhất đi trinh sát tìm đường.
Hai anh em vừa đi vừa tránh đạn pháo của địch. Họ đi về phía tây bắc được hơn một kilomet , nghe tiếng động phía trước, họ dừng laị thận trọng xem xét. Đi thêm vài chục bước nữa họ nhìn thấy bọn lính Nam Triều Tiên đang đào công sự. Hai anh em quay lại đi hướng khác, vẫn gặp lại cảnh ấy.
Tuyến thở dài nói khẽ với bạn :
- Chúng ta bị bao vây rồi !
Thấy Tuyến và Phong trở về, anh em hỏi dồn :
- Lâu thế !
- Liệu có đi được không ?
Tuyến chống súng ngồi bệt xuống đất, ngẩng mặt nhìn theo tiếng máy bay bay qua. Anh thủng thẳng trả lời các bạn :
- Phải mở đường máu.
- Đã cần làm thế chưa, hay ta chờ đến tối rồi tìm cách luồn qua.
Mọi người bàn bạc một hồi rồi lại im lặng nhìn nhau. Cảnh ngộ thật éo le, Những bài võ để đánh kẻ thù trên mặt biển, bây giờ dùng như thế nào đây. Từ nãy đến giờ , thuyền phí Nhi vẫn nằm gác đôi ống chân quấn đầy băng ướt sũng máu lên một tảng đá, lưng anh tựa vào thân cây, mắt đăm đăm nhìn vào khoảng không. Nhi phải cố gắng lắm mới nói được từng tiếng rời rạc :
- Tuyến hiểu về cách .. đánh của bộ binh .. hơn. Từ bây .. giờ sẽ phụ trách về .. quân sự.
Tuyến nhìn địa hình xung quanh rồi suy nghĩ về đội hình chiến đấu. Tuy là lính bộ binh chuyển sang hải quân, nhưng vốn liếng hiểu biết chiến thuật của anh quá ít ỏi, anh cố bới óc ra tìm tòi nhưng chẳng có gì rõ ràng. Vì anh chỉ mới tập luyện tới đội hình của tiểu đội cảnh giới. Có lẽ bây giờ cũng phải làm như vậy. Phải rồi, đội hình kiểu « trâu ngủ rừng » thì hướng nào cũng quan sát được. Tuyến xem địa hình xong, chỉ định từng người vào vị trí. Cái đội hình rất đặc biệt ấy hình thành. Dù sao có người đứng ra chỉ huy anh em cũng thấy yên tâm hơn.
Trời nắng khô như rang. Lần đầu tiên trong đời họ cảm thấy thứ nắng kỳ lạ ấy, nó như có những cái vòi vô hình hút cạn chất nước ở trong cơ thể mỗi người. Tuyến thấy miệng mình đắng ngắt, nước bọt giống như chất hồ dẻo quẹo không nuốt vào nổi. Tuyến nói với Khung :
- Được một bát hoặc chén nước lã thôi cũng dễ chịu.
- Giá mình mang theo được bi đông nước dứa thì ..
Nghe nói nước dứa, mọi người đều nuốt nước miếng.
Tiếng loa chiêu hồi ở trên máy bay trực thăng oang oang phóng xuống « Các anh em đoàn 125. Anh em đã bị bao vây. Con đường sống của anh em là hồi chánh quốc gia ..»
- Hồi chánh cái thằng bố mày.
Nghe câu chửi của An, anh em bật cười.
Tiếng lòa vẫn lải nhải giội từ trên trời xuống, từ sườn núi vọng lên, làm cho không khí càng oi ả thêm.
Thuyền phó Nhi nằm gối đầu lên mô đất cao, khẽ rên rỉ :
- Khát .. qu ..á ..
Những đám mây đen từ phía đông đùn lên cao rồi tản ra đầy trời. Khung trời dần dần hạ thấp xuống. Anh em nhìn qua khoảng trống của vòm cây, mắt sáng lên hy vọng. Nhưng hy vọng chẳng hề làm cho cơn khát dịu đi được phần nào, trái lại nó càng làm cho cơn đói, cơn khát hành hạ cơ thể các anh em thêm.
Mỗi người còn đem theo được một ít viên sinh tố, từ sáng đến giờ chỉ dám nhấm nháp một hai viên C. Họ coi đó là nguồn « lương thực » chủ yếu trong cuộc hành quân này, không ai dám sử dụng tùy tiện.
Tuyến nêu ý kiến :
- Đề nghị tập trung tất cả sinh tố lại giao cho một người giữ và cấp phát vào bữa ăn.
- Ai giữ ?
- Tôi đề nghị đồng chí Mai quản lý.
Mai là một đảng viên chín chắn, ít nói. Lúc bình thường cũng như lúc khó khăn, trong những chuyến đi biển anh luôn tận tình chăm sóc anh em yếu mệt. Nói tới Mai làm quản lý lập tức được mọi người ủng hộ.
- Mai này .. mình còn 10 viên pô-li.
- Mình còn 20 viên C.
- Mình còn 50 viên ..
- …
Mai dồn số « lương thực » vừa thu được vào một cái bao, rồi anh đổ ra đếm trước mặt mọi người.
- Tất cả được 123 viên. Mai nhìn anh em một lượt rồi nói tiếp – Tôi đề nghị phát cho hai đồng chí bị thương nặng mỗi ngày 4 viên pô-li; còn anh em ta mỗi ngày, mỗi người hai viên.
- Đồng ý.
- Đồng ý .. nhưng ngay bây giờ cấp cho mỗi người một xuất, để lấy sức vượt vòng vây đêm nay.
Từng người nhận phần rồi bỏ viên sinh tố vào miệng nhai ngon lành. Anh em nói vui :
- Cảnh voi uống thuốc gió này sẽ kéo dài bao lâu nữa.
- Nhưng ít nhất cũng có tí chất vào ruột.
- Ngày mai sẽ phải cố tìm lá rừng.
Trời gần sáng. Mưa lâm thâm. Họ đi suốt một đêm trong mưa. Mỗi lúc tạm dừng lại, họ lại tranh thủ liếm những lá cây dính chút nước mưa. Cơn khát có dịu đi nhưng cơn rét lại đến. Không ai còn đủ sức điều khiển hai hàm răng của mình buộc nó thôi không gõ vào nhau. Tiếng thì thào ngập ngừng run rẩy động viên nhau :
- Cố lên .. vượt qua được .. vòng vây của .. chúng nó rồi .. đi một đoạn nữa.
- Để tôi cõng anh Nhi một đoạn.
- Xốc nách .. mình .. đi được.
Trời sáng lâu rồi mà không gian vẫn xam xám như màu khói. Nghe tiếng súng liên thanh vọng rất xa ở phía sau. Anh em vui mừng đã vượt qua được đoạn đường khó khăn nhất. Họ tìm chỗ tạm nghỉ.
Tuyến trèo lên một cây cao, nhìn trở lại đoạn đường mình vừa đi qua. Biển hiện ra trước mắt, làm cho Tuyến giật mình. Như vậy là suốt đêm qua mình đi quanh co chỉ được hơn một kilômét thôi ư. Tàu địch vẫn xúm xít ở khu vực tàu của ta tự hủy. Tiếng loa chiêu hồi lại dội vào tai. Nghe chúng nó lảm nhảm làm cho Tuyến điên tiết, muốn chửi cha chúng một hồi. Giả sử có phép gì, tọng luôn vào họng cái con đĩ đang léo nhéo lếu láo kia một quả lựu đạn thì mới hả.
Tuyến tụt từ trên cây xuống. Anh im lặng nhìn mọi người. Khung và Nhi nằm co quắp. Thấy Khung thở khó khăn, tiếng « khò ọ o .. khò o ọ c » kéo dài như tiếng thở hắt ra của người đang hấp hối. Tuyến lo lắng , tới lay gọi bạn :
- Khung .. Khung tỉnh lại.
Khung mở to mắt bang hoàng, cố nhỏm dậy :
- Gì thế ?
- Tôi tưởng .. Vết thương còn ra máu không ?
- Cầm rồi.
Tuyến mừng thầm, sức khỏe của Khung không đến nỗi suy sụp lắm. Cậu ấy vẫn cố gắng đi được, không cần đến người dìu. Chỉ có sức khỏe của thuyền phó là đáng lo ngại.
Tuyến nói lại tình hình vừa quan sát được. Anh em bàn bạc một lát rồi tiếp tục đi.
.. Cuộc hành quân đã đến ngày thứ tư. Mỗi bữa vài viên sinh tố nhỏ xíu. Đói, khát đã lên tới mức cùng cực. Không riêng gì những người bị thương nặng mà cả những người bị thương nhẹ cũng đã kiệt sức. Nhiều lúc cậu Mại bước chệnh choạng và không đủ sức đeo khẩu súng, phải kéo lê nó dưới đất. Hôm nay mỗi đợt chỉ đi được nửa giờ lại phải ngồi nghỉ.
Tuyến và Phong sức khỏe còn khá hơn anh em khác. Mỗi lần dừng chân, hai anh lại đi kiếm một ít ngọn lá cơm tẻ mang về. Mùi vị hăng hăng nhơn nhớt của lá cơm tẻ rất khó nuốt. Có anh vừa ăn vài ngọn vào đã nôn ọe, nhưng rồi cũng phải cố nhai để có một thứ gì vòa ruột cho đỡ đói, khát.
Từ hôm qua, cậu Mai đã phải tự uống nước đái của mình. Bây giờ Mại lại bụm cái lá rừng để lấy nước đái. Chỉ được một chén nước lờ lờ như máu loãng mà khai khú không chịu nổi. Mai đưa lên miệng nhắm mắt định uống, nhưng anh nhăn mặt rùng mình rồi hắt toẹt nó xuống đất.
Tuyến và Phong vẫn cặm cụi dùng que ngoáy vào một hốc cây. Thấy trong hốc có nước. Tuyến mừng quá gọi Mai.
Nghe nói có nước mọi người xô lại.
Cái hốc nằm sâu trong thân cây, gần ngập một cánh tay mới tới nơi, có ít nước lẫn vào mùn gỗ. Chẳng có ai mang theo bát. Tuyến xé phăng vạt áo của mình rồi nhúng vào nước trong hốc cây. Lần lượt mỗi người được nhận phần nước bằng cách vắt nước từ cái vạt áo vào miệng. Nước có mùi ung ủng của gỗ mục, nhưng dù sao cũng còn dễ chịu hơn cái chất nhựa nhơn nhớt của lá cơm tẻ.
Được độ một bát nước mà chia đều cho 7 người, chẳng thấm tháp gì nhất là đối với những người bị thương đã mất nhiều máu. Thuyền phó Nhi bảo Tuyến và Phong bốc hết cả gỗ mục trong hốc ra chia đều cho mọi người. Mỗi người được chia ít mùn gỗ mục ẩm bỏ vào miệng nhai, rồi hít lấy nước như ăn mía.
Nhìn thấy một con ốc sên ở hốc cây bò ra, Nhi bảo Phong bắt lấy đưa cho mình, anh lấy lưỡi lê gạt bỏ vỏ và lấy ruột ốc, bỏ vào miệng nhai ngon lành.
- Ăn được không anh ? – Khung hoỉi.
- Ngọt lắm .. ăn được.
Nghe Nhi nói ăn được, mấy anh em còn khỏe đi bắt về được khoảng hai chục con, chia cho nhau ăn thử. Có người ăn khen ngon, có người vừa bỏ vào miệng đã nôn ọe ra.
Mọi thứ vừa kiếm được chỉ làm dịu nỗi đói khát chút đỉnh, nhưng một lát sau thôi, khi nghe tiếng sóng biển ồn ào dưới chân núi thì cơn khát cháy ruột lại thức dậy. Anh em bàn bạc tìm cách xuống bãi biển tìm nước ngọt. Tuyến và Thật xung phong đi tìm, để anh em được nghỉ.
Phần vì đói khát quá, phần vì chờ đợi người đi tìm nước trở về, không ai ngủ được. Gần nửa đêm, có một con hổ lớn mò tới, nó vòng đi vòng lại xung quanh chỗ anh em đang nằm. Mùi mồ hôi và hơi thở của nó phả ra hôi thối. Tiếng chân nó đi « xàm xạp ..» trên lá khô nghe sởn tóc gáy. Những anh em khỏe nằm phía ngoài đã lên đạn, rê đầu súng theo bước chân của nó, nhưng không dám bóp cò vì sợ lộ bí mật. Khi con hổ chuồn đi chỗ khác, họ thì thầm kể với nhau câu chuyện «cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận ». Từ lúc con hổ đến đã làm tăng thêm vẻ bí ẩn hoang dã của rừng núi trong sự suy nghĩ của mọi người.
Sáng hôm sau vẫn không thấy Tuyến và Thật về. Anh em phán đoán đủ thứ tình huống các cậu ấy có thể gặp : hổ vồ, địch phục kích hoặc đi lạc đường. Họ phải lần theo dấu vết chân để tìm các bạn mình. Đến gần tối mới gặp Tuyến ngơ ngác trở về.
Anh em hỏi dồn :
- Cậu Thật đâu ?
- Có nước không ?
- Chờ lâu quá tưởng rằng phải vĩnh biệt nhau.
Tuyến buồn thiu, kể lại :
- Chúng tôi đi tìm gần đến sáng mới thấy có một vũng nước bẩn lẫn bùn ở gần đây. Cậu Thật về đón các anh. Chắc là đi lạc rồi. Bây giờ làm thế nào ?
Lại thêm một tình huống éo le nữa. Biết tìm cậu Thật ở đâu, giữa nơi rừng núi xa lạ này. Sức lực của mọi người đã cạn rồi, bây giờ biết tính sao. Không lẽ đang tâm bỏ rơi đồng đội trong cơn hoạn nạn này ư ? Bàn bạc mãi không ra kế gì. Anh em quyết định ngủ lại một đêm bên cạnh vũng nước mà Thật đã biết. Nếu cậu ấy không trở về thì đành vậy.
Hướng theo ngọn núi cao, anh em lại tiếp tục cuộc hành trình đói, khát. Trong rừng không có một lối mòn, anh em lúc đi, lúc bò trong những lùm gai dại. Thuyền phó Nhi không còn sức đứng vững nếu không có hai người dìu hai bên. Đúng ra vết thương của anh phải nằm trên cáng hoặc chí ít cũng phải có người cõng, nhưng bây giờ chẳng ai có đủ sức làm việc đó.
Mấy ngày đạp lên gai góc, đôi bàn chân của họ đã mọng lên nhiều nốt mủ trắng. Những người không mang được giầy dép, đều phải lấy cỏ quấn vào chân để đi cho bớt đau. Có đôi dép lúc này quý giá biết nhường nào.
Nhìn đôi bàn chân trần đỏ mọng của Nhi, rón rén đặt lên những gai đá, Phong thấy như chính mình đang chịu nỗi đau đớn, anh cởi đôi dép của mình đang đi đưa cho Nhi.
Cầm đôi dép , tay Nhi run run, nước mắt chảy vòng quanh. Anh không giấu nổi sự xúc động khi xỏ đôi dép vào chân mình. Cái nắng khô nó lại một lần nữa vắt kiệt nước trong cơ thể họ. Nghe tiếng sóng biển gầm, nhìn nước biển đầy như một mâm xôi càng thấy khát khô cháy cổ họng.
Khung rên rỉ :
- Xuống biển .. uống.
- Xuống biển để chểt ư ?
- Đằng nào .. cũng chết .. tôi không chịu được nữa. Tôi đi ..
Nói xong, Khung chống gậy đi xuống dốc.
Vì tìm nước uống đã mất một người rồi, không thể để mất thêm một người nữa. Họ tranh cãi nhau một hồi. Người tán thành, người không tán thành hành động của Khung. Dù sao Khung cũng đã đi rồi. Nhi bảo An đi theo giúp Khung.
Vết thương của An trên đùi đang sưng tấy, anh khập khiễng lần theo lối đi của Khung. Đi được khoảng vài trăm mét, An gặp những tảng đá to bằng mái nhà, xếp chồng lên nhau, từng tảng phẳng lỳ, có độ nghiêng tới 90 độ, không có chỗ bám víu, phải liều mạng lắm mới dám tụt xuống. Không hiểu Khung đi bằng cách nào, mà chỉ cách nhau nửa giờ đã mất hút. Có lẽ sự thôi thúc của cơn khát đã xô cậu ấy xuống những bậc đá kia.
An đang lần mò tìm lối xuống, bỗng có tiếng súng nổ ran ở bên dưới, cách chừng 100 mét. Anh vội vã nép mình vào sau một tảng đá nghe ngóng. An thở dài “ Nguy rồi. Bây giờ không còn cách gì cứu được cậu ấy”. Anh rút lựu đạn, để trước mắt , chờ địch.
Nghe tiếng súng và tiếng lưu đạn dưới sườn núi, tiếp theo đó là tiếng loa chiêu hồi oang oang « Hỡi anh em binh sĩ đoàn 125, chúng tôi hẹn trong 15 phút nữa nếu không chịu hồi chánh sẽ bị tiêi diệt ..».
Anh em nhìn nhau lo lắng. Không ai nói nửa lời. Họ đều tự hiểu sự việc gì đang xảy ra đối với Khung và An. Các cậu ấy có thể hy sinh hoặc bị bắt.
Chúng nỏ lải nhải « chiêu hồi » chán rồi lại bắn. Bắn chán lại « chiêu hồi » .. Thời gian đã qua bốn lần 15 phút của chúng ra điều kiện, mà không thấy có hành động gì khác. Như thế có nghĩa là các cậu ấy đã hy sinh hoặc có bị bắt cũng không khai báo gì. Nếu có một người khai báo thì chúng ngốc gì không đẩy vòng vây gần lại .. Anh em nằm sát nhau trao đổi. Họ xác định : nếu địch tới sẽ chiến đấu tới cùng.
Tiếng súng xa dần và nổ về hướng khác.
Thuyền phó Nhi gọi anh em lại, ngồi xung quanh mình.
Anh nói :
- Cứ để tôi ở lại đây .. Các đồng chí còn sức .. cố gắng đi nhanh lên tìm căn cứ - Nhi đứng lại đốt một điếu thuốc lá, hít một hơi rồi nói tiếp. Tiếng nói của anh yếu dần – Đi đi .. dùng dằng sẽ chết tất cả. Để mình tôi ở đây chờ Khung và An ..
Tiếng nói khẳng khái của anh em :
- Chết thì cùng chết, không bỏ ai ở đây.
Anh em nói gằn từng tiếng, gần như cãi nhau, với thuyền phó :
- Anh sợ chúng tôi không đủ sức dìu anh đi ư ! Bỏ nhau trong cơn hoạn nạn ở giữa rừng, lúc kẻ địch đang bám theo từng bước. Anh nghĩ xem, chúng tôi còn mặt mũi nào mà trở về đơn vị.
Lúc bình thường , tính tình Nhi rất điềm đạm, nhưng lúc này anh gắt lên :
- Thôi ! Không bàn nữa .. Tôi lệnh – Mặt anh trắng bệch như sáp, anh nói trong tiếng thở gấp – Nếu .. cứ để .. tôi .. đi cùng chết đói .. chết khát .. giữa rừng .. các cậu .. đi .. trước .. còn … hy vọng.
Sự thật khắc nghiệt có thể xảy ra « chết đói, chết khát » như thuyền phó nói, anh em đã nghĩ đến điều đó. Hôm trước họ còn phủ định nó bằng những ảo tưởng gặp cái may mắn nào đó. Bây giờ cảnh ngộ Nhi vừa chỉ ra đã ở trong tầm tay rồi. Thuyền phó nói có lý và anh là người chỉ huy, có quyền ra lệnh. Có cách gì loại bỏ điều kiện cay đắng đó nữa không ? Để lại anh em bị thương nặng nằm giữa rừng. Liệu đến bao giờ mới đi đón các đồng chí đó ? Mọi người đều khóc, nước mắt chảy trên gò má, không giấu giếm. Đây là giờ phút tạm biệt hay vĩnh biệt nhau.
Mắt thuyền phó vẫn khô lạnh, cố giấu sự xúc động, nhìn từng thủy thủ.
- Anh Nhi ! – Phong mếu máo và ôm chặt lấy Nhi – Chúng em hứa cố gắng tìm được anh em bến, sẽ tới đón anh ngay.
Nhi gỡ tay Phong và nói :
- Đi nhanh .. rồi đón mình và các cậu ấy.
Anh em cố gạt nỗi đau buồn bảo nhau thu xếp chỗ ở cho thuyền phó.
Không đấy một giờ, anh em đã làm xong công sự vừa là nơi ở phòng thú dữ và phòng địch đến. Tuyến và Phong bắt được khoảng hai ki lô ốc sên và một bó lá cơm tẻ. Mai kiểm tra lại « kho » còn 10 viên đa sinh tố cũng để lại cho Nhi.
Nhi không muốn anh em lưu luyến như vậy. Thỉnh thoảng anh lại nhắc « Đi đi .. nhanh lên .. rồi đón mình ».
Mọi người lần lượt bắt tay thuyền phó, ai nấy đều lưu luyến, không muốn xa rời nhau. Trong cuộc đời mỗi thủy thủ, biết bao nhiêi lần tạm biệt người thân, nhưng chưa bao giờ họ đau buồn trước cảnh kẻ ở người đi như thế. Tuyến nhìn lại không thấy anh Nhi ngồi trên thành công sự nữa, chỉ thấy những tảng đá xếp lên nhau như một nấm mồ. Anh bàng hoàng. Và lúc đó nếu không nghe tiếng nói của anh Nhi thúc giục « Đi đi .. nhanh lên ! » từ trong công sự vọng ra, thì không sao bước nổi.
Các cậu Tuyến, Mai và Phong vừa đi được một đoạn đường thì gặp An, khập khiễng kéo lê khẩu súng đi tới. Mừng mừng, tủi tủi , họ kể lại cho nhau nghe câu chuyện vừa xảy ra, rồi động viên nhau « Đi nhanh lên, cố lên không được để anh Nhi chết đói, chết khát ». Nhưng đi hướng nào sẽ tới được căn cứ. Trong tay không có một phương tiện gì để định tọa độ, không có ai mà hỏi, làm sao có thể đi tới được. Giá bây giờ có cái địa bàn và mảnh bản đồ khu vực thì ổn quá. Thôi, hãy gạt bỏ mọi ảo tưởng, tìm cái gì thực tế hơn .. Khi bàn bạc, nghe thấy tiếng đaị bác địch nổ không xa lắm. Một suy nghĩ táo bạo mới lạ vọt ra như ánh sao băng. Thôi đúng rồi, nơi đạn pháo địch nổ dứt khoát phải là nơi quân ta hoặc gần đâu đó là nơi quân ta ở. Sự lựa chọn đúng đắn và khắc nghiệt đến như thế là cùng. Anh em lại thúc giục nhau « Đi đi .. nhanh lên, hướng tiếng đạn nổ. Nhanh lên! Không thì chính mình chứ không riêng gì thuyền phó sẽ chết ở giữa khoảng rừng khô cằn này ».
Họ cắn răng bước, cắn răng trườn bò qua gai góc. Ba bốn giờ dài dằng dẵng như cả năm, khi ngoảnh lại nhìn cái cây của điểm xuất phát vẫn chẳng được bao xa. Sự chậm chạp của những bước chân sẽ trở thành nguyên nhân của cảnh chết đói, chết khát khó tránh khỏi. Họ nhìn rõ điều đó như nhìn vào bàn tay mình. Nếu cứ chui luồn trong những đám gai góc này khó có thể đi nhanh hơn được « Chúng ta đành phải xuống đi theo bãi cát ven biển. Đường đó dễ bị lộ, nhưng còn kiếm được con cua con ốc .. Có thể chết khi gặp địch phục kích, nhưng còn hơn là chết trong bụi gai mớm ..». Tình thế đã dẫn đến buộc họ phải lựa chọn một lối đi nguy hiểm hơn, một lối đi hôm trước họ phải tránh né. Họ tiếp tục lê bước nhích dần xuống bờ cát ven biển.
Được nhìn thấy biển, được hít thở không khí của biển, được làn gió biển lùa vào mớ tóc rối bù, tâm hồn họ trở lại thanh thản hơn. Những cánh buồm, những con sóng xô đuổi nhau, những cánh chim hải âu chao lượn đưa họ trở lại những chuyến đi. Cảng Hải Phòng, vịnh Hạ Long, Vàm Lũng, cửa Bồ Để .. và những hải đăng đã bị xóa mờ trong những chặng đường hành quân đói, khát vừa rồi, nay lại trở về xôn xao trong lòng họ. Và hy vọng được sống lại bừng lên mãnh liệt.
Đến hôm nay đã là ngày thứ 12 trong cuộc hành quân đặc biệt. Ban ngày họ giấu mình vào bụi gai mím hoặc một lùm cây kín đáo, chờ tới khi mặt trời lặn lại lên đường. Mấy hôm đi theo ven bờ cát, đôi khi cũng kiếm được quả cam thối, con ốc, con cua, nhưng chưa có cái gì làm nguôi được cơn đói, cơn khát.
Hôm ấy, anh em thu mình trong đám cây gai mỏ quạ. Điều không ngờ ở đây lại có tổ kiến vống khá lớn. Khi tan sương, kiến rủ nhau đi kiếm ăn, chúng kéo đàn kéo lũ qua cơ thể gần như trần trụi của anh em. Họ phải ngồi dậy xua đuổi lũ kiến đáng ghét ấy. Nhưng cứ phủi được mấy con trên cổ rơi xuống, thì một lũ khác lại mò vào cạnh sườn. Không sao đánh bại được « các mũi tiến công » của chúng.
An nhón một con kiến, soi vào ánh nắng, thấy cái đuôi nó mọng như một giọt nước. Anh cấu phần mọng của nó cho vào miệng nhấm thử. Chao ! Một vị chua ngọt mát dịu tan trên đầu lưỡi. Vui mừng chỉ còn thiếu reo lên. An nói với vẻ hãnh diện như chính mình vừa phát minh ra một chất dinh dưỡng mới chưa hề có trong đời sống :
- Tao vừa tìm được ra sinh tố K .. tha hồ xài thoải mái.
An giơ một con kiến đang ngọ ngoạy giữa hai ngón tay cho Tuyến xem.
Mỗi người đều ngắt phần bụng một con kiến, bỏ vào miệng nếm thử. « Quả là ngon thật ». Sau lời khen đó, họ không cảm thấy khó chịu khi bị đàn kiến leo lên cơ thể mình nữa. Lũ kiến lần lượt bị đối phương khổng lồ của nó dùng «chiến thuật gọng kìm » tiêu diệt. Chưa đủ, họ còn bò sang bụi rậm khác để thay thế công việc của chim gõ mõ.
12 ngày đêm, đến nay dạ dày của anh em mới được chứa chút thức ăn có chất dinh dưỡng. Ai nấy đều cảm thấy khoan khoái dễ chịu.
Nhìn ra biển đã vắng bóng hải âu, những con tàu đánh cá lên đèn. Tuyến đội mớ cỏ khô trên đầu rồi nhoài người khỏi bụi gai. Anh đưa mắt quan sát dọc theo bờ cát. Cả một vùng ven biển vắng vẻ lạnh lẽo, chỉ có những đợt sóng vô tư đang nô đùa. Đã tới giờ có thể hành quân được rồi. Tuyến khẽ gọi các bạn :
- Dậy dậy ! Đi thôi!
Họ bước đi thất thểu, nghiêng ngả như người say rượu. Chốc chốc lại có người cố rảo bước theo con còng, nhưng hoài công vô ích, họ không còn đủ sức đuổi theo con vật cỏn con đó nữa. Anh thợ máy An gặp dịp may, nhặt được ở một chỗ ba con cua thọt. Những con cua này đã sống từ thuở lọt lòng trong một cái vỏ ốc bằng ngón tay cái, lớn lên thân nó bị vỏ ốc bó cứng, chỉ thò ra được hai cái càng và vài cái chân để sinh sống. Vì thế An mới đủ sức vồ được nó.
An chia cho Mai một con, vì cậu ấy đã kiệt sức, còn lại xé ra làm ba phần đều nhau để chia cho ba người. Bữa ăn hương hoa thế thôi nhưng cũng thấy dễ chịu.
Đang đi, Tuyến nhìn thấy có bóng người lội xuống mép nước, hình như người đó đang thả lưới.
Tuyến xử trí rất nhanh, anh khẽ nói với An :
- Cậu đi men theo bờ dứa, mình đi vòng phía sau vào thật gần bắt sống, để hỏi đường.
Tuyến ra hiệu cho anh em « có động ».
Mai và Phong núp vào bụi cây. Tuyến và An thực hiện kế hoạch. Người kia đang lúi húi kéo mảnh lưới rách, nghe thấy tiếng lên đạn và tiếng hô giơ tây lên bất ngờ, quay sau lưng. Anh ta hoảng hốt kêu lên :
- Đừng bắn !
- Anh phải dẫn chúng tôi vào chỗ có anh em du kích.
Anh Q, người của bến đi kiếm cá, bị bất ngờ, buộc phải giơ tay, nhưng mắt vẫn cố liếc ngang xem kẻ nào lại bắt mình dẫn tìm du kích. Nhìn thấy một người gầy yếu, mặc quần áo rách rưới đang chĩa súng vào sườn mình, anh nghĩ « .. anh em đoàn 125 đây rồi ». Q vội hỏi mật khẩu « Kiến ». An đáp lại « Vàng ». Đúng rồi !
Không còn nghi ngờ gì nữa. Người của mình đây rồi. Q vui mừng quá ôm chầm lấy An.
- Ôi ! Các đồng chí ở dưới tàu lên phải không ? Chúng tôi đi đón các đồng chí mãi không gặp. Ba hôm trước đây, đồng chí Thật đã tới được căn cứ, dẫn chúng tôi đi tìm .. tưởng các đồng chí không còn nữa.
Tới căn cứ của bến, Q vừa báo cáo anh em ở tàu C.235 đã đến, đồng chí Hạnh , phó đại đội trưởng bến trong lán chạy vội ra, vui mừng, xúc động ôm chặt từng thủy thủ :
- Chúng tôi có tội với các đồng chí .. Mấy ngày nay đi tìm .. Anh Hạnh xúc động nói ngắt quãng không rõ ý. Đang nói với các thủy thủ, Hạnh chợt nhớ ra một việc phải làm gấp – Này cô Hường đâu, lấy tất cả số gạo nấu cháo ngay, làm thịt hai con gà vừa bẫy được .. nhanh lên nhé.
Hạnh mời anh em tạm ngồi nghỉ trên mấy chiếc võng treo ở gần đó, rồi nói tiếp :
- Chúng tôi có thiếu sót trong việc tổ chức canh gác không được chu đáo nên mới đến nỗi này.
- Nghe tiếng anh quen quá !
- Tôi là Hạnh, trước là thuyền trưởng ở đoàn 1 được cử vào đây làm phó đại đội trưởng của bến này.
- Tưởng ai xa lạ, ra cũng là người nhà cả. Anh vào đây lâu chưa ?
- Được ba năm rồi. Ở đây còn mấy anh nữa cũng ở quân chủng. Anh Kiên, anh Đối, anh Hường trước ở tàu Tuần la. Các đồng chí về được đây, chúng tôi mừng quá, không thì mang hận suốt đời.
- Chúng tôi còn để thuyền phó Nhi ở giữa rừng. Làm sao đi đón anh ấy về ngay được.
- Các anh còn nhớ phương hướng không ?
Không khí im lặng giây lát, rồi có tiếng đáp :
- Không còn nhớ ra phương hướng nào nữa. Chỉ nhớ ở đó có một cây bàng to.
- Nếu vậy. đành chờ đến sáng mai, một đồng chí nào khỏe dẫn chúng tôi đi.
Nghe các thủy thủ tàu C.235 đã đến, anh em công tác ở bến tìm tới thăm hỏi, chuyện trò mừng tủi không dứt.
Cô Hường đã mang nồi cháo đến. 12 ngày đêm đến giờ mới được ngửi mùi thức ăn quen thuộc. Anh em ăn ngấu nghiến, xong rồi lăn ngủ như chết.
Sáng hôm sau chỉ còn một mình trung sĩ Phong gượng dậy được.
Hạnh đã cùng một số anh em bến chuẩn bị đòn cáng, thấy Phong đến anh nói vồn vã :
- Anh em chúng tôi võng các đồng chí đi quân y.
Phong nói :
- Tôi đề nghị anh cử người đi đón anh Nhi.
- Tôi và đồng chí .. chúng ta đi ngay thôi.
Cô Hường nuôi quân đưa cho Hạnh và Phong mỗi người vài miếng củ mài luộc.
Phong nói với cô Hường :
- Nếu có nước cháo, chị cho tôi xin một bi đông mang đi cho anh Nhi,
- Anh Hạnh tối hôm qua có dặn, tôi tưởng đưa cho mấy đồng chí thương binh kia.
Quăng dây bi đông bên vai , rồi xách khẩu tiểu liên, Phong xăm xăm bước. Lúc này anh chỉ nghĩ tới Nhi, không hề nhớ đến có Hạnh là người của bến đang đi cùng.
Hạnh phải gọi Phong:
- Anh đi đâu đấy ! Đường này kia mà ! Tối hôm qua tôi đã hỏi kỹ chỗ anh Nhi đang ở. Ở đây chúng tôi quen thuộc từng mô đá, cứ nói cây bàng thối một mảng góc là tôi biết rồi. Chỉ độ một tiếng rưỡi đồng hồ là đến nơi.
- Một tiếng rưỡi ư ? Thế mà chúng tôi phải đi mất 6 ngày đường.
Hai người vừa đi vừa chuyện trò. Khi nhìn thấy cái thành công sự xếp bằng đá. Phong hồi hộp nói thì thầm « Đây rồi ! Đây rồi ! Tay anh giữ chặt chiếc bi đông nước cháo còn ấm bên sườn, sung sướng như chính mình đang khát cháy cổ, được nhận phần nươc ». « Anh Nhi ơi ! Tôi đã tới đón anh. Có nước đây rồi ». Phong muốn đánh tiếng trước cho Nhi biết, nhưng sự hồi hộp làm cho lưỡi anh cứng lại, không nói ra thành tiếng.
Nhìn vào trong công sự rỗng không, tự nhiên nước mắt Phong trào ra. Anh Nhi đâu rồi ! Trước mắt Phong hiện ra những hình ảnh hư ảo. Anh Nhi đang gác đôi chân đầy bông băng lên tảng đá. Anh Nhi đang há miệng hứng những giọt nước gỗ mục, từ cái giẻ vạt áo rơi xuống. Anh Nhi mắt sáng long lanh nhìn Phong và dặn dò « Nếu tới được căn cứ, thì tới đón mình ». Anh Nhi ơi, muộn rồi.
- Anh ấy đã đi cách đây ít nhất là hai ngày rồi. Nhìn cái băng kia đủ rõ.
Nghe tiếng Hạnh nói, Phong mới định thần, nhìn kỹ trong công sự. Mảnh vải băng dính đầy máu khô đen nằm dưới lớp lá khô. Đàn ruồi muỗi bay xung quanh đống vỏ ốc.
Họ sục tìm sang những lùm cây xung quanh. Phong nhặt một cái nòng súng giấu dưới lá khô, trao cho Hạnh.
- Như vậy là anh ấy đã tháo súng ra từng bộ phận rồi giấu đi. Anh ấy đã đi khỏi nơi đây.
- Đây nữa, một cái khóa nòng. Hạnh nói – Theo mình, Nhi thấy không thể sống được nữa nên mới phá súng giấu mỗi nơi một bộ phận. Có thể cậu ấy sẽ cố sức bò xuống biển tìm nước.
Họ đã lần theo dấu vết của Nhi trườn bò, cách một quãng lại thấy một cái quần đã xé cụt hai ống, một cái áo dính đầy nhựa cây và máu, bao thuốc lá còn vài điếu .. Đến bãi cát không còn dấu vết gì nữa.
- Nhi đã bò xuống đây uống nước.. vì đuối sức quá rồi.. có thể bị sóng cuốn đi.
Nghe Hạnh nói, tiếng được, tiếng mất trộn lẫn vào âm thanh ồn ào của sóng.
Phong đứng lặng im, nước mắt chảy dài, đăm đăm nhìn ra khơi. Ngọn sóng suy tưởng đang trào lên trong anh. Một mái tóc đen, một vầng trán hói và một bàn tay nữa đang với với trên mặt sóng nhấp nhô. Anh Nhi ! Chúng ta đã thề với nhau « Sống với biển, chết với biển để đánh thắng giặc Mỹ », phải chăng khi vĩnh biệt cuộc đời, anh đã trở về với biển.
Bất giác Phong gào to :
- Anh Nhi ơi ! .. Anh Nhi ơi !
Tiếng « ơ ơ ..ơ » trong hư vô đáp lại. Trong óc Phong lại đọc tiếp lời điếu. Anh Nhi ơi ! Mỗi lần nhìn sóng biển chúng tôi lại nhớ tới anh. Trước ngọn sóng kia, chúng tôi nguyện tiếp tục phấn đấu cho lý tưởng đến thắng lợi hoàn toàn. Vĩnh biệt anh ..
Những làn sóng lao vào bãi cát, tạo thành tiếng ì ầm rền rĩ vọng vào tai Phong như những giai điệu trầm của bản nhạc Hồn tử sĩ.
Tất cả anh em thủy thủ đều phải vào bệnh xá điều trị, chỉ riêng Phong ở lại căn cứ của bến. Phong được chăm sóc đặc biệt. Bữa nay riêng anh được ăn cơm với cá kho, còn tất cả anh em ở bến đều phải ăn củ khoai chấm muối. Cuộc sống của anh em bến rất cực, người nào người nấy đều gày guộc, xanh xao. Phong không muốn được biệt đãi, nhưng anh em bến không chịu. Mọi người yêu mến, chiều chuộng anh với cả tấm lòng chân thật. Đôi lúc Phong bắt gặp cử chỉ ngượng ngùng e ấp của một vài cán bộ. Mãi sau này anh mới hiểu được cái lý do tại sao họ lại có cử chỉ đó. Số là trước ngày tàu 235 đến, anh em bến vẫn phân công nhau canh gác đón tàu. Đúng ngày 29 tháng 2 (ngày tàu vào), một cán bộ trên tỉnh đội tới kiểm tra tình hình, thấy địa hình của bến phức tạp, tàu khó vào, và lúc đó điện đài của bến lại hỏng, không liên lạc được với đoàn 125. Bến đã đón nhiều đêm nhưng lại không thấy tàu đến, đồng chí cán bộ tỉnh đội cho rút một số vọng gác để anh em đi lấy gạo. Đêm 29 vẫn còn môt tổ gác ở chân núi Bàn Thang phát hiện thấy tàu vào, cho người về báo cáo. Nhưng do chậm trễ, quá nửa đêm mới cử người đi đón. Anh em bến mới đi được nửa đường, nghe tiếng súng nổ nhiều ở Hòn Hèo, đã quay trở lại. Hôm sau địch đổ bộ xuống càn quét, bến không có hành động gì chi viện cho C.235.
Phong ăn cơm xong lên võng nằm nghỉ. Mấy năm trước, chiến đấu trên sông Mã, bom đạn không kém phần ác liệt, đồng đội có kẻ mất người còn, nhưng chưa bao giờ anh có nhiều suy tư như bây giờ. Anh mới sống cùng đội tàu C.235 trong một chuyến đi mà cứ tưởng như ăn ở với nhau từ thuở nằm trong nôi. Không có lời lẽ đẹp đẽ nào có thể xứng đáng để diễn tả tinh thần và cách sống cách mạng của anh em trong chuyến đi này. Hình ảnh cao cả xúc động ấy luôn luôn trỗi dậy sống động trong óc anh. Tiếng kêu của Hải xin ở lại cùng chết với con tàu. Bóng dáng bình tĩnh đường hoàng của thuyền trưởng Phan Vinh giữa tình huống hiểm nghèo. Tiếng thúc giục « Đi đi .. nhanh lên » của thuyền phó Nhi...
Trong người Phong mệt mỏi rã rời, anh thèm một giấc ngủ thật dài để bù lại cho những đêm thao thức mất ngủ. Nhưng nghĩ tới những người đã khuất, anh cảm thấy như mình có lỗi, không thể nằm yên được.
Phong cố cưỡng lại mệt mỏi, chống hai tay vào đầu gối định đứng dậy. Thấy cô Hường đi tới, anh lại ngồi xuống võng.
Cô Hường cười, nói :
- Em mang tới kính anh hộp sữa, mẹ em vừa gửi tới.
Nói xong, Hường đặt hai hộp sữa vào trong võng.
- Nhà chị ở gần đây ư ?
- Nhà em ở trong ấp chiến lược, ở đó ta có cơ sở, vẫn liên lạc được. Thỉnh thoảng em cũng về trỏng. Trỏng có tin ra, nó bắt được một anh đã bị thương xuống biển uống nước ngày mùng 4. Chúng nó kháo nhau, đã giết được hai người chỉ huy đi trinh sát trong ngày đầu tiên chúng càn quét. Các anh phải chịu cực nhiều quá ..
Tai Phong cứ ù lên, không biết đoạn sau Hường nói gì nữa. Những điều anh vừa suy nghĩ lại tiếp nối. Ai bị bắt ? Có thể là cậu Khung. Vì ngày mùng 4, anh Nhi vẫn đi cùng với anh em. Những người chỉ huy chết , có phải là anh Vình và anh Thứ không ? Phải đi tìm các anh ấy. Chỉ có một mình mình ở đây ..
Phong vùng đứng dậy đi về phía lán của Hạnh.
Cô Hường ngơ ngác không hiểu, tại sao đang nói chuyện. Phong lại bỏ đi.
- Kìa anh Phong. Anh cứ nghỉ ngơi. Cần nước uống biểu em lấy cho.
Hạnh đang hướng dẫn cho mấy chiến sĩ bến chặt ống pháo sáng ra từng mảnh hình chữ nhật. Thấy Phong tới, Hạnh nói :
- Phong về nằm nghỉ ngơi cho lại sức. Chúng mình đang ..
Phong ngắt lời Hạnh:
- Bây giờ anh đi ngay với tôi đi tìm các tử sĩ được không ?
- Tối qua các cậu An và Tuyến đã cho mình biết danh sách các đồng chí hy sinh và bị lạc. Theo tin tức chúng tôi thu lượm được, thì cậu Khung đã bị địch bắt. Chúng tôi đang chuẩn bị thứ này để làm bia. Việc này phải sớm mai mới đi được. Phong cứ nghỉ cho lại sức để cánh mình lo.
Thấy Phong đứng im lặng, vẻ mặt xúc động, Hạnh khoác tay Phong trở về chỗ võng.
- Trông cậu yếu lắm , cứ nghỉ ngơi. Khỏi lo. Chúng mình sẽ thu xếp chu đáo.
Phong nằm suy nghĩ miên man một lúc rồi ngủ thiếp đi. Cô Hường đi qua, thấy Phong ngủ không có màn. Cô rón rén bước tới lấy mảnh dù pháo sáng đắp trên mặt võng.
Sáng hôm sau, Phong và anh em bến đã tìm được đầy đủ các đồng chí hy sinh.
Họ đã đứng rất lâu ở nơi diễn ra trận đánh không cân sức. Thuyền trưởng Phan Vinh và Ngô Văn Thứ, thợ máy đã chặn đứng hàng tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên, buộc chúng phải rút lui. Các anh vẫn ở tư thế nằm bắn như giữa lúc các anh ghìm hai cánh quân của địch lại. Xung quanh các anh chi chít những hố đạn ám khói, những cây cỏ gãy nát, cháy xám.
Chính nơi đây, bọn Mỹ-ngụy đã la lên rằng « Một tiểu đoàn bộ binh Việt cộng có pháo nặng yểm trợ » đã buộc một tiểu đoàn của chúng phải rút lui. Chính nơi đây đã diễn ra trận quyết chiến kiên cường của hai dũng sĩ hải quân đánh bại cuộc càn quét của địch. Điều ấy làm cho anh em rất tự hào.
Hạnh nói với anh em :
- Các đồng chí thân yêu của chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ rất vẻ vang. Trong tang lễ các đồng chí đó, không có hương khói, nhưng chúng ta có tấm lòng thành kính. Việc mai táng phải làm cho thật chu đáo.
Một chiến sĩ của bến phát biểu :
- Lúc sống , các anh ấy đã dũng cảm vượt qua biết bao hiểm nguy, sóng gió. Lúc hy sinh rất anh dũng, kiên cường vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Tôi đề nghị hướng mai táng để đầu về hướng Bắc, chân về hướng Nam.
Làm lễ hạ huyệt xong, khi đắp lên phần mộ liệt sĩ hòn đất cuối cúng, Phong cố ghìm tình cảm của mình để khỏi bật ra tiếng khóc :
« Anh Vinh, anh Thứ, anh Tương, anh Hải ơi ! » – Phong đọc lời điếu như nói chuyện với người đang sống trước mặt mình – « Các anh đã làm trọn lời thề với Tổ quốc, với Đảng. Cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời, các anh vẫn làm cho kẻ thù khiếp sợ. Chúng tôi xin hứa sẽ không ngừng phấn đấu noi theo gương sáng của các anh. Xin vĩnh biệt ! ».
Tất cả anh em cúi đầu tưởng niệm những người đã khuất. Một cơn gió xoáy đưa tàn tro bay lên cao. Lá cây thiên tuế trồng trên những phần mộ đong đưa như những cánh tay vẫy chào. Tiếng sóng biển trầm trầm như tiếng đổ hồi, như những lời đồng vọng thương cảm những chiến sĩ đã bỏ mình vì nước, vì dân.
2
..Sau một ngày xảy ra trận chiến đấu của đội tàu C.235 với địch ở Hòn Hèo, đội tàu C.43 mới chuyển hướng vào bờ.
Như thường lệ vào trước giờ tàu chuyển hướng, anh em chuẩn bị bữa ăn chu đáo. Việc nấu nướng bữa nay do hai đầu bếp giỏi là các anh Nguyễn Trọng Tài, thợ máy và Phan Văn Kiểm, thủy thủ trưởng đảm nhiệm.
Nấu nướng xong, Tài và Kiểm khệ nệ bưng thức ăn và cả két bia lên mặt boong.
Các thủy thủ thấy mùi mực nướng thơm phức bay vào khoang, không chờ đầu bếp gọi, đã kéo nhau ra. Ai thích rượu thì uống rượu, ai thích bia thì uống bia, nhắm với thịt gà luộc và mực nướng thả sức. Có anh vừa chạm môi tới cốc bia đã lè nhè nhại những người nát rượu. Chỉ sau hai lần chạm cốc, đủ các thứ chuyện bông phèng nở bung như ngô rang.
Anh thợ máy Nguyễn Trọng Tài trở thành đề tài châm chọc vui vẻ. Chuyện vui đùa về màu da đen của Tài không làm anh tự ái mà chỉ gợi nhớ chuyến đi đầy gian khổ, ác liệt. Cách đây hơn năm tháng, anh có nước da bình thường như anh em khác. Chuyến đưa hàng vào gần Ba Làng An ( Quảng Ngãi ) gặp địch, đội tàu C.43 đã chiến đấu và phá hủy tàu rồi lên bộ đi the đường Trường Sơn trở về Bắc. Trong cuộc hành quân chữ O ấy, Tài bị sốt rét ác tính, tưởng rằng sẽ vĩnh biệt đồng đội, nhưng anh đã trở về được với màu da đã chết. Những ngày mới ốm dậy, mỗi lần soi gương thấy mặt mình đen sạm, anh thấy phảng phất một nỗi buồn. Từ hôm trở về cùng anh em chuẩn bị đi chuyến này, chẳng còn thời giờ nào để ngắm mình và cũng không hề nghĩ tới màu da của mình.
Tàu chuyển hướng vào bờ.
Mặt biển êm ả. Những làn sóng nhẹ dập dìu xô vào mạn tàu. Con tàu lướt nhanh để lại phía sau một vệt dài màu trắng trên mặt nước tím thẫm. Mặt trời đã lặn. Phía tây còn bừng lên như một đám cháy dữ dội. Cảnh trời chiều phẳng lặng như gợi nỗi nhớ. Bỗng dưng Tài thấy lòng bâng khuâng thương nhớ những người thân của mình. Hình ảnh nguời mẹ già gầy guộc tóc bạc phơ, sống cuộc đời góa bụa và đem tất cả sức lực để nuôi con khôn lớn. Hình ảnh người vợ trẻ tần tảo thay mình chăm sóc mẹ già, nuôi con. Hình ảnh thằng con ngây thơ luôn miệng mong «bố đánh giặc Mỹ rồi về đi chơi với con » . Tài nghĩ đến mình là đứa con độc nhất, nều như mình hy sinh, mẹ kính yêu sẽ phải chịu một nỗi đau mất mát, nhưng mình tin rằng mẹ có đủ nghị lực vượt qua.
Trước khi lên đường, Tài đã nghĩ đến điều xảy ra đó và đã viết những bức thư «trăng trối » giấu ở dưới đáy vali dặn dò những người ở lại. Lúc này, những dòng chữ sâu nặng nghĩa tình ấy lại hiện lên trước mắt anh « .. Dù ác liệt, nguy hiểm thế nào tôi cũng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ . Nếu tôi hy sinh trong chuyến đi này, nhờ tổ chức giúp gia đình tôi bớt một phần khó khăn và lần lượt gửi cho gia đình tôi những bức thư trước đây. Mỗi bức thư gửi cách nhau khoảng năm , sáu tháng ..»..Bức thư thứ nhất gửi gia đình : « .. Anh cũng như hàng triệu thanh niên khác lúc lên đường đánh giặc, cứu nước. Xa gia đình lúc này là chuyện thường tình. Lần này anh có thể đi xa lâu và ít biên thư về cho gia đình. Mọi công việc ở nhà đều trút lên vai em, anh thông cảm sâu sắc điều đó, nhưng làm sao khác được. Mong em cố gắng thay anh chăm sóc mẹ và dạy dỗ con nên người ..».
Bức thư thứ hai « .. Chiến đấu để giành lại độc lập, tự do và hòa bình cơm áo cho muôn đời mai sau, không thể không trả giá bằng sự hy sinh xương máu. Nếu anh có chết ở nơi chiến trường, thì em cố nén đau buồn và tự hào về anh. Em hãy dành nỗi tiếc thương anh vào việc chăm sóc mẹ già và nuôi dạy con thành người ..».
Bức thư thứ ba « .. Mẹ ơi ! Con ra đi mang theo công lao tày núi của mẹ mà con chưa có dịp đáp đền. Mẹ hãy tự hào vì đứa con thân yêu của mẹ đã hy sinh vì Tổ quốc quang vinh ..».
- Ai cà phê nóng đây !
Tiếng reo đùa của Kiểm cắt đứt dòng suy nghĩ triền miên của Tài. Anh đổ cốc cà phê còn nóng ở tay Kiểm rồi rụt rè nhìn bạn như mình vừa phạm lỗi gì đó.
Tài leo lên khỏi buồng máy, đứng tựa vào lan can, đốt thuốc lá rồi vừa nhấm nháp cà phê vừa nhìn về những ngôi sao lấp lánh ở phía chân trời. Tâm tư nặng nề của anh tan dần trong các giả định tình huống trước mắt.
Mọi người đã vào vị trí chiến đấu nhưng chưa dứt tiếng chuyện trò, cười nói. Ruệ ngó đầu qua cửa buồng hàng hải, thấy Tài đang đứng ngắm biển, anh gọi to :
- Anh Tài ! Ban nãy dang uống bia bỏ đi đâu ? Vào đây, tôi lấy cháo về cùng ăn.
- Khỏi phải lấy, chúng ta xuống bếp ăn luôn ở đó cho tiện.
Hai anh em xuống chạn bưng ra một soong chảo và soong miến nấu với thịt gà còn đang bốc hơi. Ruệ còn lấy thêm một tô đầy ú thịt gà luộc, mang ra chỗ đơn vị ăn cơm thường ngày.
Tài hỏi :
- Sao còn nhiều vây. Còn ai chưa ăn ?
- Uống bia, ăn mực ngang dạ, các vị không xài nổi.
Trong bữa ăn, vừa chuyện trò, tự nhiên dẫn dắt tới câu chuyện về mối tình vừa bị cắt đứt trước chuyến đi của thủy thủ Nguyễn Đăng Nam.
- Cô ấy cũng xinh gái – Ruệ cười nói – Cô ta đang học Đại học Sư phạm năm thứ ba. Hai đứa theo đuổi nhau đã hai năm. Một hôm cô ta sụt sùi với cậu Nam « Bố em bảo thời chiến này lấy bộ đội cũng như không .. bố em không bằng lòng. Em chẳng biết làm thế nào cả .. nếu em cứ tự ý, tình cảm trong gia đình em rạn nứt thì em khổ tâm lắm ».
- Kiểu này lại muốn ngãng ra. Thế cậu Năm xử ra sao ?
- Cậu ấy nói « .. Tôi rất đau khổ phải nói ra điều này. Từ hôm nay trở đi, quan hệ giữa chúng ta chỉ còn là tình bạn thôi. Vì từ xưa tới nay, nếu là tình yêu thì người ta vượt qua tất cả để đi tới. Cô đã không vượt nổi được khó khăn đó, còn tôi thì chẳng muốn có ai thương hại ..».
- Thằng Năm làm như vậy liệu có nóng vội không ?
- Kiểu cách ấy trước sau cô ta cũng chạy theo tiếng gọi ích kỷ của gia đình .. «Phăng teo » cho đỡ vướng chân.
Ruệ vừa cười vừa bình luận :
- Như vậy là đội ta còn 14 cặp đăng đeo đuổi. Giả dụ nếu gặp những cố như cô «sinh – viên – sư – phạm » của cậu Năm, mà anh em mình lại yếu bóng vía thì chuyến này có cố gắng cũng đẩy được con tàu đến phao số 0.
Câu nói đùa của Ruệ làm cho Tài bật cười và sau tiếng cười anh thấy lòng mình nhẹ nhõm hơn.
Ăn xong, mỗi người lại lao vào công việc của mình . Cậu Giám đang ngồi nhìn đăm đăm vào số máy đang chạy, thấy Tài đi tới, anh lấy tay ra hiệu hỏi :
- Tình hình trên ấy có gì không ?
- Vẫn êm. Cậu lên nghỉ đi, được phút nào hay phút đó. Nếu có gì cũng phải vài giờ nữa.
Tàu C.43 đã đi bảy ngày đêm không gặp trở ngại gì. Anh em đặt nhiều hy vọng : đoạn đường trước mặt sẽ xuôi lọt, vào được bến, thả hàng rổi ra ngay. Ở các vị trí chiến đấu, vẫn vang lên tiếng cười nói lạc quan. Nhất là khẩu đội DKZ ở vị trí mũi tàu, gồm các xạ thủ Phan Văn Kiểm, Nguyễn Nho Tòng và Nguyễn Đăng Năm là nơi không mấy lúc vắng tiếng cười. Ở « trận địa mặt boong » không giống như bất kỳ trận địa nào trên mặt đất, mọi người bị câu thúc về địa điểm cơ động, nhưng chẳng ai hạn chế sự ồn ào, vì tầm nhìn của họ bao giờ cũng thoải mái, không đáng ngại kẻ địch xuất hiện bất kỳ.
Nhìn thấy ở phía bờ có nhiều pháo sáng bắn lên, làm rõ hình núi non, họ gọi nhau :
- Núi, núi .. kìa ! Các anh nhìn thấy không ? Chắc ăn rồi.
- Ừ nhỉ .. mình đưa được tàu vũ khí này vào thì Quảng Ngãi đánh thoải mái.
- Ta đang tiến công vào Saì Gòn, Huế .. nếu Quảng Ngãi đánh mạnh giải phóng được một vùng rộng nối vùng đồng bằng với Tây Nguyên thì cha con thằng Mỹ bỏ mẹ.
Lúc Năm và Kiểm đang nói chuyện, Tòng vào bếp lấy ra một đĩa xôi và một tô thịt gà rang. Tòng giục mọi người :
- Ăn đi .. ăn thật no, sắp sửa có việc làm rồi. Nếu vào được thì có sức chuyển hàng, nếu gặp chúng thì có sức mà nện.
Họ chưa kịp ăn xong đã nghe tiếng thuyền trưởng nói to :
- Chú ý, có tàu địch đang theo phía sau ta.
Kiểm nói đùa :
- Mẹ nó ! Tưởng đã chắc ăn rồi, thế mà chúng nó lại đến phá thối. Kệ xác chúng .. cứ ăn đi, hết đĩa xôi rồi tính chuyện với chúng sau cũng vừa.
Ánh đèn tàu địch vẫn bám phía sau. Tàu C.43 mở hết tốc độ chạy về phía bờ nhưng vẫn không bứt nổi khoảng cách với tàu địch đang thu hẹp dần.
Khoảng 24 giờ 15 phút, máy bay địch tới thả pháo sáng dọc theo hướng tàu ta đang tới. Và ngay sau đó vài phút, đạn pháo lớn của đich từ các chiến hạm rắ như mưa vây lấy tàu C.43. Một lát sau nhiều tàu nhỏ của địch bật đèn pha đủ maù lấp loáng cắt đêm tối trên mặt biển thành những mảng nhỏ. Chúng chuyển dịch dần theo làn đạn pháo.
Kiểm sốt ruột đứng dậy nói to :
- Anh Thắng ! Không cho lệnh nổ súng để nó bắn chết anh em ư ?
- Phải bình tĩnh. Không có lệnh của tôi, tuyệt đối không ai được nổ súng.
Các nòng pháo trên tàu C.43 lặng lẽ rê theo mục tiêu của mình lựa chọn.
Thuyền trưởng Thắng bình tĩnh quan sát xung quanh. Anh phán đoán : Đã có lần tàu địch bắn lầm nhau. Việc bắn pháo vây rộng xung quanh, biểu hiện chúng chưa khẳng định là tàu của ta. Khoảng cách bờ còn 10 hải lý, ta có thể chạy thêm vào gần bờ đoạn nào hay đoạn ấy, chờ thời cơ thật thuận lợi ta hãy nổ súng.
Tiếng đạn pháo bỗng im bặt. Hai chiếc tàu địch từ phía bắc lần lượt cắt qua trước mũi tàu của ta, cách khoảng 500 mét.
Thuyền trưởng Thắng hạ lệnh :
- Chiếm góc mạn phải 30 độ. Bắn!
Thuyền trưởng vừa dứt tiếng, tiếng chuông chuyển lệnh đã rung lên một hồi dài. Các khẩu pháo DKZ, 12,8 nổ đồng loạt vào mạn tàu địch. Một chiếc tàu địch bị trúng đạn, khói tuôn ra mù mịt.
Hàng chục tàu địch từ bên sườn, phía sau xối một trận bão đạn về phía tàu C.43. Những chuỗi đạn lửa đan chéo, đuổi nhau hình cầu vồng bay vút trên không hoặc cắm xuống mặt biển dày đặc trong khu vực C.43 đang đi.
Thuyền trưởng Thắng vẫn ở tư thế đường hoàng trên đài chỉ huy, quan sát và chỉ huy đơn vị tiếp tục chiến đấu. Ruệ đang ngồi ở ghế lái, bị trúng đạn ngã xuống. Thuyền phó Đức đứng bên lập tức lên lái thay Ruệ.
Chính trị viên Tuấn vào xốc Ruệ ngồi dậy và lay gọi :
- Ruệ ơi ! Bị thương ở đâu mình băng cho ?
Tiếng Ruệ trả lời yếu ớt :
- Còn người còn phải chiến đấu bảo vệ tàu. Tôi chết .. tôi gửi lời ..
Tuấn sờ tay Ruệ, thấy mạch cậu ấy không đập nữa, anh đặt Ruệ nằm sát vào vách.
Nghe tiếng gọi « Anh Tuấn, tôi bị thương ». Tuấn vội vàng vào ghế lái thay cho thuyền phó Đức.
Tiếng đạn nổ liên hồi đinh tai nhức óc, không còn phân biệt rõ tiếng nổ nào là của ta, của địch nữa. Tuấn đang hướng con tàu rẽ sóng chạy vào bờ, thấy tay mình tê dại không điều khiển nổi tay lái nữa, anh gọi Hào vào thay thế.
Hai chiếc máy bay lên thẳng của địch nhào tới xả rốc két xuống tàu. Khẩu đội cao xạ của ta kiên cường giáng trả, một chiếc bị trúng đạn, bụng nó phụt lửa sáng rực rồi rơi tõm xuống biển. Cùng lúc đó, tàu C.43 bị một phát rốc két trúng thùng dầu phụ, đám khói từ thùng dầu phụ đùn lên đen đặc. Năm rời vị trí súng nhaỷ vào dập lửa cứu tàu.
Thuyền trưởng Thắng nhìn thấy khầu 12,8 của ta im lặng ngửng nòng lên trời, mấy xạ thủ bị thương nằm dưới chân súng, trong lúc máy bay địch vẫn điên cuồng bắn xuống. Anh rời đài chỉ huy xuống làm xạ thủ. Những loạt đạn dữ dội của thuyền trưởng làm cho chiếc máy bay lên thẳng bay bổng lên cao ..
Từ lúc nổ súng, Tài đứng trong buồng máy, nhưng vẫn cảm nhận được sự ác liệt của trận đánh qua những mảnh đạn va vào thân tàu và những cái lắc lư đột ngột của con tàu. Mắt anh không rời cỗ máy đang chuyển động. Mỗi lần có tiếng va đập mạnh vào vỏ tàu, anh lo lắng nhìn xung quanh rồi nhìn vào máy, xem có xảy ra chuyện gì không.
Một tiếng động trầm đục, cùng lúc có cái gì rất nặng va vào thân tàu, làm cho nó chao đảo, làm cho máy , đèn , điện đều tắt ngấm. Tài thấy bàn chân mình như giẫm lên lửa, rất bỏng. Anh cúi xuống sờ soạng thấy máu nhớp nhớp cả dưới sàn.
Có ánh đèn pin soi xuống buồng máy, và ánh đèn theo nhịp bước của ai đó xuống dần rồi đến bên cạnh. Tài mới nhận ra chính trị viên Trần Anh Tuấn. Tiếng của Tuấn khô đặc, ghé sát vào tai Tài :
- Phá hủy tàu.
Tất cả anh em đã rời khỏi tàu.
Đạn pháo của các pháo hạm địch vẫn không ngớt vây bám xung quanh tàu C.43.
Anh em cố hết sức bơi qua khu vực đạn pháo nổ dày đặc. Vừa bơi được một đoạn, Năm nhìn thấy một viên đạn pháo nổ gần Kiểm. Ngay lúc đó một đợt sóng nâng cả phao của Năm và thuyền trưởng Thắng đang bám lên cao 4 mét, rồi đẩy nhào xuống chân con sóng khác.
Pháo sáng vẫn soi rõ từng nếp sóng, nhưng Năm không nhìn thấy bóng Kiểm đâu nữa. Thay cho lời vĩnh biệt người bạn thân yêu, Năm chỉ kịp gào to một tiếng « Kiểm ! ».
Lúc đầu họ bơi gần nhau, vài phút sau do pháo địch bắn, và do chênh lệch về sức khỏe, đã tạo ra những khoảng cách xa dần. Tài vừa bơi vừa cố gắng đưa mắt nhìn xung quanh nhưng không thấy ai. Mỗi quả đạn pháo nổ làm cho ngực anh ép lại khó thở. Thời gian như ngưng đọng. Tài cảm thấy mình đã vùng vẫy rất lâu dưới biển lạnh mà chưa nhìn thấy bờ. Một đợt sóng do đạn pháo địch gây ra, ập đến. Tài dùng hết sức mình nhoài theo. Chân anh chạm bãi cát ngầm. Mừng quá, thế là sống rồi ! Nhưng làm sao thế này ? Một bên chân anh cứng đơ ra như khúc gỗ, không sao cử động được. Tài tự nhủ : Đến đây rồi mà chịu bó tay là hèn ! Anh dùng hết sức đạp chân xuống cát rồi nhoài người về phía trước. Tay anh đã sờ vào mặt cát mềm dịu, như nắm lấy cái quý giá vừa bị mất. Anh vừa lồm cồm định đứng dậy th.ì một đợt sóng khác chồm tới kéo anh ra xa tít. Anh lại cố hết sức quãy. Chẳng phải chờ lâu, một đợt sóng lớn khác đã đẩy anh một mạch vào tới bờ, rồi lại kéo anh một mạch ra ngoài xa. Vết thương và những ngày đêm đi biển đã khiến anh không sao làm chủ được cơ thể mình. Sóng kéo co xô đẩy ba bốn lần như đùa giỡn với một khúc chuối.
Anh vẫn còn tỉnh táo, đủ sức hiểu tất cả những gì đang xảy ra và có thể xảy ra đối với mình. Không lý do gì đã cố gắng đến đây mà chịu thua những đợt sóng này. Không có lý do gì đã tới gần bờ lại để địch vớt lên tàu của chúng. Một lần nữa anh vận hết sức lực của mình để vùng vẫy ra khỏi bàn tay của thần chết.
Pháo sáng địch giúp anh nhìn rõ bờ không thiếu một chi tiết . Những con thuyền đánh cá nhỏ nằm úp trên bãi cát, những hàng cọc phơi lưới, những mảnh vỏ trai sáng loáng như bạc. Anh ước ao có một cái cọc cắm sát mép nước, sóng đưa tới anh sẽ ôm chặt lấy cọc để đứng dậy. Nhưng mép bờ cát phẳng lỳ, chẳng có một thứ gì khả dĩ bám víu được.
Đợt sóng mới, anh ước lượng thời gian, khi nó vừa xô vào bờ, lập tức anh dùng hết sức nhoài người lên, rồi bò thêm được một đoạn, thoát khỏi bàn tay của sóng. Tài mệt quá nằm ngửa lên để thở. Nhìn bầu trời thoáng rộng và những chùm sao lấp lánh, trí óc anh dịu bớt nỗi căng thẳng. Anh nghĩ tới con tàu và đồng đội của mình. Sao chưa thấy tiếng nổ của bộc phá phá hủy tàu. Anh em mình,ai còn ai mất ? Anh đang suy nghĩ miên man, một tiếng nổ lớn khác tiếng đạn pháo. Cùng lúc đó mặt đất rùng mình nhấc người anh lên một chút rồi lại đặt xuống. « Nổ rồi ». Tài phấn khởi ngồi nhỏm dậy, nhìn ra biển. Một đám khói hình nấm từ mặt biển vụt lên cao dần, xung quanh nó vẫn còn đèn tàu địch đang di động.
Chính trị viên Tuấn đã tập hợp được một số thủy thủ, đang nằm chờ ở một khe nước, nhìn thấy Tài đi ngất ngưởng như người say rượu, anh vội vã chạy ra đón. Vừa xốc nách Tài đi anh vừa hỏi dồn :
- Cậu bị thương ở đâu ? Trong lúc bơi có nhìn thấy ai không ?
Trận đánh kéo dài gần một giờ và bị đạn pháo nổ gấn, tai họ đều điếc đặc, không nghe rõ tiếng nói của nhau, nên hỏi nhau vài câu rồi họ nín lặng bước đi.
Thuyền trưởng Thắng cũng vừa tới, anh lấy tay ra hiệu cho mọi người theo mình lên quả núi trước mặt. Năm và Thắng xốc nách Tài bước theo anh em. Nguyễn Xuân Thơm, thuyền phó khập khiễng đi cuối hàng quân. Lúc rời tàu, anh đã nhường phao cho Hoa, và trong lúc bơi anh lại dìu được một thương binh vào bờ. Không ngờ vết thương đã làm cho sức của anh xuống nhanh như vậy. Anh đang đi, tự nhiên thấy mắt mình tối sầm lại và trời đất như đảo lộn, rồi ngã nhào xuống bất tỉnh. Ở phía trước anh em vẫn rảo bước, không hề biết chuyện gì đã xảy ra đến với Thơm.
Anh em vừa lên được một đoạn trên sườn núi , gặp địch đi tuần lại vội vã quặt đi hướng khác. Đến một lùm cây, họ dừng lại để tìm hướng đi.
Năm nói với thuyền trưởng :
- Tôi có mang theo súng, để mình tôi đi trước, nếu gặp cơ sở của bến tôi quành lại đón .. nghe thấy súng nổ, thì các anh đi tránh.
Thuyền trưởng căn dặn :
- Đi phải quan sát cẩn thận đề phòng nó phục kích.
Năm cởi cái võng và đôi dép đưa cho thuyền phó Đức rồi nhanh nhẹn theo con đường mòn lên núi.
Suy nghĩ một lát, Thắng thấy việc để Năm đi một mình có phần mạo hiểm. Anh nói với chính trị viên :
- Anh Tuấn đi với bộ phận sau, tôi đi cùng với Năm , sợ cậu ấy đi một mình không an toàn.
Thắng đi mải miết vẫn không sao theo kịp được Năm; tới sườn núi chân lại giẫm lên chùm gai mỏ quạ, gỡ được gai thì Năm đã đi mất hút. Trời gần sáng, Thắng vừa bước vội vừa lo. Để đến trời sáng không đưa được đơn vị vào cơ sở, gặp địch càn thì tránh vào đâu. Thấy có tiếng người nói to, cách chừng 100 mét và có ánh đèn Thắng dừng lại lắng nghe. Anh đi giật lùi vài bước rồi quay ngoặt trở lại chạy xuống núi.
Bộ phận do chính trị viên phụ trách chờ đợi lâu quá, sốt ruột không theo hợp đồng cũ. Họ đi men theo những ruộng mía dưới chân núi. Dưới ánh pháo sáng, Tuấn nhìn thấy một em bé chừng 10 tuổi, đang lúi húi trong ruộng mía. Tuấn lấy tay ra hiệu cho anh em dừng lại, rồi một mình anh rón rén tới gần em bé. Bất thình lình anh chộp được em. Em nhỏ hoảng sợ kêu ú ớ một lát sau mới nói được :
- Tôi .. tôi đi nhặt dù hỏa châu.
- Du kích chỗ nào, đưa các anh tới.
Một tay bị thương, còn tay kia Tuấn giữ em bé. Trong lúc chờ nó bình tĩnh lại để trả lời, anh sơ hở để em chạy mất, Tuấn rượt theo.
Anh em du kích đứng trong bụi cây, nhìn thấy mấy người đầu trần, tay không súng đuổi theo em bé, họ đoán : « Không phải là địch .. có thể là các thủy thủ ».
Tuấn đang mải miết đuổi theo em bé, bỗng nghe thấy tiếng quát « Dừng lại », tiếp đó là một người lăm lăm khẩu tiểu liên bước ra khỏi lùm cây.
Tuấn vừa dừng lại, anh chưa kịp suy nghĩ xem tình huống gì đến với mình, thì người cầm súng kia nói dịu giọng :
- Có phải các anh vừa dưới tàu lên không ?
Tuấn vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, nhưng anh không trả lời. Anh vỗ tay ba lần để thay lời đáp. Người cầm súng vỗ tay hai lần vào báng súng.
Họ đã nhận ra nhau qua mật hiệu ! Mọi người đều vui mừng xúc động, cùng reo lên một câu « Các đồng chí ! ..»
Anh em du kích kéo ra mỗi lúc một đông. Họ phân công nhau cáng thương và dìu thương binh vào xóm. Mọi người chuyện trò hỏi han nhau :
- Chúng tôi được lệnh đi đón các anh. Ngay từ lúc địch thả pháo sáng .. đã rất lo. Còn ai bị thương chưa tới không ?
- Đồng chí bị thương vào đâu để chúng tôi cáng .. thôi cứ để chúng tôi cáng .
- …
Tuấn kiểm tra lại số người đã gặp nhau trên bờ, thấy thiếu Thơm và Đức. Mấy người đi trước tìm đường cũng chưa thấy tới. Tuấn vừa nói với chiến sĩ du kích tìm giúp đã thấy Năm xách súng đến.
- Anh Thắng đâu ? – Tuấn hỏi Năm.
- Tôi không gặp ai cả.
Một chiến sĩ du kích nói xen vào :
- Các anh khỏi lo. Nếu các anh em đã lên bờ được, chúng tôi sẽ tìm thấy ngay thôi. Các anh vào trỏng nghỉ ngơi đã !
Không đầy nửa giờ, các thủy thủ đã về đầy đủ. Họ đứng, ngồi thành từng nhóm trên một cái sân khá rộng. Riêng Thơm và Tài vẫn nằm liệt trên hai chiếc cáng.
Các mẹ, các chị em phụ nữ ngồi quây xung quanh Thơm và Tài vừa thăm hỏi vừa khóc nức nở.
Tiếng đồng chí xã đội trưởng dõng dạc :
- Khi anh em bộ đội ăn uống xong, theo như phân công, ai có trách nhiệm đưa thươg binh xuống hầm nghỉ, ai dẫn anh em khỏe về từng nhà thì ở lại. Còn tất cả về ngay vị trí của mình. Gần sáng rồi, phải khẩn trương.
Xã đội trưởng hạ nhỏ giọng nói với Thắng và Tuấn đứng bên cạnh :
- Ngày mai thế nào địch cũng càn tới đây. Chúng tôi đã xếp chỗ an toàn để các đồng chí đi nghỉ ngơi. Việc chống càn đã có chúng tôi lo liệu.