Mac-lenin

khacthua

***HÒA-CỎ DẠI***
Thành viên thân thiết
Tham gia
15/1/2011
Bài viết
275
1 – Cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa
C. Mác đã vạch ra rằng, tư bản không hề phát minh ra lao động thặng dư, rằng: "Nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về những tư liệu sản xuất thì nơi đó người lao động, tự do hay không tự do, đều buộc phải thêm vào thời gian lao động cần thiết để nuôi sống bản thân mình một số thời gian lao động dôi ra dùng để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu tư liệu sản xuất" (1). Quy luật kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất bóc lột người lao động không có tư liệu sản xuất, được thực hiện dưới những hình thức và cơ chế khác nhau trong những hình thái xã hội khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp nô lệ bị lệ thuộc hoàn toàn về th.ân thể vào giai cấp chủ nô, thì ngoài việc bị bóc lột lao động thặng dư, nô lệ còn bị chiếm một phần lớn sản phẩm cần thiết của giai cấp nô lệ. Trong chế độ phong kiến, giai cấp nông nô đã có một phần tự do về th.ân thể đối với giai cấp địa chủ và chế độ bóc lột lao động thặng dư biểu hiện dưới hình thức bóc lột địa tô, lao động thặng dư và lao động cần thiết được phân chia rõ ràng. Bởi vậy, theo C. Mác cơ chế bóc lột thời phong kiến có nhiều tiến bộ hơn chiếm hữu nô lệ.
Giai cấp tư sản bước lên vũ đài lịch sử cũng là giai cấp độc chiếm tư nhân những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Khác với cơ chế bóc lột trong hai hình thái kinh tế – xã hội trước chủ yếu dựa trên quan hệ hiện vật, cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa dựa trên quan hệ giá trị; nói cách khác là quan hệ trao đổi những vật ngang giá (tức là tuân theo quy luật giá trị). Quan hệ này che dấu sự bóc lột trong một cơ chế trao đổi với vẻ bề ngoài như là tự do và bình đẳng, chính vì vậy mà các nhà kinh tế học trước C. Mác đã không thành công trong việc lý giải bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa.
A. Smith và D. Ri-các-đô đã quan niệm một cách hời hợt, bề ngoài rằng, mua bán giữa tư bản và công nhân hình như là mua bán lao động nên cả hai ông đều gặp bế tắc trong việc lý giải một cách khoa học bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận. Chẳng hạn, nếu lao động là hàng hóa thì nó phải được kết tinh vào vật, như vậy là công nhân bán hàng hóa chứ không bán lao động; lao động được xác định là thước đo của mọi giá trị thì không thể tự lấy nó để đo lường giá trị của bản thân nó. Mặt khác, nếu mua bán lao động mà trao đổi ngang giá thì không còn cơ sở tồn tại của lợi nhuận, nhưng thực tế lợi nhuận tồn tại một cách khách quan. Vậy, theo các cách giải thích đó, quy luật giá trị mâu thuẫn với quy luật sản xuất ra lợi nhuận và ngược lại.
C. Mác đã phát hiện rằng, quan hệ mua bán giữa công nhân và tư bản không phải là mua bán hàng hóa lao động mà là mua bán một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động. Hàng hóa này có giá trị và giá trị sử dụng khác với các hàng hóa thông thường. Giá trị của hàng hóa sức lao động là giá trị những tư liệu sinh hoạt tối thiểu cần thiết để tái sản xuất sức lao động của công nhân và bao hàm những yếu tố tinh thần, lịch sử và dân tộc… – Giá trị sử dụng của hàng hóa này (tức là tiêu dùng nó trong quá trình sản xuất) có khả năng tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của chính nó là sức lao động. Do đó dù nhà tư bản trả đủ giá trị sức lao động cho công nhân trên cơ sở trao đổi ngang giá thì vẫn thu được phần giá trị dôi ra, biến thành lợi nhuận. Như vậy, quy luật giá trị và quy luật sản xuất ra lợi nhuận không phủ định lẫn nhau mà song song tồn tại: trao đổi giữa tư bản và công nhân tuân theo quy luật ngang giá (quy luật giá trị sức lao động) nhưng nhà tư bản vẫn thu được phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động; phần dôi ra đó được C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Như vậy, bóc lột lao động thặng dư biểu hiện thành bóc lột giá trị thặng dư là quy luậtbóc lột đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó.
Tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến hay tỷ số giữa lao động thặng dư và lao động cần thiết là tỷ suất giá trị thặng dư; tỷ suất đó nói lên mức độ bóc lột giai cấp công nhân. Giá trị thặng dư có biểu hiện bề ngoài là một số tiền dôi ra ngoài tư bản ứng trước; số tiền đó có tên gọi là lợi nhuận. Phạm trù lợi nhuận che dấu quan hệ bóc lột vì nó làm cho người ta dễ lầm tưởng là con đẻ của tư bản ứng trước (c + v) chứ không phải là con đẻ của tư bản khả biến (v).
Tổng số giá trị thặng dư bóc lột được phân chia thành các loại thu nhập ăn bám trong xã hội tư bản: lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng; nó còn được phân chia nhỏ hơn nữa thành lợi nhuận doanh nghiệp, lợi tức cho vay v.v.. Quá trình phân chia đó tuân thủ theo quy luật cạnh tranh bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Giá trị thặng dư còn phải phân chia cho chủ sở hữu ruộng đất dưới hình thức địa tô. Như vậy, tổng số giá trị thặng dư do toàn bộ giai cấp vô sản, công nhân tạo ra trong các ngành sản xuất bị toàn bộ giai cấp tư bản và địa chủ phân chia nhau trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, đỉnh cao của nó là độc quyền nhà nước là chủ nghĩa đế quốc, đã có nhiều biến đổi trong hình thức và cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa. Quy luật sản xuất giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong thời kỳ tự do cạnh tranh thì nay, trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, nó biểu hiện thành quy luậttỷ suất lợi nhuận độc quyền cao; quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất trong thời kỳ tự do cạnh tranh nay biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền với hệ thống giá bán độc quyền cao, giá mua độc quyền thấp do tư bản độc quyền can thiệp và áp đặt v.v.. Những bộ phận cấu thành lợi nhuận độc quyền cao là: lao động thặng dư, thậm chí một phần lao động cần thiết của công nhân trong xí nghiệp độc quyền; một phần lao động thặng dư của các xí nghiệp nhỏ và vừa do xí nghiệp độc quyền xén bớt thông qua hệ thống giá cả độc quyền; lao động thặng dư, thậm chí một phần lao động cần thiết của nông dân và thợ thủ công cũng bị bóc lột thông qua hệ thống giá cả độc quyền; phần quan trọng là siêu lợi nhuận thuộc địa dựa trên sự bóc lột nặng nề lao động thặng dư và một phần lao động cần thiết của nhân dân lao động ở những nước thuộc địa hay phụ thuộc.
Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học – kỹ thuật và của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, cơ chế bóc lột đã trở nên phức tạp và tinh vi hơn (chủ nghĩa Taylo, chủ nghĩa Fayol, chủ nghĩa Ford, chủ nghĩa Ford mới v.v., lần lượt xuất hiện để biện minh cho tính công bằng, sòng phẳng trong quan hệ giữa tư bản với lao động). Trên thực tế trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, ngày càng có nhiều thủ đoạn và hình thức bòn rút lợi nhuận tinh vi để không ít người còn lầm tưởng đến một thứ chủ nghĩa tư bản mới "nhân văn" hơn trước đây, như "chủ nghĩa tư bản nhân dân", "xã hội tham dự"… Điều không thể che dấu được đó là sự hình thành một tầng lớp tư sản ăn bám, quý tộc, thực lợi, tài phiệt; sự thao túng có tính chất toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia, tình trạng bất bình đẳng trong các quan hệ thương mại quốc tế; sự xuất hiện của cái gọi là chủ nghĩa thực dân kinh tế; sự áp đặt chính sách giữa Đông và Tây, giữa các nước giàu với các nước nghèo…
2 – Đào sâu sự phân cực xã hội – hệ quả tất yếu của quy luật bóc lột tư bản chủ nghĩa
Sự phân hóa xã hội thành giai cấp không lao động nhưng giàu có, đầy quyền lực, thống trị, áp bức đa số người trong xã hội và giai cấp lao động sản xuất ra của cải xã hội nhưng nghèo khổ, bị tước mọi quyền và bị áp bức là sản phẩm tất yếu của mọi xã hội có chế độ người bóc lột người dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng sự phân cực xã hội với hình thức biểu hiện kinh tế của nó là sự phân hóa giàu – nghèo trong các xã hội nô lệ và phong kiến, mặc dù các chế độ bóc lột siêu kinh tế này biểu hiện ra là dã man, tàn bạo, nhưng là có hạn độ.
Trong chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, sự phân cực xã hội là vô cùng sâu sắc, sự phân hóa giàu nghèo được đẩy tới cực độ. Ở đây của cải ngày càng tập trung vào một số nhỏ các cá nhân là những triệu phú và tỉ phú; ở cực đối lập là những người sống dưới mức nghèo khổ ở các nước tư bản phát triển và đông đảo những người cùng khổ, đói rét ở các nước tư bản đang phát triển. Chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa đã sớm chớp lấy những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật và công nghệ để không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, do đó năng suất lao động thặng dư cũng ngày càng tăng theo; cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa đã chuyển hướng sang dựa chủ yếu trên sự tăng năng suất lao động. Cũng trên cơ sở kỹ thuật đã phát triển mà cơ chế bóc lột dựa trên tăng cường độ lao động thái quá và kéo dài ngày lao động một cách che dấu cũng phát triển. Của cải xã hội ngày càng được tạo ra nhiều, nhưng lại chỉ tập trung vào một cực. Mặt khác, nội dung vật chất của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư mang hình thức giá trị trao đổi (tức là vàng bạc hay tiền tệ); trong quan hệ bóc lột dựa trên hình thức giá trị trao đổi, lòng thèm khát tăng lao động thặng dư và khát vọng làm giàu trên cơ sở đó được đẩy tới cực độ. Sở dĩ như vậy là vì giá trị trao đổi với hình thức biểu hiện vật chất của nó là vàng, tức tiền tệ, về mặt chất lượng có sức mạnh vô hạn (có tiền là có tất cả), về mặt số lượng bao giờ cũng có hạn. Mâu thuẫn giữa chất lượng có sức mạnh vô hạn và số lượng có hạn đó làm tăng lòng thèm khát vơ vét được nhiều tiền. Do tất cả những điều kiện lịch sử và tình hình trên, quy luật bóc lột tư bản chủ nghĩa đã đẩy sâu quá trình phân cực xã hội mà các xã hội bóc lột trước kia không thể sánh kịp.
Đặc điểm của sản xuất tư bản chủ nghĩa còn là tái sản xuất mở rộng nhằm mở rộng bóc lột và ngày càng tích tụ tập trung tư bản để cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội với mục đích thu lợi nhuận cao hơn lợi nhuận trung bình và thắng trong cạnh tranh. Do đó, tư bản tích lũy ngày càng giành đầu tư nhiều hơn vào việc hiện đại hóa guồng máy sản xuất, làm cho kết cấu hữu cơ (c/v) của tư bản thay đổi theo hướng: tư bản bất biến (c) tăng lên cả về giá trị tuyệt đối và tương đối trong khi tư bản khả biến (v) tăng lên tuyệt đối, nhưng giảm tương đối do kỹ thuật hiện đại vừa đắt tiền vừa làm giảm số lượng công nhân vận hành máy móc. Quy luật kết cấu của tư bản thay đổi theo hướng tăng lên như vậy dẫn đến giảm mức cầu về sức lao động trong khi số lượng của giai cấp công nhân tăng lên cùng với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Từ đó dẫn đến nạn nhân khẩu thừa tương đối hay nạn thất nghiệp và hình thành đội quân công nghiệp trù bị.
Tích tụ, tập trung tư bản trong quá trình tích lũy cũng đưa đến kết quả một số ít nhà tư bản tước đoạt của số đông nhà tư bản nhỏ và vừa qua con đường cạnh tranh "cá lớn nuốt cá bé". Nạn nghèo khổ, áp bức, nô dịch, bóc lột càng tăng lên. Vậy là, sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa…
3 – Ý nghĩa ngày nay của Học thuyết về giá trị thặng dư đối với nước ta
Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có tính chất dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản ứng trước tối thiểu, sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư tối đa; và trong chừng mực mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động quá sức của những người công nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể hiện ra trong cái nguyện vọng muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định với những chi phí ít nhất về sức lực và tư liệu, tức là một khuynh hướng kinh tế của tư bản dạy cho loài người biết chi phí sức lực của mình một cách tiết kiệm và đạt tới mục đích sản xuất với một chi phí ít nhất về tư liệu" (2).
Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt, chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Thiết nghĩ, đây là một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.













Giá trị thặng dư là một trong những khái niệm trung tâm của kinh tế chính trị Mác - Lênin. Các Mác đã nghiên cứu và đưa ra một số công thức tính toán xung quanh khái niệm này trong các tác phẩm viết về kinh tế chính trị của ông. Nó được sử dụng để khẳng định lao động thặng dư của công nhân bị các nhà tư bản lấy đi, là nền tảng cho sự tích lũy tư bản.
Học thuyết về giá trị thặng dư
Học thuyết giá trị thặng dư là phát minh quan trọng thứ hai sau biện luận duy vật lịch sử của Marx. Nội dung chính của học thuyết phát biểu rằng sản xuất và chiếm hữu giá trị thặng dư là hình thức đặc biệt trong chủ nghĩa tư bản về sản xuất và chiếm hữu sản phẩm thặng dư, nghĩa là hình thức cao nhất của sự tha hóa con người đối với hoạt động của mình, đối với sản phẩm từ hoạt động đó, đối với chính mình, đối với người khác.

Trong học thuyết này Marx đưa ra công thức T-H-T' (tiền-hàng hóa-tiền) để minh họa cho sự biến đổi của vốn (tư bản) dạng tiền sang dạng hàng hóa và cuối cùng quay trở lại dạng tiền ở mức cao hơn mức ban đầu một lượng ΔT (nghĩa là T'=T+ ΔT). Bởi tất cả giá trị được tạo thành trong quá trình biến đổi thông qua sản xuất hàng hóa là do lao động (theo Thuyết giá trị về lao động), mà chủ yếu là lao động của người làm thuê, nên giá trị thặng dư ΔT cũng là giá trị do lao động kết tinh. Tuy nhiên, giá trị này không được chia đều cho những người trực tiếp làm ra nó, mà thuộc quyền sở hữu của chủ tư bản.

Khác với công thức H-T-H (hàng hóa-tiền-hàng hóa) phản ánh chức năng trung gian của tiền trong trao đổi, công thức T-H-T' phản ánh sự luân chuyển và tự phát triển của tư bản. Tư bản dưới dạng tiền trở thành một chủ thể tự thân, đối lập với sức lao động, bóc lột sức lao động để nuôi lớn mình lên. Marx chỉ ra rằng đó là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Theo công thức đã dẫn thì tư bản có khả năng lớn lên vô giới hạn. Tuy nhiên Marx cũng chỉ ra giới hạn nhất định của phát triển tư bản do chi phối của quy luật lợi nhuận trung bình. Lợi nhuận trung bình xảy ra do sự cạnh tranh tư bản giữa các ngành kinh tế khác nhau. Mặc khác, do khả năng chi trả trong thị trường cho nhu cầu tiêu dùng là có hạn, nên điều đó cũng kìm h.ãm tốc độ vận động của tư bản.

Hình thức cao nhất của sự phát triển tư bản là cho vay lãi. Chủ nhân của tư bản vay lãi có cảm giác rằng tiền đẻ ra tiền và công thức vận động của tư bản biến thành T-T'.

Định nghĩa giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư được Marx xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số tiền nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình thức tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn lao động gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên, người lao động đã đưa vào hàng hóa một lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản bỏ ra. Phần dư ra đó gọi là giá trị thặng dư.

Có thể lấy một ví dụ như sau để giải thích: Giả sử một người lao động trong một giờ làm ra được giá trị sản phẩm là 1000 đồng. Đến giờ thứ hai trở đi, trên cơ sở sức lao động đã bỏ ra ở giờ thứ nhất, người lao động đó sẽ làm ra được 1100 đồng. Số tiền chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư sức lao động.

Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị thặng dư
* Năng suất lao động
* Thời gian lao động
* Cường độ lao động
* Công nghệ sản xuất
* Thiết bị, máy móc
* Vốn

Ý nghĩa
* Xét thuần túy trong lĩnh vực kinh tế, công thức trên cho thấy bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào có tiền (vốn) được đưa vào trong quá trình sản xuất và kinh doanh trực tiếp hay gián tiếp như thông qua đầu tư chứng khoán, thậm chí gửi ngân hàng sẽ sinh lời. Đồng tiền chỉ trở thành công cụ sinh lời nếu đầu tư vào sản xuất hay kinh doanh. Mỗi cá nhân đều có thể trở thành nhà tư bản nếu biết sử dụng hợp lý tiền của mình trong đầu tư kinh doanh. Nếu chỉ để tích lũy thuần túy thì đó là đồng tiền chết, không những không có lợi cho cá nhân đó mà còn không có lợi cho những người khác cần vốn để sản xuất.
* Trong bất kỳ xã hội nào cũng cần phải tìm cách tăng giá trị thặng dư, nếu áp dụng được các công nghệ sản xuất tiên tiến, sử dụng được tri thức, trí tuệ vào trong quá trình sản xuất sẽ làm tăng giá trị thặng dư mà không cần phải kéo dài thời gian lao động hay cường độ lao động ảnh hưởng đến những người sản xuất.
* Công thức cũng chỉ ra cách thức tích lũy làm tăng số tiền, là cơ sở để tái sản xuất mở rộng, phát triển quy mô sản xuất, tăng trưởng kinh tế.

Giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động tất yếu trong khi năng suất lao động, giá tri sức lao động và thời gian lao động tất yếu không đổi. Phương pháp sản xuất giá tri thặng dư tương đối: Là phương pháp sản suất giá tri thăng dư do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên trong điều kiện ngày lao động, cường độ lao động không đổi.

Phương pháp đo lường giá trị thặng dư
Các quan niệm khác về giá trị thặng dư
Có một số người cho rằng giá trị thặng dư là của người làm thuê tạo ra mà không phải của nhà tư bản. Để tránh được sự hiểu lầm như trên ta nên đi sâu tìm hiểu phân tích thêm về cả một guồng máy nào đã tạo nên giá trị thặng dư:

Ta gọi toàn bộ số tiền dôi ra trong quá trình kinh doanh sản xuất nói chung là giá trị thặng dư: ΔT=m thì ta nên phân tách m thành nhiều phần nhỏ là các thành tố trong toàn bộ bộ máy (doanh nghiệp) đã tạo ra m như sau:

m= m1 + m2 + m3 +m4 + m5 + m6 + m7 + m8 + m9 + m10 + m11 +...

Trong đó:

* m1: là phần tiền bù đắp cho tỉ lệ lạm phát để đảm bảo giá trị của đồng tiền theo thời gian |Tt|=|Ts+m1| (chẳng hạn là năm sau thì 11 đồng mới có giá trị bằng 10 đồng năm trước)
* m2: giá trị thặng dư của lao động quá khứ tích lũy trong tư bản (được hiểu là tiền đẻ ra tiền mà không phải làm gì cả ví dụ được tính tương đương với lãi suất trái phiếu chính phủ hoặc lãi suất ngân hàng trừ đi tỉ lệ lạm phát. Do đó LSNH=m1+m2;
* m3: công của nhà tư bản đã có ý tưởng và có công xây dựng nên bộ máy (công ty chẳng hạn) sản xuất ra giá trị thặng dư này
* m4: Chi phí trả cho sự mạo hiểm do nhà tư bản đã đầu tư vốn
* m5: Trả cho nhà tư bản đã có công quản lý vận hành đào tạo công nhân.
* m6: Trả cho các lao động đặc biệt của nhà tư bản mà các lao động này người công nhận không thể làm thay được.
* m7: trả lại tiền ăn học cho nhà tư bản.
* m8: trả cho gien di truyền đã tạo nên đức tính thông minh cần cù của nhà tư bản.
* m9: trả cho công của nhà tư bản đã tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo đà phát triển cho xã hội giảm tỷ lệ thất nghiệp đỡ tránh các tệ nạn do bần cùng hóa xã hội như: ăn xin, trộm cắp,thất học, buôn gian bán lậu...
* m10: thuế. Tại sao phải đóng thuế? Các sắc thuế ngoài việc thu về các phần đóng góp của quốc gia trong hoạt động của doanh nghiệp còn có ý nghĩa điều tiết lại giá trị thặng dư nhà tư bản đã bóc lột nhân công (nếu có)
* m11: của người lao động
Ý NGHĨA NGÀY NAY CỦA HỌC THUYẾT VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C. MÁC
1 - Cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa
C. Mác đã vạch ra rằng, tư bản không hề phát minh ra lao động thặng dư, rằng: "Nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về những tư liệu sản xuất thì nơi đó người lao động, tự do hay không tự do, đều buộc phải thêm vào thời gian lao động cần thiết để nuôi sống bản thân mình một số thời gian lao động dôi ra dùng để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu tư liệu sản xuất". Quy luật kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất bóc lột người lao động không có tư liệu sản xuất, được thực hiện dưới những hình thức và cơ chế khác nhau trong những hình thái xã hội khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp nô lệ bị lệ thuộc hoàn toàn về th.ân thể vào giai cấp chủ nô, thì ngoài việc bị bóc lột lao động thặng dư, nô lệ còn bị chiếm một phần lớn sản phẩm cần thiết của giai cấp nô lệ. Trong chế độ phong kiến, giai cấp nông nô đã có một phần tự do về th.ân thể đối với giai cấp địa chủ và chế độ bóc lột lao động thặng dư biểu hiện dưới hình thức bóc lột địa tô, lao động thặng dư và lao động cần thiết được phân chia rõ ràng. Bởi vậy, theo C. Mác cơ chế bóc lột thời phong kiến có nhiều tiến bộ hơn chiếm hữu nô lệ.
Giai cấp tư sản bước lên vũ đài lịch sử cũng là giai cấp độc chiếm tư nhân những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Khác với cơ chế bóc lột trong hai hình thái kinh tế - xã hội trước chủ yếu dựa trên quan hệ hiện vật, cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa dựa trên quan hệ giá trị; nói cách khác là quan hệ trao đổi những vật ngang giá (tức là tuân theo quy luật giá trị). Quan hệ này che dấu sự bóc lột trong một cơ chế trao đổi với vẻ bề ngoài như là tự do và bình đẳng, chính vì vậy mà các nhà kinh tế học trước C. Mác đã không thành công trong việc lý giải bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa.
A. Smith và D. Ri-các-đô đã quan niệm một cách hời hợt, bề ngoài rằng, mua bán giữa tư bản và công nhân hình như là mua bán lao động nên cả hai ông đều gặp bế tắc trong việc lý giải một cách khoa học bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận. Chẳng hạn, nếu lao động là hàng hóa thì nó phải được kết tinh vào vật, như vậy là công nhân bán hàng hóa chứ không bán lao động; lao động được xác định là thước đo của mọi giá trị thì không thể tự lấy nó để đo lường giá trị của bản thân nó. Mặt khác, nếu mua bán lao động mà trao đổi ngang giá thì không còn cơ sở tồn tại của lợi nhuận, nhưng thực tế lợi nhuận tồn tại một cách khách quan. Vậy, theo các cách giải thích đó, quy luật giá trị mâu thuẫn với quy luật sản xuất ra lợi nhuận và ngược lại.
C. Mác đã phát hiện rằng, quan hệ mua bán giữa công nhân và tư bản không phải là mua bán hàng hóa lao động mà là mua bán một loại hàng hóa đặc biệt - hàng hóa sức lao động. Hàng hóa này có giá trị và giá trị sử dụng khác với các hàng hóa thông thường. Giá trị của hàng hóa sức lao động là giá trị những tư liệu sinh hoạt tối thiểu cần thiết để tái sản xuất sức lao động của công nhân và bao hàm những yếu tố tinh thần, lịch sử và dân tộc... - Giá trị sử dụng của hàng hóa này (tức là tiêu dùng nó trong quá trình sản xuất) có khả năng tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của chính nó là sức lao động. Do đó dù nhà tư bản trả đủ giá trị sức lao động cho công nhân trên cơ sở trao đổi ngang giá thì vẫn thu được phần giá trị dôi ra, biến thành lợi nhuận. Như vậy, quy luật giá trị và quy luật sản xuất ra lợi nhuận không phủ định lẫn nhau mà song song tồn tại: trao đổi giữa tư bản và công nhân tuân theo quy luật ngang giá (quy luật giá trị sức lao động) nhưng nhà tư bản vẫn thu được phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động; phần dôi ra đó được C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Như vậy, bóc lột lao động thặng dư biểu hiện thành bóc lột giá trị thặng dư là quy luật bóc lột đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó.
Tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến hay tỷ số giữa lao động thặng dư và lao động cần thiết là tỷ suất giá trị thặng dư; tỷ suất đó nói lên mức độ bóc lột giai cấp công nhân. Giá trị thặng dư có biểu hiện bề ngoài là một số tiền dôi ra ngoài tư bản ứng trước; số tiền đó có tên gọi là lợi nhuận. Phạm trù lợi nhuận che dấu quan hệ bóc lột vì nó làm cho người ta dễ lầm tưởng là con đẻ của tư bản ứng trước (c + v) chứ không phải là con đẻ của tư bản khả biến (v).
Tổng số giá trị thặng dư bóc lột được phân chia thành các loại thu nhập ăn bám trong xã hội tư bản: lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng; nó còn được phân chia nhỏ hơn nữa thành lợi nhuận doanh nghiệp, lợi tức cho vay v.v.. Quá trình phân chia đó tuân thủ theo quy luật cạnh tranh bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Giá trị thặng dư còn phải phân chia cho chủ sở hữu ruộng đất dưới hình thức địa tô. Như vậy, tổng số giá trị thặng dư do toàn bộ giai cấp vô sản, công nhân tạo ra trong các ngành sản xuất bị toàn bộ giai cấp tư bản và địa chủ phân chia nhau trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, đỉnh cao của nó là độc quyền nhà nước là chủ nghĩa đế quốc, đã có nhiều biến đổi trong hình thức và cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa. Quy luật sản xuất giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong thời kỳ tự do cạnh tranh thì nay, trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, nó biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận độc quyền cao; quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất trong thời kỳ tự do cạnh tranh nay biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền với hệ thống giá bán độc quyền cao, giá mua độc quyền thấp do tư bản độc quyền can thiệp và áp đặt v.v.. Những bộ phận cấu thành lợi nhuận độc quyền cao là: lao động thặng dư, thậm chí một phần lao động cần thiết của công nhân trong xí nghiệp độc quyền; một phần lao động thặng dư của các xí nghiệp nhỏ và vừa do xí nghiệp độc quyền xén bớt thông qua hệ thống giá cả độc quyền; lao động thặng dư, thậm chí một phần lao động cần thiết của nông dân và thợ thủ công cũng bị bóc lột thông qua hệ thống giá cả độc quyền; phần quan trọng là siêu lợi nhuận thuộc địa dựa trên sự bóc lột nặng nề lao động thặng dư và một phần lao động cần thiết của nhân dân lao động ở những nước thuộc địa hay phụ thuộc.
Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật và của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, cơ chế bóc lột đã trở nên phức tạp và tinh vi hơn (chủ nghĩa Taylo, chủ nghĩa Fayol, chủ nghĩa Ford, chủ nghĩa Ford mới v.v., lần lượt xuất hiện để biện minh cho tính công bằng, sòng phẳng trong quan hệ giữa tư bản với lao động). Trên thực tế trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, ngày càng có nhiều thủ đoạn và hình thức bòn rút lợi nhuận tinh vi để không ít người còn lầm tưởng đến một thứ chủ nghĩa tư bản mới "nhân văn" hơn trước đây, như "chủ nghĩa tư bản nhân dân", "xã hội tham dự"... Điều không thể che dấu được đó là sự hình thành một tầng lớp tư sản ăn bám, quý tộc, thực lợi, tài phiệt; sự thao túng có tính chất toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia, tình trạng bất bình đẳng trong các quan hệ thương mại quốc tế; sự xuất hiện của cái gọi là chủ nghĩa thực dân kinh tế; sự áp đặt chính sách giữa Đông và Tây, giữa các nước giàu với các nước nghèo...
2 - Đào sâu sự phân cực xã hội - hệ quả tất yếu của quy luật bóc lột tư bản chủ nghĩa
Sự phân hóa xã hội thành giai cấp không lao động nhưng giàu có, đầy quyền lực, thống trị, áp bức đa số người trong xã hội và giai cấp lao động sản xuất ra của cải xã hội nhưng nghèo khổ, bị tước mọi quyền và bị áp bức là sản phẩm tất yếu của mọi xã hội có chế độ người bóc lột người.






I – Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ?
1- Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, nó còn ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ “trung tâm – ngoại vi”. Có thể nói, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn hay một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo.
Chính vì thế mà, như C. Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất yếu phải nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn, nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự điều chỉnh, tự thích nghi bằng cách phát triển “nền kinh tế thị trường hiện đại”, “nền kinh tế thị trường xã hội”, tạo ra “chủ nghĩa tư bản xã hội”, “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, “nhà nước phúc lợi chung”…, tức là phải có sự can thiệp trực tiếp của nhà nước và cũng phải chăm lo vấn đề xã hội nhiều hơn, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hóa để chuẩn bị chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xã hội hóa. Đây là tất yếu khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
2 – Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh, hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật (muốn xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa, áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thị trường), không năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cuộc đã không thành công.
Thực ra, khi mới vận dụng học thuyết Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lê-nin cũng đã từng chủ trương không áp dụng mô hình kinh tế thị trường mà thực hiện “chính sách cộng sản thời chiến”. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Người đã phát hiện ra sai lầm, khắc phục sự nóng vội bằng cách đưa ra thực hiện “chính sách kinh tế mới” (NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa, chấp nhận ở mức độ nhất định cơ chế thị trường. Theo V.I.Lê-nin, để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn tương đối lạc hậu về kinh tế như nước Nga, cần phải sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất. Tuy chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn nhưng NEP đã đem lại những kết quả tích cực cho nước Nga: hồi phục và phát triển nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh tế bắt đầu hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn. Tiếc rằng, tư tưởng của V.I.Lê-nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách NEP đã không được tiếp tục thực hiện sau khi Người qua đời. Sự thành công và sự phát triển mạnh mẽ suốt một thời gian khá dài của Liên Xô trong công cuộc công nghiệp hóa đất nước bằng mô hình kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, kế hoạch hóa tập trung cao độ; phân phối thu nhập mang tính bình quân; kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường bị loại bỏ đã có sức hấp dẫn lớn đối với nhân loại và làm cho giới lý luận kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển tuyệt đối hóa, biến thành công thức để áp dụng cho tất cả các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Cũng cần nói thêm rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giới lý luận ở một số nước cũng cảm thấy có cái gì “chưa ổn”, cũng đã đưa ra những kiến nghị, những đề xuất, đại loại như quan điểm “chủ nghĩa xã hội thị trường”,… nhưng không được chấp nhận.
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế, khuyết tật của mô hình kinh tế Xô-viết bộc lộ ra rất rõ cộng với sự yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Một số người lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình bằng công cuộc cải cách, cải tổ, nhưng với một “tư duy chính trị mới”, họ đã phạm sai lầm nghiêm trọng cực đoan, phiến diện (ở đây chưa nói tới sự phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa của họ và sự phá hoại thâm hiểm của các thế lực thù địch), dẫn tới sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã làm lộ rõ những khuyết tật của mô hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường, mặc dù những khuyết tật đó không phải là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự sụp đổ.
3 – Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khóa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”. Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
II – Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên đã nói, Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật – công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác – Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Có ý kiến cho rằng, không thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; rằng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không thể dung hợp với nhau, nếu đem “ghép” định hướng xã hội chủ nghĩa vào kinh tế thị trường thì chẳng khác nào trộn dầu vào nước, tạo ra một cơ thể “đầu Ngô mình Sở”. Theo chúng tôi, ý kiến này không đúng. Không đúng là vì, hoặc ý kiến này muốn trì kéo Việt Nam trong quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận định hướng xã hội chủ nghĩa, không muốn Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là điều trái với quy luật khách quan, không thể chấp nhận. Hoặc ý kiến này không thoát ra được khỏi tư duy cũ, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, cho kinh tế thị trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, từ đó “dị ứng” với kinh tế thị trường, không thấy hết những yếu tố mới, xu hướng mới của kinh tế thị trường trong điều kiện mới của thời đại, lặp lại sai lầm của một thời trước đây.
Cũng có ý kiến nhấn mạnh một chiều những đặc trưng chung, những cái phổ biến của kinh tế thị trường, chưa thấy hết hoặc còn phân vân, nghi ngờ về những đặc điểm riêng, những cái đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó chưa tin là kinh tế thị trường có thể phát triển trên cơ sở chế độ công hữu là nền tảng, kinh tế quốc doanh là chủ đạo; rằng trong kinh tế thị trường không thể có kế hoạch, không thể thực hiện được công bằng xã hội, không thể khắc phục được những tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường, v.v.. Lại có ý kiến băn khoăn cho rằng, việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là trở về với chủ nghĩa tư bản, có thêm định ngữ “định hướng xã hội chủ nghĩa” thì cũng chỉ là để cho yên lòng, cho có vẻ “giữ vững lập trường” mà thôi, trước sau gì thì cũng trượt sang con đường tư bản chủ nghĩa.
Chúng tôi cho rằng, những băn khoăn này là dễ hiểu, bởi vì đây là những điều còn rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, nếu không xác định rõ nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa và kiên trì vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường thì những điều đó rất dễ xảy ra. Chúng tôi còn phải vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Nhưng có điều cần khẳng định là: trong điều kiện mới của thời đại ngày nay, nhất định không thể duy trì mãi mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, không thể đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Chính C.Mác đã phê phán sự lầm lẫn giữa kinh tế hàng hóa với kinh tế tư bản chủ nghĩa của phái kinh tế học tầm thường. C.Mác khẳng định rằng : “… sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là những hiện tượng thuộc về nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan trọng của chúng không giống nhau… Chúng ta hoàn toàn chưa biết một tí gì về những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất ấy và chúng ta chưa thể nói gì về những phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ biết có những phạm trù trừu tượng của lưu thông hàng hóa, những phạm trù chung cho tất cả các phương thức ấy”(1). Phải chăng việc nhận thức cho đúng và nói cho được những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất đặc thù ấy là trách nhiệm mà C.Mác giao cho và gửi gắm các thế hệ ngày nay?
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước này giảm thiểu được những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới chủ nghĩa xã hội trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị trường. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian không dài có thể khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
III – Làm thế nào để phát triển được kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ?
Đây là một câu hỏi lớn mà muốn trả lời được đầy đủ và chính xác phải qua từng bước thử nghiệm, tổ chức thực hiện trong thực tế rồi đúc rút, bổ sung, hoàn chỉnh dần.
Hơn 10 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng mừng, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế giới mà còn có bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7% /năm. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng,… Tuy nhiên, cũng có nhiều vấn đề mới đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
1 – Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào.
Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật.
Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
2 – Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế – xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
3 – Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội.
Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh.
Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách – một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
4 – Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới.
Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường – tức là nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… thì không cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm “vướng chân” sự vận hành của kinh tế (?). Ý kiến này không đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản – là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra.
Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước.
Tóm lại, sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng còn không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v..
Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời”, hy vọng rằng từng bước, từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay.

Sản xuất giá trị thặng dự có đồng nghĩa với bóc lột giá trị thặng dư không

Từ lý luận kinh tế của Mác có thể nói: Giá trị thặng dư là giá trị do lao động của công nhân làm thuê sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Nhà tư bản sử dụng tính chất đặc biệt của hàng hóa sức lao động vào mục đích tạo ra cho mình giá trị thặng dư. Chiếm đoạt toàn bộ giá trị thặng dư này là hành vi được gọi đích danh là “bóc lột ” giá trị thặng dư. Đó là nói chung, còn cụ thể, trong quá trình sản xuất, hành vi “bóc lột” giá trị thặng dư được nhà tư bản thực hiện bằng các phương pháp khác nhau: sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối, tức là kéo dài tuyệt đối thời gian của ngày lao động, rút ngắn thời gian lao động cần thiết để sản xuất từng sản phẩm và tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư. Việc tăng giá trị thặng dư còn được một số nhà tư bản thực hiện bằng cách hạ thấp giá trị của hàng hóa do xí nghiệp mình sản xuất so với giá trị xã hội của hàng hóa đó. Số giá trị tạo ra bằng cách này được gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Trong hoạt động kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch đều bị nhà tư bản chiếm đoạt, vì vậy mà luôn luôn có cuộc đấu tranh của công nhân làm thuê chống lại sự chiếm đoạt đó. Cuộc đấu tranh chống bóc lột giá trị thặng dư về thực chất là đấu tranh chống việc nhà tư bản chiếm đoạt hoàn toàn giá trị thặng dư.
Như vậy, mục đích của cuộc đấu tranh này là nhằm giải quyết mâu thuẫn trong bản thân quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mục đích đấu tranh của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là đòi phải phân chia các giá trị thặng dư cho đúng, cho hợp lý, hợp tình; ngăn chặn nhà tư bản chiếm đoạt toàn bộ các giá trị thặng dư.
Các khía cạnh liên quan đến sự sản sinh và sự chiếm đoạt giá trị thặng dư như vừa đề cập ở trên phải được đặt gọn trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa; chúng được bảo hộ bằng nền chính trị (có khi cả quân sự nữa) của chủ nghĩa tư bản. Quá trình sản sinh, chiếm đoạt giá trị thặng dư cũng là viên đá tảng trong cấu trúc của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Sự chiếm đoạt giá trị thặng dư mà giới chủ tư bản thường xuyên thực hiện đối với những người sản sinh ra giá trị thặng dư được gọi là sự bóc lột. Đó chính là sự bóc lột mà giai cấp tư sản thực hiện đối với giai cấp công nhân làm thuê trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Việc sản sinh và chiếm đoạt giá trị thặng dư là sự phản ánh quan hệ sản xuất căn bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Vậy, rõ ràng, bóc lột giá trị thặng dư là sản phẩm của chế độ tư bản chủ nghĩa. Ở đó sản xuất giá trị thặng dư đồng nghĩa với bóc lột giá trị thặng dư. Điều này cần đặc biệt nhấn mạnh. Ngộ nhận về điều này sẽ dẫn đến rối loạn khi chúng ta phải luận giải để trả lời các câu hỏi: Vậy thì trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sản xuất giá trị thặng dư không? Cái được gọi là “giá trị thặng dư” trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thuộc về ai? Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa này sở hữu “giá trị thặng dư” có phải là hành động bóc lột hay không? Hay nói cách khác sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có đồng nghĩa với bóc lột không?
Sản xuất và phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản và trong chủ nghĩa xã hội hoàn toàn không giống nhau. Bởi vì “ bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu quả của sự phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất; nhưng sự phân phối những điều kiện sản xuất lại là một tính chất của chính ngay phương thức sản xuất. Ví dụ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên tình hình là những điều kiện vật chất của sản xuất lại nằm ở trong tay những kẻ không lao động, dưới hình thức sở hữu tư bản và sở hữu ruộng đất, còn quần chúng thì chỉ là kẻ sở hữu những điều kiện người của sản xuất, tức là sức lao động. Nếu những yếu tố của sản xuất được phân phối như thế thì thì việc phân phối hiện nay về tư liệu tiêu dùng tự nó cũng do đó mà ra. Nếu những điều kiện vật chất của sản xuất là sở hữu tập thể của bản thân những người lao động thì cũng sẽ có một sự phân phối những tư liệu tiêu dùng khác với sự phân phối hiện nay.”(1)
Theo tinh thần đó, trong nền kinh tế mhiều thành phần ở nước ta, việc phân phối trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân hay doanh nghiệp tư bản nhà nước khác với việc phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp hiệp tác. Và còn có bóc lột hay không thể hiện trong chính sự phân phối ấy, bao gồm cả phân phối điều kiện sản xuất và phân phối kết quả sản xuất.
Trong các doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp hiệp tác dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thì kết quả sản xuất thuộc về nhà nước và tập thể lao động của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân phối gia trị thặng dư vừa tăng thu cho ngân sách nhà nước, vừa tăng thu nhập của người lao động, lại vừa tăng các quỹ của doanh nghiệp. Kết hợp hài hòa ba lợi ích: Nhà nước, tập thể và người lao động thì không còn quan hệ bóc lột nữa và càng nhiều lợi nhuận thì cả ba lợi ích càng được tăng cao. Vì vậy trong sản xuất hàng hóa xã hội cũng phải phấn đấu thu được nhiều giá trị thặng dư, nhưng đối với chủ nghĩa xã hội sản xuất giá trị thặng dư không phải là quy luật tuyệt đối.
Ở doanh nghiệp tư bản tư nhân chủ yếu dựa trên sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất, công nhân chỉ sở hữu sức lao động; bởi vậy nhà tư bản chỉ trả cho công nhân theo giá cả sức lao động, toàn bộ kết quả sản xuất thộc quyền chi phối của nhà tư bản. Sau khi nộp thuế nhà tư bản chiếm hữu phần giá trị thặng dư còn lại, đó là động cơ, mục đích kinh doanh của nhà tư bản. Ở đây còn tồn tại quan hệ bóc lột giá trị thặng dư. Nhưng một khi chưa xây dựng xong hoàn toàn chủ nghĩa xã hội, khi mà lực lượng sản xuất còn kém phát triển, thì nhà nước ta vẫn phải thừa nhận sự bóc lột này là hợp pháp. Vì vậy, một mặt nhà nước ta đòi hỏi các nhà tư bản nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật, tôn trọng lợi ích chính đáng của công nhân, mặt khác để khuyến khích sự phát triển kinh tế tư bản tư nhân, Nhà nước phải bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của các nhà tư bản và thực thi những chính sách, nhất là chính sách thuế, sao cho họ có thể thu được lợi nhuận thích đáng thì họ mới mạnh dạn đầu tư để phát triển sản xuất, kinh doanh.
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN của Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp tư nhân không hoàn toàn giống kinh tế tư bản tư nhân dưới chế độ TBCN và cũng không hoàn toàn chịu sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư. Do đó, việc thừa nhận sự tiến bộ, hợp pháp của kinh tế tư nhân và khuyến khích nó phát triển là khuyến khích sản xuất ngày càng nhiều giá trị mới cho xã hội (làm giàu), khuyến khích sự phát triển của xã hội, chứ không phải là khuyến khích sự bóc lột. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Sự khẳng định này đã góp phần xóa bỏ mặc cảm, tháo gỡ rào cản cho kinh tế tư nhân phát triển, thực hiện CNH, HĐH ở nước ta.

ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội, trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là "công nghệ", là "phương tiện" để phát triển kinh tế – xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế – xã hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy, chứng tỏ không có và không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế – xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị – xã hội của một nước. Do đó, để phân biệt các nền kinh tế thị trường khác nhau, trước hết phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế – xã hội mà nhà nước và nhân dân lựa chọn làm định hướng, chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế đó.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế – xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói rằng: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa mang tính đặc thù, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật kinh tế thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường ở nước ta với các nước khác.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện trước hết ở việc xác định nội dung các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế thị trường và đặc trưng xã hội của nền kinh tế thị trường.Như trên đã phân tích, trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường này với nền kinh tế thị trường khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế – xã hội mà nhà nước và nhân dân đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động của nền kinh tế. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới"(1).
Cương lĩnh cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là "xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh"(2).
Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên, thì mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc phục được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới. Động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài. Phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, có thể nói, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là "đòn xeo"để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, là phương tiện để thực hiện xã hội hóa xã hội chủ nghĩa nền sản xuất, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ở chỗ đem thành quả của tăng trưởng kinh tế cao đến với mọi người bằng cách không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Chủ trương của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sản xuất và đời sống nhân dân như nước với thuyền, "nước đẩy thuyền lên", tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, động viên, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xóa đói, giảm nghèo.
Ở nước ta, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng với bảo đảm an sinh và công bằng xã hội. Bởi vấn đề bảo đảm xã hội, công bằng, bình đẳng trong xã hội không chỉ là "phương tiện" để phát triển mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.
Bởi vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ba điểm rất cơ bản là: lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân; kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, thực hiện tốt các chính sách xã hội; Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể luận giải ba điểm trên như sau:
Thứ nhất, chế độ đa sở hữu và đa thành phần kinh tế. Cốt lõi của kinh tế thị trường là sản xuất hàng hóa, trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường theo quy luật thị trường. Sản xuất và trao đổi chỉ xảy ra khi mọi chủ thể tham gia vào nền kinh tế thị trường độc lập với nhau, và vì vậy muốn thỏa mãn nhu cầu xã hội thì phải trao đổi sản phẩm gọi là hàng hóa. Các chủ thể, bởi thế, phải ý thức rõ ràng về sở hữu vật đem trao đổi, cũng như lợi ích từ việc trao đổi đó. Người lao động có thể là một người lao động cá thể hay một người lao động tổng thể. Xét trên phạm vi cả xã hội thì chỉ thông qua trao đổi lao động tư nhân mới biểu hiện thành lao động xã hội, mới chứng tỏ lao động tư nhân đó được xã hội thừa nhận.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nhiều hình thức sở hữu, như: sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, song chế độ sở hữu công cộng (công hữu, toàn dân) về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp.
Việc thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa nguồn lực bên trong và bên ngoài để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Bên cạnh đó phải chủ động đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để chúng trở thành nền tảng của nền kinh tế, có khả năng hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết cũng như an ninh – quốc phòng, mà các thành phần kinh tế khác không có lợi thế hoặc đầu tư không có hiệu quả. Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
Thứ hai, kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính; thực hiện tốt các chính sách xã hội. Muốn cho nền kinh tế thị trường không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và thực hiện công bằng xã hội, thì Nhà nước phải chủ động thực hiện và điều tiết các quan hệ phân phối, cụ thể như:
- Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa bảo đảm cho các chủ thể tham gia kinh tế thị trường có điều kiện đua tranh phát huy tài năng và có lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế.
- Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội… trong đó, phải làm sao để quan hệ phân phối theo lao động đóng vai trò chủ đạo. Thừa nhận sự tồn tại của các hình thức thuê mướn lao động, các quan hệ thị trường sức lao động, nhưng không để chúng biến thành quan hệ thống trị, dẫn đến tình trạng không kiểm soát được sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập.
- Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Một mặt, Nhà nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo, không để diễn ra sự chênh lệch quá mức giữa các vùng, miền, các dân tộc và các tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mặt khác, phải có chính sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng, hợp pháp cho người giàu, khuyến khích người có tài năng.
Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết phân phối thu nhập trên phạm vi toàn xã hội, nhằm bảo đảm công bằng xã hội; thị trường có những nguyên tắc riêng trong điều tiết phân phối thu nhập. Chế độ phân phối trong xã hội là sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và sự quản lý, điều tiết của Nhà nước.
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội không thể chỉ dựa vào chính sách điều tiết và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư, mà còn phải thực hiện tốt các chính sách phát triển xã hội, nhằm giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đối tượng của các chính sách xã hội là toàn thể nhân dân, bởi vậy các chính sách ấy bao gồm:
Chính sách lao động và việc làm là chính sách xã hội cơ bản. Nó có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn lao động có kiến thức, kỹ năng và lương tâm nghề nghiệp ngày càng cao, tạo ra nhiều việc làm mới, đồng thời sử dụng hiệu quả nguồn lực ấy, giảm dần tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm, vươn tới toàn dụng lao động xã hội. Đó chính là biện pháp quan trọng để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa "phát triển sự phong phú của bản chất con người" trong lao động sáng tạo ra mọi của cải có giá trị cho bản thân, gia đình và xã hội.
Chính sách xóa đói, giảm nghèo không đơn thuần chỉ là một chính sách từ thiện, mà là một hệ thống chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị và môi trường nhằm tác động trực tiếp và gián tiếp đến các nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người. Đó là các chính sách giao quyền sử dụng đất, tạo vốn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hỗ trợ về giáo dục và y tế, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, phát huy quyền làm chủ cho người nghèo và cộng đồng nghèo để giúp họ tự vươn lên thoát nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư, các thành phần dân tộc, các vùng miền trong cả nước.
Chính sách an sinh xã hội phải từng bước tạo ra "mạng lưới" gồm nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều hình thức phong phú về bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm cuộc sống xứng đáng cho những người về hưu, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, người gặp rủi ro bất hạnh và đặc biệt là những người có công với nước.
Chính sách phòng chống các tệ nạn xã hội phải kết hợp sử dụng nhiều biện pháp giáo dục, hành chính và pháp luật để giữ vững sự ổn định, an toàn của một xã hội có kỷ cương; xây dựng lối sống lành mạnh theo quy phạm đạo đức và chuẩn mực xã hội tiến bộ, văn minh, có tác dụng cảm hóa những người lầm lỗi, tạo điều kiện cho họ tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ ba, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực hiện cơ chế đó sẽ bảo đảm tính định hướng, điều khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trên các mặt, như Nhà nước đóng vai trò là "nhân vật trung tâm" và quản lý kinh tế vĩ mô, thông qua các chức năng:
- Tạo môi trường pháp lý, kinh tế – xã hội ổn định, thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường;
- Định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế – xã hội bằng việc soạn thảo, ban hành các kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội và các chính sách (đặc biệt là các chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng) để hướng các chủ thể kinh tế vào thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và các chương trình phát triển kinh tế – xã hội đã đặt ra;
- Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế, nó bao gồm: Nhà nước sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, đặc biệt là sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước; phân phối các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với nền kinh tế thị trường; tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đổi mới thể chế và thủ tục hành chính. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp; thiết lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức kinh tế quốc tế.
- Điều tiết kinh tế, điều hành vĩ mô nền kinh tế, trong đó Nhà nước cần cân nhắc kỹ lưỡng những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh; bảo đảm nguyên tắc vận hành của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường "tự điều chỉnh". Mặt khác, do thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, do đó nó còn phải chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy, không thể xem các quan hệ thị trường hoạt động theo quy luật kinh tế khách quan một cách biệt lập với sự điều tiết của Nhà nước bằng các chính sách kinh tế của mình.
- Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm pháp luật và làm sai chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã hội.
Cơ chế thị trường là nhân tố "trung tâm" của nền kinh tế, đóng vai trò "trung gian" giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước ta quản lý nền kinh tế – xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và của toàn thể nhân dân.
Quan điểm cho rằng, khi chuyển sang kinh tế thị trường thì Nhà nước không cần phải can thiệp vào kinh tế và không cần thiết phải kế hoạch hóa vĩ mô nền kinh tế… là hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận, thực tiễn. Trong tất cả các mô hình kinh tế đã được đúc kết trên thế giới có hai dạng điều tiết kinh tế: thứ nhất, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hóa và các biện pháp hành chính; thứ hai, điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ pháp luật và theo hướng kế hoạch do Nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức của mỗi dạng trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hóa và thị trường đều có cả ưu thế lẫn khuyết tật. Bởi vậy, chúng cần bổ sung cho nhau để hạn chế những khuyết tật.
Thực chất của vấn đề kế hoạch hóa trong kinh tế thị trường, xét từ góc độ Nhà nước, có thể được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế – xã hội đúng hướng.


VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA


Đối với chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì “quan hệ sản xuất” là một trong những khái niệm cơ bản, góp phần phản ánh cấu trúc và logic vận động của các hình thái kinh tế - xã hội. Lênin cho rằng: “Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất (QHSX) và đem những QHSX vào trình độ của những lực lượng sản xuất (LLSX) thì ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. [1.163].
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất). Trong quá trình sản xuất nảy sinh nhiều mối quan hệ, nhưng ở đây ta chỉ xét ba mối quan hệ cơ bản mà C.Mác coi đó là ba mặt của QHSX. QHSX gồm ba mặt cơ bản sau đây:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất: Nói lên rằng trong quá trình sản xuất, người lao động đang sử dụng những TLSX đó của ai, và ai là người có quyền định đoạt TLSX đó. Trong QHSX, quan hệ sở hữu đối với TLSX đóng vai trò quyết định vì nó quyết định bản chất của QHSX.
- Quan hệ trong tổ chức quản lý và phân công lao động: Nói lên địa vị và vai trò của các tập đoàn khác nhau, nói lên sự trao đổi giữa các tập đoàn xã hội với nhau. Tuy phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với TLSX, nhưng trong thực tế quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động cũng có vai trò rất quan trọng. Ngay cả khi chế độ sở hữu chưa có gì thay đổi, nhưng nếu có một phương thức quản lý hợp lý thì sản xuất vẫn có bước phát triển.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động: Là cách thức phân phối kết quả sản xuất cho những quan hệ với quá trình đó, điều đó phụ thuộc vào quan hệ của họ đối với TLSX, nhưng nếu phân phối công bằng sẽ thúc đấy quá trình sản xuất phát triển.
Ba mặt nói trên quan hệ hữu cơ với nhau, không tách rời nhau. Trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với những quan hệ khác. Bản chất bất kỳ QHSX nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề TLSX chủ yếu trong xã hội giải quyết như thế nào.
QHSX có vai trò to lớn trong sự phát triển xã hội. Khi QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX tạo thành quy luật thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, QHSX phù hợp đã thúc đẩy xã hội loài người lần lượt phát triển qua năm hình thái kinh tế - xã hội: Công xã nguyên thủy (Cộng sản nguyên thủy), Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa.
Vậy QHSX có vai trò như thế nào trong sự phát triển nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay?
Ở nước ta, nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định từ Đại hội VII: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa” và được tiếp tục khẳng định qua các Đại hội VIII, IX và X.
Do điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của nước ta còn thấp cả về LLSX và QHSX, nên việc xây dựng từng bước QHSX mới để thúc đẩy sản xuất phát triển và xã hội phát triển là một yêu cầu tất yếu. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH tính đan xen tác động lẫn nhau trong QHSX thể hiện ở chỗ sự tồn tại của nhiều QHSX: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã phát huy tác dụng và đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển.
Trong các thành phần kinh tế trên, Đảng ta đã xác định kinh tế nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước phải thực sự nắm giữ những ngành, những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, mũi nhọn phải đi đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu qủa. Kinh tế nhà nước phải không ngừng tăng cường, cũng cố và phát triển làm chỗ dựa để nhà nước thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN. Cùng với kinh tế hợp tác (nòng cốt là hợp tác xã) dần dần trở thành nền tảng của nền kinh quốc dân và chế độ xã hội mới. Đối với kinh tế tập thể, đây là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể về TLSX. Kinh tế tập thể phát huy được sức mạnh tập thể mà từng cá nhân không thể có được. Kinh tế tập thể sẽ không ngừng củng cố và phát triển, cùng với kinh tế nhà nước sẽ trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phải đổi mới kinh tế tập thể làm cho nó trở nên đa dạng phong phú hơn, có như thế mới huy động vốn dưới nhiều hình thức và làm ăn có hiệu quả hơn.
Một đất nước vừa phát triển theo định hướng XHCN lại vừa thừa nhận sự tồn tại và phát triển của thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Điều đó không phải là nghịch lý, vấn đề đặt ra ở đây chúng ta sử dụng nó như thế nào để nhanh chóng phát triển LLSX mà vẫn xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước được Đảng ta chủ trương áp dụng rộng rãi phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước để phát triển LLSX theo định hướng XHCN. Đối với các thành phần kinh tế khác, Đảng ta xác định cần có sự hướng dẫn, hướng kinh tế cá thể, tiểu chủ theo lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển, từng bước đi vào làm ăn hợp pháp một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Mặt khác, khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đi vào con đường liên doanh với nhà nước, bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp, tạo mối quan hệ hợp tác cùng có lợi cho chủ và thợ. Để thực hiện công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước, chúng ta cần sử dụng kinh tế tư bản nhà nước như một công cụ hữu hiệu, bắt nhà tư bản phải cày trên “mảnh đất vô sản” biến thành phần kinh tế tư bản nhà nước thành “một trợ thủ đắc lực cho CNXH”. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế mới xuất hiện trong những năm gần đây ở nước ta, sự phát triển của thành phần kinh tế này cho phép chúng ta tranh thủ được khối lượng to lớn từ nước ngoài về vốn, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh tế, mở rộng thị trường nước ngoài, giải quyết việc làm, trong nước, góp phần khai thác và sử dụng hiệu quả hơn tiềm năng kinh tế ở nước ta.Vì thế, chủ chương của nhà nước là tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển; hướng vào xuất khẩu.
Như vậy, chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của Đảng ta thật sự khơi dậy tiềm năng của các thành phần kinh tế. Tính tích cực chủ động sáng tạo của của nhân dân được phát huy, sản xuất, kinh doanh phát triển và đã thật sự thúc đẩy LLSX phát triển, đời sống nhân ổn định và phát triển. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ mới thì việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống QHSX phù hợp”.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển QHSX chúng ta cũng có những thiếu sót, đúng như Đại hội VIII của Đảng ta đã đánh giá: “Trong thời gian qua việc lãnh đạo QHSX, vừa có phần lúng túng, vừa có phần buông lỏng, chậm tháo gở các vướng mắc về cơ chế, chính sách, để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là chậm, chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, chưa kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác xã để hợp tác xã ở nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn hình thức, cản trở sản xuất phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kinh tế này, quản lý liên doanh với nước ngoài còn nhiều sơ hở”. [4.65-66]. Vì thế, để phát triển QHSX khai thác tốt vai trò của QHSX đối với sự phát triển kinh tế ở nước ta, cần phải có những giải pháp thích hợp.
Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của QHSX trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
Thứ nhất, việc xây dựng QHSX ở nước ta phải xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước, từ nhận thức tính quy luật từ nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn và những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Thứ hai, trong xây dựng hoàn thiện QHSX mới cần chú trọng cả ba mặt: Chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối:
- Về sở hữu, vẫn sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc, tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà không tính đến hiệu quả như trước đây.
- Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và toàn thể nhân dân.
- Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng hoá các hình thức phân phối. "Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”. Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Thứ 3, phải duy trì tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta, tức là phải thực hiện tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Tóm lại: Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trình độ tư duy, và vận dụng của Đảng ta về quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây cũng chính là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.




I. Chủ nghĩa tư bản độc quyền:

1. Nguyên nhân hình thành và bản chất của CNTB- ĐQ:

a. Nguyên nhân: ( 4 nguyên nhân)

- Một là: Sự phát triển của lục lượng sản xuất dưới tác dụng của tiến bộ KHKT, làm xuất hiện những ngành sản xuất mới. Ngay từ đầu nó đã là những ngành có trình độ tích tụ cao, đó là những xí nghiệp lớn đòi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới.


- Hai là: Cạnh tranh tự do. Một mặt buộc các nhà TB phải cải tiến kỹ thuật, tăng qui mô tích lũy. Mặt khác, đã dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém, hoặc bị các đối thủ mạnh thôn tính, hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy xuất hiện một số xí nghiệp tư bản lớn nắm địa vị thống trị một ngành hay trong một số ngành công nghiệp.

- Ba là: Khủng hoảng kinh tế làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phả sản. Một số sống sót phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất. Tín dụng TBCN mở rộng trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất.

- Bốn là: Những xí nghiệp và công ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh mẽ lại tiếp tục cạnh tranh với nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế nảy sinh xu hướng thỏa hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền.

b. Bản chất của CNTB -ĐQ:

Xét về bản chất CNTB độc quyền là một nấc thang phát triển mới của CNTB.

CNTB độc quyền là CNTB trong đó ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.

Sự ra đời của CNTB độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất của CNTB. Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một hình thái biến tướng của quy luật giá trị thặng dư.

2. Đặc điểm kinh tế cơ bản của CNTB- ĐQ: ( 5 đặc điểm)

a. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền:

- Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc trưng kinh tế cơ bản của CN đế quốc:

+ Khi bắt đầu chuyển sang CNTB- ĐQ thì hình thức thống trị là công ty cổ phần. Những liên minh độc quyền này đầu tiên hình thành theo sự liên kết ngang ( cùng ngành) dưới hình thức: Cácten, Xanhđica, Trớt.

+ Sau đó là sự liên kết dọc. Sự liên kết này không chỉ các xí nghiệp lớn mà cả các Xanhđica, Trớt thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan với nhau về kinh tế - kỹ thuật dẫn đến hình thành các công ty độc quyền lớn như: Côngxoocxiom.

Nhưng từ giữa thế kỷ 20 đã phát triển lên một hình thức mới: liên kết đa ngành hình thành các công ty lớn như: Cônglômêrát, Consơn thâu tóm nhiều công ty xí nghiệp thuộc những ngành công nghiệp khác nhau.

Khái niệm: Tổ chức độc quyền là liên minh những nhà TB lớn để tập trung vào trong tay một phần lớn (thậm chí toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó.

- Vị trí, vai trò: Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền.

+ Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự chệnh lệch rất lớn so với giá cả sản xuất:

* Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa bán ra.

* Họ định ra giá cả độc quyền thấp hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mua vào, qua đó thu được lợi nhuận độc quyền.

Vậy giá cả độc quyền là: Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + P độc quyền.
Nhưng giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư, vì xét trên phạm vi toàn xã hội thì: Tổng giá cả vẫn bằng tổng giá trị; tổng số lợi nhuận vẫn bằng tổng số giá trị thặng dư.

Do đó những gì mà độc quyền thu được cũng là cái mà tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước TB, thuộc địa mất đi.

Như vậy ta thấy: Độc quyền ra đời từ cạnh tranh và giữ vai trò thống trị, nhưng nó không thủ tiêu được cạnh tranh; độc quyền và cạnh tranh tồn tại song song và thống nhất với nhau một cách biện chứng. Tuy nhiên trong thời đại Đế quốc chủ nghĩa thì tính chất cạnh tranh khác hẳn thời kỳ tự do cạnh tranh về mức độ và hình thức.

b. TB tài chính và bọn đầu sỏ tài chính:

- Song song với qúa trình tích tụ và tập trung sản xuất, thì trong ngành ngân hàng cũng diễn ra một quá trình tương tự. Hình thành các tổ chức độc quyền ngân hàng.

- Sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng đã làm thay đổi vai trò của ngân hàng:

+ Từ chỗ là trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay do nắm được phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng đã có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động kinh tế xã hội:

* Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay và nhận gửi số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp tring một thời gian dài, nên lợi ích của chúng quyện chặt vào nhau. Hai bên đều quan tâm đến hoạt động của nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau, hình thành nên TB tài chính.

- Khái niệm: TB tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vàp nhau giữa TB độc quyên trong ngân hàng và TB độc quyền trong công nghiệp.

- Sự phát triển của TB tài chính đã dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ hệ thống kinh tế, chính trị xã hội của xã hội TB. Đó chính là bọn đầu sỏ tài chính.

* Bọn đầu sỏ tài chính thực hiện sự thống trị của mình bằng "chế độ tham dự" với số phiếu khống chế mà chi phối được công ty gốc (công ty mẹ) -> chi phối công ty con ->chi phối công ty cháu… Như vậy chỉ bằng một số TB nhất định một đầu sỏ tài chính có thể chi phối được những lĩnh vực sản xuất

c. Xuất khẩu tư bản:

- Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị thặng dư.

- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản đó.

- Xuất khẩu tư bản là tất yếu:

+ Vì trong các nước tư bản có hiện tượng "thừa tư bản".

+ Giá trị nguyên liệu và nhân công ở các nước chậm phát triển rẻ, nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật

+ Thị trường tiêu thụ hàng hóa rộng lớn.

- Hình thức xuất khẩu TB:

+ Xuất khẩu tư bản trực tiếp: Xây dựng các xí nghiệp, trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận,....

+ Xuất khẩu tư bản gián tiếp: Cho vay tư bản để thu lợi tức….

- Xuất khẩu TB vừa có tác dụng tích cực vừa có tác dụng tiêu cực, đặc biệt là đối với các nước nhận đầu tư, có thể dẫn tới tình trạng lệ thuộc về kinh tế, dẫn tới lệ thuộc về chính trị.

d. Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế

Việc xuất khẩu TB tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến việc phân chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư TB, phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền quốc tế với nhau... Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế: Cacten, Xanhđica, Trớt quốc tế. Nhưng giữa cac tổ chức này luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh lẫn nhau… tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế.

e. Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc

Lợi ích của việc xuất khẩu TB đã thúc đẩy các cường quốc TB đi xâm chiếm thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Do tcác động đó, đặc biệt là do tác động của quy luật phát triển không đều của CNTB đó là những nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, cũng như các cuộc xung đột nóng ở nhiều khu vực trên thế giới hiện nay...

Như vậy: chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn ra và thống trị ở nước ngoài của tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà nước.

Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu hiện trong đường lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ thống thuộc địa của các cường quốc nhằm đáp ứng yêu cầu thu siêu lợi nhuận độc quyền của tư bản độc quyền.

II. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một nấc thang phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

1. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

a. Nguyên nhân:

Một là: Sự phát triển của LLSX dẫn đến quy mô của nèen kinh tế ngày càng lớn, tính chất xã hội hoá của nền kinh tế ngày càng cao đòi hỏi phải có sự điều tiết của xã hội đối với sản xuất và phân phối, một kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nhà nước phải dùng các công cụ khác nhau để can thiệp, điều tiết nền kinh tế.

Hai là: Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một só ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận (như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản...). Nhà nước tư sản trong khi đảm nhiệm kinh doanh những ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.

Ba là: sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, nhân dân lao động. Nhà nước phải có chính sách để giải quyết những mâu thuẫn đó: Trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phat triển phúc lợi xã hội.

Bốn là: Sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền với nhau, mâu thuẫn giữa tư bản độc quyền với các tổ chức kinh doanh vừa và nhỏ….trở nên gay gắt cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước….

Năm là: Cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của các tổ chức liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích giữa các đối thủ trên thì trường thế giới. Đòi hỏi có sự điều tiết các quan hệ chính trị, kinh tế quốc tế của nhà nước tư sản. Nhà nước tư sản có vai trò quan trọng để giải quyết các quan hệ đó.

Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh với CNXH hiện thực và tác động của cách mạng khoa học- công nghệ, đòi hỏi có sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế.

b. Bản chất.

- Xét về bản chất CNTB độc quyền nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư bản, chịu sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư, mặc dù đã có nhiều thay đổi so với chủ nghĩa tư bản thời kỳ canh tranh tự do.

- CNTB độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng nóc vẫn chưa thoát khỏi chủ nghĩa tư bản độc quyền.

- CNTB độc quyền nhà nước chỉ là một nấc thang mới so với chủ nghĩa tư bản độc quyền thời kỳ đầu.

Đặc điểm nổi bật của CNTB độc quyền nhà nước là sự can thiệp, sự điều tiết của nhà nước về kinh tế.

Như vậy CNTB độc quyền nhà nước không phải là một chế độ kinh tế mới so với CNTB, lại càng không phải chế độ tư bản mới so với CNTB độc quyền. CNTB độc quyền nhà nước chỉ là CNTB độc quyền có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước về kinh tế, là sự kết hợp sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh của nhà nước về kinh tế.

2. Những biểu hiện chủ yếu của CNTB độc quyền nhà nước.

a. Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản:

- Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện

+ Thông qua các đảng phải tư sản.

+ Thông qua các hội chủ xí nghiệp:

* Các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham giai vào bộ máy nhà nước

* Các quan chức chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền.

b. Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước:

- CNTB độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng nổi bật nhất là sức mạnh của sđộc quyền và nhà nước kết hợp với nhau trong lĩnh vựs kinh tế; Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh tế là sự thay đổi các quan hệ sở hữu:

* Sở hữu nhà nước tăng lên.

* Quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền được tăng cường trong quá trình chu chuyển của tổng tư bản xã hội.

+ Sở hữu nhà nước được hình thành dưới những hình thức:

* Xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách.

* Quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại

* Nhà nước mua cổ phiếu cảu các doanh nghiệp tư nhân.

* Mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân .

c. Sự điều tiết kinh tế cua nhà nước tư sản:

- Nhà nước tư sản dung hợp cả 3 cơ chế: Thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Xét đến cùng và về bản chất, hệ thống điều tiết đó phục vụ cho CNTB độc quyền.



VÀI VẤN ĐỀ VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

TS. VÕ VĂN SEN(*)

Một trong những phát hiện vĩ đại của Mác, Ăng - ghen là đã sớm biết tách riêng giai cấp vô sản ra đời từ khối quần chúng bị áp bức, phát hiện ra vị trí đặc biệt và những xu hướng lịch sử của nó. Từ đó, khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và chỉ ra những hình thức và phương pháp thực hiện sứ mệnh đó.
Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó đã được Mác, Ăng-ghen luận chứng một cách khoa học xuyên suốt trong nhiều tác phẩm và được Lênin tiếp tục phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Ngay từ cuối năm 1844, trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học Pháp quyền của Hê-ghen”, lần đầu tiên Mác đã nêu lên vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và những điều kiện mà qua đó nó xóa bỏ quan hệ bóc lột, TBCN, thiếp lập quan hệ xã hội mới. Đến bản “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” và bộ “Tư Bản” thí lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được phát triển đến một mức độ nhất định. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” là một sự khái quát về lý luận phong trào cách mạng của giai cấp công nhân giữa thế kỷ thứ XIX. Bộ “Tư Bản” đã giải phẫu xã hội tư bản chủ nghĩa vạch rõ cơ sở kinh tế của cơ cấu xã hội và những xu hướng tiếp tục phát triển của nó, đặt cơ sở cho việc giải thích vai trò của giai cấp công nhân trong việc tạo ra những giá trị vật chất, trong việc thủ tiêu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và xây dựng xã hội mới. Đến thời kỳ này, nhiều phạm trù, khái niệm cơ bản nhất đã được xác lập và về sau nó sẽ được tiếp tục phát triển.
Trong điều kiện mới Lênin đã phát triển lý luận Mác-xít về giai cấp công nhân như là “điều chủ yếu của học thuyết Mác” . “Trong tất cả mọi giai đọan đấu tranh vì một thế giới mới, vì chủ nghĩa cộng sản, giai cấp công nhân là lãnh tụ của phong trào cách mạng, là người lãnh đạo của nhân dân lao động” . Lê-nin đã cụ thể hóa sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong điều kiện của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản.
Lý luận chủ nghĩa Mác Lê-nin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được thể hiện ở một số luận điểm cơ bản sau:
- Giai cấp công nhân là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và người sáng tạo ra xã hội mới.
- Giai cấp công nhân là người lãnh đạo trong phong trào cách mạng giải phóng của quần chúng bị áp bức trong xã hội hiện tại.
- Lợi ích giai cấp tư sản và vô sản là đối lập và không điều hòa được. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản là tất yếu và sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản. Trong những điều kiện nhất định, giai cấp công nhân có thể tham gia lãnh đạo cách mạng tư sản, như là sự chuẩn bị tiền đề cho cách mạng vô sản.
- Giai cấp vô sản phải hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của mình. Chủ nghĩa Mác Lê-nin là điều kiện ắt có, cơ bản để giai cấp vô sản từ giai cấp “tự nó” chuyển thành giai cấp “vì nó”.
- Sự ra đời của Đảng Cộng Sản là tất yếu khách quan. Đảng Cộng Sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lê-nin với phong trào công nhân và là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. “Vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản” luôn là vấn đề trung tâm trong suốt một cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng lâu dài và quyết liệt từ khi chủ nghĩa Mác Lê-nin ra đời và các giai đoạn phát triển sau đó.
Hình thức khá phổ biến của sự phủ nhận vai trò của giai câ vô sản là sự công kích khái niệm khoa học của Mác, Ăng-ghen về giai cấp và giai cấp vô sản. Một số người nêu lên tư tưởng “phi kinh tế” về giai cấp để xóa mờ quan niệm của chủ nghĩa Mác cho rằng giai cấp vừa là một phạm trù kinh tế vừa là một phạm trù xã hội. Không thể định nghĩa giai cấp vô sản một cách tùy tiện, không tính đến vấn đề chiếm hữu - sở hữu tư liệu sản xuất, hơn nữa lại chỉ coi đó là một hiện tượng tâm lý . Một số người khác lại cho rằng không có một giai cấp công nhân được xác định rõ ràng . Điểm tựa của những luận điểm xuyên tạc phạm trù giai cấp nói trên là ở chỗ không xem quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất như là một tiêu chuẩn khách quan để xem xét giai cấp.
Ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và những hệ qủa mà nó tạo ra, một lập luận phổ biến chống lại sự lãnh đạo của giai cấp công nhân là cho rằng lý luận Mác - Lênin về vấn đề này đã lỗi thời; giai cấp vô sản sẽ bị xói mòn, thậm chí tiêu vong trước sự phát triển của cách mạng KHKT. Theo họ, cuộc cách mạng KHKT đã và đang tạo ra những biến đổi sâu sắc trong sự phân công lao động xã hội, hiện tượng “trí thức hóa lao động” phát triển mạnh, tỷ lệ lao động trí óc ngày càng tăng cao so với lao động chân tay, cơ cấu xã hội củaa chủ nghĩa tư bản sẽ thay đổi mạnh.
Họ cũng cho rằng vai trò kinh tế của giai cấp công nhân sẽ giảm dần và trong tương lai, giai cấp công nhân sẽ biến mất. Một số nhà lý luận tư sản khác tuy không đồng ý rằng giai cấp công nhân sẽ biến mất, nhưng lại cho rằng giai cấp công nhân không còn là nhân vật chủ yếu của lịch sử .
Cách mạng KHKT có đem đến những biến đổi trong phân công lao động xã hội, trong nội dung, phương thức lao động, trong thành phần giai cấp vô sản; thế nhưng, điều đó hoàn toàn không xóa mờ quan hệ sản xuất TBCN và mâu thuẫn giữa lao động với tư bản. Trí thức không phải là một giai cấp mà chỉ là một tầng lớp đặc biệt thuộc nhiều giai cấp khác nhau. Sự ngăn cách giữa lao động chân tay và lao động trí óc là một sai lầm về lý luận. Cách mạng KHKT làm cho thành phần giai cấp công nhân thêm đa dạng, bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc, lao động trong khu vực sản xuất vật chất và dịch vụ... Qúa trình trí thức hóa phát triển sẽ có thể đưa tới một tầng lớp đặc biệt trong giai cấp công nhân chứ không hề xóa bỏ giai cấp công nhân. Nhìn chung, cách mạng KHKT sẽ làm cho giai cấp công nhân phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
Ngày nay, sau sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước, các nhà lý luận tư sản lại một lần nữa cao giọng cho rằng họ đang nói “những lời cuối cùng cho Mác” (“the last words to Marx”) và cho lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở một số nước vừa qua không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác và lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trái lại, ở nhiều nguyên nhân của cuộc khủng hoảng, sự sụp đổ đó là xuất phát từ chỗ không nắm vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và không thực hiện chuyên chính vô sản một cách đúng đắn, mơ hồ về mâu thuẫn giai cấp trên bình diện thế giới. Chủ nghĩa đa nguyên chính trị với huyền thoại về nền dân chủ đa nguyên chủ nghĩa đã đối lập với quan niệm về đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác và do đó nó có tác dụng chia rẽ giai cấp công nhân, phá hoại Đảng Cộng Sản từ bên trong.
Ở Việt Nam, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng đã sớm được khẳng định cả về lý luận cũng như trong thực tiễn. Đó là một trong những bài học hàng đầu của mọi thắng lợi của cách mạng nước ta trên nửa thế kỷ qua.
Lịch sử đã trao quyền lãnh đạo cách mạng cho giai cấp công nhân mà Đảng Cộng Sản Việt Nam là đại biểu. Trước khi Đảng ta ra đời, các phong trào yêu nước chống Pháp mang ý thức hệ phong kiến, tư bản... đều lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước mà thực chất sâu xa là khủng hoảng về vai trò lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Trong cơ cấu xã hội của Việt Nam lúc bấy giờ chỉ có giai cấp công nhân, do đặc điểm độc đáo của mình, là có vai trò lãnh đạo cách mạng. Thế nhưng giai cấp công nhân chưa tiếp thu được chủ nghĩa Mác - Lênin, và chưa trở thành giai cấp “vì nó”. Trong bối cảnh như vậy, những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc trong cuộc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá vào Việt Nam là hết sức to lớn. Chủ nghĩa Mác - Lênin truyền bá vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã đưa đến sự ra đời của Đảng ta, bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng. Khác với lý luận và thực tiễn ra đời của các chính Đảng chính trị của giai cấp công nhân, sự ra đời của cách chính Đảng cộng sản Việt Nam dựa trên cả ba yếu tố (Chủ nghĩa Mác - Lênin + phong trào công nhân + phong trào yêu nước) chứ không chỉ có hai yếu tố (Chủ nghĩa Mác + phong trào công nhân). Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh rằng sự tham gia của phong trào yêu nước vào sự thành lập Đảng không làm yếu đi tính giai cấp của Đảng và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, mà trái lại nó còn củng cố thêm sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong điều kiện giai cấp này chiếm tỷ lệ rất thấp trong dân cư (1 - 2%) và đang lãnh đạo một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, thực chất là cuộc cách mạng tư sản kiểu mới.
Từ năm 1930 trở đi ở miền Bắc và từ năm 1945 trở đi trên cả nước, trong phong trào cách mạng không có sự tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng nào với giai cấp công nhân; giai cấp công nhân trở thành giai cấp độc quyền lãnh đạo, không chia quyền đó với ai và cũng không lực lượng, giai cấp nào có đủ khả năng để chia quyền lãnh đạo ấy. Nhờ đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để giải quyết yêu cầu ruộng đất của nông dân, nêu ngay từ đầu khẩu hiệu trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 giai cấp nông dân đã thực sự thừa nhận sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối vơi họ và khối liên minh công nông đã ra đời trong thực tiễn máu lửa của cao trào cách mạng này. Cũng nhờ đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong, đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất, tạo nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám - 1945. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn kiên trì sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề về đường lối chính trị, quân sự và phương pháp cách mạng, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Kinh nghiệm cho thấy, khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nó riêng vào nước ta, thì Đảng cách mạng phải vừa trung thành với những bản chất của những nguyên lý căn bản, vừa phải linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Nếu Nguyễn Ái Quốc chỉ dừng lại ở kinh nghiệm đã có trong việc hình thành Đảng Cộng Sản không dám đưa yếu tố phong trào yêu nước vào thì Đảng Cộng Sản Việt Nam khó có thể ra đời sớm như vậy. Những hẹp hòi, hạn chế trong việc tập hợp lực lượng cách mạng ở cao trào cách mạng 1930 - 1931 cũng như những sai lầm nghiêm trọng phổ biến, kéo dài trong những vấn đề có tính nguyên tắc” trong công cuộc cải cách ruộng đất (1953 - 1956) đều bắt nguồn từ thái độ máy móc, giáo điều dẫn đến ngộ nhận rằng đã “đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân”, nhưng kỳ thật là bị các tư tưởng phi vô sản tác động mạnh mẽ.
Công cuộc đổi mới toàn diện tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở đất nước ta hiện nay diễn ta trong bối cảnh quốc tế phức tạp, đan xen những thuận lợi và những khó khăn lớn. Do vậy, việc tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam là một vấn đề sống còn khi xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, trong những điều kiện mới của thời đại toàn cầu hoá, kinh tế tri thức, dứơi những quan điểm mới của Đảng ta từ Đại hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ IX, những quan niệm mới về giai cấp công nhân Việt nam và lập trường của giai cấp công nhân cần phải đượcnhận thức lại, mà trong đó những điểm cơ bản nhất là: giai cấp công nhân”phải tự mình trở thành dân tộc”, tiêu biểu cho quyền lợi của dân tộc, dặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của giai cấp;giai cấp công nhân hiện đại không còn là giai cấp công nhân –vô sản như trong thế kỷ XIX; giai cấp công nhân mà trong đó tầng lớp công nhân trí thức chiếm một vị trí ngày càng to lớn, khối liên minh công- nông -trí thức là cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân; giai cấp công nhân rất phong hú, đa dạng theo thành phần kinh tế mà họ tham gia vào; giai cấp công nhân phải là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất của xã hội hiện đại, được vũ trang bằng những tri thức hiện đại nhất,…Vì vậy, không được máy móc giáo điều, không dựa vào những quan niệm lạc hậu để xem xét lập trường của giai cấp công nhân, không được xem xét vấn đề lập trường giai cấp đi ngược với quan điểm lấy tiến bộ về lực lượng sản xuất làm điểm xuất phát, đảng viên cán bộ phải lấy việc học tập những tri thức hiện đại như một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng luôn được vận dụng sáng tạo và bổ sung không ngừng bằng những tri thức hiện đại nhất của nhân loại. Kinh nghiệm của nhân loại và dân tộc ta trong thế kỷ XX chỉ ra rằng, đững vững hay không vững trên lập trường của giai cấp công nhân hiện đại là điểm cốt tử nhất để có được mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp hay không.



Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay.

A. Mở bài:
Trong giai đoạn hiện nay, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, người ta lại thấy không ít những luận thuyết, những quan điểm khác nhau tấn công chủ nghĩa Mác - Lê nin, hy vọng có thể hạ bệ và thay thế chủ nghĩa Mác - Lênin. Những luận thuyết phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân lại được nở rộ ở nhiều nơi. Người ta cố tình lập luận rằng, C. Mác đã gắn cho giai cấp công nhân cái sứ mệnh mà nó không có chỉ bởi vì ông thương đó là giai cấp nghèo khổ; rằng, chủ nghĩa tư bản đã thay đổi về chất, đã trở thành “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, nhà nước tư bản đã là “nhà nước phúc lợi chung”, nó không còn dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê nữa; rằng, công nhân ở các nước tư bản không còn bị bóc lột nữa, địa vị của họ đã có sự thay đổi căn bản, cho nên không còn sứ mệnh lịch sử nữa! … Có đúng là ngày nay giai cấp công nhân đã mất vai trò lịch sử? Đó là câu hỏi không ít người đã và đang tự hỏi về cái sứ mệnh lịch sử mà Mác và Lênin đưa ra cho giai cấp công nhân kia.
Và đề trả lời cho câu hỏi đó em đã chọn đề tài : “ Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của mình trong thời đại ngày nay” để có thể nhìn nhận vấn đề này một cách đúng đắn nhất.

B. Nội dung:
1.Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Để đi sâu vào tìm hiểu sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì? Trước hết ta cần nắm rõ khái niệm giai cấp công nhân.

- Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động hoạt động sản xuất trong các ngành cộng nghiệp thuộc các trình độ kĩ thuật khác nhau, mà địa vị kinh tế xã hội của họ phụ thuộc vào chế độ xã hội đương thời, ở các nước tư bản. Họ là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là những người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động cho mình
- Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông âu sụp đổ. Các thế lực phản động đả kích chủ nghĩa Mac-Lênin phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đến ngày nay giai cấp công nhân có còn tồn tại hay ko? Để làm rõ điều này chúng ta cần căn cứ vào 2 thuộc tính sau đây để nhận diện:
+Thứ nhất nói về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Mác và Ăng-ghen cho rằng công nhân là tất cả những người lao động trực tiếp hay gián tiếp có sử dụng công cụ lao động trong lĩnh vực sản xuất cộng nghiệp ngày càng hiện đại.
+ Thứ hai nói về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: công nhân là những người ko có tư liệu sản xuất phải làm thuê, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư Mác-Ăngghen gọi họ là giai cấp vô sản.

Lấy hai tiêu chí trên để phân biệt và xác định rằng giai cấp công nhân ngày nay ko hề bị biến mất mà trái lại ngày càng không ngừng phát triển về số lượng. Cụ thể theo tổ chức lao động quốc tế 1900, toàn thế giới có 80 triệu công nhân, đến 199 có hơn 600 triệu, đến 1998 tăng đến 800 triệu.
Đối với giai cấp công nhân hiện nay mặc dù cơ cấu ngành nghề ở các nuớc tư bản dịch vụ chiếm 50-70% sản xuất đã được tự động hoá với một trình rất cao,nhưng trong lao động kể cả trực tiếp hay gián tiếp ngừơi lao động điều phải sử dụng công cụ lao động của cộng nghiệp hiện đại và họ điều là những nguời ko có tư liệu sản xuất. Do đó xét về địa vị xã hội họ vẫn là người làm thuê. nếu như trước kia người công nhân chỉ bán sức lao động cơ bắp là chủ yếu, thì ngày nay họ còn bán luôn cả sức lao động trí óc và đôi khi bán chất xám lại là điều chủ yếu.Trong xã hội ngày nay có phải cuộc sống của công nhân được trung lưu hóa? Để trả lời câu hỏi này chúng ta cần xét hai xã hội:

+ Ở các nước tư bản, phần đông họ ko càn là những người vô sản trần trụi với hai bàn tay trắng, một số có tư liệu sản xuất phụ mà họ có thể cùng gia đình làm thêm ở nhà để sản xuất một số công đoạn phụ cho nhà máy, xí nghiệp. Một số ít có cổ phần nhưng rất bé và bản thân họ cũng chỉ là những người lao động làm thuê. Và trên thực tế ko phải người công nhân nào cũng có thể mua được cổ phần.

+ Đối các nước xã hội chủ nghĩa sau khi giành được chính quyền họ trở thành giai cấp lãnh đạo, tư liệu sản xuất là của chung. Họ vẫn là giai cấp công nhân nhưng ko còn là vô sản như trước nữa. Như vậy về địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân ở các nước xã hội chủ nghĩa căn bản đã khác so với trước đây nhưng trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay thì còn có một bộ phận công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân và họ vẫn là người bị bóc lột.

2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sứ mệnh đó trong thời đại ngày nay.
a. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Ph. Ăngghen viết: “ thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh lịch
sử của giai cấp vô sản hiện đại”
V.I .Lênin cũng chỉ rõ: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng
rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”.
Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.

Một câu hỏi nữa được đặt ra đó là: “ Tại sao giai cấp công nhân hiện đại có thể thực hiện sứ mệnh lịch sử ấy ?”
- Giai cấp công nhân hiện đại có thể thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử ấy của mình là do địa vị kinh tế - xã hội của nó quy định.
+ Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm xuất hiện đội ngũ giai cấp công nhân, họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến của xã hội và là nhân tố quyết định trong việc thủ tiêu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất, nếu có thì chỉ là một phần rất nhỏ mà thôi, vì thế họ phải bán sức lao động và bị bóc lột nặng nề. Nhưng họ là lực lượng xã hội ngày càng lứon mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng. Họ là điều kiện tồn tại của giai cấp tư sản và xã hội tư bản.
+ Giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản nhất trí với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động nên có thể thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân trong quá trinh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân quy định một cách khách quan những đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân hiện đại.
- Những đặc điểm đó là:
+ Giai cấp công nhân hiện đại là giai cấp tiên tiến nhất.
+ Là giai cấp có tinh thần triệt để cách mạnh.
+ Là giai cấp có tính tổ chức và kỉ luật cao.
+ Là giai cấp có bản chất quốc thế.

b. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong giai đoạn ngày nay:
Trong điều kiện ngày nay, cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại rất đa dạng, có nhiều trình độ khác nhau và không ngừng biến đổi theo hướng không thuần nhất: Công nhân kỹ thuật ngày càng tăng công nhân ngày càng được nâng cao về trình độ, đóng vai trò chính trong quá trình phát triển, công nhân truyền thống giảm dần. ở các nước tư bản phát triển “công nhân áo xanh” chỉ chiếm 12 - 15% tổng số công nhân . ở Italia công nhân kỹ thuật cao “công nhân áo trắng” chiếm 53% tổng số công nhân. ở Nhật 90% công nhân có trình độ đại học. ở Tây Ban Nha công nhân kỹ thuật chiếm 53%. Công nhân làm việc trong các ngành dịch vụ tăng lên xấp xỉ 50% tổng số công nhân. Mặc dù một số ít trong giai cấp công nhân có cổ phần trong các xí nghiệp của tư bản, nhưng về cơ bản giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, sự phân biệt giàu nghèo và tình trạng bất công xã hội vẫn tăng lên, bản chất bóc lột giá trị thặng dư vẫn tồn tại, dù được biểu hiện dưới hình thức tinh vi hơn. Cả sự bần cùng hóa tuyệt đối lẫn bần cùng hóa tương đối của giai cấp công nhân vẫn đang tồn tại. Tuy đại bộ phận tầng lớp trí thức và lao động có kỹ năng đang có việc làm được cải thiện mức sống và gia nhập vào tầng lớp trung lưu, nhưng vẫn không xóa được sự phân hóa giàu nghèo. Chính những nhà xã hội học tư sản tiến bộ đã chứng minh ở các nước tư bản hiện nay sự bóc lột còn cao hơn và với cơ chế càng tinh vi hơn thời Mác.

Do tính quy định của sản xuất hiện đại, giai cấp công nhân ngày nay có một số biểu hiện mới: trình độ văn hóa - tay nghề cao hơn; một số công nhân đã có cả tư liệu sản xuất, cổ phiếu, đời sống một bộ phận được cải thiện v.v... Song, những biểu hiện đó không làm thay đổi địa vị cơ bản của công nhân trong chủ nghĩa tư bản. Họ vẫn đang là lực lượng chủ yếu làm ra của cải cho xã hội và lợi nhuận cho các nhà tư bản; là lực lượng đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản, bị bóc lột nhiều nhất và khoảng cách về mức thu nhập giữa họ với giới chủ ngày càng lớn. Công nhân trong các nước tư bản phát triển được trí tuệ hóa, lao động bớt nặng nhọc hơn, có chút ít cổ phần trong doanh nghiệp... thì họ càng bị ràng buộc chặt chẽ hơn vào guồng máy sản xuất của tư bản, càng bị bóc lột nặng nề và tinh vi hơn. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tỷ suất bóc lột giá trị thặng dư trung bình ở thế kỷ XIX là 20, thì hiện nay là 300, cá biệt có nơi, như tập đoàn Microsoft tỷ suất này lên tới 5000. Từ một chiều cạnh khác, hiện nay sự tăng lên lượng tri thức khoa học và văn hóa của công nhân lại cũng là một tiền đề quan trọng để giúp họ nhận thức và cải tạo xã hội. Họ đang phê phán chủ nghĩa tư bản và đến với chủ nghĩa xã hội như đến với cái đúng và do sự thôi thúc của lý trí chứ không chỉ do nghèo đói. Với tri thức và khả năng làm chủ công nghệ cao, với năng lực sáng tạo và ý thức về sứ mệnh, giai cấp công nhân hiện đại đang có thêm điều kiện để tự giải phóng.
Như vậy dù mức sống có cao hơn trước, dù công nhân có được tham gia quản lý thông qua đại biểu trong hội đồng xí nghiệp theo “chế độ tham dự” và “chế độ ủy nhiệm”' nhưng họ vẫn là người làm thuê bán sức lao động, ý chí của chủ nghĩa tư bản vẫn là quyền lực chi phối, tầng lớp “nhà quản lý” vẫn chỉ là kẻ phụ thuộc vào giới chủ. Giai cấp công nhân vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ bản và trực tiếp, vẫn là giai cấp tiên phong trong xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không thể chuyển vào tay một giai cấp hay tầng lớp xã hội nào khác: Những chỉ dẫn cơ bản về đặc trưng bản chất của giai cấp công nhân của Mác - Ăngghen - Lênin đưa ra vẫn là cơ sở phương pháp luận để xem xét, phân tích giai cấp công nhân hiện đại trong các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển hay trong những nước đang tiếp tục con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, các nước thế giới thứ ba và toàn thế giới nói chung, trước đây cũng như hiện nay.

Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động ra của cải vật chất trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại. Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu có và sự phát triển của xã hội.

Giai cấp công nhân vừa là người lãnh đạo, đồng thời cùng với nông dân, trí thức và các giai cấp, tầng lớp lao động khác họp thành lực lượng tổng hợp của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó.

Nhờ có những điều chỉnh lớn và tận dụng được thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là qua toàn cầu hóa kinh tế, chủ nghĩa tư bản đang còn khả năng tiếp tục kéo dài sự tồn tại nhưng không thể tránh được “định mệnh” mà Mác đã vạch ra từ sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là biểu hiện tập trung của xu thế xã hội hóa lực lượng sản xuất và cũng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn cơ bản trong lòng chủ nghĩa tư bản. Nó khai triển mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đến mọi ngõ ngách của thế giới qua những biểu hiện xã hội đa dạng. Đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân hiện đại đang bị chủ nghĩa tư bản toàn cầu bóc lột giá trị thặng dư với một giai cấp “ngày càng trở nên là giai cấp thừa” trong sản xuất và phản động về chính trị; Đó là mâu thuẫn giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển, hay “phương Bắc và phương Nam”, giữa “trung tâm và ngoại vi”...; là mâu thuẫn của lợi ích từng quốc gia - dân tộc với lợi ích của các tập đoàn tư bản; giữa những nước phát triển và đang phát triển; giữa chủ quyền quốc gia - dân tộc với xu thế đồng hóa cưỡng bức; giữa văn hoá dân tộc với cuộc xâm lăng bằng tư tưởng, lối sống của những nước đế quốc trong môi trường toàn cầu đang vận hành theo những cơ chế bất bình đẳng; Đó còn là mâu thuẫn giữa các nước tư bản xung quanh việc tranh giành vị trí, thế lực và ảnh hưởng thông qua việc chiếm lĩnh ưu thế về khoa học và công nghệ, những nguồn tài nguyên...

Nhìn chung từ thực tiễn hiện đại, nhu cầu có một toàn cầu hóa với chất lượng mới đang hiện rõ. Và, mầm mống của một phương thức sản xuất mới cũng đang lớn dần, chủ yếu là theo cách này. Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân mang bản chất quốc tế và không hề xa lạ với những hiện tượng quốc tế phản ánh tiến bộ xã hội. Chủ động, tích cực hội nhập quá trình toàn cầu hóa kinh tế; tận dụng những thời cơ, tranh thủ ngoại lực từ quá trình toàn cầu hoá hiện nay và làm biến đổi nó theo hướng tích cực là một tiến trình hợp quy luật và là con đường để thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.
3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam là giải phóng dân tộc và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; qua đó giải phóng giai cấp, giải phóng người lao động, xây dựng một “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”...Hiện nay, để sớm đưa đất nước khỏi tình kém phát triển, nội dung trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay là “Rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Theo đó phát triển giai cấp công nhân cũng chính là phát triển, hoàn thiện chủ thể của sứ mệnh lịch sử hiện đại - cơ sở xã hội quan trọng nhất bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam cũng chỉ có thể thực hiện thắng lợi khi quyền lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, được giữ vững và không ngừng tăng cường; Nhà nước xã hội chủ nghĩa và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân lao động nước ta không ngừng được hoàn thiện và phát triển.

Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân: Là giai cấp tiên tiến, là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, là giai cấp có tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật và có tinh thần quốc tế vô sản nhưng do hàn cảnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng như sau:
+ Ra đời trước g/c tư sản dân tộc, bị ba tầng áp bức nặng nề ngay từ mới ra đời đã chịu ảnh hưởng của cách mạng Tháng10 Nga, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, ko bị ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng tiểu tư sản, giai cấp công nhân Việt Nam từ khi có đảng lãnh đạo, đã nhanh chóng bước lên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập với mục tiêu: Giải phóng dân tộc xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Giai cấp công nhân khi sinh ra đã kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc, tinh thần đó lại được nhân lên gấp bội khi có sự lãnh đạo của Đảng.
+ Sinh ra và trưởng thành ở một nước phong kiến nửa thuôc địa, nông nghiệp lạc hậu nên hạn chế lớn nhất của giai cấp công nhân Việt Nam là còn chịu ảnh hưởng tư tưởng nho giáo phong kiến, tác phong của nền sản xuất nhỏ tiểu nông, câu nệ với sách vở, xa rời quần chúng, thoát ly sản xuất, chúng ta đừng có ảo tưởng những tàn dư tâm lý sản xuất nhỏ ấy có thể một ngày, hai ngày bị quét sạch ra khỏi đời sống xã hội.

Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay gồm người lao động chân tay, lao động trí óc, hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các. Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài, họ đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến có tri thức. Họ là lực lương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân, nông dân trí thức. Nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: như số lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp. Nhưng điều đó ko thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử chủ nghĩa giai cấp công nhân Việt Nam. Xét về bản chất thì chưa thể có và ko thể có tổ chức chính trị nào, giai cấp nào có thể thay thế được giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng một xã hội mới, trong đó nhân dân lao động được làm chủ, đất nước độc lập và phồn vinh xóa bỏ áp bức bất công, mọi người đều có điều kiện phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Đối với giai cấp công nhân cần phải “ coi trọng phát triển về sồ lượng và chất lượng nâng cao giác ngộ, bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề ngiệp, thực hiện” trí thức hoá công nhân “ nâng cao năng lực ứng dụng và sang tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu wả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và vai trò lãnh đạo trong thời kì mới…”

Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế; thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam (...).
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí thức hóa; có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học-công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cao ”.
Cùng với việc triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tập trung chỉ đạo giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân. Đó là vấn đề bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, đặc biệt là về tiền lương, thu nhập, nhà ở, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội..., tương xứng với những thành quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công nhân. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong các loại hình doanh nghiệp. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp; chú trọng đào tạo nghề cho công nhân xuất thân từ nông dân và nữ công nhân; từng bước trí thức hóa giai cấp công nhân. Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc, kiến thức pháp luật, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong công nhân, nhất là công nhân trẻ. Quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ sở Đảng trong các loại hình doanh nghiệp; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức Đảng tại doanh nghiệp phù hợp với từng thành phần kinh tế. Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức gắn với nâng cao chất lượng hoạt động của Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các loại hình doanh nghiệp phù hợp với Điều lệ và quy định của pháp luật. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn và các tổ chức chính trị-xã hội khác trong việc xây dựng giai cấp công nhân.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động; trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, Công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong việc chăm lo xây dựng giai cấp công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cùng với xây dựng tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị-xã hội khác trong giai cấp công nhân vững mạnh. Xây dựng giai cấp công nhân nước ta phát triển toàn diện xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng, tích cực phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, có tầm quan trọng chiến lược và quyết định đối với công cuộc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
C. Kết luận:
Trở lại với câu hỏi đầu tiên: “ Có đúng là giai cấp công nhân ngày nay mất đi sứ mệnh lịch sử của mình hay không?’’
Để làm rõ vấn đề này cần phải dựa trên cơ sở luận chứng địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân hiện nay gắn với việc làm sáng tỏ bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
+ Phương pháp luận trong xem xét vai trò lịch sử của một giai cấp là phải dựa trên cơ sở địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó trong xã hội, chứ không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của bất kỳ một cá nhân hoặc một lực lượng xã hội nào. Trong lịch sử, chế độ tư bản chủ nghĩa đã từng chiến thắng chế độ phong kiến bởi vì giai cấp tư sản đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, đại diện cho phương thức sản xuất mới, dựa trên nền đại công nghiệp, tiến bộ hơn hẳn phương thức sản xuất lạc hậu của chế độ phong kiến.
Đối với giai cấp công nhân, “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”. Trên cơ sở luận giải địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã đưa ra kết luận khoa học: sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau.
Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải giai cấp này là giai cấp nghèo khổ, mà điều quyết định là do địa vị kinh tế - xã hội của chính nó. Trong xã hội tư bản, các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; trái lại, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, là lực lượng sản xuất tiên tiến đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Đây là điều quyết định giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Lấy sự nghèo khổ làm cơ sở để luận giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một lập luận phản khoa học và là mưu đồ hòng xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin.
+ Lại có quan điểm cho rằng, hiện nay ở các nước tư bản phát triển, giai cấp công nhân không còn bị bóc lột như trước nữa; nó đã trở nên “trung lưu hoá” thậm chí trở thành “nhà tư bản” khi đã có cổ phiếu trong các xí nghiệp, công ty. Đúng là hiện nay, việc thực hiện cổ phần hoá ở các nước tư bản phát triển đang diễn ra với quy mô ngày càng rộng khắp. Người dân hễ có tiền tích luỹ là có thể mua cổ phiếu ở xí nghiệp, công ty cổ phần nào đó (ở Mỹ 10%, ở Anh 12% người lao động có cổ phần) với hy vọng thu lợi tức cổ phần và lãi vốn.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, việc bán cổ phiếu cho công nhân không những không động chạm đến quyền lợi của giới chủ, mà trái lại càng làm tăng thêm quyền lực kinh tế cho bọn tư bản. Một chủ tư bản không cần một số lượng tư bản lớn cũng có thể chi phối cả công ty, hoặc nhiều công ty trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh hết sức lớn. Bán cổ phiếu cho người lao động chỉ diễn ra trong chừng mực không tổn hại đến quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đến lợi ích của giới chủ. Khi đã có cổ phiếu, dù người công nhân có được những quyền lợi nhất định gắn với tình hình sản xuất của Công ty và lợi tức do kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh đem lại, nhưng thực chất nguồn lợi nhuận ấy chẳng qua là một phần giá trị thặng dư do chính công nhân làm ra, chứ không phải bớt đi giá trị thặng dư mà giới chủ tư bản đã bỏ túi. Vậy là, người công nhân không phải đã trở thành nhà “nhà tư bản” theo cái cách người ta nói, mà là “thành nhà tư bản đối với chính mình”.
Như vậy, công nhân hiện nay dù có cổ phiếu với giá trị cao hơn trước cũng chẳng vì thế mà thay đổi địa vị làm thuê và bị bóc lột trong xã hội tư bản. Chế độ cổ phiếu thật sự là phương pháp hữu hiệu cột chặt người lao động là bắt họ lệ thuộc hơn nữa vào giới chủ. Hy vọng thay đổi địa vị người lao động trở thành người chủ thật sự ở các nước tư bản chủ nghĩa, do đó chỉ là ảo tưởng, hoặc đó là hành động tự lừa dối mà thôi.
Giai cấp công nhân nếu đã trở nên “trung lưu hoá”, thì cái sự “trung lưu hoá” ấy là sự phản ánh mức sống của họ trong điều kiện mới chứ không phải làm thay đổi bản chất cách mạng của giai cấp công nhân; đó là do tiến bộ chung của sự phát triển xã hội và là kết quả đấu tranh liên tục, bền bỉ của chính giai cấp công nhân trong đấu tranh chống giai cấp tư sản suốt nhiều thế kỷ qua. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, cũng như sự biến đổi cơ cấu xã hội, mức sống cao về vật chất, tinh thần của giai cấp công nhân làm cho diện mạo của giai cấp công nhân hiện đại trong xã hội tư bản không còn giống như những mô tả của C.Mác trong thế kỷ XIX. Đó là sự thật. Thế nhưng, từ những biến đổi đó mà đi đến kết luận giai cấp công nhân không còn bản chất cách mạng nữa, thì đó là sai lầm cả về chính trị và khoa học.
+ Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen nhận định: chủ nghĩa tư bản đã tạo ra lực lượng sản xuất hùng hậu hơn các thế kỷ trước cộng lại. Trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất đó càng được tăng lên nhanh chóng với những bước tiến nhảy vọt. Chính những yếu tố đó là cơ sở vật chất giúp cho chủ nghĩa tư bản có thể tận dụng một cách hữu hiệu những thành tựu khoa học - công nghệ mới để kéo dài tuổi thọ của mình. Trên thực tế, chủ nghĩa tư bản đã và đang tìm mọi cách điều chỉnh để thích nghi với điều kiện mới.
Mặc dù có những thay đổi và đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế trong những thập kỷ gần đây, nhưng trong lòng thế giới tư bản hiện đại, mâu thuẫn vốn có của nó giữa lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất không những vẫn còn tồn tại, mà có mặt còn sâu sắc hơn là lan ra phạm vi rộng hơn. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có”.
Mâu thuẫn xã hội cơ bản giữa giai cấp những người vô sản và giai cấp những người hữu sản; giữa những người nghèo và những người giàu không chỉ còn trong phạm vi một quốc gia, nó đã phát triển ở tầm quốc tế. Sự phát triển của các tập đoàn tư bản, các công ty tư bản xuyên quốc gia tăng sự bòn rút tài nguyên và bóc lột nhân dân nhiều nước thuộc “thế giới thứ ba”; các cuộc chiến tranh đẫm máu chống các quốc gia độc lập có chủ quyền do chủ nghĩa đế quốc phát động... là nguyên nhân chủ yếu khiến cho hơn 500 triệu người bị đe đoạ chết đói, 1,6 tỷ người sống trong cảnh khốn cùng, 600 triệu người thất nghiệp, hơn 800 triệu người mù chữ... Tất cả điều đó đã nói lên tính chất ăn bám, bóc lột, phản động và tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc.
Rõ ràng, chủ nghĩa tư bản niện đại dù có biến đổi, thích nghi thì về bản chất vẫn là chủ nghĩa tư bản, là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở trình độ cao, chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên quốc gia, chứ không hề có sự thay đổi bản chất; nó vẫn là chế độ bóc lột, bất công và đầy mâu thuẫn.
+ Theo V.I.Lênin, chủ nghĩa đế quốc là “phòng chờ” đi vào chủ nghiã xã hội. Như thế, phải chăng trong điều kiện mới, cùng với sự phát triển và tác dộng của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thì “phòng chờ” đó càng được mở rộng hơn. Đúng như vậy, với sự mở rộng “phòng chờ” đó, tất yếu sẽ diễn ra sự vùng dậy của lực lượng sản xuất làm nổ tung toàn bộ cái quan hệ sản xuất đang trói buộc nó. Những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, mà chủ nghĩa tư bản đang lợi dụng để kéo dài tuổi thọ của nó, đang dần vượt ra khỏi “sự kiểm soát của chính nó”. Do thực hiện chế độ cổ phiếu, nên giới chủ không phải muốn làm gì cũng được mà không tính đến lực lượng cổ đông đông đảo là giai cấp công nhân, tuy giá trị cổ phiếu của họ là nhỏ bé.

Trong điều kiện đó, Đảng Cộng sản, công đoàn, các tổ chức, đoàn thể của giai cấp công nhân được mở rộng và hoạt động ngày càng phong phú hơn, tạo áp lực đối với giới chủ ngày càng mạnh mẽ hơn. Phong trào cộng sản và công nhân ở các nước tư bản phát triển ngày càng gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh của các nước đang phát triển trong một mặt trận chung chống chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa đế quốc. Giai cấp công nhân ngày càng được rèn luyện và trưởng thành trong đấu tranh chống giai cấp tư sản cả về chính trị và kinh tế trên quy mô quốc gia và quốc tế.
Cần nhắc lại luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình mà nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô sản”. Luận điểm nổi tiếng đó càng trở nên có ý nghĩa trong điều kiện lịch sử mới.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đối với những người cộng sản, giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trên thế giới, quả là một thực tế nghiệt ngã và đau xót. Thế nhưng, điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội bị “tiêu vong”, giai cấp công nhân đã “mất vai trò lịch sử”: cũng không làm mất đi ý chí phấn đấu và niềm tin vào tương lai xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Trái lại, giai cấp công nhân có thêm những bài học quý giá về những vấn đề cơ bản của cách mạng, bài học sâu sắc về “cách mạng phải biết tự bảo vệ”; càng nhận thức rõ hơn tính chất quyết liệt, gay go của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong thời đại ngày nay; càng hiểu rõ hơn những bước thăng trầm, những khúc quanh trên con đường thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
 
×
Quay lại
Top