Meika
Thành viên
- Tham gia
- 26/12/2023
- Bài viết
- 50
Chương chín
PHÁ PHONG TỎA
Đợt tiến công « bốn mũi » nếu xét về hiệu quả công tác vận tải thì không thành công, nhưng đứng trên bình diện chiến tranh để xét, lại hoàn toàn khác. Những đội tàu của chúng ta đã hành động vượt xa sự tưởng tượng bình thường, đã chiến đấu rất xuất sắc và giành được thắng lợi.
Dù sao thực tế trên biển vừa qua cũng buộc người chỉ huy vận tải phải dừng lại để tìm hiểu thêm về tình hình địch và nghiên cứu chiến thuật mới mới mong phá vỡ có hiệu quả sự phong tỏa của địch.
Tạm dừng vận tải đường dài trên biển lần này đúng vào thời kỳ mới của cuộc chiến tranh. Thời kỳ « chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam của ta sang một thời kỳ mới – thời kỳ giành thắng lợi quyết định » ( Nghị quyết lần thứ 13 của Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng, tháng 1-1968 ). Thời kỳ « chúng ta đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn, đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược ». Sau những thất bại nặng nề ở cả hai miền, đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Ở miền bắc, chúng phải ngừng ném bom không điều kiện, ở miền Nam, chiến lược « chiến tranh cục bộ » của Mỹ bị quân và dân ta đánh bại một bước rất cơ bản.
Việc mở rộng côngg tác vận tải trên tuyến đường Trường Sơn đang có nhiều thuận lợi. Trung đoàn 125 nhận lệnh của Bộ Tổng Tham mưu tham gia chiến dịch vận tải VT5, một chiến dịch đưa hàng ào ạt vào lậo chân hàng cho công tác vận tải đường bộ.
Cùng ngày Giôn-xơn tuyên bố ngừng ném bom ở miền Bắc (1-11-1968), hai chiếc tàu của đoàn 125 đã di chuyển vào sông Gianh mở màn cho chiến dịch.
Khí thế thi đấu mới như một cơn lốc cuốn hút tâm trí các thuỷ thủ. Một lần nữa, đoàn 125 anh hùng nêu cáo truyền thống vinh quang của mình. Qua 90 ngày đêm vận chuyển liên tục, đoàn đã vượt 217,3% chỉ tiêu của cấp trên đề ra.
Trong lúc đơn vị đang làm công tác vận tải trên miền Bắc, một kế hoạch tuyệt mật do Bộ tư lệnh Hải quân tiến hành nghiên cứu đã được Bộ Tổng Tham Mưu xét duyệt. Có thể gọi tên nó là « Kế hoạch phá phong tỏa ». Bản kế hoạch đó do Bộ tư lệnh Hải quân trực tiếp điều khiển từng bước rất chặt chẽ.
Ngày 12 – 8 -1969, đội tàu 42 nhận được lệnh vào Nghệ An, đưa tỉnh ủy đi nghiên cứu một số hòn đảo và ven biển của tỉnh.
Lệnh đi gấp, không kịp chuẩn bị như các chuyến đi thường lệ. Anh em thủy thủ thắc mắc « Không hiểu tỉnh ủy Nghệ An nghiên cứu gì mà vội vã thế. Nếu đi dài ngày thì lấy dầu mỡ , lương thực ở đâu ? »
Đồng chí Chi, phó tham mưu trưởng đoàn 125 là người chuyền đạt mệnh lệnh đã giải đáp gọn lỏn « Mọi thứ đã có tỉnh ủy Nghệ An lo ».
Thuyền trưởng Trường Sơn hạ lệnh nhổ neo, nhưng anh vẫn chưa thông. Chỉ có một đoạn đường từ Hải Phòng vào Nghệ An mà phải đưa cán bộ nghiệp vụ hàng hải xuống làm hoa tiêu, sao không để cán bộ thuyền tự lo liệu.
Nghe tiếng chuông rung, các thủy thủ của tàu bạn ra chào hỏi xôn xao :
- Các cậu đi đâu đấy ?
- Nghệ An.
- Cặp ở Cửa Hội, tranh thủ tí, khoái nhỉ ?
- Tạm biệt nhé ! ..
Trường Sơn đứng bên cạnh phó tham mưu trưởng Chi và chính trị viên Trần Ngọc Ẩn trên đài chỉ huy : họ im lặng nhìn dọc theo dòng sông Cấm. Trường Sơn suy nghĩ miên man, quên phắt điều phó tham mưu trưởng đoàn nói trong mệnh lệnh « Đồng chí Thu, trợ lý hàng hải của đoàn sẽ dẫn đường chuyến đi ». Khi thấy tàu ngoặt vào dòng sông đào, anh hét to :
- Sao lại ngoặt về hướng ấy ?
- Lệnh của đồng chí Thu.
Muốn đi Nghệ An phải qua cửa Nam Triệu ra vịnh Bắc Bộ, con đường ấy trình độ hàng hải hạng bét cũng hiểu. Sao Thu lại có thể lầm lẫn được.
Tuyến đường con tàu đang lao tới, sẽ về đâu, có người đã ngầm hiểu. Ẩn ghé vào tai Trường Sơn :
- Đến đây là rõ rồi.
- Sao ?
- Chậm hiểu quá. Đi chơi với hạm đội 7 chứ sao.
Trường Sơn cười cởi mở và đưa bàn tay to bè ra nắm chặt lấy bàn tay Ẩn.
Cùng khoảng ngày tàu 42 nhổ neo, đoàn 125 có biến động nhỏ về nhân sự và vài cuộc chia tay vội vã.
Anh Thôi Văn Năm nghiệp vụ cơ điện của tiểu đoàn 4 nhận lệnh thuyền trưởng về trung đoàn 126. Y tá Dấu đang ở trạm xá, được lệnh chuyển về đoàn bộ ..
Riêng việc thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé « bắt buộc » phải chia tay đột ngột, đã gây ra buồn phiền cho đội tàu 68. Cách đây ít bữa, viện kiểm soát của quân chủng đã gọi Bé lên hỏi cung về việc đơn vị anh đã để đắm một chiếc tàu trong chiến dịch VT5. Từ hôm đó, rộn lên dư luận « thuyền trưởng Bé có thể bị đi tù ». Anh em trong đoàn xôn xao về vụ này. Họ tỏ thái độ bênh vực thuyền trưởng Bé « Tòa án cũng phải xét chứ, cứ lý lẽ trần trụi như vậy nghe không xuôi ». « Việc xếp hàng không đúng quy cách để tàu đắm không phải do anh Bé gây ra. Chức trách của thuyền trưởng không phải là xếp hàng hóa ». « Vả lại cũng phải chiếu cố công lao của anh ấy. Vào sống ra chết, đi hàng chục chuyến đưa vũ khí vào chiến trường ». « Trình độ chuyên môn, tinh thần, đạo đức không chê vào đâu được, chỉ vì sơ ý có một lần mà xóa sạch cả cuộc đời người ta à ? ». Dư luận ồn ào một hồi rồi cũng lắng xuống, vì Bé vẫn là thuyền trưởng và chẳng có tòa án nào hỏi.
Mọi người vẫn đinh ninh rằng : Khuyết điểm của Bé chỉ đến hạ chức hoặc cảnh cáo là cùng. Đột nhiên hôm nay có lệnh của quân pháp xuống « bắt » thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé.
Thủy thủ tàu 68 bàng hoàng trước giờ tạm biệt với người thuyền trưởng tài năng, dũng cảm và đáng yêu ; họ không biết nói gì với anh trước cảnh chia tay đáng buồn này.
Một thủy thủ không kiềm chế nổi xúc động, để nước mắt chảy tràn , xô tới ôm chặt thuyền trưởng Bé :
- Dù bao giờ .. dù thế nào tôi vẫn nghĩ rằng : anh là cán bộ tốt.
Chiếc com-măng-ca của Bộ tư lệnh Hải quân đã đứng chờ bên lề đường Hồng Bàng ( Hải Phòng). Đại úy phó tham mưu trưởng Nguyễn Ngọc Ẩn đứng bên cạnh xe chờ đợi. Anh được giao nhiệm vụ đón một số anh em để đưa đến một địa điểm bí mật, không được phép phổ biến . Đến đó để làm gì, anh chưa hiểu. Từ lâu do yêu cầu của công tác đặc biêt, đã trở thành một thói quen, không phải việc của mình không hỏi, không nói, nhưng cái tên địa điểm kia, đã gợi anh nghĩ đến một chuyến đi xa.
Thượng úy Trần Phong đang công tác ở Hà Nội nhận được điện « về ngay ». Khi xe khách Hà Nội – Hải Phòng dừng lại bến, Phong lật đật đi bộ đến địa điểm hẹn. Gặp Ẩn, sau cái siết tay chặt , Phong hỏi ngày :
- Việc gì mà khẩn trương thế anh ?
- Họp hành gì đó.
- Không phải .. chắc có nhiệm vụ mới.
Ẩn im lặng không tiếp câu hỏi của Phong đặt ra. Phong linh cảm thấy mình sắp nhận một nhiệm vụ gì đó hết sức quan trọng.
Một lát sau thấy anh thợ máy Thôi Văn Năm khệ nệ xách vali tới : tiếp đến một trợ lý bảo vệ của quân chủng đi cùng với thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé ..
Số người đã tới đủ. Ẩn cho xe chạy. Xe qua bến đò Bình, qua Thủy Nguyên .. rồi dừng lại ở Đá Bạc. Mọi người xuống xe, nhìn ra bến đã thấy tàu 42 đậu ở đó.
Thuyền trưởng Trường Sơn và chính trị viên Ẩn mời họ xuống tàu. Tất cả những điều anh em suy nghĩ từ lúc nhận lệnh, đến đây đã bật lên tiếng nói « Vào Nam ».
Mắt thuyền trưởng Bé long lanh tha thiết, nhìn những nụ cười đang mở trên môi các bạn mình.
Đã lâu lắm rồi, anh em mới được nhận nhiệm vụ với không khí đặc biệt trọng thể như thế này. Đại tá Tư lệnh, đại tá chính ủy Quân chủng Hải quân, đại diện Bộ Tổng Tham Mưu tới động viên, kiểm tra. Cùng một lúc, hậu cần phát ba bộ quần áo, giày dép đúng thời trang Hong Kong. Các nhu yếu phẩm khác như thuốc lá, rượu, thuốc đánh răng .. đều được cấp bằng loại hàng của các nước phương Tây hoặc không có nhãn hiệu. Tất cả thứ gì, từ cái máy lửa, bút chì .. có dấu hiệu của miền Bắc đều gửi lại.
Tàu 42 đã được lột xác từ màu xám tro thành nhiều màu sắc : dưới mạn là màu xanh da trời, đái chỉ huy sơn trắng, các đường viền màu vàng đỏm dáng, với cái tên bằng chữ ngoại quốc. Cả trang phục của người và của con tàu đều mang dáng dấp nghiên cứu biển.
« Hoàn thành được chuyến đi này, là một thành công lớn, là một chuyến đi anh hùng ; một chuyến đi lịch sử nối lại con đường biển chiến lược ; một chuyến đi phá vỡ thế phong tỏa của bọn Mỹ-ngụy. Trong lúc các đồng chí đi, không chỉ riêng Bộ tư lệnh mà Bộ Chính trị, Quân ủy TW cũng rất quan tâm theo dõi .. ».Tầm quan trọng được đồng chí Chính ủy quân chủng chỉ ra và ngay cả trong công tác tổ chức chuyến đi cũng nói rõ điều đó. 100 % cán bộ và thủy thủ là đảng viên được lựa chọn. Thuyền trưởng Trường Sơn tạm xuống làm phó cho thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé. Ngoài ra còn tăng cường thêm hai thuyền phó nữa. Phó tham mưu trưởng Nguyễn Ẩn, thượng úy Trần Phong làm chuyên gia cho cán bộ thuyền. Đội ngũ từ máy trưởng , thủy thủ trưởng trở nên hầu hết là người tài năng, dũng cảm, đã lập nhiều chiến công trên đường biển.
Nhiệm vụ của đội là tìm một con đường bất ngờ đối với địch và trinh sát một số đảo đặt bến trung chuyển. Hải trình theo đường biển quốc tế qua Hoàng Sa, tới vùng biển Philipin , Malaysia rồi vòng về vịnh Thái Lan, tìm hiểu các đảo Nam Du, Thổ Châu ..đi chừng 4000 hải lý.
Chuyến đi viễn dương khó khăn nhất, đường dài nhất lần đầu tiên của quân chủng đã gây ra một tâm trạng chộn rộn khác thường. Ai cũng háo hức và lo lắng lao vào công tác chuẩn bị tất bật. Họ dồn hết sức lực để chuyến đi đạt kết quả cao nhất. Trong lúc các thủy thủ tập thao tác chiến đấu trên biển, cán bộ thuyền ngồi quây quần xung quanh hải đồ để nghiên cứu hướng đi và dự kiến đối phó với các tình huống.
Thuyền trưởng Bé vốn điềm đạm ít nói, cái « vấp » vừa rồi làm cho anh trầm lặng hơn. Mặc dầu đến lúc này trong lòng anh đã thanh thoát không bận bịu tới « vụ án » đắm tàu, nhưng anh vẫn ít cười ít nói. Sau khi nghiên cứu phương án hành quân xong, anh đến chỗ thủy thủ tập bắn, đến buồng máy kiểm tra, hỏi han từng thủy thủ.
Mọi công việc đã chuẩn bị xong. Buổi chiều, trước giờ xuất phát mới có chút ít thì giờ ngồi bù khú với nhau. Những chuyện do yêu cầu bí mật của chuyến đi sinh ra những giai thoại khá lý thú. Khi nói đến chuyện của thuyền trưởng Bé, đại úy Nguyễn Ngọc Ẩn hỏi Bé .
- Tôi là chánh án, kết án anh « tù đứng » lưu động một tháng trên biển. Chịu không ?
Bây giờ mới thấy thuyền trưởng Bé cười thực sự, cười mà nước mắt cứ trào ra. Bé nói :
- Trong cuộc đời bộ đội có việc gian khổ, nguy hiểm hơn cả ngồi tù .. mình vẫn sẵn sàng chọn việc ấy. Nhưng nói đến ngồi tù thì thật đáng sợ, đáng nguyền rủa – Bé ngoảnh sang nói với Ẩn – vì vậy cái án của tôi, tôi xin vui lòng chịu tù ba đến năm tháng tù như anh kết án.
Mọi người cười ; chuyện trò vui vẻ, cứ như thế kéo dài tới giờ tàu nhổ neo.
Đi được 4 ngày (24-8-1969), tàu 42 đã bắt được điểm chuẩn Hòn Đông như dự tính. Niềm tin ở sự dẫn đường của cán bộ thuyền trong anh em thủy thủ tăng lên. Các thuyền trưởng xếp Bé vào hàng « đáng kính nể về nghiệp vụ hàng hải thiên văn », điều đó không có gì quá đáng.
Sau khi bắt được Hòn Đông (quần đảo Hoàng Sa), tàu tiếp tục đi qua quần đảo Trường Sa ; đoạn đường này rất nhiều đá ngầm lập lờ dưới mặt nước. Nơi đây ít ra cũng có tới hàng chục tàu, thuyền bỏ xác lại, không bao giờ trở về được lục địa nữa. Luồn lách trên một phần đảo ngầm không chỉ là sự táo bạo, mà trước hết là phải tài năng mới có thể lọt qua được cái trận đồ bát quái ấy.
Thuyền trưởng Bé không giây phút nào rời mắt khỏi vùng biển lạ. Những quãng sáng lạc lõng, những màu sắc thay đổi trên mặt biển cũng lưu ý anh. Hải đồ không thể nào chỉ dẫn hết được sự thay đổi địa hình dưới mặt nước. Vả lại còn độ giạt, độ lệch do sóng gió, thủy lưu hoặc tính toán chưa chuẩn xác gây ra. Nếu sơ hở một chút thôi cũng có thể gánh lấy tai họa khôn lường.
Tàu vượt ra khỏi khu vực đá ngầm, đi theo tuyến đường quốc tế. Một chiếc máy bay P.3B đang vòng lượn trên một chiếc tàu buôn. Ẩn nói với Bé :
- Nó vờ vịt làm như kiểm soát hết thảy các con tàu nhưng vẫn chú ý đến tàu của mình, mình cần đánh lạc hướng.
Bé hạ lệnh cho người lái :
- Bẻ góc lái 5 độ đông.
Tàu 42 chạy về hướng Phi-lip-pin như những tàu buôn khác . Chiếc P.3B bỏ tàu buôn tới vòng lượn trên tàu của ta.
Chính trị viên phó Nhậm xách máy ảnh trèo lên đài chỉ huy, mở ống kính chụp chiếc máy bay, rồi chỉ trỏ cười nói :
- Máy bay của nó bị hỏng rồi. Các anh xem kìa !
- Hỏng mà nó vẫn bay.
- Rõ ràng một cánh quạt không chạy nữa.
Ẩn và Bé quá quen mặt bọn P.3B, các anh cười to. Ẩn nói :
- Thôi ông ơi. Nó có 4 động cơ, khi lượn chậm cho một động cơ tạm ngừng .. đấy nó lại quay rồi .. cánh quạt bên trái lại ngừng .. thấy không.
Thuyền phó Trường Sơn dáng người to béo, mặt trắng trẻo, râu quai nón như một người châu Âu. Từ nãy vẫn đứng chống nạnh nhìn theo chiếc máy bay. Anh tức giận chửi thái độ hỗn xược của bọn Mỹ :
- Chúng nó có quyền gì mà kiểm soát tất cả các con tàu đi trên đường biển quốc tế. Mình không hiểu nổi sao các quốc gia có vai vế trên thế giới cũng cứ làm ngơ trước hành động ăn cướp của bọn này được !
Ẩn cười lớn :
- Cậu có tướng làm bộ trưởng ngoại giao. Với thằng Mỹ lên tiếng phản đối thì có nghĩa gì. Tên côn đồ ngoại hạng ấy không có nghe lời khuyên bảo mà chỉ có oánh !
Bé vẫn im lặng nhìn theo chiếc tàu buôn màu sơn trắng toát, còn cách mình năm sáu hải lý.
Tâm trạng chung của những người sống trên biển, lâu lâu mới gặp một con tàu, bất kỳ của quốc gia nào, cũng thấy vui và muốn tỏ cử chỉ ưu ái đối với nhau. Nhưng ở đây, do thằng Mỹ khốn nạn, nó đã phá vỡ mối quan hệ tốt vốn có của loài người. Khi nhìn con tàu buôn qua lại lần nào cũng vậy, niềm vui của Bé cũng bừng lên, nhưng lập tức bị tinh thần cảnh giác dập tắt. Biết đâu tàu kia cũng một giuộc với bọn Mỹ, và nó cũng được giao việc báo cáo tàu lạ qua lại đây.
Chiếc P.3B bay tới lượn vài vòng trên chiếc tàu buôn rồi bay về Phi-lip-pin. Thuyền trưởng Bé nhắc cán bộ đang trực dưới buồng hàng hải chú ý ghi nhật ký tỉ mỉ những việc diễn ra trên đoạn đường.
Thuyền phó Tam và thượng úy Trần Phong đang chụm đầu trên chiếc bàn có đặt tấm hải đồ khu vực vùng biển X, vừa đo đạc vừa rì rầm trao đổi. Tam lấy compa đo đoạn từ tọa độ tàu mình tới hải đăng Xu-ma-tơ-ra. Nghe thấy tiếng thuyền trưởng Bé, Tam báo cáo :
- Hiện nay tàu của ta đang đi vào tuyến đường HongKong – Philippin- Malaysia. Có thể gặp nhiều tàu buôn qua lại. Chiếc máy bay vừa rồi cũng hướng về Phi-lip-pin giống như lần trước, như vậy có thể đó là nơi nó xuất phát.
Phong nói với Tam :
- Tình hình thuận buồm xuôi gió cũng phải bà ngày nữa mới bắt được đèn Tăng-gôn.
- Chúng nó bị bất ngờ nên cũng không có hành động bám.
- Nhưng vẫn phải coi chừng .. vì chúng ta còn đang ở đường quốc tế ..
Hai người đang trao đổi, thấy phía ngoài có tiếng cười nói xôn xao và tiếng còi tàu kéo dài. Các anh chạy ra đứng bên lan can nhìn về chiếc tàu đi ngược chiều.
Hành khách của chiếc tàu kia ra đứng bên mạn vẫy tay. Có một hành khách cao hứng, tung mũ, chẳng may bị gió đưa mũ xuống biển. Anh em thủy thủ tàu 42 cũng ra đứng bên mạn vẫy vẫy đáp lại.
Những bàn tay của những người ngoại quốc xa lạ kia đã đưa tới anh em tàu 42 niềm tự hào, vì một sự liên tưởng tự nhiên. Nếu họ là những người thiện chí mà biết được tàu 42 đang đi đâu, chắc chắn sẽ cùng với những bàn tay thân ái đang vẫy kia là tiếng hô « Việt Nam – Hồ Chí Minh ». « Việt Nam là lương tri của thời đại .. » .. và đó sẽ là lời chào con tàu bé nhỏ, gan góc của mình.
Chiếc tàu lớn đi qua tạo ra những đợt sóng cấp năm, cấp sáu, làm cho tàu 42 chòng chành. Hai con cá chim từ dưới biển bay lên mặt boong. Các thủy thủ reo hò, chạy tới vồ cá :
- Hoan hô ! Được bữa nhậu rồi.
- Nhân dân thế giới ủng hộ đấy !
Ngày thứ chín, tàu 42 đã đến vùng biển gần Liên bang Malaysia. Lúc trời trong, nhìn bằng mắt thường đã thấy dáng dấp lô nhô của những hòn đảo. Có thể là quần đảo Na-tu-na.
Qua hai ba ngày không có địch theo dõi, mấy thủy thủ rỗi rãi, tính tới chuyện câu cá. Họ buộc một mảnh vải trắng vào cái lưỡi câu cỡ đại ở đầu một sợi dây cáp nhỏ rồi thả xuống sau tàu. Khoảng 10 phút đã có tiếng reo « ăn rồi » !. Thuyền trưởng cho tàu chạy chậm lại để bắt cá.
Hai ba người xúm lại kéo sợi dây câu. Con cá gì đó rất lớn, phải hàng tạ chứ không ít, nó kéo ba người suýt ngã. Một cuộc kéo có với cá đầy thú vị. Những thủy thủ trẻ reo hò, văng tục, rồi cười với nhau. Con cá bị lội đi gần một hải lý đã đuối sức, bụng nó thỉnh thoảng lật trắng lên mặt nước. Họ thả xuồng cao su và cho hai người xuống để kéo cá lên. Một con cá khác, lưng bóng nhãy nhô cái đầu khổng lồ lên đớp một miếng, con cá bị mắc câu đứt phăng một nửa. Máu loang đỏ mặt nước. Con cá « ăn cướp » nguẩy cái lưng dài thưỡn, tạo ra quầng sóng làm nước tràn vào xuồng cao su. Các thủy thủ la rầm lên :
- Kéo mau.
- Leo mau lên không mất mạng bây giờ .
- ..
Một anh chàng thủy thủ gan lỳ tướng quân cố đấm ăn xôi, vẫn kép được khúc cá còn lại lên xuồng của mình. Khúc cá còn lại nặng khoảng 60 kg, điều đó làm cho mọi người nhìn vùng biển màu xanh đen này mà dựng tóc gáy.
Chuyện ồn ào về con cá làm cho mọi người bớt căng thẳng lo lắng tới chuyện bắt đèn Tăng-gôn.
Trời mờ tối. Các cán bộ tranh thủ đo sao. Mắt thuyền trưởng Bé rất tinh, động tác thành thạo ; cùng một thời gian các cán bộ khác chỉ đo được bốn năm thiên thể. Bé đã đo được bảy thiên thể. Vị trí đứng hiện tại (tọa độ) của con tàu do anh tính toán ra, được anh em công nhận là chuẩn xác nhất.
Theo tính toán, thì tàu 42 đang nằm trong khu vực quần đảo A-nam-ba. Ngoài thực địa có một hòn đảo cách tàu khoảng 10 hải lý, tìm trong hải đồ lại không thấy. Các cán bộ bàn cãi :
- Hay đã tới Na-tu-ma.
- Cách xa nhau mấy trăm hải lý, sao lại có thể sai lệch đến thế.
- Ở đây còn quần đảo nào nữa, soi kỹ xem.
Họ thay nhau lấy kính lúp rê đi rê lại trên mặt hải đồ, rồi lại đặt xuống, nhìn nhau. Bé cầm kính lúp nhìn khá lâu vào một điểm, rồi lấy đầu nhọn com-pa găm xuống một cái chấm nhỏ như vết mực xíu dây vào. Anh khẳng định :
- Chỉ có điểm này, nó là cái đảo kia không thể khác ... hòn đảo này không có tên.
Mọi người lại chuyền tay nhau kính lúp, xem cái điểm Bé vừa chỉ và đều gật đầu công nhận sự phát hiện của Bé.
Tìm được tọa độ tàu làm cho không khí vui vẻ, hồ hởi. Như vậy là trong đêm nay có thể bắt được đèn Tăng-gôn rồi.
Con tàu đi lách qua quần đảo. Đêm tối. Mặt biển phẳng lặng như mặt hồ. Chưa bao giờ, ngay ở vịnh Hạ Long, họ cũng không thấy mặt biển lại êm ả đến thế. Nếu thỉnh thoảng không có con cá bơi vẽ lên một đường xanh lét, thì tưởng như mặt nước đã đông cứng.
Anh em cán bộ bàn tính. Nên vào gần để « bắt » cho chắc, hay « bắt » hải đăng từ xa. Vaò gần lỡ ra xâm phạm hải phận của họ thì phiền. Cũng có ý kiến : liều một phen cho chắc ăn hơn. Hải đăng ở đây chắc không có người .. Bàn vậy thôi, hải đăng Tăng-gôn có thể bắt từ xa 20 hải lý, việc gì phải làm như thế.
Bàn tính nhưng mắt họ vẫn chăm chú nhìn mặt biển. Trường Sơn nhìn thấy một bóng đen mờ, anh nói :
- Hình như có tàu .. không lên đèn.
Bé chụp lấy cái ống nhòm, nhìn về hướng Trường Sơn chỉ rồi nói :
- Tàu đang đi về hướng mình.
- Không có đèn .. chỉ có tàu quân sự mới làm như thế. Ẩn nói và chìa tay nhận ống nhòm ở Bé. Nhìn vài giây Ẩn nói tiếp :
- Đúng rồi ! Thôi tránh voi chẳng xấu mặt nào !
Họ quyết định mở hết tốc độ chạy trở lại, tạm né tàu kia đêm mai sẽ quay trở lại.
Nghe thấy tiếng chuông báo động. Mấy thủy thủ đang ngủ vùng dậy, chẳng hiểu nếp tẻ gì, chạy ra ngồi cạnh súng. Họ văng tục chửi bới Giôn-xơn một hồi.
Chiếc tàu lạ lẵng nhẵng bám tàu 42 chừng hơn chục hải lý rồi quay trở lại. Có thể chiếc tàu kia là của « anh bạn » Malaysia chứ không phải của Mỹ. Ta chẳng có ý gì xấu với họ. Có thể vì chưa nhận rõ hải phận của họ mà « dẫm qua vài bước » thôi !
Chiều hôm sau, tàu 42 quay trở lại. Ý định của họ là cố gắng bắt đèn vào lúc hoàng hôn. Khi mặt trời vừa rới sát mép nước, thuyền trưởng đã cho vời tất cả «những cặp mắt tinh tường » lên đài quan sát. Hàng chục cặp mắt hướng về phía trước, lục lọi trong khoảng không tranh tối tranh sáng. Không khí hồi hộp, im lặng. Chốc chốc lại có người nói « hình như có ánh đèn ..». Lòng mong mỏi đã đánh lừa cảm giác của họ. Tới lúc nhìn thấy ánh chớp đều lờ mờ, thì họ lại chưa tin rằng đó là hải đăng, e cảm giác lại lừa mình lần nữa. Mãi tới khi có sự xác nhận « Bây giờ mới đúng ..» của thuyền trưởng Bé, thì tiếng cười nói vui vẻ mới bung ra.
Ánh chớp đều của hải đăng Tăng-gôn sáng đậm dần trước mặt họ.
Ngày 30 tháng 8, tàu 42 đã vào gần vịnh Thái Lan. Sắp đến khu vực địch phong tỏa dày đặc , và sắp đến những mục tiêu trinh sát chủ yếu.
Qua gần mười ngày đêm vừa sóng gió vừa tránh né địch, anh em đã mệt mỏi, cần tìm một chỗ nghỉ ngơi lấy lại sức, chuẩn bị đối phó với những tình huống khó khăn. Nếu là toán trinh sát trên bộ chắc dễ dàng hơn, lúc mệt có thể tìm tới một khu rừng vắng, một căn nhà bỏ hoang nơi địch ít chú ý, treo võng lên là có thể đánh một giấc ngon lành. Trên mặt biển chẳng có gì giấu nổi con tàu. Nếu vào cạnh đảo nào đó có thể che khuất, nhưng là nơi địch thường nhòm ngó. Các cán bộ bàn đi tính lại rồi quyết định một « cú » táo bạo : Đưa tàu vào thương cảng X, thuộc một quốc gia Y gần đó.
Thuyền trưởng Bé cho tàu mình kẻ thẳng một đường vào thương cẳng X. Anh em thủy thủ tháo luôn biển số tàu 632 thay bằng bốn chữ Trung Quốc « Nguyên Xương Nhất Hiệu », tên một công ty thăm dò biển của Đài Loan.
Trời chạng vạng tối. Thành phố và tàu bè đã lên đèn. Những cụm ánh sáng lòe loẹt sặc sỡ nhấp nháy xung quanh những bảng quảng cáo phô ra cửa biển. Thứ ánh sáng nhảy múa kia dù sao cũng còn dễ chịu hơn cái thứ ánh sáng láo xược của P.3B hoặc đèn pha của tuần dương hạm.
Tàu 42 tới thả neo khuất sau một chiếc tàu buôn lớn. Neo chạm đất cũng là lúc hàng đống việc xô tới. Cảnh giới, sẵn sàng chiến đấu, tổ chức mừng ngày Quốc khánh .. Việc nặng nhất là ngụy trang lại tàu, sau một hai ngày phải choàng lên con tàu « tấm áo » màu hoàn toàn khác.
Anh trợ lý tác chiến Trần Phong đã nắm trong tay một xếp giấy có vẽ cảnh đồ của các đảo ; phó chính trị viên Nhậm đã chụp được ba cuốn phim những hình ảnh có liên quan tới tuyến đường mới. Những trang nhật ký hành trình đầy ắp các sự kiện ..Đây là những nhát dao chém vào thân cây để đánh dấu đường của các chiến sĩ trinh sát.
Thuyền trưởng Bé rất quan tâm đến việc ghi chép nhật ký hành trình. Những trang viết đó sẽ giúp anh và cấp trên nghiên cứu nắm được tình hình thực tế trên tuyến đường dễ dàng hơn. Vừa họp rút kinh nghiệm xong, Bé tới lục nhật ký ra đọc lại.
.. « Ngày 30 tháng 8 hồi 4 giờ 40 phút, có tiếng máy bay cánh quạt bay thấp từ đông sang tây. Có thể là máy bay trinh sát.
5 giờ 30 phút, phát hiện đảo Thổ Chu ở 78 độ cách 18 hải lý. Ta giảm tốc độ để nhận dạng.
5 giờ 40 phút, một máy bay trinh sát P.3B từ phía đảo Thổ Chu tới lượn ba vòng.
6 giờ 35 phút, có một tàu buôn loại vừa ở phía sau. Ta tăng tốc độ đi về phía quần đảo Vay ..».
Anh dừng lại khá lâu ở đoạn ghi « .. Phát hiện một tàu cách sáu hải lý cùng chiều. Lúc đầu tưởng tàu đánh cá Nhật. Nhìn trước mũi có hàng chữ la tinh, mạn phải có hàng chữ lớn giống chữ Nhật. Boong sau có hai khối hình vại lớn sơn xanh đỏ giống như ống khói tàu buôn Nhật Bản. Sau cùng, đằng lái có thiết bị cần cẩu của tàu thả phao. 14 giờ ta gặp nó cặp tàu công trình đang nghiên cứu đáy biển (có lẽ đang thăm dò mỏ dầu). Chiếc tàu công trình rất lớn, có thiết bị boong rộng đủ chỗ cho máy bay lên thẳng đậu. Có dàn dựng ống khoan. Ống khoan cao 50 mét đến 70 mét ».( trong ngoặc kép, trích nguyên văn nhật kí hải trình của đội tàu 42 )
Những dòng nhật ký vừa đọc lưu lại trong Bé một sự giận dữ. Anh nói với các bạn :
Nó chuẩn bị khai thác dầu lửa. Có thể bọn Mỹ và bọn Nhật đã bí mật làm việc này. Xem hàng phao ngăn cấm các tàu bè qua lại, rõ ràng công việc của nó quy mô. Vùng biển của mình mà chúng ngang nhiên..
Trường Sơn chỉ huy công việc làm vệ sinh boong xong cũng vào tham gia bàn tán về cái dàn khoan. Và từ « .. cái dàn khoan » lan tới chuyện công nghiệp dầu mỏ; khai thác tài nguyên và hàng hải trên đại dương .. Những câu ch.uyện ấy dẫn tới những liên hệ xa xôi và rộng lớn về tiền đồ xán lạn của đất nước.
Qua một đêm ngủ ngon lành, mờ sáng các thủy thủ đã xắn tay chuẩn bị bữa liên hoan chào mừng Quốc Khánh.
.. Mới có 10 ngày đêm trên đường biển quốc tế, mà trong cảm giác của mọi người tưởng như mình ở xa đất nước 10 năm. Khi trở về vùng biển Tổ quốc trong lòng họ cũng rộn ràng, xúc động, vui mừng không khác người đi xa về thăm quê trong lòng địch.
Tàu đã vào vùng biển Phú Quốc. Các thủy thủ đứng ở vị trí sẵn sàng chiến đấu nhìn về quầng sáng mờ nhạt của thị trấn Dương Đông. Họ thầm ước ao : giá mình có con tàu lớn hơn, chở quân đổ bộ lên đảo để giải phóng cho anh em đang bị tù đày.
Tàu đi ngang qua quần đảo An Thới (gần đảo Phú Quốc), những ý nghĩa mới mẻ, táo bạo nảy nở trong các cán bộ thuyền : Nhân đà thuận lợi, địch không bám, ta đi thẳng vào đảo Phú Quốc, tìm nơi đặt bến trung chuyển ở đó không được hay sao ? Một hòn đảo với 99 ngọn núi cao, với một vạn rưỡi dân mà hơn chục năm nay Mỹ-ngụy không bình định nổi ; phong trào chiến tranh du kích vẫn lớn mạnh. Hẳn rằng nơi đây phải có căn cứ rất vững chắc, việc lập một cái bến bí mật đâu phải là chuyện không thể làm được. Thuyền trưởng Bé đánh điện về sở chỉ huy «Chúng tôi có thể vào Phú Quốc tìm nơi đặt bến. Xin ý kiến ». Ở sở chỉ huy điện trả lời « Đi dảo Nam Du theo kế hoạch ».
Vùng biển đen tối vắng lặng. Bỗng một cơn mưa dông ào đến. Tình trạng thiếu nước tắm, mồ hôi nhớp nháp khó chịu, ai cũng thèm được tắm một bữa thỏa thích. Nghe tiếng những hạt mưa rơi trên vải bạt, những thủy thủ không phải phiên trực, vội cởi quần áo và reo mừng, chạy ra ngoài mặt boong. Nhịp mưa mau thêm, niềm khoái trá tăng lên, họ nhảy tâng tâng, cười nói :
- Tắm kiểu này chỉ có nhất.
- Đưa mình bánh xà phòng.
- Xăng-gai chính hiệu đấy.
- Em ơi ! . tắm nước mưa giữa biển sung sướng nào bằng ..
- Chết cha .. tạnh rồi, làm sao bây giờ. Thuyền phó ơi, nới tay cho anh em xin một xô nước.
Họ chưng hửng ngửa mặt nhìn thấy khoảng trời trên đầu mình đầy sao. Mấy chàng đầy bọt xà phòng trên người, vừa cười rũ rượi vừa chạy đi lấy gàu múc nước biển tắm vậy. Họ biết rõ khối lượng nước ngọt mang theo phải tằn tiện mới đủ. Mỗi người một tuần lễ được một xô để lau người, hôm trước họ đã lĩnh rồi, bây giờ có nài xin cũng chẳng được. Chi bằng xối vài xô nước biển cho xong chuyện.
Các cán bộ chỉ huy vẫn không rời đài quan sát. Một ánh đèn vừa xuất hiện ở rất xa. Nơi đó là vùng dân chài lưới làm ăn, nhưng khó mà phân biệt đó là tàu đánh cá hay tàu chiến của địch.
Tàu 42 vẫn giữ nguyên tốc độ chạy về phía cái chấm sáng chập chờn ấy. Họ không chú ý nghe tin tức trên đài phát thanh, mà lắng nghe tiếng nhiễu rào rào để xem rada của địch có theo dõi tàu mình không. Nhậm vừa xoay cái đài đi hướng khác, ngẫu nhiên gặp đài Tiếng nói Việt Nam đang thông báo tin Bác Hồ ốm nặng .
Mọi người nhìn nhau lo lắng. Nếu Bác .. Họ sợ phải nói ra từ « chết » đối với Bác. Nghĩ rằng Bác Hồ chết là ý nghĩ dại dột. Từ xưa tới nay không ai dám nghĩ đến Bác Hồ chết. Trong niềm kính yêu của mọi người. Bác Hồ đã trở thành bất tử. Giây phút xúc động tràn ngập, tâm hồn họ đang gửi về nơi thiêng liêng xa vời, họ quên phắt tất cả nỗi nguy hiểm đang rình mò xung quanh.
Nghe tiếng máy bay qua và tiếng thuyền trưởng nhắc nhở việc sẵn sàng chiến đấu. Nhậm mới nhớ công việc mình đang làm. Anh xoay lại chiếc đài để tìm xem có làn sóng bí ẩn nào bám tàu mình không.
Thuyền trưởng Bé cùng Nguyễn Ẩn, Trần Phong, Trường Sơn bàn bạc về những tình huống vừa diễn ra. Ánh đèn ban nãy vẫn đứng nguyên tại chỗ, xung quanh nó có thêm vài chấm sáng lờ mờ khác. Có thể là thuyền đánh cá. Nếu tàu chiến nó quầng tại chỗ làm gì. Liệu tàu địch có trà trộn trong đó không ?
Chính trị viên Trần Ẩn từ phòng hải đồ lên đứng bên cạnh Bé. Anh toan thông báo cái tin vừa nhận được về sức khỏe của Bác. Nghĩ lại, anh thấy chưa cần thiết, và im lặng lắng nghe các bạn đang chuyện trò.
Đoạn đường này là một « cửa ải » phải vượt qua. Dù biết rằng phái trước mình, địch đang ẩn nấp, rình mò, nhưng quyết tâm của họ không thay đổi. Tàu 42 lên đèn đi lách qua khoảng cách của các tàu đánh cá.
Hòn Hoa Lư, hòn Tố Yến, hòn Nham, hòn Mộc .. vài phút trước đây họ biết chúng trên hải đồ, bây giờ chúng lân lượt hiện ra trước mắt. Dưới ánh trăng suông, những hòn đảo thấp, cao nổi trên mặt biển giống như ở vịnh Hạ Long, Nam Du đó : Một quần đảo khá hẹp, thuận lợi cho ngư dân cư trú, cách mũi Cà Mau 64 hải lý, có diện tích 60 kilômét vuông, gồm 12 hòn đảo nhỏ, thành hai dãy; nhìn trên cao xuống như hai chuỗi hạt cườm, ở giữa có dòng hẹp, thuyền ghe nhỏ có thể qua lại. Khoảng 600 dân ngụ trên đảo sống bằng nghề đánh cá.
Dựa vào tài liệu đã biết và vừa thu được, các cán bộ thuyền có ý định thả 40 tấn hàng xuống ven đảo, rồi báo tọa độ cho anh em bến Cà Mau biết cho thuyền nhỏ ra lấy. Thuyền trưởng Bé đánh điện hỏi ý kiến sở chỉ huy. Vài phút sau nhận được điện trả lời « Tiếp tục trinh sát đảo Thổ Chu ».
Mờ sáng ngày mồng 1 tháng 2, tàu 42 đã tới bắc đảo Thổ Chu. Đây là mục tiêu trinh sát cuối cùng. Anh em tỏ ra phấn chấn vì chuyến đi sắp kết thúc tốt đẹp. Các cán bộ làm việc thư thái đường hoàng như buổi tập trên biển. Bé đứng trên đài chỉ huy, nói dõng dạc những kết quả vừa quan sát được.
Thuyền phó Duy Tam ngồi ở phòng hải đồ, lắng nghe và lần lượt ghi lên nhật ký hành trình.
« - 6 giờ 30 . phía sườn bắc đảo có vách núi đứng, cây thấp, đất đỏ có lẫn những tảng đá lớn, không có nhà cửa.
8 giờ 20 phút, tàu chuyển hướng xuống vịnh phía tây, phía này cây cối rậm rạp, nhiều tre nứa. thấy một dãy nhà mái tôn. Ở bãi khô có cột tiêu đóng thấp trên cột cờ bảng hình tam giác, bên cạnh cột cờ có một thuyền bỏ đã lâu. Đây có thể là căn cứ hải thuyền cũ của địch...
- 9 giờ 36 phút, tàu đến trước vịnh phía đông thấy 30 nóc nhà sát nhau trên bãi, nhiều cây xanh có hàng lối, bốn thuyền lắp máy đang đậu trong vịnh ..
Qua 2000 hải lý, với bao nhiêu nỗi vất vả lo âu, đội tàu 42 đã đến những nơi cần đến. Họ là những chiến sĩ trinh sát dũng cảm, mưu trí vượt qua vùng địch tạm chiếm, cắm những « lộ tiêu » đầu tiên cho tuyến đường mới hình thành.
Tàu vừa chuyển hướng, có một máy bay P.3B bay lướt qua, nửa giờ sau lại có một chiếc máy bay khác tới lượn vòng trên chiếc tàu buôn rồi bay sang quan sát tàu của ta. Từ đó đến trưa chốc chốc lại có máy bay địch tới nhòm ngó. Anh em phán đoán thế nào chúng cho tàu chiến tới khiêu khích. Họ chuẩn bị tinh thần đối phó. Cùng những ngày đó, sóng gió tăng dần. Những đợt sóng tạt sườn, tàu lắc ngang làm cho người yếu chịu sóng thật khốn khổ.
Sóng biển làm cho tàu nghiêng, dầu đựng trong bể chứa bằng cao su dồn về một phía, túi cao su căng phồng một bên, dầu chưa kịp trở về vị trí cũ đã bị cơn sóng tạt sườn khác đánh tới, làm cho độ nghiêng của tàu quá lớn. Nhiều phen nó muốn lật úp xuống. Nguy cơ đắm tàu hiện ra trước mắt. Có nhiều ý kiến giải quyết khác nhau. « Đổ bớt dầu xuống biển ». « Nếu đổ dầu gặp tình huống phải kéo dài ngày đường thì sao ? » ..
Những thuyền trưởng cự phách như Ẩn, Bé, Trần Phong vẫn thay nhau đứng cạnh tay lái để chỉ huy luồn lách tránh sóng. Họ quyết định phải chuyển hướng đi sớm hơn để tránh sóng lắc ngang ; mặt khác cho chằng buộc lại bể dầu.
Hầu hết các thủy thủ có sức chịu đựng sóng trung bình đã bị sóng đánh gục. Tàu lắc mạnh quá không sao nấu nổi nồi cơm, hai ngày liền phải ăn lương khô.
Đại úy Ẩn nói với Trường Sơn :
- Nhớ cơm lắm, cậu xem có cách gì nấu được không ?
- Hết cách : Vừa rồi mấy cậu thay nhau bê nồi nước hơ lên ngọn lửa, nước gần sủi, sơ ý sóng đánh ngã, suýt nữa bị bỏng.
- Tàu mình phải sắm loại nồi có gioăng cao su và vít chặt vào bếp mới chịu được sóng.
Trường Sơn reo lên :
- Có cách rồi .. Nhất định nấu được !
- Cách gì thế ?
- Rất đơn giản. Anh có thấy mấy bà gánh nước bỏ vào thùng mảnh lá chuối không nào. Cậu Hạc tìm cho mình một mảnh vải nhỏ, giặt sạch đi. Ta đặt mảnh vải lên mặt nước của nồi cơm .. sẽ hạn chế được sóng.
Hơn nửa giờ, anh em đã xúm lại quanh nồi cơm đang bốc hơi. Thuyền phó Trường Sơn rất vui vì cái sáng kiến của mình đã đem lại kết quả.
Mỗi người vừa ăn được miệng bát cơm, đã nghe thấy chuông báo động đổ hồi. Họ buông bát chạy vội vào vị trí sẵn sàng chiến đấu.
Trường Sơn trở về buồng lái, nhìn phía trước đã thấy cột rada và ống khói của chiến hạm nhô lên khỏi mép nưỡc. Ngay lúc đó, một chiếc máy bay trinh sát bay trước mũi tàu.
Chiếc tàu chiến sơn màu xám sáng hiện rõ dần mọi chi tiết. Ăng ten rada quay liên tục. Hai tầng súng pháo trên chiến hạm im lặng không thấy quân lính đi lại. Dường như chiếc tàu này đi có việc khác không dính gì tới việc săn tìm tàu 42; nó cứ đi thẳng hướng cũ.
Một giờ sau lại có một chiếc tàu chiến khác lẵng nhẵng bám tàu 42 cách khoảng 10 hải lý.
Nguyễn Ẩn nói vui :
- Thằng ăn trộm đang rình mò. Sẽ lòi đuôi ra cho mà xem.
Các cán bộ thuyền bàn luận :
- Nó bám ở xa nhằm biết rõ tuyến đường của mình. Ta không nên chuyển hướng theo kế hoạch mà cứ thẳng tiến về phía Hong Kong, khi nào nó rời ta, ta quay lại.
- Nó cứ bám tới cùng thì sao ?
- Đến một điểm nào đó ta rẽ vào Hoàng Sa tạm lánh. Nó không thể theo mình vào đó được.
Chính trị viên phó Nhậm ở dưới buồng hàng hải đi lên, mặt anh tái nhợt, nước mắt chảy vòng quanh, tay xách chiếc đài bán dẫn đang nói về lễ tang Bác. Nhìn thấy Nhậm, anh em đã cảm thấy có chuyện gì chẳng lành. Họ hỏi dồn :
- Có tin về Bác hả ! Sức khỏe của Bác thế nào rồi ?
- Sao ?
- Bác .. mất .. rồi !
- Nghe có chắc không ?
Nhậm vặn núm âm lượng, đài phát thanh đang phát lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Mọi người bàng hoàng, xúc động, nước mắt trào ra. Bác đã đi xa .. Trong cảm nghĩ của họ trở nên mung lung, mơ hồ, không tin ở điều mình vừa nghe. Bác mất rồi ư ? Không thể xảy ra điều ấy được. Không bao giờ .. Bác vẫn hằng theo dõi những chuyến đi của chúng con. Trên mặt biển mênh mông naỳ, mỗi lần nghĩ đến Bác, chúng con thêm vững lòng. Bác không bao giờ mất. Bác còn sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta .. Tiếng nói của đài phát thanh nghe tiếng được, tiếng mất giống hệt diễn biến trong tâm trạng của anh em.
Chính trị viên Ẩn lấy mùi xoa lau nước mắt rồi nói với các cán bộ :
- Tình hình này chưa để tang Bác được, tôi đề nghị tổ chức lễ truy điệu Bác tại vị trí chiến đấu.
Đêm đã khuya.
Kiểm tra thấy sóng rada vẫn quét theo tàu mình, anh em biết chắc tàu địch vẫn còn bám. Các cán bộ quyết định cho tàu tắt đèn và chuyển hướng một góc độ lớn để đánh lạc hướng địch.
Thuyền trưởng Bé thông báo « Chuẩn bị đối phó với địch, khi chúng mất mục tiêu chúng sẽ lùng sục ráo riết và không giấu mặt nữa ..» Quả nhiên, tàu 42 chuyển hướng được hơn nửa giờ đã thấy pháo sáng sáng trưng cả một góc trời.
Nhìn những tín hiệu đỏ chớp chớp trên máy bay, họ khoái chí cười nói :
- Nào, bây giờ chúng bay không giấu mặt nữa chứ !
- Con cáo đã lòi cái đuôi ra.
Sớm hôm sau, một chiếc tuần dương hạm chạy ngược chiều với tàu 42. Cách nhau khoảng bảy, tám hải lý, 42 rẽ sang trái 5 độ để né nó. Chiến hạm địch chạy sang bên phải chặn đường. Tàu 42 trở lại tuyến đường cũ, chiến hạm địch cũng trở lại tuyến cũ. Thằng địch ương bướng , xỏ lá, thuyền trưởng Bé cho tàu mình lao thẳng. Hai con tàu chỉ còn cách nhau mươi phút thì chúng húc vào nhau. Chiếc tuần dương hạm với lượng giãn nước một vạn tấn, hay chiếc tàu vận tải 100 tấn sẽ thắng cuộc. Nếu có người thứ ba đứng xem, sẽ lo cho số phận con tàu 42 nhỏ bé.
Taù 42 vẫn giữ nguyện tốc độ không nhân nhượng. Tàu Mỹ to xác quen lối xử sự « mềm thì nắn » .. vội vàng ngoặt hướng khác để nhường đường cho tàu 42.
Vài giờ sau, chúng tăng cường thêm lực lượng. Một chiếc kèm mạn phải, một chiếc kèm mạn trái của tàu 42 với góc độ 140 đến 150, cự ly cách đều sáu đến bảy hải lý. Chúng bao vây tàu 42 theo kiểu đó, kéo dài gần một ngày đêm.
Các cán bộ thuyền quyết định thực hiện phương án đã dự định. Cho tàu tắt đèn hành trình ngoặt vào quần đảo Hoàng Sa. Tàu địch vẫn bám theo. Tàu 42 lách qua một luồng hẹp có nhiều đá ngầm. Chiếc tàu Mỹ to kềnh càng chưa quen luồng lạch, đành chịu bỏ mục tiêu.
Trời nổi gió và mưa lớn. Thậy là một ngày « đẹp trời ».
Tàu 42 neo cạnh một hòn đảo hoang. Hải âu từng đàn từ xa bay tới đậu trên tàu để tránh gió. Năm sáu con chui hẳn vào trong khoang. Các thuỷ thủ trẻ hò nhau bắt chim hải âu ; họ đóng sập cửa lại. Những con chim biển ngây ngô bay lao vào cửa kính rồi rơi xuống. Anh em được bữa reo cười thỏa thích. Chim hải âu màu đen to như con ngỗng, có cặp mỏ bè ra đến lạ. Họ chuyền tay bóp vào cái diều no căng của nó, nó nhè ra ba con cá mực. Thấy hiện tượng lạ, anh em cười nói ồn ào :
- Sơ sơ cũng gần một kilôgam mực. Nếu nuôi được ba con này, bắt nó đi kiếm cá là đủ cho gia đình xài phong lưu.
- Nhưng cả gia đình đi kiếm cá cũng không nuôi đủ ba con hải âu này.
- Há há .. làm thịt, nấu cari, mình đang thiếu thức ăn.
Hùng, Hạc xúm lại vặt lông chim. Vài thủy thủ ham câu cá, tìm ra mồi câu, khoái trá reo lên :
- Đây rồi, chim ăn cá, bây giờ ta cho cá ăn chim.
- Thôi các ông ơi. Lấy vừa thôi còn để làm bữa ca-ri chim.
- Tanh ngòm, đã chắc gì ăn được, để mình kiếm con cá hồng ăn chơi.
Vừa thả câu vài phút đã có tiếng reo hò. Một anh câu được con cá bống mú nặng tới 50 kg và con cá nhồng đang dẫy đành đạch trên mặt boong.
- Đổ thịt chim để lấy nồi nấu cá đây !
- Vùng biển này cá cứ như thả trong chậu ấy. Vừa thả câu xuống đã có cá cắn rồi. Sau này bình yên, đến đây đánh cá, bắt chim đời sống cũng đủ ung dung.
- …
Trời có triệu chứng sắp bão. Mưa gió tăng dần . Con tàu lắc lư như điên. Để tàu ở đây khó tránh khỏi chìm nếu bão đến. Chi bộ bàn bạc và quyết định nhổ neo, tiếp tục hành trình, lợi dụng thời tiết xấu để né tránh địch.
Sáng ngày mồng 7 tháng 9 năm 1967, tàu 42 đã vượt qua đảo Hoàng Sa về phía tây bắc. Mưa dữ dội, tầm nhìn bầu trời nối với mặt biển một màu xám đục, tầm nhìn không vượt quá một hải lý. Con tàu 42 nhào lên ngon núi nước khổng lồ , rồi lại ở dưới vực sâu thẳm. Suốt một ngày đường không gặp bóng tàu thuyền qua lại.
Nhận được điện tàu 42 đã về đến vịnh Bắc Bộ an toàn, đại diện Bộ tư lệnh Hải quân, đại diện Bộ Tổng Tham mưu đã đến bến Đá Bạc chờ đợi. Tàu vừa cặp bến, mọi người không kìm được xúc động. Đồng chí Tư lệnh Hải quân, nước mắt chảy tràn, ôm lấy thuyền trưởng Bé và nói trong tiếng nấc :
- Các đồng chí thành công trở về thật đáng mừng .. Nhưng .. nhưng .. các đồng chí về .. Bác Hồ đã đi xa. Giá Bác còn sống, chắc Bác sẽ khen ngợi .. chuyến đi này.
Năm 1970, quân khu 9 ở vào tình thế rất khó khăn. Vùng giải phóng vẻn vẹn còn lại một phần rừng U Minh và rừng Đước – Cà Mau. Bộ đội phải chiến đấu triền miên, nhưng các nguồn bổ sung quân số và vũ khí hầu như không có.
Từng ngày, những khó khăn chung của quân khu đều tác động tới đoàn 962, đơn vị bến mật. Nhiều cán bộ, chiến sĩ làm công tác ở bến, chuyển về bổ sung cho đơn vị chiến đấu. Số thủy thủ của tàu 100, tàu 69 (đoàn 125) mắc kẹt ở bến Vàm Lũng, được biên chế thành một phân đội thuộc đoàn 962, nghiễm nhiên trở thành lực lượng bảo vệ bến. Riêng đội tàu 69 có thêm nhiệm vụ bảo vệ con tàu của mình.
Con tàu nằm buồn thảm trên cái rạch cạn, những vết thương chằng chịt trên thân nó chưa được hàn vá, những đám gỉ mỗi ngày một loang rộng không được sơn lại. Hàng ngày anh em đến thăm con tàu đã cùng mình sinh tử trong trận chiến đấu để vào bến, nhưng chẳng có cách gì để hồi phục nó như xưa. Ngày tháng qua đi, càng vơi dần hy vọng con tàu này sẽ cùng với mình vể miền Bắc.
Những khó khăn dồn đến, những trận chiến đấu liên tiếp, anh em thủy thủ quên mình là người lính biển, hòa mình vào cuộc sống chung của bến. Đã hơn một tháng nay trên không cấp sinh hoạt phí, phải tự lo liệu lấy để sống. Giá như lúc này căn cứ của bến ở thời kỳ thịnh vượng, một người có thể chạy vạy nuôi được hai người. Độ này một bước đi cũng canh cánh việc sẵn sàng chiến đấu, thời gian để săn bắt còn rất ít ỏi. Từ sáng sớm, Thập rủ Hai, thuyền phó đi câu cá. Vừa ra khỏi lán đã nghe thấy tiếng súng nổ như pháo rang ở phía Rạch Gốc.
Hai nói với Thập :
- Ta ra câu ở cửa vàm vừa xem hoạt động của địch thế nào – Hai nói với anh em ở nhà – Các cậu ở nhà đừng lăn ra ngủ hết, nó đến là ăn cám đó. Nghe súng gần lắm !
Hai anh em ra đến cửa Vàm, nhìn mặt biển vằng ngắt không có một bóng thuyền. Tiếng súng nổ ở phía Rạch Gốc thưa dần rồi im lặng. Họ yên tâm quăng mồi câu xuống nước. Không đầy ba phút, Thập đã giựt lên con cá ngát, nặng tới một ki-lô. Anh dựa tay nắm lấy đầu cá gỡ ra khỏi lưỡi câu, nhưng tỏ ra không hào hứng lắm.
- Ăn mãi loại cá « rau muống » này phát ngán lên được ! – Thập nhét con cá vào bao bố rồi đẩy về phía sau, nói tiếp – Anh xem hàng ngày chúng ta có thể cử một người đi đánh bẫy lợn rừng xa hơn được không.
Hai vẫn im lặng nhìn cái phao bị gió đưa lắc lư. Thập nói tiếp :
- Giá như độ này còn con Giôn cũng có thể cải thiện bữa ăn khá hơn.
- Mình nhớ mãi lần bắt con kỳ đà trên cây mắm. nó nhào xuống, nếu như không gặp con Giôn thì mất tong. Con kỳ đà ấy bự nhất trong số chúng ta bắt được.
Câu chuyện đã gợi họ hồi tưởng vài kỷ niệm vui nho nhỏ về săn thú, từ khi bị mắc kẹt ở bến. Hồi đó, mấy ngày đầu chẳng có việc gì để làm, mấy cậu máu mê đi săn cứ bám riết lấy anh Ba Cụt ( Ba Trung) để học nghề săn bắt. Những câu chuyện đã pha chút huyền thoại vể những chuyến đi săn thú của anh Ba Cụt càng làm tăng thêm sự hấp dẫn mấy thủy thủ trẻ. « Ông chúa sơn lâm » ấy đã đi vào rừng là không bao giờ chịu về tay không ; chí ít cũng phải xách về một con cầy hoặc con kỳ đà. Có lần anh Ba đánh bẫy được ba con lợn, con lớn nhất nặng hơn một tạ, nó bị đâm một nhát, nhưng đã giựt chân ra khỏi bẫy, rồi nhào tới húc vào anh Ba. Anh chỉ kịp né một bước, con lợn hung dữ đã vượt qua trước mắt. Như người khác, thì chắc là sẽ bỏ chạy, nhưng anh Ba lập tức nhảy một bước dài theo con lợn và phóng mũi lao cắm ngập vào sườn nó, rồi ấn mũi lao cho tới khi nó chết mới thôi. Nhiều chuyện đại loại như vậy nói về người thương binh đã cụt một bên tay. Cậu Thập đã được anh Ba Trung truyền nghề cho và thực hành có kết quả. Đôi khi trong đội đã được ăn bữa thịt kỳ đà, hoặc bữa chè trứng kỳ đà lạ miệng. Thập luôn ước ao có một con chó săn. Ai đã sống ở rừng đều thấy được giá trị của con chó săn, nếu có nó sẽ làm cho người đi săn đớ tốn sức và hiệu quả tăng lên. Nhưng các thủy thủ không có một đồng xu dính túi, thì cái biết và ước muốn cũng đành xếp lại.
Một lần đi công tác, ở nhờ nhà dân, nhà chủ có ba con chó con gày guộc, ghẻ lở, Thập chăm sóc mấy con chó đó như của chính mình, đun nước lá đắng tắm cho chúng, câu cá cho chúng ăn. Chỉ hơn một tuần lễ, đám chó con đã hết ghẻ. Bà chủ nhà thấy vậy mừng quá, nói với Thập :
- Nếu không có chú chữa chạy thì nó cũng đến chết mất. Chú thích nuôi tôi biếu chú một con.
Thập khiêm tốn nhận con chó còi nhất đàn. Anh bế nó về đơn vị.
Anh đặt tên con chó là Giôn. Được chăm sóc đặc biệt, không mấy bữa thiếu cá hoặc cua trộn với cơm, bụng cu cậu lúc nào cũng no căng và Giôn lớn nhanh như thổi. Sớm sớm, Giôn chạy theo Thập vào rừng để tập luyện, tìm hang cầy cáo hoặc theo dõi dấu chân của lợn cỏ. Giôn tỏ ra con nhà dòng dõi đi săn, có cái mũi rất thính, thoáng thấy hơi con mồi là sủa nhặng xị lên. Một vài lần nó đã đuổi theo kỳ đà nhưng nó cũng chưa lập được kỳ công nào.
Buổi chiều hôm ấy, sau bữa cơm anh em đang ngồi bù khù với nhau, nghe tiếng con Giôn sủa rất dữ. Anh em phán đoán :
- Cái thằng này lại gặp hang chồn gì đó thôi.
- Có thể là kỳ đà, nếu thấy hơi không thôi thì không sủa như vậy.
Nhiều anh em còn chưa tin Giôn giữ nổi đối thủ lớn hơn mình. Riêng Thập hiểu kỹ về nó, nghe tiếng sủa vội vã thúc giục như thế, chắc chắn sẽ gặp con mồi to. Anh ra khỏi lán, cầm theo mũi lao chạy nhanh về phía con Giôn đang sủa.
Con lợn rừng bị Giôn đẩy lui vào đám rễ đước, đang ngoạc cái mồm sần sẹo « hộc .. hộc .. » đớp vào không khí. Ăn chắc rồi « Suỵt .. suỵt, suỵt » Thập ra hiệu cho con Giôn tiến công mạnh hơn. Con chó tinh khôn quá thể, vừa thấy chủ để nó đã xô vào gần con lợn. Lợn đang mải nhìn chó, Thập tới được khoảng cách thuận tiện, phóng mũi lao xuyên qua mạng sườn con lợn. Nó kêu « ẹc, ẹc » như bị cắt tiết. Mấy cậu khoái chí reo lên :
- Hoan hô Thập .. hoan hô cả Giôn nữa.
- Đừng xỏ xiên nhau nữa .. thôi xắn tay lên khênh về đí.
- Phải có chất cay vào mới dậy mùi .. cậu nào xung phong đi kiếm.
Thật thú vị, khi cuộc đi săn không tốn sức mà đạt kết quả. Giôn càng được đơn vị cưng, nhất là Thập. Một lần Giôn bị rắn hổ đước cắn, sưng phù người lên, tưởng chết. Tới bữa, Thập đổ cháo, đổ sữa cho nó ăn. Nửa đêm thẩy nó rên ư ử, anh vùng dậy vuốt ve, an ủi nó. Cũng may cơn hoạn nạn của Giôn qua khỏi. Thập càng quý con Giôn bội phần. Thỉnh thoảng anh lại bắt nó há mồm, thè cái lưỡi đốm đen ra khoe với mọi người « Đó thấy không, loài chó đốm lưỡi này hổ đước cắn không chết đâu nhé ».
Sau những vũ khí, Giôn trở thành tài sản rất quý của đội tàu 69. Ở vùng rừng đước này nếu ai có đàn chó săn khoảng bốn, năm con là có thể nuôi cả gia đình sống đường hoàng. Khi người ta lùa đàn chó ấy ra rừng, trong một ngày chí ít cũng đưa về cho chủ ba đến năm ki lô thịt thú rừng. Con Giôn đã góp công vào việc cải thiện bữa ăn của đội tàu 69. Những bữa thịt gà xé phay, những bữa thịt chồn đậm đà, những bữa thịt lợn rừng .. nặng đũa ngon lành. Nhiều lần săn về, ăn không hết, anh em đã nhờ dân đem bán lấy tiền mua các thứ cần dùng khác.
.. Hai anh em chuyện trò về thời hoàng kim của việc săn bắt, nhưng thỉnh thoảng lại nhìn ra biển. Tiếng súng ở phía Rạch Gốc chừng như xê dịch vào bên trong, mỗi lúc một tăng lên. Nghĩ tới tình huống địch có thể nghi binh, Hai sốt ruột, cầm cần câu trở về.
Vài chục phút sau, từ cửa Rạch Gốc có bảy chiếc tàu BCF lao ra biển hướng về cửa Lũng.
Ở nhà nghe thấy tiếng động cơ tàu, anh em đã chuẩn bị sẵn sàng. Thấy Thập hớt hải chạy về, không cần hỏi, mọi người đã biết có tàu địch vào cửa vàm.
- Bảy chiếc .. có thể vào chỗ chúng ta.
Nghe Thập nói dứt câu, mọi người đã vác súng chạy ra trận địa. Anh em nhanh nhẹn vào các vị trí đã quy định.
Thuyền phó Hai nhìn dọc sông ra phía biển. Dòng sông nước đục ngầu uốn khúc vào sau rừng đước. Anh nghĩ tới trận đánh sắp diễn ra. Lực lượng của mình vẻn vẹn chỉ có sáu người, khẩu B.40 có hai quả đạn, khẩu đại liên và hai tiểu liên. Nếu địch đổ quân lên, giỏi lắm kéo dài trận đánh được một ngày, rồi sau đó ra sao ..
Ý nghĩ đó của Hải bị cắt đứt bởi những tiếng gầm rú của tàu địch tới gần. Hai nắm chặt bình ắc quy, sẵn sàng cho nổ quả mìn định hướng vào tàu địch. Các mũi súng của Thập, Kiểu, Khảm, Đính đều hướng về cửa vàm.
Trận địa im lặng căng thẳng. Một chiếc tàu nhỏ màu xám vừa hiện ra ở chỗ ngoặt.
- Chuẩn bị !
Hai vừa dứt lời, một chiếc tàu đã vụt qua trước mặt. Quý bắn hụt. Quý lắp vội viên đạn thứ hai vào súng. Chiếc tàu thứ hai của địch vừa tầm bắn, lập tức viên đạn B.40 của Quý lao tới, đồng thời một đám lửa hình sao chổi ở quả mìn định hướng của Hai chụp lên tàu địch. Chiếc tàu bốc cháy, bọn lính trên tàu hoảng hốt nhào xuống sông. Ngay lúc đó, đại liên, tiểu liên của Đính, Thập bắn quét làm chúng gục ngã, chết chìm không đứa nào thoát. Những chiếc tàu khác vội vã quay ra biển.
Bẵng đi một thời gian dài không có trận đánh nào xảy ra ở khu vực cửa Lũng. Lúc nhàn rỗi trong rừng, những thủy thủ càng cảm thấy mình bị tù túng. Tiếng sóng ầm ì của biển và khi nước triều lên lại gợi họ nhớ tới những chuyến đi. Họ thường gặp nhau để ôn lại những ngày sống phóng khoáng trên biển.
Sớm nay, anh em ngồi xúm xung quanh ấm trà. Nghe tiếng « xành xạch » của máy « đuôi tôm » đi qua, thuyền trưởng Xả nói :
- Tao thấy sáng sớm nay xuồng máy của anh Ba Cụt đi ra cửa vàm, hình như có tàu vào.
Anh em nín thở nghe cái tin của Xả đưa , rồi ồn ào bàn tán :
- Cần quá rồi ! Chỉ cần một chuyến tàu vào lúc này cũng có ý nghĩa rất lớn. Đấy các anh xem, súng đạn của đoàn này còn có gì nữa. Đánh tàu mà cứ phải mót từng viên đạn b.40 thối, đi kiếm từng quả bom lép như du kích thời đánh Tây ấy. Chọi với thằng Mỹ mà vũ khí của quân chủ lực như thế thì cò cưa đến bao giờ. Tôi tin chắc Trung ương đã nắm được tình hình này. Nghe tin các cậu ấy chiến đấu ở trên lộ Vòng Cung ( Cần Thơ ) còn cực gấp mười lần ở đây.
- Thế cậu tưởng ngoài kia không tích cực à ? Chẳng qua khó khăn quá, thì phải chịu chứ. Chúng mình chỉ còn thiếu chết mới vào tới đây rồi đành mắc kẹt.
- Vấn để là thời cơ. Chẳng lẽ để chúng vây mãi.
- Thời cơ ! Chuyện đó chẳng đơn giản chút nào. Tôi thấy chỉ còn một cách cho đi nhiều chuyến theo đường biển quốc tế. Bến phải có điện đài liên lạc với tàu, khi bến êm là gọi tàu vào.
- Thôi ông ơi ! Điều đó không phải chờ ông mách nước. Tôi hỏi mắt của bến nhìn xa được bao nhiêu hải lý nào.
- Tranh luận làm quái gì. Có nóng ruột cũng vô ích. Lúc nào có thời cơ, suy mình ra, cũng không bỏ lỡ.
Nhiều lần họ đã trao đổi với nhau nội dung như vậy. Lần nào bàn bạc cũng sôi nổi, có khi nóng mặt to tiếng rồi lại xẹp đi và chuyển nội dung sang hướng khác.
Thấy mọi người im lặng, vừa lúc đó có tiếng bìm bip kêu, Bé pha trò :
- « Kịp .. kịp .. kịp » .. đố biết tại sao con bìm bịp lại kêu như vậy ?
- Cậu thử kể nghe chơi.
- Ngày xưa có một người cho ông bạn láng giếng bên kia sông mượn một cái chảo, lúc nước đang lên thì ông ta đòi. Người mượn bảo không kịp. Ông ta la lên « kịp kịp kịp ». Ông bạn hàng xóm đội chảo ra tới giữa sông, nước lên to lôi đi và chết đuối. Hồn ông ta hóa ra con bìm bịp. Và từ đó, cứ lúc triều lên thì bìm bịp lại kêu lên ai oán « kịp kịp kịp ».
Cô giao liên đến, nói xen vào giữa tiếng cười vui vẻ :
- Các anh có chuyện gì vui thế ?
- Chuyện riêng không kể cho đàn bà con gái nghe được ?
- Em cũng chẳng cần nghe .. Lệnh của thủ trưởng đoàn : Anh Xả và anh Hai bàn giao công việc lại cho anh Bé, đi về đoàn ngay nhận công tác.
- Việc gì mà gấp thế.
- Em chịu .. không biết.
Hai và Xả bàn giao công việc, đeo bòng lên lưng rồi tạm chia tay với đơn vị.
Chính ủy đoàn khi trao việc chỉ nói với họ vài câu « Các đồng chí quen sông nước.. Đoàn tổ chức một bộ phận đi đo lại độ sâu của các bến, anh em đã tập trung đầy đủ. Tối nay có xuồng đưa các đồng chí tới đó để hướng dẫn anh em.
Hai thầm nghĩ : một việc bình thường của bến, sao lại phải làm gấp vội như vậy. Chắc có gì bí mật, chính ủy chưa tiện nói .
Đêm hôm đó, xuồng đưa họ vượt qua sông Thủ vào Lán Nước, nhìn thấy ánh đèn xanh chớp, người lái xuồng tắt máy, rồi cặp mạn chiếc xuồng vừa phát tín hiệu.
- Các anh chuyển sang xuồng này.
- Anh Xả, anh Hai phải không ? Khỏe chứ ?
- A cánh ta cả.
Hai và Xả bước sang chiếc xuồng bến, cùng ngồi lên những hòm đạn. Ở dưới chân họ là những bó súng AK vẫn còn lớp mỡ bảo vệ.
Hai rỉ tai với Xả :
- Cái gì đây, ông thử đoán xem.
- Súng đạn, thuốc men vừa mới đưa vào.
Xả nắm tay Hai, biểu thị sự thông cảm niềm vui vừa được phát hiện. Nhìn hai bên bờ rạch thấy từng đám cây đước vừa bị chặt, họ càng tin điều mình vừa phán đoán là đúng.
Đến địa điểm tập trung « Những người đi đo mức nước ». Hai chiều đèn pin vào trong lán, thấy màn mắc chật ních. Anh lật màn nhìn từng người. Tuy đã nghĩ đến, nhưng được nhìn thấy anh em cùng đơn vị vừa từ miền Bắc vào vẫn làm cho Hai sung sướng bất ngờ. Thuyền trưởng Đỗ Văn Bé, thuyền trưởng La Văn Tốt, chính trị viên Viễn ..
Tốt đang nói chuyện với Viễn, thấy ánh đèn chiếu vào màn, anh ngồi dậy hỏi :
- Ai đó ?
- Hai, Xả đây. Anh em chúng tôi chờ đợi ..
Họ xúc động vui mừng ôm chặt lấy nhau không nói lên lời. Rất lâu câu chuyện mới trở laị mạch lạc. Theo yêu cầu của Hai và Xả, Tốt và Viễn kể lại chuyến đi và tình hình đơn vị ngoài Bắc ..
- Trước chuyến đi vào đây đã có chuyến đi trinh sát – Tốt thì thầm kể - chuyến đi trinh sát ấy do cậu Bé phụ trách đã tìm một con đường tránh sự theo dõi của địch. Chuyến đi này ngang tới Côn Đảo, máy bay địch bay thấp qua trước mũi tàu của mình. Ngay từ khi nghe có tiếng máy bay, tàu mình đã tắt đèn hành trình. Nó bay qua rồi không thấy trở lại, không biết nó đã phát hiện được mình chưa. Khi vào gần bờ khoảng mười hải lý, gặp ba ánh đèn tàu ngược chiều, chúng mình cho tàu chạy bọc hậu những tàu kia rồi vào bờ an toàn.
- Các anh vào chuyến này đẹp quá. Đúng lúc các đơn vị chiến đấu đã cạn nguồn vũ khí.
- Chuyến đi này , cả lãnh đạo cũng như anh em mình quyết tâm rất cao. Sẵn sàng chấp nhận một trận đánh ác liệt, kể cả phá tàu. Ngoài đó cũng biết tin trong này đang thiếu vũ khí. Chuyến đi này có hai nhiệm vụ, một là đưa kỳ được tàu vào bến dù có trả giá để anh em mình có vũ khí, hai là đón các cậu về ngoài ấy.
- ....
Đã lâu ngaỳ sống trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, bạn bè xa cách nhau, bây giờ mới được gặp lại, họ kể cho nhau nghe hết chuyện này đến chuyện khác, tưởng như không bao giờ dứt.
PHÁ PHONG TỎA
1
Đợt tiến công « bốn mũi » nếu xét về hiệu quả công tác vận tải thì không thành công, nhưng đứng trên bình diện chiến tranh để xét, lại hoàn toàn khác. Những đội tàu của chúng ta đã hành động vượt xa sự tưởng tượng bình thường, đã chiến đấu rất xuất sắc và giành được thắng lợi.
Dù sao thực tế trên biển vừa qua cũng buộc người chỉ huy vận tải phải dừng lại để tìm hiểu thêm về tình hình địch và nghiên cứu chiến thuật mới mới mong phá vỡ có hiệu quả sự phong tỏa của địch.
Tạm dừng vận tải đường dài trên biển lần này đúng vào thời kỳ mới của cuộc chiến tranh. Thời kỳ « chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam của ta sang một thời kỳ mới – thời kỳ giành thắng lợi quyết định » ( Nghị quyết lần thứ 13 của Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng, tháng 1-1968 ). Thời kỳ « chúng ta đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn, đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược ». Sau những thất bại nặng nề ở cả hai miền, đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Ở miền bắc, chúng phải ngừng ném bom không điều kiện, ở miền Nam, chiến lược « chiến tranh cục bộ » của Mỹ bị quân và dân ta đánh bại một bước rất cơ bản.
Việc mở rộng côngg tác vận tải trên tuyến đường Trường Sơn đang có nhiều thuận lợi. Trung đoàn 125 nhận lệnh của Bộ Tổng Tham mưu tham gia chiến dịch vận tải VT5, một chiến dịch đưa hàng ào ạt vào lậo chân hàng cho công tác vận tải đường bộ.
Cùng ngày Giôn-xơn tuyên bố ngừng ném bom ở miền Bắc (1-11-1968), hai chiếc tàu của đoàn 125 đã di chuyển vào sông Gianh mở màn cho chiến dịch.
Khí thế thi đấu mới như một cơn lốc cuốn hút tâm trí các thuỷ thủ. Một lần nữa, đoàn 125 anh hùng nêu cáo truyền thống vinh quang của mình. Qua 90 ngày đêm vận chuyển liên tục, đoàn đã vượt 217,3% chỉ tiêu của cấp trên đề ra.
Trong lúc đơn vị đang làm công tác vận tải trên miền Bắc, một kế hoạch tuyệt mật do Bộ tư lệnh Hải quân tiến hành nghiên cứu đã được Bộ Tổng Tham Mưu xét duyệt. Có thể gọi tên nó là « Kế hoạch phá phong tỏa ». Bản kế hoạch đó do Bộ tư lệnh Hải quân trực tiếp điều khiển từng bước rất chặt chẽ.
Ngày 12 – 8 -1969, đội tàu 42 nhận được lệnh vào Nghệ An, đưa tỉnh ủy đi nghiên cứu một số hòn đảo và ven biển của tỉnh.
Lệnh đi gấp, không kịp chuẩn bị như các chuyến đi thường lệ. Anh em thủy thủ thắc mắc « Không hiểu tỉnh ủy Nghệ An nghiên cứu gì mà vội vã thế. Nếu đi dài ngày thì lấy dầu mỡ , lương thực ở đâu ? »
Đồng chí Chi, phó tham mưu trưởng đoàn 125 là người chuyền đạt mệnh lệnh đã giải đáp gọn lỏn « Mọi thứ đã có tỉnh ủy Nghệ An lo ».
Thuyền trưởng Trường Sơn hạ lệnh nhổ neo, nhưng anh vẫn chưa thông. Chỉ có một đoạn đường từ Hải Phòng vào Nghệ An mà phải đưa cán bộ nghiệp vụ hàng hải xuống làm hoa tiêu, sao không để cán bộ thuyền tự lo liệu.
Nghe tiếng chuông rung, các thủy thủ của tàu bạn ra chào hỏi xôn xao :
- Các cậu đi đâu đấy ?
- Nghệ An.
- Cặp ở Cửa Hội, tranh thủ tí, khoái nhỉ ?
- Tạm biệt nhé ! ..
Trường Sơn đứng bên cạnh phó tham mưu trưởng Chi và chính trị viên Trần Ngọc Ẩn trên đài chỉ huy : họ im lặng nhìn dọc theo dòng sông Cấm. Trường Sơn suy nghĩ miên man, quên phắt điều phó tham mưu trưởng đoàn nói trong mệnh lệnh « Đồng chí Thu, trợ lý hàng hải của đoàn sẽ dẫn đường chuyến đi ». Khi thấy tàu ngoặt vào dòng sông đào, anh hét to :
- Sao lại ngoặt về hướng ấy ?
- Lệnh của đồng chí Thu.
Muốn đi Nghệ An phải qua cửa Nam Triệu ra vịnh Bắc Bộ, con đường ấy trình độ hàng hải hạng bét cũng hiểu. Sao Thu lại có thể lầm lẫn được.
Tuyến đường con tàu đang lao tới, sẽ về đâu, có người đã ngầm hiểu. Ẩn ghé vào tai Trường Sơn :
- Đến đây là rõ rồi.
- Sao ?
- Chậm hiểu quá. Đi chơi với hạm đội 7 chứ sao.
Trường Sơn cười cởi mở và đưa bàn tay to bè ra nắm chặt lấy bàn tay Ẩn.
Cùng khoảng ngày tàu 42 nhổ neo, đoàn 125 có biến động nhỏ về nhân sự và vài cuộc chia tay vội vã.
Anh Thôi Văn Năm nghiệp vụ cơ điện của tiểu đoàn 4 nhận lệnh thuyền trưởng về trung đoàn 126. Y tá Dấu đang ở trạm xá, được lệnh chuyển về đoàn bộ ..
Riêng việc thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé « bắt buộc » phải chia tay đột ngột, đã gây ra buồn phiền cho đội tàu 68. Cách đây ít bữa, viện kiểm soát của quân chủng đã gọi Bé lên hỏi cung về việc đơn vị anh đã để đắm một chiếc tàu trong chiến dịch VT5. Từ hôm đó, rộn lên dư luận « thuyền trưởng Bé có thể bị đi tù ». Anh em trong đoàn xôn xao về vụ này. Họ tỏ thái độ bênh vực thuyền trưởng Bé « Tòa án cũng phải xét chứ, cứ lý lẽ trần trụi như vậy nghe không xuôi ». « Việc xếp hàng không đúng quy cách để tàu đắm không phải do anh Bé gây ra. Chức trách của thuyền trưởng không phải là xếp hàng hóa ». « Vả lại cũng phải chiếu cố công lao của anh ấy. Vào sống ra chết, đi hàng chục chuyến đưa vũ khí vào chiến trường ». « Trình độ chuyên môn, tinh thần, đạo đức không chê vào đâu được, chỉ vì sơ ý có một lần mà xóa sạch cả cuộc đời người ta à ? ». Dư luận ồn ào một hồi rồi cũng lắng xuống, vì Bé vẫn là thuyền trưởng và chẳng có tòa án nào hỏi.
Mọi người vẫn đinh ninh rằng : Khuyết điểm của Bé chỉ đến hạ chức hoặc cảnh cáo là cùng. Đột nhiên hôm nay có lệnh của quân pháp xuống « bắt » thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé.
Thủy thủ tàu 68 bàng hoàng trước giờ tạm biệt với người thuyền trưởng tài năng, dũng cảm và đáng yêu ; họ không biết nói gì với anh trước cảnh chia tay đáng buồn này.
Một thủy thủ không kiềm chế nổi xúc động, để nước mắt chảy tràn , xô tới ôm chặt thuyền trưởng Bé :
- Dù bao giờ .. dù thế nào tôi vẫn nghĩ rằng : anh là cán bộ tốt.
Chiếc com-măng-ca của Bộ tư lệnh Hải quân đã đứng chờ bên lề đường Hồng Bàng ( Hải Phòng). Đại úy phó tham mưu trưởng Nguyễn Ngọc Ẩn đứng bên cạnh xe chờ đợi. Anh được giao nhiệm vụ đón một số anh em để đưa đến một địa điểm bí mật, không được phép phổ biến . Đến đó để làm gì, anh chưa hiểu. Từ lâu do yêu cầu của công tác đặc biêt, đã trở thành một thói quen, không phải việc của mình không hỏi, không nói, nhưng cái tên địa điểm kia, đã gợi anh nghĩ đến một chuyến đi xa.
Thượng úy Trần Phong đang công tác ở Hà Nội nhận được điện « về ngay ». Khi xe khách Hà Nội – Hải Phòng dừng lại bến, Phong lật đật đi bộ đến địa điểm hẹn. Gặp Ẩn, sau cái siết tay chặt , Phong hỏi ngày :
- Việc gì mà khẩn trương thế anh ?
- Họp hành gì đó.
- Không phải .. chắc có nhiệm vụ mới.
Ẩn im lặng không tiếp câu hỏi của Phong đặt ra. Phong linh cảm thấy mình sắp nhận một nhiệm vụ gì đó hết sức quan trọng.
Một lát sau thấy anh thợ máy Thôi Văn Năm khệ nệ xách vali tới : tiếp đến một trợ lý bảo vệ của quân chủng đi cùng với thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé ..
Số người đã tới đủ. Ẩn cho xe chạy. Xe qua bến đò Bình, qua Thủy Nguyên .. rồi dừng lại ở Đá Bạc. Mọi người xuống xe, nhìn ra bến đã thấy tàu 42 đậu ở đó.
Thuyền trưởng Trường Sơn và chính trị viên Ẩn mời họ xuống tàu. Tất cả những điều anh em suy nghĩ từ lúc nhận lệnh, đến đây đã bật lên tiếng nói « Vào Nam ».
Mắt thuyền trưởng Bé long lanh tha thiết, nhìn những nụ cười đang mở trên môi các bạn mình.
Đã lâu lắm rồi, anh em mới được nhận nhiệm vụ với không khí đặc biệt trọng thể như thế này. Đại tá Tư lệnh, đại tá chính ủy Quân chủng Hải quân, đại diện Bộ Tổng Tham Mưu tới động viên, kiểm tra. Cùng một lúc, hậu cần phát ba bộ quần áo, giày dép đúng thời trang Hong Kong. Các nhu yếu phẩm khác như thuốc lá, rượu, thuốc đánh răng .. đều được cấp bằng loại hàng của các nước phương Tây hoặc không có nhãn hiệu. Tất cả thứ gì, từ cái máy lửa, bút chì .. có dấu hiệu của miền Bắc đều gửi lại.
Tàu 42 đã được lột xác từ màu xám tro thành nhiều màu sắc : dưới mạn là màu xanh da trời, đái chỉ huy sơn trắng, các đường viền màu vàng đỏm dáng, với cái tên bằng chữ ngoại quốc. Cả trang phục của người và của con tàu đều mang dáng dấp nghiên cứu biển.
« Hoàn thành được chuyến đi này, là một thành công lớn, là một chuyến đi anh hùng ; một chuyến đi lịch sử nối lại con đường biển chiến lược ; một chuyến đi phá vỡ thế phong tỏa của bọn Mỹ-ngụy. Trong lúc các đồng chí đi, không chỉ riêng Bộ tư lệnh mà Bộ Chính trị, Quân ủy TW cũng rất quan tâm theo dõi .. ».Tầm quan trọng được đồng chí Chính ủy quân chủng chỉ ra và ngay cả trong công tác tổ chức chuyến đi cũng nói rõ điều đó. 100 % cán bộ và thủy thủ là đảng viên được lựa chọn. Thuyền trưởng Trường Sơn tạm xuống làm phó cho thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé. Ngoài ra còn tăng cường thêm hai thuyền phó nữa. Phó tham mưu trưởng Nguyễn Ẩn, thượng úy Trần Phong làm chuyên gia cho cán bộ thuyền. Đội ngũ từ máy trưởng , thủy thủ trưởng trở nên hầu hết là người tài năng, dũng cảm, đã lập nhiều chiến công trên đường biển.
Nhiệm vụ của đội là tìm một con đường bất ngờ đối với địch và trinh sát một số đảo đặt bến trung chuyển. Hải trình theo đường biển quốc tế qua Hoàng Sa, tới vùng biển Philipin , Malaysia rồi vòng về vịnh Thái Lan, tìm hiểu các đảo Nam Du, Thổ Châu ..đi chừng 4000 hải lý.
Chuyến đi viễn dương khó khăn nhất, đường dài nhất lần đầu tiên của quân chủng đã gây ra một tâm trạng chộn rộn khác thường. Ai cũng háo hức và lo lắng lao vào công tác chuẩn bị tất bật. Họ dồn hết sức lực để chuyến đi đạt kết quả cao nhất. Trong lúc các thủy thủ tập thao tác chiến đấu trên biển, cán bộ thuyền ngồi quây quần xung quanh hải đồ để nghiên cứu hướng đi và dự kiến đối phó với các tình huống.
Thuyền trưởng Bé vốn điềm đạm ít nói, cái « vấp » vừa rồi làm cho anh trầm lặng hơn. Mặc dầu đến lúc này trong lòng anh đã thanh thoát không bận bịu tới « vụ án » đắm tàu, nhưng anh vẫn ít cười ít nói. Sau khi nghiên cứu phương án hành quân xong, anh đến chỗ thủy thủ tập bắn, đến buồng máy kiểm tra, hỏi han từng thủy thủ.
Mọi công việc đã chuẩn bị xong. Buổi chiều, trước giờ xuất phát mới có chút ít thì giờ ngồi bù khú với nhau. Những chuyện do yêu cầu bí mật của chuyến đi sinh ra những giai thoại khá lý thú. Khi nói đến chuyện của thuyền trưởng Bé, đại úy Nguyễn Ngọc Ẩn hỏi Bé .
- Tôi là chánh án, kết án anh « tù đứng » lưu động một tháng trên biển. Chịu không ?
Bây giờ mới thấy thuyền trưởng Bé cười thực sự, cười mà nước mắt cứ trào ra. Bé nói :
- Trong cuộc đời bộ đội có việc gian khổ, nguy hiểm hơn cả ngồi tù .. mình vẫn sẵn sàng chọn việc ấy. Nhưng nói đến ngồi tù thì thật đáng sợ, đáng nguyền rủa – Bé ngoảnh sang nói với Ẩn – vì vậy cái án của tôi, tôi xin vui lòng chịu tù ba đến năm tháng tù như anh kết án.
Mọi người cười ; chuyện trò vui vẻ, cứ như thế kéo dài tới giờ tàu nhổ neo.
Đi được 4 ngày (24-8-1969), tàu 42 đã bắt được điểm chuẩn Hòn Đông như dự tính. Niềm tin ở sự dẫn đường của cán bộ thuyền trong anh em thủy thủ tăng lên. Các thuyền trưởng xếp Bé vào hàng « đáng kính nể về nghiệp vụ hàng hải thiên văn », điều đó không có gì quá đáng.
Sau khi bắt được Hòn Đông (quần đảo Hoàng Sa), tàu tiếp tục đi qua quần đảo Trường Sa ; đoạn đường này rất nhiều đá ngầm lập lờ dưới mặt nước. Nơi đây ít ra cũng có tới hàng chục tàu, thuyền bỏ xác lại, không bao giờ trở về được lục địa nữa. Luồn lách trên một phần đảo ngầm không chỉ là sự táo bạo, mà trước hết là phải tài năng mới có thể lọt qua được cái trận đồ bát quái ấy.
Thuyền trưởng Bé không giây phút nào rời mắt khỏi vùng biển lạ. Những quãng sáng lạc lõng, những màu sắc thay đổi trên mặt biển cũng lưu ý anh. Hải đồ không thể nào chỉ dẫn hết được sự thay đổi địa hình dưới mặt nước. Vả lại còn độ giạt, độ lệch do sóng gió, thủy lưu hoặc tính toán chưa chuẩn xác gây ra. Nếu sơ hở một chút thôi cũng có thể gánh lấy tai họa khôn lường.
Tàu vượt ra khỏi khu vực đá ngầm, đi theo tuyến đường quốc tế. Một chiếc máy bay P.3B đang vòng lượn trên một chiếc tàu buôn. Ẩn nói với Bé :
- Nó vờ vịt làm như kiểm soát hết thảy các con tàu nhưng vẫn chú ý đến tàu của mình, mình cần đánh lạc hướng.
Bé hạ lệnh cho người lái :
- Bẻ góc lái 5 độ đông.
Tàu 42 chạy về hướng Phi-lip-pin như những tàu buôn khác . Chiếc P.3B bỏ tàu buôn tới vòng lượn trên tàu của ta.
Chính trị viên phó Nhậm xách máy ảnh trèo lên đài chỉ huy, mở ống kính chụp chiếc máy bay, rồi chỉ trỏ cười nói :
- Máy bay của nó bị hỏng rồi. Các anh xem kìa !
- Hỏng mà nó vẫn bay.
- Rõ ràng một cánh quạt không chạy nữa.
Ẩn và Bé quá quen mặt bọn P.3B, các anh cười to. Ẩn nói :
- Thôi ông ơi. Nó có 4 động cơ, khi lượn chậm cho một động cơ tạm ngừng .. đấy nó lại quay rồi .. cánh quạt bên trái lại ngừng .. thấy không.
Thuyền phó Trường Sơn dáng người to béo, mặt trắng trẻo, râu quai nón như một người châu Âu. Từ nãy vẫn đứng chống nạnh nhìn theo chiếc máy bay. Anh tức giận chửi thái độ hỗn xược của bọn Mỹ :
- Chúng nó có quyền gì mà kiểm soát tất cả các con tàu đi trên đường biển quốc tế. Mình không hiểu nổi sao các quốc gia có vai vế trên thế giới cũng cứ làm ngơ trước hành động ăn cướp của bọn này được !
Ẩn cười lớn :
- Cậu có tướng làm bộ trưởng ngoại giao. Với thằng Mỹ lên tiếng phản đối thì có nghĩa gì. Tên côn đồ ngoại hạng ấy không có nghe lời khuyên bảo mà chỉ có oánh !
Bé vẫn im lặng nhìn theo chiếc tàu buôn màu sơn trắng toát, còn cách mình năm sáu hải lý.
Tâm trạng chung của những người sống trên biển, lâu lâu mới gặp một con tàu, bất kỳ của quốc gia nào, cũng thấy vui và muốn tỏ cử chỉ ưu ái đối với nhau. Nhưng ở đây, do thằng Mỹ khốn nạn, nó đã phá vỡ mối quan hệ tốt vốn có của loài người. Khi nhìn con tàu buôn qua lại lần nào cũng vậy, niềm vui của Bé cũng bừng lên, nhưng lập tức bị tinh thần cảnh giác dập tắt. Biết đâu tàu kia cũng một giuộc với bọn Mỹ, và nó cũng được giao việc báo cáo tàu lạ qua lại đây.
Chiếc P.3B bay tới lượn vài vòng trên chiếc tàu buôn rồi bay về Phi-lip-pin. Thuyền trưởng Bé nhắc cán bộ đang trực dưới buồng hàng hải chú ý ghi nhật ký tỉ mỉ những việc diễn ra trên đoạn đường.
Thuyền phó Tam và thượng úy Trần Phong đang chụm đầu trên chiếc bàn có đặt tấm hải đồ khu vực vùng biển X, vừa đo đạc vừa rì rầm trao đổi. Tam lấy compa đo đoạn từ tọa độ tàu mình tới hải đăng Xu-ma-tơ-ra. Nghe thấy tiếng thuyền trưởng Bé, Tam báo cáo :
- Hiện nay tàu của ta đang đi vào tuyến đường HongKong – Philippin- Malaysia. Có thể gặp nhiều tàu buôn qua lại. Chiếc máy bay vừa rồi cũng hướng về Phi-lip-pin giống như lần trước, như vậy có thể đó là nơi nó xuất phát.
Phong nói với Tam :
- Tình hình thuận buồm xuôi gió cũng phải bà ngày nữa mới bắt được đèn Tăng-gôn.
- Chúng nó bị bất ngờ nên cũng không có hành động bám.
- Nhưng vẫn phải coi chừng .. vì chúng ta còn đang ở đường quốc tế ..
Hai người đang trao đổi, thấy phía ngoài có tiếng cười nói xôn xao và tiếng còi tàu kéo dài. Các anh chạy ra đứng bên lan can nhìn về chiếc tàu đi ngược chiều.
Hành khách của chiếc tàu kia ra đứng bên mạn vẫy tay. Có một hành khách cao hứng, tung mũ, chẳng may bị gió đưa mũ xuống biển. Anh em thủy thủ tàu 42 cũng ra đứng bên mạn vẫy vẫy đáp lại.
Những bàn tay của những người ngoại quốc xa lạ kia đã đưa tới anh em tàu 42 niềm tự hào, vì một sự liên tưởng tự nhiên. Nếu họ là những người thiện chí mà biết được tàu 42 đang đi đâu, chắc chắn sẽ cùng với những bàn tay thân ái đang vẫy kia là tiếng hô « Việt Nam – Hồ Chí Minh ». « Việt Nam là lương tri của thời đại .. » .. và đó sẽ là lời chào con tàu bé nhỏ, gan góc của mình.
Chiếc tàu lớn đi qua tạo ra những đợt sóng cấp năm, cấp sáu, làm cho tàu 42 chòng chành. Hai con cá chim từ dưới biển bay lên mặt boong. Các thủy thủ reo hò, chạy tới vồ cá :
- Hoan hô ! Được bữa nhậu rồi.
- Nhân dân thế giới ủng hộ đấy !
Ngày thứ chín, tàu 42 đã đến vùng biển gần Liên bang Malaysia. Lúc trời trong, nhìn bằng mắt thường đã thấy dáng dấp lô nhô của những hòn đảo. Có thể là quần đảo Na-tu-na.
Qua hai ba ngày không có địch theo dõi, mấy thủy thủ rỗi rãi, tính tới chuyện câu cá. Họ buộc một mảnh vải trắng vào cái lưỡi câu cỡ đại ở đầu một sợi dây cáp nhỏ rồi thả xuống sau tàu. Khoảng 10 phút đã có tiếng reo « ăn rồi » !. Thuyền trưởng cho tàu chạy chậm lại để bắt cá.
Hai ba người xúm lại kéo sợi dây câu. Con cá gì đó rất lớn, phải hàng tạ chứ không ít, nó kéo ba người suýt ngã. Một cuộc kéo có với cá đầy thú vị. Những thủy thủ trẻ reo hò, văng tục, rồi cười với nhau. Con cá bị lội đi gần một hải lý đã đuối sức, bụng nó thỉnh thoảng lật trắng lên mặt nước. Họ thả xuồng cao su và cho hai người xuống để kéo cá lên. Một con cá khác, lưng bóng nhãy nhô cái đầu khổng lồ lên đớp một miếng, con cá bị mắc câu đứt phăng một nửa. Máu loang đỏ mặt nước. Con cá « ăn cướp » nguẩy cái lưng dài thưỡn, tạo ra quầng sóng làm nước tràn vào xuồng cao su. Các thủy thủ la rầm lên :
- Kéo mau.
- Leo mau lên không mất mạng bây giờ .
- ..
Một anh chàng thủy thủ gan lỳ tướng quân cố đấm ăn xôi, vẫn kép được khúc cá còn lại lên xuồng của mình. Khúc cá còn lại nặng khoảng 60 kg, điều đó làm cho mọi người nhìn vùng biển màu xanh đen này mà dựng tóc gáy.
Chuyện ồn ào về con cá làm cho mọi người bớt căng thẳng lo lắng tới chuyện bắt đèn Tăng-gôn.
Trời mờ tối. Các cán bộ tranh thủ đo sao. Mắt thuyền trưởng Bé rất tinh, động tác thành thạo ; cùng một thời gian các cán bộ khác chỉ đo được bốn năm thiên thể. Bé đã đo được bảy thiên thể. Vị trí đứng hiện tại (tọa độ) của con tàu do anh tính toán ra, được anh em công nhận là chuẩn xác nhất.
Theo tính toán, thì tàu 42 đang nằm trong khu vực quần đảo A-nam-ba. Ngoài thực địa có một hòn đảo cách tàu khoảng 10 hải lý, tìm trong hải đồ lại không thấy. Các cán bộ bàn cãi :
- Hay đã tới Na-tu-ma.
- Cách xa nhau mấy trăm hải lý, sao lại có thể sai lệch đến thế.
- Ở đây còn quần đảo nào nữa, soi kỹ xem.
Họ thay nhau lấy kính lúp rê đi rê lại trên mặt hải đồ, rồi lại đặt xuống, nhìn nhau. Bé cầm kính lúp nhìn khá lâu vào một điểm, rồi lấy đầu nhọn com-pa găm xuống một cái chấm nhỏ như vết mực xíu dây vào. Anh khẳng định :
- Chỉ có điểm này, nó là cái đảo kia không thể khác ... hòn đảo này không có tên.
Mọi người lại chuyền tay nhau kính lúp, xem cái điểm Bé vừa chỉ và đều gật đầu công nhận sự phát hiện của Bé.
Tìm được tọa độ tàu làm cho không khí vui vẻ, hồ hởi. Như vậy là trong đêm nay có thể bắt được đèn Tăng-gôn rồi.
Con tàu đi lách qua quần đảo. Đêm tối. Mặt biển phẳng lặng như mặt hồ. Chưa bao giờ, ngay ở vịnh Hạ Long, họ cũng không thấy mặt biển lại êm ả đến thế. Nếu thỉnh thoảng không có con cá bơi vẽ lên một đường xanh lét, thì tưởng như mặt nước đã đông cứng.
Anh em cán bộ bàn tính. Nên vào gần để « bắt » cho chắc, hay « bắt » hải đăng từ xa. Vaò gần lỡ ra xâm phạm hải phận của họ thì phiền. Cũng có ý kiến : liều một phen cho chắc ăn hơn. Hải đăng ở đây chắc không có người .. Bàn vậy thôi, hải đăng Tăng-gôn có thể bắt từ xa 20 hải lý, việc gì phải làm như thế.
Bàn tính nhưng mắt họ vẫn chăm chú nhìn mặt biển. Trường Sơn nhìn thấy một bóng đen mờ, anh nói :
- Hình như có tàu .. không lên đèn.
Bé chụp lấy cái ống nhòm, nhìn về hướng Trường Sơn chỉ rồi nói :
- Tàu đang đi về hướng mình.
- Không có đèn .. chỉ có tàu quân sự mới làm như thế. Ẩn nói và chìa tay nhận ống nhòm ở Bé. Nhìn vài giây Ẩn nói tiếp :
- Đúng rồi ! Thôi tránh voi chẳng xấu mặt nào !
Họ quyết định mở hết tốc độ chạy trở lại, tạm né tàu kia đêm mai sẽ quay trở lại.
Nghe thấy tiếng chuông báo động. Mấy thủy thủ đang ngủ vùng dậy, chẳng hiểu nếp tẻ gì, chạy ra ngồi cạnh súng. Họ văng tục chửi bới Giôn-xơn một hồi.
Chiếc tàu lạ lẵng nhẵng bám tàu 42 chừng hơn chục hải lý rồi quay trở lại. Có thể chiếc tàu kia là của « anh bạn » Malaysia chứ không phải của Mỹ. Ta chẳng có ý gì xấu với họ. Có thể vì chưa nhận rõ hải phận của họ mà « dẫm qua vài bước » thôi !
Chiều hôm sau, tàu 42 quay trở lại. Ý định của họ là cố gắng bắt đèn vào lúc hoàng hôn. Khi mặt trời vừa rới sát mép nước, thuyền trưởng đã cho vời tất cả «những cặp mắt tinh tường » lên đài quan sát. Hàng chục cặp mắt hướng về phía trước, lục lọi trong khoảng không tranh tối tranh sáng. Không khí hồi hộp, im lặng. Chốc chốc lại có người nói « hình như có ánh đèn ..». Lòng mong mỏi đã đánh lừa cảm giác của họ. Tới lúc nhìn thấy ánh chớp đều lờ mờ, thì họ lại chưa tin rằng đó là hải đăng, e cảm giác lại lừa mình lần nữa. Mãi tới khi có sự xác nhận « Bây giờ mới đúng ..» của thuyền trưởng Bé, thì tiếng cười nói vui vẻ mới bung ra.
Ánh chớp đều của hải đăng Tăng-gôn sáng đậm dần trước mặt họ.
Ngày 30 tháng 8, tàu 42 đã vào gần vịnh Thái Lan. Sắp đến khu vực địch phong tỏa dày đặc , và sắp đến những mục tiêu trinh sát chủ yếu.
Qua gần mười ngày đêm vừa sóng gió vừa tránh né địch, anh em đã mệt mỏi, cần tìm một chỗ nghỉ ngơi lấy lại sức, chuẩn bị đối phó với những tình huống khó khăn. Nếu là toán trinh sát trên bộ chắc dễ dàng hơn, lúc mệt có thể tìm tới một khu rừng vắng, một căn nhà bỏ hoang nơi địch ít chú ý, treo võng lên là có thể đánh một giấc ngon lành. Trên mặt biển chẳng có gì giấu nổi con tàu. Nếu vào cạnh đảo nào đó có thể che khuất, nhưng là nơi địch thường nhòm ngó. Các cán bộ bàn đi tính lại rồi quyết định một « cú » táo bạo : Đưa tàu vào thương cảng X, thuộc một quốc gia Y gần đó.
Thuyền trưởng Bé cho tàu mình kẻ thẳng một đường vào thương cẳng X. Anh em thủy thủ tháo luôn biển số tàu 632 thay bằng bốn chữ Trung Quốc « Nguyên Xương Nhất Hiệu », tên một công ty thăm dò biển của Đài Loan.
Trời chạng vạng tối. Thành phố và tàu bè đã lên đèn. Những cụm ánh sáng lòe loẹt sặc sỡ nhấp nháy xung quanh những bảng quảng cáo phô ra cửa biển. Thứ ánh sáng nhảy múa kia dù sao cũng còn dễ chịu hơn cái thứ ánh sáng láo xược của P.3B hoặc đèn pha của tuần dương hạm.
Tàu 42 tới thả neo khuất sau một chiếc tàu buôn lớn. Neo chạm đất cũng là lúc hàng đống việc xô tới. Cảnh giới, sẵn sàng chiến đấu, tổ chức mừng ngày Quốc khánh .. Việc nặng nhất là ngụy trang lại tàu, sau một hai ngày phải choàng lên con tàu « tấm áo » màu hoàn toàn khác.
Anh trợ lý tác chiến Trần Phong đã nắm trong tay một xếp giấy có vẽ cảnh đồ của các đảo ; phó chính trị viên Nhậm đã chụp được ba cuốn phim những hình ảnh có liên quan tới tuyến đường mới. Những trang nhật ký hành trình đầy ắp các sự kiện ..Đây là những nhát dao chém vào thân cây để đánh dấu đường của các chiến sĩ trinh sát.
Thuyền trưởng Bé rất quan tâm đến việc ghi chép nhật ký hành trình. Những trang viết đó sẽ giúp anh và cấp trên nghiên cứu nắm được tình hình thực tế trên tuyến đường dễ dàng hơn. Vừa họp rút kinh nghiệm xong, Bé tới lục nhật ký ra đọc lại.
.. « Ngày 30 tháng 8 hồi 4 giờ 40 phút, có tiếng máy bay cánh quạt bay thấp từ đông sang tây. Có thể là máy bay trinh sát.
5 giờ 30 phút, phát hiện đảo Thổ Chu ở 78 độ cách 18 hải lý. Ta giảm tốc độ để nhận dạng.
5 giờ 40 phút, một máy bay trinh sát P.3B từ phía đảo Thổ Chu tới lượn ba vòng.
6 giờ 35 phút, có một tàu buôn loại vừa ở phía sau. Ta tăng tốc độ đi về phía quần đảo Vay ..».
Anh dừng lại khá lâu ở đoạn ghi « .. Phát hiện một tàu cách sáu hải lý cùng chiều. Lúc đầu tưởng tàu đánh cá Nhật. Nhìn trước mũi có hàng chữ la tinh, mạn phải có hàng chữ lớn giống chữ Nhật. Boong sau có hai khối hình vại lớn sơn xanh đỏ giống như ống khói tàu buôn Nhật Bản. Sau cùng, đằng lái có thiết bị cần cẩu của tàu thả phao. 14 giờ ta gặp nó cặp tàu công trình đang nghiên cứu đáy biển (có lẽ đang thăm dò mỏ dầu). Chiếc tàu công trình rất lớn, có thiết bị boong rộng đủ chỗ cho máy bay lên thẳng đậu. Có dàn dựng ống khoan. Ống khoan cao 50 mét đến 70 mét ».( trong ngoặc kép, trích nguyên văn nhật kí hải trình của đội tàu 42 )
Những dòng nhật ký vừa đọc lưu lại trong Bé một sự giận dữ. Anh nói với các bạn :
Nó chuẩn bị khai thác dầu lửa. Có thể bọn Mỹ và bọn Nhật đã bí mật làm việc này. Xem hàng phao ngăn cấm các tàu bè qua lại, rõ ràng công việc của nó quy mô. Vùng biển của mình mà chúng ngang nhiên..
Trường Sơn chỉ huy công việc làm vệ sinh boong xong cũng vào tham gia bàn tán về cái dàn khoan. Và từ « .. cái dàn khoan » lan tới chuyện công nghiệp dầu mỏ; khai thác tài nguyên và hàng hải trên đại dương .. Những câu ch.uyện ấy dẫn tới những liên hệ xa xôi và rộng lớn về tiền đồ xán lạn của đất nước.
Qua một đêm ngủ ngon lành, mờ sáng các thủy thủ đã xắn tay chuẩn bị bữa liên hoan chào mừng Quốc Khánh.
.. Mới có 10 ngày đêm trên đường biển quốc tế, mà trong cảm giác của mọi người tưởng như mình ở xa đất nước 10 năm. Khi trở về vùng biển Tổ quốc trong lòng họ cũng rộn ràng, xúc động, vui mừng không khác người đi xa về thăm quê trong lòng địch.
Tàu đã vào vùng biển Phú Quốc. Các thủy thủ đứng ở vị trí sẵn sàng chiến đấu nhìn về quầng sáng mờ nhạt của thị trấn Dương Đông. Họ thầm ước ao : giá mình có con tàu lớn hơn, chở quân đổ bộ lên đảo để giải phóng cho anh em đang bị tù đày.
Tàu đi ngang qua quần đảo An Thới (gần đảo Phú Quốc), những ý nghĩa mới mẻ, táo bạo nảy nở trong các cán bộ thuyền : Nhân đà thuận lợi, địch không bám, ta đi thẳng vào đảo Phú Quốc, tìm nơi đặt bến trung chuyển ở đó không được hay sao ? Một hòn đảo với 99 ngọn núi cao, với một vạn rưỡi dân mà hơn chục năm nay Mỹ-ngụy không bình định nổi ; phong trào chiến tranh du kích vẫn lớn mạnh. Hẳn rằng nơi đây phải có căn cứ rất vững chắc, việc lập một cái bến bí mật đâu phải là chuyện không thể làm được. Thuyền trưởng Bé đánh điện về sở chỉ huy «Chúng tôi có thể vào Phú Quốc tìm nơi đặt bến. Xin ý kiến ». Ở sở chỉ huy điện trả lời « Đi dảo Nam Du theo kế hoạch ».
Vùng biển đen tối vắng lặng. Bỗng một cơn mưa dông ào đến. Tình trạng thiếu nước tắm, mồ hôi nhớp nháp khó chịu, ai cũng thèm được tắm một bữa thỏa thích. Nghe tiếng những hạt mưa rơi trên vải bạt, những thủy thủ không phải phiên trực, vội cởi quần áo và reo mừng, chạy ra ngoài mặt boong. Nhịp mưa mau thêm, niềm khoái trá tăng lên, họ nhảy tâng tâng, cười nói :
- Tắm kiểu này chỉ có nhất.
- Đưa mình bánh xà phòng.
- Xăng-gai chính hiệu đấy.
- Em ơi ! . tắm nước mưa giữa biển sung sướng nào bằng ..
- Chết cha .. tạnh rồi, làm sao bây giờ. Thuyền phó ơi, nới tay cho anh em xin một xô nước.
Họ chưng hửng ngửa mặt nhìn thấy khoảng trời trên đầu mình đầy sao. Mấy chàng đầy bọt xà phòng trên người, vừa cười rũ rượi vừa chạy đi lấy gàu múc nước biển tắm vậy. Họ biết rõ khối lượng nước ngọt mang theo phải tằn tiện mới đủ. Mỗi người một tuần lễ được một xô để lau người, hôm trước họ đã lĩnh rồi, bây giờ có nài xin cũng chẳng được. Chi bằng xối vài xô nước biển cho xong chuyện.
Các cán bộ chỉ huy vẫn không rời đài quan sát. Một ánh đèn vừa xuất hiện ở rất xa. Nơi đó là vùng dân chài lưới làm ăn, nhưng khó mà phân biệt đó là tàu đánh cá hay tàu chiến của địch.
Tàu 42 vẫn giữ nguyên tốc độ chạy về phía cái chấm sáng chập chờn ấy. Họ không chú ý nghe tin tức trên đài phát thanh, mà lắng nghe tiếng nhiễu rào rào để xem rada của địch có theo dõi tàu mình không. Nhậm vừa xoay cái đài đi hướng khác, ngẫu nhiên gặp đài Tiếng nói Việt Nam đang thông báo tin Bác Hồ ốm nặng .
Mọi người nhìn nhau lo lắng. Nếu Bác .. Họ sợ phải nói ra từ « chết » đối với Bác. Nghĩ rằng Bác Hồ chết là ý nghĩ dại dột. Từ xưa tới nay không ai dám nghĩ đến Bác Hồ chết. Trong niềm kính yêu của mọi người. Bác Hồ đã trở thành bất tử. Giây phút xúc động tràn ngập, tâm hồn họ đang gửi về nơi thiêng liêng xa vời, họ quên phắt tất cả nỗi nguy hiểm đang rình mò xung quanh.
Nghe tiếng máy bay qua và tiếng thuyền trưởng nhắc nhở việc sẵn sàng chiến đấu. Nhậm mới nhớ công việc mình đang làm. Anh xoay lại chiếc đài để tìm xem có làn sóng bí ẩn nào bám tàu mình không.
Thuyền trưởng Bé cùng Nguyễn Ẩn, Trần Phong, Trường Sơn bàn bạc về những tình huống vừa diễn ra. Ánh đèn ban nãy vẫn đứng nguyên tại chỗ, xung quanh nó có thêm vài chấm sáng lờ mờ khác. Có thể là thuyền đánh cá. Nếu tàu chiến nó quầng tại chỗ làm gì. Liệu tàu địch có trà trộn trong đó không ?
Chính trị viên Trần Ẩn từ phòng hải đồ lên đứng bên cạnh Bé. Anh toan thông báo cái tin vừa nhận được về sức khỏe của Bác. Nghĩ lại, anh thấy chưa cần thiết, và im lặng lắng nghe các bạn đang chuyện trò.
Đoạn đường này là một « cửa ải » phải vượt qua. Dù biết rằng phái trước mình, địch đang ẩn nấp, rình mò, nhưng quyết tâm của họ không thay đổi. Tàu 42 lên đèn đi lách qua khoảng cách của các tàu đánh cá.
Hòn Hoa Lư, hòn Tố Yến, hòn Nham, hòn Mộc .. vài phút trước đây họ biết chúng trên hải đồ, bây giờ chúng lân lượt hiện ra trước mắt. Dưới ánh trăng suông, những hòn đảo thấp, cao nổi trên mặt biển giống như ở vịnh Hạ Long, Nam Du đó : Một quần đảo khá hẹp, thuận lợi cho ngư dân cư trú, cách mũi Cà Mau 64 hải lý, có diện tích 60 kilômét vuông, gồm 12 hòn đảo nhỏ, thành hai dãy; nhìn trên cao xuống như hai chuỗi hạt cườm, ở giữa có dòng hẹp, thuyền ghe nhỏ có thể qua lại. Khoảng 600 dân ngụ trên đảo sống bằng nghề đánh cá.
Dựa vào tài liệu đã biết và vừa thu được, các cán bộ thuyền có ý định thả 40 tấn hàng xuống ven đảo, rồi báo tọa độ cho anh em bến Cà Mau biết cho thuyền nhỏ ra lấy. Thuyền trưởng Bé đánh điện hỏi ý kiến sở chỉ huy. Vài phút sau nhận được điện trả lời « Tiếp tục trinh sát đảo Thổ Chu ».
Mờ sáng ngày mồng 1 tháng 2, tàu 42 đã tới bắc đảo Thổ Chu. Đây là mục tiêu trinh sát cuối cùng. Anh em tỏ ra phấn chấn vì chuyến đi sắp kết thúc tốt đẹp. Các cán bộ làm việc thư thái đường hoàng như buổi tập trên biển. Bé đứng trên đài chỉ huy, nói dõng dạc những kết quả vừa quan sát được.
Thuyền phó Duy Tam ngồi ở phòng hải đồ, lắng nghe và lần lượt ghi lên nhật ký hành trình.
« - 6 giờ 30 . phía sườn bắc đảo có vách núi đứng, cây thấp, đất đỏ có lẫn những tảng đá lớn, không có nhà cửa.
8 giờ 20 phút, tàu chuyển hướng xuống vịnh phía tây, phía này cây cối rậm rạp, nhiều tre nứa. thấy một dãy nhà mái tôn. Ở bãi khô có cột tiêu đóng thấp trên cột cờ bảng hình tam giác, bên cạnh cột cờ có một thuyền bỏ đã lâu. Đây có thể là căn cứ hải thuyền cũ của địch...
- 9 giờ 36 phút, tàu đến trước vịnh phía đông thấy 30 nóc nhà sát nhau trên bãi, nhiều cây xanh có hàng lối, bốn thuyền lắp máy đang đậu trong vịnh ..
Qua 2000 hải lý, với bao nhiêu nỗi vất vả lo âu, đội tàu 42 đã đến những nơi cần đến. Họ là những chiến sĩ trinh sát dũng cảm, mưu trí vượt qua vùng địch tạm chiếm, cắm những « lộ tiêu » đầu tiên cho tuyến đường mới hình thành.
Tàu vừa chuyển hướng, có một máy bay P.3B bay lướt qua, nửa giờ sau lại có một chiếc máy bay khác tới lượn vòng trên chiếc tàu buôn rồi bay sang quan sát tàu của ta. Từ đó đến trưa chốc chốc lại có máy bay địch tới nhòm ngó. Anh em phán đoán thế nào chúng cho tàu chiến tới khiêu khích. Họ chuẩn bị tinh thần đối phó. Cùng những ngày đó, sóng gió tăng dần. Những đợt sóng tạt sườn, tàu lắc ngang làm cho người yếu chịu sóng thật khốn khổ.
Sóng biển làm cho tàu nghiêng, dầu đựng trong bể chứa bằng cao su dồn về một phía, túi cao su căng phồng một bên, dầu chưa kịp trở về vị trí cũ đã bị cơn sóng tạt sườn khác đánh tới, làm cho độ nghiêng của tàu quá lớn. Nhiều phen nó muốn lật úp xuống. Nguy cơ đắm tàu hiện ra trước mắt. Có nhiều ý kiến giải quyết khác nhau. « Đổ bớt dầu xuống biển ». « Nếu đổ dầu gặp tình huống phải kéo dài ngày đường thì sao ? » ..
Những thuyền trưởng cự phách như Ẩn, Bé, Trần Phong vẫn thay nhau đứng cạnh tay lái để chỉ huy luồn lách tránh sóng. Họ quyết định phải chuyển hướng đi sớm hơn để tránh sóng lắc ngang ; mặt khác cho chằng buộc lại bể dầu.
Hầu hết các thủy thủ có sức chịu đựng sóng trung bình đã bị sóng đánh gục. Tàu lắc mạnh quá không sao nấu nổi nồi cơm, hai ngày liền phải ăn lương khô.
Đại úy Ẩn nói với Trường Sơn :
- Nhớ cơm lắm, cậu xem có cách gì nấu được không ?
- Hết cách : Vừa rồi mấy cậu thay nhau bê nồi nước hơ lên ngọn lửa, nước gần sủi, sơ ý sóng đánh ngã, suýt nữa bị bỏng.
- Tàu mình phải sắm loại nồi có gioăng cao su và vít chặt vào bếp mới chịu được sóng.
Trường Sơn reo lên :
- Có cách rồi .. Nhất định nấu được !
- Cách gì thế ?
- Rất đơn giản. Anh có thấy mấy bà gánh nước bỏ vào thùng mảnh lá chuối không nào. Cậu Hạc tìm cho mình một mảnh vải nhỏ, giặt sạch đi. Ta đặt mảnh vải lên mặt nước của nồi cơm .. sẽ hạn chế được sóng.
Hơn nửa giờ, anh em đã xúm lại quanh nồi cơm đang bốc hơi. Thuyền phó Trường Sơn rất vui vì cái sáng kiến của mình đã đem lại kết quả.
Mỗi người vừa ăn được miệng bát cơm, đã nghe thấy chuông báo động đổ hồi. Họ buông bát chạy vội vào vị trí sẵn sàng chiến đấu.
Trường Sơn trở về buồng lái, nhìn phía trước đã thấy cột rada và ống khói của chiến hạm nhô lên khỏi mép nưỡc. Ngay lúc đó, một chiếc máy bay trinh sát bay trước mũi tàu.
Chiếc tàu chiến sơn màu xám sáng hiện rõ dần mọi chi tiết. Ăng ten rada quay liên tục. Hai tầng súng pháo trên chiến hạm im lặng không thấy quân lính đi lại. Dường như chiếc tàu này đi có việc khác không dính gì tới việc săn tìm tàu 42; nó cứ đi thẳng hướng cũ.
Một giờ sau lại có một chiếc tàu chiến khác lẵng nhẵng bám tàu 42 cách khoảng 10 hải lý.
Nguyễn Ẩn nói vui :
- Thằng ăn trộm đang rình mò. Sẽ lòi đuôi ra cho mà xem.
Các cán bộ thuyền bàn luận :
- Nó bám ở xa nhằm biết rõ tuyến đường của mình. Ta không nên chuyển hướng theo kế hoạch mà cứ thẳng tiến về phía Hong Kong, khi nào nó rời ta, ta quay lại.
- Nó cứ bám tới cùng thì sao ?
- Đến một điểm nào đó ta rẽ vào Hoàng Sa tạm lánh. Nó không thể theo mình vào đó được.
Chính trị viên phó Nhậm ở dưới buồng hàng hải đi lên, mặt anh tái nhợt, nước mắt chảy vòng quanh, tay xách chiếc đài bán dẫn đang nói về lễ tang Bác. Nhìn thấy Nhậm, anh em đã cảm thấy có chuyện gì chẳng lành. Họ hỏi dồn :
- Có tin về Bác hả ! Sức khỏe của Bác thế nào rồi ?
- Sao ?
- Bác .. mất .. rồi !
- Nghe có chắc không ?
Nhậm vặn núm âm lượng, đài phát thanh đang phát lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Mọi người bàng hoàng, xúc động, nước mắt trào ra. Bác đã đi xa .. Trong cảm nghĩ của họ trở nên mung lung, mơ hồ, không tin ở điều mình vừa nghe. Bác mất rồi ư ? Không thể xảy ra điều ấy được. Không bao giờ .. Bác vẫn hằng theo dõi những chuyến đi của chúng con. Trên mặt biển mênh mông naỳ, mỗi lần nghĩ đến Bác, chúng con thêm vững lòng. Bác không bao giờ mất. Bác còn sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta .. Tiếng nói của đài phát thanh nghe tiếng được, tiếng mất giống hệt diễn biến trong tâm trạng của anh em.
Chính trị viên Ẩn lấy mùi xoa lau nước mắt rồi nói với các cán bộ :
- Tình hình này chưa để tang Bác được, tôi đề nghị tổ chức lễ truy điệu Bác tại vị trí chiến đấu.
Đêm đã khuya.
Kiểm tra thấy sóng rada vẫn quét theo tàu mình, anh em biết chắc tàu địch vẫn còn bám. Các cán bộ quyết định cho tàu tắt đèn và chuyển hướng một góc độ lớn để đánh lạc hướng địch.
Thuyền trưởng Bé thông báo « Chuẩn bị đối phó với địch, khi chúng mất mục tiêu chúng sẽ lùng sục ráo riết và không giấu mặt nữa ..» Quả nhiên, tàu 42 chuyển hướng được hơn nửa giờ đã thấy pháo sáng sáng trưng cả một góc trời.
Nhìn những tín hiệu đỏ chớp chớp trên máy bay, họ khoái chí cười nói :
- Nào, bây giờ chúng bay không giấu mặt nữa chứ !
- Con cáo đã lòi cái đuôi ra.
Sớm hôm sau, một chiếc tuần dương hạm chạy ngược chiều với tàu 42. Cách nhau khoảng bảy, tám hải lý, 42 rẽ sang trái 5 độ để né nó. Chiến hạm địch chạy sang bên phải chặn đường. Tàu 42 trở lại tuyến đường cũ, chiến hạm địch cũng trở lại tuyến cũ. Thằng địch ương bướng , xỏ lá, thuyền trưởng Bé cho tàu mình lao thẳng. Hai con tàu chỉ còn cách nhau mươi phút thì chúng húc vào nhau. Chiếc tuần dương hạm với lượng giãn nước một vạn tấn, hay chiếc tàu vận tải 100 tấn sẽ thắng cuộc. Nếu có người thứ ba đứng xem, sẽ lo cho số phận con tàu 42 nhỏ bé.
Taù 42 vẫn giữ nguyện tốc độ không nhân nhượng. Tàu Mỹ to xác quen lối xử sự « mềm thì nắn » .. vội vàng ngoặt hướng khác để nhường đường cho tàu 42.
Vài giờ sau, chúng tăng cường thêm lực lượng. Một chiếc kèm mạn phải, một chiếc kèm mạn trái của tàu 42 với góc độ 140 đến 150, cự ly cách đều sáu đến bảy hải lý. Chúng bao vây tàu 42 theo kiểu đó, kéo dài gần một ngày đêm.
Các cán bộ thuyền quyết định thực hiện phương án đã dự định. Cho tàu tắt đèn hành trình ngoặt vào quần đảo Hoàng Sa. Tàu địch vẫn bám theo. Tàu 42 lách qua một luồng hẹp có nhiều đá ngầm. Chiếc tàu Mỹ to kềnh càng chưa quen luồng lạch, đành chịu bỏ mục tiêu.
Trời nổi gió và mưa lớn. Thậy là một ngày « đẹp trời ».
Tàu 42 neo cạnh một hòn đảo hoang. Hải âu từng đàn từ xa bay tới đậu trên tàu để tránh gió. Năm sáu con chui hẳn vào trong khoang. Các thuỷ thủ trẻ hò nhau bắt chim hải âu ; họ đóng sập cửa lại. Những con chim biển ngây ngô bay lao vào cửa kính rồi rơi xuống. Anh em được bữa reo cười thỏa thích. Chim hải âu màu đen to như con ngỗng, có cặp mỏ bè ra đến lạ. Họ chuyền tay bóp vào cái diều no căng của nó, nó nhè ra ba con cá mực. Thấy hiện tượng lạ, anh em cười nói ồn ào :
- Sơ sơ cũng gần một kilôgam mực. Nếu nuôi được ba con này, bắt nó đi kiếm cá là đủ cho gia đình xài phong lưu.
- Nhưng cả gia đình đi kiếm cá cũng không nuôi đủ ba con hải âu này.
- Há há .. làm thịt, nấu cari, mình đang thiếu thức ăn.
Hùng, Hạc xúm lại vặt lông chim. Vài thủy thủ ham câu cá, tìm ra mồi câu, khoái trá reo lên :
- Đây rồi, chim ăn cá, bây giờ ta cho cá ăn chim.
- Thôi các ông ơi. Lấy vừa thôi còn để làm bữa ca-ri chim.
- Tanh ngòm, đã chắc gì ăn được, để mình kiếm con cá hồng ăn chơi.
Vừa thả câu vài phút đã có tiếng reo hò. Một anh câu được con cá bống mú nặng tới 50 kg và con cá nhồng đang dẫy đành đạch trên mặt boong.
- Đổ thịt chim để lấy nồi nấu cá đây !
- Vùng biển này cá cứ như thả trong chậu ấy. Vừa thả câu xuống đã có cá cắn rồi. Sau này bình yên, đến đây đánh cá, bắt chim đời sống cũng đủ ung dung.
- …
Trời có triệu chứng sắp bão. Mưa gió tăng dần . Con tàu lắc lư như điên. Để tàu ở đây khó tránh khỏi chìm nếu bão đến. Chi bộ bàn bạc và quyết định nhổ neo, tiếp tục hành trình, lợi dụng thời tiết xấu để né tránh địch.
Sáng ngày mồng 7 tháng 9 năm 1967, tàu 42 đã vượt qua đảo Hoàng Sa về phía tây bắc. Mưa dữ dội, tầm nhìn bầu trời nối với mặt biển một màu xám đục, tầm nhìn không vượt quá một hải lý. Con tàu 42 nhào lên ngon núi nước khổng lồ , rồi lại ở dưới vực sâu thẳm. Suốt một ngày đường không gặp bóng tàu thuyền qua lại.
Nhận được điện tàu 42 đã về đến vịnh Bắc Bộ an toàn, đại diện Bộ tư lệnh Hải quân, đại diện Bộ Tổng Tham mưu đã đến bến Đá Bạc chờ đợi. Tàu vừa cặp bến, mọi người không kìm được xúc động. Đồng chí Tư lệnh Hải quân, nước mắt chảy tràn, ôm lấy thuyền trưởng Bé và nói trong tiếng nấc :
- Các đồng chí thành công trở về thật đáng mừng .. Nhưng .. nhưng .. các đồng chí về .. Bác Hồ đã đi xa. Giá Bác còn sống, chắc Bác sẽ khen ngợi .. chuyến đi này.
2
Năm 1970, quân khu 9 ở vào tình thế rất khó khăn. Vùng giải phóng vẻn vẹn còn lại một phần rừng U Minh và rừng Đước – Cà Mau. Bộ đội phải chiến đấu triền miên, nhưng các nguồn bổ sung quân số và vũ khí hầu như không có.
Từng ngày, những khó khăn chung của quân khu đều tác động tới đoàn 962, đơn vị bến mật. Nhiều cán bộ, chiến sĩ làm công tác ở bến, chuyển về bổ sung cho đơn vị chiến đấu. Số thủy thủ của tàu 100, tàu 69 (đoàn 125) mắc kẹt ở bến Vàm Lũng, được biên chế thành một phân đội thuộc đoàn 962, nghiễm nhiên trở thành lực lượng bảo vệ bến. Riêng đội tàu 69 có thêm nhiệm vụ bảo vệ con tàu của mình.
Con tàu nằm buồn thảm trên cái rạch cạn, những vết thương chằng chịt trên thân nó chưa được hàn vá, những đám gỉ mỗi ngày một loang rộng không được sơn lại. Hàng ngày anh em đến thăm con tàu đã cùng mình sinh tử trong trận chiến đấu để vào bến, nhưng chẳng có cách gì để hồi phục nó như xưa. Ngày tháng qua đi, càng vơi dần hy vọng con tàu này sẽ cùng với mình vể miền Bắc.
Những khó khăn dồn đến, những trận chiến đấu liên tiếp, anh em thủy thủ quên mình là người lính biển, hòa mình vào cuộc sống chung của bến. Đã hơn một tháng nay trên không cấp sinh hoạt phí, phải tự lo liệu lấy để sống. Giá như lúc này căn cứ của bến ở thời kỳ thịnh vượng, một người có thể chạy vạy nuôi được hai người. Độ này một bước đi cũng canh cánh việc sẵn sàng chiến đấu, thời gian để săn bắt còn rất ít ỏi. Từ sáng sớm, Thập rủ Hai, thuyền phó đi câu cá. Vừa ra khỏi lán đã nghe thấy tiếng súng nổ như pháo rang ở phía Rạch Gốc.
Hai nói với Thập :
- Ta ra câu ở cửa vàm vừa xem hoạt động của địch thế nào – Hai nói với anh em ở nhà – Các cậu ở nhà đừng lăn ra ngủ hết, nó đến là ăn cám đó. Nghe súng gần lắm !
Hai anh em ra đến cửa Vàm, nhìn mặt biển vằng ngắt không có một bóng thuyền. Tiếng súng nổ ở phía Rạch Gốc thưa dần rồi im lặng. Họ yên tâm quăng mồi câu xuống nước. Không đầy ba phút, Thập đã giựt lên con cá ngát, nặng tới một ki-lô. Anh dựa tay nắm lấy đầu cá gỡ ra khỏi lưỡi câu, nhưng tỏ ra không hào hứng lắm.
- Ăn mãi loại cá « rau muống » này phát ngán lên được ! – Thập nhét con cá vào bao bố rồi đẩy về phía sau, nói tiếp – Anh xem hàng ngày chúng ta có thể cử một người đi đánh bẫy lợn rừng xa hơn được không.
Hai vẫn im lặng nhìn cái phao bị gió đưa lắc lư. Thập nói tiếp :
- Giá như độ này còn con Giôn cũng có thể cải thiện bữa ăn khá hơn.
- Mình nhớ mãi lần bắt con kỳ đà trên cây mắm. nó nhào xuống, nếu như không gặp con Giôn thì mất tong. Con kỳ đà ấy bự nhất trong số chúng ta bắt được.
Câu chuyện đã gợi họ hồi tưởng vài kỷ niệm vui nho nhỏ về săn thú, từ khi bị mắc kẹt ở bến. Hồi đó, mấy ngày đầu chẳng có việc gì để làm, mấy cậu máu mê đi săn cứ bám riết lấy anh Ba Cụt ( Ba Trung) để học nghề săn bắt. Những câu chuyện đã pha chút huyền thoại vể những chuyến đi săn thú của anh Ba Cụt càng làm tăng thêm sự hấp dẫn mấy thủy thủ trẻ. « Ông chúa sơn lâm » ấy đã đi vào rừng là không bao giờ chịu về tay không ; chí ít cũng phải xách về một con cầy hoặc con kỳ đà. Có lần anh Ba đánh bẫy được ba con lợn, con lớn nhất nặng hơn một tạ, nó bị đâm một nhát, nhưng đã giựt chân ra khỏi bẫy, rồi nhào tới húc vào anh Ba. Anh chỉ kịp né một bước, con lợn hung dữ đã vượt qua trước mắt. Như người khác, thì chắc là sẽ bỏ chạy, nhưng anh Ba lập tức nhảy một bước dài theo con lợn và phóng mũi lao cắm ngập vào sườn nó, rồi ấn mũi lao cho tới khi nó chết mới thôi. Nhiều chuyện đại loại như vậy nói về người thương binh đã cụt một bên tay. Cậu Thập đã được anh Ba Trung truyền nghề cho và thực hành có kết quả. Đôi khi trong đội đã được ăn bữa thịt kỳ đà, hoặc bữa chè trứng kỳ đà lạ miệng. Thập luôn ước ao có một con chó săn. Ai đã sống ở rừng đều thấy được giá trị của con chó săn, nếu có nó sẽ làm cho người đi săn đớ tốn sức và hiệu quả tăng lên. Nhưng các thủy thủ không có một đồng xu dính túi, thì cái biết và ước muốn cũng đành xếp lại.
Một lần đi công tác, ở nhờ nhà dân, nhà chủ có ba con chó con gày guộc, ghẻ lở, Thập chăm sóc mấy con chó đó như của chính mình, đun nước lá đắng tắm cho chúng, câu cá cho chúng ăn. Chỉ hơn một tuần lễ, đám chó con đã hết ghẻ. Bà chủ nhà thấy vậy mừng quá, nói với Thập :
- Nếu không có chú chữa chạy thì nó cũng đến chết mất. Chú thích nuôi tôi biếu chú một con.
Thập khiêm tốn nhận con chó còi nhất đàn. Anh bế nó về đơn vị.
Anh đặt tên con chó là Giôn. Được chăm sóc đặc biệt, không mấy bữa thiếu cá hoặc cua trộn với cơm, bụng cu cậu lúc nào cũng no căng và Giôn lớn nhanh như thổi. Sớm sớm, Giôn chạy theo Thập vào rừng để tập luyện, tìm hang cầy cáo hoặc theo dõi dấu chân của lợn cỏ. Giôn tỏ ra con nhà dòng dõi đi săn, có cái mũi rất thính, thoáng thấy hơi con mồi là sủa nhặng xị lên. Một vài lần nó đã đuổi theo kỳ đà nhưng nó cũng chưa lập được kỳ công nào.
Buổi chiều hôm ấy, sau bữa cơm anh em đang ngồi bù khù với nhau, nghe tiếng con Giôn sủa rất dữ. Anh em phán đoán :
- Cái thằng này lại gặp hang chồn gì đó thôi.
- Có thể là kỳ đà, nếu thấy hơi không thôi thì không sủa như vậy.
Nhiều anh em còn chưa tin Giôn giữ nổi đối thủ lớn hơn mình. Riêng Thập hiểu kỹ về nó, nghe tiếng sủa vội vã thúc giục như thế, chắc chắn sẽ gặp con mồi to. Anh ra khỏi lán, cầm theo mũi lao chạy nhanh về phía con Giôn đang sủa.
Con lợn rừng bị Giôn đẩy lui vào đám rễ đước, đang ngoạc cái mồm sần sẹo « hộc .. hộc .. » đớp vào không khí. Ăn chắc rồi « Suỵt .. suỵt, suỵt » Thập ra hiệu cho con Giôn tiến công mạnh hơn. Con chó tinh khôn quá thể, vừa thấy chủ để nó đã xô vào gần con lợn. Lợn đang mải nhìn chó, Thập tới được khoảng cách thuận tiện, phóng mũi lao xuyên qua mạng sườn con lợn. Nó kêu « ẹc, ẹc » như bị cắt tiết. Mấy cậu khoái chí reo lên :
- Hoan hô Thập .. hoan hô cả Giôn nữa.
- Đừng xỏ xiên nhau nữa .. thôi xắn tay lên khênh về đí.
- Phải có chất cay vào mới dậy mùi .. cậu nào xung phong đi kiếm.
Thật thú vị, khi cuộc đi săn không tốn sức mà đạt kết quả. Giôn càng được đơn vị cưng, nhất là Thập. Một lần Giôn bị rắn hổ đước cắn, sưng phù người lên, tưởng chết. Tới bữa, Thập đổ cháo, đổ sữa cho nó ăn. Nửa đêm thẩy nó rên ư ử, anh vùng dậy vuốt ve, an ủi nó. Cũng may cơn hoạn nạn của Giôn qua khỏi. Thập càng quý con Giôn bội phần. Thỉnh thoảng anh lại bắt nó há mồm, thè cái lưỡi đốm đen ra khoe với mọi người « Đó thấy không, loài chó đốm lưỡi này hổ đước cắn không chết đâu nhé ».
Sau những vũ khí, Giôn trở thành tài sản rất quý của đội tàu 69. Ở vùng rừng đước này nếu ai có đàn chó săn khoảng bốn, năm con là có thể nuôi cả gia đình sống đường hoàng. Khi người ta lùa đàn chó ấy ra rừng, trong một ngày chí ít cũng đưa về cho chủ ba đến năm ki lô thịt thú rừng. Con Giôn đã góp công vào việc cải thiện bữa ăn của đội tàu 69. Những bữa thịt gà xé phay, những bữa thịt chồn đậm đà, những bữa thịt lợn rừng .. nặng đũa ngon lành. Nhiều lần săn về, ăn không hết, anh em đã nhờ dân đem bán lấy tiền mua các thứ cần dùng khác.
.. Hai anh em chuyện trò về thời hoàng kim của việc săn bắt, nhưng thỉnh thoảng lại nhìn ra biển. Tiếng súng ở phía Rạch Gốc chừng như xê dịch vào bên trong, mỗi lúc một tăng lên. Nghĩ tới tình huống địch có thể nghi binh, Hai sốt ruột, cầm cần câu trở về.
Vài chục phút sau, từ cửa Rạch Gốc có bảy chiếc tàu BCF lao ra biển hướng về cửa Lũng.
Ở nhà nghe thấy tiếng động cơ tàu, anh em đã chuẩn bị sẵn sàng. Thấy Thập hớt hải chạy về, không cần hỏi, mọi người đã biết có tàu địch vào cửa vàm.
- Bảy chiếc .. có thể vào chỗ chúng ta.
Nghe Thập nói dứt câu, mọi người đã vác súng chạy ra trận địa. Anh em nhanh nhẹn vào các vị trí đã quy định.
Thuyền phó Hai nhìn dọc sông ra phía biển. Dòng sông nước đục ngầu uốn khúc vào sau rừng đước. Anh nghĩ tới trận đánh sắp diễn ra. Lực lượng của mình vẻn vẹn chỉ có sáu người, khẩu B.40 có hai quả đạn, khẩu đại liên và hai tiểu liên. Nếu địch đổ quân lên, giỏi lắm kéo dài trận đánh được một ngày, rồi sau đó ra sao ..
Ý nghĩ đó của Hải bị cắt đứt bởi những tiếng gầm rú của tàu địch tới gần. Hai nắm chặt bình ắc quy, sẵn sàng cho nổ quả mìn định hướng vào tàu địch. Các mũi súng của Thập, Kiểu, Khảm, Đính đều hướng về cửa vàm.
Trận địa im lặng căng thẳng. Một chiếc tàu nhỏ màu xám vừa hiện ra ở chỗ ngoặt.
- Chuẩn bị !
Hai vừa dứt lời, một chiếc tàu đã vụt qua trước mặt. Quý bắn hụt. Quý lắp vội viên đạn thứ hai vào súng. Chiếc tàu thứ hai của địch vừa tầm bắn, lập tức viên đạn B.40 của Quý lao tới, đồng thời một đám lửa hình sao chổi ở quả mìn định hướng của Hai chụp lên tàu địch. Chiếc tàu bốc cháy, bọn lính trên tàu hoảng hốt nhào xuống sông. Ngay lúc đó, đại liên, tiểu liên của Đính, Thập bắn quét làm chúng gục ngã, chết chìm không đứa nào thoát. Những chiếc tàu khác vội vã quay ra biển.
Bẵng đi một thời gian dài không có trận đánh nào xảy ra ở khu vực cửa Lũng. Lúc nhàn rỗi trong rừng, những thủy thủ càng cảm thấy mình bị tù túng. Tiếng sóng ầm ì của biển và khi nước triều lên lại gợi họ nhớ tới những chuyến đi. Họ thường gặp nhau để ôn lại những ngày sống phóng khoáng trên biển.
Sớm nay, anh em ngồi xúm xung quanh ấm trà. Nghe tiếng « xành xạch » của máy « đuôi tôm » đi qua, thuyền trưởng Xả nói :
- Tao thấy sáng sớm nay xuồng máy của anh Ba Cụt đi ra cửa vàm, hình như có tàu vào.
Anh em nín thở nghe cái tin của Xả đưa , rồi ồn ào bàn tán :
- Cần quá rồi ! Chỉ cần một chuyến tàu vào lúc này cũng có ý nghĩa rất lớn. Đấy các anh xem, súng đạn của đoàn này còn có gì nữa. Đánh tàu mà cứ phải mót từng viên đạn b.40 thối, đi kiếm từng quả bom lép như du kích thời đánh Tây ấy. Chọi với thằng Mỹ mà vũ khí của quân chủ lực như thế thì cò cưa đến bao giờ. Tôi tin chắc Trung ương đã nắm được tình hình này. Nghe tin các cậu ấy chiến đấu ở trên lộ Vòng Cung ( Cần Thơ ) còn cực gấp mười lần ở đây.
- Thế cậu tưởng ngoài kia không tích cực à ? Chẳng qua khó khăn quá, thì phải chịu chứ. Chúng mình chỉ còn thiếu chết mới vào tới đây rồi đành mắc kẹt.
- Vấn để là thời cơ. Chẳng lẽ để chúng vây mãi.
- Thời cơ ! Chuyện đó chẳng đơn giản chút nào. Tôi thấy chỉ còn một cách cho đi nhiều chuyến theo đường biển quốc tế. Bến phải có điện đài liên lạc với tàu, khi bến êm là gọi tàu vào.
- Thôi ông ơi ! Điều đó không phải chờ ông mách nước. Tôi hỏi mắt của bến nhìn xa được bao nhiêu hải lý nào.
- Tranh luận làm quái gì. Có nóng ruột cũng vô ích. Lúc nào có thời cơ, suy mình ra, cũng không bỏ lỡ.
Nhiều lần họ đã trao đổi với nhau nội dung như vậy. Lần nào bàn bạc cũng sôi nổi, có khi nóng mặt to tiếng rồi lại xẹp đi và chuyển nội dung sang hướng khác.
Thấy mọi người im lặng, vừa lúc đó có tiếng bìm bip kêu, Bé pha trò :
- « Kịp .. kịp .. kịp » .. đố biết tại sao con bìm bịp lại kêu như vậy ?
- Cậu thử kể nghe chơi.
- Ngày xưa có một người cho ông bạn láng giếng bên kia sông mượn một cái chảo, lúc nước đang lên thì ông ta đòi. Người mượn bảo không kịp. Ông ta la lên « kịp kịp kịp ». Ông bạn hàng xóm đội chảo ra tới giữa sông, nước lên to lôi đi và chết đuối. Hồn ông ta hóa ra con bìm bịp. Và từ đó, cứ lúc triều lên thì bìm bịp lại kêu lên ai oán « kịp kịp kịp ».
Cô giao liên đến, nói xen vào giữa tiếng cười vui vẻ :
- Các anh có chuyện gì vui thế ?
- Chuyện riêng không kể cho đàn bà con gái nghe được ?
- Em cũng chẳng cần nghe .. Lệnh của thủ trưởng đoàn : Anh Xả và anh Hai bàn giao công việc lại cho anh Bé, đi về đoàn ngay nhận công tác.
- Việc gì mà gấp thế.
- Em chịu .. không biết.
Hai và Xả bàn giao công việc, đeo bòng lên lưng rồi tạm chia tay với đơn vị.
Chính ủy đoàn khi trao việc chỉ nói với họ vài câu « Các đồng chí quen sông nước.. Đoàn tổ chức một bộ phận đi đo lại độ sâu của các bến, anh em đã tập trung đầy đủ. Tối nay có xuồng đưa các đồng chí tới đó để hướng dẫn anh em.
Hai thầm nghĩ : một việc bình thường của bến, sao lại phải làm gấp vội như vậy. Chắc có gì bí mật, chính ủy chưa tiện nói .
Đêm hôm đó, xuồng đưa họ vượt qua sông Thủ vào Lán Nước, nhìn thấy ánh đèn xanh chớp, người lái xuồng tắt máy, rồi cặp mạn chiếc xuồng vừa phát tín hiệu.
- Các anh chuyển sang xuồng này.
- Anh Xả, anh Hai phải không ? Khỏe chứ ?
- A cánh ta cả.
Hai và Xả bước sang chiếc xuồng bến, cùng ngồi lên những hòm đạn. Ở dưới chân họ là những bó súng AK vẫn còn lớp mỡ bảo vệ.
Hai rỉ tai với Xả :
- Cái gì đây, ông thử đoán xem.
- Súng đạn, thuốc men vừa mới đưa vào.
Xả nắm tay Hai, biểu thị sự thông cảm niềm vui vừa được phát hiện. Nhìn hai bên bờ rạch thấy từng đám cây đước vừa bị chặt, họ càng tin điều mình vừa phán đoán là đúng.
Đến địa điểm tập trung « Những người đi đo mức nước ». Hai chiều đèn pin vào trong lán, thấy màn mắc chật ních. Anh lật màn nhìn từng người. Tuy đã nghĩ đến, nhưng được nhìn thấy anh em cùng đơn vị vừa từ miền Bắc vào vẫn làm cho Hai sung sướng bất ngờ. Thuyền trưởng Đỗ Văn Bé, thuyền trưởng La Văn Tốt, chính trị viên Viễn ..
Tốt đang nói chuyện với Viễn, thấy ánh đèn chiếu vào màn, anh ngồi dậy hỏi :
- Ai đó ?
- Hai, Xả đây. Anh em chúng tôi chờ đợi ..
Họ xúc động vui mừng ôm chặt lấy nhau không nói lên lời. Rất lâu câu chuyện mới trở laị mạch lạc. Theo yêu cầu của Hai và Xả, Tốt và Viễn kể lại chuyến đi và tình hình đơn vị ngoài Bắc ..
- Trước chuyến đi vào đây đã có chuyến đi trinh sát – Tốt thì thầm kể - chuyến đi trinh sát ấy do cậu Bé phụ trách đã tìm một con đường tránh sự theo dõi của địch. Chuyến đi này ngang tới Côn Đảo, máy bay địch bay thấp qua trước mũi tàu của mình. Ngay từ khi nghe có tiếng máy bay, tàu mình đã tắt đèn hành trình. Nó bay qua rồi không thấy trở lại, không biết nó đã phát hiện được mình chưa. Khi vào gần bờ khoảng mười hải lý, gặp ba ánh đèn tàu ngược chiều, chúng mình cho tàu chạy bọc hậu những tàu kia rồi vào bờ an toàn.
- Các anh vào chuyến này đẹp quá. Đúng lúc các đơn vị chiến đấu đã cạn nguồn vũ khí.
- Chuyến đi này , cả lãnh đạo cũng như anh em mình quyết tâm rất cao. Sẵn sàng chấp nhận một trận đánh ác liệt, kể cả phá tàu. Ngoài đó cũng biết tin trong này đang thiếu vũ khí. Chuyến đi này có hai nhiệm vụ, một là đưa kỳ được tàu vào bến dù có trả giá để anh em mình có vũ khí, hai là đón các cậu về ngoài ấy.
- ....
Đã lâu ngaỳ sống trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, bạn bè xa cách nhau, bây giờ mới được gặp lại, họ kể cho nhau nghe hết chuyện này đến chuyện khác, tưởng như không bao giờ dứt.