Nghiệm Friedmann, Mật độ tới hạn, và Omega :x
Nghiệm Friedmann cho EFE có lẽ không được Einstein chú ý tới khi nó được công bố, nhưng nó là trung tâm bàn cãi của số phận của vũ trụ. Việc suy luận ra nghiệm từ EFE nằm ngoài phạm vi của quyển sách này – và tôi cũng không chắc bản thân mình có đủ kiến thức toán để mà làm việc đó – nhưng cái quan trọng là kết quả. Nếu chúng ta giả sử có được nghiệm Friedmann – trong đó, vũ trụ có thể có độ cong dương, âm, hoặc bằng không – thì chẳng còn việc gì nhiều để tìm giá trị cho mật độ tới hạn xác định số phận tối hậu của vũ trụ. Thật vậy, tính toán diễn ra sau đó thật dễ nên giáo viên giảng dạy năm nhất có thể lấy nó làm bài tập ra đề thi.
Friedmann bắt đầu với EFE như Einstein đã viết, bao gồm hằng số vũ trụ.
Thực tế μ và ν nhận các giá trị 0, 1, 2 và 3 có thể ví với một bảng phương trình gồm 4 hàng và 4 cột. Friedmann đã giải với phương trình trong bảng phương trình Einstein cóm và n đều bằng không. Sau nhiều tính toán theo tôi nghĩ là rất phức tạp, ông đơn giản phương trình này thành như sau
H, G và c là những người bạn cũ: hằng số Hubble, hằng số hấp dẫn, và tốc độ ánh sáng. L là hằng số vũ trụ học, ρ là mật độ trung bình trong toàn vũ trụ, a là một hàm theo thời gian gọi là hệ số tỉ lệ, nhưng ngày nay có thể cho nhận giá trị bằng 1. Friedmann tiếp tục đơn giản bài toán bằng cách giả sử k = 0 (hóa ra đó là cái kinh nghiệm cho thấy), và đồng thời Λ = 0. Phương trình trên đơn giản thành
Phương trình này có thể giải được dễ dàng theo ρ, thu được giá trị ρ = 3H2 / 8πG cho mật độ tới hạn; nếu chúng ta thay những giá trị mới nhất cho G và H, ta thu được một mật độ tới hạn khoảng 5 nguyên tử hydrogen trên mỗi mét khối. Con số này hết sức nhỏ - bất kì ai cũng sẽ nói được rằng lực hấp dẫn được sinh ra sẽ quá nhỏ nên về cơ bản là không tồn tại – tuy nhiên, giá trị đó là đủ lớn rồi. Mật độ này được gọi là mật độ tới hạn – mật độ của vũ trụ là phẳng và không giãn nở - và thường được kí hiệu là ρc.
Omega là tỉ số có tử số là mật độ thực tế và mẫu số là mật độ tới hạn: Ω = ρ / ρc. Vì thế, theo Friedmann, giá trị của Ω sẽ cho chúng ta biết vũ trụ sẽ co lại, xảy ra nếu Ω > 1, hoặc là giãn nở. Điểm mấu chốt là tìm cho được mật độ vật chất của vũ trụ.
Vật chất tối, bức xạ và hằng số vũ trụ học
Có lẽ chúng ta đã ở thời điểm thích hợp để xác định có bao nhiêu vật chất nhìn thấy trong vũ trụ. Các kính thiên văn của chúng ta hoạt động cực kì tốt, và chúng ta có thể phát hiện ra các thiên hà ở xa gần 13 tỉ năm ánh sáng, và chúng ta có thể ngoại suy giá trị mật độ để có chút ý niệm về tổng lượng vật chất nhìn thấy. Như đã lưu ý ở phần trước, chỉ có khoảng 5 nguyên tử hydrogen trong mỗi mét khối, chỉ bằng khoảng 4% khối lượng cần biết để đạt tới mật độ tới hạn.
Tuy nhiên, tổng thể vũ trụ có vẻ được cấu tạo bởi vật chất tối. Kể từ thập niên 1970, bằng chứng bắt đầu tích lũy rằng mỗi thiên hà được vây quanh bởi một quầng vật chất tối. Bằng chứng này dưới dạng vận tốc của những ngôi sao ở xa trong thiên hà đối với khối tâm của thiên hà; những vận tốc này không khớp với giá trị tính được nếu khối lượng trong thiên hà chỉ là cái chúng ta nhìn thấy. Cái chúng ta nhìn thấy không phải là cái chúng ta thu được, chẳng hạn bằng cách đo hấp dẫn. Có nhiều khối lượng trong các thiên hà hơn cái giải thích được chỉ bởi vật chất nhìn thấy.
Có nhiều lí thuyết cho bản chất của vật chất tối. Những lí thuyết này đa dạng từ cái trần tục (vật chất quen thuộc nhưng không bức xạ, giống như những viên đá thực sự tối tăm), cho đến xa lạ (các lí thuyết hạt siêu đối xứng thừa nhận cả một họ vật chất mới chưa ai từng nhìn thấy). Tuy nhiên, đó là chuyện cần lo của các nhà vật lí, còn nhà vũ trụ học (và những ai trong chúng ta nín thở chờ xác định số phận cuối cùng của vũ trụ) chỉ quan tâm nó chứa bao nhiêu thôi. Liệu có đủ vật chất tối để đưa Ω lên quá 1, buộc vũ trụ co lại, hay là không?
Ước tính tốt nhất hiện nay là không có đủ vật chất, dù là sáng, tối hay bất kì cái gì khác, làm được việc đó. Tuy nhiên, mật độ vật chất của vũ trụ chưa phải là toàn bộ vấn đề - còn vấn đề năng lượng nữa. Có rất nhiều bức xạ trong vũ trụ; bức xạ là năng lượng, và thuyết tương đối hẹp Einstein cho chúng ta biết mối liên hệ giữa vật chất và năng lượng là E = mc2, hay m = E / c2. Vì thế, năng lượng cũng phải được tính đến trong omega.
Cuối cùng, hằng số vũ trụ học thật ra chẳng bằng không – theo các phép đo mới nhất thì nó bằng 0,7 – nhưng nó cũng có tác dụng làm tăng mật độ vật chất và năng lượng trong vũ trụ. Kết quả là tỉ số Ω bằng đâu đó giữa 0,98 và 1,1. Con số 1 nằm trong ngưỡng đó, và có lập luận hấp dẫn cho rằng vũ trụ đã được điều chỉnh tinh vi sao cho Ω chính xác bằng 1.
Nghiệm Friedmann cho EFE có lẽ không được Einstein chú ý tới khi nó được công bố, nhưng nó là trung tâm bàn cãi của số phận của vũ trụ. Việc suy luận ra nghiệm từ EFE nằm ngoài phạm vi của quyển sách này – và tôi cũng không chắc bản thân mình có đủ kiến thức toán để mà làm việc đó – nhưng cái quan trọng là kết quả. Nếu chúng ta giả sử có được nghiệm Friedmann – trong đó, vũ trụ có thể có độ cong dương, âm, hoặc bằng không – thì chẳng còn việc gì nhiều để tìm giá trị cho mật độ tới hạn xác định số phận tối hậu của vũ trụ. Thật vậy, tính toán diễn ra sau đó thật dễ nên giáo viên giảng dạy năm nhất có thể lấy nó làm bài tập ra đề thi.
Friedmann bắt đầu với EFE như Einstein đã viết, bao gồm hằng số vũ trụ.
Thực tế μ và ν nhận các giá trị 0, 1, 2 và 3 có thể ví với một bảng phương trình gồm 4 hàng và 4 cột. Friedmann đã giải với phương trình trong bảng phương trình Einstein cóm và n đều bằng không. Sau nhiều tính toán theo tôi nghĩ là rất phức tạp, ông đơn giản phương trình này thành như sau
H, G và c là những người bạn cũ: hằng số Hubble, hằng số hấp dẫn, và tốc độ ánh sáng. L là hằng số vũ trụ học, ρ là mật độ trung bình trong toàn vũ trụ, a là một hàm theo thời gian gọi là hệ số tỉ lệ, nhưng ngày nay có thể cho nhận giá trị bằng 1. Friedmann tiếp tục đơn giản bài toán bằng cách giả sử k = 0 (hóa ra đó là cái kinh nghiệm cho thấy), và đồng thời Λ = 0. Phương trình trên đơn giản thành
Phương trình này có thể giải được dễ dàng theo ρ, thu được giá trị ρ = 3H2 / 8πG cho mật độ tới hạn; nếu chúng ta thay những giá trị mới nhất cho G và H, ta thu được một mật độ tới hạn khoảng 5 nguyên tử hydrogen trên mỗi mét khối. Con số này hết sức nhỏ - bất kì ai cũng sẽ nói được rằng lực hấp dẫn được sinh ra sẽ quá nhỏ nên về cơ bản là không tồn tại – tuy nhiên, giá trị đó là đủ lớn rồi. Mật độ này được gọi là mật độ tới hạn – mật độ của vũ trụ là phẳng và không giãn nở - và thường được kí hiệu là ρc.
Omega là tỉ số có tử số là mật độ thực tế và mẫu số là mật độ tới hạn: Ω = ρ / ρc. Vì thế, theo Friedmann, giá trị của Ω sẽ cho chúng ta biết vũ trụ sẽ co lại, xảy ra nếu Ω > 1, hoặc là giãn nở. Điểm mấu chốt là tìm cho được mật độ vật chất của vũ trụ.
Vật chất tối, bức xạ và hằng số vũ trụ học
Có lẽ chúng ta đã ở thời điểm thích hợp để xác định có bao nhiêu vật chất nhìn thấy trong vũ trụ. Các kính thiên văn của chúng ta hoạt động cực kì tốt, và chúng ta có thể phát hiện ra các thiên hà ở xa gần 13 tỉ năm ánh sáng, và chúng ta có thể ngoại suy giá trị mật độ để có chút ý niệm về tổng lượng vật chất nhìn thấy. Như đã lưu ý ở phần trước, chỉ có khoảng 5 nguyên tử hydrogen trong mỗi mét khối, chỉ bằng khoảng 4% khối lượng cần biết để đạt tới mật độ tới hạn.
Tuy nhiên, tổng thể vũ trụ có vẻ được cấu tạo bởi vật chất tối. Kể từ thập niên 1970, bằng chứng bắt đầu tích lũy rằng mỗi thiên hà được vây quanh bởi một quầng vật chất tối. Bằng chứng này dưới dạng vận tốc của những ngôi sao ở xa trong thiên hà đối với khối tâm của thiên hà; những vận tốc này không khớp với giá trị tính được nếu khối lượng trong thiên hà chỉ là cái chúng ta nhìn thấy. Cái chúng ta nhìn thấy không phải là cái chúng ta thu được, chẳng hạn bằng cách đo hấp dẫn. Có nhiều khối lượng trong các thiên hà hơn cái giải thích được chỉ bởi vật chất nhìn thấy.
Có nhiều lí thuyết cho bản chất của vật chất tối. Những lí thuyết này đa dạng từ cái trần tục (vật chất quen thuộc nhưng không bức xạ, giống như những viên đá thực sự tối tăm), cho đến xa lạ (các lí thuyết hạt siêu đối xứng thừa nhận cả một họ vật chất mới chưa ai từng nhìn thấy). Tuy nhiên, đó là chuyện cần lo của các nhà vật lí, còn nhà vũ trụ học (và những ai trong chúng ta nín thở chờ xác định số phận cuối cùng của vũ trụ) chỉ quan tâm nó chứa bao nhiêu thôi. Liệu có đủ vật chất tối để đưa Ω lên quá 1, buộc vũ trụ co lại, hay là không?
Ước tính tốt nhất hiện nay là không có đủ vật chất, dù là sáng, tối hay bất kì cái gì khác, làm được việc đó. Tuy nhiên, mật độ vật chất của vũ trụ chưa phải là toàn bộ vấn đề - còn vấn đề năng lượng nữa. Có rất nhiều bức xạ trong vũ trụ; bức xạ là năng lượng, và thuyết tương đối hẹp Einstein cho chúng ta biết mối liên hệ giữa vật chất và năng lượng là E = mc2, hay m = E / c2. Vì thế, năng lượng cũng phải được tính đến trong omega.
Cuối cùng, hằng số vũ trụ học thật ra chẳng bằng không – theo các phép đo mới nhất thì nó bằng 0,7 – nhưng nó cũng có tác dụng làm tăng mật độ vật chất và năng lượng trong vũ trụ. Kết quả là tỉ số Ω bằng đâu đó giữa 0,98 và 1,1. Con số 1 nằm trong ngưỡng đó, và có lập luận hấp dẫn cho rằng vũ trụ đã được điều chỉnh tinh vi sao cho Ω chính xác bằng 1.
Chandrasekhar thì sử dụng công thức tương đối tính đã được chấp nhận trong 5 năm qua, chứng minh rằng một ngôi sao có khối lượng lớn hơn một giới hạn M nhất định vẫn là một khối khí hoàn chỉnh và không bao giờ có thể nguội đi. Ngôi sao đó tiếp tục bức xạ và bức xạ, và cứ tiếp tục co lại cho đến khi, theo tôi, nó có bán kính còn vài km, khi lực hấp dẫn trở nên đủ mạnh để giữ lấy bức xạ, và cuối cùng ngôi sao đó có thể tìm thấy sự bình yên.
Tiến sĩ Chandrasekhar đã thu được kết quả này trước đây, nhưng anh ta đã nhắc lại nó, trong bài báo mới đây của anh; và khi trao đổi với anh ta tôi đi đến kết luận rằng đây hầu như là một sự rút gọn vô lí của công thức suy thoái tương đối tính. Những yếu tố ngẫu nhiên khác nhau có thể can thiệp để cứu lấy ngôi sao, nhưng tôi muốn có một sự bảo vệ tốt hơn thế. Tôi nghĩ sẽ phải có một định luật của Tự nhiên ngăn cản một ngôi sao hành xử theo kiểu vô lí như vậy!
Nếu ta xét suy luận toán học của công thức suy thoái tương đối tính như đã nêu trong các bài báo thiên văn, thì ta chẳng tìm thấy sai sót nào [ở đây Eddington đang nắn xương Chandrasekhar]. Ta phải nhìn sâu vào cơ sở vật lí của nó, và đây chẳng phải là trên mức ngờ vực nữa. Công thức xây dựng trên một sự kết hợp của cơ học tương đối tính và thuyết lượng tử phi tương đối tính, và tôi không xem đứa con của một sự hợp hôn như thế là con trong giá thú. Tôi cảm thấy hài lòng rằng công thức hiện nay dựa trên lí thuyết tương đối một phần, và nếu lí thuyết được hoàn chỉnh các hiệu chỉnh tương đối tính bổ sung, thì chúng ta sẽ trở lại với công thức “bình thường”.
Trong khi Eddington không xoáy vào độ chính xác của những suy luận của Chandrasekhar, ông muốn ám chỉ rằng Chandrasekhar đã phạm một sai lầm căn bản ở cơ sở vật lí để đi tới một kết luận rõ ràng vô lí như vậy.
Chandrasekhar đã rời cuộc họp đó với sự chán nản cực độ. Xét cho cùng, Eddington là một nhân vật lão làng trong lĩnh vực trên, còn Chandrasekhar vẫn thuộc hàng tiểu tốt. Ông bắt đầu trao đổi với nhiều nhà vật lí có tên tuổi thời kì ấy để xem ông hay Eddington đã phân tích đúng tình huống từ quan điểm vật lí. Sức nặng chân lí đã nghiêng về phía Chandrasekhar. Như nhà vật lí lỗi lạc Rudolf Peierls nhớ lại, “Tôi không biết có nhà vật lí nào chẳng thấy rõ ràng là Chandrasekhar đã đúng trong khi sử dụng thống kê Fermi-Dirac tương đối tính, và ai mà không thấy sốc trước tuyên bố trắng trợn của Eddington, nhất là từ tác giả [Eddington] của một quyển sách giáo khoa nổi tiếng về thuyết tương đối. Vì thế, đó không phải là chuyện nghiên cứu giải bài toán, mà đó là chống đối Eddington.”
Đối với Chandrasekhar, chống đối Eddington không có nghĩa là gây chiến. Trong suốt trận chiến đó, ông và Eddington vẫn giữ được quan hệ cá nhân thân mật – đây không phải là chuyện thêu dệt. Nhớ lại thời kì này, Chandrasekhar nhận xét, “Chuyện đó không bao giờ khiến tôi ngừng kính trọng ông... Tôi chưa từng có cảm giác mình sẽ ‘nghỉ nói chuyện’ với ông... Vào mùa xuân năm ấy (ngay sau cuộc họp của Hội Thiên văn học Hoàng gia), chúng tôi cùng đạp xe bên nhau và Eddington rủ tôi đi xem trận đấu tennis Wimbledon.” Thật ra, cái tính thân thiện đã khiến Chandrasekhar sống hòa đồng. Ông có thể ra đòn sát thủ chứ - sự ủng hộ của những nhà vật lí hàng đầu thế giới là sự xác minh của công trình nghiên cứu của ông. Nhưng ông cảm thấy Eddington đơn độc, nên đã gạt sang bên nghiên cứu của ông về sao lùn trắng để cùng Eddington nghiên cứu những vấn đề khác, và để tránh khiến bạn bè của ông thấy ngại. Khi Eddington qua đời vào năm 1944, Chandrasekhar đã dành cho Eddington những lời truy điệu như sau:
Tôi tin rằng những ai từng quen biết Eddington đều sẽ đồng ý rằng ông là một con người chính trực nhất. Tôi không tin rằng, chẳng hạn, ông từng có ý nghĩ khắc nghiệt với ai. Đó là lí do khiến người ta dễ bất đồng với ông về những vấn đề khoa học. Bạn có thể luôn chắc chắn rằng ông sẽ không bao giờ đánh giá sai về bạn hoặc nghĩ xấu về bạn vì chuyện đó.
Nhưng Chandrasekhar không bỏ qua luôn vấn đề đó. Khi các pulsar được khám phá vào thập niên 1960, Chandrasekhar đã trở lại nghiên cứu cấu trúc sao trong một nỗ lực nhằm nghiên cứu sự hoạt động của chúng, tiếp tục công trình ông đã bắt đầu gần ba thập niên trước đó. Vào năm 1983, Chandrasekhar là một trong hai nhà vật lí cùng nhận Giải Nobel Vật lí; mặc dù sự nghiệp của ông có nhiều đóng góp bất hủ cho nhiều chủ đề nghiên cứu thuộc lĩnh vực thiên văn học, nhưng Giải Nobel về cơ bản trao cho công trình ông đã thực hiện khi đang ngồi trên một con tàu hơi nước hồi mùa hè năm 1930. Chandrasekhar thành thật tóm lược cuộc đời của ông như sau, “Tôi rời Ấn Độ và đến Anh vào năm 1930. Tôi trở lại Ấn Độ vào năm 1936 và cưới một cô gái đã chờ đợi tôi trong suốt sáu năm, chúng tôi đến Chicago, và sống hạnh phúc sau đó.”
Mozart đã soạn nhạc lúc ông lên năm tuổi. Huy chương vàng Olympic từng về tay đứa trẻ mười hai tuổi, và Alexander Đại đế chinh phạt thế giới lúc mới tròn hai mươi. Đây đều là kì tích đáng nể, nhưng tôi còn kính sợ hơn trước khả năng của một sinh viên chỉ với hai năm học đại học mà tiêu hóa hết những lí thuyết khó nuốt nhất thuộc thời đại của anh ta, và sử dụng chúng để giải mã những bí ẩn của các ngôi sao. Nhà vật lí Res Jost từng nói thế này, “Có một hội người bí ẩn có những hoạt động vượt quá mọi giới hạn của không gian và thời gian, và Chandrasekhar là một trong những thành viên của hội đó. Đó là cộng đồng lí tưởng bao gồm những thiên tài, những người đan dệt và soạn nên cơ cấu của nền văn hóa của chúng ta.”
Kết cục của toàn bộ câu chuyện này là cái xảy ra khi một ngôi sao có khối lượng lớn hơn giới hạn Chandrasekhar. Thay vì trở thành một sao lùn trắng, nó nổ thành sao siêu mới, ném tung toàn bộ những nguyên tố nặng – tất cả mọi nguyên tố cho đến sắt – vào trong Vũ trụ. Thật ra, vụ nổ đó giàu năng lượng đến mức sự nhiệt hạch sẽ tiếp tục xảy ra, tạo ra thêm những nguyên tố nặng hơn sắt mà lộ trình nhiệt hạch trong một ngôi sao không thể làm được. Một vài phân hủy phóng xạ trên đường đi sau đó mang lại cho chúng ta những nguyên tố nhẹ hơn để điền đầy bảng tuần hoàn hóa học.
Mỗi chiếc máy bay có một tốc độ cất cánh: tốc độ cần thiết để nó trở nên an toàn trong không trung. Giới hạn Chandrasekhar không chỉ là một con số rung hồi chuông báo tử cho một ngôi sao đồ sộ, mà nó còn là tốc độ cất cánh cho sự hình thành các hành tinh – và sự sống nữa.