Phân cấp quản lý Nhà nước ở một số nước EU

xuanhung_xd9

Thành viên cấp 2
Thành viên thân thiết
Tham gia
15/12/2011
Bài viết
1.979
1.1 Xu thế phân cấp quản lý (Phân quyền- Phi tập trung hoá)

Phân cấp hành chính hay phi tập trung hoá, thực chất là sự chuyển dịch thẩm quyền hành chính ở cấp Trung ương xuống cho chính quyền địa phương, còn sự phân định của ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là sự phân lập để các quyền hạn chế lẫn nhau, tạo nên sự cân bằng dân chủ trong xã hội. Phân lập quyền lực là một học thuyết mong muốn cho Nhà nước pháp quyền thay thế Nhà nước độc quyền, chuyên quyền; phân cấp là một học thuyết trong việc tổ chức nền hành chính quốc gia.


Khuynh hướng chung đều cho rằng thuật ngữ phân quyền chỉ nên sử dụng để giải nghĩa các mối quan hệ giữa ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, còn phân cấp được sử dụng trong các mối quan hệ hành chính giữa TW với địa phương. Khuynh hướng này được nhiều ý kiến tán đồng, được xem như một ước lệ khi sử dụng từ ngữ này cho phân cấp quản lý hành chính nhà nước.
Chúng ta đã có nhiều cuộc khảo sát về nền hành chính các số nước, đã tìm hiểu khá kỹ về vấn đề phân quyền ở những nước đó, người ta xem phân quyền là điểm cốt lõi về mối quan hệ giữa TW với địa phương.
Kết quả có được sau các cuộc khảo sát nước ngoài cho phép nhìn nhận cách tổ chức nền hành chính theo các mô hình sau:
1.1.1 Hành chính tập quyền là một mô hình hành chính tập trung cao độ thẩm quyền vào cấp hành chính TW: Phần lớn công việc hành chính ở địa phương và nhân viên hành chính địa phương đều phụ thuộc vào các cơ quan TW, do cấp TW điều khiển trực tiếp. Mọi hoạt động của cấp chính quyền địa phương do ngân sách chi trả đều được quyết định từ TW. Các quan chức địa phương được bổ nhiệm, điều động, khen thưởng, đề bạt đều do cơ quan hành chính TW quyết định.
Nền hành chính tập quyền có ưu điểm nhất định, có khả năng cao trong việc tập trung mọi phương tiện cần thiết thực hiện các chương trình quốc gia, bảo vệ quốc gia,bảo đảm sự thống nhất và an toàn tuyệt đối của quốc gia.
Tuy nhiên nó lại không phù hợp với xu thế chung về dân chủ hoá hiện nay, làm chậm trễ giải quyết các vấn đề có tính địa phương. Hành chính tập quyền thiếu khả năng bao quát, nhìn nhận đầy đủ các đặc điểm, nhu cầu của địa phương, từng vùng, không khai thác hết khả năng sáng tạo của địa phương. Hành chính tập quyền tước bỏ các quyền của nhân dân địa phương tham gia vào công việc quản lý nhà nước.
1.1.2 Hành chính phân quyền là một nền hành chính thực hiện sự tự trị quản lý của chính quyền địa phương dưới sự giám hộ của chính quyền TW :
Hành chính phân quyền đồng nghĩa với việc phi tập trung hoá, là sự chuyển dịch thẩm quyền hành chính TW cho cấp chính quyền địa phương.
Hành chính phân quyền được thực hiện bằng hai phương pháp: phân quyền theo lãnh thổ và phân quyền theo ngành chuyên môn.
- Phân quyền theo lãnh thổ là cách phân quyền của chính phủ TW cho chính quyền địa phương theo địa giới hành chính.
Cách phân quyền này bao hàm những nội dung mang tính thể chế sau đây:
Một là, giao quyền tự quyết định, tự quản lý các lĩnh vực cho chính quyền địa phương.Trong phạm vi được giao quyền,địa phương tự mình ra nghị quyết trên cơ sở pháp luật, không cần xin ý kiến trước của TW. Đối với những việc này, TW chỉ thực hiện sự kiểm tra sau khi đã có nghị quyết. Nếu xét thấy nghị quyết có sai phạm, Trung ương có quyền đình chỉ, bãi bỏ, có thể thi hành kỷ luật cơ quan đã ra nghị quyết (giám hộ hành chính).
Hai là, giao cho địa phương một ngân sách độc lập, tự quyết định việc thu chi theo pháp luật dưới sự kiểm soát của TW.
Ba là, địa phương có vay tiền, phát hành công trái phiếu địa phương, huy động các nguồn vốn theo luật định để phát triển cơ sở hạ tầng.
Bốn là, địa phương có thể là bị đơn trước toà án trong các vụ kiện hành chính và các khoản vay không trả được.
Năm là, cơ cấu tự trị bảo đảm cho chính quyền có một cơ quan ra nghị quyết và một cơ quan chấp hành nghị quyết có quyền hạn được phân định rõ ràng.
- Phân quyền theo ngành chuyên môn là cách phân quyền giữa Bộ, Tổng cục với chính quyền địa phương. Cách phân quyền này tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng về mặt kinh tế, kỹ thuật, nghiệp vụ của mỗi ngành để thực hiện, không nhất thiết phải dập khuôn theo một công thức cứng nhắc nào.
Phân cấp theo ngành chuyên môn được chia thành các mức độ khác nhau: mức độ thứ nhất là giao toàn quyền quản lý các cơ sở cho chính quyền địa phương, cấp TW chỉ giữ quyền hoạch định chính sách, thể chế; mức độ thứ hai là một việc chỉ có một cấp quản lý, không giao cho hai, ba cấp; mức độ thứ ba là có việc chỉ giao cho cấp cơ sở, không giao cho cấp trung gian. Cấp cơ sở là các đô thị (lớn, nhỏ), các làng - xã.
1.1.3 Hành chính tản quyền
Thực chất của hành chính tản quyền là sự uyển chuyển của hành chính tập quyền nhằm giảm bớt công việc của Chính phủ TW đưa về các vùng lãnh thổ. Chính phủ TW thiết lập nên ở mỗi vùng (có thể là một tỉnh, có thể là liên tỉnh) một thể chế đại diện, có thẩm quyền thay mặt Chính phủ TW giải quyết tại chỗ một số công việc của Chính phủ với sự phối hợp cùng chính quyền địa phương.
Trong mô hình hành chính tản quyền, người đại diện của Chính phủ TW giải quyết công việc của cấp này tại chỗ với sự tham gia của chính quyền địa phương, đồng thời người đại diện có thể thay mặt Chính phủ TW kiểm tra công việc của chính quyền địa phương.
Hành chính tản quyền có ưu điểm là giảm công việc của chính phủ đang bị ứ đọng ở TW và trong chừng mực nhất định có tính toán đến các đặc điểm địa phương, lợi ích địa phương khi giải quyết công việc của TW. Người đại diện Chính phủ trong mô hình hành chính tản quyền là người có khả năng giải quyết tốt các mối quan hệ lợi ích giữa TW với địa phương trong một số công việc nhất định.
1.1.4 Hành chính uỷ quyền Trong một số trường hợp, Chính phủ TW có thể uỷ quyền cho chính quyền địa phương thay mặt chính phủ quyết định một việc nào đó. Có thể có nhiều hình thức uỷ quyền hành chính. Œỷ quyền quyết định về một hay một số việc nhất định trong một thời gian, uỷ quyền lập quy, uỷ quyền phê chuẩn xét duyệt, uỷ quyền về tổ chức bộ máy và nhân sự…
Chế độ uỷ quyền phải được thực hiện có thời hạn nhất định, nếu uỷ quyền lâu dài sẽ biến thành phân quyền.

1.2. So sánh phân cấp quản lý hành chính nước ta với xu thế chung về mặt lý thuyết Nếu đối chiếu quan niệm về hành chính phân quyền ở các nước với chế độ phân cấp quản lý hành chính ở nước ta thì về cơ bản chế độ phân cấp quản lý ở nước ta có nhiều điểm giống với mô hình hành chính phân quyền ở các nước.
1.2.1 Những điểm giống nhau cơ bản là: - Tạo cho địa phương một thẩm quyền thực sự chủ động để giải quyết một cách sáng tạo công việc ở địa phương.
- Thẩm quyền được giao là tùy thuộc vào đặc điểm của từng địa phương, không giao tràn lan mọi việc để biến cấp này thành một nhà nước địa phương.
- Chính quyền địa phương có ngân sách riêng, chủ động, tự quyết định thu chi, có thể vay tiền bằng nhiều hình thức theo qui định của pháp luật để phát triển địa phương.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động, có thể là nguyên đơn hoặc bị đơn trước toà án.
- Có thẩm quyền lập quy.
- Có cơ quan quyết nghị và cơ quan chấp hành.
- Có thẩm quyền quản lý bộ máy và công chức địa phương.
- Phân biệt chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn để phân quyền với những nội dung, mức độ khác nhau.
1.2.2 Điểm khác nhau giữa phân cấp ở nước ta với phân quyền ở một số nước là - Phân cấp đều thực hiện theo phương pháp cắt khúc, một việc cắt làm bốn đoạn giao cho bốn cấp: TW, tỉnh, huyện, xã. Còn phân quyền thực hiện theo phương pháp trọn gói: một việc chỉ giao cho một cấp hoặc hai cấp thực hiện.
- Phân cấp dàn trải trong tất cả các lĩnh vực, các ngành, coi chính quyền địa phương là một nhà nước quản lý đầy đủ mọi lĩnh vực, mọi ngành. Phân quyền chỉ giao cho chính quyền địa phương những việc có tính địa phương, nhưng nếu đã giao là giao hẳn, cho địa phương tự quản, Chính phủ TW không can thiệp mà chỉ giữ quyền giám hộ hành chính.
1.3. Phân cấp ở một số quốc gia trên thế giới Xu thế chung hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều tiến hành cải cách hành chính nhằm làm tăng hiệu lực và hiệu quả của nền hành chính công. Một nền hành chính công đang chuyển dần từ “hành chính cai trị” sang “hành chính phục vụ”, cùng với một xã hội dân sự mạnh mẽ hơn và người dân quyết đoán hơn đã dẫn tới áp lực buộc chính quyền Trung ương phải chuyển giao bớt thẩm quyền và các nguồn lực cho cấp dưới. Do vậy, phân cấp quản lý hành chính nhà nước là một tất yếu không thể ngăn cản được đối với hầu hết các quốc gia.
Phân cấp quản lý nhà nước đã làm chuyển đổi cơ cấu quản lý hành chính ở hầu khắp các quốc gia trong những thập kỷ gần đây. Ví như Nhật bản đã đề ra Luật tự trị địa phương, qui định trong số 782 việc hành chính nhà nước, có tới 647 việc do địa phương tự giải quyết. Điều này diễn ra vì nhiều lý do khác nhau, trong đó quan trọng hơn cả là để cải thiện hiệu quả của việc cung cấp dịch vụ công, nâng cao chất lượng quản lý nhà nước theo cách trao quyền nhiều hơn cho các cấp chính quyền địa phương.
1.3.1 Phân cấp quản lý nhà nước ở một số quốc gia thuộc Cộng đồng Châu âu Cộng đồng Châu Âu gồm 25 nước thành viên ở Tây, Trung và Đông u. Nguyên tắc chủ đạo để phân chia nhiệm vụ giữa AŒ- với tư cách là một tổ chức và 25 nước thành viên là “Nguyên tắc của cơ quan cấp dưới”. Nguyên tắc này nói rằng chỉ những nhiệm vụ nào mà các nước thành viên vì một lý do nào đó không thể tự thực hiện được mới để lại cho cơ quan cấp trên là trung tâm AŒ xử lý. Chính nguyên tắc này khiến cho nhiệm vụ của AŒ bị bó hẹp trong phạm vi của các vấn đề như chính sách đối ngoại của AŒ, bảo vệ môi trường, các quy định về cạnh tranh; trong khi đó phần lớn các nhiệm vụ đều được các nước thành viên tự thực hiện. Các nguyên nhân chính để AŒ áp dung nguyên tắc này là :
- Tính hiệu quả (các nước tự thực hiện các nhiệm vụ sẽ hiệu quả hơn là thành lập một bộ máy hành chính chuyên biệt để giải quyết các vấn đề đó)
- Tính dân chủ và mối liên hệ với người dân (người ta có thể buộc tội AŒ vì tính tập trung và khoảng cách giữa người dân của 25 nước và AŒ là rất xa và người dân ít có cơ hội tác đông vào việc ra quyết định của nhà nước thành viên hay tổ chức liên minh)
- Tính hợp pháp bằng cách cho phép các nước thành viên được quyền sở hữu (bằng chịu trách nhiệm) nhiều lĩnh vực, người dân ở các nước sẽ càng cảm thấy AŒ chính là họ hơn.
1.3.1.1 Phân cấp hành chính ở Pháp Ngày 02/3/1982 Quốc hội Pháp đã thông qua đạo luật về việc giao bớt quyền cho địa phương, bao gồm quyền quyết sách, quyền quản lý, phát huy vai trò của Hội đồng dân biểu điạ phương, qui định lại quyền của trung ương và địa phương.
- Các cơ quan hành chính Trung ương của cộng hoà Pháp bao gồm các tổng cục và các vụ; những cơ quan khác có tên gọi như phái đoàn, cơ quan, đoàn v.v. Các cơ quan hành chính Trung ương đảm đương những nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu tương lai xã hội: dự báo tình hình diễn biến nhu cầu của xã hội, những nhiệm vụ của Nhà nước và các giải pháp cho chính sách công cộng và tổ chức hành chính.
+ Ban hành những văn bản có tính quy phạm quốc gia hay chuẩn bị những dự thảo luật hỗ trợ cho các chính sách công cộng.
+ Lãnh đạo và thúc đẩy hoạt động của các cơ quan tản quyền và những cơ quan điều hành của Nhà nước: ấn định những mục tiêu, kết quả dự kiến và trợ cấp những phương tiện về người, tài chính và vật chất.
+ Kiểm tra và giám hộ hành chính: kiểm tra sự hoạt động bình thường của các cơ quan tản quyền và các cơ quan điều hành của Nhà nước.
+ Đánh giá: đánh giá hiệu quả của các chính sách công cộng và những sửa đổi cần thiết.
- Các cơ quan có thẩm quyền chung quản lý các đối tượng trong phạm vi cả nước như: cơ quan quản lý lý lịch tư pháp, các bảo tàng quốc gia khác nhau, cơ quan đấu tranh chống nhập cư bất hợp pháp, cơ quan xây dựng các công trình văn hoá, cơ quan quản lý việc làm tại các cơ sở giam giữ và cải tạo, những cơ quan nghiên cứu về giao thông... Các cơ quan này sẽ đảm nhiệm những hoạt động sản xuất hàng hoá và cung cấp các dịch vụ, quản lý hay nghiên cứu cũng như các nhiệm vụ khác mang tính chất tác chiến tại các bộ khác nhau trên phạm vi toàn quốc . Các cơ quan này có thể độc lập trong quản lý và ký kết hợp đồng với những cơ quan hành chính trung ương.
- Các cơ quan tản quyền của Nhà nước: phần lớn các cơ quan này được tổ chức ở cấp tỉnh và vùng. Tuy nhiên cũng có một số được tổ chức dưới hình thức liên tỉnh hoặc liên vùng. Các cơ quan này được đặt dưới quyền của tỉnh trưởng, vùng trưởng. Đứng đầu các cơ quan này là những công chức cấp cao do Chính phủ bổ nhiệm, họ là đại diện của các bộ trưởng và chịu sự lãnh đạo của tất cả các bộ trưởng thuộc các lĩnh vực khác nhau. Các vùng trưởng, tỉnh trưởng thuộc Bộ Nội vụ quản lý, nhưng mặt khác, họ đại diện cho tất cả các bộ ở địa phương, vì vậy mỗi bộ trưởng đều có thể ra lệnh cho họ vì họ là cấp dưới của các bộ trưởng. Các vùng trưởng và tỉnh trưởng lại là cấp trên của các giám đốc các cơ quan tản quyền, mặc dù họ không phải là người có quyền bổ nhiệm hay bãi miễn các giám đốc. Theo qui định, khi bộ trưởng bổ nhiệm một giám đốc thì phải có sự đồng ý của tỉnh trưởng, vùng trưởng. Các cơ quan tản quyền này chiếm khoảng 95% biên chế của công vụ nhà nước.
Đặc biệt ở Pháp, các cộng đồng dân cư không có sự phân cấp quyền lực theo thứ bậc: cấp vùng không có quyền đối với cấp công xã, mà do Trung ương quy định thẩm quyền cho từng cấp.

1.3.1.2 Phân cấp quản lý nhà nước ở Đức
Quản lý nhà nước ở Cộng hoà Liên bang Đức được chia thành các cấp độ khác nhau từ liên bang đến cấp cơ sở và mỗi cấp có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn không giống nhau.
- Cơ quan hành chính cấp bang Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính cấp bang ở Cộng hoà Liên bang Đức là công việc của bang. Các bang có chủ quyền về tổ chức, có nghĩa là tự quy định việc thành lập các cơ quan hành chính và thủ tục hành chính, nếu như đạo luật Liên bang không có quy định khác; do đó, các quy định này là không giống nhau giữa các bang.
Về nguyên tắc, các bang có mô hình hành chính ba cấp: cơ quan cấp cao, cơ quan cấp trung và cơ quan cấp thấp;
Cơ quan hành chính bang cao nhất là tất cả các cơ quan hành chính bang mà không trực thuộc một cơ quan hành chính nào khác trong bang, đó là Chính phủ bang, do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đứng đầu và các Bộ trưởng của bang. Cũng như Liên bang, các bang cũng có các cơ quan hành chính cấp cao nhất có thẩm quyền đối với toàn bang, ví dụ: Cục Thống kê bang, Cục Bảo vệ Hiến pháp bang, Cục Hình sự bang...
Các bang có toàn quyền đối với các lĩnh vực giáo dục, cảnh sát, quản lý địa phương, văn hoá, bảo vệ môi trường và chịu trách nhiệm hành chính đối với luật pháp Liên bang thông qua các cơ quan công vụ của mình. Bộ Nội vụ bang chịu trách nhiệm về lĩnh vực công vụ và quản lý công chức của Bang.
Các cơ quan hành chính cấp trung của Bang (cơ quan hành chính khu vực) chỉ là đại diện hành chính của Chính phủ bang đặt tại các khu vực lãnh thổ với chức năng chính là kiểm tra, giám sát (nhà nước) việc thực thi luật pháp và các quyết định của Chính phủ Bang của chính quyền địa phương cấp thấp trên địa bàn. Đứng đầu cơ quan hành chính khu vực là Chủ tịch. Giúp việc cho Chủ tịch có Phó Chủ tịch và một Thư ký. Các cơ quan tham mưu gồm có các vụ. Dưới các vụ có tổ chức các phòng để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể. Mỗi phòng có trưởng phòng và chuyên viên phụ trách, chuyên viên xử lý và các thành viên khác.
Các cơ quan hành chính cấp thấp được đặt trực thuộc trực tiếp trong một cơ quan cấp cao hoặc cấp trung của Bang. Phần lớn các cơ quan hành chính cấp thấp đặc thù của bang (như các phòng xây dựng nhà nước, phòng giám sát kinh doanh nhà nước...) được đặt trực thuộc cơ quan hành chính khu vực.
Cơ quan hành chính cấp thấp quan trọng nhất là các xã và liên xã. Xã và liên xã đảm trách duy nhất nền hành chính công trong phạm vi lãnh thổ của mình. Cơ quan hành chính khu vực chịu trách nhiệm giám sát chung đối với xã và liên xã.
- Cơ quan hành chính địa phương Chính là cấp cơ sở (xã, thành phố) tuỳ theo tình hình đặc điểm riêng một số bang có hình thành tổ chức cấp tỉnh và huyện, song đó không phải là một cấp chính quyền (không có Hội đồng nhân dân và có Œỷ ban hành chính, không có ngân sách độc lập). Vai trò của tỉnh, huyện chủ yếu mang tính chất hành chính.
Chính quyền cấp xã gồm có Hội đồng nhân dân và thị trưởng hoặc đều do nhân dân bầu ra (như ở bang Bayern) hoặc Hội đồng nhân dân bầu ra Thị trưởng, xã trưởng và giám đốc hành chính (như ở bang Wesfalen). Xã, thành phố ở Đức có tính tự trị cao, tức là được quyền tự quyết định các vấn đề trong khuôn khổ luật pháp của Bang và Liên bang. Xã có quyền tự quyết định việc lựa chọn cơ cấu tổ chức bộ máy các cơ quan của xã, nhìn chung số lượng các cơ quan chuyên môn ít – và tuỳ thuộc vào số dân của đơn vị hành chính xã cũng được quyền tự quyết định số lượng công chức làm việc trong bộ máy của mình.
1.3.1.3 Phân cấp quản lý nhà nước ở Anh Trong công cuộc cải cách hành chính và dịch vụ công ở Vương quốc ánh thời gian qua đã quan tâm thực hiện các nguyên tắc phân cấp, phân quyền và uỷ quyền để nâng cao tính chủ động, sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan trực tiếp tiếp xúc với dân và chính quyền địa phương cung cấp dịch vụ công. Việc phân cấp thẩm quyền trách nhiệm giữa trung ương và địa phương rất rõ ràng, rành mạch. cung cấp dịch vụ công phải do chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhiệm, nhất là 5 lĩnh vực cấp bách là y tế, giáo dục, giao thông, cảnh sát và xin tị nạn. Theo qui định của pháp luật, giữa trung ương và địa phương có sự phân cấp thẩm quyền, trách nhiệm rất rõ ràng, rành mạch.
Các cơ quan hành chính ở trung ương có Nội các và các Bộ. Cơ quan Bộ giúp chính phủ hoạch định chính sách và các qui định pháp luật khác. Để thực thi chính sách có hiệu quả, ở trung ương thành lập các cơ quan thừa hành (hiện có 127 cơ quan thừa hành). Các cơ quan này tiến hành dịch vụ công cho hệ thống hành chính và tổ chức công dân trong phạm vi được giao, đồng thời thanh tra việc chấp hành pháp luật. Ví dụ quản lý đào tạo đại học và cao đẳng ở ánh là do trung ương quản lý, còn dịch vụ y tế do trung ương thực hiện hoàn toàn v.v.
Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm về giáo dục phổ trhông, an ninh xã hội, nhà ở, giao thông, vệ sinh công cộng, vận tải công cộng, cảnh sát. Chính quyền địa phương được quyền thu thuế và phí do dân chúng trên địa bàn đóng góp, nếu còn thiếu thì sẽ có trợ cấp từ trung ương. Có những lĩnh vực cả trung ương và địa phương cùng quản lý như dịch vụ môi trường
Chính phủ tập trung đề ra chiến lược, chính sách, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ và phân bổ ngân sách, thực hiện kiểm toán các hoạt động dịch vụ công.
1.3.1.4. Phân cấp ở Đan Mạch Hệ thống hành chính ở Đan mạch được chia thành 2 cấp là hành chính Trung ương và hành chính địa phương. Hành chính địa phương có 2 loại hình là hành chính vùng và hành chính cơ sở(cơ sở không phải là cấp dưới của vùng). Phân cấp hành chính ở Đan mạch được thực hiện khá triệt để theo hướng tự quản của chính quyền địa phương, trong đó có sự phân công nhiệm vụ giữa tổ chức chính trị và hành chính. Các cơ quan hành chính được thiết kế để thực hiện trách nhiệm và những lĩnh vực cung cấp dịch vụ của chính quyền địa phương, Thị trưởng giám sát việc thực thi quyết định của Hội đồng.
Đan Mạch đã cải cách và củng cố hệ thống chính quyền đại phương từ những năm 1960 với mục tiêu phân cấp phân lớn nhiệm vụ của khu vực công cho chính quyền địa phương (chính quyền thành phố tự trị – cấp thấp nhất và tỉnh - cấp khu vực). Từ đó rất nhiều công việc trong lĩnh vực công đã được chuyển giao dần cho chính quyền thành phố (hoặc tỉnh) và đã có tới 65% lượng công việc đã thuộc về trách nhiệm của chính quyền thành phố và tỉnh.
Các nguyên tắc định hướng cho việc phân chia nhiệm vụ giữa trung ương, tỉnh và thành phố là:
1997-1999: Một uỷ ban đã được chính phủ thành lập để đưa ra những đề xuất về việc phân chia nhiệm vụ trong khu vực công. Œỷ ban này đã xem xét lại rất nhiều các nhiệm vụ và cơ bản họ thấy rằng không cần thiết phải thay đổi phân công nhiệm vụ ngay lập tức. Tất nhiên là uỷ ban này cũng đề xuất một vài thay đổi nhỏ nhưng không thấy có lý do gì phải thay đổi cơ bản.
Các nguyên tắc cơ bản phân chia nhiệm vụ của khu vực công tại Đan Mạch + Sự gần gũi
+ Tính dân chủ
+ Tính hiệu quả
+ Tính đa dạng
+ Mức độ phức tạp
+ Địa bàn thực hiện công việc
+ Tính chất nhiệm vụ
Việc quyết định phân chia nhiệm vụ công chính là việc xác định cơ quan nào là người có thể thực thi nhiệm vụ đó một cách tốt nhất dựa trên 7 nguyên tắc ở trên, đồng thời đảm bảo rằng các cơ quan lựa chọn được cung cấp đầy đủ điều kiện, phương tiện để thực thi nhiệm vụ (quyền lực/năng lực, tài chính và nhân lực)

Bài học kinh nghiệm từ thực tế phân cấp các nước AŒ

- Cần quán triệt quan điểm nhà nước phải gần gũi hơn với người dân

Trước đây, nhiều người từng chỉ trích rằng Chính phủ chỉ quan tâm tới việc đáp ứng các nhu cầu của mình nhiều hơn là đáp ứng các nhu cầu của công dân. Tuy nhiên, cũng không dễ dàng gì xác định được những nhu cầu mà công dân đang mong đợi. Họ muốn việc cung cấp dịch vụ từ phía nhà nước phải hiệu quả hơn, thiết thực hơn. Điều đó đặt ra yêu cầu về quan hệ giữa chính quyền và công dân phải mật thiết, gần gũi hơn. Nghĩa là phải phân quyền nhiều hơn cho địa phương và cơ sở.
Các nỗ lực đáp ứng hơn nữa nhu cầu của công dân đã khiến nhiều nước đề ra các tiêu chuẩn dịch vụ mà đôi khi được đưa vào văn bản chính thức như hiến chương về dịch vụ công cho công dân ở Bỉ, Pháp, Thổ Nhĩ Kì và Vương quốc ánh.
- Cần giáo dục, thuyết phục công dân Chính phủ cũng cần phải giáo dục các công dân về lợi ích của công cuộc cải cách. Công chúng chỉ quan tâm tới kết quả của cải cách chứ không nhất thiết quan tâm đến quá trình cải cách. Đạt được sự ủng hộ của dân chúng đối với cải cách không chỉ có nghĩa là lựa chọn được chương trình mà công chúng quan tâm, mà còn là niềm tin của công chúng rằng các hoạt động của Chính phủ sẽ dẫn đến kết quả tốt đẹp.
- Cần phải đề cao yêu cầu hiệu quả trong hành chính nhà nước
Để giảm nhẹ gánh nặng hành chính mà lại nâng cao chất lượng phục vụ công dân, đặc biệt là đối với giới doanh nghiệp, thì phân cấp hành chính cũng là một con đường hiệu quả. Điều này thường đòi hỏi đơn giản hoá những yêu cầu và tiêu chuẩn hoá hình thức (như trong lĩnh vực hải quan), sử dụng tốt thông tin từ khách hàng (như in trước nội dung trong các mẫu giấy tờ), sử dụng công nghệ thông tin ( như trao đổi dữ liệu điện tử, thanh toán điện tử các loại thuế) và nâng cao sự hiểu biết về các loại chi phí liên quan (như chi phí điều tra thống kê).
Hầu hết các nước AŒ đã có sáng kiến xây dựng mô hình “một cửa” để giải quyết các thủ tục hành chính công về các vụ việc cụ thể, nhất là những việc liên quan đến kinh doanh và đời sống dân cư trên địa bàn. Cơ chế một cửa được thực hiện dựa trên cơ sở đã có sự thoả thuận trước của cơ quan hữu quan và các cấp chính quyền trong việc giải quyết các yêu cầu của doanh nghiệp và công dân. Tại Italia, cơ chế một cửa ở cấp địa phương được áp dụng trong việc cấp giấy phép xây dựng các nhà máy công nghiệp mới. Cơ chế này kết hợp 40 thủ tục khác nhau, liên quan đến nhiều bộ, ngành chính phủ mà trước đây người làm đơn phải đến gõ cửa. Người ta hy vọng cách làm mới này có thể giảm bớt thời gian cần thiết trong quy trình cấp phép. Tây Ban Nha cũng áp dụng cơ chế “một cửa” cho các doanh nghiệp làm việc cho Chính phủ.
- Cần phải gắn phân quyền với trách nhiệm của chính quyền địa phương
Việc phân cấp ngày càng mạnh hơn dường như đã làm cho nhà nước gần gũi với các công dân hơn để vừa xác định rõ nhu cầu của họ, vừa cung ứng dịch vụ cho phù hợp với các nhu cầu đó.
Tại Vương quốc ánh, chính quyền địa phương đã được phân cấp sử dụng tiền bạc của người nộp thuế một cách có hiệu quả hơn, bởi việc tập trung quyền lực vào các cơ quan chính quyền ở trung ương thì những dịch vụ công không thể “thị trường hoá” được. Chính quyền địa phương phải đối mặt với những yêu cầu đa dạng, phong phú của công dân và doanh nghiệp, đồng thời còn phải chịu sự kiểm soát gắt gao của những người nộp thuế, họ không được đùn đẩy trách nhiệm cho ai. Người dân sẽ phán xét kết quả và hiệu quả sử dụng tiền thuế vào các hoạt động dịch vụ công của chính quyền theo qui định pháp luật..
Tại những nước có truyền thống tập trung quyền lực như Pháp hoặc Tây Ban Nha, việc phi tập trung hoá được coi là một yếu tố quan trọng của chế độ quản lý dân chủ Điều này cũng hoàn toàn đúng đối với các nước ơACD hiện đang xin gia nhập AŒ như Cộng hoà Séc, Hunggari và Ba Lan. Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong hệ thống của các nước này cũng có những mối liên quan chủ yếu đối với các sắp xếp thể chế và bộ máy hành chính của các nước, nên việc phi tập trung hoá còn là một thách thức lớn.
- Cần phát huy quyền tự quản của cấp dưới. Ở các nước nơi mà chính quyền có truyền thống tự quản cao đã đề xuất ý tưởng cho rằng các cấp chính quyền khu vực và địa phương cần thực hiện thêm chức năng do một phần xuất phát từ vấn đề tăng nguồn tài chính và một phần do yêu cầu gần gũi hơn với công dân. Tại Pháp, theo các luật về phi tập trung hoá năm 1982 đã trao thẩm quyền cho các khu vực và các ban, ngành trong nhiều lĩnh vực như phát triển đô thị, các biện pháp hỗ trợ kinh tế và giao thông địa phương. Các luật này cũng phân cấp cho chính quyền khu vực trách nhiệm về xây dựng và bảo dưỡng các trường phổ thông trung học (tương tự như trách nhiệm của các xã hội đối với các trường tiểu học đã tồn tại hàng thế kỷ), trong khi vẫn giữ trách nhiệm về hầu hết các chính sách giáo dục khác ở cấp trung ương. Kết quả là các trường từ phổ thông trung học trở xuống luôn được bổ sung, nâng cấp bằng các nguồn lực tại chỗ của địa phương.
- Tăng cường chế độ trách nhiệm Việc trao thêm trách nhiệm cả về chính trị lẫn tài chính đã đồng thời mang lại cho các cấp chính quyền sự tự do và linh hoạt hơn. Người ta lo ngại rằng việc tăng thêm thẩm quyền quản lý cho các ngành bên dưới có thể làm lu mờ hoặc suy giảm chức năng của các Bộ nói riêng và chế độ trách nhiệm công vụ nói chung. Bởi tại hầu hết các nước AŒ, chỉ có bộ trưởng phải định kì báo cáo với cơ quan lập pháp, còn các ngành bên dưới thì sao? Câu hỏi đặt ra là có nên để chọn công chức dân sự cấp cao chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp? Đây là vấn đề vẫn đang tranh cãi, song các nhà cải cách cho rằng vấn đề cốt yếu là khả năng giám sát của các cơ quan chức năng như các uỷ ban của nghị viện và các tổ chức kiểm toán.
Trong khi chưa có một giải pháp duy nhất nào, một số nước cảm thấy rằng một cách có thể tạo ra chế độ trách nhiệm có hiệu quả hơn trong khi trao thêm quyền tự quyết cho chính quyền bên dưới có thể là tách trách nhiệm hành chính (quản lý vận hành) ra khỏi trách nhiệm ban hành chính sách (quản lý chiến lược ).
Một vấn đề khác là vấn đề tài chính. Khi trao thêm quyền tự quyết cho các nhà quản lý trong quản lý ngân sách thì cần phải đảm bảo việc giám sát tài chính có hiệu qủa. Hầu hết các nước AŒ đều cảm thấy rằng cơ chế tiền kiểm truyền thống, trình tự ngân sách, và hệ thống kế toán có thể không phù hợp với bối cảnh hiện nay. Có ý kiến cho rằng việc phân cấp thẩm quyền cho các đơn vị theo ngành và đánh giá việc thực hiện bằng kết quả công việc đòi hỏi phải áp dụng các cơ chế giống như trong khu vực tư. Để thực hiện yêu cầu này các quốc gia cần phải có đội ngũ cán bộ quản lý cao cấp và trung cấp được đào tạo tốt; ngành kế toán phát triển đủ khả năng áp dụng chế độ kế toán hiện đại và phải vi tính hoá ở mức độ cao của tất cả các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
- Tốc độ và phạm vi phân cấp không giống nhau.
Những năm qua tốc độ và phạm vi phân cấp ở các nước AŒ khác nhau. Tuy nhiên, hoàn toàn có thể xác định được ba mô hình rộng thể hiện quan điểm khác nhau về sự thay đổi có cùng chung mục tiêu chính là cân bằng giữa các khoản chi phí và dịch vụ có trách nhiệm hơn đối với công dân.
+ Định hướng theo khu vực tư.
Việc áp dụng cơ chế cạnh tranh được coi là hấp dẫn hơn xét từ quan điểm tiết kiệm ngân sách, tính hiệu quả, nâng cao chất lượng và tạo ra nhiều sự lựa chọn hơn cho khách hàng. Một trong những điều mà người ta thường chỉ trích khu vực công là thiếu sự sáng tạo và khả năng thích ứng so với khu vực tư. Điều này dẫn đến kết luận là sự thực hiện công việc có thể được cải thiện bằng cách áp dụng kỷ luật thị trường đối với dịch vụ công. Những cuộc cải cách thông thường bao gồm cả việc phá bỏ sự độc quyền của nhà nước và áp dụng các cơ chế kiểu thị trường.
Trong số các kỹ thuật quản lý theo khu vực tư thì việc sử dụng thị trường trong nước đã áp dụng đối với các lĩnh vực cụ thể như y tế ở Vương quốc ánh chẳng hạn. Ngoài ra, kinh nghiệm đã cho thấy, những thực tiễn kiểu thị trường này cần phải được làm cho phù hợp với các mục tiêu chung của quản lý công. Rủi ro ở đây là có thể tạo ra các thị trường ảo với nhiều tác hại hơn so với độc quyền nhà nước truyền thống. Một số nước đang do dự chưa muốn áp dụng cơ chế này một phần cũng do sự lo ngại về vấn đề cạnh tranh công bằng.
+ Đề ra các giải pháp mới trên nền những mô hình hiện có.
Các nước Bắc u, một mặt chú ý đến việc sử dụng tốt hơn khu vực thứ ba vốn đã phát triển tốt và các chính quyền địa phương được giao thêm nhiều nhiệm vụ và mặt khác, sự năng động của các cơ quan tự quản mạnh vốn là trung tâm thực hiện chế độ kết quả công việc. Ở Đan Mạch chẳng hạn, các Hiệp hội đã được lợi lớn từ việc thị trường hoá lĩnh vực nhà ở.
Đặc điểm chính trong phương pháp tiếp cận của Thuỵ Điển là việc phân cấp mạnh cho các chính quyền địa phương cũng như cơ quan ngành trong khu vực công vốn còn công kềnh. Sự lựa chọn tuy có giảm đi đôi chút nhưng cam kết phúc lợi chủ yếu giữa chính quyền và các công dân vẫn giữ nguyên. Vì vậy, Chính phủ đã tập trung vào kết quả thực hiện công việc, hiện đại hoá và thoả mãn nhu cầu của công dân, trong khi vẫn duy trì vai trò trụ cột của mình trong lĩnh vực xã hội.
+ Các mô hình tiếp cận thực dụng.
Các nước Châu u nhìn chung ưa thích cách tiếp cận tạm thời. Những kinh nghiệm này rất khác nhau ở các nước và khả năng khái quát hoá duy nhất là phải dựa vào tính chất gia tăng của nền hành chính. Trong số những nỗ lực hiện nay có các chiến lược viễn thông, các phương pháp làm việc và tính minh bạch được áp dụng ở các cấp khác nhau của chính quyền trong việc sử dụng công nghệ thông tin theo cách tạo ra sự minh bạch lớn hơn, nhất là trong việc cấp phép.
Những vấn đề chung cần chú ý: Một vấn đề chung nổi lên trong các cuộc cải cách hành chính của AŒ là việc đưa ra các động cơ khuyến khích đúng đắn và làm cho phù hợp hơn với thực tiễn quản lý. Những khó khăn gặp phải trong quá trình này là việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cấp chính quyền sau khi phân cấp, nhất là đánh giá năng suất lao động của các cá nhân đối với các sản phẩm phi thị trường. Việc đánh giá là quan trọng bởi vì nó có thể tạo ra sự lựa chọn thay thế đối với cơ chế kiểm soá truyền thống trong bối cảnh phân cấp quản lý: nếu một tổ chức thường xuyên tự đánh giá chính mình, thì việc kiểm soát không còn là ngoại lệ nữa và không mang tính chất điều tra thẩm vấn. Các khó khăn phát sinh vì một số lý do như: tính phức tạp của các thông tin được phân tích, vấn đề thời gian giữa việc đánh giá đó và định chu kỳ ngân sách, việc tập trung vào vấn đề giảm chi tiêu – tất cả những lý do đó làm hạnh chế tần suất và chất lượng của việc đánh giá.
Xuống cấp về đạo đức công chức là một thách thức do có sự thay đổi căn bản trong giai đoạn thích nghi và thiếu ổn định sau phân cấp vì nó có thể tạo ra những cơ hội mới cho sự giảm sút có tính liêm chính và làm gia tăng tham nhũng. Những tác động tiêu cực tiềm năng của việc phân cấp quản lý nhân sự đối với đạo đức công chức thường được đánh giá không đúng mức. Đối với nhiều nước, điều này sẽ dẫn đến xung đột nội bộ hoặc sự mất ổn định tăng lên, dẫn đến sự chống đối của nền công vụ đối với cải cách. Các chính phủ có thể loại trừ sự kém hiệu quả của cải cách trên cơ sở cam kết, khen thưởng các sáng kiến và các hành vi mang tính trách nhiệm cao cũng như việc tuyên truyền về các thành tựu. Thay cho việc tiến hành cải cách liên tục, các Chính phủ cần phải làm cho các tổ chức có thể thích nghi được với cải cách. Chỉ khi mà sự liêm chính công mạnh mẽ có tính truyền thống được kết hợp với những cam kết duy trì nền tảng đạo đức thì mới có thể ngăn ngừa được sự suy thoái lớn.
Sự phân tán và tự phát là những điều rủi ro đáng kể khi mà người quản lý hoặc các chính quyền cấp dưới được trao quyền tự quyết. Việc sử dụng rộng rãi khu vực tư nhân trong cung cấp dịch vụ, đôi khi cạnh tranh cả với các thiết chế công ở một số nước, đã dẫn đến sự hỗn loạn ở mức độ nhất định về việc ai chịu trách nhiệm về cái gì và các công dân thấy gần như không thể tìm ra được đường đi của mình trong mớ bòng bong bởi sự đa dạng của các nhà cung cấp dịch vụ gây ra. Điều này cũng được nêu ra như một vấn đề mới phát sinh trong các khu vực xã hội ở Vương quốc ánh.
Thách thức về trình độ đáp ứng yêu cầu phân cấp. Mỗi nước có mô hình tổ chức khác nhau để tạo ra năng lực tiến hành cải cách. Một hệ thống càng ít tập trung thì việc có các kênh thông tin chính thức và không chính thưc nhằm duy trì các mối liên kết trong quá trình cải cách càng trở nên quan trọng hơn. Chính phủ cần khuyến khích hợp tác hơn là sự phối hợp nhằm giảm thiểu sự phân tán về nhiệm vụ và nhấn mạnh vào kết quả toàn cầu.
Tốc độ và các phương pháp phân cấp hành chính ở mỗi nước đều có đặc thù riêng, nhưng tại các nước AŒ, có thể thấy rằng những phát sinh chủ yếu là do những khó khăn trong việc tìm giải pháp thực hiện; trong vấn đề uỷ quyền và kéo theo đó là việc bảo vệ sự liêm chính của công chức địa phương; những rủi ro của vấn đề phân quyền và sự chồng chéo khi nhà nước can dự vào các công việc; sự giảm sút về đạo đức do sự độc đoán từ bên trong quá trình cải cách; tính không chắc chắn của những thay đổi có thể ảnh hưởng đến quá trình phân cấp v.v.
1.3.2 Phân cấp hành chính ở Canada Ở Canada những công việc sau đây được phân cấp triệt để cho các đơn vị hành chính cơ sở :
Về tài chính : Thực hiện ký kết các hợp đồng, dự toán và quyết toán ngân sách, định giá đất, cung cấp tài chính cho đơn vị hành chính cơ sở (kể cả vay nợ), làm thuế (đánh thuế, thu thuế), đấu thầu.
Về hành chính : Cấp hợp đồng cung cấp dịch vụ, lưu trữ tài liệu , cung cấp trụ sở làm việc cho đơn vị hành chính cơ sở, thành lập các uỷ ban, giao tiếp và hành chính, xây dựng và thực hiện các hợp đồng bảo hiểm và đào tạo, toà án cơ sở, tổ chức bầu cử và trưng cầu dân ý, ký hợp đồng tuyển dụng, ký thoả thuận liên kết giữa các đơn vị hành chính cơ sở với nhau, trưng thu, trưng mua, quản lý nhân sự…
Về kinh tế : Mua trang thiết bị hoặc nguyên vật liệu, mua động sản và bất động sản...
Về Vệ sinh môi trường : cấp, thoát nước, quản lý chợ trời, thu gom rác, xử lý các tác hại đối với môi trường, bảo vệ dòng nước, xử lý nước thải, xây dựng chính sách bảo vệ dòng sông và khu vực hải dương, xử lý các chất thải khác. Các vấn đề về thu gom rác thải, xử lý nước thải, chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường đều giao cho chính quyền cơ sở quản lý.
Về Y tế và sự thoải mái của người dân: kiểm định thực phẩm, bảo vệ những người không hút thuốc, dịch vụ trông trẻ, trợ giúp cho các gia đình, tổ chức các hoạt động từ thiện…
Về Giải trí và văn hoá : tổ chức thư viện, bảo tàng, ký các thoả thuận dịch vụ với các tổ chức nhà trường và tôn giáo, tổ chức hội chợ và triển lãm, tổ chức các hoạt động giải trí, xây dựng các công viên và sân chơi.
Ở Canada tất cả các trường học, từ đại học đến tiểu học đều tổ chức theo liên xã, liên huyện, liên tỉnh do Bộ Giáo dục quản lý, không giao cho tỉnh, huyện. Bộ giáo dục có cơ quan đại diện của mình ở cấp tỉnh và huyện. Hàng năm cơ quan đại diện này ký với từng trường một hợp đồng giáo dục, qua bản hợp đồng đó cấp ngân sách cho từng trường học và nghiệm thu kết quả đầu ra theo chất lượng giảng dạy sinh viên học sinh.
Về tổ chức lãnh thổ : Thoả thuận liên kết giữa các đơn vị hành chính cơ sở, sáp nhập các đơn vị hành chính, kết hợp với các đơn vị khác thực hiện dịch vụ công …
Về Bảo vệ tài sản và cá nhân: phòng cháy chữa cháy, áp dụng các biện pháp khẩn cấp, cảnh sát trật tự, giám sát súc vật nuôi…
Về vận tải: vận tải hàng không, giao thông đường bộ, bến đỗ xe, vận tải công cộng, các hoạt động công chính, tu bổ đường xá, cầu cống, các công trình nghệ thuật và xây dựng quảng trường.
Về quy hoạch đô thị và cải tạo đất: bảo vệ tài sản và di sản văn hoá, phá rỡ các công trình cũ nát, chiếu sáng, xây dựng nhà ở, kế hoạch quy hoạch đô thị (xây dựng, phân khu, chia lô), khuyến khích sự phát triển của công nghiệp và thương mại v.v.
Những nhiệm vụ trên đây do hành chính cơ cơ sở đảm nhận theo cách thức dân chủ, tự quyết thông qua hoạt động của Hội đồng hành chính, qua các uỷ ban(thường trực và đặc biệt), tiếp cận thông tin, cơ chế kiểm tra và khả năng hành chính của đội ngũ lãnh đạo và thực thi ở cơ sở. Luật pháp qui định chính quyền cấp trên không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của hành chính cơ sở.
1.3.3 Phân cấp quản lý đất đai ở Malaisya
Thẩm quyền quản lý và phân phối đất đai ở Malaisya hoàn toàn giao cho chính quyền cấp tỉnh thực hiện. Chính quyền TW chỉ ban hành các thể chế về đất đai, không quyết định phân phối đất đai. Các cơ quan TW muốn sử dụng đất phải được chính quyền cấp tỉnh phân phối và trả tiền thuế đất cho chính quyền cấp tỉnh.
1.3.4 Phân cấp quản lý y tế ở New-Zeland
Ở New-Zeland Chính phủ TW không quản lý một bệnh viện nào mà giao tất cả cho cấp tỉnh quản lý. Các quan chức cao nhất của Chính phủ như Thủ tướng đều đến khám và chữa bệnh tại bệnh viện của cấp tỉnh.

1.4 Thách thức với với việc phân cấp quản lý hành chính ở nước ta trong xu thế hội nhập Toàn cầu hoá trên thực tế là một xu thế được khởi xướng từ các nước phát triển đến nay đã trở thành một quá trình tất yếu đối với tất cả các nước không phân biệt trình độ phát triển, vị thế quốc tế hay chế độ kinh tế, xã hội của các nước đó. Bởi vậy việc gia nhập vào quỹ đạo toàn cầu không hoàn toàn thuận lợi với nhiều quốc gia, nhất là những quốc gia đang và chậm phát triển.
Quá trình phân cấp quản lý hành chính nước ta trong tiến trình hội nhập sẽ gặp những khó khăn trước mắt sau đây:
- Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta khi bước vào hội nhập còn rất thấp và năng lực quản lý của hệ thống hành chính chưa cao, nhất là cấp chính quyền địa phương và cơ sở. Cơ chế quản lý tập trung bao cấp còn ảnh hưởng lớn đến tâm lý và hành động của nhiều cán bộ, công chức trong nền hành chính nên phân cấp quản lý khó triệt để, dứt khoát như các nền hành chính khác.
- Hiện Việt nam đang tồn tại mâu thuẫn giữa nhu cầu bức xúc hội nhập để tranh thủ được các thời cơ cho phát triển với khoảng thời gian cần có đủ để tạo dựng một nền hành chính có khả năng cạnh tranh trong hội nhập. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta phải gấp rút xây dựng và triển khai chiến lược cải cách hành chính, trong đó tiến hành phân cấp mạnh hơn cho địa phương để tìm kiếm nhiều động lực mạnh thực sự kích thích sản xuất, tận dụng tối đa các lợi thế của địa phương cho phát triển kinh tế-xã hội. Đây chính là sức ép lớn với nền hành chính nói chung và chính quyền địa phương nói riêng.
- Các cơ chế của nền kinh tế thị trường nước ta còn trong giai đoạn chuyển đổi, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, còn thiếu cả sân chơi và luật chơi cho các hoạt động kinh tế trong nước và nước ngoài theo hướng hiện đại. Những văn bản luật hiện hành vừa thiếu vừa yếu, còn có nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và “luật chơi” chung của các tổ chức mà chúng ta đã và đang chuẩn bị tham gia. Bởi vậy khi tiến hành phân cấp quản lý hành chính phải giải quyết nhiều việc cùng một lúc, trong khi nguồn lực của ta là hữu hạn.
- Một khó khăn khác là chúng ta đang phải đối diện với những thế lực thù địch nước ngoài với những âm mưu diễn biến hoà bình nên quản lý nhà nước không chỉ có đơn phương phân cấp, mà còn phải tập trung quản lý nhiều lĩnh vực, đối tượng để tạo nên sức mạnh chung thống nhất để đảm bảo chủ quyền và độc lập dân tộc, lợi ích quốc gia.
- Môi trường pháp lý tại Việt Nam chưa ổn định, luật lệ và chính sách hay thay đổi nên các cấp quản lý hành chính cũng bị động, lúng túng trong điều hành các đối tượng được phân cấp quản lý. Những thay đổi dù theo hướng tích cực cũng làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền địa phương, nhất là với các đối tác nước ngoài vì họ muốn có môi trường ổn định để hợp tác toàn diện, lâu dài với Việt Nam.
- Nền hành chính nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu về cả trình độ chuyên môn, kỹ năng hoạt động đa phương, khả năng ngoại ngữ cũng như thái độ phục vụ công dân với tư cách như “khách hàng”… bởi vậy khi phân cấp sẽ gặp không ít khó khăn về nhân sự, làm giảm lòng tin của dân chúng vào các cấp chính quyền địa phương.
Những trở ngại trên đòi hỏi chúng ta phải đẩy nhanh cải cách hành chính và khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức địa phương có đủ năng lực và kiến thức để có thể chủ động thực hiện các nhiệm vụ được giao nhất là thiết lập các mối quan hệ song phương và đa phương tạo điều kiện thuận lợi cho Việt nam tham gia hội nhập.
PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải
Học viện Hành chính Quốc gia
 
×
Quay lại
Top