Đường mòn trên biển (8)- Nguyễn Tư Dương

Meika

Thành viên
Tham gia
26/12/2023
Bài viết
51
Chương bảy

NHỮNG TÌNH HUỐNG CĂNG THẲNG

1​


Giống như đường mòn Trường Sơn, ban đầu có trục đường đi qua làng Ho, qua sông Sê-băng-hiêng, qua Bản Đông đi tới A Sầu .. nhưng rồi bị địch đánh phá ác liệt, nhiều đoạn đường trục không còn là một tuyến đường mà đẻ ra nhiều đường vòng tránh ; « Đường mòn trên biển » thời kỳ này cũng gặp nhiều trọng điểm phải vòng tránh, do đó tuyến đường phụ đội khi phải kéo dài tớ gần HongKong hoặc sát tới Ấn Độ Dương.
Người ngoài cuộc khó có thể hình dung nổi, mỗi chuyến đi của con tàu vận tải nhỏ bé sẽ gặp những rắc rối gì trên con đường ngàn dặm đó.
Hạm đội 7 của Mỹ được xác định nhiệm vụ chiến lược : đối phó với Hạm đội Viễn Đông của Hải quân Liên Xô và Hải quân Trung Quốc. Phạm vi hoạt động của nó trải rộng khoảng 300 triệu hải lý vuông, kể từ eo biển Bê-ring (đông Liên Xô) tới Nam Cực ; phía đông tới đảo Gu-am ; tây tới vùng Ấn Độ Dương. Nhưng thời gian này (sau năm 1965), chúng tập trung lực lượng chủ yếu vào vùng Đông Nam Á và dồn vào vùng biển Việt Nam tới 40% lực lượng với nhiệm vụ chiến lược số một là « ngăn chặn sự xâm nhập » từ miền Bắc vào miền Nam, thực chất là ngăn chặn tuyến vận tải của đoàn 125.
Lực lượng so sánh trên biển giữa ta và địch quá chênh lệch, gần nửa hạm đội 7 cộng với lực lượng hải quân ngụy chăng ra, chưa kể không quân, để đối phó với một hai chiếc tàu vận tải có lượng giãn nước một trăm tấn. Nếu như đội tàu vận tải của ta khéo léo, dũng cảm luồn lách vượt qua được cái hàng rào dày đặc đó, vào tới bến an toàn ; hoặc chạm trán buộc phải chiến đấu mà giành được thắng lợi, thì quả là không có tính từ nào xứng đáng để ca ngợi chiến công của nó.
Thật vậy, với lực lượng địch đông và mạnh như thế, không thể không có sự lo ngại ám ảnh trong tư tưởng cán bộ và thủy thủ đoàn 125. Tuy vậy từ sau « vụ Vũng Rô » đến năm 1966 đã có 8 chuyến đi, chỉ có một chuyến phải quay về vì địch chặn đường, còn lại đã vào bến an toàn. Nhưng tính chất các liệt khó khăn ngày càng tăng, nên mỗi chuyến đi, từ lúc rời bến tới lúc trở về, không chỉ những người đi chịu đựng căng thẳng, mà cả người ở nhà cũng chia sẻ.
.. Dạo này đoàn trưởng Đoàn Hồng Phước ốm yếu luôn. Ngoài bệnh đau dạ dày, anh còn mắc nhiều thứ bệnh khác, do chín năm kháng chiến gian khổ để lại. Mỗi lần kiểm tra sức khỏe, bác sĩ lại ghi vào sổ khám bệnh « .. Cần được an dưỡng hồi sức » .. Cấp trên khuyên « đi an dưỡng », bạn đồng cấp khuyên « nên nghỉ ngơi cho lại sức », anh chỉ cười xòa « Cán bộ kháng chiến ai chẳng có vài ba bệnh mãn tính, nghỉ cũng chẳng khỏi, làm việc nó quên đi ..».
Trung tá Vũ Huy Phúc biết rất rõ đặc tính người bạn cũ của mình. Từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến nay, Hồng Phước vẫn như thế. Lòng hăng hái với nhiệm vụ cách mạng của anh lúc nào cũng sôi nổi, trẻ trung, không biết mệt mỏi, chỉ khi nào bệnh tật làm anh không nhấc nổi cái đầu, mới chịu nằm một chỗ.
Mức độ ác liệt của cuộc chiến tranh phá hoại do giặc Mỹ gây ra ngày càng tăng. Các loại phương tiện của hải quân là một mục tiêu chúng tìm kiếm đánh phá. Để tránh thiệt hại, đoàn 125 phải phân tán tàu thuyền trên một vùng biển khá rộng. Giữa lúc gặp khó khăn trong nhiệm vụ vận tải, lại ở phân tán, khó tránh khỏi những diễn biến tư tưởng phức tạp, nếu thiếu sự lãnh đạo chặt chẽ. Thời gian này, các thủ trưởng của đoàn hầu như không có ngày nghỉ và chẳng mấy đêm được ngủ trọn 8 tiếng đồng hồ. Họ phải thay phiên nhau đi kiểm tra , giáo dục bộ đội.
Hôm ấy đoàn trưởng Hồng Phước đi kiểm tra công tác chuẩn bị của tàu 100, sẩm tối mới về. Anh không về phòng riêng mà đi thẳng tới sở chỉ huy.
Chính ủy Phúc và phó đoàn trưởng Huỳnh Công Đạo đang đứng trước bức hải đồ khổ lớn treo trên tường, trao đổi với nhau về tình hình đang diễn ra trong chuyến đi của tàu 69.
Thấy đoàn trưởng Phước đến, đồng chí Phúc nói :
- Anh về nghỉ đi, tôi với anh Đạo trực, có gì đặc biệt tôi sẽ gọi.
- Đêm nay khó có thể ngủ được. Về cũng thế thôi ! Anh em đã báo cáo gì chưa ?
- Có ! Hồi 8 giờ, máy bay địch vòng sát tàu ta hai vòng ở gần hòn Ngự.
Mắt đoàn trưởng đăm chiêu nhìn theo đầu cái que đang xê dịch trên hải đồ. Anh trầm ngâm :
- Tình hình ấy nhất định sẽ có tàu địch tới bám.
- Tôi đã nhắc anh em cảnh giác quan sát tàu khu trục.
Đoàn phó mắt vẫn không rời khỏi hải đồ, tưởng như anh nhìn thấy tàu 69 đang di động trên cái khoảng màu xanh lơ ấy.
Đoàn trưởng ngồi xuống chiếc ghế tựa, lấy thuốc hút, mắt anh đuổi theo làn khói mỏng manh bay lượn.
Tiếng chuông điện thoại trong phòng chỉ huy chốc chốc lại vang lên. Điện từ Bộ tư lệnh, từ Cục tác chiến hoặc từ phòng quân báo tới. Thông thường mỗi lần con tàu của đoàn 125 đi vào vùng trọng điểm, những người chỉ huy có liên quan tới việc vận tải biển ít ai được ngủ tròn giấc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng lo lắng và nhắc Cục phó Cục tác chiến Phan Hàm « Có tình huống cần, bấy kỳ lúc nào cũng có thể đến báo cho tôi biết ».
Đêm nay tàu 69 đang đi ngang quần đảo Hoàng Sa, cái rốn của các trận bão và cũng là nơi hạm đội 7 Mỹ thường rình mò. Từ đoạn đường này trở đi, ở sở chỉ huy đoàn 125 ai cũng có tâm trạng bồn chồn mong đợi, muốn biết thật nhiều tin tức diễn ra đối với con tàu của mình.
Nhưng hàng giờ và có khi hàng ngày họ mới nhận được một bức điện cộc lốc « Máy bay địch đang lượn trên đầu tôi », « Một khu trục hạm đang bám tôi » .. Không thể hỏi nhiều và càng không thể đàm thoại qua không gian một cách tùy tiện, vì như vậy có thể lộ bí mật và rối bận anh em. Đôi lúc thật khó xử. Giả sử khi xảy ra chiến đấu, anh em cần có sự chỉ huy (ở nhà) mà sở chỉ huy chỉ ném vào được lời khuyên chung chung « bình tĩnh xử trí » hoặc « cho quay trở về » .. rất có thể bức điện đó chưa kịp giải mã, thuyền trưởng đã phải hạ lệnh phá hủy con tàu rồi.
Trong sở chỉ huy, từ chập tối đến giờ đã gần nửa đêm mới nhận được một lần báo cáo của đội tàu 69. Bỗng có tiếng chuông điện thoại reo. Trợ lý tác chiến nghe điện xong, báo cáo :
- Hồi 21 giờ 35 phút, tàu khu trục địch đuổi theo tàu 69 ở tây nam Hoàng Sa.
Mọi người đều hướng về phía hải đồ như nhìn theo chiếc tàu địch đang đuổi tàu ta trên đó.
Một giờ sau lại nhận được bức điện của tàu 69 « Tàu chiến địch đang đuổi theo tôi. Máy bay địch đang vòng lượn xung quanh tôi ».
Đột nhiên có tiếng bom và tiếng súng cao xạ nổ rền phía Hạ Lý làm cho mọi người giật mình, và thoáng có sự lẫn lộn trong cảm nghĩ : tưởng như trận đánh đang diễn ra trên biển.
Sau đó nửa giờ, sở chỉ huy nhận được bức điện « Tôi bị máy bay, tàu chiến địch bao vây. Vĩ độ 15 độ 20, kinh độ 113 độ 50 ». Nghe xong bức điện, mọi người nhìn nhau lo lắng.
Tàu 69 đang bị địch bao vây ở ngoài khơi xa xôi ấy, có cách gì để cứu anh em. Hạ lệnh cho họ nổ súng, đã đúng lúc chưa ? Hạ lệnh cho anh em phải bình tĩnh khéo léo thoát vây. Thừa. Mọi người im lặng, bồn chồn và bất lực. Hồi lâu đoàn trưởng mới lên tiếng :
- Trên vùng biển quốc tế, nó không dám đánh, dù sao nó cũng còn phải dè dặt trong việc đụng chạm tới công pháp về hàng hải quốc tể. Đường biển quốc tể có nhiều tàu bè qua lại, nếu đánh lầm sẽ chấn động dư luận.
Mỗi người thêm ý kiến vào điều đoàn trưởng vừa mới nêu ra. Tuy chưa chỉ ra được cách giải quyết cụ thể, nhưng không khí trong sở chỉ huy đỡ căng hơn. Lát sau, đoàn trưởng nói với trợ lý tác chiến :
- Báo cho nó quay lại hướng Manila.

Bây giờ chúng ta hãy đi theo đội tàu 69.
Đội tàu 69 có 16 người, gồm 9 đảng viên, còn lại tất cả là đoàn viên. Hầu hết anh em đã dày dạn với sóng gió. Thợ máy Nguyễn Văn Bé, đảng viên, quê ở xã Biển Bạch, huyện An Biên, tỉnh Bạc Liêu, đã đi 12 chuyến. Nguyễn Hữu Phước, đảng viên, quê ở Vĩnh Hóa, huyện Hồng Dân, Bạc Liêu, đã đi 7 chuyến. Tăng Văn Huyền, chính trị biên, bí thư chi bộ, quê xã Tân Thánh Bình, huyện Mỏ Cày, Bến Tre, đã đi 6 chuyến. Thủy thủ Nguyễn Ngọc Kiểu, đảng viên, quê xã Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình, đi 6 chuyến. Nguyễn Tiến Hai, thuyền phó, quê xã Tịnh Hòa, huyện Sơn Tình, Quảng Ngãi, đi 5 chuyến. Phan Hải Hồ, báo vụ, đảng viên dự bị, quê ở xã Nam Vân, huyện Nam Trực , Nam Hà đã đi 3 chuyến .. Qua chất lượng của đội tàu 69, chúng ta có thể tin cậy anh em sẽ vượt qua được mọi thử thách khắc nghiệt.
.. Sau mấy ngày đường, tàu 69 đã đi ngang vùng quần đảo Hoàng Sa. Một chiếc máy bay bay rất thấp, nhìn rõ cả chữ « NAVY » sơn trắng dưới bụng. Nó vòng lượn nghiêng ngó mạn phải, mạn trái tàu 69 mấy vòng rồi bay đi. Máy bay vừa khuất sau những đám mây, thuyền phó Hai và Hải Hồ lại tiếp tục tâm tình, Hai hơn Hải Hồ sáu tuổi, nhưng đều là trai chưa vợ. Họ rất thân nhau, mỗi lúc rảnh rỗi là không dứt ra được. Hải Hồ mơ ước sau này hết chiến tranh sẽ tiếp tục theo chương trình đại học và làm nghề viết văn. Hai hy vọng sẽ viết được những chuyện hay mà đời lình hải quân mình đã trải qua.
Hải Hồ hỏi Hai :
- Anh có yêu thơ không ?
- Rất yêu, và say mê là đằng khác. Đôi khi tâm hồn trống trải, thơ là một thứ bù đắp lành mạnh.
- Và yêu biển nữa chứ ?
- Tất nhiên. Vì biển đã cho mình cái mênh mông lãng mạn của tâm hồn, biển cũng nói những điều sâu kín như thơ ấy. Không phải là mơ mộng mà biển đã cho chúng ta nhiều thứ và sẽ còn cho chúng ta. Theo tin tức khoa học thế giới, ở thềm lục địa vùng biển của ta là vùng trũng của dầu mỏ. Có dầu mỏ, chúng ta sẽ có nhiều thứ : ê-ti-len, a-mô-ni-ăc, pô-li-ê-ti-len , VPC , các hợp chất dầu thơm .. đều từ dầu mỏ mà ra. Thu nhập cá biển hàng năm cũng rất lớn. Nước ta có hàng nghìn cây số bờ biển, việc phát triển nghề đánh cá rất thuận lợi. Nếu nước Nhật, 50% nhu cầu đạm động vật đã được cung cấp cho đời sống là nhờ các sản phẩm của biển thì sau này đất nước ta thống nhất, chúng ta cũng có thể làm như vậy.
Thiên nhiên của đại dương cho ta cảm xúc về vẻ đẹp của đất nước, tài nguyên của nó đưa đến cho ta sự giàu có và niềm yêu biển sâu sắc. Có phải thế không ?
- Có lý. Kể từ ngày xa xưa, ông cha ta đã daỵ cho con cháu yêu rừng, yêu biển. Câu chuyện cổ tích rừng vàng, biển bạc, chẳng đã nói điều đó ư !
Hải Hồ vừa ngắm những làn sóng đều đều đang xô đuôi nhau vừa kể câu chuyện cổ tích :
- Ngày xưa, sau một trận lụt lớn, người chết hết, chỉ còn lại một người con trai và một người con gái giạt lên núi. Trời cho phép hai người lấy nhau và đẻ ra một đàn con. Vùng núi dần dần trở nên chật chội. Trời thưởng cho hai kho vàng. Một kho ở rừng , một kho ở biển. Bố mẹ cho người anh cả (là người Kinh bây giờ) xuống núi. Người Kinh dần dần biết đánh cá, lấy nước biển khơi làm muối .. Tài nguyên của biển, các cụ ta xưa khai thác còn ít ỏi. Thế hệ của chúng ta, biết kho vàng của biển lớn gấp ngàn lần. Tôi cũng nghĩ như anh, biển đáng yêu và chúng ta đã yêu biển không chỉ vì cáu màu sắc huyền ảo của nó. Thú thật với anh lắm khi đi biển gặp lúc nó nổi khùng lên cũng ớn nhưng xa nó ít ngày lại nhớ.
Hải Hồ ngâm nga :
Nếu anh không được về với biển
Thì khác nào máu chẳng chảy về tim
Nếu anh phải sống xa cách biển
Khác náo phải sống xa em.


Nghe được chứ anh Hai !
- Được đấy. Nhưng mình muốn có những bài thơ nói về những con tàu của chúng ta, mà người đọc ở bất kỳ nơi nào đó cũng hình dung ra được sóng đang gầm thét muốn nuốt phăng con tàu, hoặc lúc con tàu đang lặng lẽ đi trên biển đầy thơ mộng như bây giờ đây, tâm hồn thủy thủ chúng ta thảnh thơi có thể nô đùa với cá heo ngay sau khi máy bay Mỹ nhòm ngó. Nghĩa là đừng thi vị hóa biển là cái gì mênh mông mơ hồ mà phải gợi được tình cảm người đọc yêu mến người bảo vệ biển, người khai thác biển và yêu cái gì biển đã làm lợi ích cho con người.
Hải Hồ chỉ tay về phía mặt trời đang lặn :
- Anh lý trí nhiều quá. Anh bảo hình ảnh kia không nên thơ à. Thiên nhiên trên biển thật tuyệt vời. Giá có một thứ hóa chất gì cực mạnh, rải một dúm xuống làm cho tuyến đường ta vừa qua đông cứng lại, giữ được cả hình ảnh mặt trời kia nữa trên biển, để sau này mọi người có thể xem con « đường mòn trên biển » đẹp như thế nào.
- Cậu lãng mạn quá đấy !
Hai người cùng cười và ngắm cảnh hoàng hôn trên biển.
Mặt trời như một quả cầu màu lửa đang rơi từ từ xuống sát mép nước. Ánh sáng dịu dần. Những ai chưa đi khơi xa khó có thể tưởng tượng ra được thứ ánh sáng huyền diệu ấy. Màu sắc của trời, của biển lúc này thay đổi từng giây. Đám mây xung quanh mặt trời lung linh như dát vàng, đang bị màu mây ánh bạc bên ngoài choán dần. Nhìn gần, biển giống tấm sa tanh khổng lồ từ màu tím xẫm chuyển sang màu đen mịn màng, càng xa, màu sắc càng kỳ lạ. Từ mặt trời đến mắt người nối liền một vệt sóng lấp loáng như khảm bằng sà cừ. Vệt sáng đó cứ thu nhỉ dần và bỗng nhiên đứt quãng.
Hải Hồ reo lên :
- Thấy không anh Hai ! Kỳ lạ chưa, giây phút tận cùng của muôn màu sắc.
Từ ban nãy, thuyền trưởng Phước vẫn lắng nghe câu chuyện của đôi bạn trẻ ; khi vọng gác cuối tàu báo cáo « có vệt khói phía sau 30 độ góc mạn phải ! » , lúc này anh mới tham gia câu nói vui :
- Có cả điểm khói ở nơi tận cúng phía sau ta nữa.
Hai và Hồ nhìn về phía sau tàu. Từ vệt khói đó đã nhô lên sát gờ cong của chân trời một ánh đèn đỏ.
Hải Hồ cười nói với thuyền trưởng :
- Anh xem, thằng Mỹ là thằng kém văn hóa nhất thế giới, nó phá phách mọi cái đẹp trên đời này. Đến một chút xíu hạnh phúc thiên nhiên ban cho chúng mình nó cũng nhảy xổ vào phá rối.

Trời đêm. Biển như thu hẹp lại, nhưng trong cảm giác của thủy thủ tàu 69, chiều rộng của biển trở thành vô hạn. Có giây phút nào đó, tưởng như trên thế gian chỉ còn lại chiếc tàu cỏn con này với cái chấm sáng đỏ ngầu quỷ quái kia.

Thuyền trưởng cho chuyển góc lái 30 độ. Vài chục phút sau lại thấy « con quỷ mắt đỏ » ấy vẫn đi theo với góc mạn như cũ. Rõ ràng tàu chiến Mỹ rồi. Không chờ lệnh, anh em thủy thủ đã vào vị trí chiến đấu. Bỗng nhiên từ cái chấm sáng đỏ, bùng lên hàng trăm ngọn đèn, giống như căn nhà ba tầng lầu nổi trên biển vừa bật điện. Ái chà « sói đội lốt cừu ». Thằng Mỹ xảo quyệt này giả đò thắp đèn như tàu buôn. Làm sao mày giấu được tốc độ đang chạy và những khẩu pháo, những cột rada lởm chởm như răng cá sấu kia.

Khoảng cách của chiếc tuần dương hạm CLG Mỹ với tàu 69 rút ngắn dần. Năm hải lý, ba hải lý rồi đi song song cách nhau hơn một hải lý. Thân hình đồ sộ của tuần dương hạm địch gấp hơn trăm lần tàu 69. Nó tạo ra một luồng sóng làm cho tàu 69 lắc lư mạnh.

Tày Mỹ vượt lên và đi vào tuyến đường tàu 69 đang đi. Nó vờ vịt đi thẳng như chẳng có chuyện gì xảy ra. Thuyền trưởng cho tàu mình trở lại hướng cũ, đi chừng hơn nửa giờ không còn thấy ánh sáng trên tàu địch.

Anh em trở lại sinh hoạt bình thường. Hải Hồ vào buồng lái, thấy thuyền phó Hai đang ghi nhật ký hành trình. Anh đứng im lặng nhìn bạn làm việc. Ánh đèn công tác hắt lên khuôn mặt hơi dài xương xương của Hai, trông anh già hơn tuổi, không còn vẻ trẻ trai như hồi chiều. Viết xong vài dòng nhật ký, Hai quăng bút chì xuống bàn rồi xoay người về phía Hải Hồ. Hai cười nói :

- Thế nào, nhà văn có ghi lại được gì trận chiến đấu không nổ súng sáng vừa qua không ? Có thấy căng không ?

- Khi cái gì mình đã đoán biết trước chắc chắn nó sẽ xảy ra như thế, thì khi xảy ra cũng chẳng có gì nặng nề lắm. Chúng ta đã nói với nhau nhiều lần : nếu cần, sẵn sàng lấy biển khơi làm nấm mồ, nhưng không bao giờ bỏ nhiệm vụ chi viện cho miền Nam. Trên biển, thằng Mỹ khiêu khích căng nhất đến mức dùng súng chọi nhau là cùng. Mà thực ra khi nổ súng cũng không dễ gì đưa nhau xuống mồ.

- Chúng ta đang đi trên đường hàng hải quốc tế, nó có gây gổ ..

Trên đài chỉ huy báo « có máy bay », Hai dừng câu nói nửa chừng. Hải Hồ bước ra cửa, bám vào hàng lan can, nhìn lên trời. Ánh sáng đỏ từ trên máy bay giội xuống làm cho cả con tàu, mặt biển thành một màu thẫm dữ dội.

Thuyền trưởng Phước nói với chính trị viên Huyền :

- Thằng tuần dương bị mất mục tiêu, thằng máy bay đến phát tín hiệu chỉ điểm, thế nào thằng tuần dương cũng quay lại bám mình.

Phước xuống mặt khoang kiểm tra công tác trực canh ở các vị trí. Vừa bước đến mặt khoang đã nghe phía mạn có tiếng báo cáo « Có đèn tàu ». Qua ánh đèn, Phước đoán tốc độ của tàu kia khoảng 15 hải lý/giờ. Chỉ thằng tuần dương mới có tốc độ ấy. Anh hạ lệnh báo động.

Chuông đổ hồi đứt quãng dồn dập trong khoang máy và buồng ngủ. Mấy thủy thủ đang dở giấc, cáu tiết vừa chửi Giôn-xơn vừa vào vị trí sẵn sàng chiến đấu.

Lần này tàu chiến Mỹ không giấu mặt, các nòng pháo để trần hướng cả về tàu 69. Đúng bộ mặt của tên cướp biển. Nó hùng hổ chạy vòng quanh tàu 69. Một chiếc tàu khác đón đầu tàu 69 ở góc mạn 25 độ. Máy bay lại bay tới vòng lượn trên đầu. Chúng muốn nuốt và thừa sức nuốt chửng chiếc tàu vận tải cỏn con này, nhưng tại sao chúng chỉ nhe nanh múa vuốt. Nó kèm ta tới gần bờ mới hành động chăng. Các cán bộ thuyền đang trao đổi cách xử trí thì nhận được điện của sở chỉ huy « Quay lại hướng Manila ».

Chờ chiếc tàu địch vòng ra xa, thuyền trưởng Phước cho tàu mình ngoặt về phía sau.

Mấy chiếc tàu địch đi tiếp hướng cũ, chúng không ngờ tàu ta đã chuyển hướng.

Ánh đèn trên những chiếc tàu tuần dương chìm dần vào bóng đêm.



Đã qua 7 ngày đêm trên biển. Hầu như ngày đêm nào cũng có vài lần tàu chiến, máy bay địch do thám.

Sớm nay vừa bảnh mắt ra đã thấy một ngọn khói trắng từ mép nước bay lên, tàu 69 vẫn tiếp tục đi về phía HongKong. Anh em ta ai làm việc nấy, người lái tàu, người nấu cơm, số đông còn lại làm vệ sinh trên mặt boong và phơi lưới, giống như một chiếc tàu đánh cá đang trên đường về.

Thủy thủ trưởng Dĩ lôi ở đám giẻ lau một cái áo va-rơi màu vàng, khoác lên người và chụp lên đầu cái mũ phớt « phở » chùm gáy, râu ria xồm xoàm với bộ quần aó loang lổ dầu mỡ .. Cứ nhìn nhau « đóng kịch » trên mặt boong lúc này cũng tức cười.

Vừa làm việc, Bé « lùn » vừa kể đủ mọi thứ chuyện « cổ tích » của đơn vị . Nào chuyện ông Nguyên già, thuyền trưởng bậc thầy về hàng hải của đoàn, một chuyến đi vào cái bến X hiểm hóc quá, tàu mắc cạn, đã phải phá tàu. Sau chuyến đi căng thẳng đó, ông đã bị đứt mạch máu não, được chữa chạy thoát chết, nhưng liệt một chân, phải bỏ nghề .

Khi Bé nói đến ông già Sang, thợ máy chuyên « ăn cắp » phụ tùng. Mấy cậu thủy thủ trẻ đứng thộn ra nghe, Bé « lùn » quát :

- Nói chuyện vui để bọn bay làm, chứ đứng như phỗng thế ư ?

Mọi người cười ồ lên và Bé lại tiếp tục kể :

- Ở đơn vị này mấy anh giữ kho sợ nhất ông Ba Sang. Ông ấy vào kho lĩnh phụ tùng máy thì thế nào cũng kèo nèo thứ này thứ kia ; thủ kho không phát ông cũng nhặt cho vào túi. Một lần thuyền trưởng Ba « râu » nói đùa ông già trước mặt thủ kho : « Anh Quang chú ý, khi anh Ba đã mặc áo mưa đi vào kho là phải coi chừng ». Ông Ba Sang xạc cho thuyền trưởng Ba « râu » một chặp : « Tao ăn cắp đấy, nhưng tao có mang về cho vợ con tao đâu. Tàu về cảng còn có kỹ thuật đến sửa, ra giữa biển nếu máy hỏng mà thiếu một cái ốc thôi mày bảo tao lấy ở đâu ». Ông già có máy mê nghề nghiệp lạ lùng. Đi dọc đường phố thấy một cái bu-lông hoặc một đoạn ống nước cũng nhặt tuốt. Trong hòm phụ tùng của ông thôi thì đủ thứ tầm tầm, rắc-co, đệm máy, muống phun cũ .. Mấy thằng thợ máy trẻ khôn lỏi lúc nào thiếu phụ tùng là mời chú Ba sang uống trà rồi nịnh chú chú cháu cháu. Uống trà xong, chú Ba đổ hòm phụ tùng ra, bới tìm bằng được thứ nó đang thiếu. Và có khi nó còn lôi chú Ba xuống tàu sửa giúp nó cả buổi,

Mấy thằng tinh ma hay trêu chọc ông Ba. Biết tính ông Ba thích ăn cua biển. Một lần tàu vào bến, cậu Sinh «đen » bàn với cậu Phú đem luộc một con cua, mang giấu vào một cái hang gần chỗ tàu đậu. Phú ra gọi chú Ba về ăn cơm. Ông Ba hỏi « Hôm nay chúng bay có bắt được cua không ? ». Phú trả lời « Chú xem nước trong thế kia làm gì có cua ». Phú cố ý làm cho ông ba nhìn thấy cái hang cua (đã giấu con cua luộc trong đó).

Ông Ba trợn mắt nói « Chúng bay là đồ lười, cua ngay ở đây chứ có phải đi đâu xa ..». Ông già vừa xắn quần lội vừa nói « Cả lũ lười .. dấu chân cua còn mới thế này, không cua là cái gì đây ». Ông móc ở trong hang ra một con cua đã luộc, màu đỏ gạch. Biết bọn trẻ chơi khăm, ông vứt con cua xuống nước rồi chửi tục một câu. Cậu Phú chạy về , reo to « Chú Ba vừa bắt được con cua luộc anh em ơi ». Thế là một trận cười được nổ ra.

Khi cái ngọn khói « ma quái » ở sát mép nước biến mất, thuyền trưởng sà tới chỗ anh em định tán chuyện bù khú một chút. Nhưng anh lại đứng im lặng, để nhận thức một điều mới đến với mình. Với lớp thuỷ thủ trẻ, có lần anh đã nhận xét « đi với họ sẽ không có cơm mà ăn ». Đến bây giờ anh đã sống với họ qua mấy ngày thử thách, anh tự nhủ « Mình lầm. Họ là lớp người tuyệt diệu. Phải đánh giá như vậy mới công bằng ». Mấy hôm sóng gió, Hoàng Thanh Loan nôn ra máu, tự lấy dây buộc chặt vào ghế lái để hoàn thành nhiệm vụ. Phan Hải Hồ không vắng mặt trong bất cứ việc nặng nhọc nào. Hồ Quanh Phụng, Lưu Kim Nhật, Bá Châu Báu, Cao Sĩ Thập, Lê Xuân Khảm .. mỗi người một vẻ. Họ hăng hái, bình thản bước vào những thử thách khắc nghiệt, như người ta nhón chân bước vào dạ hội.

Thấy thuyền trưởng đến, một thủy thủ hỏi :

- Ta đang đi ở đoạn nào đó anh ?

- Đang tới gần Manila, nếu nó còn bám, ta sẽ đi về phía Hong Kong.







Ngày thứ tám trên biển. Mưa dăng đầy trời. Mặt biển sa sầm giận dữ. Những cơn sóng màu đen đang khum tấm lưng mềm mại đùa giỡn tàu 69. Chiếc máy bay của hải quân Mỹ và tuần dương hạm Mỹ vẫn không bỏ cuộc. Thỉnh thoảng chúng lại tới « kiểm tra » cái mục tiêu đã mất công bám mấy hôm nay.

Phó thuyền trưởng Hai làm công việc đo đạc và tính toán thiên văn, dở quyển nhật ký hành trình ra xem. Mới đi vài ngày mà đã ghi đầy gần bốn trang. Những nội dung lặp đi lặp lại như làn sóng đều, lướt qua mắt anh :

- 21 giờ 23-6-1966, một tàu địch kèm man trái rất lâu. Ta chuyển hướng 69 độ, nó chuyển theo. Mất hút vài giờ lại thấy nó xuất hiện.

- 7 giờ 30 phút, sáng 27-3, hai máy bay vòng rất thấp quanh tàu . Vừa bay vừa chớp đèn đỏ.

- 22 giờ 27-3, một tàu cách ta hai hải lý, lúc lên đèn lúc không. 2 giờ 30 ngày 28-3, nó chuyển sang mạn trái.

- ..

Hai bỏ quyển nhật ký vào ngăn kéo rồi lên đài chỉ huy. Thấy Hai tới, Phước hỏi :

- Nếu như tính toán của chúng ta đúng thì khoảng một giờ nữa sẽ tới mũi Thuận Xuyên.

Đôi mắt to tinh lợi của Hai thoáng đượm nỗi buồn .

- Kiểu này có khi phải quay về. Đi nữa cũng không vượt qua được mặt nó. Nó phát hiện ta rồi. Anh xem, hàng ba bốn giờ ta không thấy địch rồi bỗng chốc lại thấy nó bám đằng sau. Nó đã bám ta bằng rada, vì vậy khi thằng tàu chiến bị mất hút mục tiêu thì lập tức có máy bay đến.

- Phải đưa « cái bà bụng mang dạ chửa » này về thì ngán không để đâu cho hết.

Phước xem đồng hồ rồi gọi Khảm lên đài chỉ huy. Khảm nhanh nhẹn tới đứng cạnh thuyền trưởng Phước và hỏi :

- Anh bảo gì ?

- Cậu qua lại đường này nhiều, xem đây thuộc khu vực nào.

Nhìn vùng biển trước mặt đen sẫm, phía tây nổi lên một quầng sáng như lúc mặt trời sắp mọc và phía đông có khoảng sáng rộng hơn, Khảm nói :

- Chỗ sáng nhiều kia là Hong Kong, nếu mình cứ đi thẳng thì có thể tới đẩt Quảng Châu.

Tàu chạy tốc độ chậm, anh em thủy thủ đo độ sâu và liên tiếp báo cáo « 35 mét .. 30 mét, 20 mét, 15 mét ».

Thuyền trưởng hạ lệnh :

- Thả neo.

Tàu 69 dừng lại nghỉ một ngày cạnh hoang đảo ngang Thuận Xuyên (Trung Quốc) để tránh địch và né cơn bão.

Hai ngày sau lại tiến về phía Biển Đông, sóng gió vẫn chưa ngớt và địch lại bám. Chi bộ họp bàn « đi hay về ? ». Tâm trạng anh em đều không muốn có cuộc hành quân chữ O ( Hành quân chữ O hoặc chiến thuật chữ O có nghĩa là mang hàng đi lại mang hàng về , hoặc chiến đấu phá tàu rồi hành quân bộ trở về), nhưng thấy khả năng không thể lọt qua hàng rào của địch được, đành phải ra nghị quyết : Quay về.



2​



Tàu 69 đã trở về đến vịnh Hạ Long. Như thường lệ, tàu vừa neo đậu vài giờ, đã có đoàn cán bộ cấp trên đến thăm hỏi, kiểm tra, và hậu cần cũng tới tiếp thêm nước ngọt và nhu yếu phẩm. Chẳng cần nói, anh em cũng ý thức rằng táu của mình chuẩn bị đi tiếp chuyến đi bỏ dở. Độ này không riêng gì đội tàu 69 mà toàn đoàn 125 đã có nhiều tàu hành quân chữ O, thậm chí có tàu vào gần bến gặp địch đã chiến đấu dũng cảm rồi tự phá hủy tàu và hành quân bộ trở về.
Sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Hải quân, đảng bộ đoàn 125 và cả những tội ác man rợ của đế quốc Mỹ hàng ngày, hàng giờ dạy anh em lựa chọn cái sống, cái chết thế nào cho xứng đáng. Giải phóng miền Nam và chiến thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ từ lâu đã trở thành nguyện vọng thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam yêu nước ; đối với anh em đoàn 125, nguyện vọng đó đã trở thành hành động để đạt tới. Giờ đây trước mặt họ biết bao nhiêu khó khăn, nguy hiểm, và cái chết luôn vươn tay ra đón chờ ; nhưng họ sẵn sàng lựa chọn cái chết để cuộc sống mai sau đâm chồi nảy lộc. Khó khăn, nguy hiểm gấp năm, gấp mười lần trước đây thì tinh thần kiên trì, dũng cảm của họ được trau giôig sâu sắc gấp mười gấp trăm lần làm cho kẻ thù kinh ngạc : « Việt cộng chuyên chở vũ khí bằng đường biển là mạo hiểm, cuồng tín, không hiểu nổi ». ( Một đại tá phó đô đốc hải quân ngụy viết trong Tập san quốc phòng ngụy số 18) Thiết tưởng chúng ta không cần phải giải thích thêm điều đó.
.. Các cán bộ thuyền được mời về họp ở sở chỉ huy đoàn.
Sở chỉ huy ở hang Vua thuộc huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), nơi theo truyền thuyết, khi chỉ huy trận đánh phục kích tiêu diệt cánh quân Ô mã nhi trên sông Bạch Đằng (3-1288), Trần Hưng Đạo đã dừng lại nơi đây.
Thuyền trưởng Phước , chính trị viên Huyền vừa bước tới cầu thang đã thấy đồng chí chính ủy đoàn 125 ra đón. Đồng chí chính ủy đoàn thân thiết bắt tay từng người :
- Anh em ta khỏe mạnh cả chứ ! Cánh mình ở nhà trông các cậu từng giờ, từng phút. Biết trước sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng nhiều lúc vẫn không khỏi hồi hộp, lo lắng.
Thấy thuyền trưởng Phước có vẻ tò mò nhìn chiếc án thư và bia đá bên cạnh lối đi, chính ủy chỉ tay vào tấm bia giới thiệu :
- Các ông có biết di tích gì đây không. Cái bia và án thư bằng đá này do nhân dân địa phương dựng lên rất lâu rồi, để tưởng nhớ tới công lao Trần Hưng Đạo. Nghe nói ngài đã ở trên hang kia. Vì vậy mới gọi là hang Vua.
Tiện dịp nhắc nhở truyền thống, chính ủy nói vui :
- Ngày xưa ông cha mình đã từng đánh tan thủy quân của giặc Nguyên, một đội quân xâm lược mạnh nhất thời kỳ ấy. Mang truyền thống ông cha, chẳng lẽ chúng ta không chọc thủng được sự phong tỏa của hải quân Mỹ ư ?
Cuộc họp đã đông đủ, chỉ còn chờ cán bộ thuyền 69 tới. Tư lệnh Hải quân, thủ trưởng đoàn 125, một số cán bộ tham mưu thuộc cục tác chiến và phòng tham mưu hải quân đã ngồi xung quanh chiếc bàn khá rộng trong hang Vua. Mọi người đang sôi nổi chuyện trò về thời cuộc thì cán bộ tàu 69 đến, tất cả đều ra khỏi chỗ ngồi bắt tay vồn vã như đón khách quý.
Trung tá Hồng Phước, giới thiệu thành phần và nội dung cuộc họp , rồi giới thiệu thuyền trưởng Phước báo cáo chuyến đi.
Thuyền trưởng Phước vừa nói vừa cầm que chỉ các vị trí trên hải đồ vùng biển Đông Nam Á treo ở vách sát đầu bàn họp.
Câu chuyện sinh động về chuyến đi của Phước kể có sức hấp dẫn các cử tọa, mỗi lúc nói đến địc bám ai cũng tỏ thái độ lo lắng như chính mình đang ở trong tình huống ấy.
Sau báo cáo của thuyền trưởng 69, đoàn trưởng Hồng Phước nêu tóm tắt những đánh giá về ta, về địch. Cán bộ có mặt trong cuộc họp sôi nổi đống góp ý kiến. Đồng chí Nguyễn Bá Phát chăm chú lắng nghe ý kiến của hội nghị. Thỉnh thoảng lại ghi chép một vài điều vào sổ tay của mình. Gần tới giờ kết thúc cuộc họp, đồng chí đứng lên phát biểu :
- Những chuyến đi vừa qua, kể cả đội 69, cho chúng ta thấy rõ, địch không những theo dõi ta ở ven bờ mà còn theo dõi ta từ ngoài khơi xa. Trên đường biển quốc tế, nhiều tàu bè nước ngoài đi lại, nhưng cũng có hành động hăm dọa, dò xét, để từ đó tìm ra và phân loại tàu nào là của ta. Ví dụ : vừa qua có hai tàu của Liên Xô và một tàu của Ba Lan chở hàng vào Hải Phòng. Chiếc thứ nhất của Liên Xô, chúng cho máy bay tới đánh tín hiệu hỏi « Chở gì ? ». Trả lời « Chở sữa », nó cứ bám theo hỏi mãi « Còn chở gì nữa ? ». Chiếc thứ hai của Liên Xô chúng cũng hỏi « Chở gì ? », các đồng chí Liên Xô trả lời « Cút đi, không có quyền hỏi », và nó phải cút. Gặp tàu Ba Lan nó hỏi « Đi đâu », anh em trả lời « Đi Việt Nam dân chủ cộng hòa » nó theo một đoạn rồi bỏ.
Chúng ta đi hợp pháp trên đường biển quốc tế, chúng ta phải triệt để khai thác tính chất hợp pháp ấy. Có thể nghiên cứu trả lời câu hỏi của nó một cách hợp lý. Cách xử trí chuyến vừa qua còn chưa thích hợp. Hướng tàu ta đang đi về vịnh Thái Lan, gặp chúng tự nhiên ta quay về phía Manila, như vậy chỉ làm cho chúng tăng thêm nghi ngờ..
Sau 10 ngày nghỉ ngơi và lấy thêm dầu mỡ, nước ngọt, thực phẩm. cải dạng tàu, ngày 15-4-1966, đội tàu 69 lại lên đường.
Tàu 69 vẫn đi thep đường cũ. Biển êm. Tàu buôn qua lại nhiều. Có vài lần tàu chiến, máy bay Mỹ tới thăm dò.
Chuyến đi này có kinh nghiệm hơn, từ việc ngụy trang tàu đến động tác xử trí gặp địch không để lộ tung tích mình.
Đã đến điểm chuyển hướng, báo vụ Diệp Minh Hiếu nhận lệnh lên máy. Lần này Hiếu không say sóng và không có lúc nào phải buộc mình vào ghế khi làm việc ; anh cảm thấy sảng khoái khi đặt ngón tay lên ma níp. Tiếng tích tích ..tà vang bên tai ấm áp, nhẹ nhõm, tưởng như Hải Phòng với tàu mình không có khoảng cách hàng ngàn hải lý mà gần gũi đâu đây.
Hiếu đọc bức điện cho chính trị viên Huyền nghe :
- Đèn Hòn Khoai còn sáng. Chú ý : ban đêm thường có máy bay đi tuần tiễu , tàu chiến địch thả trôi trước bến, cách bờ năm đến mười hải lý. Tìm cách tránh. Vào bến Bồ Đề tốt hơn.
Huyền thì thầm nhắc lại bức điện :
- Tàu chiến thả trôi .. vào bến Bồ Đề tốt hơn.
Hiếu tưởng chính trị viên hỏi gì mình, ngoảnh lại đã thấy Huyền bước ra khỏi phòng.
Trời trong xanh không có một gợn mây. Vào lúc này, người mới đi biển thường có nhiều cảm xúc, như muốn gieo vài vần thơ về cái mênh mông xao xuyến của bầu trời và mặt biển bao la. Trái lại các thủy thủ tàu 69 chỉ mong mưa lớn, hoặc đám sa mù nào đó bay tới che kín con tàu của mình. Nhưng thiên nhiên vô tri chẳng đáp lại chút nào những điều ao ước. Triệu triệu những vì sao vẫn tỏa ánh sáng lạnh lùng như cố tình làm cho con taù trắng toát trần trụi phơi mình trên mặt biển tím thẫm.
Thuyền phó Hai ít có thì giờ suy nghĩ vào việc khác, ngoài việc tính toán hàng hải. Một câu hỏi luôn đến với anh « Liệu có sai lệch gì không ? ». Từ tối đến giờ đã ba bốn lần anh cung cấp cho thuyền trưởng biết điểm dừng của con tàu, nhưng anh vẫn chưa yên tâm. Bây giờ là một giờ sáng rồi, nếu đi đúng đường thì phải bắt được đèn Hòn Khoai, tại sao vẫn mù mịt tăm hơi. Từ đây vào bờ là khu vực địch kiểm soát gắt gao, loay hoay ở đây vài giờ nữa thì khó thoát khỏi nguy hiểm. Quay ra chăng ?
Các cán bộ thuyền cũng một tâm trạng như Hai. Chính trị viên Huyền đã tới từng vị trí chiến đấu của anh em thủy thủ để tham khảo ý kiến. Anh em nhất trí vào. Không dễ gì có thời cơ yên ổn lọt vào tới đây. Trở ra bây giờ cũng muộn, vả lại ra rồi lại lênh đênh vài ngày đêm nữa liệu có vào nổi không ? Nhưng có ý kiến ngược lại : chưa bắt được đèn Hòn Khoai, thì lấy gì làm căn cứ tàu mình đi đúng tuyến đường. Cứ lao bừa vào bờ, chỉ làm mồi ngon cho chúng .. Cán bộ thuyền vẫn chưa tìm cách gì giải quyết thỏa đáng. Giá như không có bức điện ở nhà báo đèn Hòn Khoai còn sáng lại đi một lẽ (thực ra hải đăng Hòn Khoai đã tắt hơn nửa tháng rồi, anh em bến không biết vẫn báo cáo ra Bộ nó còn sáng).
Con tàu vẫn chạy theo hướng đã tính toán. Hai lên đài chỉ huy, cầm ống nhòm nhìn phía trước. Một hòn núi lọt vào ống kính, lúc đầu mờ như ảo ảnh, rồi rõ dần.
- Có núi anh Phước ơi !
- Cậu nhìn kỹ xem núi nào ?
- Chưa rõ lắm. Chẳng lẽ Hòn Khoai .. sao không có đèn ?
- Đi đo nước xem.
Vài phút sau, Dĩ báo cóa độ sâu 37 mét. Cán bộ thuyền bàn bạc và đi tới khẳng định : đây là vùng biển Cà Mau. Nhưng cái tin đèn Hòn Khoai còn sáng ám ảnh, làm cho họ nghi ngờ ở kỹ thuật hàng hải của mình.
Thấy thời gian gấp quá, rồi họ liều lĩnh xử trí : cứ vào tới bờ đã rồi tính sau. Nếu không tìm thấy bến, sẽ tạm giấu tàu, đêm hôm sau đi tiếp.
Tàu 69 đi gần tới bờ. Các loại ánh đèn đánh cá dăng thành hàng dài như một thành phố nổi, khó có thể phân biệt được đâu là ánh sáng của tàu địch len vào đó. Tàu 69 tìm cách né tránh khu vực có ánh đèn. Các thủy thủ vẫn trực sẵn ở vị trí chiến đấu, căng mắt nhìn phía trước.
« Bờ kia rồi ». Tiếng của ai làm cho mọi người vui mừng nhìn về phía bờ. Rõ ràng rừng đước kia rồi. Cả hình dạng lồi lõm như răng cưa và mùi vị nồng nồng hăng hăng của nó đều rõ ràng. Nhưng điều quan trọng đây là chỗ nào thì không ai xác định được.
Tàu chạy chậm lại. Thuyền trưởng Phước phát đèn tín hiệu vào bờ. Không có ánh sáng nhỏ nào phía bờ đáp lại.
Phía ngoài biển có một chiếc tàu dạng cao tốc của địch đang chạy. Các cán bộ thuyền 69 hội ý xử trí khẩn cấp. Nếu tìm được cửa lạch nào cũng phải lao vào tìm chỗ giấu tàu, luẩn quẩn ở đây khó tránh khỏi bị địch phát hiện. Thuyền trưởng đánh điện về sở chỉ huy : báo cáo bến đêm mai tiếp tục đón ( Điện của tàu chỉ liên lạc được với sở chỉ huy, không chung mạng với bến ).
Tàu 69 chạy vào sau hàng đáy. Những người dân làm đáy, thấy tàu lạ đến gần, họ hoảng hốt, kéo máy cho xuồng chạy. Còn lại một xuồng máy, người đàn ông mải miết giật máy, người đàn bà hoảng sợ nhảy xuống nước hai tay vẫn bám vào mạn xuồng để trốn tránh.
Thuyền trưởng Phước hỏi :
- Ông làm ơn chỉ bảo, đây gần cửa vàm nào ?
Người dân đánh cá nói :
- Tôi từ xa tới làm ăn ở đây .. không biết.
- Chúng tôi đang đánh cá bị tàu nhà binh đuổi. Tên địa phương chỗ này là gì, ông chỉ giúp tôi xin hậu tạ.
Người dân cố ý trì hoãn, vừa kể dài dòng vừa giật máy đẩy. Máy vừa nổ, người phụ nữ nhanh như cắt vọt lên ngồi trên xuồng và chiếc xuồng lao như bay. Xuồng chạy một đoạn, tiếng người đàn ông vang lại một câu chửi tục « Con bà chúng mày, đây là Cà Mau hiểu chưa ? »
Tàu 69 chạy theo hút chiếc xuồng vừa ngoặt vào một cửa rạch nhỏ. Những cành cây vướng vào tàu, gãy « rốp rốp ». Có tiếng súng trường bắn đuổi theo tàu.
Dĩ hô to :
- K.44 của du kích. Nằm xuống.
Nghe tiếng nổ của K.44, anh em vừa mừng vừa lo.
- Đừng bắn nữa, tàu của chúng tôi làm ăn lương thiện.
- Dẫn chúng tôi vào, chúng tôi xin biếu 500 đồng.
« Pằng, pằng, pằng »..
Tiếng súng ngưng nổ. Hai đứng lên thương lượng :
- Chúng tôi sẽ cho hai người vào làm tin, các anh cử một người ra tàu chúng tôi.
Một anh du kích đứng ở công sự gần đó ngờ là tàu của mình ở miền Bắc vào, anh hỏi :
- Chúng tôi hỏi thiệt, có phải tàu các anh ở ngoài kia dô... cứ nói thẳng tôi sẽ dẫn đường.
Nghe thuyền phó nói cử người vào, Dĩ làm ngay. Anh vừa bơi đến bờ, một chiến sĩ du kích hô :
- Giơ tay lên.
- Người ta đã đến đây rồi còn giơ tay, giơ chân gì nữa cha nội. Cho người dẫn nhanh lên, không sáng rồi.
Con tàu tiến thêm một đoạn nữa thì mắc cạn « Thế là hỏng hết rồi ». Thuyền trưởng nóng nảy, gắt om sòm. Tưởng như chỉ còn một cách là : phá tàu. Anh em khuyên giải còn nước còn tát, thuyền trưởng mới trở lại bình tĩnh.
Tàu lui lại, thoát khỏi bãi cạn.
Trời đã sáng rõ. Nhân dân ở hai bên rạch thấy con tàu lạ họ la lối rồi bồng con bế cái chạy trốn. Mấy anh du kích phải dùng loa gọi « Dừng lại, tàu của ta », mọi người dừng lại ngơ ngác chưa hiểu đầu đuôi ra sao.
Con tàu tiếp tục chạy rồi rẽ vào một cái rạch nhỏ hơn, nó vừa rướn được quá nửa thân tàu vào thì bị mắc cạn. Chân vịt tàu vùng vẫy hết sức trong đám bùn, nhưng không thể tiến thêm được một bước nào.
Bà con trong xóm xúm lại, mỗi người một câu, ồn ào như mổ bò.
- Nào de chút nữa.
- Có phải ghe của nhà bà đâu mà de được.
- Tàu chi mà trắng lốp, trắng láp.
- Trời, tàu của ta to, đẹp quá.
- Thôi .. người nào không có diệc, dề .. máy bay nó tới bom thấy mồ bây giờ.
- ..
Anh em du kích vận động nhân dân mang cây tới ngụy trang và lấy bùn xoa lên chỗ sơn trắng của con tàu. Không đầy nửa giờ, con tàu đã lẫn vào màu xanh của rừng đước.
Vừa giấu xong tàu, mấy cán bộ thuyền nằm ngủ thiếp ngay trên mặt khoang. Mấy anh em du kích nhìn cảnh tượng ấy, phát hoảng :
- Liệu có phải chích thuốc cho anh em không ?
Dĩ nghe mấy chiến sĩ du kích bàn bạc, anh cười nói :
- Không sao, cứ để họ ngủ hết ngày hôm nay sẽ tỉnh lại.



3​



Ngày hôm đó, đội tàu 69 được nhân dân xã Rạch Gốc rất mực chiều chuộng. Du kích tổ chức cảnh giới bảo vệ tàu từ xa. Các mẹ, các chị khênh tới nồi cháo gà còn nóng bỏng và cả rổ cua luộc, mực nướng. Giả thử có thứ sơn hào hải vị ngày xưa chỉ dành cho việc tiến vua thì bà con cũng chẳng tiếc. Mấy bà mẹ xuýt xoa « Các con theo lệnh Bác từ miền Bắc đưa vũ khí vượt biển vô đây cho nhân dân Cà Mau đánh giặc .. thật là một kỳ công ! ».

Anh em thủy thủ đưa mắt nhìn nhau, vừa cảm động trước sự săn sóc của bà con, vừa lo lộ bí mật. Có ai nói gì đâu, tự các bà mẹ đoán ra cả. Tàu to như thế này, chỉ có miền Bắc mới có, và từ miền Bắc vô đây, chắc chắn là chở vũ khí.

Bà con muốn được lên xem tàu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Mấy anh du kích ngăn lại. Mấy bà già bướng bỉnh lý sự :

- Tôi hỏi các anh ! Nếu Bác Hồ vô đây, dễ các anh cũng ngăn không cho chúng tôi gặp Người hả ?

- Bác Hồ vô thì khác. Đây là việc bí mật.

- Khác chi ? Đây là tàu Bác Hồ cho vô. Các anh biết bí mật, chúng tôi không để bụng những điều gì nói ra có hại cho nước cho dân sao ?

Mấy anh du kích thua lý các mẹ, và chính họ cũng muốn xem tàu, một anh đã đến nói với cán bộ tàu « Dân yêu cầu quá xá ».

Bà con ùa lên. Anh em thủy thủ đành phải dẫn họ đi xem buồng lái, buồng ngủ của mình. Được xem tàu của ta, người nào người nấy đều tỏ ra rạng rỡ sung sướng. Mấy cô gái bấu chí nhau rồi cười khúc khích.

- Mầy xin các anh ấy cho đi theo.

- Được ở tàu này tao coi như ở nhà .. sợ các anh không cho đi.

Một thủy thủ nói vui :

- Xin mời các cô cứ ở lại.

Tiếng cười trẻ trung râm ran.

Mấy ông bà già đi lại ngắm nghía hết cái này đến cái khác. Có người khẽ đụng tay lên cái la bàn, làm cho nó lắc lư; có cụ xoa tay lên cái mặt bàn bóng loáng. Khi nói chuyện với nhau, ai cũng nhấn mạnh « tàu của ta » như nhắc tới niềm tự hào của chính mình. « Ta đã có tàu » gợi các ông, bà già có liên tưởng. Tàu của ta kém gì tàu của nó. Trước kia ta chỉ có gậy tầm vông, bây giờ có tàu to và đẹp như thế này .. chở bao nhiêu là vũ khí nhất định sẽ đánh thắng Mỹ.

Làm xong nhiệm vụ triển lãm bất đắc dĩ, anh em thủy thủ lại quây quần trên mặt boong, kể với nhau những suy nghĩ riêng của mình về tình huống xảy ra hôm qua. Một chuyện lúc này đều trở thành lý thú : cả chuyện lúc xảy ra «muốn rụng tim » bây giờ cũng gây cười. Họ coi những nguy hiểm vừa vượt qua như một niềm vui hạnh phúc. Có lẽ những người có cuộc đời bằng phẳng, chẳng bao giờ được hưởng hạnh phúc này.

Thấy thuyền trưởng đi tới, Bé « lùn » đứng dậy trịnh trọng :

- Mời thuyền trưởng ngồi xuống đây, tôi xin biếu 500.

Bé nhại lại câu nói của thuyền trưởng lúc tàu bị du kích bắn, làm anh em cười bò ra.

Tính thuyền trưởng Phước đôi khi nóng nảy, nói năng « bạt chiêng », nhưng lúc bình thường lại rất cởi mở, dễ gần. Anh thanh minh :

- Lúc đó tao nghĩ, phải nói thế để giữ bí mật.

- Nhờ vậy mà suýt nữa thì xài đạn K.44

Nói chuyện vụ đùa, nhưng các cán bộ vẫn ngóng chờ anh em bến tới liên lạc. Khi nghe tiếng xuồng máy, mọi người đều nhìn về phía đó. Một cô gái có nước da trắng, mặc bộ bà ba đen, ngồi trên xuồng đang giữ cái « đuôi tôm » cho nó khua trong không khí, để xuồng dừng lại. Cô cười và định nói gì đó với các thủy thủ, thì thuyền phó Hai đã reo lên :

- Ồ, cô Thanh Phương,

Cô gái không giấu nổi vui mừng, nói to :

- Anh Hai, anh Năm, các anh đã tới đây tối qua ư. Chúng em trông quá.

Vừa dứt câu nói, cô gái đã cho xuồng quay ngoắt và nói với lại.

- Em phải về ngay, kẻo chú Tư chờ.

Mấy thủy thủ ngỡ ngàng, chưa hiểu cô bé người ở đâu đến, sao nói năng thân thiểt, mềm mỏng như vậy, mà đến rồi lại vụt đi như một ánh sao băng. Họ bàn tán vui vẻ :

- Cứ như nàng tiên trong quả thị vừa hiện ra ấy.

- Chắc ngày mai chúng ta sẽ đến chỗ nàng tiên ấy.

- Con người không hoa lá mà dễ thương làm sao. « Chú Hai » !

- Xin thôi ! Người của bến đó !

- …



4​



Tàu 69 đã được đón về bến. Chân vịt của tàu bị hỏng nặng. Hỏng chân vịt khác chi người bị cụt chân, làm sao trở về được. Nghe biển gầm ầm ì anh em nghĩ tới đường trường càng lo.Tất nhiên phải sửa chân vịt, nhưng lấy phương tiện đồ nghề ở đâu. Những thủy thủ chưa kịp hình dung ở giữa rừng sình lầy này làm gì có đốc nâng được chiếc tàu 100 tấn lên mà sửa chân vịt.

Đối với anh em bến – đoàn 962 – gặp chuyện rắc rồi như thế này không phải là lần đầu. Anh Tư Mao nói với các thủy thủ « Các đồng chí cứ yên trí, khỏi lo ..». Nhưng chẳng có phép gì làm cho anh em khỏi lo được. Trên thế giới này, chưa có nơi nào sửa chân vịt tàu khi nó nằm ở dưới nước. Chỉ có cách lôi nó vào xưởng rồi đưa vào đốc. Ở giữa rừng này không có công xưởng mà cũng chẳng kiếm đâu ra đốc nổi. Nhưng « Các đồng chí cứ yên trí ..».

Thật đúng như có phép màu, chỉ sau một ngày, cái công trường thủ công làm xong loại giá đỡ đặc biệt để thay đốc nổi. Việc này phải nhắc đến vai trò của phó đoàn trưởng Tư Mao (đơn vị bến), một người chỉ huy thông minh và gan góc hiếm có. Với công việc khó khăn đại loại như thế bao giờ anh cũng là người dẫn đầu trong việc tháo gỡ.

Không khí nhộn nhịp trong khu rừng Vàm Cái Bần giống như một công trường mới bắt đầu xây dựng. Nhịp độ lao động rất khẩn trương .. Con tàu đã được đẩy vào rạch, giữa lúc thủy triều lớn nhất. Anh em dùng cây gỗ làm thành cái giá đỡ dưới đáy tàu. Nước triều rút xuống gần cạn khỏi rạch, con tàu nghiễm nhiên đứng trên giá đỡ, giống như lúc nó vào đốc. Xung quanh con tàu đắp đê cao để ngăn nước. Tuy vậy vẫn có nước ngấm, ngoài việc dùng máy, anh em phải dùng thùng, chậu thay nhau tát. Một đại đội của bến do anh Tư Mao chỉ huy cùng với thủy thủ tàu 69 đã làm việc cật lực, để tạo ra cái công trường đó, và phục vụ cho thợ máy có điều kiện sửa chữa tốt.

Bốn thợ máy do thợ cả Nguyễn Văn Bé phụ trách. Ngày nào họ cũng phải làm việc từ sớm tinh mơ đến khi mặt trời lặn. Họ dùng đèn khò (đèn hàn) nung nóng rồi dùng búa đập uốn lại chân vịt. Một việc tưởng như không thể khắc phục được bằng vài cái công cụ giản đơn, nhưng trái lại nó đã có hiệu quả cụ thể. Tàu 69 đã có « bộ chân » lành lặn và sẵn sàng lên đường.



5​



Theo kế hoạch thì đêm 9-5-1966 nếu tàu 100 đến bến an toàn thì tàu 69 sẽ rời bến vào đêm sau, hoặc đêm sau nữa.

Chờ đợi tàu bạn và suy nghĩ tới đường ra của tàu mình, nhiều thủy thủ thấp thỏm khó ngủ. Có đôi bạn ngồi dậy hoặc nằm trong màn thì thầm tâm sự. Họ không hề nhắc đến điều lo lắng đang nảy nở, mà lại kể những chuyện riêng tư của mình. Mãi tới khuya mọi người mới ngủ được.

Nghe có tiếng nổ ở phía biển, có người vừa chợp mắt được một lát cũng vùng dậy. Mọi người ra khỏi lán nhìn theo những chớp pháo sáng của máy bay địch thả. Họ hồi hộp theo dõi và bàn tán :

- Chỗ nó đang quần ở khoảng nào ?

- Cửa Rạch Giá . Kiểu này là tàu 100 gặp địch rồi,

- Chưa thấy nổ súng ! Như vậy là chúng mới nghi ngờ.

- …

Trời sáng dần. Một số anh em bến nhận được lệnh hành quân cấp tốc ra bến Rạch Giá để bảo vệ tàu. Tại sao lại bảo vệ tàu ở cửa Rạch Giá ? Người nhận lệnh cũng chỉ biết tới chừng ấy, chẳng ai giải thích được rõ hơn. Anh em đội tàu 69 ngồi chờ đợi tin thêm về tàu 100. Vài giờ sau, anh em trên đài quan sát co biết tàu địch đang đi lại ở cửa Bồ Đề. Rồi lại bặt tin. Ai cũng phán đoán : tàu 100 gặp nạn, nhưng vẫn nóng lòng muốn biết những gì đang diễn ra đối với nó.

Gần trưa, ba chiếc máy bay lên thẳng bay tới bắn phá ở khu vực Bồ Đề, tiếp theo là phản lực F.105 tới giội bom.

Tiếng bom nổ, tiếng đạn liên thanh và tiếng máy bay rộ lên hàng giờ liền như xói vào ruột gan các thủy thủ tàu 69. Họ vừa lo cho đội taù 100, vừa lo cho chính mình. Việc lộ bến Bồ Đề, chắc chắn địch sẽ phong tỏa chặt chẽ khu vực này, sẽ không dễ dàng gì đưa được tàu ra tới đường biển quốc tế.

Chiều hôm sau vừa nhìn thấy bóng dáng lùn lùn của phó đoàn trưởng Tư Mao ở trong rừng ra, anh em đã chạy xô tới, quây xung quanh. Chỉ cần nhìn cái băng quấn trên đầu còn thấm máu và khuôn mặt phờ phạc của anh Tư Mao, anh em đã đoán được tình thế không có gì sáng sủa.

- Tình hình ra sao anh Tư ?

- Anh em trên tàu có an toàn không ?

Tư Mao nhếch một nụ cười mệt mỏi, không đáp ngay vào những câu hỏi của anh em vừa tới rấp đặt ra, anh hỏi :

- Các cậu có nước cho mình uống một chút, khát khô cháy cổ.

Qua cử chỉ bình tĩnh của Tư Mao, làm mọi người bớt lo lắng. Họ đi theo anh vào trong lán.

Uống xong bát nước, Tư Mao chậm rãi kể :

- Tôi được tin của đài quan sát báo địch thả pháo sáng. Có hai chiếc tàu đi về phía cửa Rạch Giá, chiếc đi trước có thể là của ta, chiếc đi sau là tàu địch. Một mặt tôi cử người huy động lực lượng bảo vệ, mặt khác tôi và cậu Việt Hải chạy một mạch đến Rạch Giá. Lúc đó trời đã sáng rõ. Tôi thấy thuyền phó Điển và anh Cớt thợ máy đang núp vào gốc cây nhìn ra biển. Tôi hỏi tình hình, Điển nói : Khoảng ba giờ sáng tàu 100 đã tới gần bờ thì gặp tàu địch. Tàu ta kéo cờ Đái Loan, chúng phát tín hiệu tàu chở gì, đi đâu. Anh em mình lặng thinh. Nó lại phát tín hiệu xin cặp mạn. Ta vẫn lặng thinh. Nó chạy vượt lên có ý chặn đường, nhưng thấy tàu ta tiến thẳng, nó phải nhường đường. Anh em đã chuẩn bị nổ súng thì nhìn thấy đống lửa (tín hiệu) ở cửa Bồ Đề.

Nói tới đó, Tư Mao thở dài lặng lẽ, một lát rồi mới móc bọc thuốc trong túi áo ra vê một điếu, với cử chỉ không giấu nổi xúc động. Châm thuốc hút một hơi, rồi anh nói tiếp :

- Chỉ sơ suất một chút xíu mà để xảy ra thiệt hại quá lớn. Đã quy định với ngoài kia là : nếu hải đăng Hòn Khoai không sáng, bến đốt lửa ở rạch Bồ Đề và tàu sẽ vào cửa Rạch Giá. Trực ban cho biết đèn Hòn Khoai sáng nhưng lại không quên báo cho anh em thôi đốt lửa mới nên cơ sự này .. Tôi ra xem, tàu của ta đã giạt vào chỗ cạn, tàu địch đứng bên ngoài không dám vào gần. Tôi hỏi anh Điển đã xử trí thế nào. Điển nói đã rút chốt an toàn rồi, không hiểu sao bộc phá vẫn chưa thấy nổ. Nghĩ đến cái tàu nguyên vẹn thế kia, địch chỉ tròng cáp vào là lôi tuột đi mất, tôi bảo Điển chạy về bến huy động thật nhanh lực lượng ra bảo vệ tàu.

Chiếc tàu của địch cách tàu ta khoảng 200 mét, nó kéo còi xin cặp mạn. Chắc nó vẫn tưởng tàu của ta còn người. Kéo còi vài lần không thấy ta đáp lại, chúng cho một tên lội về phía tàu 100. Tiểu đội của Bảy Nhỏ đã bố trí xong, các cậu ấy bắn mấy loạt tiểu liên, tên địch vội chạy trở lại tàu của nó.

Tàu địch có thể kéo tới đông hơn và dùng máy bay bắn phá, khả năng giữ được con tàu cho đến tối thật khó. Nghĩ tới việc phải tranh thủ giữ lấy khẩu DKZ, thu nhặt giấy tờ anh em mình còn bỏ lại, tôi bảo Việt Hải và Cớt bơi ra tàu làm việc đó. Ra tới nơi thấy nước sâu, tôi bảo Cót mở máy tôi lái cho tàu vào. Đi được 10 mét lại mắc cạn.

Thấy tàu ta chạy, địch giội đạn vào như mưa. Tàu ta chỉ cách bờ vài chục mét. Tôi giục Hải và Cớt tháo nhanh khẩu DKZ 57 đưa vào, thu thập số tài liệu , giấy tờ rồi ôm cuộn dây dứa, đã buộc một đầu vào lan can tàu,còn kéo đầu kia buộc vào một gốc cây trong bờ. Tính rằng : nếu giữ được đến tối sẽ có cách xử trí.

Khoảng gần trưa thêm hai chiếc tàu địch đến, chúng dàn đội hình sáp dô tàu 100, vừa đi chúng vừa trút đạn vào bờ. Tiểu đội của Bảy Nhỏ bắn trả dữ dội vào tàu địch, buộc chúng phải quay lui. Máy bay trực thăng , phản lực đến bắn phá, thả bom kéo dài mấy giờ liền. Chúng phát quang cả mảnh rừng kéo dài theo ven biển hàng kilômét.

Sau một đợt bắn phá, tàu địch lại vào , lại bị ta đánh giạt ra. Tiểu đội của Bảy Nhỏ rất dũng cảm, đã giữ tàu 100 được đến tối. Tôi đang mong lực lượng tiếp viện thì anh Hai Dĩa đưa thêm người tới. Tôi bàn với anh hai cử người cảnh giới, dồn sức xuống tàu lấy hàng. Anh em chúng tôi kéo đi, chỉ cách tàu khoảng 200 mét bỗng có tiếng nổ dữ dội, nhìn phía tàu 100 chỉ thấy một đám khói đen và những cụm lửa hoa cà hoa cải như pháo hoa, không thấy hình tàu 100 đâu. Lúc này vẫn có pháo sáng, sáng như ban ngày, không thấy có máy bay ném bom, như vậy là khối thuốc nổ gài sẵn ở tàu đã tự nổ.

Khi đám khói đen đã tan rồi, chúng tôi nhìn chỗ tàu 100 đậu ban nãy, chỉ còn lại một khoảng trống.

Bọn tàu địch bị mất mục tiêu, chúng kéo nhau ra xa hơn.

Một thủy thủ tàu 69 hỏi :

- Anh Tư .. anh em tàu 100 thế nào ?

- An toàn cả.



6​



Trong chiến đấu giành giật với địch ba ngày liền, anh em bến đã lập công lớn : bắn chìm một tàu LCV của địch và không để một mảnh thép nào của tàu 100 lọt vào tay địch. Chiến thắng ấy không làm cho mọi người vui hơn. Trái lại, nỗi lo lắng ngày một đè nặng : từ nay các bến của Cà Mau không còn là nơi dễ đến, dễ đi của đoàn 125 nữa.
Hàng ngày maý bay địch đi bắn phá, xăm rộng ra vùng xung quanh. Anh em đội tàu 69 rất chật vật trong việc giữ gìn cho chiếc tàu của mình khỏi bị lộ. Lúc di chuyển tàu, lúc ngụy trang, lúc chuẩn bị đánh quân địch đổ bộ .. làm cho các thủy thủ mệt mỏi.
Ba tháng trôi qua, không biết bao nhiêu lần tàu 69 chuẩn bị rời bến, rồi lại hoãn vì hàng rào tuần tiễu của địch vẫn khép kín. « Thôi thì bỏ quách cái tàu lại, đi bộ vượt Trường Sơn ra Bắc, lấy tàu khác ta lại vào ». Chẳng hiểu ai đã nêu ra ý kiến ấy, thế là việc tìm cách đưa tàu rời bến gần như quên lãng. Anh em thủy thủ lao vào chuẩn bị tinh thần, vật chất cho chuyến đi bộ 3000 cây số một cách hào hứng. Họ rèn dao găm, khâu bao gạo, tìm dây võng .. không cần ai đôn đốc.
Biết được tin đội tàu 69 ngán trở về bằng đường biển, Đảng ủy đoàn 125 đã đánh điện chỉ thị « .. kiểm điểm sâu sắc tư tưởng tiêu cực, ngại gian khổ, hy sinh .. ». Chi bộ họp thực hiện chỉ thị của Đảng ủy, mất mươi phút đầu trầm lắng. Mọi người như phải sắp xếp lại cách suy nghĩ của mình. Nhớ lại buổi họp chi bộ lần trước, ý kiến đi bộ trở về có lý do nghe rất hợp lý, cấp trên cho phép, trong trường hợp đặc biệt đưa tàu vào bến mà buộc phải phá tàu, cũng được coi là hoàn thành nhiệm vụ. Bây giờ những lý do « hợp lý » ấy đang được điều chỉnh lại bằng câu hỏi : Đến này đã hết thời cơ rời bến chưa ? Không khí đấu tranh tư tưởng bén dần vào những ý kiến tranh luận. Đi bộ ra để tiếp tục đi chuyến khác không chịu bó tay ngồi lì ở đây mà coi là tiêu cực ư ? Khi tàu còn tốt, dầu còn đủ chỉ do địch phong tỏa mà ta chịu bó tay, chẳng lẽ chúng ta không đủ can đảm tạo ra thời cơ để vượt qua khu tuần tiễu của địch ! Ý kiến ban đầu chưa gặp nhau, dần dần các đảng viên đều nhận thấy mình đã có phần nào xao lãng quyết tâm ban đầu. Thế là cuộc họp của chi bộ lại lao vào bàn tính tới quyết tâm đi bằng đường biển.
Từ đó mỗi tháng hai lượt con nước ròng và cũng là hai lần đội tàu 69 bắt tay tạm biệt anh em bến. Có lần lên ngồi trên tàu, tàu đã mở máy, có lần tàu đã chạy được một đoạn, anh em bến gọi trở lại vì có tàu địch đã cặp kè ở cửa vàm.
Ngày 1 -1 -1967, ở các đài quan sát Hốt Năng, Cái Bầu, Bồ Đề đều báo cáo quan sát tình hình biển yên tĩnh. Anh em hoan hỉ nói với nhau : Thời cơ đây rồi, bọn Mỹ-ngụy nghỉ ăn Tết. Đêm nay chúng chè chén phè phỡn chắc sẽ chểnh mảng việc tuần tiễu ..
Sao đêm bắt đầu lấp lánh trên bầu trời, cũng là lúc tàu 69 đã ra khỏi cửa Vàm Lũng. Thuyền trưởng Phước, chính trị viên Huyền đứng trên đài chỉ huy chăm chú quan sát. Biển vắng lặng không một ánh đèn, không một con thuyền qua lại. Toàn đội vẫn nêu cao tinh thần cảnh giác, Không khí yên lặng vắng vẻ này , có thể chỉ là tạm thời. Biết đâu địch chẳng dùng rada rình mò từ xa. Phải lợi dụng chúng chưa kịp tới, để vượt ra đường biển quốc tế.
Thuyền trưởng Phước hạ lệnh cho tàu chạy tiến ba.
Gió đông nam mát dịu, nền trời tím thẫm mịn màng như một thảm nhung vĩ đại, được đính vào đó triệu triệu hạt kim cương đang tỏa sáng. Giá như rời bến lúc bình thường chắc chắn sẽ có tiếng hát, giọng ngâm .. nhưng bây giờ mọi cặp mắt của các thủy thủ đang dõi vào bóng đêm và họ đang nghĩ tới thời cơ may mắn, hoặc một tình huống rất xấu sắp xảy ra.
- Báo cáo ở phía Rạch Gốc có pháo sáng bắn nhiều.
- Các vị trí chú ý tăng cường quan sát.
- Có thể đêm nay chúng vui tết, bắn chơi.
- Hình như có đèn tàu.
- Đèn tại chỗ hay đang đi ?
- Có thể địch đang xuống mũi, phải chú ý theo dõi.
- Báo cáo có đèn tàu, mạn phải 35 độ.
Thuyền trưởng Phước hạ lệnh :
- Ngoặt 15 độ trái.
Thuyền phó Hai ở trong phòng hải đồ mỗi lần nghe báo cáo lại ghi lên hải đồ một hình nửa quả trám, tượng trưng tàu địch. Hình nửa quả trám thứ hai đã đi song song với tàu ta, lúc ta chưa chuyển hướng.
Khoảng 20 phút sau, vị trí quan sát phía sau báo cáo, Hai lại vẽ nửa hình quả trám khác theo tọa độ được xác định. Thấy tàu địch vẫn đi song song với tàu của mình, anh quăng bút chì rồi báo cáo lên đài chỉ huy :
- Góc mạn phải đèn tàu phía sau không thay đổi, Như vậy là có con tàu đang đi theo ta cùng hướng, cùng tốc độ.
Phước cho tàu chạy về tuyến đường cũ vẫn thấy góc độ ánh đèn phía sau không thay đổi. Không còn nghi ngờ gì nữa, địch đang bám sát ta. Các thủy thủ nhận lệnh nạp đạn sẵn sàng, kiểm tra vòi rồng và sẵn sàng chiến đấu.
Tàu 69 đã cách bến gần 30 hải lý, đang cố hết sức để bỏ xa ánh sáng ma quái phía sau đang bám theo mình. Đột nhiên có một tàu cao tốc xuất hiện cách 69 không đầy một hải lý. Hồ Quanh Phụng nhìn thấy một khối đen, đang vun vút lao vào mạn trái tàu của mình, anh chỉ kịp hét to :
- Tàu địch định chạy vượt qua .
Thuyền trưởng hạ lệnh cho Loan – chiến sĩ hàng hải :
- Đánh hết tay lái phải.
Tàu ta vừa chiếm được góc thuận lợi nhất thì tàu địch vào chỉ còn khoảng cách 20 đến 25 mét. Nó bật đèn pha và có tiếng kêu « Vi xi, vi xi .. ». Máy bay địch đến thả một tràng pháo sáng đang nổ lụp bụp trên đầu.
Khẩu đội 14,8 của Lưu Kim Nhật đã cướp thời cơ, găm vào tàu địch một loạt đạn dài, trung liên của Hải Hồ bồi tiếp. Khẩu trọng liên của địch nổ được nửa băng vào tàu ta, còn nửa băng đạn lửa bay vọt lên trời. Tên Mỹ đứng trên đài quan sát, chiếu đèn pha bị trúng đạn, ngã bổ nhào xuống. Tàu địch bị hỏng máy, quay tròn tại chỗ.
Biên đội tàu địch ở phía sau xông tới, bắn như mưa vào tàu 69. Thủy thủ trưởng Dĩ hy sinh.
Thuyền trưởng Phước hạ lệnh thả thùng khói mù và cho quay tàu về hướng bến.
Đám khói đùn lên rồi trải rộng ra che khuất tàu của ta.
Chiếc máy bay C.130 thả một vành đai pháo sáng xung quanh đám khói. Biên đội tàu chiến địch xông vào tiến công đám khói. Chúng không ngờ tàu 69 đã ra khỏi đám khói mù từ lâu.
Tiếng súng địch xa dần. Lợi dụng khoảnh khắc yên tĩnh giữa hai đợt chiến đấu, anh em tranh thủ nạp đạn, thông nòng súng.
Chính trị viên Huyền thông báo động viên :
- Trong đợt chiến đấu vừa qua, chúng ta đã phá hủy một tàu và diệt một số tên địch. Toàn đội ta đã nêu cao tinh thần dũng cảm. Trận đánh còn có thể tiếp diễn, chúng ta phát huy tinh thần chiến thắng, kiên quyết đánh tan các đợt tiến công của địch, trả thù cho đồng chí Dĩ.
Tiếng nói của chính trị viên như thôi thúc, làm tăng thêm sự vững vàng, tin tưởng ở sức chiến đấu của đội mình. Ở các vị trí chiến đấu, anh em trao đổi với nhau những việc cần làm mà đợt chiến đấu vừa qua còn thiếu sót.
Nghe tiếng máy bay C.130 và một tràng tiếng nổ bục .. bục .. ở lưng trời, mọi người ngẩng nhìn chùm pháo sáng rồi lại nhìn khu vực mình được phân công quan sát.
Màu trắng của tàu 69 dần dần lộ rõ trên mặt biển. Cái màu trắng lúc bình thường duyên dáng đáng yêu, lúc này trở nên vô vị làm sao. Nhưng sự việc đã diễn ra như thế, không có cách nào lựa chọn khác là kiên quyết chiến đầu đến cùng.
Bé nhanh nhẹn trở về buồng máy. Nhật cầm càng súng 14,8 lia đường ngắm trên mặt biển. Hải Hồ đứng im lặng bên khẩu trung liên ghim trên trụ lan can tàu ..
Đạn pháo cỡ lớn từ chiếc hộ vệ hạm của Mỹ, từ hàng chục kilômet phóng về phía tàu 69 quả nổ xa, quả nổ gần. Thỉnh thoảng lại có cột nước vọt lên cao, rồi như một trận mưa rắc xuống đầu mọi người.
Hải Hồ vẫn đứng ngắm về phía những tia chớp nhỏ chìm dưới chân sóng. Nếu đưa anh lên màn ảnh lúc này, người xem có thể tưởng đó là tư thế của nhà thơ, giữa lúc tứ thơ hình thành trong tư duy. Cái sống, cái chết của đợt chiến đấu sắp tới, anh đã dàn xếp ổn thỏa từ lúc bước chân xuống tàu. Trong tâm hồn anh lúc này không một chút rối ren mà chỉ thấy những hình ảnh chiến thắng ẩn hiện.
Anh em gác phía sau tàu báo cáo « Có ba chiếc CPF đang bám ta ». Hải Hồ nhanh nhẹn tì vai vào báng súng, quay nòng về phía địch chờ sẵn.
Bằng những chuỗi đạn lửa nối tiếp nhau không ngớt, từ tàu địch đan chéo phía trước, phía sau tàu 69. Đạn va vào thành tàu kêu keng, keng ..
Chờ địch vào trong tầm bắn có hiệu quả, tàu 69 quật trả địch không kém phần ác liệt. Thập đặt nòng DKZ.57 lên vai quỳ bắn vào chiếc tàu gần nhất. Khẩu 14,8 do Lê Xuân Khảm siết cò, xỉa từng loạt đạn vào cái khối đen đang phun ra những chớp lửa. Những loạt đạn của Hải Hồ, của thuyền phó Hai Hân quyện vào muôn ngàn tiếng nổ khác.
Một viên đạn trúng bàn chân Hải Hồ. Anh cố giữ vững tư thế bắn để tiếp tục trận đánh, nhưng máu ra nhiều làm anh choáng váng, không còn nhìn thấy gì trước mặt. Hải Hồ bỏi Báu :
- Địch chỗ nào chỉ cho mình bắn với.
- Góc mạn phải phía sau 30 độ.
Hải Hồ nghiến răng siết cò. Anh hy vọng đường đạn của mình sẽ góp phần uy hiếp kẻ địch.
Lát sau, Hải Hồ lại tỉnh táo. Anh cảm thấy bên bắp chân bị thương như có một sợi dây thép nung đỏ siết vào xương mình. Muốn chặt phăng cái bàn chân lắt lẻo vướng víu ấy, nhưng anh không còn đủ sức làm việc đó. Thấy thuyền phó Hân tới, Hải Hồ nói :
- Anh chặt cho tôi cái chân này, vướng quá.
- Ai lại làm thế.
Hải Hồ vẫn khẩn khoản với Hân chặt đoạn ống chân bị gãy.
Hân ga-rô lại vết thương cho Hải Hồ, rồi vội vã trở về vị trí của mình.
Trận chiến đang ở giờ phút nghiêm trọng nhất. Lời kêu gọi của bí thư chi bộ Tăng Văn Huyền vang lên « Các đồng chí hãy trả thù cho đồng chí Dĩ, hãy noi gương kiên cường dũng cảm chiến đầu của đồng chí Hải Hồ. Tôi thay mặt chi bộ công nhận từ giờ phút này đồng chí Hải hồ là đảng viên chính thức ».
Tiếng reo, tiếng kêu thét hòa vào tiếng nổ hỗn loạn.
- Trúng rồi, nó lui rồi.
- Thôi bắn, nó chạy xa rồi.
- Báo cáo thuyền trưởng : cháy .. cháy.
- Dập lửa ngay, ở đó có chất nổ.
- Vòi rồng đâu ?
Chính trị viên Huyển chạy bổ đến chỗ đám cháy ở cuối tàu. Mấy thủy thủ đứng lặng trước cái vòi rồng đã bị đạn xuyên thủng nhiều chỗ. Ngọn lửa đỏ như máu đang phun ra trong đám khói đặc sệt. Làm gì để dập tắt đám cháy. Họ chờ đợi cái chết xem chừng khó tránh khỏi. Họ chờ khoảnh khắc nào đó, hàng tấn bộc phá sẽ nổ tung và thế là hết. Anh giáo viên trung cấp hàng hải Lê Xuân Khảm vẫn bình thản. Trong óc anh thoáng những hình ảnh xa xôi về người mẹ, người yêu và lời hứa hẹn lúc ra đi. « Chúng mình ra xa quá rồi, vào bờ không kịp nữa ». Nghe tiếng Nhật vừa nói như một âm thanh mơ hồ, không còn là tiếng nói của thường ngày.
- Các đồng chí hãy tìm cách cứu con tàu.
Chính Huyển cũng có khoảnh khắc đứng lặng bất lực, nhưng anh tự cảm thấy có điều gì hết sức vô lý với sự bất lực đó. Anh kêu lên « hãy tìm cách cứu tàu », nhưng chính anh cũng chưa nghĩ ra cách gì. Nói xong, Huyển chạy về phía buồng lái.
Câu nói của chính trị viên đến với Khảm niềm hy vọng mãnh liệt, sự băng lạnh của cái chết đã đến trong tâm hồn anh bỗng có một ngọn lửa xua tan. Khảm chạy theo sau Huyền.
Thanh Loan đang ngồi lái, nghe nói đám cháy phía sau chưa dập tắt được, vòi rồng bị đạn bắn thủng, anh cố bới óc tìm cách cứu chữa và chợt nhớ tới nó. Mừng quá, Loan gọi Kiểu lái thay, rồi vội vã chạy vào buồng lấy vòi rồng.
Vòi rồng dự trữ để trong buồng lái từ lâu, ít ai để ý đến, vì không ngời lại có sự cố như thế này xảy ra.
Mọi người chạy theo Loan , vừa chạy vừa thúc nhau « nhanh lên ».
Phụng giật một đầu vòi rồng từ tay Loan để lắp vào máy bơm. Giây phút sau, một luồng nước từ vòi rồng phun ra trắng xóa dìm ngọn lửa xuống. Ngọn lửa dịu dần rồi tắt ngấm, chỉ còn những đụn khói đặc sệt tiếp tục tuôn ra.
Báu, Khảm, Nhật thay nhau chui vào đám khói để chặt đứt dây théo buộc những quả hỏa mù, rồi họ bưng những hộp sắt nóng bỏng đó vứt xuống biển. Bàn tay họ bị lột từng mảng da, nhưng họ cảm thấy vui mừng, sung sướng. Một lần nữa họ đã đẩy lùi được cái chết.
Ba chiếc tàu địch lại dàn đội hình tiến công vào tàu 69. Tiếng các loại đạn nổ dữ dội, những chuỗi lửa hình cầu vồng đan xung quanh tàu ta. Đơn vị bảo vệ bến đã nhìn rõ trận đánh đang diễn ra. Tàu 69 vưa chạy vừa bắn trả lại địch. Nhìn thấy bờ, mọi người mừng thầm. Phước bàn với Huyển : Tìm được cửa lạch là thượng sách, nếu không thì cứ lao vào bờ, nhanh chóng đưa thương binh tử sĩ lên bờ rồi phá hủy tàu.
Hai chiếc BCF ( loại tàu tuần tiễu ven bở cỡ nhỏ ) cố ý chặn đường tàu 69. Thuyền trưởng vừa hạ lệnh « chú ý quan sát phía trước », ngay lúc đó, có lửa đạn ở trong bờ bắn ra. Anh em sung sướng reo lên :
- Ở trong bờ chi viện cho chúng ta.
- Cửa vàm kia rồi.
Súng trong bờ, súng trên tàu 69 xả đạn như mưa, tạo ra một thế trận rất đẹp, vây địch từ hai phía. Hai chiếc tàu BCF vừa chống cự vừa tháo chạy.
Pháo sáng, máy bay địch thả cả một vùng rộng năm , sáu kilômet, sáng như ban ngày. Nhìn rõ cửa Vàm, Thanh Loan cho tàu lao vào.
Đến bến, anh chị em trong bến chạy xô tới, ôm lấy các thủy thủ. Vui mừng xúc động không ai cầm nổi nước mắt; mỗi người phải cố ghìm tiếng khóc đang nghẹn trong cổ họng cho khỏi bật ra.
Trên trời, 2 chiếc máy bay Thần sấm tức tối gào thét. Những loạt bom nổ vu vơ giữa rừng.
Một thủy thủ nhận xét :
- Cái thằng hải quân Mỹ ăn tham quá, khi không nuốt nổi mới gọi thằng không quân đến vét đĩa.
 
Quay lại
Top Bottom