kingdomofstrangers
Thành viên
- Tham gia
- 24/8/2012
- Bài viết
- 5
Vương quốc những kẻ lạ mặt (trinh thám, phưu lưu)
Tàn bạo nhưng lôi cuốn, xâm chiếm bởi những khoảnh khắc của lòng từ bi và sự can đảm, cuốn tiểu thuyết
Vương quốc những kẻ lạ mặt đưa đẩy chúng ta đến với sự tàn ác và sức nóng của mảnh đất của những mạng che mặt - Ả-rập Xê-út.
Một khách du lịch Bedouin phát hiện ra xác chết bị cắt xén của một phụ nữ bị chôn vùi trong cồn cát ven biển. Mặc dù sa mạc có thể vùi lấp được nhiều thứ, nhưng nó đã không thể che giấu được cơ thể của 18 người phụ nữ khác xung quanh xác chết tìm thấy. Mười chín phụ nữ - đã chết. Ả-rập Xê-út tuyên bố không có giết người hàng loạt trong lịch sử, nhưng các bộ xương đã minh chứng cho sự tồn tại của một kẻ giết người hàng loạt đã và đang ẩn dật tại Jeddah suốt hơn một thập kỉ.
Tuy nhiên, thanh tra trưởng Ibrahim Zahrani, lại bị phân tâm bởi một bí mật cá nhân. Tình nhân của ông đột nhiên biến mất, nhưng ông không thể trình báo việc mất tích của cô, bởi vì việc ngoại tình sẽ bị trừng phạt bằng cái chết. Không còn con đường nào khác, Ibrahim đã giao phó trường hợp này cho Katya, một trong số ít phụ nữ trong lực lượng của ông. Bị lôi kéo vào cả hai cuộc điều tra, Katya đã phải vô cùng thận trọng để giấu kín bí mật cho riêng mình.
Miêu tả cuộc sống của người phụ nữ trong một trong những nền văn hóa khép kín nhất trên thế giới, tác giả từng đoạt giải thưởng Los Angeles Times Award và American Library Associatio Alex Award - Zoë Ferraris - đã dệt một câu chuyện gay cấn, hồi hộp, đi sâu vào những góc tối nhất của thế giới ngầm Ả-rập Xê-út.
Đôi nét về tác giả
Zoë Ferraris đã chuyển đến Ả Rập Xê-út như là một hệ quả của cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (1991) để sống cùng với chồng và gia đình chồng là những người Bedouin gốc Palestine - Ả-rập Xê-út. Hiện tại cô đang sống tại San Francisco.
Năm 2006, cô hoàn thành bằng thạc sĩ về Nghệ thuật tại đại học Columbia. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của bà là Finding Nouf (Đi tìm Nouf) và tiếp đó là City of Veils (Thành phố của những mạng che mặt)được xuất bản trên 30 quốc gia. Cuốn sách thứ 3, Kingdom of strangers - Vương quốc những kẻ lạ mặt, ra mắt vào tháng 6 năm 2012
1
Gió cát bụi mù cuốn lấy chiếc SUV khiến nó trượt dài rồi dừng lại giữa lòng đường. Bốn viên cảnh sát của Đội Trọng án mặc thường phục bước ra khỏi xe, áo sơ mi nhàu nhĩ, mặt nhăn nhó vì nắng. Chỉ một người trong số bọn họ có mang theo chiếc khăn trùm đầu, những người còn lại đều đeo kính râm.
Cảnh sát địa phương tiến lại gần bọn họ. Người đàn ông Bedouin, người đã phát hiện ra xác chết, có thể ngay lập tức nhận ra ai là người chịu trách nhiệm chính qua sự khác biệt khá tinh vi về ngoại hình của những viên cảnh sát. Trung tá Thanh tra Ibrahim Zahrani không tự giới thiệu về mình. Người Bedouin kia tiến về phía ông, với vẻ bất an thuật lại việc chiếc xe tải của mình đã bị trệch lái khỏi đường như thế nào, khiến một con cừu của ông ta văng ra khỏi khoang chứa hàng và buộc ông ta phải dừng lại. Khi ông ta đi tìm con cừu thì phát hiện ra cái xác. Mọi người đi theo ông ta trong đám cát bụi tung mù.
Rất khó để ngay lập tức nhận ra cái xác là nam hay nữ. Có năm dấu giày tạo thành hình vòng cung xung quanh khuôn mặt đã bị rạch nát. Chiếc cằm và mắt bên trái đã bị mất – có lẽ là vết thương bởi đạn bắn – phần da còn lại đã khô xám ngoét và bị bao quanh bởi một lớp cát. Từ những đốm đen nhỏ li ti nhô ra từ phần cổ áo, Ibrahim đoán chừng đây là một phụ nữ.
Ý nghĩ đầu tiên của ông là một gã trai sa mạc nào đó đã bắn vào đầu chị gái của hắn vì một “tội ác” có liên quan đến danh dự gia đình. Còn có thể là kẻ nào khác được khi chôn xác người như thế này chứ? Quá xa về phía nam so với Jeddah, đây là một dải cát đã bị quên lãng nằm sâu trong lãnh thổ đến tận mười sáu dặm tính từ trục đường chính, mà chính nó cũng không thể trở thành một xa lộ được. Bọn họ đã bị lạc tới hai lần trên đường đến đây và đã phải chờ cảnh sát địa phương đến hỗ trợ.
Viên thanh tra nhìn lại khuôn mặt đó lần nữa. Không phải gương mặt của một người sinh sống ở vùng sa mạc. Cho dù nó đã bị hủy hoại, người ta vẫn có thể nhận ra nét mặt đó là của người châu Á.
Ibrahim liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay: đã một giờ rưỡi chiều. Nếu may mắn, bọn họ có thể xong việc trước khi đến khoảng thời gian kinh khủng nhất trong ngày. Đã đầu thu, thực ra là cuối mùa hè. Cái nóng đã cắt đứt mạch tư duy của ông như một kẻ lắng nghe thiếu kiên nhẫn. Viên cảnh sát địa phương, Hattab al-Anzi, trông không có vẻ gì giống với một nhân viên cảnh sát hoạt động tại khu vực sa mạc cả. Da xanh xao, mắt lác xệch, nhễ nhại mồ hôi. Ông ta bấm còi rồi lái xe đi, có lẽ là để lấy lòng các nhân viên điều tra, hoặc có thể là đội pháp y, những người mà chắc hẳn cũng đã lòng vòng cả mấy đoạn đường mà đám người của Ibrahim đã phải nguyền rủa chúng biến xuống địa ngục cho rồi.
Phía sau họ lúc này, lũ cừu đang be be kêu trong khoang chứa của chiếc xe tải. Một nửa con đường đã bị cát phủ kín. Chỉ ngay trước điểm đỗ chiếc SUV vài mét, con đường không thể nào đi qua được nữa. Thật đúng là một nơi biệt lập. Gió cát hẳn đã xuất hiện hàng tuần rồi mà không ai để ý.
“Ông có cho rằng việc này mới xảy ra gần đây không?” Ibrahim hỏi người Bedouin. “Vâng, đêm qua chúng tôi đã có bão. Một cơn bão kinh khủng. Tất nhiên là đủ để thổi tung cả một đụn cát phủ đầy con đường.”
Khi nhắc đến đụn cát, ông ta ra hiệu về phía cái xác. Tất cả những gì mà Ibrahim có thể nhìn thấy là khung cảnh cát bụi bị xé thành từng lớp bởi những vỉa đá nhô lên. Ông thấy những làn cát bay tứ tung, một số quẩn lại trên con đường trước khi ông nhận ra khu vực xung quanh cái xác đã hơi dầy cát lên. Hẳn đã có một đụn cát ở đó – không quá cao, có lẽ là hình lưỡi liềm, cong theo hướng gió thổi phía đông.
Ông quan sát thấy nhân viên của mình đi lại trên hiện trường vụ án và nghe tiếng sĩ quan cấp dưới Waseem Daher nhắc nhở họ. “Lùi lại con đường ngay! Các anh đang đạp chân lên bằng chứng đấy!” Chẳng một ai nghe theo, nhưng bọn họ đứng gần anh ta và quay sang khi anh ta nói, lúc nào cũng với vẻ háo hức. Daher không hẳn nhận thức được quyền hạn của mình đối với những người đó.
Ánh nắng gay gắt trùm lên họ như những lưỡi lửa liếm ngang từ một bó đuốc. Cuối cùng thì những chiếc xe cũng đã đến với cách thức của một đám tang. Một cuộc diễu hành của xe cứu thương của Trăng lưỡi liềm Đỏ, xe cảnh sát điều tra, hai chiếc Yukon của đội pháp y. Viên cảnh sát địa phương, Hattab, đỗ xe ở cuối hàng.
“Tay đần độn.” Một ai đó lên tiếng. “Có ai nói với hắn là người ta không thể dẫn đường nếu đi từ phía sau không?”
“Anh ta muốn chắc rằng nếu có bão nữa thì anh ta sẽ là người đầu tiên chạy thoát.” Daher nói.
Chỉ trong vài phút, cảnh tượng đã trở nên hỗn loạn bởi những người đàn ông. Mấy tay pháp y cô lập khu vực xung quanh xác chết bằng những chiếc gậy dài và một cuộn băng màu xanh dương. Ibrahim liền can thiệp; ông muốn khoanh vùng toàn bộ đùn cát, để họ có thể mở rộng khu vực và đẩy những người đàn ông kia lùi ra xa hơn. Hai viên cảnh sát trẻ đến cùng với nhân viên điều tra cũng có tên là Imbrahim, nhưng mọi người thường gọi ông ta là Abu-Musa, tức “cha đẻ của Musa.” Thực ra ông ta là cha của Kareem, nên đáng lẽ phải gọi ông ta là Abu-Kareem mới đúng, nhưng một buổi chiều tại một cửa hàng cà phê, ông ta đã ra sức giải thích với Chánh Thanh tra Riyadh rằng musa, tên của nhà tiên tri Moses, cũng là tên của loài cây họ chuối. Chúng được đặt tên như vậy bởi vì mẹ của Moses đã nhét một quả chuối vào miệng của đứa con trai mình trước khi đặt nó vào một chiếc giỏ sậy rồi đẩy xuống dòng sông Nile. Quả chuối có nhiều chất dinh dưỡng, nhưng chủ yếu là để giữ cho đứa bé im lặng để người Ai Cập không phát hiện mà giết nó. Chánh Thanh tra Riyadh, vốn không ưa mấy cái chuyện pha nửa lịch sử nửa thần thoại như vậy, chỉ bập bập chiếc tẩu và lẩm bẩm. “Thế anh thì biết chuyện à, hả cha của Musa?” Vậy là cái tên Abu-Musa có từ khi đó.
Thanh tra Ibrahim trước đây chưa từng bao giờ làm việc với Abu-Musa, nhưng bản tính nóng nảy cũng như sự chính trực hống hách của ông ta đã trở thành huyền thoại. Giờ thì Abu-Musa đang đợi các nhân viên pháp y hoàn thành việc khám nghiệm nửa thân trên. Hai nhân viên của Trăng lưỡi liềm Đỏ tiến vào giúp các nhân viên pháp y lắp đặt chiếc máy hút bụi mà họ sẽ sử dụng để loại bỏ lớp cát, thì Abu-Musa quát họ: “Quay lại đây ngay! Các anh không được đụng đến cô ta!”
“Cô ta chết rồi mà.” Một nhân viên đáp.
“Không ai được động vào cô ta hết! Giờ thì biến ngay khỏi đây đi.”
Abu-Musa đẩy người đó sang bên. Ông ta không hề để tâm đến việc ai đó có thể sẽ phá vỡ mất bằng chứng; ông ta chỉ đang cảnh giác một tội ác đạo đức, một người đàn ông đụng chạm vào cơ thể của một người phụ nữ, làm hủy hoại thanh danh của cô ta dù cô ta đã chết.
Tiếng lách tách quen thuộc của bánh xe lăn trên đường nhựa và đám bụi nhỏ cuộn lên đã báo hiệu sự xuất hiện của một chiếc SUV khác, chiếc xe chở Thám tử Osama Ibrahim. Osama bước ra khỏi xe, khảo sát hiện trường, rồi đi thẳng về phía thanh tra Ibrahim. Hai người bắt tay nhau, và Osama cáo lỗi vì đã không đón tiếp ông trước ở Sở được.
Ai nấy đều cư xử rất lễ độ. Ibrahim đã làm việc ở Sở được hai tuần rồi, một sự thuyên chuyển từ Đội Điệp vụ. Ông được kính trọng không chỉ bởi, ở cái tuổi bốn mươi hai, ông lớn tuối hơn tất cả các sĩ quan khác; mà còn bởi ông đã làm việc trong lĩnh vực trọng án từ rất nhiều năm về trước; và cũng vì ông có quan hệ với hoàng gia. Ông chắc chắn rằng chẳng bao lâu các vết rạn nứt sẽ cho biết điều gì đó.
“Một người Bedouin địa phương đã tìm thấy xác một phụ nữ vùi trong cát.” Ông nói. “Anh đến xem sao.”
Osama rời bước.
Hai nhân viên Trăng lưỡi liềm Đỏ lúc này đang càu nhàu về Abu-Musa và bàn luận về một sự việc được đưa trong mục tin tức. Có một nữ sinh tại trường Cao đẳng Sư phạm ở Qassim đổ bệnh. Trường đó đã phải gọi cho Trăng lưỡi liềm Đỏ, nhưng khi nhân viên của họ đến nơi thì các cơ quan có thẩm quyền đã cấm các nhân viên y tế được động vào cô ta. Mặc dù họ rất lo ngại rằng cô ta có thể chết nhưng hình như họ còn lo ngại hơn việc để những người đàn ông lạ mặt đụng chạm vào cô gái sẽ làm cô ta mất phẩm giá. Trong khi bọn họ còn đang tranh cãi thì cô gái đó đã chết. Hai nhân viên của Trăng lưỡi liềm Đỏ có vẻ kinh hãi trước toàn bộ sự việc này và tỏ vẻ cảnh giác với những điều tương tự có thể xảy ra với họ.
“Ông ta nghĩ chúng ta là cái quái gì cơ chứ – một đám ma cô dẫn khách à?” Một người lớn tiếng.
Osama quay trở lại trông có vẻ bàng hoàng. Ibrahim nhận thấy vẻ mặt đó của ông ta. Anh cho rằng mình đã miễn dịch với cái chết, đã chứng kiến cả thảy mọi điều xảy ra với con người – và rồi chỉ một gương mặt phụ nữ đã đánh gục anh lần nữa. “Vụ rắc rối ở địa phương thôi, anh nghĩ vậy không?”
“Chắc vậy.” Ibrahim nghiên cứu hiện trường. “Nhân viên điều tra của anh thường hung hăng như vậy sao?”
“Vâng, nhưng chỉ khi nạn nhân là nữ giới.”
“Điều đó cũng dễ hiểu.”
Bỗng có tiếng vật gì đó gãy. Tiếng kêu rất nhỏ nhưng cũng đủ tạo ra một bầu không khí im lặng đầy tò mò. Một nhân viên của Trăng lưỡi liềm Đỏ đã dẫm chân lên phần cát mềm, anh ta đã đạp phải thứ gì đó cưng cứng, khiến nó gãy vỡ. Ibrahim tiến lại và quát lớn: “Không ai được cử động!” Ngạc nhiên thay, tất cả mọi người đều tuân lệnh.
Người kia đã nhấc chân anh ta ra khỏi đám cát, và qua gương mặt anh ta Ibrahim có thể nhận ra anh ta đã tìm được thứ gì.
“Nghe có vẻ giống như xương bị gãy.”
“Chính vậy.” Chỗ đất lún vì dấu giày của anh ta đã bị cát phủ đầy. Ibrahim quan sát xem liệu còn ai khác nữa không.
Bọn họ đều đứng cách xa cái xác năm mét.
“Mọi người giữ nguyên vị trí hiện tại của mình.” Ibrahim lớn tiếng. “Ngoại trừ anh.” Ông chỉ tay về phía người chụp ảnh pháp y. “Chụp ảnh tất cả mọi người tại đúng vị trí hiện giờ của họ.” Người đàn ông đó nhoài người ra để thực hiện theo. Rồi Ibrahim chỉ sang Daher. “Anh ra chỗ tay cảnh sát địa phương bảo anh ta liên lạc bằng bộ đàm để cử mấy người tìm dấu vết đến đây. Nhóm Murrah ấy, nếu anh có thể liên lạc được với họ, và hãy cố gắng nhanh hết sức có thể.” Daher nhảy vào chiếc xe cảnh sát mà Hattab đang loay hoay với dòng điện xoay chiều.
Ibrahim đứng gác, cái nhìn chăm chú của ông ta khiến đố ai dám di chuyển chỉ một mi-li-mét. Giống như lũ trẻ đang chơi trò, bọn họ đứng bất động một cách ngượng nghịu, trên khuôn mặt họ lúc này đã biến mất cái vẻ chịu đựng vì cái nóng mà bừng sáng lên sự háo hức, một niềm vui thích kỳ lạ khi được chỉ bảo phải làm gì trong khi thực ra đó là điều bắt buộc.
Đám nhân viên của ông thanh tra đã dẫm đạp lên khu vực này tương đối nhiều, nhưng đến cái xác thứ ba bọn họ vẫn chưa phát hiện được quy luật nào.
Nhóm tìm dấu vết Murrah đã đến – một người ông và đám cháu của ông ta – và phải mất đến hàng giờ đồng hồ đi lại quanh địa điểm để ghi nhớ các dấu giày, loại bỏ từng người bằng những kỹ xảo kỳ diệu của họ. Bọn họ thậm chí không cần tham khảo các bức ảnh mà nhân viên pháp y đã chụp. Sau đó, bọn họ bắt đầu lại từ đầu, dò tìm những vật gì không nằm trong phạm vi đó. Họ khảo sát kỹ lưỡng mặt đất, hết bò, ngồi xổm, lại quỳ, chăm chú quan sát các điểm giống nhau trên mặt cát đến hàng phút theo những vệt dài rất khó hiểu. Họ đã tìm được sáu cái xác với những cánh tay theo hình chữ Y thần thánh, nhô lên mặt cát như đang cảm nhận không gian hình học thần bí, và chỉ đến khi đó thì cái thứ kiểu như một quy luật mới bắt đầu định hình.
Tất cả những cái xác đều là phụ nữ. Bọn họ đã bị chôn ở phía lưng của một đụn cát hình lưỡi liềm. Có một nền đá đặt ở dưới để giữ cho vùng cát được ổn định, giúp cho tên sát nhân, giả sử như vậy, nếu muốn có thể quay trở lại mà vẫn tìm được địa điểm chôn cất trong trường hợp bão cát đã thổi tung đụn cát của hắn lên con đường. Một điểm lún nhẹ từ phía con đường trở xuống cho thấy dù có bao nhiêu cơn bão cát quét qua đây đi chăng nữa thì cát vẫn sẽ lại tích tụ tại chính điểm này. Trong khoảng vài tháng, cát sẽ tạo thành một đụn khác nhờ gió vẫn đều đều thổi. Nếu gặp một cơn bão, nó sẽ bị thổi tung phủ lên mặt đường, giống như chuyển động từ từ của những con sóng xô vào bãi biển. Rồi con đường sẽ lại quang sạch và cát sẽ lại tích tụ thành đụn.
Con số xác chết giờ đã tăng lên khiến Ibrahim không ngừng băn khoăn: Tại sao lại là chỗ này?
Bọn họ phải gọi xe tải chở nước, và một nhà hàng địa phương (chỉ cách đó ba mươi hai cây số) chuẩn bị cho họ những đĩa cơm khổng lồ cùng với thịt cừu, đúng như một đám cưới, và bọn họ đã ăn hết sạch, nếu không muốn nói là ăn một cách điên cuồng. Những làn gió nóng như đổ lửa bắt đầu cuộc chơi chết chóc đối với cơn thèm ăn của những người đàn ông. Hai người đã ngã gục và phải đưa trở về Jeddah bằng xe của Trăng lưỡi liềm Đỏ.
Ibrahim cúi xuống từng cái xác một, cái nóng như lưỡi dao cắt ngang lưng ông. Mồ hôi đầm đìa khiến đôi giày của ông ướt nhẹp. Ngay cả nhóm Murrah có vẻ cũng bắt đầu kiệt sức.
Hiện trường mở ra về phía sa mạc giống như một khu khai quật khảo cổ học, ngổn ngang trên mặt đất nào vải bạt, nào cọc dựng, đèn sáng được mang đến khi mặt trời chuyển sang màu đỏ ối và khuất dần ở phía chân trời. Mười chín cái xác tất cả. Ibrahim thấy khiếp sợ khi ông nghe nhân viên điều tra báo cáo lại. Abu-Musa đến nói chuyện với ông, đây là lần đầu tiên trong ngày ông ta làm vậy. Ánh hoàng hôn khiến cho mái tóc hoa râm của ông ta đẹp lạ lùng.
“Ông có nghe thấy những gì tôi nói không? Mười chín cái xác.” Abu-Musa nói. “Mười chín. Ông có hiểu điều đó có nghĩa là gì chứ?”
“Và trên cả đó là mười chín?” Ibrahim trích đọc.
Abu-Musa gật đầu với vẻ đồng tình lặng lẽ. Câu thơ đó được trích trong kinh Koran, là một câu thơ huyền bí không ăn nhập gì với những nội dung khác, nhắc nhở con người từ hàng bao thế kỷ nay gợi tưởng đến những hình dung hoang dại về tầm quan trọng của con số mười chín. Những lần nhập thân gần đây nhất ở Mỹ, Tucson, Arizona, một nhà hóa sinh người Ai Cập tên là Rashad Khalifa đã tuyên bố tổng lãnh thiên sứ Gabriel đã tiết lộ với ông ta rằng trong văn tự kinh Koran có một mã số toán học bí ấn có thể được giải mã bằng cách sử dụng con số mười chín.
Nhưng câu thơ tiếp theo trong Kinh Koran đã đưa ra một lời giải thích giản đơn cho con số đó: Và chúng ta không sắp đặt ai khác ngoài các thiên sứ như những người gác lửa, và chúng ta đã ấn định con số của họ.
Điều đó nghĩa là có mười chín thiên sứ canh gác Địa ngục.
“Có thể là một sự trùng hợp thôi.” Ibrahim nói.
“Anh có chắc vậy không?” Abu-Musa cười mỉm, một cử chỉ lạnh lùng. “Tôi tin là anh sẽ không tìm thấy thêm một thi thể nào nữa đâu. Dù là kẻ nào đã làm chuyện này thì hắn ta cũng có lý do của mình.”
“Cũng vậy cả thôi.” Ibrahim nói. “Có thể nó chỉ vô tình là mười chín.”

Tàn bạo nhưng lôi cuốn, xâm chiếm bởi những khoảnh khắc của lòng từ bi và sự can đảm, cuốn tiểu thuyết
Vương quốc những kẻ lạ mặt đưa đẩy chúng ta đến với sự tàn ác và sức nóng của mảnh đất của những mạng che mặt - Ả-rập Xê-út.
Một khách du lịch Bedouin phát hiện ra xác chết bị cắt xén của một phụ nữ bị chôn vùi trong cồn cát ven biển. Mặc dù sa mạc có thể vùi lấp được nhiều thứ, nhưng nó đã không thể che giấu được cơ thể của 18 người phụ nữ khác xung quanh xác chết tìm thấy. Mười chín phụ nữ - đã chết. Ả-rập Xê-út tuyên bố không có giết người hàng loạt trong lịch sử, nhưng các bộ xương đã minh chứng cho sự tồn tại của một kẻ giết người hàng loạt đã và đang ẩn dật tại Jeddah suốt hơn một thập kỉ.
Tuy nhiên, thanh tra trưởng Ibrahim Zahrani, lại bị phân tâm bởi một bí mật cá nhân. Tình nhân của ông đột nhiên biến mất, nhưng ông không thể trình báo việc mất tích của cô, bởi vì việc ngoại tình sẽ bị trừng phạt bằng cái chết. Không còn con đường nào khác, Ibrahim đã giao phó trường hợp này cho Katya, một trong số ít phụ nữ trong lực lượng của ông. Bị lôi kéo vào cả hai cuộc điều tra, Katya đã phải vô cùng thận trọng để giấu kín bí mật cho riêng mình.
Miêu tả cuộc sống của người phụ nữ trong một trong những nền văn hóa khép kín nhất trên thế giới, tác giả từng đoạt giải thưởng Los Angeles Times Award và American Library Associatio Alex Award - Zoë Ferraris - đã dệt một câu chuyện gay cấn, hồi hộp, đi sâu vào những góc tối nhất của thế giới ngầm Ả-rập Xê-út.
Đôi nét về tác giả
Zoë Ferraris đã chuyển đến Ả Rập Xê-út như là một hệ quả của cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (1991) để sống cùng với chồng và gia đình chồng là những người Bedouin gốc Palestine - Ả-rập Xê-út. Hiện tại cô đang sống tại San Francisco.
Năm 2006, cô hoàn thành bằng thạc sĩ về Nghệ thuật tại đại học Columbia. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của bà là Finding Nouf (Đi tìm Nouf) và tiếp đó là City of Veils (Thành phố của những mạng che mặt)được xuất bản trên 30 quốc gia. Cuốn sách thứ 3, Kingdom of strangers - Vương quốc những kẻ lạ mặt, ra mắt vào tháng 6 năm 2012
1
Gió cát bụi mù cuốn lấy chiếc SUV khiến nó trượt dài rồi dừng lại giữa lòng đường. Bốn viên cảnh sát của Đội Trọng án mặc thường phục bước ra khỏi xe, áo sơ mi nhàu nhĩ, mặt nhăn nhó vì nắng. Chỉ một người trong số bọn họ có mang theo chiếc khăn trùm đầu, những người còn lại đều đeo kính râm.
Cảnh sát địa phương tiến lại gần bọn họ. Người đàn ông Bedouin, người đã phát hiện ra xác chết, có thể ngay lập tức nhận ra ai là người chịu trách nhiệm chính qua sự khác biệt khá tinh vi về ngoại hình của những viên cảnh sát. Trung tá Thanh tra Ibrahim Zahrani không tự giới thiệu về mình. Người Bedouin kia tiến về phía ông, với vẻ bất an thuật lại việc chiếc xe tải của mình đã bị trệch lái khỏi đường như thế nào, khiến một con cừu của ông ta văng ra khỏi khoang chứa hàng và buộc ông ta phải dừng lại. Khi ông ta đi tìm con cừu thì phát hiện ra cái xác. Mọi người đi theo ông ta trong đám cát bụi tung mù.
Rất khó để ngay lập tức nhận ra cái xác là nam hay nữ. Có năm dấu giày tạo thành hình vòng cung xung quanh khuôn mặt đã bị rạch nát. Chiếc cằm và mắt bên trái đã bị mất – có lẽ là vết thương bởi đạn bắn – phần da còn lại đã khô xám ngoét và bị bao quanh bởi một lớp cát. Từ những đốm đen nhỏ li ti nhô ra từ phần cổ áo, Ibrahim đoán chừng đây là một phụ nữ.
Ý nghĩ đầu tiên của ông là một gã trai sa mạc nào đó đã bắn vào đầu chị gái của hắn vì một “tội ác” có liên quan đến danh dự gia đình. Còn có thể là kẻ nào khác được khi chôn xác người như thế này chứ? Quá xa về phía nam so với Jeddah, đây là một dải cát đã bị quên lãng nằm sâu trong lãnh thổ đến tận mười sáu dặm tính từ trục đường chính, mà chính nó cũng không thể trở thành một xa lộ được. Bọn họ đã bị lạc tới hai lần trên đường đến đây và đã phải chờ cảnh sát địa phương đến hỗ trợ.
Viên thanh tra nhìn lại khuôn mặt đó lần nữa. Không phải gương mặt của một người sinh sống ở vùng sa mạc. Cho dù nó đã bị hủy hoại, người ta vẫn có thể nhận ra nét mặt đó là của người châu Á.
Ibrahim liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay: đã một giờ rưỡi chiều. Nếu may mắn, bọn họ có thể xong việc trước khi đến khoảng thời gian kinh khủng nhất trong ngày. Đã đầu thu, thực ra là cuối mùa hè. Cái nóng đã cắt đứt mạch tư duy của ông như một kẻ lắng nghe thiếu kiên nhẫn. Viên cảnh sát địa phương, Hattab al-Anzi, trông không có vẻ gì giống với một nhân viên cảnh sát hoạt động tại khu vực sa mạc cả. Da xanh xao, mắt lác xệch, nhễ nhại mồ hôi. Ông ta bấm còi rồi lái xe đi, có lẽ là để lấy lòng các nhân viên điều tra, hoặc có thể là đội pháp y, những người mà chắc hẳn cũng đã lòng vòng cả mấy đoạn đường mà đám người của Ibrahim đã phải nguyền rủa chúng biến xuống địa ngục cho rồi.
Phía sau họ lúc này, lũ cừu đang be be kêu trong khoang chứa của chiếc xe tải. Một nửa con đường đã bị cát phủ kín. Chỉ ngay trước điểm đỗ chiếc SUV vài mét, con đường không thể nào đi qua được nữa. Thật đúng là một nơi biệt lập. Gió cát hẳn đã xuất hiện hàng tuần rồi mà không ai để ý.
“Ông có cho rằng việc này mới xảy ra gần đây không?” Ibrahim hỏi người Bedouin. “Vâng, đêm qua chúng tôi đã có bão. Một cơn bão kinh khủng. Tất nhiên là đủ để thổi tung cả một đụn cát phủ đầy con đường.”
Khi nhắc đến đụn cát, ông ta ra hiệu về phía cái xác. Tất cả những gì mà Ibrahim có thể nhìn thấy là khung cảnh cát bụi bị xé thành từng lớp bởi những vỉa đá nhô lên. Ông thấy những làn cát bay tứ tung, một số quẩn lại trên con đường trước khi ông nhận ra khu vực xung quanh cái xác đã hơi dầy cát lên. Hẳn đã có một đụn cát ở đó – không quá cao, có lẽ là hình lưỡi liềm, cong theo hướng gió thổi phía đông.
Ông quan sát thấy nhân viên của mình đi lại trên hiện trường vụ án và nghe tiếng sĩ quan cấp dưới Waseem Daher nhắc nhở họ. “Lùi lại con đường ngay! Các anh đang đạp chân lên bằng chứng đấy!” Chẳng một ai nghe theo, nhưng bọn họ đứng gần anh ta và quay sang khi anh ta nói, lúc nào cũng với vẻ háo hức. Daher không hẳn nhận thức được quyền hạn của mình đối với những người đó.
Ánh nắng gay gắt trùm lên họ như những lưỡi lửa liếm ngang từ một bó đuốc. Cuối cùng thì những chiếc xe cũng đã đến với cách thức của một đám tang. Một cuộc diễu hành của xe cứu thương của Trăng lưỡi liềm Đỏ, xe cảnh sát điều tra, hai chiếc Yukon của đội pháp y. Viên cảnh sát địa phương, Hattab, đỗ xe ở cuối hàng.
“Tay đần độn.” Một ai đó lên tiếng. “Có ai nói với hắn là người ta không thể dẫn đường nếu đi từ phía sau không?”
“Anh ta muốn chắc rằng nếu có bão nữa thì anh ta sẽ là người đầu tiên chạy thoát.” Daher nói.
Chỉ trong vài phút, cảnh tượng đã trở nên hỗn loạn bởi những người đàn ông. Mấy tay pháp y cô lập khu vực xung quanh xác chết bằng những chiếc gậy dài và một cuộn băng màu xanh dương. Ibrahim liền can thiệp; ông muốn khoanh vùng toàn bộ đùn cát, để họ có thể mở rộng khu vực và đẩy những người đàn ông kia lùi ra xa hơn. Hai viên cảnh sát trẻ đến cùng với nhân viên điều tra cũng có tên là Imbrahim, nhưng mọi người thường gọi ông ta là Abu-Musa, tức “cha đẻ của Musa.” Thực ra ông ta là cha của Kareem, nên đáng lẽ phải gọi ông ta là Abu-Kareem mới đúng, nhưng một buổi chiều tại một cửa hàng cà phê, ông ta đã ra sức giải thích với Chánh Thanh tra Riyadh rằng musa, tên của nhà tiên tri Moses, cũng là tên của loài cây họ chuối. Chúng được đặt tên như vậy bởi vì mẹ của Moses đã nhét một quả chuối vào miệng của đứa con trai mình trước khi đặt nó vào một chiếc giỏ sậy rồi đẩy xuống dòng sông Nile. Quả chuối có nhiều chất dinh dưỡng, nhưng chủ yếu là để giữ cho đứa bé im lặng để người Ai Cập không phát hiện mà giết nó. Chánh Thanh tra Riyadh, vốn không ưa mấy cái chuyện pha nửa lịch sử nửa thần thoại như vậy, chỉ bập bập chiếc tẩu và lẩm bẩm. “Thế anh thì biết chuyện à, hả cha của Musa?” Vậy là cái tên Abu-Musa có từ khi đó.
Thanh tra Ibrahim trước đây chưa từng bao giờ làm việc với Abu-Musa, nhưng bản tính nóng nảy cũng như sự chính trực hống hách của ông ta đã trở thành huyền thoại. Giờ thì Abu-Musa đang đợi các nhân viên pháp y hoàn thành việc khám nghiệm nửa thân trên. Hai nhân viên của Trăng lưỡi liềm Đỏ tiến vào giúp các nhân viên pháp y lắp đặt chiếc máy hút bụi mà họ sẽ sử dụng để loại bỏ lớp cát, thì Abu-Musa quát họ: “Quay lại đây ngay! Các anh không được đụng đến cô ta!”
“Cô ta chết rồi mà.” Một nhân viên đáp.
“Không ai được động vào cô ta hết! Giờ thì biến ngay khỏi đây đi.”
Abu-Musa đẩy người đó sang bên. Ông ta không hề để tâm đến việc ai đó có thể sẽ phá vỡ mất bằng chứng; ông ta chỉ đang cảnh giác một tội ác đạo đức, một người đàn ông đụng chạm vào cơ thể của một người phụ nữ, làm hủy hoại thanh danh của cô ta dù cô ta đã chết.
Tiếng lách tách quen thuộc của bánh xe lăn trên đường nhựa và đám bụi nhỏ cuộn lên đã báo hiệu sự xuất hiện của một chiếc SUV khác, chiếc xe chở Thám tử Osama Ibrahim. Osama bước ra khỏi xe, khảo sát hiện trường, rồi đi thẳng về phía thanh tra Ibrahim. Hai người bắt tay nhau, và Osama cáo lỗi vì đã không đón tiếp ông trước ở Sở được.
Ai nấy đều cư xử rất lễ độ. Ibrahim đã làm việc ở Sở được hai tuần rồi, một sự thuyên chuyển từ Đội Điệp vụ. Ông được kính trọng không chỉ bởi, ở cái tuổi bốn mươi hai, ông lớn tuối hơn tất cả các sĩ quan khác; mà còn bởi ông đã làm việc trong lĩnh vực trọng án từ rất nhiều năm về trước; và cũng vì ông có quan hệ với hoàng gia. Ông chắc chắn rằng chẳng bao lâu các vết rạn nứt sẽ cho biết điều gì đó.
“Một người Bedouin địa phương đã tìm thấy xác một phụ nữ vùi trong cát.” Ông nói. “Anh đến xem sao.”
Osama rời bước.
Hai nhân viên Trăng lưỡi liềm Đỏ lúc này đang càu nhàu về Abu-Musa và bàn luận về một sự việc được đưa trong mục tin tức. Có một nữ sinh tại trường Cao đẳng Sư phạm ở Qassim đổ bệnh. Trường đó đã phải gọi cho Trăng lưỡi liềm Đỏ, nhưng khi nhân viên của họ đến nơi thì các cơ quan có thẩm quyền đã cấm các nhân viên y tế được động vào cô ta. Mặc dù họ rất lo ngại rằng cô ta có thể chết nhưng hình như họ còn lo ngại hơn việc để những người đàn ông lạ mặt đụng chạm vào cô gái sẽ làm cô ta mất phẩm giá. Trong khi bọn họ còn đang tranh cãi thì cô gái đó đã chết. Hai nhân viên của Trăng lưỡi liềm Đỏ có vẻ kinh hãi trước toàn bộ sự việc này và tỏ vẻ cảnh giác với những điều tương tự có thể xảy ra với họ.
“Ông ta nghĩ chúng ta là cái quái gì cơ chứ – một đám ma cô dẫn khách à?” Một người lớn tiếng.
Osama quay trở lại trông có vẻ bàng hoàng. Ibrahim nhận thấy vẻ mặt đó của ông ta. Anh cho rằng mình đã miễn dịch với cái chết, đã chứng kiến cả thảy mọi điều xảy ra với con người – và rồi chỉ một gương mặt phụ nữ đã đánh gục anh lần nữa. “Vụ rắc rối ở địa phương thôi, anh nghĩ vậy không?”
“Chắc vậy.” Ibrahim nghiên cứu hiện trường. “Nhân viên điều tra của anh thường hung hăng như vậy sao?”
“Vâng, nhưng chỉ khi nạn nhân là nữ giới.”
“Điều đó cũng dễ hiểu.”
Bỗng có tiếng vật gì đó gãy. Tiếng kêu rất nhỏ nhưng cũng đủ tạo ra một bầu không khí im lặng đầy tò mò. Một nhân viên của Trăng lưỡi liềm Đỏ đã dẫm chân lên phần cát mềm, anh ta đã đạp phải thứ gì đó cưng cứng, khiến nó gãy vỡ. Ibrahim tiến lại và quát lớn: “Không ai được cử động!” Ngạc nhiên thay, tất cả mọi người đều tuân lệnh.
Người kia đã nhấc chân anh ta ra khỏi đám cát, và qua gương mặt anh ta Ibrahim có thể nhận ra anh ta đã tìm được thứ gì.
“Nghe có vẻ giống như xương bị gãy.”
“Chính vậy.” Chỗ đất lún vì dấu giày của anh ta đã bị cát phủ đầy. Ibrahim quan sát xem liệu còn ai khác nữa không.
Bọn họ đều đứng cách xa cái xác năm mét.
“Mọi người giữ nguyên vị trí hiện tại của mình.” Ibrahim lớn tiếng. “Ngoại trừ anh.” Ông chỉ tay về phía người chụp ảnh pháp y. “Chụp ảnh tất cả mọi người tại đúng vị trí hiện giờ của họ.” Người đàn ông đó nhoài người ra để thực hiện theo. Rồi Ibrahim chỉ sang Daher. “Anh ra chỗ tay cảnh sát địa phương bảo anh ta liên lạc bằng bộ đàm để cử mấy người tìm dấu vết đến đây. Nhóm Murrah ấy, nếu anh có thể liên lạc được với họ, và hãy cố gắng nhanh hết sức có thể.” Daher nhảy vào chiếc xe cảnh sát mà Hattab đang loay hoay với dòng điện xoay chiều.
Ibrahim đứng gác, cái nhìn chăm chú của ông ta khiến đố ai dám di chuyển chỉ một mi-li-mét. Giống như lũ trẻ đang chơi trò, bọn họ đứng bất động một cách ngượng nghịu, trên khuôn mặt họ lúc này đã biến mất cái vẻ chịu đựng vì cái nóng mà bừng sáng lên sự háo hức, một niềm vui thích kỳ lạ khi được chỉ bảo phải làm gì trong khi thực ra đó là điều bắt buộc.
Đám nhân viên của ông thanh tra đã dẫm đạp lên khu vực này tương đối nhiều, nhưng đến cái xác thứ ba bọn họ vẫn chưa phát hiện được quy luật nào.
Nhóm tìm dấu vết Murrah đã đến – một người ông và đám cháu của ông ta – và phải mất đến hàng giờ đồng hồ đi lại quanh địa điểm để ghi nhớ các dấu giày, loại bỏ từng người bằng những kỹ xảo kỳ diệu của họ. Bọn họ thậm chí không cần tham khảo các bức ảnh mà nhân viên pháp y đã chụp. Sau đó, bọn họ bắt đầu lại từ đầu, dò tìm những vật gì không nằm trong phạm vi đó. Họ khảo sát kỹ lưỡng mặt đất, hết bò, ngồi xổm, lại quỳ, chăm chú quan sát các điểm giống nhau trên mặt cát đến hàng phút theo những vệt dài rất khó hiểu. Họ đã tìm được sáu cái xác với những cánh tay theo hình chữ Y thần thánh, nhô lên mặt cát như đang cảm nhận không gian hình học thần bí, và chỉ đến khi đó thì cái thứ kiểu như một quy luật mới bắt đầu định hình.
Tất cả những cái xác đều là phụ nữ. Bọn họ đã bị chôn ở phía lưng của một đụn cát hình lưỡi liềm. Có một nền đá đặt ở dưới để giữ cho vùng cát được ổn định, giúp cho tên sát nhân, giả sử như vậy, nếu muốn có thể quay trở lại mà vẫn tìm được địa điểm chôn cất trong trường hợp bão cát đã thổi tung đụn cát của hắn lên con đường. Một điểm lún nhẹ từ phía con đường trở xuống cho thấy dù có bao nhiêu cơn bão cát quét qua đây đi chăng nữa thì cát vẫn sẽ lại tích tụ tại chính điểm này. Trong khoảng vài tháng, cát sẽ tạo thành một đụn khác nhờ gió vẫn đều đều thổi. Nếu gặp một cơn bão, nó sẽ bị thổi tung phủ lên mặt đường, giống như chuyển động từ từ của những con sóng xô vào bãi biển. Rồi con đường sẽ lại quang sạch và cát sẽ lại tích tụ thành đụn.
Con số xác chết giờ đã tăng lên khiến Ibrahim không ngừng băn khoăn: Tại sao lại là chỗ này?
Bọn họ phải gọi xe tải chở nước, và một nhà hàng địa phương (chỉ cách đó ba mươi hai cây số) chuẩn bị cho họ những đĩa cơm khổng lồ cùng với thịt cừu, đúng như một đám cưới, và bọn họ đã ăn hết sạch, nếu không muốn nói là ăn một cách điên cuồng. Những làn gió nóng như đổ lửa bắt đầu cuộc chơi chết chóc đối với cơn thèm ăn của những người đàn ông. Hai người đã ngã gục và phải đưa trở về Jeddah bằng xe của Trăng lưỡi liềm Đỏ.
Ibrahim cúi xuống từng cái xác một, cái nóng như lưỡi dao cắt ngang lưng ông. Mồ hôi đầm đìa khiến đôi giày của ông ướt nhẹp. Ngay cả nhóm Murrah có vẻ cũng bắt đầu kiệt sức.
Hiện trường mở ra về phía sa mạc giống như một khu khai quật khảo cổ học, ngổn ngang trên mặt đất nào vải bạt, nào cọc dựng, đèn sáng được mang đến khi mặt trời chuyển sang màu đỏ ối và khuất dần ở phía chân trời. Mười chín cái xác tất cả. Ibrahim thấy khiếp sợ khi ông nghe nhân viên điều tra báo cáo lại. Abu-Musa đến nói chuyện với ông, đây là lần đầu tiên trong ngày ông ta làm vậy. Ánh hoàng hôn khiến cho mái tóc hoa râm của ông ta đẹp lạ lùng.
“Ông có nghe thấy những gì tôi nói không? Mười chín cái xác.” Abu-Musa nói. “Mười chín. Ông có hiểu điều đó có nghĩa là gì chứ?”
“Và trên cả đó là mười chín?” Ibrahim trích đọc.
Abu-Musa gật đầu với vẻ đồng tình lặng lẽ. Câu thơ đó được trích trong kinh Koran, là một câu thơ huyền bí không ăn nhập gì với những nội dung khác, nhắc nhở con người từ hàng bao thế kỷ nay gợi tưởng đến những hình dung hoang dại về tầm quan trọng của con số mười chín. Những lần nhập thân gần đây nhất ở Mỹ, Tucson, Arizona, một nhà hóa sinh người Ai Cập tên là Rashad Khalifa đã tuyên bố tổng lãnh thiên sứ Gabriel đã tiết lộ với ông ta rằng trong văn tự kinh Koran có một mã số toán học bí ấn có thể được giải mã bằng cách sử dụng con số mười chín.
Nhưng câu thơ tiếp theo trong Kinh Koran đã đưa ra một lời giải thích giản đơn cho con số đó: Và chúng ta không sắp đặt ai khác ngoài các thiên sứ như những người gác lửa, và chúng ta đã ấn định con số của họ.
Điều đó nghĩa là có mười chín thiên sứ canh gác Địa ngục.
“Có thể là một sự trùng hợp thôi.” Ibrahim nói.
“Anh có chắc vậy không?” Abu-Musa cười mỉm, một cử chỉ lạnh lùng. “Tôi tin là anh sẽ không tìm thấy thêm một thi thể nào nữa đâu. Dù là kẻ nào đã làm chuyện này thì hắn ta cũng có lý do của mình.”
“Cũng vậy cả thôi.” Ibrahim nói. “Có thể nó chỉ vô tình là mười chín.”