[Trinh thám - kinh dị] Cẩm tú kỳ bào

vuongnhatanh

Bị lười không hề nhẹ =)))
Thành viên thân thiết
Tham gia
17/4/2013
Bài viết
1.142
CHƯƠNG 1 - GẶP GỠ
Tôi đưa tay đón lấy, chiếc áo được dệt bằng lụa xa tanh tơ tằm, cầm trên tay có cảm giác mềm mại như nước. Tay lỡ, xung quanh gấu viền hoa, ngực áo là một đóa uất kim hương được thêu tay bằng chỉ màu, cửa tay có hoa dây thêu nổi, tay nghề tinh xảo, hoa văn chìm thoáng ẩn hiện đường chỉ kim tuyến, càng tôn thêm vẻ sang trọng của chiếc áo. Khuy trên cùng của tấm kỳ bào là một viên ngọc trai trông cực kỳ tinh tế, kích cỡ viên ngọc tra đó chừng bằng móng tay út, màu hơi ngả vàng, nhìn qua đã biết là cổ vật.

"Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào!". Tôi thốt lên kinh ngạc, một luồng hơi lạnh chạy từ đáy tim lên đỉnh não.

Vị trí mà tôi mở hiệu may xường xám cũng không được coi là ổn lắm, nó nằm trong con phố nhỏ thông ra bên trái một đường cái lớn ở quận Gia Định. Con phố ngay trước mặt cửa hiệu chỉ rộng chừng mấy mét, thậm chí còn có thể nghe rõ mồn một tiếng mặc cả, ngã giá của đám tiểu thương với bà chủ sạp bán buôn hoa quả ở phía đối diện, thế nên dù không bán hoa quả, tôi cũng có thể nắm được tình hình thị trường hệt như mình kiêm luôn chân bán hàng đó vậy. Bên trái tiệm may là một hiệu sách đã tồn tại nhiều năm, trong đó không bán những cuốn tiểu thuyết ngôn tình hay giả tưởng thời thượng, mà chỉ mua bán sách cũ, gọi là cổ lỗ sĩ thì cũng được. Thế nên, thường ngày cũng chẳng có mấy khách đến đây, thi thoảng mới thấy vài người đeo kính trông ra dáng phần tử trí thức lai vãng tới, thường thì sau khi ra khỏi hiệu sách, họ luôn lẩm bẩm điều gì đó trong miệng mà không rõ điều gì. Còn cả những cô gái ăn mặc thời thượng đi ngang qua phố cũng không thể không dừng lại đây một lát, vì bên ngoài cửa hiệu là chiếc tủ kính với mặt gương lớn, họ có thể soi lại khuôn mặt mình, cũng coi như là một quang cảnh đẹp.

Ở một đoạn đường như vậy, môi trường như vậy, đã không thích hợp với việc mở hiệu may áo dài xường xám vốn tao nhã, lại càng không thích hợp với một hiệu sách cổ, song chủ nhân hai cửa hiệu chúng tôi đều chọn địa điểm này. Có cách nào nữa đây? Ai bảo giá nhà ở thành phố này đâu đâu cũng đắt đến kinh hoàng, lại còn cái nghề vốn buồn tẻ này, muốn chọn con phố đông đúc thì e rằng ngay cả tiền thuê nhà cũng không trả nổi. Chỉ đành tự an ủi mình rằng, chọn nơi độc đáo cho nổi bật.

Ngay trước cửa hiệu xường xám còn có hai cây đa lớn, có lẽ đã mọc ở đó từ lâu lắm rồi nên cành lá rậm rì, thân cây chắc hai người ôm chưa hết. Lạ lùng là khi đứng từ dưới trông lên, thấy lá trên ngọn cây dường như mọc lẫn vào nhau, đứng từ xa nhìn lại, những người không biết còn tưởng đó chỉ là một cây xanh tốt.

Người đi lại trên con phố này chẳng mấy khi đông đúc, phần lớn đều là cư dân sống quanh đây. Vào hai khung giờ cao điểm thì cũng có xe cộ tấp nập, người đưa đón con đi học, người đi chợ, người tất tưởi đến công ty hay vội vã về nhà... Chỉ sau tám giờ tối, cả con phố trở nên vắng lặng vô cùng, ngay cả taxi cũng rất ít khi thấy chạy qua. Vì vắng người nên càng cảm thấy tĩnh lặng đến khác thường, một trận gió thổi qua, cành cây già cỗi đung đưa, tiếng lá reo xào xạc, luôn khiến người ta có cảm giác lạnh lẽo trong lòng.

Phần lớn những người phụ nữ đến cửa hiệu của tôi đặt may áo dài xường xám đều thích tới vào buổi tối. Giá của một chiếc xường xám không hề rẻ, đa số khách ghé đến nhiều lần đều thuộc hàng khá giả, ít thời gian rảnh rỗi hơn mấy MM [1] hay khoe ngực, phần nhiều họ đều gọi điện hẹn trước sau đó mới đến lấy số đo và xem kiểu. Thứ nhất là do thói quen cá nhân, muốn làm hết sức để mỗi tấm kỳ bào [2] qua tay mình đều hoàn hảo, nên dù đã ghi chép tỉ mỉ số đo của mỗi khách hàng, nhưng lần nào đến đặt may cái mới, tôi cũng yêu cầu họ để mình đo lại một lần nữa. Thứ hai là xường xám quả thực khá kén người mặc, không giống như những loại trang phục khác, rộng một phân, chật một phân đều không thành vấn đề, nói hà khắc hơn, chỉ cần sai sót một chi tiết thôi cũng có thể "sai một li đi một dặm". Thế nên những khi bận rộn, phải làm việc đến tận rạng sáng là chuyện bình thường.

[1] Em gái

[2] Áo xường xám gọi theo âm Hán Việt

Mọi việc trong cửa hiệu từ trước đến nay đều do một mình tôi lo liệu, từ việc nhỏ như quét tước cửa nhà, đến việc lớn là cắt may, đều tới tay tôi hết. Lâu dần, cũng cảm thấy mình giống như một cái máy. Nhưng ở cái tuổi này, một đứa con gái còn có thể làm gì? Ngoài những hiểu biết về xường xám có tính di truyền ra, tôi nghĩ mình cũng chẳng có sở trường gì khác.

Nói đến yếu tố di truyền, thì chủ yếu là nói về ông nội tôi. Trước khi nhà nước Trung Hoa mới ra đời, ông nội là một thợ may có hạng, chuyên cắt may xường xám cho đám phụ nữ đài các thuộc tầng lớp xã hội thượng lưu. Dù trong những năm tháng chiến tranh loạn lạc, nhưng Thượng Hải vẫn là chốn ăn chơi xa xỉ. Ông nội thành danh từ rất sớm, khi còn trẻ đã được người ta tôn xưng là Lý Thần Bào, có thể thêm chữ "Thần" vào tên gọi, đủ biết tay nghề của ông ở mức nào. Nghe kể lại, có người mời ông đến may kỳ bào, chỉ cần liếc nhìn người con gái đó, ông đã có thể vẽ phác họa được thân hình và cả số đo không sai một li chỉ trong khoảng thời gian ăn hết một bát cơm. Tiếp sau đó, ông thiết kế kiểu dáng rất nhanh, còn việc cắt may thành tấm áo dài hoàn chỉnh thì dễ như trở bàn tay. Vì thế, tiền công may xường xám của ông nội luôn thuộc hàng đắt nhất ở Thượng Hải lúc bấy giờ.

Mấy chục năm rối ren biến động rồi đến khi giải phóng, cải cách mở cửa, đời sống toàn dân khấm khá lên, cái gì cũng biến chuyển đổi thay, danh tiếng của ông nội dù không còn vang dội như khi trước, song vẫn được lưu truyền, việc làm ăn tuy có buồn tẻ hơn nhưng vẫn đủ cho cả nhà ăn no mặc ấm. Thế nên so với phần lớn những người cùng trang lứa, bố tôi cũng coi như được sinh ra trong sung túc, không phải lo chuyện cơm ăn nước uống, xuất thân trong sạch.

Trong ấn tượng của tôi, ông nội rất mực hiền từ, lại kiệm lời. Hoặc cũng có thể nói mọi người trong gia đình tôi đều thích sự tĩnh lặng, ông nội, bà nội, mẹ tôi và tôi. Bởi không thích ồn ào, nên trong nhà cũng ít khách ghé qua, ba thế hệ cùng ngồi ăn cơm, không gian trầm tĩnh đến lạ lùng.

Thật ra ông nội cũng có phương diện khiến cho người khác cảm thấy ông rất nhiệt tình, khi may xường xám, ông chăm chú tới mức hoàn toàn quên mất bản thân. Sau cải cách mở cửa, nghề may áo dài xường xám ngày càng suy thoái, thông thường đơn đặt hàng phần lớn đều đến từ mấy tiệm rượu hay xưởng phim, kiểu dáng đơn điệu nên không cần đến ý tưởng sáng tạo nào. Dù vậy, ông nội vẫn bận bịu như trước, hàng ngày trừ những lúc ăn uống, ngủ nghỉ ra, thời gian rảnh ông đều ngồi trước khung cửa nhỏ trên lầu, đeo kính lão, bận bịu với từng đường kim mũi chỉ, để rồi trong chiếc tủ kính lớn bên ngoài cửa hiệu, treo đầy những tấm áo dài xường xám ông may mà chẳng hề bán nổi.

Sau khi mẹ ra đi, tôi vẫn luôn tưởng rằng mình sẽ sống lặng lẽ cùng ông bà nội như vậy đến già. Nhưng kỳ lạ là một đêm nọ, ông nội đột nhiên vứt lại hai bà cháu tôi, biến mất tăm mất tích không để lại đến một lời nhắn nhủ, từ đó về sau thì bặt vô âm tín.

Mỗi khi nhớ lại chuyện này, tôi thường cảm thấy buồn bực không sao lý giải nổi, cái ký ức vụn vỡ nhưng lại hết sức rõ ràng của thời ấu thơ ấy cứ phát đi phát lại trong trí nhớ, lần nào cũng gợi lên những cơn sóng lòng mà tôi đã muốn dập tắt. Ký ức vốn lạ lùng và ngang bướng vậy đấy, càng muốn quên đi thì càng nhớ hết sức rõ ràng, thế nên tôi chẳng bao giờ bắt được bản thân mình thôi nhớ đến ông. Những hình ảnh thường xuất hiện nhất trước mắt tôi là dáng hình ông nội, hiền từ và hòa nhã, trên khóe môi thường trực nụ cười khoan dung độ lượng nhưng nhạt nhòa, như có như không.

Đêm nay trời lại nổi gió, tôi ngồi ngẩn người nhìn góc phố vắng tanh, cực kỳ buồn chán. Cả ngày hôm nay không nhận được đơn đặt hàng nào, đáng lẽ có thể đóng cửa hiệu sớm hơn một chút, nhưng về nhà thì cũng không ngủ được ngay, rồi lại xem ti vi để giết thời gian. Cùng là ngồi ngây ra như vậy, thì tôi thích việc ở lại cửa hàng thiết kế mấy kiểu dáng áo dài mới hơn. Nhưng không biết vì sao mà làm mãi vẫn không khơi gợi được chút cảm hứng nào, cây bút trong tay cứ đi theo những đường vẽ một cách máy móc. Cuối cùng tôi đành quăng bút xuống rồi tựa đầu vào ghế mây, đến khi xương cốt cũng gào lên những tiếng kêu la vì cô đơn buồn chán, tiếng chuông điện thoại ma mị lúc nửa đêm chợt vang lên, huyệt thái dương của tôi cũng nhảy thót lên kinh sợ.

"Tiểu Ảnh, tối mai đến nhà mình ăn cơm nhé, sinh nhật mẹ mình, bà ấy nhớ cậu lắm đấy!". Bên kia đầu dây là Hà Thanh Lâm, cô bạn cùng lớp, đồng thời là bạn thân nhất của tôi. Con nha đầu này suốt ngày điên điên dại dại, thích nhảy nhót chơi đùa ồn ã, hình như bị thiếu mất hai dây thần kinh có tên "yên tĩnh" và "buồn phiền". Cô ấy vui vẻ tới mức khiến cho những người bạn xung quanh cũng phải vui lây, so với tôi thì đúng là hai thái cực khác biệt. Có lẽ cũng vì như vậy, nên khi kết bạn, ngoài việc cảm thấy hứng thú ra, còn là một hình thức bổ sung cho nhau nữa, tôi tìm thấy những tế bào bị thiếu của mình ở cô ấy.

Tôi còn chưa hỏi gì, Hà Thanh Lâm đã nói liên tằng tằng, hệt như một khẩu súng liên thanh khai hỏa, bao nhiêu lần làm trò cười cho thiên hạ rồi mà bản tính vẫn không thể nào thay đổi được.

"Được rồi, được rồi! Ngày mai mình sẽ đóng cửa sớm rồi ghé qua!". Đúng là không thể xem thường uy lực của súng liên thanh, một loạt đạn đã quét sạch sành sanh sự buồn chán sắp lên nấm mốc của tôi rồi. Tôi mỉm cười nhận lời cô ấy.

"Nhớ đấy nhé, không được đến muộn, đừng có sát giờ rồi mới kiếm cớ này cớ nọ để không đến, còn nữa... Ừm, khi nào nhớ ra mình sẽ nói với cậu, dù sao thì ngày mai cậu nhất định sẽ đến đúng không? Ừm, trước tiên cứ thế đã, mình đi tắm đây, gác máy nhé. Bye!".

Thanh âm cuối cùng còn chưa dứt đã nghe thấy tiếng điện thoại tút tút vang lên.

Tôi lắc đầu cười, đặt máy xuống, quay người lại nằm duỗi lưng ra ghế thở một hơi dài. Xem ra ngày hôm nay không buôn bán được gì rồi, giờ chắc cũng đã mười giờ, đêm sẫm đen hơn mực, trên đường, đừng nói tới người, ngay cả một bóng ma cũng không thấy, thế nên tôi đóng cửa hiệu ra về.

Do trận mưa lớn lúc ban ngày, khu vực này lại không phải là trung tâm thành phố, đường sá lâu ngày không được cải tạo nên ổ gà trên mặt đường ngập đầy nước, hết hố này đến hố khác, dưới ánh sáng của đèn đường, những ổ gà sáng lóa lên như mặt gương nối tiếp nhau, tạc khảm lẫn nhau đến tận cuối phố. Thời tiết thế này quả thực khiến người ta không muốn bước chân ra khỏi cửa.

Tôi dọn dẹp xong những thứ trong tủ kính, đúng lúc đang định kéo cửa xuống thì khóe mắt chợt lóe lên, phát hiện ra một cô gái đang đứng nghiêm trang dưới gốc cây trước cửa hàng. Đó là một người con gái chừng ba mươi tuổi, tay cầm túi, trên người mặc chiếc áo dài xường xám may theo lối truyền thống, màu trắng tương phản hẳn với bóng tối xung quanh. Thân áo không có một chút hoa văn nào, màu trắng trơn như vậy khiến người khác không khỏi cảm thấy đơn điệu, nhưng cô gái ấy mặc trông cực kỳ trang nhã, đến bản thân tôi cũng cảm thấy nếu như điểm xuyết thêm một chút gì lên đó cũng sẽ phá hỏng đi vẻ thanh nhã ấy. Bộ áo dài này không hiểu sao nhìn rất quen, song tôi biết nó tuyệt đối không phải do mình may, bởi nếu như tôi may áo xường xám trơn, thì thế nào cũng sẽ chọn hoa chìm để tránh bị cứng nhắc. Từ trước đến nay tôi chưa từng nghi ngờ về khả năng thiết kế của mình, nhưng khi đứng trước bộ áo dài này tôi mới biết, bản thân mình quá là hời hợt, trong nghề này mình cũng mới chỉ thuộc dạng nhập môn mà thôi. Khi tôi còn đang ngẩn ra đó, cô ta đã uyển chuyển bước về phía tôi.

"Chào cô Lý, tôi có thể vào trong không?". Người phụ nữ đó nhìn tôi mỉm cười, để lộ ra hàm răng trắng sáng như màu áo. Cô ta gọi thẳng họ của tôi, rõ ràng là đã được bạn bè giới thiệu đến đây.

Tôi gật gật đầu, tránh sang một bên để cô ta đi vào trong cửa hiệu.

Người đó đi thẳng đến quầy, đặt món đồ trong tay lên trên bàn, sau đó nhìn tôi nói:

"Tôi có một tấm áo bị hỏng, cô có thể may lại giúp tôi không?".

Đôi mắt người này không to lắm nhưng quyến rũ một cách lạ thường, đầu mày cuối mắt đều chứa chan vẻ phong tình, một gợn sóng trong đôi mắt cũng khiến người khác cảm thấy cực kỳ dễ chịu.

Cô ta chầm chậm mở chiếc túi ra, khi đó tôi mới nhìn rõ chiếc túi được khâu bằng vải nhung màu cà phê đậm, kiểu dáng trông cách biệt một trời một vực với khí chất cao quý của người mang nó, có lẽ thức đồ bên trong cũng chẳng có gì quý giá, nên mới được đưa ra một cách tùy tiện thế này.

Tay cô ta đầy đặn nhưng linh hoạt, lại còn được chăm sóc rất tốt, sáng bóng một màu trắng muốt khỏe mạnh.

Ngay sau đó, một tấm áo dài xường xám màu xanh sẫm xuất hiện trước mắt tôi. Nụ cười vẫn luôn thường trực ở khóe môi, người ấy lấy tấm áo ra đưa cho tôi một cách cực kỳ cẩn thận.

Tôi đưa tay đón lấy, chiếc áo được dệt bằng lụa xa tanh tơ tằm, cầm trên tay có cảm giác mềm mại như nước. Tay lỡ, xung quanh gấu viền hoa, ngực áo là một đóa uất kim hương được thêu tay bằng chỉ màu, cửa tay có hoa dây thêu nổi, tay nghề tinh xảo, hoa văn chìm thoáng ẩn hiện đường chỉ kim tuyến, càng tôn thêm vẻ sang trọng của chiếc áo. Khuy trên cùng của tấm kỳ bào là một viên ngọc trai trông cực kỳ tinh tế, kích cỡ viên ngọc trai đó chừng bằng móng tay út, màu hơi ngả vàng, nhìn qua đã biết là cổ vật.

"Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào!".

Tôi thốt lên kinh ngạc, một luồng hơi lạnh chạy từ đáy tim lên đỉnh não.

Làm trong nghề này, chỉ cần lâu năm một chút thì không ai là không biết tấm "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào". Từ nhỏ tôi đã được nghe ông nội nhắc nhiều lần về chuyện "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào", tới mức ban đầu còn sợ hãi, sau này trở nên bình thản. Tới khi lớn lên rồi đi học, tôi thậm chí còn chẳng tin vào câu chuyện truyền miệng ly kỳ đó, cũng không tin rằng có tấm kỳ bào cổ như vậy trên đời. Thế mà giờ đây đột nhiên lại nhìn thấy nó giữa lúc đêm khuya thanh vắng này, những chi tiết liên quan tới câu chuyện lưu truyền dân gian kia bỗng hiện về từng li từng tí, khiến tôi không khỏi nổi da gà. Tuy nhiên nỗi sợ hãi đó cũng chỉ thoáng sượt qua, tôi nhanh chóng lấy lại được sự bình tĩnh của mình.

Tôi chưa từng trông thấy tấm "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào" này, chỉ có điều kiểu dáng của nó đã hằn sâu vào trí não, vì câu chuyện được ông nội kể đi kể lại không biết bao nhiêu lần, thế nên muốn quên cũng khó. Lai lịch cái tên "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào" xuất phát từ địa điểm và cảnh trí thời gian lúc đó.

Chuyện kể rằng có một tiểu thư con nhà giàu vì không thể lấy được người mình yêu, cuối cùng đã nhảy xuống sông Tần Hoài [3] tự vẫn giữa đêm khuya. Tấm áo xường xám này chính là tấm áo nàng mặc lúc tự tận. Khi đó hai bên bờ sông Tần Hoài ánh đèn [4] loang loáng, đuốc trên các thuyền cá lập lòe, tiếng người huyên náo, nhưng không ngăn được bi kịch đó xảy ra. Còn chữ "Thanh" tức là triều đại nhà Thanh, thực ra khi ấy đã là đầu thời kỳ Dân quốc, chỉ có điều có một nhóm học giả tuổi cao, nhất là những người Mãn vì tiếc nhớ triều đại nhà Thanh nên vẫn để tóc đuôi sam dài sau gáy. Nỗi lòng luyến tiếc đó còn được thể hiện cả trên trang phục, vậy nên người ta mới miễn cưỡng cho thêm cả một chữ Thanh vào tên gọi của tấm áo này, cũng từ đây tên gọi "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào" ra đời. Thực ra khi đó chiếc áo xường xám này cũng chẳng có gì đặc biệt. Tuy nhiên, sau khi nhà đó chôn cất vị tiểu thư ấy xong, vẫn giữ lại tấm áo có viên ngọc trai ở khuy cổ ấy, hoặc vì thời đó ngọc trai vẫn còn được coi là có giá, hoặc vì nhà họ thương tiếc con quá nên lưu lại làm kỷ niệm. Vì hai chị em khi còn sống vẫn thân thiết với nhau, nên chiếc áo được đưa cho người em gái của nàng ấy.

[3] Con sông rộng nhất ở Nam Kinh, nổi tiếng với các chốn ăn chơi hai bên bờ

[4] Đăng ảnh

Ba năm sau, người em gái đi lấy chồng, song không ai để ý đến một điều rằng ngày cưới lại chính là ngày mà ba năm trước đáng lẽ ra nàng ấy cũng xuất giá. Hôm đó, khi người em gái mặc lễ phụ cô dâu bước xuống khỏi kiệu hoa, bỗng bị một con ngựa điên từ đâu chạy tới giẫm chết ngay tại chỗ. Đám người đưa dâu trở nên hỗn loạn, con ngựa điên đá bay cả chiếc rương đựng của hổi môn. Tiếng gió nghe nức nở, thổi tung cả tơ gấm lụa là bên trong, trong cái đám hỗn độn đầy màu sắc ấy, nổi bật lên một màu xanh sẫm. Gió thổi mạnh hơn, tấm áo màu xanh sẫm đó bay bổng lên rồi rơi ngay xuống bên cạnh thi thể cô dâu, chính là tấm áo xường xám được giữ lại từ ba năm trước. Người nào đã để tấm áo vào trong rương đựng của hồi môn, điều này không ai rõ.

Một thầy bói mù trên phố nói chiếc áo ấy là vật mang điềm dữ, vì oán khí của người chị gái còn quá mạnh, lại thêm việc hỷ của người em gái nên càng đậm sâu thêm, không được để lại trên trần thế nữa. Thế nên trong ngày chôn cất người em gái, chiếc áo được chôn theo. Vốn chỉ là một chiếc áo bình thường, nhưng vì liên quan đến hai câu chuyện ly kỳ, càng lan truyền nó càng được thêm thắt vào những chi tiết huyễn hoặc, ví dụ như được làm tinh xảo hiếm thấy trên đời, chất vải vô cùng sang trọng, từn hoa văn chìm đều là các sợi chỉ bằng vàng...

Chừng mười năm sau, chiếc áo này lại bị bọn trộm mộ đào lên, rồi được một nhà buôn giàu có sưu tầm. Người con gái duy nhất của ông ta cũng chết một cách lạ lùng trong ngày cưới. Sau này chiếc áo tiếp tục được chuyển sang tay người khác, hễ trong nhà có con gái thì đều chết khi còn rất trẻ. Bởi vậy, nó trở thành một vật mang điềm dữ, trong giới làm kỳ bào không ai là không biết. Thế nhưng vẫn có những người hiếu kỳ, chỉ muốn được nhìn thấy nó một lần. Liên quan đến truyền thuyết về chiếc áo, cũng có rất nhiều phiên bản khác nhau. Có người nói, vì oán hận gia đình ngăn cản không cho kết hôn với người mình yêu, nên tiểu thư đó đố kỵ với tất cả những người yêu nhau, từ đó mới không ngừng xảy ra bi kịch tương tự. Cũng có người kể nỗi oán hận đó chính là oán hận người em gái, vì người mà cô em được gả cho chính là người mà cô chị đã yêu thương, thế nên mới xảy ra bi kịch trong chính ngày cưới... Đương nhiên câu chuyện không chỉ có hai phiên bản nảy, chỉ là chúng nghe có vẻ dễ tiếp nhận hơn những cái kia mà thôi. Tôi thì vẫn tin vào câu chuyện thứ nhất, trong sâu thẳm lòng mình tôi vẫn cho rằng tình thân máu mủ luôn sạch sẽ, không nỗi hận thù nào có thể làm vấy bẩn nó, còn tình yêu là thứ tình cảm thánh thần, thế nên sau khi người chị chết đi, người đàn ông mà nàng ấy yêu cũng sẽ sống một mình, làm sao có thể lấy người em gái được?

Vì bị ảnh hưởng của ông nội, từ nhỏ tôi đã rất tò mò về chiếc áo này. Bắt đầu từ ngày biết cắt may, tôi còn âm thầm làm mấy chiếc "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào" theo hình ảnh tưởng tượng hiện lên trong trí não. Sau này tôi đưa cho bà nội xem, hỏi có giống hay không, nhưng lần nào cũng bị bà mắng cho một trận. Lần cuối cùng, bà còn không nói một lời, dùng kéo cắt phăng chiếc áo tôi đưa. Bà nội là một người phụ nữ tính nết dịu dàng, hàng ngày chỉ biết ăn chay niệm Phật. Còn nhớ năm tôi mười lăm tuổi, khi ông nội mất tích, không hề thấy bà có xáo động tình cảm gì lớn, cũng không dám hỏi vì sao, sau này tôi vẫn lặng lẽ may những tấm "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào" và treo trong cửa hiệu để thưởng thức một mình.

Thực ra theo lời bà nội thì ông tôi cũng chưa từng thấy tấm áo đó bao giờ, chỉ là có một sự cuồng nhiệt với nó, gần như tới mức có thể quên ăn quên ngủ. Mỗi khi có thời gian rảnh rỗi, ông lại may kỳ bào, mà mỗi tấm kỳ bào ông làm ra đều thấp thoáng tới bảy tám phần hình dáng của chiếc "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào" đó. Khi ấy, trên ba giá treo đồ trong cửa hiệu tràn ngập những chiếc "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào". Ông làm chỉ để cho mình ngắm, người khác có trả giá cao đến mấy cũng không chịu bán, thế nên khi đó dù danh tiếng của ông trong nghề này vẫn còn vang dội, song chi tiêu của gia đình cũng chẳng lấy gì làm rộng rãi. Sau này ông đóng cửa hàng, chỉ nhận đơn cắt may trên căn gác nhỏ ở nhà mình, khi có thời gian rảnh rỗi ông vẫn tiếp tục duy trì niềm hứng thú ấy, tới nỗi những tấm kỳ bào cũng tích tụ lại nhiều hơn. Vậy mà bà nội cũng chưa từng oán trách ông đến một lần, vẫn thực hiện bổn phận của một người vợ chăm sóc ông từng li từng tí. Nhưng một năm sau ngày ông đi, bà gom tất cả đồ đạc của ông cùng những tấm kỳ bào đó đốt sạch sành sanh. Tôi biết, bà yêu ông sâu sắc nhưng cũng hận ông. Từ đó trở đi, không bao giờ bà cho phép tôi nhắc đến ông trước mặt mình nữa.

Tôi lật giở kỹ càng tấm áo xường xám mà người phụ nữ đó mang đến, cũng không phát hiện ra bất cứ chỗ nào bị hỏng. Còn đang nghi hoặc, cô ta đã đưa tay ra cầm lấy tấm kỳ bào, đầu ngón tay lướt qua mu bàn tay tôi lạnh như băng, dù đang là tiết hạ nhưng khi bất ngờ tiếp xúc với hơi lạnh đó, tôi vẫn bất giác rùng mình. Cô ta trong thấy liền mỉm cười, giải thích bằng chất giọng hết sức nhẹ nhàng:

"Tay tôi bốn mùa đều lạnh như băng, bác sỹ nói vì khí huyết không tốt nên mới vậy, là do năm đó tôi sinh con suýt nữa thì băng huyết nên để lại mầm bệnh. Làm đàn bà đúng là chẳng dễ dàng gì!".

"Ồ, đúng vậy. Nhưng chị xem chiếc áo này có vấn đề gì đâu? Tôi xem nãy giờ, thấy nó vẫn còn rất tốt mà".

Trên mặt tôi là một nụ cười cực kỳ chuyên nghiệp, song không để lọt tai những lời chị ta nói về bệnh tật của mình. Những người kiểu này không phải là hiếm, dù tuổi tác chưa phải là nhiều nhưng lại hay kể chuyện, có khi chỉ một chủ đề nhỏ thôi mà bọn họ cũng có thể kéo ra những câu chuyện dài cả mười tám nghìn dặm. Không cần bạn hỏi, một mình họ cũng sẽ lôi hết ngóc ngách trong nhà mình ra mà kể.

"Ôi, xem tôi này, thật là xấu hổ quá, làm mất thời gian của cô Lý. Đây, cô nhìn xem! Đường chỉ dưới nách bị bật rồi, tôi sợ nếu tự mình khâu sẽ không được phẳng, lại xấu đi mất".

Tôi nhận lại chiếc áo, quả đúng là dưới nách bị tuột chỉ chừng 2 tấc, nhưng nếu không đưa tay lên thì cũng không thể nào nhìn thấy. Đoạn chỉ bị đứt có màu vàng sáp, rõ ràng chiếc áo khá cũ rồi, đầu chỉ hơi xơ ra, giống như đã bị tuột từ lâu lắm. Tôi viết hóa đơn xong đưa cho người phụ nữ đó:

"Một vết nhỏ thôi, ngày mai là chị qua lấy được. Tuy nhiên phải đến sơm một chút, vì ngày mai tôi sẽ đóng cửa sớm".

"Cô Lý, hết bao nhiêu tiền?". Chị ta mở ví, rút ra một tờ năm mươi tệ.

"Không cần đâu, ở hiệu của tôi hễ sửa xường xám đều được miễn phí". Tôi chỉ lên quy định ghi bên cạnh bảng giá trên tường rồi nói với chị ta.

"Vậy thì cảm ơn cô Lý, tôi đi nhé!", nói rồi người phụ nữ đó quay người bước đi.

Tôi thở phào một tiếng rồi đặt tấm kỳ bào vào trong ngăn kéo, sau đó đóng cửa hàng.

Khi đi ra khỏi cửa, tôi nhìn hai đầu phố theo thói quen, chỉ thấy hai phía đều vắng tanh không một bóng người. Cửa hiệu của tôi nằm chính giữa phố, từ đây đi đến ngã rẽ ở hai đầu ít nhất cũng phải năm trăm mét. Từ lúc đóng cửa xong đi ra đây cũng chỉ mất tới hai phút là cùng, bước đi của người phụ nữ đó cũng không lấy gì làm nhanh, vậy mà đã mất tăm chỉ trong chớp mắt.

Gió thổi khiến cho những tán cây hai bên đường kêu lên xào xạc, loáng thoáng có tiếng giày cao gót vang lên lộc cộc, nghe phát sợ trong đêm khuya thanh vắng. Tôi hơi hoảng hốt, hơi run.

"Lý Ảnh, đóng cửa rồi à? Hôm nay buôn bán chán quá! Cả ngày được có một ngàn tệ, cứ kiểu này sắp phải uống gió tây bắc mà sống rồi".

Tiểu Lý ở cửa hàng quà lưu niệm sát vách cũng đang khóa cửa lên tiếng chào tôi. Trong đêm khuya thanh vắng thế này, có thêm một người để nói chuyện cũng sinh động hơn nhiều.

Tôi cười đáp: "Hôm nay cũng tệ thật! Nhưng cô cũng phải biết là một ngày mưa thế này mà kiếm được một ngàn tệ là tốt lắm rồi. Hôm nay tôi cũng đóng cửa sớm hơn một chút, hôm qua ngủ không ngon, mệt chết đi được!". Tôi khẽ lắc đầu rồi lại nghiêng tai lắng nghe, ngoài tiếng gió thổi trên lá cây ra thì đâu đó vẫn còn tiếng giày cao gót. Tôi đành phải tự an ủi mình rằng chắc chắn là vì đêm qua không được nghỉ nên mới sinh ra ảo giác thôi.
 
CHƯƠNG 2 - GIẤC MỘNG KỲ LẠ
Vì sao tôi đang khóc? Cổ họng co rút lại, trong lòng không thấy buồn thương, mà nước mắt lại không sao ngăn nổi. Vừa khóc tôi vừa nhìn khắp xung quanh, khi cúi đầu xuống bỗng phát hiện ra mình đang mặc một chiếc áo dính đầy máu tươi. Nhìn quanh gian phòng một lần nữa, đó không phải là phòng ngủ quen thuộc của tôi, khung cửa sổ được làm bằng gỗ, ánh trăng chiếu qua làm nổi bật chữ "Hỷ" cỡ lớn dán trên mặt cửa. Tôi đứng lên, phát hiện trên bàn đang trải rộng một tấm kỳ bào, tay lỡ, xung quanh gấu viền hoa, ngực áo là một đóa uất kim hương được thêu tay bằng chỉ màu, cửa tay bọc nẹp vàng màu vỏ quýt. Khuy trên cùng của tấm kỳ bào là một viên ngọc trai nhỏ tinh tế.

Sau khi tạm biệt Tiểu Lý ở đầu đường, tôi nhét tai nghe MP3 vào tai mình.

Giọng ca nhẹ nhàng và vui nhộn của Thái Y Lâm ngay lập tức rót đầy vào màng nhĩ. Tôi vẫn thường thích mở âm lượng to hết cỡ, như vậy sẽ không nghe thấy một chút tạp âm nào bên ngoài, cảm giác như mình đang ở trong một buổi hòa nhạc vậy. Nghe nhạc, nhất là nhạc Thái Y Lâm, nếu mở âm thanh nhỏ sẽ rất loãng. Tôi bước đi theo tiết tấu của bài "Hải tặc", thực ra trong tính cách của tôi không phải là không có những tế bào theo thiên hướng sôi động. Từ nhỏ mẹ đã dạy tôi nhiều lễ nghi truyền thống của người Trung Quốc, đều là những điển hình mà các bậc trưởng bối đem ra để dạy trẻ con, kỳ thực bọn họ không biết rằng tôi cũng muốn được như bọn họ, không bị trói buộc bởi các tiểu tiết, muốn thể hiện bản thân mình.

Con đường này hễ qua tám giờ là trở nên vắng bóng người, vì thế có thể coi như đường của riêng tôi.

Tôi nghĩ động tác của tôi lúc đó chắc chắn cực kỳ khôi hài, thử tưởng tượng xem, một người con gái đi giày da đế nhọn lại nhảy nhót như điên, sẽ là hình ảnh thế nào? Dù việc tôi nghe nhạc cũng là hành động hơi kỳ quái, song điều duy nhất đáng mừng là tôi không giống như đám người nào đó, cứ hát rống lên một cách phóng túng theo tiếng nhạc. Trước đây tôi cũng hát ra lời, nhưng từ sau cái lần ngồi trên xe buýt nghe thấy một gã trai hát như tiếng lợn kêu, tôi mới biết việc hát theo MP3 kinh dị tới mức nào, quả là cưỡng dâm thính giác, thậm chí là cưỡng dâm tập thể. Từ đó trở đi, mỗi lần nghe nhạc tôi thường cố kiềm chế để mình không hát theo thành tiếng.

Một đêm như thế này, may mà những cây ngô đồng bên đường che khuất nên cũng không cần phải lo sẽ có người trông thấy bộ dạng điên khùng, xấu xí của tôi. Đúng lúc tôi đang nghe tới mức linh hồn cũng sắp bốc lên theo tiếng nhạc thì bỗng thấy vai trĩu xuống, cảm giác như có một vật gì đó lạnh ngắt đặt lên trên, hơi lạnh lập tức xuyên qua lớp áo lụa mỏng thẩm thấu vào tận trong xương cốt. Tôi gần như nhảy vọt lên, kinh hoàng quay đầu lại, chiếc tai nghe bên trái tuột khỏi tai, buông lủng lẳng trước ngực.

Một người con gái đứng trước mặt tôi, tóc búi cao, khuôn mặt xinh đẹp, hai cánh tay để trần trong gió trông trắng trẻo mịn màng. Nhìn theo cánh tay ấy, tôi nhận ra nguồn cơn của cái lạnh trên vai mình, chính là tay trái của cô ta. Trên miệng cô ta vương một nụ cười, đôi mắt giống như hai trái nho chín mọng ngâm trong nước, khi cười tạo thành những gợn sóng lăn tăn xao động cực kỳ quyến rũ. Người này chẳng phải là người vừa mới vào cửa hiệu của tôi để sửa chiếc xường xám hay sao? Tôi thở phào một tiếng, tay trái khẽ vỗ lên ngực để điều chỉnh lại hơi thở đang rối loạn vì hoảng sợ:

"Làm tôi chết khiếp! Tôi còn tưởng là ai đó kia. Phải rồi, ban nãy quên mất không hỏi tên chị là gì?".

Tôi chợt nhớ ra vừa rồi quên mất không hỏi chị ta tên gì, với tính cách cực kỳ cẩn thận của tôi thì đây là một lỗi rất hiếm khi gặp, tôi cảm thấy hơi xấu hổ, còn lo sẽ để lại ấn tượng xấu đối với khách hàng vì sự qua loa sơ sài này.

"À, chồng tôi họ Lạc, chữ Lạc trong Lạc Đà. Thật lòng xin lỗi vì đã làm cô sợ. Tôi đứng bên đường gọi mấy tiếng mà cô không nghe thấy ư?". Cô ta cười rụt rè, nhấc bàn tay trái khỏi vai tôi rồi đưa lên vuốt vuốt sợi tóc mai để che đi sự bất an trong lòng, khuôn mặt mang vẻ xấu hổ của một cô gái mới chừng mười bảy mười tám tuổi.

Thấy vẻ áy náy ấy, tôi trái lại còn cảm thấy ngạc nhiên vì sự hoảng hốt ban nãy của mình, liền chỉ vào chiếc tai nghe MP3 trước ngực, đồng thời xoa dịu:

"Chị Lạc, không sao đâu, con người tôi có lúc hơi biểu hiện quá lên như vậy. Cũng không có gì đáng sợ, con đường này tôi cũng đã đi mòn cả ra rồi, có trách chỉ thì trách tôi để nhạc MP3 to quá!".

"Cô Lý thật biết cách an ủi người khác!".

"À...", lời nói tắc tịt, tôi vốn không phải người hoạt ngôn, vốn không bao giờ nói được những câu tâng bốc khách hàng. Chỉ đành bắt chước người phụ nữ kia, xoa xoa tay lên đầu rồi hỏi:

"Muộn như vậy rồi, chị Lạc còn chưa về ư?".

"Tôi đợi xe!". Cô ta vươn người nhìn ra đầu đường.

"Đợi xe? Đây chẳng phải là bến xe buýt ư?".

Vừa nói xong tôi liền thấy buồn bực, thấy ghét bản thân mình. Hôm nay làm sao thế nhỉ, sao mồm miệng toàn làm việc nhanh hơn não. Một thiếu phụ trông sang trọng thế này chắc phải có một người chồng giàu có, làm sao chen chúc trên xe buýt được?

"Chồng tôi đang cho tài xế đến đón. Cô Lý sống ở đâu, hay là lát nữa tiện đường tôi đưa về luôn?".

"Cảm ơn chị Lạc, nhà tôi ở ngay đằng trước kia rồi. Đáng lẽ phải mời chị qua đó uống cà phê, nhưng vì chị Lạc đang đợi người, nên tôi đi trước nhé, không làm phiền chị nữa!".

"Được rồi, tạm biệt cô!".

"Hẹn gặp lại chị!".

Cửa hiệu xường xám nằm cách nhà tôi chỉ chừng ba mươi phút đi bộ, đi hết đường lớn, quặt vào một ngã rẽ rồi đi thêm khoảng năm mươi mét là đến nơi tôi ở, khu đô thị Thần Thái. Vừa bước vào trong khu nhà, đột nhiên trong lòng cảm thấy có điều gì đó kỳ quái mà không hiểu tại sao, tôi liền quay đầu lại nhìn ra ngoài đường. Cách đó hai chục mét đã không còn nhìn thấy bóng dáng người thiếu phụ họ Lạc kia đâu. Mới rồi khi nói chuyện với chị ta, tôi đã tắt nhạc đi, ở một khoảng cách gần như vậy mà không hề nghe thấy tiếng động cơ hay tiếng phanh xe dừng lại, sao mà mới đó đã không thấy đâu rồi? Tôi dụi dụi mắt, thấy phía trước vẫn là một khoảng vắng lặng không một bóng người. Còn đang ngẩn ngơ thì chú Trần, nhân viên gác cổng ở chung cư đã lên tiếng:

"Tiểu Ảnh, về rồi đấy à?".

"Vâng! Chú Trần hôm nay trực đêm ư?".

"Ừ, Tiểu Ảnh, mới rồi cháu làm gì ở đằng đó thế? Đứng đây thấy cháu cứ đứng yên một mình mãi, chú còn tưởng có chuyện gì kia. Nếu như cháu không đi về đây, chắc chú đã phải chạy ra xem có chuyện gì rồi".

"Ở đâu ạ?".

Tôi giật thót người, phòng bảo vệ khu đô thị nằm đối diện với con đường mà tôi vừa đi qua, bây giờ là buổi tối, khoảng cách hai mươi mét thì có thể nhìn thấy tôi rất rõ, thậm chí xa hơn cũng vẫn nhìn thấy được. Thế nên mới rồi tôi đứng trên đường nói chuyện với thiếu phụ họ Lạc, chú Trần không thể chỉ trông thấy tôi mà không nhìn ra chị ấy.

"Ở chỗ đó ấy, cạnh bụi hoa hồng kia kìa!".

Tôi giật mình, chú Trần không nhìn thấy chị Lạc thật ư? Chị ấy mặc áo màu trắng, nếu như nhìn thấy tôi thì không thể nảo lại không nhìn thấy chị ấy được. Tôi đành tự an ủi mình, người phụ nữ đó thấp hơn tôi chừng năm phân, có lẽ tầm nhìn của chú Trần đã bị tôi che khuất. Cũng có thể là thị lực của chú Trần không tốt lắm. Tôi tặc lưỡi cho qua, sau khi chào tạm biệt chú Trần bèn cất máy nghe nhạc vào trong túi, sợ lại gặp chuyện gì kỳ quái nữa.

"Bà ơi, cháu về rồi!".

Hàng ngày, việc đầu tiên khi về đến nhà và việc cuối cùng tôi làm khi ra khỏi cửa là chào bà nội.

"Mau đi tắm đi, mồ hôi ướt hết áo rồi, mùi hôi chết đi được".

Bà nội là một người ưa sạch sẽ, mỗi khi tôi đi ra ngoài quay về thế nào cũng phải tắm, dù chỉ đi có nửa giờ cũng vậy. Lũ bạn tôi đều biết chuyện này nên phần lớn không thích đến nhà tôi chơi, bởi lần nào bà cũng chỉ đạo ngồi thế này không được, ngồi thế kia không được. Ngay cả tôi nhiều lúc còn không chịu được sự gò ép đó của bà chứ đừng nói là mấy đứa bạn, thế nên ở nhà thường chỉ có hai bà cháu, vắng tanh vắng ngắt. Nếu tính chi li ra, thì sự sạch sẽ của bà chỉ bắt đầu có từ sau khi ông nội biệt tăm.

Lúc tắm xong đi ra, bà nội đưa một nén hương cho tôi. Bà theo đạo Phật nên trong nhà có thờ một bức tượng Bồ Tát, nói là để trừ tà, cầu bình an. Bà còn bắt tôi hàng ngày mỗi khi về nhà phải thắp một nén hương, bản thân bà thì đều đặn như cơm bữa không bao giờ quên một buổi, bởi vậy trong phòng khách nhà tôi bốn mùa đều tràn ngập mùi đàn hương. Thắp hương xong, tôi ngồi xuống ghế sa lon xem ti vi cùng bà. Nghĩ đến việc hôm nay gặp chiếc áo xường xám truyền kỳ đó, lại thấy trong lòng ngứa ngáy, muốn hỏi nhưng không dám hỏi, cuối cùng thì sự tò mò vẫn chiếm thế thượng phong. Tôi ngồi dịch lại gần bà.

"Dạo này đang có mốt phục cổ bà ạ, những người đến cửa hiệu đặt may xường xám đều không thích mấy kiểu dáng mới nữa".

Tôi giả bộ nói một cách hết sức tình cờ, liếc mắt nhìn trộm phản ứng của bà.

"Vậy thì cháu làm theo mấy kiểu dáng cũ cho họ", trông bà nội rõ ràng là đang buồn ngủ, nói xong liền ngáp.

"Bà ơi, bà bảo là ông chưa từng nhìn thấy tấm kỳ bào đó ư?". Tôi sợ bà vào gi.ường đi ngủ nên không quanh co làm gì nữa, hỏi thằng vào vấn đề.

"Tấm kỳ bào nào?".

"Chính là Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào ấy!".

"Lại nhắc đến cái thứ đó, bà đã bảo cháu là không được nhắc đến nó nữa cơ mà!".

Bà sầm mặt lại, gỡ cánh tay tôi đang ôm vòng quanh lưng mình ra rồi ngồi dịch sang đầu bên kia của ghế sa lon, khuôn mặt nặng nề u ám. Chỉ có khi cực kỳ tức giận bà mới không thèm để ý đến tôi như vậy, tôi thụt thụt đầu lưỡi, tự rủa mình nóng vội.

"Được rồi, được rồi, cháu không nhắc đến nữa được chưa? Bà không được giận nữa nhé! Sẽ có thêm nhiều nếp nhăn, già thì không đẹp nữa đâu. Cháu đi ngủ trước đây, ngày mai còn phải dậy sớm nữa". Tôi trơ mặt xông đến ôm chặt lấy bà, ghé sát môi vào má bà rồi hôn một cái. Có vẻ như cơ thể đang cứng ngắc của bà mềm dịu lại hơn một chút, người bà thương nhất là tôi, hễ khi nào bà giận, tôi chỉ cần nũng nịu một chút là bà hết bực ngay.

"Nha đầu chết tiệt, lại trêu chọc bà già này. Mau đi ngủ đi! Nhớ đóng cửa sổ vào đấy!".

Bà dùng ngón tay trỏ dí vào trán tôi với vẻ yêu chiều. Nhìn thấy khuôn mặt bà đã quang đãng, tôi thở phào một hơi nhẹ nhõm. Dù rằng thường ngày không nói ra, nhưng tận đáy lòng bà thật sự không muốn nghe bất cứ chuyện gì liên quan đến ông nội tôi. Thế nên dù có tò mò đến mức nào, tôi cũng đành nuốt ngược vào trong bụng.

"Cháu biết rồi!".

Đóng cửa phòng ngủ lại, tôi nhảy phắt lên gi.ường, duỗi tấm lưng mỏi nhừ ra một cách khoan khoái: "Nhớ sự ấm áp của mày thật đấy!".

Chiếc gi.ường mềm mại quả thực vô cùng dễ chịu, mùi đàn hương bên ngoài phòng khách lọt qua khe cửa bay vào, dường như mang theo cả hơi thở của Phật, khiến tôi nhanh chóng chìm sâu vào giấc ngủ.

Vì sao tôi đang khóc? Cổ họng co rút lại, trong lòng không thấy buồn thương, mà nước mắt lại không sao ngăn nổi. Vừa khóc tôi vừa nhìn khắp xung quanh, khi cúi đầu xuống bỗng phát hiện ra mình đang mặc một chiếc áo dính đầy máu tươi. Nhìn quanh gian phòng một lần nữa, đó không phải là phòng ngủ quen thuộc của tôi. Khung cửa sổ được làm bằng gỗ, ánh trăng chiếu qua làm nổi bật chữ "Hỷ" cỡ lớn dán trên mặt cửa. Tôi đứng lên, phát hiện trên bàn đang trải rộng một tấm kỳ bào, tay lỡ, xung quanh gấu viền hoa, ngực áo là một đóa uất kim hương được thêu tay bằng chỉ màu, cửa tay bọc nẹp vàng màu vỏ quýt. Khuy trên cùng của tấm kỳ bào là một viên ngọc trai nhỏ tinh tế. Kích cỡ viên ngọc trai đó chừng bằng móng tay út, màu đã hơi ngả vàng.

Ấy, đây chẳng phải là chiếc "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào" mà thiếu phụ học Lạc đó đã mang đến nhờ tôi sửa hay sao? Ở một không gian xa lạ như thế này lại trông thấy một vật tạm coi là quen thuộc, tôi thấy lòng mình cũng bình tĩnh lại.

"Két...".

Cánh cửa gỗ bị ai đó đẩy ra. Một cô gái chừng mười tám mười chín tuổi bước vào, mái tóc được tết theo kiểu thời Dân quốc, mặc bộ quần áo màu đỏ hệt như máu trên người tôi. Thấy tôi, cô ấy liền nói:

"Tiểu thư mau trang điểm đi, trời sắp sáng rồi!".

"Không!".

Tôi hét toáng lên, đây là cái nơi quỷ quái nào vậy? Tôi đang ở đâu đây? Lẽ nào, lẽ nào tôi vừa ngủ đã đi ngay vào một đường hầm thời gian? Nhưng tôi không có tiền ở đây, với lại còn một mình bà tôi thì ai chăm sóc?

"Tiểu thư, tiểu thư đừng nghĩ đến chuyện đó nữa! Đây là số mệnh!".

Cô gái đó mắt đã đỏ hoe, nước mắt chỉ chực tuôn rơi. Tôi càng không hiểu ra làm sao cả, đây là nơi đâu? Vì sao tôi cảm thấy xa lạ đến thế? Nhưng mà không khí đang chuyển dịch quanh đây vì sao lại có vẻ quen thuộc mà bi thương như vậy chứ?

Cô gái đó bắt đầu chải tóc cho tôi, vừa chải vừa lẩm bẩm:

"Đã chải thì chải đến cuối cùng...".

"Dừng lại, tôi không cần cô chải tóc cho tôi, cô cho tôi ra khỏi đây!".

Cảnh tượng này thực sự quá đáng sợ, nước mắt của cô ta như đang tuyên bố một bi kịch nào đó, nó khiến người ta đau lòng tới mức không sao dừng lại được. Tôi đẩy cô ta ra rồi đứng dậy.

"Tiểu thư, một lúc nữa là kiệu hoa của nhà họ Trần đến rồi, tiểu thư không thể không xuất giá. Đây là số mệnh của những người con gái trong nhà chúng ta, không thể nào tránh được. Cuộc hôn nhân này đã được định đoạt từ khi tiểu thư còn nhỏ, tiểu thư hãy nghĩ lại đi. Chuyện của tiểu thư và Liễu thiếu gia không thể nào thành được đâu, hơn nữa anh ta nghèo như vậy, có thể đem lại một cuộc sống tốt cho tiểu thư hay không?".

Đứa con gái xấu xa đó muốn kéo tôi lại, tôi hất tay cô ta ra rồi túm váy lên, bỏ chạy ra ngoài song cũng không biết chạy đi đâu. Trong bóng tối mờ mờ dường như có ai đó đang dẫn dắt con người tôi, trái tim tôi, thậm chí đến cả nước mắt của tôi cũng bị kiểm soát, nó tuôn ra một cách tự nhiên, không biết vì sao mình lại đau buồn đến vậy. Chạy xuyên qua một rừng cây, trước mặt đã là con sông rộng mênh mông, hai bên bờ đèn hoa rực rỡ, trên sông là vô số thuyền đánh cá, phía chân trời hơi phớt một màu xám tro. Trời đã sắp sáng rồi, nhưng đây là đâu kia chứ? Tôi thở dốc, trong khoảng rừng đen sẫm phía sau đã thấp thoáng ánh đuốc như những vì sao đang dịch chuyển, loáng thoáng có tiếng người kêu thét: "Bắt nó lại, không cho nó chạy!".

Khi tôi còn đang ngẩn ra thì một đám đông đã lao tới trước mặt. Một người đàn ông lớn tuổi chỉ tay vào tôi run run nói:

"Người là đồ bất hiếu, sau này nhà chúng ta biết đối mặt với nhà họ Trần thế nào đây?".

Ông ta vừa nói xong, đã vung tay tát tôi một cái khiến tôi ngã sóng xoài ra đất. Cơn đau từ trên má bắt đầu lan đi, tôi trợn tròn mắt định mắng lại ông ta.

"Không, con không lấy anh ta! Suốt đời cha chỉ quan tâm đến mỗi cái thể diện, cha hãy gả cái thể diện đó cho anh ta là được rồi!".

Một giọng nói vang lên bên cạnh tôi, quay đầu nhìn sang, tôi nhận ra không biết từ khi nào đã có thêm một thiếu nữ khác, khuôn mặt thanh tú, trên người mặc bộ áo cưới mà tôi vừa mặc. Cúi đầu nhìn xuống, trên người tôi đã lại là bộ quần áo ngủ của mình.

"Ngươi, ngươi, ngươi!". Người đàn ông đó tức giận tới mức không nói được nên lời, lại vung tay tát thêm cái nữa.

"Con có chết cũng sẽ không lấy anh ta!".

Thiếu nữ nói xong liền quay người nhảy xuống sông. Tôi đưa tay ra muốn giữ cô ấy lại, nhưng bàn tay đã vuột qua góc vạt áo, không làm sao giữ được, kinh hãi trơ mắt ra nhìn cô ấy rơi thẳng xuống sông. Ánh đèn ở hai bên dường như tối lại, trên bờ bỗng nhiên rơi vào một khoảng lặng vô thanh, ngay cả người đàn ông mới rồi còn hùng hùng hổ hổ cũng đột nhiên bạc nhược ngồi sụp xuống.

Mặt sông vỡ toang ra làm nước bắn tóe cả lên mặt tôi, trong chớp mắt người thiếu nữ đã chìm xuống nước, tấm áo tân hôn cô ấy mặc trên người còn dập dềnh trong chốc lát rồi cũng mất hút không nhìn thấy nữa. Tôi vừa khóc vừa gào lên:

"Đừng...".

"Tiểu Ảnh, Tiểu Ảnh, cháu làm sao thế? Mơ thấy ác mộng à?". Là tiếng của bà nội, tôi mở to hai mắt, thấy bà đang ngồi trên đầu gi.ường, dùng khăn thấm nước lau mồ hôi trên trán cho tôi.

Vẫn chưa hoàn toàn tỉnh hẳn khỏi cơn mộng dữ, tôi khẽ thì thầm:

"Không sao đâu bà! Chỉ là một giấc mơ thôi".

Tim đập thình thịch, mồ hôi lạnh không ngừng túa ra, tôi nhõm dậy đi vào nhà tắm rửa mặt, thấy ngực mình vẫn phập phồng dữ dội.

Khi quay về phòng ngủ, đi ngang qua phòng khách, ngửi thấy mùi đàn hương, nhìn thấy hai ngọn đèn được làm thành hình ngọn nến thắp hai bên bức tượng Quan Âm, lòng tôi chợt yên ổn lại. Lúc ấy mới hiểu vì sao bà lại theo đạo Phật, hóa ra tín ngưỡng có khi cũng là một sự gửi gắm, có thể giúp chúng ta xua đi những thứ vướng bận trong lòng.

Thấy hương trong bát đã gần cháy hết, tôi lấy ra ba que mới rồi châm lửa đốt.

Khói hương cuộn bay lên, những nỗi sợ hãi trong giấc mộng cũng dần dần tiêu tán theo làn khói mỏng.
 
CHƯƠNG 3 - ẢO GIÁC
Vân Phong đưa tôi về, khi đi qua bụi trúc rậm rì ấy, tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng giày cao gót, còn tưởng rằng Thanh Lâm đi theo tiễn chúng tôi, nhưng khi quay đầu nhìn lại chỉ thấy một bóng người màu trắng đứng ở đầu bên kia vườn trúc, trông hơi quen nhưng không phải Thanh Lâm, cũng không phải Hà phu nhân. Vân Phong thấy tôi quay đầu lại, cũng quay theo nhìn ra đó nói: "Em nhìn gì thế? Có ai đâu."

Đêm hôm đó tôi ngủ không yên giấc, cơn mộng mị ấy cứ trở đi trở lại. Nhưng khi tỉnh dậy, cảm giác ký ức rất mơ hồ, nhất là cô dâu khóc lóc rồi nhảy xuống sông đó, cố thế nào cũng không thể nhớ ra khuôn mặt.

Trời vừa sáng tôi đã đến cửa hàng, đây là lần sớm nhất kể từ khi bắt đầu mở hiệu. Chưa tới mười giờ tôi đã khâu xong chiếc kỳ bào mà thiếu phụ họ Lạc kia mang đến. Làm thêm mấy việc lặt vặt khác nữa, cũng vẫn chưa tới mười hai giờ. Vì đêm qua ngủ không ngon giấc nên vừa làm được mấy việc tôi đã cảm thấy mệt mỏi, bèn pha một cốc trà rồi nằm xuống ghế mây. Ánh nắng mặt trời bên ngoài cửa hiệu chiếu thẳng vào trong, rải một lớp vàng trên quần áo. Tôi nhìn những bộ xường xám treo trên giá, liên tưởng tới những cảnh mộng còn lưu lại trong trí nhớ của mình, sau đó tôi lục tìm lại trong đống áo xống chiếc xường xám cổ trong truyền thuyết, lòng chợt dậy lên một cảm xúc vô cùng phức tạp.

Trước khi trông thấy nó, tôi từng mơ sẽ được nhìn thấy nó không biết bao nhiêu lần. Nhưng giờ phút này, khi nó được treo trong đống hàng mẫu kia, tôi lại nhận ra nó vốn không có điểm gì nổi bật. Nói về màu sắc, nó không tươi sáng bằng màu hồng đào, độ thuần khiết không bằng màu trắng bạc, độ nhã nhặn không bằng tím phớt. Luận về kiểu dáng cũng không thể bằng kiểu dáng tân thời, nhiều dáng xường xám ngày nay có thể coi là cổ kim kết hợp, những tấm áo dài được pha trộn với yếu tố hiện đại trông sinh động không hề ít. Nếu là áo dài thì mặc vào trông tao nhã, áo ngắn trông vui tươi, nhất là cũng không cầu kỳ về vóc dáng như khi trước. Dù là ở sân bay, cũng có thể tìm thấy một tấm xường xám phù hợp với vóc người mình, mặc vào cũng duyên dáng như thể được may đo.

Thế nên tôi mới thấy hơi thất vọng, nói cho cùng thì nó từng là mơ ước của ba thế hệ trong gia đình tôi, in dấu trong tâm trí chúng tôi suốt mấy chục năm. Nhìn thấy nó, tôi coi như đã hiểu được thế nào là hy vọng càng lớn thì thất vọng càng nhiều. Thứ mà nó hơn những chiếc xường xám khác có chăng chỉ là trải nghiệm thời gian. Cũng giống như tứ đại mỹ nhân thời cổ, người người đều gán cho họ những lời tán dương đẹp nhất, khiến các cô gái đẹp thời nay cũng không thể nào thoát được khỏi dấu ấn mà họ đã để lại với thời gian. Những từ ngữ mà người ta dùng để hình dung về những cô gái đẹp ngày nay cũng chỉ là cơm thừa canh cặn mà họ đã dùng qua. Có lẽ, nếu như bọn họ thực sự đi ra từ lịch sử, thì cũng chỉ trông hết sức tầm thường mà thôi.

Tôi ngồi tựa vào chiếc ghế mây bùi ngùi mất một lúc lâu. Nghĩ đến ông nội lại thầm cảm thấy sự ra đi của ông không chừng cũng có dính dáng đến chiếc áo xường xám này. Có thực là ông chưa từng trông thấy chiếc áo không? Nếu như một ngày ông nhìn thấy nó, liệu ông có cảm thấy sự theo đuổi suốt một đời mình quả là không đáng, như tôi đang cảm thấy lúc này hay không? Nghĩ tới những tháng năm uổng phí vì nỗi ám ảnh ấy, liệu ông có hối tiếc?

Tôi nhắm mắt lại, liền trông thấy đôi mắt hiền từ của ông. Dù rằng bà nội đã đốt hết tất cả các tấm ảnh cũ, nhưng tôi vẫn nhớ được khuôn mặt lẫn dáng vẻ của ông. Tôi tin chắc rằng ông vẫn đang sống trên thế gian này, cuối cùng cũng sẽ có một ngày ông quay về bên cạnh chúng tôi.

Chừng năm giờ chiều, cửa hàng vắng vẻ nên tôi bò toài trên quầy thu ngân ngủ gật.

"Kính coong!". Tiếng chuông gió vang lên giòn tan bên ngoài cửa. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, thấy một đôi trai gái đứng ngược sáng đang đẩy cửa đi vào. Nam thanh niên đó hất mái tóc buông rủ trước trán với điệu bộ hết sức cẩu thả.

"Chị, em đến mượn mấy chiếc xường xám!", nói rồi cậu ta tự mình lật giở hàng mẫu bầy bên trong cửa hiệu, thái độ không hề có vẻ khiêm nhường của người đến mượn, thậm chí còn tùy tiện hơn cả đến cửa hàng của chính mình.

Nó là đứa em trai cùng cha khác mẹ với tôi, An Úy Bân, chỉ nhỏ hơn tôi ba tháng tuổi, là con riêng của bố tôi, qua đó có thể đủ thấy bố tôi đa tình thế nào. Khi còn nhỏ tôi hận ông ấy vô cùng, nhưng lúc tôi được ba tuổi ông ấy đã chết trong một tai nạn máy bay, từ đó tôi không còn cảm giác thấy nỗi hận thù vốn chất đầy trong lồng ngực nữa, tôi cũng không biết trút bầu tâm sự ra đâu, đành uất ức tích lại trong lòng. Sự sống dù đã sớm kết thúc, song nỗi đau mà ông để lại cho tôi vẫn kéo dài tới tận bây giờ.

Người đi cùng ông trong chuyến bay đó là mẹ của đứa em này, khi đó là một minh tinh màn bạc nổi tiếng. Cho tới tận hôm nay tôi vẫn không hiểu tại sao bà ấy lại thích bố tôi, mặc dù ông cũng có thể coi là đẹp trai, nhưng lại không hề giàu có, chỉ là một nhà biên kịch giỏi ăn nói. Vậy mà bà ấy đã chấp nhận từ bỏ hết danh lợi để sinh con cho ông. Đó là tình yêu ư? Vậy thì mẹ tôi được coi là gì? Sau khi bố tôi chết, mẹ luôn chìm đắm trong buồn bã, cuối cùng mắc chứng trầm cảm rồi tự sát. Cho đến tận lúc chết bà vẫn yêu bố tôi – người đàn ông đã thay lòng đổi dạ ấy. Ba người bọn họ ai cũng yêu tới mức điên cuồng. Bố tôi và người phụ nữ kia thì bất chấp tất cả điều tiếng của thế tục để được ở bên nhau, còn mẹ tôi thì sao? Yêu tới mức nhẫn nhịn tất cả, yêu đến phát điên, đến ngay cả tôi, giọt máu duy nhất cũng không sao giữ nổi bà ở lại.

Bà nội rất mực yêu mến một người con dâu như mẹ tôi, thế nên khi biết đến sự tồn tại của đứa chái Úy Bân này, bà nhất quyết không đồng ý để nó bước vào cửa nhà họ Lý, thậm chí không cho phép nó mang họ Lý. Ngay đến cả bố tôi cũng bị bà đuổi khỏi nhà. Khi ấy, trong mắt những người cùng thế hệ, hành động đó được coi là không thể nào tưởng tượng nổi, bởi vì Úy Bân là đứa cháu trai duy nhất của bà, là người nối dõi tông đường nhà họ Lý. Thế nên hồi đó cũng có rất nhiều lời đồn đại, phổ biến nhất là luận điệu bố tôi không phải con đẻ của bà.

Thậm chí đến sau khi ông nội tôi bỏ nhà đi, cũng có rất nhiều lời đồn đoán được thêu dệt, chẳng hạn như ông bỏ đi vì không chịu được sự chuyên chế và lòng dạ rắn độc của bà. Sự phong lưu của bố tôi ban đầu bị người ta khinh rẻ sau cũng trở thành thứ để bọn họ cảm thông, nên đối tượng bị chỉ trích đã trở thành bà nội và mẹ tôi. Người đời thêm thắt đặt điều, thế nên hai năm sau ngày ông nội bỏ đi, bà mang theo tôi, dùng tiền tích cóp cả đời mua một căn nhà khác, tránh xa cái không gian sống quen thuộc cũ.

Hồi nhỏ tôi cực kỳ căm ghét đứa em trai này, bởi vì chính mẹ nó là người đã khiến gia đình tôi tan vỡ.

Khi bắt đầu đi học, bà nội lo tôi vì chuyện của gia đình mà bị người ta khinh rẻ ở trường, thế nên cố tình cho tôi theo học tại một trường trái tuyến không ai quen biết. Đúng là oan gia ngõ hẹp, tôi vô tình học cùng lớp với An Úy Bân, dường như đó là sự chủ định rằng cuộc đời tôi và nó sẽ còn dính dáng đến nhau.

Nó mang họ An của mẹ. Sau khi bà ấy chết, nó được gia đình nhà ngoại nuôi dưỡng, dù bên đó giàu có, nhưng lại thiếu thốn tình cảm. Chúng tôi vẫn biết thân phận của nhau, nó cũng luôn muốn tiếp cận với tôi, nhưng tôi thường xuyên gây mâu thuẫn. Tôi ghét xuất thân của mình, mỗi lần nhìn thấy bọn bạn học được bố mẹ yêu chiều đưa đón, sự căm ghét của tôi với nó lại tăng lên thêm một chút. Khi lớn hơn, mới chớm biết yêu, có đứa bạn cùng lớp trêu:

"Tiểu Ảnh, trông khuôn mặt cậu với Úy Bân nhang nhác giống nhau, cả hai lại cùng mồ côi cha mẹ, cũng coi như là môn đăng hộ đối, từ nhỏ hắn lại bám riết sau lưng cậu hệt như con ký sinh trùng, hê hê...".

Đứa bạn học đó cười đầy ý tứ sâu xa, còn chưa nói hết câu đã bị tôi lao đến nện cho một trận tơi bời. Từ đó trở đi, không đứa nào dám trêu chọc tôi nữa, còn nó, vẫn cứ lẵng nhẵng bám theo tôi như trước, có khi tôi tức điên lên được, những câu từ độc địa nhất đều nói ra miệng. Sau này nghĩ lại, vẫn còn may, nó không vì thế mà rời bỏ tôi.

Cho đến năm chúng tôi mười sáu tuổi, mới bước vào năm đầu trung học. Lần đó cả lớp đi chơi tết ở Hàng Châu, tôi và đứa bạn gái vì mải chơi, không cẩn thận nên ngã xuống Hồ Tây. Cả một đám trẻ mới lớn đứng đó bó tay không biết làm thế nào, chỉ có mình nó không kịp nghĩ ngợi gì đã nhảy ào xuống nước để cứu tôi, mà nó không những không biết bơi, lại còn mắc chứng sợ nước dạng nhẹ. Cuối cùng, chúng tôi được người qua đường cứu sống. Con người vốn là động vật có tình cảm, vào cái khoảnh khắc mà Úy Bân nhảy xuống nước ấy, tôi thực sự cảm động. Cũng bắt đầu từ khi đó, tôi mới thừa nhận nó là em mình, tình cảm cũng ngày càng tốt đẹp lên, tuy nhiên trong đám bạn thân, ngoài Hà Thanh Lâm ra thì không ai biết quan hệ giữa chúng tôi. Để bà nội cũng thừa nhận Úy Bân, tôi thường nói tốt cho nó những lúc thì thầm to nhỏ với bà, song đã gần mười năm rồi mà tất cả sự nỗ lực của tôi vẫn uổng công, bà không chịu coi nó là cháu nội. Hễ nói nhiều, bà sẽ sa sầm mặt xuống mà nói:

"Bà sẽ vĩnh viễn không bao giờ quên được vì sao mà mẹ cháu lại ra đi".

Câu nói ấy đúng là thứ vũ khí giết người, là vết thương không bao giờ chữa khỏi trong tâm hồn chúng tôi. Khi bà nói ra, nó đau. Khi lọt vào tai tôi, lại càng đau. Thế nên tôi cũng không miễn cưỡng mong họ sẽ sống cùng với nhau trong phần đời còn lại nữa. Chỉ cần bọn họ đều sống khỏe mạnh đến trăm tuổi, là tôi đã cảm thấy thỏa mãn rồi.

Những lúc muốn tìm tôi, Úy Bân chỉ có thể đến cửa hiệu này.

Hồi đại học, Úy Bân học nhiếp ảnh, còn tôi học thiết kế. Hiện giờ nó cũng mở một studio ở nhà, thường đến đây mượn trang phục của tôi. Tuy nhiên cũng phải nói thực, tôi có thể mở cửa hiệu xường xám này, ngoài sự giúp đỡ của Thanh Lâm và Vân Phong, thì một phần khách đến đây cũng bắt nguồn từ nó.

Trừ bà nội ra, ba người này là ba người tốt nhất với tôi, cũng đồng thời là ba người quan trọng nhất trong cuộc đời tôi.

Tôi cười, nói đùa với Úy Bân: "Trang phục ở cửa hiệu này không cho mượn, chỉ bán. Tuy nhiên vì là chỗ người quen, nên chị sẽ cho em thuê, về giá cả thì cũng sẽ ưu đãi chút ít".

"Xì, chị gái của em mà lại nhỏ nhen đến thế à? Cứ như trong mắt chỉ có tiền thôi ấy!". Vừa nói, nó vừa đi đến giá treo xường xám để chọn đồ, sau đó tiếp tục ba hoa:

"Gần đây không biết ở đâu ra cái mốt phục cổ, bao nhiêu người đến studio chụp ảnh đều nói muốn mặc xường xám, y phục đời Đường hay xiêm áo trong cung cái gì gì đó. Chị, lúc nào rỗi may cho em mấy bộ đời Đường có được không? Ừm, còn cả xiêm áo trong cung cũng cần, con mắt nghệ thuật và tay nghề của chị thì em yên tâm rồi".

"Em đừng có mà lừa gạt chị, lúc này cần giúp thì mới gọi một tiếng chị, còn khi không có việc gì lại Đại Ảnh, Tiểu Ảnh gọi bừa ra. Hơn nữa, chỗ chị là cửa hiệu xường xám, may những thứ đó ra rồi lại đủ thể loại đến tìm, thượng vàng hạ cám hỗn loạn cả lên. Chỉ được cái xúi giục người ta!".

Tôi đứng dậy đi ra bình đun nước, pha hai cốc trà đưa cho Úy Bân và cô gái đi cùng với nó: "Em uống nước đi, cứ xem thoải mái! Trong cửa hiệu hơi lộn xộn, ngày thường có mỗi mình chị lo liệu nên cũng chẳng có thời gian rỗi để thu dọn, em chịu khó một chút nhé!".

"Chị, gọi cô ấy là Tiểu Cổ được rồi!", Úy Bân ngước mắt lên, tiếp lời tôi:

"Hơn nữa, kinh doanh gì mà lại cứng nhắc thế này. Cũng là may áo xống, khả năng thì vẫn vậy, giờ chỗ nào chẳng treo đầu dê bán thịt chó, chị làm sao mà phải thật thà đến vậy?".

Nghe xem, nói năng kiểu gì thế? Tính cách của nó vẫn thẳng thắn như thế, có việc đến tìm tôi giúp mà cũng chẳng thèm nói mấy câu dễ nghe hơn một chút, khiến tôi dở khóc dở cười. Tuy nhiên ai bảo tôi chỉ có một đứa em trai này cơ chứ? Tôi cười lắc đầu, không thèm để ý đến nó nữa.

"Cảm ơn chị!". Tiểu Cổ nhận lấy cốc trà rồi nhìn tôi cười. Cô ấy trông rất đẹp, dáng người thanh tú, mái tóc dài mềm mại buông trên vai, nhìn hết sức dịu dàng, đúng là kiểu người mà Úy Bân thích. Tiểu Cổ đưa cốc trà lên mũi hít hai hơi, sau đó khen: "Trà thơm quá! Đây là trà gì hả chị?".

"Trà Phổ Nhị của Vân Nam đấy, uống nhiều có thể giảm cân, cũng có nhiều công dụng tốt cho dạ dày nữa".

Thực ra trà Phổ Nhị vốn không thơm mấy, khi pha, nước trà có màu hơi giống thuốc bắc, tuy nhiên khi uống thì lại cực kỳ vừa miệng. Nghe thấy Tiểu Cổ hỏi vậy, tôi biết ngay cô ấy cũng là một người khéo léo nhanh nhẹn, ra ngoài xã hội chắc chắn rất được chào đón, cũng coi như bù đắp được những chỗ thiếu sót trong tính cách của Úy Bân.

"Nếu vậy em cũng sẽ đi mua một ít trà về uống". Tiểu Cổ nhấp một ngụm, lông mày hơi chau lại. Thấy ngay là bình thường cô ấy rất ít khi uống trà, chắc chắn là một cô gái làm hư dạ dày bằng nước ép trái cây với sữa bò mất rồi.

"Dòng trà này cũng chia thành hai loại ngon dở, loại trung bình thì khoảng hơn một trăm tệ nửa cân, loại thượng hạng thì đắt hơn thế nhiều, tuy nhiên uống quen trà ngon rồi thì loại bình dân rất khó lọt miệng. Uống trà cũng có thể mắc nghiện đấy, mua trà này cũng phải xem cho kỹ, có loại dù bán giá cao nhưng chưa chắc đã là hàng tốt. Còn nữa, uống trà cũng phải nắm vững được trình tự, pha trà vào cốc như chúng ta đây là kiểu cho trâu bò uống, cũng khiến giá trị của trà bị giảm đi nhiều...". Bình thường tôi ít nói, nhưng khi nhắc đến chủ đề trà, đều không kìm nổi muốn ba hoa mấy tiếng.

"Ôi, chị đừng có làm hại cô ấy. Trà ngon thế này!", Úy Bân chen miệng vào nói tiếp: "Cô ấy chỉ quen uống những thứ đồ đóng chai thôi, từ nhỏ tới giờ đã uống trà này bao giờ đâu, có lần em mua cho một chai trà xanh còn kêu đắng cơ mà".

"Người ta không biết cách học uống hay sao?". Tiểu Cổ đưa tay trái ra kéo kéo cánh tay Úy Bân. Nhìn bộ dạng thân thiết của hai người đó, biết ngay Tiểu Cổ là bạn gái mới của Úy Bân. Đứa em trai này của tôi điểm gì cũng tốt, song lại mang cái tính phong lưu di truyền của bố tôi, rất dễ thay lòng đổi dạ. Nó thay bạn gái nhanh như thay áo, khi tôi chê trách nó cũng chẳng buồn phản đối, chỉ bảo vẫn chưa gặp được người phù hợp với mình. Nhìn bộ dạng cuống lên của Tiểu Cổ cũng biết cô ấy đang cố tìm cách lấy lòng tôi, chắc chắn là rất yêu Úy Bân rồi. Úy Bân đưa tay ra cọ cọ vào mũi cô bé, rồi ôm luôn vào lòng. Đây là lần đầu tiên Úy Bân thân mật như vậy với một cô gái trước mặt tôi, những cô bạn gái trước đây nó thường tỏ vẻ thờ ơ. Xem ra, lần này đã thực sự gặp được người hợp ý rồi.

Tôi cười, nói đỡ cho Tiểu Cổ: "Những người biết thưởng trà không phải là loại trà nào cũng thích, người không uống trà không có nghĩa là loại trà nào cũng không thích uống. Cũng như hứng thú và sở thích, thường chỉ có một hai thứ phù hợp với sở thích của mình".

"Đúng vậy, đúng vậy, em thích uống loại trà này mà!". Tiểu Cổ ra sức gật đầu phụ họa.

"Reng reng...".

Đúng lúc đó, chuông điện thoại vang lên.

"Xin chào, đây là cửa hiệu Cẩm tú kỳ bào!". Tôi nhấc điện thoại lên.

"Đừng có mà chuyên nghiệp thế có được không? Tiểu Ảnh, mấy giờ thì cậu đến? Bọn họ sắp đến đông đủ cả rồi", là Thanh Lâm gọi đến thúc giục tôi.

"Đại tiểu thư, sáu giờ tôi đóng cửa có được không?".

"Được được, cậu nhanh lên nhé! Mình bảo lão Vương đến đón cậu nhé?". Lão Vương là lái xe của nhà Thanh Lâm.

"Không cần đâu, phiền phức quá. Mình tự gọi xe đến được rồi".

"Vậy thì ok! Cậu nhanh lên một chút, biết chưa? Bye bye!".

Gác máy xong tôi giục Úy Bân: "Em đã chọn xong chưa? Chị sắp đóng cửa rồi, hôm nay là sinh nhật mẹ Thanh Lâm, cô ấy đang giục đấy!".

"Xong rồi, lấy mấy chiếc này, cứ để em tự gấp được rồi". Úy Bân xếp từng chiếc vào trong túi xách mà nó mang theo.

"Em đừng làm nhăn đấy!".

Bởi vì mấy chiếc treo trên giá đều là hàng mẫu, lại thêm Thanh Lâm đang thúc giục gấp quá nên tôi cũng không kịp xem Úy Bân lấy những chiếc nào, quay đầu lại nói với nó và cô bé đi cùng: "Tiểu Cổ, không phải chị đuổi bọn em đi đâu nhé! Hôm qua đã hẹn với đứa bạn là hôm nay tới nhà cô ấy chơi, thật là ngại quá, lần sau em đến chị sẽ chuyện trò với em sau!".

"Không sao, chị bận việc mà. Bọn em đi trước đây!". Tiểu Cổ nhìn tôi cười hết sức ngọt ngào, cô bé này quả là biết nghĩ cho người khác. Tôi không khỏi thấy mừng thầm cho Úy Bân.

"Vậy thì hẹn gặp sau nhé. Có thời gian rảnh thì ghé chơi".

"Tạm biệt chị!".

Tôi chuyển cô manơcanh bằng nhựa bên ngoài cửa hiệu vào trong, sau đó dọn dẹp gọn gàng mọi thứ. Cốc trà Phổ Nhị trên bàn Tiểu Cổ chỉ uống có một ngụm nhỏ, trà vẫn còn chưa nguội hẳn, thoang thoảng mùi hương như có như không. Phải mang đi đổ, tôi thấy đau lòng mãi.

Lúc sắp đi chợt nhớ ra người thiếu phụ họ Lạc kia vẫn chưa đến lấy áo, lúc ấy cũng năm giờ bốn mươi rồi, dù gì cũng là sinh nhật của người lớn, đến muộn thì hơi thất lễ, song cũng ngại chị Lạc khi đến sẽ nghi ngờ về thái độ làm ăn của tôi. Vậy nên tôi đành viết một mảnh giấy nhỏ dán trước cửa, hẹn chị ấy ngày mai đến lấy.

Nhà Thanh Lâm là một nhà giàu có điển hình, chỉ riêng phòng khách thôi cũng đã lớn hơn cả nhà tôi.

Khi tôi đến biệt thự nhà họ Hà, đã sáu giờ mười lăm. Thanh Lâm cũng không mấy khi sống ở nhà, cô ấy bảo ở đó xa xỉ quá, lại lắm quy tắc này nọ. Bà ngoại Thanh Lâm là một nhân vật có tiếng trong giới thượng lưu ở Thượng Hải, trong mấy chục năm Trung Quốc rơi vào những biến cố rối ren lớn nhất đó, bà ấy vẫn có thể chèo lái cơ nghiệp nhà họ Hà vượt được qua hết mọi cửa ải khó khăn, đủ thấy tài năng đến cỡ nào.

Tuy ở trên thương trường thì thét ra lửa, nhưng khi về nhà bà lại rất dịu dàng mềm mỏng. Chỉ có điều từ trước đến nay bà vẫn quen gò ép người khác, giờ tuổi tác đã cao, song vẫn đặt ra vô số quy tắc, nhất là một loạt quy tắc với đứa cháu gái duy nhất, lúc nào cũng cái này không được, cái kia không được. Hà Thanh Lâm thì tùy tiện cẩu thả, làm sao chịu nổi sự trói buộc đó? Theo như cách nói của cô ấy, ở trong ký túc xá đại học là một cách để thoát khỏi móng vuốt của ma quỷ, nên sau khi tốt nghiệp dù có phải nhảy vào hố lửa, Thanh Lâm cũng nhất quyết không chịu quay về nhà ở nữa. Công việc cũng tự mình tìm lấy, làm phiên dịch cho một doanh nghiệp nước ngoài, cô ấy bảo là để trải nghiệm cuộc sống ngoài xã hội. Nào có ai biết nó lại là người thừa kế của tập đoàn Hà Thị?

Thanh Lâm đợi tôi ở cổng từ trước. Thực ra tôi rất thích tòa biệt thự của nhà Thanh Lâm, nhất là bụi trúc Tương Phi ngay trước cổng, gió thổi trúc reo, lắc lư nhảy múa, bất kể ngày hay đêm đều mang đầy phong vị. Còn nhớ lần trước khi tôi nói với Thanh Lâm về cảm nhận đó của mình, cô ấy đã làm mặt quỷ với tôi rồi nói mình sợ nhất bụi trúc đó, ban đêm nhìn hệt như bóng ma, mỗi khi có gió thổi qua là lại lao xao như tiếng quỷ gào. Khi lên tám tuổi, cô ấy nghịch ngợm chui vào bụi trúc này chơi trốn tìm với mẹ, đã từng nhìn thấy một người con gái mặc áo trắng, nhưng bà ngoại lẫn mẹ đều không tin. Thanh Lâm bảo rằng sau lần ấy, dù là đi qua đó vào ban ngày nhưng cô ấy vẫn cảm thấy chỗ này ảm đạm làm sao.

Thanh Lâm mang họ mẹ, con rể của nhà họ Hà đã năm đời ở nhà vợ, mỗi thế hệ cũng chỉ sinh được một người con gái. Còn nhớ mẹ Thanh Lâm từng đẻ được một đứa con trai, song không may chết yểu. Năm cô ấy mười lăm tuổi, người bố cũng qua đời vì xuất huyết não. Người già đều nói năm đó xấu, đó cũng là năm ông nội tôi mất tích.

Mẹ Thanh Lâm vừa trông thấy tôi đã kéo tay một cách thân tình rồi nói:

"Ôi, Tiểu Ảnh lâu rồi không đến chơi, càng ngày càng xinh ra đấy! Bà ngoại của Thanh Lâm cũng thường xuyên nhắc đến cháu với cô".

Tôi cười, đưa chiếc hộp đang cầm trong tay cho cô ấy: "Chúc cô sinh nhật vui vẻ!".

"Đến chơi là được rồi, còn phải tặng quà nữa". Mẹ Thanh Lâm cười rồi nhận lấy.

"Không có quà thì lấy gì để mẹ của con vui lòng đây? Mẹ mình yêu thương cậu cứ như cậu mới là con gái của bà ấy vậy. Hễ nhìn thấy mình thì lại nói mình không tốt điểm này, không được điểm kia". Thanh Lâm giật lấy hộp quà trong tay mẹ, nhanh tay mở ngay ra.

"Thanh Lâm, không có quy củ gì cả, để bà ngoại con nhìn thấy rồi lại mắng cho đấy!". Mẹ Thanh Lâm rất chiều con gái, dù ngoài miệng nói lới trách cứ, song trong giọng điệu lại chứa đầy sự thương yêu. Cả tính cách lẫn tướng mạo của cô ấy đều giống nhau, mềm mại tới mức không có một chút góc cạnh nào.

"Mình biết ngay là áo dài xường xám mà. Đẹp quá! Mẹ, màu này rất hợp với mẹ đấy. Mẹ đừng có mặc mãi những áo quần màu trắng nữa, thử màu này xem sao, lát nữa lên nhà thay đi nhé!". Thanh Lâm lấy tấm kỳ bào bên trong hộp ra. Mẹ Thanh Lâm xưa nay vẫn thích mặc màu nhạt, quần áo đều là màu trắng sữa, trắng bạc. Tôi vốn định tặng cô ấy một chiếc xường xám màu trắng, nhưng màu trắng lại không đủ vui vẻ, nên chuyển thành màu phấn hồng, màu này không quá rực rỡ mà cũng không tới nỗi trầm.

"Cháu vẫn sợ cô sẽ không thích nó".

"Sao thế được? Chiếc áo đẹp thế này. Đi thôi, chúng Tiểu Ảnh vào nhà đi!". Thanh Lâm khoác tay mỗi người một bên rồi đi vào phòng khách.

Tiểu Ngọc, Tiểu Xuyến, Vỹ Hào đã đến trước rồi. Trong đám khách khứa, tôi thấy Vân Phong cũng ở đó, cánh tay bị một cô gái xinh đẹp giữ chặt lấy, khuôn mặt lộ ra vẻ đắc ý. Tôi chỉ đứng từ xa nhìn họ, vụ cãi lộn mấy ngày trước khiến tôi không thể không xem xét lại tình cảm giữa hai bên, xem tình yêu bắt nguồn từ đâu? Có lẽ tôi ngày càng xa trái tim anh ấy, vốn tưởng rằng anh ấy sẽ gọi điện xin lỗi hoặc cũng nhờ Thanh Lâm làm thuyết khách, nhưng anh ấy không hề làm bất cứ điều gì.

Nhớ năm thứ tư đại học, có lẽ là mùa đông nhỉ? Không biết khi đó chúng tôi cãi nhau vì chuyện gì, nhưng tôi có thể nhớ rõ rằng mình đã gây hấn một cách vô lý, kiên quyết bắt anh ấy phải xin lỗi mình ngay trên đường. Sau đó, vì không thỏa mãn với thành ý của anh ấy, tôi giận dỗi bỏ về ký túc xá. Khi ấy hình như là thời điểm lạnh nhất của Thượng Hải, để tôi tha thứ, anh ấy đã đứng bên dưới khu nhà suốt cả buổi tối. Thời đó tình yêu còn cháy bỏng đến vậy, anh ấy có thể bỏ qua tất cả sự im lặng lầm lì, sự điên cuồng quá khích và cả sự ồn ào vô lý của tôi.

Tình cảm mãnh liệt ngày ấy đã bị thời gian dần dần gặm nhấm, chỉ còn lại sự mục ruỗng, không biết rồi còn giữ được bao lâu.

Có lẽ do cảm nhận được ánh mắt của tôi, anh ngước lên nhìn, sau khi thấy tôi, anh bèn buông tay cô gái đó ra và đi đến. Trái tim tôi chợt ấm lên, nhưng khi nhìn thấy bóng dáng anh mỗi lúc một gần, tôi đột nhiên ấm ức tới mức muốn trốn đi. Tôi đứng dậy đi ra ban công, anh rảo bước nhanh hơn rồi giữ lấy tay tôi từ phía sau, hơi thở phả lên cổ tôi: "Ảnh, đã hết giận chưa?".

"Không đi với bạn gái mới của anh à?", tảng băng cứng ngắc ở đáy lòng tôi tan chảy vì cái ôm khẽ của Vân Phong. Cảm thấy trong giọng điệu của mình mang đầy ý vị ghen tuông, tôi thầm chửi mình yếu đuối. Có lẽ tình cảm suốt ba năm trời không chỉ đơn thuần là yêu, mà còn là một thói quen nữa. con người có những lúc chẳng thể thay đổi được thói quen, không phải cứ nói "không cần" là từ bỏ được. Con người vẫn yếu lòng như vậy, có những khi, dù rất tức giận nhưng trong đầu luôn nghĩ đến những điểm tốt của người kia.

"Em định đi đâu? Cô ấy chỉ là con gái của bạn bố anh thôi, anh vẫn xem như em gái. Ảnh! Em nhìn anh đi, không cho em nghĩ ngợi lung tung. Hồi đó anh phải vất vả mới theo đuổi được em, làm sao có thể dễ dàng từ bỏ như vậy được?".

Anh khẽ khàng quay đầu tôi lại để tôi nhìn vào mắt anh, ánh mắt anh thành thực tới mức khiến cho mọi nghi ngờ trong tôi tan biến. Tôi còn đang muốn vặn lại thì...

"Anh Phong, đây là chị dâu đúng không? Đẹp quá!", là người con gái đi cùng Vân Phong đến đây, tay cô ấy bê một chiếc khay, bên trên đặt mấy chiếc đĩa đựng đồ ăn nhẹ. Cô ấy cười nhẹ nhàng với Vân Phong nhưng khi nhắc đến tôi, cũng không hề nhìn thẳng vào tôi. Miệng nam mô bụng một bồ dao găm, tôi cảm thấy buồn nôn, liền sa sầm mặt, ngay cả một nụ cười cũng tiếc không thèm cười với cô ta.

"Miệng lưỡi ngọt thật đấy!". Vân Phong đón lấy chiếc khay đựng đồ điểm tâm, cảm giác thấy tôi không thoải mái, nên bàn tay đang đặt ở eo tôi cũng siết chặt hơn: "Đây là em gái anh, Ngưng Hương".

"Chào em, chị là Lý Ảnh!". Cố gắng nén sự khó chịu trong lòng xuống, tôi gật đầu với cô ta.

"Chào chị, chị Lý! Thôi, em không làm phiền hai người nữa nhé. Anh Vân Phong khéo đang mắng em không biết tế nhị là gì rồi đấy". Ngưng Hương mím môi cười, vừa nó vừa nháy mắt với Vân Phong, nói xong mới mang chiếc khay trống quay lại phòng khách.

Vân Phong nói một tràng những lời tốt đẹp, chúng tôi lại vui vẻ như thường.

Vì lại hòa giải với Vân Phong nên cả buổi tối hôm đó tôi thấy rất vui.

Dù là tiệc sinh nhật của mẹ Thanh Lâm, nhưng đến cuối cùng lại trở thành vũ hội của đám thanh niên chúng tôi. Cả buổi tối không thấy bóng dáng bà ngoại Thanh Lâm đâu, Thanh Lâm nói bà bị cảm nhẹ, đã đi ngủ từ sớm rồi. Khi ra khỏi nhà Thanh Lâm đã là một rưỡi sáng, Vân Phong đưa tôi về, lúc đi qua bụi trúc rậm rì ấy, tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng giày cao gót, còn tưởng rằng Thanh Lâm đi theo tiễn chúng tôi, nhưng khi quay đầu nhìn lại chỉ thấy một bóng người màu trắng đứng ở đầu bên kia vườn trúc, trông hơi quen nhưng không phải Thanh Lâm, cũng không phải Hà phu nhân. Vân Phong thấy tôi quay đầu lại, cũng quay theo nhìn ra đó: "Em nhìn gì thế? Có ai đâu".

Tôi giật mình, sao anh ấy lại không trông thấy ai? Ra sức chớp mắt, đến lúc định thần, tôi nhìn lại thì chỉ thấy bên đó vắng tanh, đúng là không có ai thật. Bóng trúc lắc lư, gió thổi qua nghe tiếng lá kêu xào xạc, như tiếng rầm rĩ của linh hồn.

Tôi sợ tới mức bám vội lấy tay Vân Phong: "Phong, em quả thực có nhìn thấy người, một người phụ nữ mặc áo trắng!".

"Chắc chắn là em uống nhiều rượu nên hoa mắt rồi. Đi thôi. Không còn sớm nữa đâu!".

Vân Phong tỏ ra hơi thiếu kiên nhẫn, đưa tay lên nới bớt cà vạt, kéo tôi đi thẳng ra cổng chính.

Tôi còn quay đầu lại mấy lần, song không nhìn thấy bóng người đó nữa. Lẽ nào đúng là tôi đã nhìn nhầm?

Sau khi ra khỏi nhà họ Hà, mặt Vân Phong luôn xầm xì, lẽ nào chuyện nhỏ mới rồi đã khiến anh ấy không thoải mái? Cả hai người đều khó chịu, thế nên suốt dọc đường không ai nói một lời.

Khi về đến nhà, bà nội đã ngủ say, tôi nhón chân đi vào phòng mình. Vừa nhắm mắt lại, lập tức rơi ngay vào mộng cảnh, giấc mơ quái dị ngày hôm qua lại xuất hiện như một bộ phim nhiều tập.
 
CHƯƠNG 4 - GIẬT MÌNH
Chị ta đưa tay về phía tôi, những móng tay hôm trước vẫn còn để trơn hôm nay đã được quét lên một lớp sơn màu đỏ như máu, móng được sửa lại nhọn hoắt. Màu đỏ đó tương phản rõ rệt với màu trắng nhợt của những ngón tay, trông trùng hợp với một cảnh tượng nào đó trong ký ức của tôi. Tôi tưởng như hai bàn tay đó đã không còn đầy đặn như hôm trước nữa, da dù vẫn trắng nhưng lại hơi đờ đẫn, trên bàn tay trắng nhợt là những vết bầm tím xanh. Giống như, giống như... hồ máu tử thi.

Nước sông vàng vọt cuộn lên, gió lạnh thổi thê lương khiến cho những cây liễu rủ hai bên bờ sông không còn vẻ biếc xanh như bình thường nữa. tôi đứng bên bờ sông nhìn người ta tất bật, đàn bà thì khóc lóc than trời, đàn ông thì lo lắng vội vàng chạy đi chạy lại, cầm dây thừng, sào trúc, thang gỗ để mò dưới lòng sông. Không biết vì lạnh hay sợ hãi mà tôi bất giác quàng lấy hai vai mình, đứng run lên từng chặp trong gió lạnh, trong đầu trống rỗng.

Cuối cùng những người đàn ông mò tìm dưới sông cũng đi lên, ba người kéo theo một thứ gì đó màu đỏ, đã không còn là màu đỏ tươi trong ký ức mà là đỏ sậm của chiếc áo đã ngấm nước, giống hệt như màu máu khô. Nghĩ đến sự hình dung đó, tôi lại run lên cầm cập, như thế này đúng là điềm xấu.

Thời gian trôi qua rất chậm, chậm vô cùng, sau khi thứ màu đỏ đó đượt vớt lên, đám đàn bà con gái đột nhiên không khóc nữa, còn đám đàn ông thì bất động, họ lặng lẽ nhìn mấy người thợ lặn đặt thứ đó nằm thẳng ra trên mặt đất. Tiếng khóc, tiếng gào lại nhất loạt vang lên.

Là một người con gái! Khi đó, mái tóc dài đen nhánh của cô ấy đã bị dính bết thành một túm sau đầu, không còn sức sống. Hai màu đen và đỏ tạo thành sự tương phản rõ ràng, cứng nhắc đến mức đáng sợ. Nhìn tiếp xuống dưới, thất một bàn tay trắng toát, bị ngâm nước nên đã bợt bạt cả ra, năm ngón tay co quắp lại như đang muốn tóm lấy thứ gì.

Tim tôi đột nhiên nhảy thót lên, cuối cùng khi ba người đàn ông đó lật khuôn mặt cô gái đó ra, đầu tôi choáng váng như vừa nổ uỳnh một tiếng. Khuôn mặt trắng xanh, đôi môi tím ngắt, mái tóc đen, tấm áo đỏ, những ngón tay co quắp, khuôn mặt trắng xanh, đôi môi tím ngắt... Những màu sắc khủng khiếp ấy cứ trở đi trở lại trong đầu. Thậm chí khi đã nhắm mắt lại tôi vẫn có thể hình dung ra vết máu tụ trên mu bàn tay cô ấy. Trong cổ họng cảm thấy ngứa ngáy, không kìm chế nổi muốn hét lên, song cổ lại khàn đặc nên bị nghẹt, ngay cả một tiếng ặc ặc cũng không thốt nổi ra.

Khi đó, một thanh niên lao ra từ trong đám người, tấm lưng rộng của anh ta xoay lại phía tôi, không ngừng run rẩy, một lát sau, anh ta cúi người xuống. Tôi không thể cưỡng lại ý muốn nghiêng người xuống để nhìn rõ hơn, nhưng trong ánh bình minh mờ ảo, chỉ thấy anh ta chầm chậm áp má mình xuống khuôn mặt cô ấy, sau đó đặt đôi môi run rẩy lên môi cô. Trong tim tôi chợt trào lên nỗi bi thương không gọi được tên, nước mắt cứ tuôn ra trên má, cuối cùng khóc ầm lên không sao ngăn nổi. Chỉ sợ tiếng khóc sẽ làm kinh động đến anh ta, nên cố gắn nén lại thành tiếng nức nở, còn nước mắt vẫn không ngừng lăn xuống.

Cả một đám đông khi nãy vẫn còn huyên náo, giờ đây đã trở nên lặng lẽ, không tiếng động, chỉ nghe thấy tiếng kêu ai oán đau buồn của người thanh niên. Mãi lâu sau, anh ta mới ngẩng đầu lên, lướt qua từng người một bằng đôi mắt đẫm lệ. Tôi cuối cùng cũng nhìn rõ khuôn mặt ấy. Anh ta, anh ta vì sao trông lại quen đến vậy? Ở ngay giữa lông mày là một nối ruồi lớn màu đen như mực. Cánh tay run rẩy của tôi không tự chủ đưa về phía anh ta, đang định chạm vào nốt ruồi đó, nhưng không ngờ lại hẫng đi trong không khí. Cũng giống như đêm qua, tôi không thể nắm bắt được bất kỳ sự vật nào.

Người đó khóc rất lâu, rồi đột nhiên nuốt nước mắt vào trong, hệt như đã phát điên, kéo tấm áo đang mặc trên người cô ấy xuống, để lộ ra chiếc yếm giống màu áo ở bên trong. Chiếc yếm thêu hình đôi uyên ương đang gối đầu vào nhau để ngủ. Anh ta vừa kéo vừa gào:

"Ta không muốn nàng chết, không muốn nàng phải lấy người khác. Tấm kỳ bào ta tặng nàng đâu? Tấm kỳ bào đó ở đâu? Ở đâu? Nàng hãy nói đi! Ta không muốn ngàng rời xa ta, không được rời xa ta! Trời ơi!".

"Liễu Thiếu Nguyên, người dừng tay lại cho ta! Con gái ta đã chết rồi, ngươi cút mau đi!", một lão phu nhân hai mắt sưng mọng giằng ra khỏi tay người chồng, cố gắng đẩy anh ta ra. Tôi trông thấy người thanh niên ngã ngồi trên đất, đưa tay muốn đỡ anh ta dậy, nhưng bàn tay vẫn bị hẫng vào không khí, trong lòng đột nhiên thấy nhói đau. Khoảng cách của tôi và anh ta chỉ có một bước chân nhưng lại cách xa đến cả ngàn dặm.

"Trời ơi! Vì sao chứ? Vì sao lại như thế này? Ha ha ha...".

Anh ta ngẩng đầu lên kêu trời, đang cười bỗng nhiên ngồi bật dậy, ôm phắt lấy thi thể của cô gái vào lòng:

"Chúng ta vẫn ở bên nhau, kiếp này không được thì kiếp sau, kiếp sau không được thì kiếp sau nữa. Chúng ta sẽ luôn ở bên nhau, luôn ở bên nhau!". Nói xong bèn ôm xác chết đó nhảy vọt xuống sông. Nước sông lại một lần nữa gầm lên, trong chớp mắt đã không thấy bóng dáng họ đâu nữa. Một nỗi đau đớn không sao ngăn nổi trào lên trong lòng, song tôi lại không thể nào rơi nước mắt, tất cả mọi người đều đờ đẫn nhìn chằm chằm vào xoáy nước, không ai khóc, không ai kêu gào, chỉ im lặng đợi chờ trong gió lạnh.

Đến lúc sắp sửa tuyệt vọng, khuôn mặt trẻ trung đó đột nhiên nổi lên trên mặt nước. Chỉ trong thoáng chốc nó đã trở nên già nua, nốt ruồi đen ở nơi lông mày đó nổi bật lên tới mức kinh người, hoàn toàn trùng hợp với ký ức sâu thẳm nhất trong đầu tôi.

"Á! Ông ơi". Tôi gào lên, ngồi bật dậy, bốn bề là một khoảng không đen sẫm, ánh sáng duy nhất từ cửa sổ chiếu vào, tấm rèm khẽ khàng lay động. Có một người đang đứng ngay bên ngoài khung cửa sổ sát từ sàn đến trần. Khuôn mặt hiền từ, ngay giữa lông mày là một nốt ruồi màu đen to chừng bằng hạt ngô, đúng là dáng vẻ của ông nội mười năm về trước.

"Ông nội!".

Tôi thử gọi một tiếng thăm dò. Ông chỉ đứng đó nhìn tôi mà không đáp lại. Khuôn mặt ông dần dần trở nên méo mó, dáng vẻ vô cùng đau khổ. Tôi bò từ đầu gi.ường tới đó, đưa tay ra muốn kéo ông lại. Khi ấy có người gõ lên cánh cửa phòng, tiếng bà nội vang lên phía bên ngoài: "Tiểu Ảnh, Tiểu Ảnh, cháu làm sao thế?", ngay sau đó là tiếng chìa khóa xoay bên trong ổ.

Ánh mắt tôi chuyển sang phía đó. Cánh cửa mở toang, bà nội bước vào. Khi tôi quay đầu nhìn lại phía cửa sổ, chỉ có bóng râm của chiếc rèm in trên sàn. Ánh trăng đầm đìa, không thấy bóng hình ông nội tôi đâu nữa.

"Bà ơi, cháu nhìn thấy ông. Ở chỗ cửa sổ này!". Tôi chồm dậy, định lao ra đằng cửa sổ.

"Tiểu Ảnh, cháu chỉ nằm mơ thôi. Ngoan nào, mau ngủ tiếp đi! Mười năm trước ông nội cháu đã không cần chúng ta nữa rồi". Bà nội ôm lấy tôi, giữ chặt đầu tôi trong lòng mình. Trong bóng tối, tôi cảm giác thấy cơ thể bà run lên khe khẽ. Cũng không biết là vì xúc động do đột nhiên nghe thấy tin tức về ông, hay là vì nhiệt độ của điều hòa thấp quá.

"Không bà ơi, thật đấy! Đúng là ông nội mà. Ông chau mày lại như đang vô cùng đau khổ. Từ trước đến nay ông chưa từng như vậy, chắc chắn là ông đang phải chịu một nỗi khổ nào đó".

Tôi ngẩng đầu lên, nhìn thấy bên má bà còn in dấu nước mắt, đôi môi không ngừng run rẩy, sắc mặt trắng nhợt nhạt, ánh mắt nhấp nháy bất định. Trong ánh mắt của bà, ngoài một nỗi oán hận, tôi còn nhìn thấy cả sự sợ hãi? Tôi giật thót người vì cái từ vừa đột nhiên xuất hiện trong đầu mình đó, vì sao bà lại sợ hãi kia?

"Là ông ấy không cần chúng ta! Là ông ấy không cần chúng ta!". Bà nội trở nên kích động, ánh mắt càng trở nên sắc bén hơn, mười ngón tay bấu vào vai tôi tới mức hơi đau. Vẻ mặt của bà khiến người ta thấy xót thương, nghĩ đến những nỗi bất hạnh bà đã phải trải qua trong suốt cuộc đời mình, rồi lại nghĩ đến bản thân mình giờ đây vẫn khiến bà phải lo lắng, vậy mà chỉ vì muốn nói ra cho sướng miệng nên một lần nữa khơi lên vết thương cũ của bà, đột nhiên tôi thấy mình vô cùng tàn nhẫn.

Tôi cũng vòng tay ôm lấy bà, nhẹ nhàng vỗ lên lưng bà như an ủi, cũng là an ủi chính mình: "Bà ơi, là Tiểu Ảnh hoa mắt rồi. Chỉ là cháu đã nằm mơ thôi!".

Cuối cùng bà cũng khóc thành tiếng, đây là lần đầu tiên trong suốt mười năm qua tôi thấy bà rơi lệ. Từ trước đến nay bà luôn kiên cường để làm chỗ dựa vững chắc cho tôi. Nhưng giờ đây, bà dựa vào lòng tôi khóc ầm lên như một đứa trẻ con bất lực không biết nương tựa vào đâu. Tôi muốn được bảo vệ, chở che cho bà, khi ấy tôi mới cảm thấy mình đã trưởng thành và có thể gánh vác được tất cả, không còn là một cô gái nhỏ ngồi trên căn gác nghe ông nội kể chuyện như xưa nữa, cũng không còn là đứa con gái đau lòng đến gần như trầm cảm sau khi bố mẹ ra đi nữa...

Sau cùng, bà nội cứ vậy tựa vào lòng tôi ngủ yên, còn tôi lại cảm thấy hơi hoảng loạn mà không hiểu vì sao, cũng không nói rõ được đó là vì sợ hãi, nhớ thương hay cảm giác có trách nhiệm đột ngột phát sinh. Dù sao thì cũng không còn buồn ngủ nữa, tôi đành ngồi tựa vào đầu gi.ường cho tới sáng.

Trời vừa sáng tôi đã đến cửa hàng, trên cánh cửa vẫn còn nguyên tờ giấy dán ở đó tối hôm qua, xem chừng chị Lạc đã không đến. Ngày hôm đó việc kinh doanh nhộn nhịp lạ thường, chỉ một lúc buổi sáng tôi đã nhận được mấy đơn đặt hàng. Đến khi chọn xong vải cho mấy tấm kỳ bào được đặt may thì đã sang trưa, tôi vội vàng ăn xong rồi bắt đầu thiết kế kiểu dáng.

Khách hàng đến may xường xám thường chỉ cần đo các kích thước, sau đó tôi sẽ căn cứ vào phong cách, chiều cao, vóc người của họ để thiết kế một kiểu dáng cho phù hợp. Thế nên giá tiền công may của tôi cũng cao hơn khá nhiều so với những hiệu bán kỳ bào khác.

Mỗi tấm xường xám tôi đều dốc lòng dốc sức làm, điều quan trọng nhất là không bao giờ bị trùng kiểu mẫu, tôi có khả năng nhớ rất tốt về những chiếc xường xám mà mình đã làm, hơn nữa còn ghi lại chi tiết về những kiểu dáng mình đã từng thiết kế, bởi thế các phu nhân giàu có tuyệt đối không phải lo khi dự tiệc sẽ bị đụng hàng với bất cứ người nào. Vậy nên những sản phẩm mà bọn họ mua của tôi chắc chắn là đáng giá.

Khi tôi vẽ xong mấy bức thiết kế, mặt trời cũng đã lặn. Tôi chạy sang cửa hàng trái cây bên kia đường mua mấy quả tuyết lê coi như tự thưởng cho mình.

Toàn thân thư thái, tôi nằm gọn trong chiếc ghế mây ăn tuyết lê. Ánh nắng mặt trời xuyên qua cửa sổ kính đằng trước cửa hiệu, chiếu lên từng chiếc xường xám treo bên trong.

Lúc đèn phố vừa bật lên, tôi pha một cốc trà Phổ Nhị, trong làn khói lãng đãng bay lên, hai cây đa bên ngoài như một cặp tình nhân ôm riết lấy nhau. Vân Phong gửi tin nhắn bảo tôi đóng cửa sớm hơn một chút để đến đường Hoài Hải ăn đồ nướng với anh ấy. Đang định nhận lời thì tôi chợt nhớ ra hôm nay thiếu phụ họ Lạc đó có thể sẽ đến lấy đồ nên lại từ chối.

Vân Phong có vẻ hơi khó chịu. Không biết là do anh thay đổi hay tôi thay đổi, nhưng tôi luôn cảm thấy khả năng nhẫn nại của anh đã không còn như lúc trước, lẽ nào như trong sách nói, khi người ta yêu nhau lâu thì sẽ nảy sinh sự nhàm chán? Đột nhiên nhớ đến mẹ tôi – Kỷ Yên Như. Từ những bức ảnh cũ và ký ức hạn hẹp của mình, cả những lời kể của bà nội, mẹ là một người phụ nữ luôn dịu dàng và tĩnh tại như mặt hồ phẳng lặng, không hay nói, phong thái quý phái như hoa sen, đó đều là những thứ đã hấp dẫn bố tôi hồi họ mới quen nhau, song sau này lại trở thành cái cớ để bố chán ghét và vứt bỏ bà. Còn Vân Phong, tôi không dám nghĩ ngợi thêm nữa, vứt quả tuyết lê đang ăn dở vào thùng rác.

Đi loanh quanh mấy vòng trong cửa hiệu, chợt nhớ ra chiếc áo xường xám của thiếu phụ họ Lạc vẫn chưa được gói ghém lại, tới khi chuẩn bị xong túi thì tôi lại không sao tìm được chiếc áo đó dù đã lật tung mấy giá treo hàng mẫu lên. Nhớ ra hôm qua chỉ có Úy Bân đến cửa hàng mượn đồ, có thể là nó đã lấy đi, tôi bèn gọi đến studio của nó. Người bắt máy là cô lễ tân. "Chào quý khách, đây là ảnh viện Úy Lam!".

"Xin hỏi An Úy Bân có ở đó không?".

"Anh Bân không có ở đây, xin hỏi ai đấy ạ?".

Tôi đột nhiên nhớ ra Úy Bân từng nói hễ có phụ nữ gọi điện đến thì nó đều bảo thư ký bỏ qua, còn khách làm ăn đã có số điện thoại di động của nó để gọi trực tiếp, coi như đây là một cách hay để tránh dây dưa với những "hoa đào nát", nên tôi vội nói: 'Tôi là chị gái Úy Bân, gặp nó có chút việc".

"À, là chị An ạ. Mấy ngày trước giám đốc Bân có nhận được một hợp đồng, vừa sáng sớm hôm nay đã đi Lệ Giang để chụp ngoại cảnh rồi. Quả thực là không có ở đây!".

Khi giới thiệu tôi với mọi người, không bao giờ Úy Bân nói ra tên tôi. Nó bảo nếu nói rõ ra sẽ không còn thân thiết nữa.

"Vậy à, làm phiền cô quá. Tôi muốn nhờ cô giúp một việc, xem trong số áo dài xường xám mà Úy Bân mang về hôm qua có chiếc nào màu xanh sẫm hay không?".

"Xường xám ư? Giám đốc đã mang đi cả rồi".

"Ôi! Vậy cảm ơn cô, tạm biệt!".

Gác máy xong, tôi thấy lạnh toát từ đầu tới tim. Từ khi mở cửa hiệu đến nay, đây là lần đầu tiên xảy ra tình huống thế này. Lát nữa nếu như chị Lạc đến thì tôi biết phải ăn nói với người ta như thế nào? Quả là mất tín nhiệm quá. Tôi lại gọi vào điện thoại di động của Úy Bân, thằng đó còn tắt máy nữa, khiến tôi tức muốn chết. Trong lòng không khỏi rủa thầm nó mấy câu, song lại tự trách mình qua loa cẩu thả, khi nó chọn áo mà lại không kiểm tra kỹ lưỡng lại một lần.

Cho tới mười giờ rưỡi, trái tim cứ treo lơ lửng của tôi mới nằm yên được một lúc, vì thiếu phụ họ Lạc vẫn không đến lấy đồ. Chỉ hy vọng sáng mai có thể liên lạc được với Úy Bân, bảo nó nhanh chóng mang áo đến trả cho tôi.

Khi tôi cắt xong chiết áo dài mà Lâm phu nhân đặt may cũng đã quá mười một giờ. Vì mấy ngày hôm nay đều ngủ không yên giấc nên lúc đó tôi đã hơi buồn ngủ, bèn đóng cửa hàng rồi chuẩn bị về nhà.

Gần đây việc quản lý bộ mặt thành phố có vẻ lại lỏng lẻo hơn, trong con ngõ nhỏ ngay đằng trước mọc lên chi chít những quán hàng vỉa hè hệt như nấm sau mưa. Nào là lẩu cay, cánh gà chiên, ngô nướng... thứ gì cũng có. Trước cửa hiệu của tôi vốn đã ít người qua lại, đến tối lại càng vắng lặng, thế nên so với sự ồn ào náo nhiệt ở con ngõ đó quả là khác nhau một trời một vực. Dù rằng vẫn nói quán vỉa hè không được vệ sinh cho lắm, nhưng trong đêm khuya khoắt, ánh đèn vàng vọt cũng khiến cho người ta thấy lòng ấm áp hơn nhiều. Thế nên nếu như không mệt quá, kiểu gì tôi cũng băng qua đường lớn để đến đó ăn một bát canh lẩu hay mấy món nhẹ nhàng nào đó. Thực ra, tôi cũng chưa lần nào ăn được hết, nhưng thích ngồi ở đó trong chốc lát. Lấy cớ là đến đó ăn đêm, chẳng bằng nói luôn là để thể nghiệm những sự ấm áp không thể cảm nhận thấy trong cuộc sống hiện thực này. Dù rằng sự ấm áp ấy đều là của người khác, nhưng có lúc tôi cảm thấy được chứng kiến niềm hạnh phúc của người khác cũng là một niềm vui.

Chủ các quán hàng phần lớn là cặp vợ chồng hoặc một gia đình ba người. Những cảnh tượng ấm êm đó thường khiến tôi nhớ tới những khi ông nội vẫn ở nhà. Khi ấy, tôi thường ngồi trên đầu gối ông, nghe ông kể chuyện, trong đó nhiều nhất cũng vẫn là "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào". Câu chuyện nếu như nghe từ miệng người khác thì đầy nỗi sợ hãi và máu me ấy nhưng khi được kể ra từ miệng ông, sự kinh khủng đã giảm đến ba phần. Thực ra ông nội cũng cố hết sức tránh đi những cảnh tượng máu me đáng sợ, chỉ nhắc nhiều đến tình cảm chứa đựng bên trong đó cùng nỗi buồn bã triền miên. Thế nên từ nhỏ tôi đã hy vọng sẽ có một ngày mình được nhìn thấy tấm kỳ bào huyền thoại đó.

Nghĩ lại giấc mộng hai ngày trước, lẽ nào câu chuyện cổ xưa đó có thật ư? Con người thực sự có kiếp trước kiếp sau hay sao? Liệu có phải là kiếp này không thể bên nhau đến bạc đầu thì kiếp sau lại có thể kết thành đôi lứa? Tôi và Vân Phong thuộc dạng duyên nghiệp nào? Nghĩ xong lại không khỏi tự cười mình ngốc nghếch, cái truyền thuyết đó tôi đã nghe không dưới cả trăm lần, tới mức gần như có thể đọc ngược một cách trôi chảy, thảo nào người ta cứ nói ngày làm sao, đêm chiêm bao làm vậy. Thế mà giờ còn ngồi đây nghĩ ngợi linh tinh nữa.

Đêm hơi se lạnh, cửa hàng bên cạnh đã đóng cửa rồi. Tôi vừa mới sập vòng khóa kiểu cổ bằng đồng vào, còn chưa quay người lại thì đã nghe thấy một giọng nói u ám vang lên ở bên tai: "Cô Lý, áo xường xám của tôi đã xong chưa?".

Giọng nói đó áp sát bên tai, lời lẽ giản đơn, tôi quay đầu lại theo bản năng. Người đang đứng ngay sau lưng tôi chính là thiếu phụ họ Lạc, hôm nay chị ta buông xõa mái tóc rối bời ở trước ngực, sau lưng. Đôi mắt vốn rất sinh động cũng hơi u tối. Chị ta mặc một chiếc áo len màu trắng theo kiểu cổ rộng thùng thình, so với vẻ cao sang thanh nhã hôm trước thì bộ này trông có vẻ hơi quá lôi thôi. Thấy tôi quay lại, khóe môi chị ta hơi hé mở, trên khuôn mặt thoáng một nụ cười miễn cưỡng, khiến tôi rùng mình, lông tơ đột nhiên dựng đứng hết cả lên.

"Trời quả là hơi lạnh nhỉ!". Hai tay tôi đan chéo xoa xoa lên cánh tay mình, cố gắng nở nụ cười, song trong đầu thấy rỗng toác, cố lục tìm lấy một lý do nào đó.

"Phải đấy! Cô Lý, áo xường xám của tôi đã xong chưa?". Chị ta đưa tay về phía tôi, những móng tay hôm trước vẫn còn để trơn hôm nay đã được quét lên một lớp sơn màu đỏ như máu, móng được sửa lại nhọn hoắt. Màu đỏ đó tương phản rõ rệt với màu trắng nhợt của những ngón tay, trông trùng hợp với một cảnh tượng nào đó trong ký ức của tôi. Tôi tưởng như hai bàn tay đó đã không còn đầy đặn như hôm trước nữa, da dù vẫn trắng nhưng lại hơi đờ đẫn, trên bàn tay trắng nhợt là những vết bầm tím xanh. Giống như, giống như... hồ máu tử thi [5]. Thực ra tôi cũng không hiểu hồ máu tử thi trông thế nào, chỉ mới nhìn thấy cơ thể biến màu của người con gái vừa chết trong giấc mộng hai ngày trước, nên ký ức vẫn còn nguyên như mới mà thôi. Cảnh trong mộng quá sống động, khiến người ta khó mà quên đi được, thêm vào đó giờ là lúc đêm khuya, nên khó tránh khỏi nỗi kinh hoàng.

[5] Sau khi chết, máu dồn xuống tạo thành các hồ ở phần thấp của xác (theo trọng lực), thuật ngữ y học gọi là hồ máu tử thi

Tôi nuốt nước bọt, cố nén lại nỗi sợ hãi trong lòng, run rẩy nói:

"Chị Lạc, hai ngày nữa chị đến lấy áo được không? Áo của chị bị người khác lấy nhầm, hiện giờ cậu ấy đang ở Lệ Giang. Chị để số điện thoại lại, khi cậu ấy quay về tôi sẽ gọi điện cho chị có được không?". Tôi cố gắng làm vị khách đó vừa lòng.

"Vì sao lại bị người khác lấy đi? Áo xường xám của tôi, sao cô lại có thể bất cẩn như thế được? Đó là áo của tôi kia mà!". Chị ta ngồi xổm xuống, hai tay ôm lấy gối rồi bắt đầu khóc thành tiếng, hai vai không ngừng rung lên, trông dáng vẻ cực kỳ đau khổ. Nhưng vì một chiếc áo, dù là áo cổ, mà tới mức thế này thì đúng là chuyện bé xé ra to rồi. Song người làm sai là tôi, nên tôi cũng không thể trách chị ta được.

"Chị Lạc, xin lỗi chị! Hai ngày nữa tôi sẽ lấy lại cho chị có được không? Quả thực xin lỗi chị, chị đừng như vậy có được không?". Tôi định kéo chị ta lên, song khi vừa chạm vào tay chị ta, đã rụt ngay tay lại theo bản năng. Đôi tay chị ta lạnh ngắt như vừa kéo lên từ một tảng băng, thậm chí còn lạnh hơn mấy phần so với hai ngày trước.

Tôi không biết phải làm sao, đứng nguyên tại chỗ, khi còn đang không biết phải an ủi chị ta thế nào thì tiếng khóc đột nhiên nín bặt. Chị ta ngẩng đầu lên, trên khuôn mặt nở một nụ cười lay động lòng người, chỉ có dấu nước mắt còn vương lại trên mi cho thấy nỗi đau khổ mới bộc lộ ra ban nãy. Khóc đấy cười đấy, chỉ cách nhau chưa đầy hai phút, tâm trạng thay đổi nhanh tới mức khiến người ta khó mà chấp nhận nổi. Chị ta cười hỏi tôi:

"Là Lệ Giang phải không? Cũng không cần phải vội. Tôi đi trước đây, không vội, không vội?".

Cũng không chờ tôi nói câu tạm biệt, chị ta đã quay người bước đi. Khi ấy tôi mới phát hiện ra chân chị ta đi một đôi giày cao gót, trông hơi cao quá so với bộ trang phục trên người. Đột nhiên nhớ ra mới rồi không hề nghe thấy tiếng giày. Còn khi đó cơ thể chị ta cũng như đang trôi dạt, bước chân không chạm đất, dù bước đi nhưng cũng không hề nghe thấy tiếng giày cao gót nện trên nền đá lát đường.

Tôi cố gắng trấn tĩnh, trên đường về nhà trái tim đều treo lơ lửng trên đầu, bụng bảo dạ không ngừng tự an ủi, chắc chắn là mình đã nghễnh ngãng rồi. Có lẽ là căng thẳng quá, có lẽ tôi bị điếc thật, ngay cả tiếng xe chạy bên đường tôi cũng không nghe thấy, cứ đi thẳng một mạch về nhà trong tình trạng vô thanh như vậy, nằm trên gi.ường một lúc mới thấy phục hồi thính lực. Cuối cùng cũng thở phào được một hơi, hóa ra chỉ là điếc tạm thời. Thế nhưng vì sao ban nãy tôi có thể nói chuyện với chị ta? Khi đã sắp ngủ rồi, trong đầu tôi lại chợt giật đến đoàng một cái, đột nhiên nghĩ tới đây, lại nổi da gà.

Tôi nhớ đến truyền thuyết quái đản về chiếc áo xường xám đó, đến tất cả những chuyện mới xảy ra, nghĩ lại mà thấy trong lòng sợ hãi vô cùng, bèn gọi điện thoại cho Úy Bân nhưng nó vẫn tắt máy. Dù rằng tận trong đáy lòng tôi vẫn không mấy tin vào những chuyện truyền miệng ấy, nhưng cũng không thể không cầu khấn: "Đừng để Úy Bân xảy ra chuyện gì!".
 
CHƯƠNG 5 - ĐƯỜNG TRIÊU
Tôi bèn ngẩng đầu lên, thấy một người đàn ông chừng ba mươi tuổi đang đứng trước mặt mình. Trang phục đời Đường, chân đi giày tây khiến anh ta trong cực kỳ bắt mắt, màu sắc thì lại hợp với chiếc xường xám mà tôi mặc, cũng có màu trắng bạc. Trang phục đời Đường khiến cho anh ta trông tràn đầy sức sống, giống như một người đang học Thái cực quyền, lại hơi mang dáng vẻ đạo cốt tiên phong.

Liền ba bốn ngày tôi đều không liên lạc được với Úy Bân. Cũng may là thiếu phụ họ Lạc đó không thấy đến cửa hàng nữa.

Buổi tối hôm ấy, tôi đi dự một bữa tiệc chiêu đã trong giới làm ăn với Vân Phong, vì phía chủ trì yêu cầu phải mang theo bạn gái đi cùng, nếu không thì dù anh có dỗ ngon dỗ ngọt tôi cũng sẽ không đi. Những cuộc gặp như thế này, nói trắng ra là chỗ để bọn đàn ông ngấm ngầm so thực lực, còn đám đàn bà thì phần lớn cạnh tranh đồ trang sức lẫn áo quần, hận một nỗi không thể đem hết cả gia tài của bạn trai hoặc gia đình nhà chồng bọn họ ra mà khoe khoang, chẳng qua cũng chỉ là một cuộc đấu quyền lực và tài sản mà thôi. Tất cả những người phụ nữ tham dự đều giống như con búp bê bù nhìn mà bọn đàn ông dùng để phô trương.

Nhìn thấy đám quý bà, thục nữ đó, tôi chợt buồn thương không nguyên cớ, cảm thấy người này người kia trông tinh xảo hệt như những cô manơcanh bằng nhựa được bày chỉnh tề trước cửa hiệu của tôi. Nhưng giờ đây, tôi cũng không may bị kéo vào trong đó, cũng chẳng mạnh mẽ hơn bọn họ là bao. Cười người mà không ngẫm đến mình.

Vân Phong cực kỳ không hài lòng với trang phục của tôi hôm nay. Tôi không mặc bộ Chanel mà anh đã mua cho, thay vào đó là một bộ xường xám mà tự mình thiết kế. Màu trắng bạc, trước ngực thêu mấy cành phong lan xanh biếc, một đôi giày cao gót kiểu dáng giản đơn, ngay cả phụ kiện cũng chỉ là một chiếc vòng tay mã não và khuyên tai ngọc trai. Vừa nhìn thấy tôi anh đã chau mày, cho tới lúc này vẫn bực bội không vui, cầm một ly cocktail đứng nói chuyện với mấy người đồng nghiệp, để mặc tôi chơ vơ một xó.

Vừa hay tôi cũng vui vì sự nhàn nhã ấy. Trước đây cũng không phải chưa từng tham dự những buổi chiêu đãi kiểu này cùng Vân Phong, thông thường trong suốt cả bữa tiệc anh ấy liên tục đưa tôi đi giới thiệu với các bạn hàng, đối tác. Mỗi khi kết thúc, mọi người đều không mấy hài lòng. Vân Phong thường xuyên trách tôi không đủ nhiệt tình với mọi người, hơi xa cách quá. Đấy là một chướng ngại không thể nào vượt qua được trong suốt ba năm chúng tôi ở bên nhau, không ai chịu kém cạnh ai. Nghĩ tới việc mối quan hệ giữa hai người càng ngày càng xa cách, tôi không thể không nghĩ liệu mình có nên lùi một bước hay không. Trương Ái Linh [6] còn có thể vì tình yêu mà chấp nhận bước chân vào chốn cát bụi tầm thường, lẽ nào tôi chỉ lùi một bước mà không được?

[6] Nữ nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc

Nhìn thấy anh đi lại giữa đám đông hệt như cá bơi trong nước, nụ cười trên mặt tôi trước sau vẫn không nhạt đi chút nào, song tôi vẫn cố gắng nghĩ xem làm sao để tìm được một cung độ có thể chấp nhận được nhất, thực là khó quá. Đột nhiên tôi phát hiện ra việc theo anh đến đây đã là một sự nhượng bộ lớn nhất của tôi rồi, vì sao anh vẫn không chịu hiểu?

Tôi đứng trong một góc sát bên cửa sổ, nhìn khách khứa trong sảnh trò chuyện nói cười. Ở đây cũng có những phu nhân, thục nữ tới cửa hiệu của tôi may xường xám, chỉ có điều phần lớn họ hôm nay đều mặc đầm dạ hội, trông vô cùng diễm lệ. Thỉnh thoảng cũng có trông thấy một hai người mặc xường xám tôi may, nhưng các phụ kiện của họ quá rườm rà nên đã làm hỏng mất nét đẹp thanh cao quyến rũ của kỳ bào, thành ra trông họ hơi lòe loẹt. Tôi không khỏi cảm thấy tội lỗi, có lúc thậm chí còn nghĩ liệu có phải mình đã phạm sai lầm gì trong thiết kế, nên đã không làm cho sản phẩm đó sang trọng hơn một chút hay không.

Đang để hồn vía trên mây thì bị người ta cắt ngang suy nghĩ.

"Xin chào!". Tôi nghe tiếng bèn ngẩng đầu lên, thấy một người đàn ông chừng ba mươi tuổi đang đứng trước mặt mình. Trang phục đời Đường [7], chân đi giày tây, màu sắc thì lại hợp với chiếc xường xám mà tôi mặc, cũng có màu trắng bạc. Trang phục đời Đường khiến cho anh ta trông tràn đầy sức sống, giống như một người đang học Thái cực quyền, lại hơi mang dáng vẻ đạo cốt tiên phong, tuy nhiên phần lớn những người tập Thái cực quyền đều phải sáu bảy mươi tuổi, trẻ như anh ta thì quả là hiếm thấy.

[7] Áo cổ Tàu 5cm với một hàng khuy vải chạy thẳng ở chính giữa thân trước.

"Chào anh! Xin lỗi, chúng ta có quen nhau không nhỉ?". Tôi hơi bối rối, sau đó khẳng định là mình không quen anh ta. Tôi vốn là một người hơi lập dị, không thích tiếp xúc với người lạ vì thiếu cảm giác an toàn. Hơn nữa tôi lại cũng đang hơi thắc mắc, vì sao trong một bữa tiệc thế này lại có một người mang phong cách như anh ta.

Anh ta thuận theo ánh mắt của tôi, cúi xuống tự quan sát trang phục của mình, sau đó ngẩng đầu lên nhìn tôi cười:

"Tất cả đều bình thường. Nếu như cô đang ngạc nhiên về trang phục của tôi, thì tôi cảm thấy có lẽ chúng ta là người có cùng chí hướng. Nhìn trang phục của cô, nếu so với đám thục nữ xinh đẹp sang trọng kia thì chẳng phải cũng rất lạc điệu hay sao? Trông mộc mạc hơn nhiều nhỉ?".

Khi nói những từ "thục nữ xinh đẹp" và "sang trọng" anh ta còn đặc biệt nhấn mạnh ngữ điệu đồng thời nháy mắt với tôi. Nghe ra giọng lưỡi chế giễu của anh ta, tôi không thể kìm được bật cười:

"Tiên sinh thật là vui tính!".

"Hai chữ tiên sinh nghe kỳ quặc thật. Tôi họ Đường, Đường trong chữ nhà Đường, tên chỉ có một chữ Triêu, Triêu trong chữ Triêu Dương. Mọi người vẫn thường quen gọi tôi là Đường Triều [8]. Việc này phải trách ông tôi đã đặt cho tôi một cái tên lẫn lộn không rõ ràng như vậy", anh ta đưa tay ra trước mặt tôi.

[8] Từ "triêu dương" có nghĩa là nắng sớm, chữ "triêu" ở đây đồng âm khác nghĩa với từ "triều" trong "triều đình, nên "Đường Triêu" lại thành "triều đại nhà Đường".

Anh ta nói năng rất có chừng mực, nụ cười lại cũng rất có lực tương tác, khiến cho ngay cả một người không thích tiếp xúc với người lạ như tôi cũng đưa tay ra cho anh ta hoàn toàn không một chút cảnh giác. Anh ta bắt tay trong thoáng chốc rồi lập tức buông ra, nhanh chóng nhưng không mất lịch sự. Nghe xong lời giới thiệu đó, tôi mỉm cười:

"Tôi họ Lý, chữ Lý có bộ Mộc, tên chỉ có một chữ Ảnh, Ảnh trong cụm từ Như Ảnh Tùy Hình [9]. Tôi nghĩ ông nội anh nhất định cũng là một người cực kỳ thông minh vui tính. Ưu điểm của việc dùng từ đa âm để đặt tên là sẽ có thể có nhiều tên gọi khác nhau, anh được lợi hơn người khác rồi!".

[9] Như hình với bóng

"Cô Lý thật là biết cách nói chuyện. Vừa nhìn đã biết là người kinh doanh".

"Nói bừa mà thôi!".

"Ha, cũng giống như tôi hay sao? Đây là danh thiếp của tôi". Anh ta đặt ly rượu lên chiếc khay của nhân viên phục vụ, sau đó lấy từ trong túi ra một tấm danh thiếp mang phong cách cổ đưa cho tôi. Tấm danh thiếp đó được làm rất tỉ mỉ, bốn góc đều chạm rỗng mấy bông hoa dẻ, giống như làm từ gỗ đàn hương, tuy nhiên khi chạm vào mới biết là nó làm từ giấy, chỉ có điều dày hơn những tấm danh thiếp thông thường một chút và được nhuộm màu gỗ đàn hương, trông giống thật tới mức khó nhận được ra. Logo bên góc trái là bốn chữ triện hợp thành một vòng tròn có bốn chữ lệ cực nhỏ "Đồ cổ Đường Triêu". Hóa ra anh ta kinh doanh đồ cổ.

"Một tấm danh thiếp thật tinh xảo. Hóa ra Đường tiên sinh kinh doanh đồ cổ à? Đối với đồ cổ, tôi cũng rất tò mò. Khi còn đi học, đã từng chọn ngành giám định đồ trang sức, song vì không đủ thông minh nên dù thầy giáo có nói cụ thể đến mức nào, tôi cũng vẫn không thể phân biệt được thật hay giả. Nếu có thời gian mong được thỉnh giáo Đường tiên sinh nhiều hơn". Tôi lấy danh thiếp của mình trong túi ra đưa cho anh ta.

"Cẩm tú kỳ bào", hóa ra cô Lý là một thợ may lành nghề. Kỳ bào vốn là quốc túy, chả trách chiếc xường xám mà cô Lý đang mặc trông thanh lịch, tao nhã, đoan trang...".

"Dừng lại đi, chúng ta đừng nói mấy câu tâng bốc đó nữa, nghe nhiều cảm thấy giả dối lắm!".

Anh ta cười trông rất hòa nhã, dù rằng chỉ mới quen nhưng đã khiến người ta có cảm giác như một người bạn thân đã qua lại nhiều năm. Đó là người duy nhất có thể nói chuyện với tôi nhiều đến vậy trong lần đầu tiên gặp mặt.

Trò chuyện một lát về công việc kinh doanh của nhau, anh ta nói cho tôi biết về lịch sử đồ cổ, trong đó có cả chuyện về xường xám mà tôi thích nghe. Khi đang nói đến chỗ thú vị nhất, anh ta đột nhiên chau mày:

"Lý Ảnh, gần đây cô gặp phải một món đồ gì bẩn thỉu đúng không?".

"Món đồ bẩn thỉu?". Tôi giật mình, nhìn xung quanh hơi lúng túng.

"Chính là việc nhìn thấy hiện tượng kỳ quái nào đó".

"Tôi không tin vào nó!". Hình ảnh tấm kỳ bào đó lóe lên trong đầu, song tôi vẫn nhất định không tin những chuyện xảy ra mấy ngày trước có liên quan đến những chuyện siêu nhiên thần bí.

"Tôi dù có cửa hiệu kinh doanh đồ cổ, song cũng thường nghiên cứu những chuyện phong thủy huyền bí. Bên ngoài mặt cô trông có vẻ ổn, nhưng ánh mắt lại hơi loạn thần, chắc chắn là đã nhìn thấy vật gì đó, chỉ là chuyện xảy ra trong vòng khoảng một tuần nay thôi. Tôi nghĩ tôi có thể giúp được cô".

"Được rồi, tôi không hứng thú với mấy thứ kiểu này. Những thứ siêu nhiên thần bí, chẳng qua chỉ là công cụ do một số người chế tác ra mà thôi. Không tin thì tự nhiên nó sẽ không tồn tại". Tôi bực bội xoay người định đi. Lời nói của anh ta không chỉ phản cảm mà còn khiến tôi hoảng hốt lo âu. Có thể nói ra thời gian một cách chuẩn xác như vậy không giống như tùy miệng nói bừa. Song trong xã hội hiện giờ có quá nhiều gã trông tướng mạo thì nghiêm trang nhưng lại treo đầu dê bán thịt chó, ai biết anh ta là một doanh nhân kinh doanh đồ cổ hay là một tên lừa đảo giang hồ, như mấy gã thầy bói ngồi bên cửa đình chùa ấy, chẳng qua chỉ là giỏi đoán ý và lời nói qua sắc mặt hơn những người khác mà thôi, sau đó dựa vào một hai điểm đó mà lừa tiền của người ta.

Đường Triêu không giận vì sự lạnh nhạt của tôi, mà vẫn nói với giọng ôn tồn: "Lý Ảnh, nếu như có chuyện gì cô có thể đến cửa hiệu tìm tôi. Xin hãy tin tôi!".

"Đúng là có vấn đề về thần kinh!". Nghe anh ta nói một cách thành tâm như vậy, tôi vẫn hơi do dự một lát, song cũng chỉ dừng lại hai giây, sau đó đầu vẫn không ngoảnh lại mà tiếp tục đi, sợ bị anh ta nhìn thấy sự bất an của mình, cũng sợ mình không đủ kiên định, bị anh ta đánh lừa.

Buổi tối Vân Phong đưa tôi về. Hôm nay anh rất vui, uống rượu với hội Tiểu Bạch nên đã hơi say. Khi đến bên dưới khu chung cư, Vân Phong mượn rượu để ôm tôi vào mà hôn. Đúng lúc đang đắm chìm trong tình ý triền miên, tôi chợt cảm giác thấy có một cơn gió lạnh sượt qua bên má, giống như có ai đó đi lướt qua mình vậy. Tôi mở mắt ra nhìn, thấy phía đối diện loáng thoáng có bóng người mặc đồ trắng, nhìn vóc dáng mảnh mai duyên dáng chắc có lẽ là một người phụ nữ. Bất giác cảm thấy hơi bối rối, tôi nhẹ nhàng đẩy Vân Phong ra, mở to đôi mắt theo bản năng, chỉ thấy cái bóng ngả trên mặt đất lờ mờ của bụi hồng gai. Nào có ai đâu?

"Không hứng thú à? Ảnh, gần đây em làm sao vậy?".

Vân Phong vặn vẹo lại chiếc cà vạt, trong mắt lóe lên một ánh nhìn mệt mỏi, đưa tay ra vòng quanh lưng tôi rồi ngáp một cái.

"Vân Phong, em không biết là sao nữa, gần đây em toàn nằm mơ thấy những giấc mộng kỳ quái, trong mộng là những cảnh tượng lạ lùng, cũng không biết phải nói thế nào, nên trong lòng bức bối, cũng vì thế mà hơi lạnh nhạt với anh. Đừng trách em có được không?". Tôi ôm anh, cảm thấy mệt mỏi vô cùng, giống hệt như người bị rút hết sức lực của toàn thân vậy.

"Ngoan nào, không sao đâu, chắc là vì mệt mỏi quá thôi. Hay là chúng ta đi du lịch một chuyến? Thả lỏng tinh thần một chút chắc sẽ khá hơn".

Nghe tôi nói, anh ôm chặt tôi vào lòng. Bàn tay đặt trên lưng tôi nặng nề nhưng mạnh mẽ, mỗi lời nói đều như phải hạ quyết tâm, khiến người ta cảm thấy hơi miễn cưỡng, không hề có một chút gì tự nhiên và thoải mái như của những người yêu nhau.

"Gần đây em hơi bận, chờ một thời gian nữa đi!", khẽ khàng đẩy anh ra, tôi giúp anh chỉnh lại cổ áo, sau đó kiễng chân lên hôn anh và cố gắng nở nụ cười:

"Không còn sớm nữa rồi, anh mau về đi. Nếu như cảm thấy say thì đừng lái xe nữa, để xe ở đây rồi gọi taxi, biết chưa?".

"Biết rồi, anh không sao đâu. Em mau lên nhà đi!".

Anh có thói quen nhìn tôi lên nhà xong mới về. Con người Vân Phong vốn ân cần, gia đình dù giàu có nhưng hoàn toàn không có những thói quen xấu của mấy công tử con nhà đó. Tình cảm sau ba năm trời dù không còn nồng nhiệt như ngày đầu nữa, song mang một vẻ điềm nhiên, như lời bà nội nói, cứ bình lặng sống qua ngày là tốt nhất.

Nghĩ đến đó, tôi lại thấy hơi xấu hổ về sự nhạy cảm của mình khi trước. Bản thân mình luôn hướng đến sự bình lặng, song khi đã đạt được điều mình muốn thì lại đặt câu hỏi nghi ngờ. Có lẽ nên bỏ hết những chuyện rối rắm trong lòng để đón nhận những cái mới mới phải.

Bà nội đã ngủ từ bao giờ, trong phòng khách ngập tràn mùi đàn hương quen thuộc, khiến người ta thấy lòng yên ổn.

Tôi mở nước nóng để tắm. Vì phòng tắm của căn hộ này hơi nhỏ, nên bốn bên đều được lắp gương, nhờ hiệu quả thị giác khiến nó có vẻ rộng hơn một chút, không cảm thấy chật chội nữa.

Tôi nhắm mắt nằm ngâm trong bồn tắm, thả lỏng toàn thân. Cũng không biết đã ngâm bao lâu, đến khi mở mắt ra nhìn xung quanh chỗ nào cũng thấy khuôn mặt của mình, nhìn mãi một hồi lâu, bỗng dưng cảm giác xa lạ với khuôn mặt quen thuộc đó.

Đột nhiên khuôn mặt trong gương bắt đầu biến đổi, trong phút chốc vẻ hồng hào đã biến đi đâu hết, khuôn mặt vốn tròn trịa chuyển sang hình trái xoan sắc nhọn, mắt dài môi đỏ mọng, chính là thiếu phụ họ Lạc kia. Khuôn mặt đó tiếp tục trở nên sưng phù giống như bộ dạng bị ngâm lâu dưới nước, đôi môi biến thành màu tím tái, khi cười để lộ ra hàm răng trắng nhởn đầy ma quái. Quay đầu muốn tránh đi, song lại bắt gặp cũng khuôn mặt đó ở tấm gương đằng sau lưng mình, tôi kinh hoàng xoay chuyển bốn phía nhưng bất kể có xoay chuyển đi đâu thì trong các tấm gương đều là khuôn mặt ghê rợn đó.

Cuối cùng tôi ôm đầu ngồi xổm trong bồn tắm, song bên tai lại vang lên tiếng cười u ám của chị ta "Ha ha ha...". Tiếng cười nghe như tiếng cái bễ bị sứt, lượn lờ bay bổng trong phòng tắm, dù không lớn nhưng truyền đến tận nơi sâu nhất trong lòng tôi, lạnh lẽo âm u như từ nơi xa thẳm. Dù tôi có bịt tai chặt đến mức nào, nhưng tiếng cười vẫn có thể truyền tới, khiến tôi vừa lo vừa sợ, không ngừng lắc đầu. Cuối cùng trước mắt là một màn đen kịt, không còn ý thức.

"Tiểu Ảnh, Tiểu Ảnh, tỉnh lại đi, tỉnh lại đi!".

Mở mắt ra, nuốt nước bọt, tôi kinh hoàng nhìn quanh bốn mặt gương, bên trong đó chỉ có hình tôi và bà nội. Tôi bám cánh tay bà, nói gấp gáp:

"Bà nội, bà nội ơi, cháu nhìn thấy một người phụ nữ, trông rất đáng sợ!".

"Tiểu Ảnh ngoan nào, mệt mỏi quá rồi đấy! Không sao đâu, tất cả đều tốt đẹp mà". Bà nội cũng không đợi tôi nói hết liền dùng khăn tắm quấn lấy quanh người tôi rồi đỡ tôi đi về phòng.

"Tiểu Ảnh, cháu nghỉ ngơi mấy ngày đi, bà thấy cháu chắc chắn là mệt mỏi quá rồi. Hôm nay bà ngủ cùng cháu nhé?".

Bà vuốt ve tóc tôi, an ủi. Bà cũng không hỏi tôi nằm mơ thấy chuyện gì, mà chỉ không ngừng kẹp lại góc chăn cho tôi, trông bộ dạng hơi bồn chồn.

Chắc là vì mới rồi đã tốn hao quá nhiều sức lực, có lẽ là có người thân bên cạnh khiến người ta thấy an lòng, nên vừa đặt lưng xuống tôi đã ngủ ngay. Đêm đó tôi ngủ vô cùng yên ổn.

Ngày hôm sau khi chuẩn bị đi đến cửa hàng, tôi không sao tìm được chìa khóa. Ra hỏi bà, mới biết bà đã cất đi, nói tôi bị mệt quá nên phải nghỉ ngơi một chút.

Tôi nằm ở nhà một buổi sáng, buồn chán tới mức phải chạy ra ôm bà xin xỏ, nhưng nói thế nào thì bà cũng không chấp nhận đưa chìa khóa cho. Thấy thái độ của bà kiên quyết như vậy, tôi đành từ bỏ hy vọng.

Khi quay về phòng thu dọn lại mấy thứ, tôi lấy từ trong túi ra một tấm danh thiếp, là danh thiếp của nhà buôn đồ cổ tên Đường Triêu đó. Nghĩ đến chuyện tối qua, thêm vào đó lại chẳng có việc gì, nên tôi quyết định đến tìm anh ta, tuy nhiên cũng khôn ngoan cất hết những thứ có giá trị trong túi ở nhà, tự nhắc mình trước rằng hễ anh ta nhắc đến những câu liên quan tới tiền bạc để trừ tai ương, thì sẽ không thèm để ý đến.

Để tới được cửa hiệu của Đường Triêu tôi phải đi qua mấy quận, thêm vào đó lại không thuộc đường nên chuyển mấy chuyến xe mới đến nơi.

Cửa hàng được trang trí theo phong cách cổ điển, trên cánh cửa bằng gỗ cũng được chạm rỗng hình hoa dẻ như trên tấm danh thiếp, chỉ có điều to hơn tới vài lần. Rất hợp với phong cách của anh ta, bởi vì là cửa hiệu đồ cổ nên việc kinh doanh cũng vắng lặng như cửa hiệu xường xám của tôi. Khi tôi đến anh ta đang cầm chổi lông gà phủi bụi trên mấy chiếc lọ hoa. Nghe tiếng đẩy cửa bước vào, anh ta quay đầu lại nhìn tôi cười, hoàn toàn không tỏ vẻ ngạc nhiên một chút nào, dường như đã đoán trước được việc tôi sẽ đến vậy.

"Đến rồi à? Cô ngồi xuống đấy, tôi sẽ tới ngay!".

Tôi ngồi xuống một chiếc ghế được làm từ gốc cây, trước mặt là một chiếc bàn trà cũng được chạm từ gốc cây. Trong chiếc tủ tường ở chính diện cửa hàng có bày rất nhiều dụng cụ uống trà, cho thấy anh ta chắc chắn là một người rất biết thưởng thức thứ đồ uống này. Góc trái của bàn trà đặt một chiếc ấm cắm điện đen sì, nước bên trong đã bắt đầu sôi cuộn, khiến khói nóng bốc lên ngùn ngụt.

Đường Triêu thu dọn xong liền ngồi xuống đối diện với tôi, hỏi:

"Cô thích uống trà không?".

Tôi gật gật đầu, nhìn anh ta lấy bộ chén bằng sứ trắng ra, dùng nước sôi tráng qua một lượt, sau đó lấy mảnh nhỏ trong khối trà đen sịt, nói với tôi:

"Phụ nữ đều muốn được sở hữu một vóc dáng hoàn hảo, thế nên tôi mời cô uống trà Phổ Nhị, có thể giảm cân".

Tôi cười: "Tôi thường uống loại trà này, chỗ anh Đường đúng là thanh nhã thật. Nhìn chiếc bàn trà này cũng đầy phong vị cổ xưa rồi".

"Đừng khen tôi. Phải rồi, những thứ bàn ghế này đều là đồ giả thôi, không phải làm từ gốc cây thật đâu", anh ta vừa pha trà vừa nói.

"Sao?". Tôi không hiểu, rất ít người nói đến đồ giả một cách thẳng thừng như vậy.

"Bàn ghế được làm từ gốc cây phải mấy chục năm tuổi mới tạm coi là được, nhưng tất cả những cây gỗ ngần ấy tuổi đều không thể khai thác được nữa rồi. Thứ này cũng có linh hồn giống như con người, vì tôi thích nên mới làm bộ giả để chơi thôi".

Sau khi Đường Triêu giải thích như vậy, tôi đột nhiên hiểu ra, anh ta thông thạo những điều thần bí, nên đương nhiên là tin vào những chuyện đó thôi.

"Hóa ra là như vậy!".

"Giờ thì nói chuyện của cô xem nào!", Đường Triêu đặt chén trà xuống, nhìn vào tôi bằng vẻ mặt nghiêm túc.

Nghe xong chuyện tôi kể lại, anh ta im lặng khá lâu, sau đó đứng dậy đi vào mở ngăn kéo phòng trong lấy ra một đồ vật đưa cho tôi. Đó là một chiếc đèn pin cỡ nhỏ. Tôi còn đang không hiểu thì anh ta ra hiệu bảo tôi bật nó lên. Một luồng sáng cực mạnh tỏa ra khiến cả căn phòng sáng bừng. Tôi còn nghe thấy cả tiếng dòng điện từ trong pin chuyển động, bèn hỏi:

"Đây là cái gì? Một chiếc đèn pin thông thường không thể có dòng điện lưu mạnh như vậy được".

"Đó là do tôi cải tiến trên cơ sở đèn pin thông thường. Thu gọn các chi tiết trong một chiếc đèn pin cỡ lớn lại, thế nên nó có thể tụ quang tốt hơn đèn pin cỡ lớn, lại dễ mang theo người hơn. Những thứ bẩn thỉu thường sợ ánh sáng, chỉ cần cô đủ trấn tĩnh, khi nào gặp lại nó cô hãy bật đèn lên, nó sẽ tự động biến đi".

"Thực sự có thể như vậy à?", tôi hỏi.

"Đương nhiên! Hãy tin tôi. Tôi sẽ cho cô thêm một tấm bùa hộ thân nữa, để tạm thời tránh được tà ma". Đường Triêu nói rồi đưa cho tôi một gói nhỏ bằng vải màu đỏ. Đó là một món đồ được kết lại bằng hai sợi dây màu trắng và xanh đậm, trông giống như hình bát quái mà anh ta đang treo ngay chính giữa gian phòng. Tôi đeo lá bùa hộ thân vào cổ, sau đó còn ở lại cửa hàng của Đường Triêu một lúc nữa.

Chúng tôi nói chuyện rất vui vẻ, đến gần chạng vạng tôi mới cáo từ để về nhà.

Đêm hôm đó tôi ngủ cực kỳ yên ổn, không xuất hiện bất cứ hiện tượng quái lạ nào nữa.

"Ai đang ôm đàn tỳ bà gảy khúc nhạc làm vỡ vụn gió đông, lá phong nhuốm màu lên câu chuyện mà anh vừa mở ra đoạn kết...".

Chừng nửa đêm, giọng hát của Châu Kiệt Luân đánh thức tôi dậy. Là chuông điện thoại.

Cầm lên xem, hóa ra là Úy Bân. Tôi thầm thở phào một tiếng, thằng nhóc này cuối cùng cũng chịu liên lạc với tôi.

"A lô! Em đã mang chiếc áo xường xám màu xanh sẫm của chị...", tôi còn chưa nói hết câu đã bị nó cắt ngang.

"Chị, nghe em nói đã!". Giọng Úy Bân vang lên trong điện thoại nghe khản đặc, nó nghẹn ngào: "Tiểu Cổ chết rồi!".
 
CHƯƠNG 6 - TAI NẠN GIAO THÔNG
Nói xong câu đó, trong phút chốc sắc mặt người lái xe trở nên trắng nhợt, đôi môi không ngừng lập bập, giọng nói run rẩy: "Tôi nhớ ra rồi, tôi không nhìn thấy chân cô ta! Tôi không nhìn thấy chân cô ta! Cô ta, cô ta, cô ta không phải là người, cô ta bay đến đó!".

"Cái gì? Tiểu Cổ chết rồi?", tôi kinh ngạc, điện thoại suýt nữa thì rơi tuột khỏi tay.

"Phải, Tiểu Cổ chết rồi. Chị, Tiểu Ảnh, Tiểu Cổ chết rồi! Hu hu...".

Trong điện thoại vang lên tiếng khóc nghẹn của Úy Bân. Từ nhỏ tới lớn tôi chưa từng thấy nó rơi nước mắt, đây là lần đầu tiên Úy Bân khóc trước mặt tôi. Từ khi còn bé nó đã là một đứa trẻ bướng bỉnh, còn nhớ hồi nhỏ dù bị tôi bắt nạt đến thế nào, hoặc là để bảo vệ tôi tới nỗi bị bọn đầu gấu trong trường đánh đến sứt đầu chảy máu, nó cũng không bao giờ khóc. Còn giờ đây, Úy Bân đang khóc, khóc đến mức như tim gan cũng đang vỡ nát cả ra, mỗi tiếng khóc đều như một mũi kim xuyên thẳng vào trái tim tôi. Trong dạ dày lộn tùng phèo, tim nghẹn lại tới mức phát sợ, tôi vội vàng lấy tay trái giữ lên ngực, tựa đầu vào đầu gi.ường, vẫn chưa tỉnh táo trở lại sau khi nghe cái tin Tiểu Cổ chết.

Ở máy bên kia Úy Bân đang gọi lẫn lộn tên tôi hay tên Tiểu Cổ, tôi cố gắng làm cho mình trấn tĩnh lại.

"Úy Bân, em đừng khóc, chị sẽ lập tức đến Lệ Giang bây giờ, lập tức đến ngay có được không?".

Tôi vốn định hỏi nó xem Tiểu Cổ đã chết như thế nào, nhưng khi nghe thấy tiếng nghẹn ngào đầy đau đớn của Úy Bân thì không còn hỏi được câu gì nữa, chỉ đành an ủi nó, hận một nỗi không thể bay đến Lệ Giang ngay lúc đó.

"Nhân Nhân, đừng rời bỏ anh! Hu hu... Tiểu Ảnh, Cổ Nhân Nhân cô ấy đi rồi. Đều là vì em không tốt. Tất cả là tại em!".

Úy Bân lại không tướng lên. Giọng nói của nó cứ bị ngắt quãng giữa chừng, sau đó trong điện thoại vang lên tiếng uống nước ừng ực, tiếp nữa là một chuỗi âm thanh nghe như tiếng vỏ chai lăn trên sàn.

"Úy Bân, em đừng uống rượu nữa được không? Tỉnh táo một chút đi! Được không? Chị sẽ đến đó ngay lập tức".

Úy Bân không trả lời mà dập máy. Nghe những âm thanh báo bận đó, tôi bỗng nhiên hoang mang, cảm thấy như đang bị vô vàn những nỗi sợ hãi khủng khiếp vô tri vô hình bao vây xung quanh mình, cho dù tôi chạy trốn thế nào, xoay chuyển đến thế nào thì cũng không sao thoát ra được, giống như những ảo ảnh xuất hiện trong nhà tắm ngày hôm qua vậy. Ngồi co ro trên đầu gi.ường, mồ hôi lạnh trên trán chảy dần xuống má tôi, đi qua cổ rồi khô lại. Nhiệt độ những vùng cơ thể mà giọt mồ hôi đi qua nóng tới mức làm nó bốc hơi, nhưng tôi thì càng ngày càng lạnh.

So với những thứ mà tôi mơ thấy thì chuyện này còn khiến tôi sợ hãi, hoang mang, bất lực hơn nhiều. Tôi ngấm ngầm cảm thấy cái chết của Tiểu Cổ có liên quan đến tấm áo xường xám kia. Trước khi nhìn thấy nó, tôi vẫn không tin vào câu chuyện truyền miệng ấy, nhưng giờ đây, khi có người mình biết trải qua sự khủng khiếp đó, tôi không thể không tin nữa. Lúc này trong đầu tôi chỉ có một ý nghĩ duy nhất, không thể để những người thân, bạn bè xung quanh mình gặp phải độc thủ của nó. Tôi phải cứu họ. Nếu như bắt buộc phải chết, tôi cũng chấp nhận, nếu là người chết đầu tiên thì tôi sẽ không còn phải chịu nỗi đau mất mát nữa.

Bởi có khi người phải đau đớn đầu tiên sẽ là người được giải thoát đầu tiên.

Gọi điện thoại đặt xong vé máy bay đến Côn Minh, khoảng mười giờ vé mới được đưa đến, tôi tranh thủ khoảng thời gian trống để chuẩn bị hai bộ quần áo mang đi. Khi sắp xếp xong xuôi, mặt trời mới bắt đầu ló rạng từ đằng đông.

Tôi bấm máy gọi điện cho Vân Phong.

"A lô...", người nhận điện thoại của anh ấy là nữ, nghe giọng khàn khàn đầy vẻ uể oải, giống như đang ngủ bị người ta đánh thức vậy.

"A lô?".

Tôi siết chặt điện thoại, hơi thất thần rồi lập tức hiểu ra điều đó có nghĩa là gì, dù trong lòng vẫn hy vọng vào một vận may. Tôi nghĩ chắc chắn mình đã gọi nhầm máy, nên đưa điện thoại xuống nhìn lại màn hình, rõ ràng trên đó còn hiển hiện số máy của Vân Phong. Cắn môi, hít một hơi thật sâu đè nén cơn hoảng loạn trong lòng mình xuống, tôi hỏi:

"Xin hỏi Lý Vân Phong đâu?".

"A! Là Tiểu Ảnh à? Mình là Thanh Lâm đây. Đêm qua cả hội bọn mình đi ra ngoài chơi, Vân Phong nhà cậu để quên điện thoại trong túi xách của mình". Bên đó vang lên giọng nói vui vẻ của Thanh Lâm, xem chừng cô ấy đã tỉnh ngủ hẳn rồi. Tôi thầm thở phào một tiếng, bởi vì Thanh Lâm, Vân Phong và tôi là bạn thân hồi đại học, Thanh Lâm và Vân Phong thân thiết với nhau như anh em ruột vậy. Hơn nữa gia đình Thanh Lâm và gia đinh Vân Phong cũng có quan hệ làm ăn, từ nhỏ đã quen biết nhau. Theo như lời Thanh Lâm nói, nếu có chuyện gì với nhau thì cũng đã có từ lâu rồi, nào đợi đến lượt tôi? Thế nên tôi có thể không tin tưởng bất cứ người con gái nào, nhưng riêng Thanh Lâm thì tin một trăm phần trăm, thậm chí còn thường xuyên nói đùa rằng bọn họ có thể coi như bạn thanh mai trúc mã được.

"Vậy thì để mình gọi đến nhà anh ấy. Thanh Lâm, nhà mình có chuyện rồi, mình phải đi ngay đến Lệ Giang bây giờ".

"Hả? Là chuyện gì?", Thanh Lâm vội vàng hỏi ngay, liền đó là một tiếng rên "ai da" như vừa va phải thứ gì. Tôi nghe thấy tiếng chuông leng keng vang lên rõ mồn một ngay sau đó, âm thanh này không thể quen thuộc hơn, là tiếng chuông gió. Ba đứa chúng tôi có một chiếc chuông gió giống hệt nhau, tôi và Vân Phong đều treo ở đầu gi.ường, còn Thanh Lâm vì thích nghe thấy tiếng chuông trong trẻo cả khi đang ngủ nên treo ngay bên ngoài cửa sổ. Chỉ cần hơi có gió nhẹ thổi qua, cũng có thể nghe thấy tiếng chuông, tuy nhiên hiện giờ Thanh Lâm đang ngồi trên gi.ường nghe điện thoại nên việc tôi nghe thấy tiếng chuông gió rõ ràng đến vậy thực không dễ chút nào. Nhưng khi đó tôi quả thật không còn tâm trạng đâu để lưu ý đến những chuyện vặt vãnh như vậy nữa.

"Chờ khi về mình sẽ nói rõ! Bây giờ mình đang thấy rối bời!".

"Yên tâm đi Tiểu Ảnh, bất kể xảy ra chuyện gì thì vẫn còn có tụi mình. Biết chưa?".

Nghe Thanh Lâm nói vậy, tôi thấy mũi cay cay, suýt chút nữa thì rơi nước mắt. Giờ đây tình cảnh của tôi còn bất lực hơn cả người đang đuối nước nữa kìa. Bị rơi xuống đầm lầy, ngay cả nhúc nhích cũng không nổi, chỉ có thể giương mắt nhìn bùn nước dần dần nhấn chìm mình, sau đó nuốt gọn lấy. Câu nói của Thanh Lâm khiến tôi tìm được một điểm tựa, dù rằng cũng chẳng thể giúp được gì song trong giờ phút này đối với tôi mà nói, tình bạn và tình thân đều đáng quý vô cùng.

"Ừ, mình biết rồi. Khi nào lo liệu xong mình sẽ về kể đầu đuôi cho cậu".

Vân Phong nghe điện thoại nói muốn đưa tôi đi, song tôi từ chối. Thực ra trong lòng rất muốn anh ấy đi cùng, nhưng tôi sợ, tôi luôn cảm thấy bất an, sợ sẽ có chuyện gì đó xảy đến với anh. Dù rằng trong những câu chuyện tôi được nghe từ trước đến nay, người chết đều là nữ, nhưng tôi vẫn không hoàn toàn tin vào điều đó. Cũng giống như việc người chết đều là cô dâu vậy, cái chết của Tiểu Cổ khiến cho tôi ý thức được rằng oán khí của nó hiện giờ đã không còn giới hạn với riêng các cô dâu. Ngoài việc sợ sẽ có chuyện xảy ra với Vân Phong, trong tiềm thức của mình, tôi cũng không muốn anh biết điều gì cả. Còn nhớ lần đầu tiên đến nhà Vân Phong, chỉ ba ngày sau mẹ anh đã tìm hiểu hết ngọn ngành hoàn cảnh gia đình tôi, ngăn cản không cho chúng tôi qua lại với nhau. Mẹ anh là một người mê tín, bà cho rằng những người trong gia đình tôi đều không lành. Chẳng dễ dàng gì để được gia đình anh chấp nhận tình yêu đó, nếu bây giờ lại xảy ra chuyện gì rắc rối, chắc chắn chúng tôi chỉ còn đường giải tán. Một người kiêu hãnh như tôi cũng không thể không cúi đầu để chấp nhận những ánh mắt và cách nghĩ của thế tục.

Chẳng dám nghĩ ngợi thêm nữa, chỉ mong chuyện này có thể nhanh chóng kết thúc, tuy nhiên nếu chỉ dựa vào khả năng của bản thân tôi, liệu có thể vãn hồi mọi thứ?

Tôi nhớ đến Đường Triêu, người đàn ông thông hiểu về siêu nhiên đó.

Bấm số máy của anh ta, song điện thoại đã tắt. Vì vẫn còn ba tiếng nữa vé máy bay mới được đưa tới nên tôi gọi xe đi đến cửa hàng đồ cổ của Đường Triêu.

Cửa hàng đang mở, thấy một người đàn ông chừng sáu mươi tuổi ngồi trên chiếc ghế chạm bằng gốc cây, tôi hỏi:

"Bác ơi, Đường Triêu có ở đây không ạ?".

"Đường Triêu à?", ông già ngẩng đầu lên nhìn tôi bằng đôi mắt đã đục ngầu, một lát sau mới nói: "Cậu ấy đi ngoại tỉnh rồi!".

"Đi ngoại tỉnh ạ? Nhưng hôm qua cháu vẫn gặp anh ấy mà! Không thấy anh ấy nói gi".

"Nhà cậu ấy ở ngoại tỉnh, hiện giờ sức khỏe mẹ cậu ấy không ổn nên muốn Đường Triêu về một chuyến. Tôi chỉ được nhờ đến đây trông nom cửa hàng thôi".

"Vậy khi nào anh ấy quay lại ạ?".

"Không quay về ngay đâu. Nếu có chuyện gì cô cứ nói với tôi, tôi sẽ chuyển lời đến cậu ấy".

"Cảm ơn bác, cháu sẽ tự gọi điện thoại di động cho anh ấy".

"Được!". Nói xong, ông ta cụp mắt xuống, không nhìn tôi nữa mà tập trung vào việc pha trà. Thái độ tiếp khách lạnh nhạt quá thể, cũng còn may là việc kinh doanh ở cửa hiệu đồ cổ cũng vắng vẻ, chứ nếu là ngành hàng khác, chắc chắn khách khứa sẽ bỏ đi hết vì thái độ của ông ta.

Không tìm được Đường Triêu, tôi đành nhanh chóng quay về.

Khi về tới nhà, tôi nói với bà muốn đi Lệ Giang du lịch. Bà rõ ràng rất vui, nói tôi đáng lẽ phải nghỉ ngơi từ sớm hơn rồi, sau đó lại còn giúp tôi chuẩn bị hành lý. Khi nhìn thấy những thứ đồ đơn giản mà tôi mang đi, bà chau mày hỏi tôi định đi bao lâu mà chỉ mang theo ít thế, trông bộ dạng bà như muốn tôi đi chơi thật lâu vậy. Tôi cố gắng nở nụ cười, nũng nịu với bà rằng hành lý nặng quá thì không xách được, sau đó còn cố ý nói bà không thương tôi, con nhà người ta khi ra khỏi cửa đều được dặn dò là về sớm, làm gì có ai giống bà lại chỉ ra sức đuổi cháu đi cho lâu? Bà nghe thấy vậy không thể không bật cười, ôm lấy tôi với vẻ cực kỳ yêu chiều và chúc tôi đi đường thuận lợi, vui chơi thỏa thuê hết sức mình. Sân bay ở cách nhà tôi khá xa, nên tôi nhất quyết không cho bà đi tiễn, khi ra đến cổng khu đô thị bà liền quay về.

Lúc đã ngồi trên máy bay, trong đầu tôi vẫn là hình ảnh bà lập cập quay về. Tôi là một người nhạy cảm tới mức hay buôn lo vô cớ, có lẽ là vì những năm tháng tuổi thơ không được trọn vẹn, nên hễ khi có một chuyện gì đó không tốt xảy ra, tôi lại nghĩ ngay đến điều tồi tệ nhất. Trong ba giờ đồng hồ ngồi trên máy bay, trong đầu tôi gần như chỉ toàn những ý nghĩ nếu như tôi chết, thì bọn họ - những người thân, bạn bè tôi liệu có rơi nước mắt hay không? Tôi cứ nhẩm đếm tên từng người một trong đầu, lòng thấp thỏm không yên.

Vừa tới Côn Minh tôi liền chuyển sang đi ô tô đến Đại Lý. Cảnh sắc Vân Nam vô cùng hấp dẫn, bất kể là Côn Minh hay Đại Lý đều cực kỳ diễm lệ. Đại Lý là một nơi mà từ trước đến nay tôi vẫn ao ước được tới thăm, vùng đất không rộng lắm nhưng từng là một quốc gia với bao nhiêu câu chuyện liên quan đến lịch sử đã được thêm thắt những ý vị phong tình. Thế nhưng hôm nay đến đây tôi lại không có tâm trạng đâu mà thưởng thức, mỗi sắc màu, mỗi con người trong mắt tôi đều đã biến thành hai màu đen trắng đầy buồn đau.

Khi tôi từ Đại Lý đến Lệ Giang đã là chiều tối. Gọi điện thoại cho Úy Bân, vẫn trong tình trạng tắt máy. May mà dù buồn phiền nhưng tôi vẫn giữ được sự tỉnh táo, gọi đến ảnh viện của Úy Bân mới biết được nó đang ở khách sạn Hoa Khê. Một bé gái nhiệt tình người Lệ Giang đã đưa tôi đến đó, đi lòng vòng qua phố xá, tiếng giày cao gót gõ lộp cộp trên nền đá xanh lát đường nghe hay lạ thường.

Cô bé người Lệ Giang chừng sáu tuổi đó tỏ vẻ xấu hổ, nói với tôi bằng thứ tiếng phổ thông hơi cứng:

"Chị ơi, giày của chị đẹp quá, giống như giày thủy tinh vậy. Mẹ em bảo là đến khi hai mươi tuổi mới được đi cơ!".

Nhìn vào khuôn mặt thanh khiết đó, tôi dù có đang buồn thương đến mức nào cũng không thể nhẫn tâm lạnh nhạt được, bèn cố gắng nặn ra một nụ cười:

"Phải đấy, mẹ em nói vậy là đúng đấy. Em còn nhỏ quá, đợi lúc lớn lên hãy đi giày cao gót".

Cô bé ấy còn hỏi tôi mấy chuyện ở thành phố lớn nữa, nhưng tôi không thể nào tập trung tinh thần được, chỉ đành "à, ờ, ừ" đáp lại. Một lát sau cô bé cũng cảm giác thấy tôi đang để hồn vía tận đây nên cũng trở nên im lặng.

Khi đến khách sạn Hoa Khê, tôi rút từ trong ví ra một tờ năm mươi tệ cho cô bé, song cô bé đỏ mặt nói không cần. Sau cùng vì tôi cố ép bằng được nên cô bé cũng cầm lấy, trước khi đi còn kéo tay tôi nói:

"Chị ơi, chị là người tốt! Quan Âm bồ tát sẽ bảo vệ chị".

Câu chúc của cô bé hết sức chân thành khiến không ai có thể nghi ngờ gì. Nhưng tôi rất muốn hỏi, ông nội chị là người tốt, mẹ chị cũng vậy, vì sao Quan Âm bồ tát lại không bảo vệ họ?

Nhân viên phục vụ trong khách sạn đưa tôi đến phòng Úy Bân. Nó ngồi ngủ gục giữa một đống vỏ chai, khuôn mặt trắng nhợt, thấp thoáng ngấn nước, lông mày cau lại, râu ria lởm chởm, trông khác biệt hẳn với vẻ đẹp trai thường ngày, khiến tôi thấy đau lòng. Tôi ngồi xổm xuống, khẽ vỗ lên khuôn mặt Úy Bân: "Úy Bân, chị đến rồi. Úy Bân, tỉnh dậy đi!".

Mất một lúc sau Úy Bân mới mở mắt, khi nhìn thấy tôi, nó ôm choàng lấy cổ tôi rồi khóc:

"Chị ơi, Tiểu Ảnh, Tiểu Ảnh, cuối cùng chị cũng đến rồi!".

Thấy Úy Bân khóc, nước mắt mà tôi đã cố nén lại suốt một ngày nay cũng không sao ngăn được nữa, phút chốc đã tràn mi. Tôi nghẹn ngào an ủi nó:

"Phải rồi, chị đến rồi, chị đến rồi! Đừng khóc nữa được không? Đưa chị đến gặp Tiểu Cổ xem nào!".

Tôi đi vào nhà tắm thấm ướt chiếc khăn rồi lau mặt cho Úy Bân, sau đó lấy cho nó một bộ quàn áo sạch trong va li. Khi chọn đồ, tôi cố ý lấy một chiếc áo màu đen. Xuống quầy lễ tân hỏi nhân viên phục vụ thuốc giã rượu xong, tôi quay lên phòng mở điện thoại của Úy Bân. Vừa bật máy đã có cuộc gọi đến, tôi thấy Úy Bân vẫn còn đang thay quần áo trong nhà tắm bèn nhận cuộc gọi:

"A lô!".

"Nhân Nhân nhà chúng tôi ở bệnh viện nào?". Bên kia máy là giọng điệu bi phẫn của một người đàn ông, tôi đoán ra ngay là người nhà Tiểu Cổ.

"À...", tôi còn chưa kịp phản ứng, Úy Bân đã thay xong quần áo rồi đi từ nhà tắm ra. Tôi đưa điện thoại cho nó.

"Ở bệnh viện Lệ Giang. Cháu sẽ đến đó ngay bây giờ!". Úy Bân tắt máy xong liền kéo tôi đi.

Trong nhà xác của bệnh viện Lệ Giang, tôi trông thấy Tiểu Cổ. Khuôn mặt con bé đã bị mũi xe cày nát không còn ra hình người, hộp sọ hình như bị vỡ toác, vầng trán đầy đặn trước kia giờ đây lõm sâu xuống. Bên dưới tấm drap màu trắng là cơ thể trần truồng của Tiểu Cổ, cơ thể đã trở nên khó coi đến khủng khiếp, trông thê thảm tới mức khiến người ta muốn nôn. Tôi không làm sao tìm được một mối liên hệ nào giữa thi thể đó với cô gái hoạt bát đáng yêu hơi chau mày khi uống cốc trà Phổ Nhị trong cửa hiệu của mình.

Bố Tiểu Cổ vừa trông thấy Úy Bân đã vung tay tát thẳng một cái. Úy Bân không đỡ lại, thậm chí còn tiến đến gần ông ấy, vừa khóc vừa gào lên:

"Bác đánh đi, đánh chết cháu thì càng tốt! Như vậy thì cháu và Nhân Nhân có thể ở cạnh nhau".

Mẹ Tiểu Cổ và tôi cũng vừa khóc vừa tách hai người bọn họ ra. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy đứa em mình thành thực, đau buồn và suy sụp đến vậy. Bố Tiểu Cổ bị mẹ con bé kéo ra đằng sau liền ngồi thụp xuống đất vừa khóc vừa nói:

"Nó vẫn còn trẻ như vậy, sao có thể xảy ra chuyện này kia chứ? Nó còn chưa lấy chồng...".

Không ai trả lời ông ấy, bởi tất cả mọi người đều không biết phải trả lời thế nào. Việc duy nhất mà bốn người chúng tôi có thể làm chỉ là khóc, thỏa sức gào khóc.

Ở trụ sở của cơ quan cảnh sát giao thông, chúng tôi gặp người lái xe gây ra sự cố. Vì kết quả kiểm tra nồng độ cồn và an toàn động cơ cho thấy tất cả đều bình thường, nên người ta kiểm tra sức khỏe của ông ấy, song cũng không có vấn đề gì. Duy chỉ có tại hiện trường không phát hiện bất cứ dấu vết nào cho thấy ông ta đã hành động nhằm ngăn tai nạn xảy ra. Người lái xe chừng bốn mươi tuổi đó mặt mày xám ngoét, lặp đi lặp lại một câu với vẻ hoang mang:

"Tôi quả thực không nhìn thấy cô ấy đứng bên lề đường. Quả thực không trông thấy!".

Cuối cùng khi cảnh sát yêu cầu thuật lại hoàn cảnh lúc bấy giờ, ông ta kể:

"Lúc đó gần mười hai giờ, trên đường rất vắng người qua lại nên tốc độ xe của tôi cũng nhanh hơn bình thường một chút, tuy nhiên không hề vượt quá giới hạn cho phép. Đang lái rất êm, tôi đột nhiên phát hiện có một cô gái đứng ngay giữa đường trước mũi xe chừng hai mươi mét. Tôi bèn đạp phanh, nhưng khi đó phanh không chỉ không ăn mà tốc độ lại càng nhanh hơn. Chiếc xe cách cô gái đó mỗi lúc một gần, tôi không có cách nào khác nên đã đánh lái sang bên trái. Cũng không nghe thấy bất cứ âm thanh nào, chiếc xe đâm vào gốc cây rồi dừng lại. Tôi bị choáng mất một lúc, chắc khoảng chừng một phút, đến khi ngẩng đầu lên nhìn đường, hai bên đều không thấy một bóng người. Liền ngay sau đó có tiếng kêu nói tôi đã đâm chết người, tôi mới nhận ra có một người bị kẹp giữa chiếc xe và cái cây, đầu cô ấy đang mắc trên nắp ca pô. Chuyện là như vậy, còn việc đâm vào cô ấy như thế nào tôi quả thực không biết, tôi không quen cô ấy, tôi còn có mẹ già con thơ phải nuôi dưỡng, dù có thuê tôi cả đống tiền tôi cũng chẳng dám cố ý giết người đâu". Người lái xe càng nói càng kích động.

"Nhưng có nhân chứng nói khi ấy anh đột nhiên đánh quặt tay lái, họ cũng không nhìn thấy người phụ nữ đứng giữa đường mà anh nói tới". Đội trưởng đội cảnh sát giao thông lật hồ sơ vụ án ra, nói.

"Thật mà, thật sự là có một người phụ nữ. Cô ta mặc chiếc áo dài xường xám màu trắng bạc, tóc được quấn lên cao. Bởi vì những người mặc xường xám cũng không hay gặp lắm, nên tôi nhớ rất rõ". Người lái xe vỗ xuống mặt bàn rồi kêu lên: "Đó là sự thực!".

"Người phụ nữ ấy trông hơi đẫy đà, tuy nhiên rất đẹp, da rất trắng, áng chừng thấp hơn tôi khoảng năm phân có đúng không?".

Tôi hỏi người lái xe, trong đầu lóe lên hình ảnh cô ta, thầm nghĩ, nhất định là cô ta.

"Sao cô lại biết? Đúng rồi, chính là người mà cô nói đó, khi tôi chuẩn bị đánh lái cô ta còn cười với tôi, trông bộ dạng rất lẳng lơ". Người lái xe gãi đầu rồi nói tiếp:

"Tôi cũng không biết tại sao ở khoảng cách xa như vậy nhưng khi ấy tôi lại có thể nhìn thấy cô ta rất rõ. Khuôn mặt của cô ta giống như được đặt ngay trước mắt tôi vậy. Giống như... gặp phải ma vậy."

Nói xong câu đó, trong phút chốc sắc mặt người lái xe trở nên trắng nhợt, đôi môi không ngừng lập bập, giọng nói run rẩy: "Tôi nhớ ra rồi, tôi không nhìn thấy chân cô ta! Tôi không nhìn thấy chân cô ta! Cô ta, cô ta, cô ta không phải là người, cô ta bay đến đó!".
 
CHƯƠNG 7 - HƯƠNG LẠT
Bóng tối đã khiến cho những vệt máu bắn tứ tung cũng trở thành màu đen. Chỉ mấy phút trước cô ấy vẫn còn đang hoạt bát vui vẻ, một Nhân Nhân nhõng nhẽo nũng nịu, Nhân Nhân ngang ngược bướng bỉnh, giờ đây bị kẹp giữa chiếc xe như vậy, mái tóc dài mượt mà xõa trên nắp ca pô không còn chút sức sống nào.

Khi người lái xe nói hết, tất cả mọi người đều choáng váng, tâm tư dường như cũng chìm trong một nỗi sợ hãi giống hệt ông ta. Bản thân ông ta cũng đờ đẫn, song đội trưởng cảnh sát giao thông đột nhiên đập mạnh xuống bàn, nói lớn giọng: "Anh đừng có nghĩ đến chuyện trốn tránh trách nhiệm của mình!".

"Đâu có, tôi quả thực không có! Đúng là tôi đã nhìn thấy cô ta. Cô ta không có chân, thực sự không có chân!".

Người tài xế lại trở nên kích động, đi đến trước mặt Úy Bân, bám lấy nó để hỏi: "Cậu không tin tôi à? Có tin không?". Úy Bân không nói gì, chỉ cúi đầu im lặng. Ông ta lại buông Úy Bân ra rồi chạy đến trước mặt bố mẹ Tiểu Cổ định hỏi tiếp, song bị bố của Tiểu Cổ gạt ra. Cuối cùng ông ta đi đến trước mặt tôi, hai tay bám lấy tôi tựa gọng kìm, khiến tôi thấy đau như bị gãy. Thấy tôi chau mày, ông ta nói:

"Cô cũng không tin hay sao? Cô cũng không tin hay sao?".

Tôi gật đầu, sau đó lại lắc đầu, cố nén đau nói: "Tôi tin ông. Thật đấy!".

Nghe thấy vậy, ông ta buông tay tôi ra, ngồi phịch xuống sàn khóc tướng lên, vừa khóc vừa nói: "Tôi cũng muốn tin rằng chỉ là do mất lái nên đâm vào cô ấy. Tôi chấp nhận bồi thường, nhưng vì sao lại khiến cho tôi nhớ ra việc người phụ nữ kia không có chân. Khiến cho tôi nhớ ra, nhưng lại không ai chịu tin tôi. Hu hu... Cô ta thực sự không phải là người. Thật mà, tôi không hề nói dối...".

"Điên rồi, điên mất rồi. Tiểu Vương, Tiểu Vương, viết một bản báo cáo đi, đề nghị cho anh ta giám định tâm thần". Nghe tiếng chỉ huy, một thanh niên bước vào gật đầu, sau đó đưa người lái xe đi ra.

Người lái xe đẩy tay Tiểu Vương, đôi mắt đỏ ngầu lên hét lớn: "Cút mẹ mày đi cho tao, tao không điên!".

"Gọi thêm người đi!", đội trưởng giao thông nói khẽ ra hiệu cho Tiểu Vương.

Tôi nhìn khuôn mặt đỏ phừng phừng của người lái xe, biết là ông ta bị oan, những điều ông ta nói đều là thật, nhưng đứng trên góc độ khoa học, thì cơ bản không thể nào giải thích cho rõ được, liền nói:

"Những điều ông ấy nói đề là thật, người phụ nữ đó cơ bản không phải là người".

"Chị, chị điên rồi à?", Úy Bân túm lấy tay tôi, hai mắt nhìn xoáy vào tôi, muốn tìm được một chút manh mối từ trong đó.

"Úy Bân, chị không điên, chính là tấm kỳ bào đó, tấm kỳ bào mà em đã lấy nhầm!". Tôi gạt tay nó ra định nói tiếp: "Đó là một tấm áo không lành...".

"Bốp!". Mặt tôi nóng ran, ngước mắt lên đã nhìn thấy mẹ Tiểu Cổ đứng trước mặt mình, ngón tay trỏ của bà chỉ thẳng vào mặt tôi, nói trong giận dữ:

"Con gái ta đã chết rồi, các người vẫn còn ở đây nói năng bừa bãi như vậy ư? Chưa biết chừng các người đã sớm thông cung với tay tài xế đó, đây không phải là một tai nạn thông thường, mà các người cố tình mưu sát!".

Tôi ôm lấy mặt: "Động cơ là gì? Cô phải tìm được động cơ rồi hãy nói như vậy".

"Xin lỗi cô, An tiểu thư! Vợ tôi hơi bị kích động một chút. Còn nữa, tôi nghĩ hiện giờ không còn việc của các vị ở đây nữa rồi. Cả việc giải quyết chuyện này thế nào cũng không liên quan đến hai vị. Suy cho cùng thì trên phương diện pháp lý chúng ta không hề có bất cứ quan hệ nào". Bố Tiểu Cổ nói, ông ấy không biết tôi và Úy Bân khác họ. Người cha này cực kỳ bình tĩnh. Trong đôi mắt hơi ướt của ông ấy thoáng ngấn nước, song cuối cùng nước mắt vẫn không rơi xuống.

"Vâng, cháu biết rồi!".

Đối mặt với lý trí của bố Tiểu Cổ, tôi lại cảm thấy hơi xấu hổ và hối hận vì sự thất lễ ban nãy của mình, bất kể thế nào thì việc Tiểu Cổ không còn nữa là sự thực, giải thích những chuyện hoang đường trên góc độ khoa học cũng giúp được gì cho họ kia chứ? Chẳng bằng cứ để họ cho rằng đây đơn thuần chỉ là một sự cố ngoài ý muốn.

Có lẽ biết đâu đây thực sự chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên thôi. Tôi nghĩ như vậy, kỳ thực mong là như vậy, mong là ngày mai khi mặt trời lên, tất cả sẽ kết thúc.

Khi quay về khách sạn Hoa Khê với Úy Bân, tôi tìm thấy tấm kỳ bào đó trong va li của nó, màu sắc vẫn tươi sáng, viên ngọc trai ở cổ áo ánh lên một màu vàng đục, không biết là do tâm trạng hay vì cái gì khác nhưng trực giác của tôi không còn như lúc đầu mà ngấm ngầm mang một chút âm u đen tối. Ánh đèn màu vàng trong phòng hơi ảm đạm, câu chuyện truyền kỳ về tấm áo này cùng những hiện tượng lạ lùng quái đản trong mấy ngày vừa qua cứ lần lượt hiện về, khiến tôi cảm thấy niềm hy vọng của mình trong phút chốc đã trở thành tham vọng không sao với tới.

"Úy Bân, chính là tấm áo này!". Tôi đưa chiếc áo dài xường xám đến trước mặt Úy Bân.

"Chị, lẽ nào điều đó là thực?". Úy Bân hỏi tôi, dù thần khí không còn hoang mang như lúc trước, song vẫn đầy sự hoài nghi.

Tôi nghĩ một lát, sau đó mạnh dạn suy đoán:

"Em với Tiểu Cổ có gặp một số chuyện quái dị đúng không?". Sau khi hỏi xong, tôi hy vọng Úy Bân sẽ lắc đầu, bởi vì chỉ cần nó phủ định, thì những nỗi lo lắng trước đây của tôi có thể gạt sang một bên.

"Ừm... Ngày thứ hai sau khi đến đây bắt đầu có điều gì đó khác thường", mắt Úy Bân hơi nheo lại, thần sắc mơ màng như đang nói sảng.

"Khi đến cửa hàng của chị lấy đồ, em đã đặt xong vé máy bay đi Lệ Giang. Chỉ có là chúng ta từ trước đến nay không có thói quen giải thích mọi chuyện với nhau nên em không nói.

Nhân Nhân là một cô gái cực kỳ dễ thương, dù hơi nhõng nhẽo nhưng điều đó cũng không ảnh hưởng đến tình cảm của em dành cho cô ấy. Trong số những người con gái mà em đã từng qua lại, chỉ có cô ấy có thể ở bên cạnh em quá ba tháng mà không khiến em nghĩ đến chuyện chia tay. Người con gái đó, chị nói cô ấy giống thế nào thì cô ấy là như thế, tựa như một miếng đất nặn, muốn nặn thành hình gì cũng được. Đương nhiên không phải nói thế tức là cô ấy không có cá tính, chỉ là cô ấy rất hiểu tâm lý của người khác thôi. Lúc trước, khi còn đi học, có nhắc đến cái gì mà "hoa giải ngữ [10]", em vốn không tin lại có người như vậy, nhưng đến khi gặp cô ấy thì mới biết quả thực trên thế gian có sự tồn tại của "hoa giải ngữ" thật. Có thể Nhân Nhân không hẳng đã tốt như em nói, nhưng em yêu cô ấy thực sự, thế nên mới cảm thấy cô ấy quá tuyệt vời, không ai có thể sánh bằng.

[10] Bông hoa biết nói, chỉ người con gái xinh đẹp mà thông minh khéo léo

Em nói với thư ký là đi Lệ Giang chụp ngoại cảnh, nhưng thực ra chỉ là đi du lịch với Nhân Nhân. Tháng sau là sinh nhật của cô ấy, em đã nhận lời chụp cho cô ấy một bộ cho ngày sinh nhật. Cô ấy nói rằng trong đời mình, cô ấy thích đến nhất là Lệ Giang, thế nên bọn em quyết định tới đây. Em còn cố ý đến cửa hiệu của chị mượn mấy bộ xường xám ấy vì vóc dáng của Nhân Nhân đẹp như thế, mặc xường xám cực kỳ xinh.

Sau khi đến Lệ Giang bọn em ở trong khách sạn này, vì chỗ này gần nước cạnh cầu, Nhân Nhân là một người lãng mạn điển hình. Căn phòng mà bọn em ở chỉ cần mở cửa sổ là có thể nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, lại còn có cả mấy cây liễu xanh um, khi gió thổi qua, bóng liễu là đà. Đêm hôm đó Nhân Nhân rất vui.

Ngày hôm sau bọn em đi du ngoạn trên dòng Lệ Giang, hai đứa thuê riêng một chiếc bè trúc, trên bè em chụp rất nhiều ảnh cho Nhân Nhân. Tất cả trang phục mang đi em đều để trên bè, khi Nhân Nhân thay đồ em căng tấm vải lên che cho cô ấy. Nhìn thấy cô ấy ngồi trên bè run rẩy cởi từng nút khuy, khi chỉ còn lại một khuy ngực thế nào cô ấy cũng bảo: "Nhắm mắt anh lại!".

"Sờ thì cũng đã sờ rồi, còn sợ bị nhìn thấy ư?". Em thì cố ý mở to mắt ra, giả bộ như háo sắc: "Waaa, người chuẩn thật đấy!", song cuối cùng vẫn nghe lời cô ấy ngoan ngoãn nhắm mắt vào, chỉ khi nào cô ấy không để ý mới hé ra nhìn trộm. Khi ấy cảm thấy như giữa đất trời chỉ có em với Nhân Nhân, không quan tâm đến bất cứ thứ gì khác, không nghe, không hỏi. Tiểu Ảnh, chị biết không, tình yêu có thể khiến cho những niềm vui rất nhỏ trở nên lớn không giới hạn".

Khi Úy Bân nói câu này, tôi liên tưởng đến Vân Phong một cách hết sức tự nhiên. Giữa tôi và anh đâu phải chưa từng trải qua điều đó?

Úy Bân thở dài một tiếng, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, tiếp tục kể. Nó kể rất chậm rãi, tường tận, không phải là thuật lại đơn thuần, mà là hồi tưởng lại, nếm trải lại những dư vị của quá khứ tuyệt đẹp đã biến mất mà đã không thể nào tái hiện thêm một lần. Nỗi đau buồn trong mắt Úy Bân đậm sâu tới nỗi khiến người ta không dám thúc giục, làm phiền.

"Khi cô ấy mặc tấm xường xám màu xanh sẫm đó vào, mắt em sáng lên. Vì da cô ấy trắng, mịn màng, thế nên mặc chiếc áo đó trông đẹp lạ thường, mang một vẻ thanh tao quý phái, rất có phong cách. Ai ngờ một chiếc áo để đó thì trông không có gì bắt mắt nhưng khi mặc vào lại có hiệu quả như vậy, thế nên khi cô ấy mặc chiếc áo đó, em chụp rất nhiều ảnh. Hôm đó bọn em chơi rất vui, tới khi hai đứa về đến khách sạn đã gần mười giờ đêm.

"Em kiệt sức mất rồi!". Vừa vào đến phòng, Nhân Nhân liền ngã phịch xuống gi.ường.

Em nằm xuống bên cạnh cô ấy, đưa tay ôm lấy cô ấy định hôn nhưng Nhân Nhân đẩy em ra, nũng nịu: "Đi tắm trước đã, bẩn chết đi được!".

"Để xem anh tắm xong sẽ giải quyết em thế nào! He he", em cầm khăn tắm đi ra. Trong nhà tắm em còn hát véo von, niềm hạnh phúc đó như đang dâng tràn trong mỗi tế bào, lúc nào cũng có thể rịn ra ngoài vậy.

Nhân Nhân ngồi trên gi.ường sửa móng tay, đến khi em từ phòng tắm đi ra cô ấy ngước mắt lên cười, song đột nhiên tỏ vẻ hoảng hốt nói với em: "Úy Bân, ai ở bên ngoài cửa sổ thế?".

"Sao?", em nhìn theo hướng tay cô ấy chỉ, thấy tấm rèm cửa khẽ lay động nhưng làm gì có ai? Khi quay đầu lại em mới thấy Nhân Nhân đã không còn ở trên gi.ường, còn cửa nhà tắm thì đóng đến cạch một tiếng, bên trong vang lên tiếng cô ấy: "Hi hi, em sợ tên háo sắc nhà anh lắm!".

"Lát nữa em lại còn không ngoan ngoãn ấy hả?". Em cười lớn nói với cô ấy.

Chơi suốt cả một ngày nên cũng hơi mệt, em mở một chai bia rồi ngồi trên gi.ường xem ti vi.

Nhân Nhân tắm rất chậm, thường thích ngâm cho đến lúc người đỏ như con tôm luộc mới chịu ra, thế nên em cũng không để ý đến việc cô ấy ở trong đó bao lâu.

Khá lâu sau đó, tiếng nước trong nhà tắm đột nhiên dừng lại, tiếp sau là tiếng hét thất thanh của Nhân Nhân.

Em sợ quá vội vàng nhảy từ trên gi.ường xuống chạy ra, gõ vào cửa hét lớn:

"Nhân Nhân, Nhân Nhân, em sao thế?".

Bên trong không có tiếng trả lời, em vội vàng đẩy bật cửa ra, chỉ thấy Nhân Nhân đứng đó trên người không mảnh vải, toàn thân vẫn còn vương đầy những giọt nước trong veo đang rung lên khe khẽ cùng với cơn run của cơ thể, khiến mỗi tấc da lại càng nổi bật lên vẻ trắng trẻo mịn màng, trông cực kỳ gợi cảm. Em thấy xao động, liền ôm lấy cô ấy nói: "Đồ lừa đảo, định dùng cách này để dụ dỗ anh à?".

Cảm giác thấy hơi ấm cơ thể, Nhân Nhân gục đầu vào lòng em, run rẩy nói:

"Úy Bân, bên ngoài cửa sổ có một người phụ nữ trong sợ lắm. Mặt đầy vết tím xanh. Cô ta còn bảo em trả cho cô ta chiếc xường xám gì đó. Trông tay cô ta rất đáng sợ, trắng tới mức giống như cái gì ấy!".

"Sao?". Em ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn từ đây có thể thấy cả những vì sao trên dòng Lệ Giang, trong màn đêm loáng thoáng tiếng ve kêu. Bên ngoài cửa sổ là con ngõ nhỏ lát đá xanh nhưng không hề có bóng người. Em liễn vỗ nhẹ lên vai cô ấy:

"Tự dọa mình à? Làm gì có ai đâu? He he! Gây chuyện vì nhớ anh chứ gì? Định dùng cách này quyến rũ anh phải không?".

Nhân Nhân đẩy em ra, nhìn ra ngoài cửa sổ rồi chau chau mày: "Rõ ràng là có nhìn thấy mà!".

Em bèn ôm lấy cô ấy từ đằng sau: "Phải rồi, người em có thể nhìn thấy là anh! Xem lần này em chạy đi đâu, ha ha".

"Đồ háo sắc!". Tay cô ấy nắm thành nắm khẽ đấm lên ngực em, em quay người lại ép cô ấy xuống... Bọn em đều không để tâm đến chuyện vừa xảy ra nữa, em thì cho rằng đó chỉ là mánh khóe của Nhân Nhân, còn cô ấy cũng cho rằng mình hoa mắt.

Ngày hôm sau, bọn em vẫn đi chơi như bình thường, hiện tượng lạ lùng đêm trước không xảy ra nữa. Cho đến ngày thứ tư, điện thoại di động của em không hiểu vì sao lại nhận được một tin nhắn đầy ám muội:

"Anh thân yêu, em nhớ anh rồi! Bao giờ thì anh quay về?".

Khi đó em đi ra ngoài mua thuốc lá, lúc quay về thì Nhân Nhân đã ngồi ở đầu gi.ường, quai hàm bạnh ra, nhìn thấy em vào phòng thì quay ngoắt lại, xoay lưng về phía em.

"Lại làm sao thế?". Em châm một điếu thuốc rồi ngồi xuống cạnh gi.ường, nhìn cô ấy, nghĩ phụ nữ đúng là phiền toái. Mấy ngày hôm trước em còn nghĩ cô ấy là hoa giải ngữ, lúc đó đột nhiên lại cảm thấy cô ấy không còn đáng yêu nữa.

"Anh nói xem là làm sao? Đây là ai? Anh nói là chỉ yêu có mình em, bây giờ lại có người nhắn tin cho anh như thế này!". Nhân Nhân vứt chiếc điện thoại ra cho em.

Đó là một số điện thoại hoàn toàn xa lạ, em nghĩ chắc có đứa bạn nào đó mượn máy của người khác nhắn tin trêu chọc thôi, nên trong lòng không khỏi cảm thấy khó chịu, nhưng vẫn cố nén giận nói với cô ấy:

"Chẳng phải chính em cũng nói rồi còn gì? Là người ta nhắn tin cho anh, nói câu này thì có sao cơ chứ? Anh có thể lựa chọn không yêu em, nhưng không thể ngăn được em yêu anh. Đúng là không ra làm sao cả, anh cũng có ngăn cản việc em giao thiệp với người đàn ông khác đâu".

"Phải, em chẳng ra làm sao cả. Em giao thiệp với người đàn ông khác có ám muội như thế này không?". Cô ấy không chịu buông tha.

"Anh quả thực không quen người này mà!", không dễ đi chơi với nhau một lần như vậy, nên em cũng không muốn làm cho hai đứa mất vui, bèn nhấn nút gọi lại cho số máy đó, song bên đó giấu số.

Vỗ về một lúc, cô ấy cuối cùng cũng nín khóc, bật cười: "Còn nữa, cái câu anh lần nào cũng nói ấy, anh có thể lựa chọn không yêu em, nhưng không thể ngăn được em yêu anh, đồ ngốc!".

"Được rồi, chúng ta ra ngoài ăn đi", em ôm lấy Nhân Nhân, đưa tay lên khẽ véo mũi cô ấy: "Đồ hay ghen".

"Chẳng phải là vì người ta thích anh hay sao?".

"Ừm, anh biết rồi. Con gái thì có đặc quyền gây rối một cách vô lý".

"Đáng ghét!".

Cười đùa một lúc, em tưởng rằng tất cả những chuyện không vui đều đã tan biến hết, nào ngờ đâu đó chỉ là niềm vui cuối cùng trước khi tai họa ập đến.

Vốn định mau chóng quay về khách sạn, nhưng Nhân Nhân nói muốn đi dạo, thế là hai đứa bọn em lững thững đi trên phố.

Đi đến nửa đường Nhân Nhân đòi ăn kem, nên em để cô ấy đứng bên đường đợi. Bình thường cô ấy vẫn ngầy ngà, thế mà khi đó lại ngoan ngoãn lặng lẽ đứng đợi bên đường.

Em còn chưa đi được ba mét đã nghe thấy một tiếng va chạm mạnh, quay đầu lại chỉ thấy Nhân Nhân bị kẹt cứng giữa chiếc xe và thân cây. Bóng tối khiến cho những vệt máu bắn tứ tung cũng trở thành màu đen. Chỉ mấy phút trước cô ấy vẫn còn đang hoạt bát vui vẻ, một Nhân Nhân nhõng nhẽo nũng nịu, Nhân Nhân ngang ngược bướng bỉnh, giờ đây bị kẹp giữa chiếc xe như vậy, mái tóc dài mượt mà xõa trên nắp ca pô không còn chút sức sống nào. Trái tim em như bị đục rỗng ngay lúc ấy, cảm giác như chân tay đều không còn chút sức lực nào, khó khăn lắm mới chạy đến bên chiếc xe được, nâng khuôn mặt cô ấy lên. Khuôn mặt đó đã nhầy nhụa máu me, song mũi vẫn còn thở thoi thóp. Em khẽ lắc lắc đầu cô ấy, trong tiếng gọi đã chứa đầy một nỗi sợ hãi và tuyệt vọng chưa từng có: "Nhân Nhân, Nhân Nhân, tỉnh lại đi!".

Tới khi cánh cửa phòng cấp cứu mở ra, em nhìn thấy Nhân Nhân một lần nữa, đôi mắt tuyệt đẹp của cô ấy đã khép chặt, đôi môi khi giận dữ vẫn thường hơi cong lên đó cũng đã mím chặt lại. Em biết, người con gái xinh đẹp đó đã vĩnh viễn bỏ mình đi, song lúc đó em lại không sao khóc nổi...".

"Chị ơi, cô ấy nói lời mà không giữ lời. Cô ấy nói muốn dựa vào em suốt đời này, muốn sinh cho em một đàn con. Cô ấy còn nói muốn giữ chặt em cả đời, còn nói sẽ ngược đãi em cả đời, muốn em sẽ làm trâu ngựa cho cô ấy đến lúc chết. Thế nhưng... cô ấy lại không làm được. Phụ nữ có thể nói xong lại nuốt lời như vậy hay sao?".

Úy Bân kéo tay tôi, khóc đến hết cả hơi. Tôi không biết nên nói gì lúc ấy, nỗi đau của nó toi cũng có thể cảm nhận được, song lại không biết làm thế nào, chỉ đành khẽ khàng ôm lấy nó, an ủi một chút về tinh thần mà thôi. Đột nhiên trong đầu tôi hiện lên lời Úy Bân vừa nói. Nó bảo điện thoại vẫn luôn để bật ư? Vậy thì tại sao khi tôi gọi cho nó luôn trong trạng thái tắt nguồn? Lẽ nào đúng là...

Tôi run rẩy hỏi: "Úy Bân, em không hề tắt máy sao?".

"Không, từ lúc đến Lệ Giang em chưa từng tắt máy, từ trước đến nay cũng không có thói quen tắt điện thoại".

CHƯƠNG 8 - ÚY BÂN
Úy Bân nằm trần truồng trong bồn tắm, tay phải gác lên thành bồn, máu ở cổ tay đã đông kết lại thành cục màu đỏ sậm. Quần áo của nó cũng vắt trên thành, dưới sàn là con dao của người Tạng mà nó đã mua trong chuyến đi Tây Tạng năm ngoái, lưỡi dao cong cong nhuốm đầy máu nên đã không còn nhìn thấy ánh sang nguyên bản nữa.

Nghe Úy Bân nói vậy, tôi giở điện thoại của mình ra xem, màn hình năm màu vẫn không có gì khác lạ. Bỗng nhiên nhớ đến đêm hôm đó, trước khi bỏ đi, thiếu phụ họ Lạc kia còn nói điều gì đó vô cùng ảm đạm. Chị ta đã nói gì nhỉ? Lệ Giang? Lẽ nào chị ta thực sự có thể tìm đến nơi này? Tôi mở túi của Úy Bân ra xem, nhìn thấy một mớ màu xanh sậm, viên ngọc trai ở cổ áo phát ra một màu nhàn nhạt ấm áp, thế nhưng khi đó tôi mới cảm thấy lạnh, một khí lạnh khác thường từ lớp vải mềm mại đó truyền lên...

Tôi nhìn nó, sợ rằng đột nhiên nó sẽ hiện lên một khuôn mặ hay mọc ra một cánh tay, càng nghĩ càng sợ hơn, tay cũng siết mỗi lúc một chặt hơn, mặt satanh mịn màng lanh lẽo hệt như cánh tay của người phụ nữ đó.

Cảm giác trơn nhẵn trong tay rất không tự nhiên, tôi liền bước nhanh đến bên cửa sổ, mở một cánh cửa rồi vứt thẳng nó ra ngoài. Tôi thấy nó bay lên theo gió, rồi sau cùng rơi xuống con song bên ngoài cửa sổ. Tôi không nghe thấy tiếng nước chảy, song có thể thấy nó nằm trên mặt sông, chầm chậm trôi khỏi ngoài tầm mắt. Tôi bắt đầu mở to mắt, giữ nguyên không chớp hồi lâu, sợ rằng trong một giây thất thần thôi sẽ không nhìn thấy nó nữa. Cuối cùng, nó trôi theo dòng nước uốn lượn mỗi lúc một xa. Cho tới khi không nhìn thấy nữa toi mới thở phào một tiếng. Thực ra đêm khuya như vậy rồi, muốn nhìn thấy một vật như vật ở giữa dòng sông tối sẫm không hề dễ chút nào. Tôi chẳng qua cũng chỉ là trông vào trí tưởng tượng của mình, ảo tưởng rằng nó đã biến mất để kiểm cho mình một lý do có thể yên tâm.

Ngày hôm sau tôi đưa Úy Bân rời Lệ Giang.

Thái độ của bố mẹ Tiểu Cổ rất rõ ràng, họ không muốn nhìn thấy Úy Bân nữa, thậm chí còn không muốn nó xuất hiện trong đám tang con gái họ. Khi lên máy bay ở Côn Minh, Úy Bân còn nhìn mãi về hướng nhà tang lễ, khẽ gọi"

"Vĩnh biệt em, Nhân Nhân!". Khi đó chiếc xe chở thi hài của Tiểu Cố có lẽ cũng vừa xuất phát, trên đường đi đến đài hóa thân.

Trước khi máy bay cất cánh, Úy Bân nhìn ra bên ngoài của sổ nói với tôi bằng giọng cực kỳ bình tĩnh:

"Tiểu Ảnh, thực ra em không đến đó cũng rất tốt! HÌnh ảnh của Nhân Nhân trong trái tim em sẽ mãi mãi xinh đẹp như vậy. Có lẽ cô ấy cũng không muốn em tới đó, cô ấy xinh đẹp như vậy, chắc chắn không muốn để em trông thấy cô ấy hóa thành một đống tro tàn rồi".

Tôi thấy chua sót trong lòng, cố hết sức ngăn không cho nước mắt trào ra rồi gật đầu, hắng giọng cho bớt khàn: "Phải đấy! Chúng ta đều nhớ đến dáng vẻ xinh đẹp của cô ấy".

Khi về đến nơi, tôi ở lại chung cư của Úy Bân. Từ lúc bắt đầu đi làm, nó đã không ở nhà ông bà ngoại nữa mà chuyển ra đây sống.

Tôi biết nó không bao giờ chăm sóc được cho bản thân mình, huống hồ là hiện giờ ở trong tình trạng này.

Việc đầu tiên Úy Bân làm sau khi quay về là đến ảnh viện. Tranh thủ lúc nó đi vắng, tôi quyết định ghé qua nhà xem bà nội thế nào.

Mở của ra, thấy bà đang ngồi thẳng trên ghế sa lon, mắt đeo kính lão, trong tay là một tâm kỳ bào màu tím đã thành hình. Tôi thầm hỏi:

"Bà nội cũng biết làm xường xám sao?"

Nhìn thấy tôi, bà nội ngẩng đầu lên, lấy tay đẩy đẩy chiếc kính rồi nói:

"Ảnh Ảnh về rồi ư?"

Mới mấy ngày không gặp mà trông bà đã hơi ủ rũ không vui. Nghe bà gọi Ảnh Ảnh, tôi thấy lòng mình ấm áp, bởi từ khi tôi tròn mười lăm tuổi, bà đã không còn gọi tên tôi như vậy nữa. Xem ra khí sắc của bà không tốt, nhưng tâm trạng thì vẫn ổn.

"Bà ơi, bà biết may xường xám à?". Tôi đi tới đó, cầm tấm kỳ bào đã làm được một nửa lên xem, chỉ thấy đường khâu đẹp hơn hẳn của mọi người, trông tinh xảo và phẳng lỳ, chân kim đối xứng, hoàn hảo không có một sai sót nào, bèn buột miệng khen:

"Bà ơi, bà làm đẹp quá. Từ trước đến nay cháu vẫn không biết bà may được xường xám, mà lại còn chuyên nghiệp thế này nữa!".

"Nhìn mãi thì cũng biết, xem ông cháu làm từ thời trẻ đến nay lại không biết làm hay sao?".

Bà nội bỏ kính xuống, ngồi tựa lung vào ghế thở dài một tiếng: "Chỉ có điều đã già rồi, làm một lát đã thấy mỏi hết cổ".

Tôi đặt tấm kỳ bào xuống, xoa bóp phần cổ cho bà. Nhìn thấy trên bàn trà có mấy bức hình vẽ, bên cạnh còn ghi cả kích thước, đây chẳng phải là đơn đặ hàng tôi nhận được mấy hôm trước hay sao? Tôi liền bật cười:

"Bà đang giúp cháu kiếm ăn đấy à?".

"Cứ có người gọi điện đến hỏi, bà thấy phiền phức chết đi được. Cũng không biết chừng nào cháu mới quay về, hơn nữa cháu khó khăn lắm mới đi chơi được một chuyến như vậy, bà không nỡ gọi điện quấy rầy cháu, nên đành phải rat ay giúp thôi. Ôi, già rồi, đống xương khô này không dung được việc gì nữa rồi!".

"Ai bảo thế? Bà của cháu vẫn còn khỏe mạnh vững vàng, không già một chút nào", tôi dụi đầu vào ngực bà nũng nịu. Bà vỗ vỗ lên lưng tôi với vẻ yêu thương: "Hôm nay cháu về là tốt rồi, bà cũng vui vì được nhàn rỗi". Nói rồi và kéo tay tôi ra, đi đến trước bàn thờ châm ba nén hướng như mọi khi, đưa cho tôi.

Thắp hương xong, tôi mới nói với bà: "Bà ơi, mấy ngày tới cháu sẽ không ở nhà".

"Cháu ở đâu? Ở chỗ Vân Phong à? Tiểu Ảnh, chẳng phải bà đã nói, con gái thì vẫn phải...".

Tôi ôm lấy bà từ phía sau, giọng mềm nhũn:

"Bà, bà nghĩ gì thế? Cháu đến chỗ Úy Bân ở mấy hôm, gần đây tâm trạng nó không được tốt, cháu muốn tới chăm nom nó một thời gian". Nghe thấy cái tên Úy Bân, người bà nội chợt cứng ngắc lại, tôi biết và vẫn không thể chấp nhận nổi đứa cháu đó. Quả nhiên bà chuyển giọng lạnh nhạt ngay tức khắc.

"Nó thì có gì mà tâm trạng không tốt? Không có cháu đi! Cháu đúng là đứa trẻ con, sao lại có thể quên đi vết thương lòng nhanh như vậy được? Cháu quên là mẹ nó đã làm mẹ mình thế nào rồi à?".

"Bà ơi! Đó đều là chuyện của người lớn, hơn nữa Úy Bân cũng đáng thương như cháu vậy. Bạn gái của nó vừa chết trong tai nạn giao thông. Lần đầu tiên cháu thấy nó nghiêm túc như vậy. Bà ơi, trên đời này cháu chỉ còn có hai người thân là bà và Úy Bân, cháu không muốn mất đi bất cứ người nào". Giọng nói của tôi bất giác cao lên, tôi không muốn bà nội cứ thường xuyên nhắc đến mẹ tôi như vậy.

Vẫn ôm lấy bà, tôi muốn nói với bà những nỗi lo sợ trong lòng mình biết bao. Còn muốn nói là tôi đã gặp tấm kỳ báo đó, có lẽ là nguyên nhân gây nên cái chết của một người, nhưng lại không muốn và lo lắng, không muốn bà buồn phiền, nên cuối cùng tôi kìm lại không nói ra nữa.

"Thôi được rồi, bà không giữ nữa. Chỉ là hễ nghĩ đến Yến Như, bà lại có cảm giác nhà họ Lý có lỗi với nó thôi", bà nội nghẹn nào. Yến Như là mẹ tôi.

Cũng không biết là vì bà nhắc đến mẹ tôi hay là vì nguyên nhân nào khác, nên tôi buông bà ra, sau đó đến trước bàn thờ Bồ tát thắp thêm một nén nhang. Đây là lần đầu tiên tôi cầu khẩn trước mặt Bồ tát, nói một cách thành khẩn từ đáy lòng mình: "Xin Bồ tát hay che chở cho cả nhà chúng con!".

Bà nội nhìn thấy tôi thắp hương, định nói gì song lại thôi.

Khi tôi quay lại nhà Úy Bân đã là năm giờ chiều, nó đã về từ trước, đang nằm trên sa lon hút thuốc. Trong gạt tàn đã đầy những đầu lọc, còn lại trên mặt sàn lăn lóc đầy những vỏ lon bia Hỷ Lục. Tôi lắc lắc đầu, đi tới đó, nhìn thấy một đống ảnh đang để trên bàn trà.

Cầm một bức lên xem, người trong ảnh cười tươi với đôi mắt sáng trong, xinh tươi rạng rỡ, chính là Tiểu Cổ. Cô ấy đứng làm dáng điệu đà trên bè trúc, phía sau lưng là cảnh núi non tươi đẹp. Hóa ra buổi sáng Úy Bân đến cửa hàng rửa ảnh. Tôi xem hết tấm này đến tấm khác, mười tấm cuối cùng là chụp Tiểu Cổ mặc "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào". Quả nhiên con bé mặc chiếc áo này cực kỳ hợp dáng. Màu xanh sẫm làm nổi bật lên cánh tay trắng như ngó sen, vẻ đẹp lung linh, khuôn mặt trong sáng như tranh vẽ.

Đầu tôi đột nhiên hơi choáng váng, chỉ thấy khuôn mặt Tiểu Cổ trong bức ảnh bắt đầu thay đổi, lông mày dày hơn, hai mắt trợn trừng hằn lên tia máu, đôi môi cũng biến thành màu máu, hai chiếc răng nanh bỗng nhiên dài ra hai bên khóe miệng, còn tấm kỳ bào con bé mặc trên người cũng nứt toác ra, để lộ ra làn da trần đang chảy máu. Từng dòng máu lăn xuống, khi chảy qua tay tôi mang theo cảm giác lạnh lẽo vô cùng. Tôi hoảng sợ ném phăng mấy bức ảnh xuống bàn, tựa vào tưởng thở gấp. Khi cúi đầu lại nhìn lại, đã không còn thấy vết máu trên những bức hình, tất cả đã phục nguyên trạng ban đầu.

Khi tôi quay đầu nhìn lại, Úy Bân vốn đang nằm trên ghế salon đã đứng dậy từ bao giờ, đang cười với tôi, mắt nheo lại, răng nhe ra, bộ dạng như kẻ ngẩn ngơ. Từ trước đến nay Úy Bân chưa bao giờ cười như vậy, nó đi ra phía cửa sổ. Ánh mắt tôi nhìn theo chân nó, phát hiện ra bên ngoài cửa sổ có môt cái bóng nhỏ nhắn, là một người phụ nữ. Cô ta cúi đầu, miệng phát ra tiếng cười khúc khích nghe sao ảm đạm.

Khi Úy Bân sắp chạm vào cửa sổ, cô ta chợt ngẩng đầu lên, cười thành tiếng với Úy Bân. Tôi lập tức nhìn rõ khuôn mặt đó- là thiếu phụ họ Lạc. Đằng sau lưng cô ta còn một người con gái nữa, trông bộ dạng hết sức khủng khiếp, máu me be bét, giống hệt dáng vẻ của Tiểu Cổ khi bị ô tô đâm chết. Bọn họ chìa cho Úy Bân cánh tay trắng đến rợn người, còn Úy Bân thì ra sức giữ họ lại, cơ thể bắt đầu rời khỏi mặt đất. Tôi bất chợt tỉnh táo hẳn ra, trong lúc cấp bách đã nghĩ ngay tới Đường Triêu, bèn lộn tung túi xách lấy chiếc đèn pin anh ta cho rồi bật sáng lên. Căn phòng vốn đang âm u bỗng nhiên sáng như ban ngày, tôi nghe thấy hai tiếng rên ai oán, tiếp theo đó là một tiếng bịch, Úy Bân đã ngã ngồi xuống đất.

"Úy Bân, Úy Bân!", tôi chạy vội tới ôm lấy nó.

"Chị, em bị làm sao thế?". Úy Bân ngước mắt lên nhìn toi hoang mang. Nhìn qua với nó, tôi đột nhiên phát hiện ra trên giá phơi quần áo bên ngoài ban công có một tấm kỳ bào màu xanh sẫm, chính là tấm "Tân Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào" mà tôi đã vứt xuống sông hôm đó. Vì sao nó lại ở đây được? Lẽ nào tôi đã vứt nhầm? Tôi bám lấy Úy Bân hỏi:

"Chiếc xường xám treo trên giá treo quần áo là do em treo lên ư?"

"Vâng, em lấy nó trong túi xách ra", Úy Bân gật đầu.

Tôi nhớ rõ ràng khi còn ở Lệ Giang tôi đã vứt nó xuống sông kia mà! Lẽ nào tôi nhớ sai? Hoặc là vứt nhầm chiếc khác? Tôi cố gắng nhớ lại, đến cuối cùng thì cũng không thể khẳng định nổi là mình đã vứt nó đi thật hay chưa.

"Úy Bân, em cầm lấy chiếc đèn pin này, đừng có tắt đi đấy. Chị cần đi ra ngoài một lát, sẽ lập tức quay về ngay". Tôi nhớ đến Đường Triêu, hiện giờ chỉ anh ta mới có thể giúp chúng tôi. Có lẽ khi tìm được anh ta, tôi sẽ có thể giải quyết được những chuyện mà tôi không thể làm nổi này.

Khi tôi đi taxi đến cửa hàng của Đường Triêu, anh ra đang pha trà xanh, mùi thơn của trà xộn ngay vào mũi. Màu xanh của lá trà đang dần dần hòa tan vào trong nước, trông như một tấm lụa mỏng màu xanh nhạt. Anh ta vẫn mặc bộ quần áo đời Đường, bàn tay thon dàu cững chãi cầm chén trà, khi nhìn thấy tôi liền cười: "Cô Lý, lâu rồi không gặp!".

"Đường Triêu, anh phải giúp tôi!". Tôi ngồi còn chưa vững đã vội vàng nói ngay.

"Đừng vội, từ từ nói đi!".

Anh ta đưa cho tôi một chén trà, những ngón tay khẽ gõ lên mặt bàn, âm thanh mang tiết tấu đó khiến cho trái tim đang bấn loạn của tôi dần dần trở nên bình tĩnh. Cuối cùng Đường Triêu nói với tôi, anh ra có hiểu một chút về Phạn âm, mới rồi thấy tôi căng thẳng quá nên đã dùng âm thanh ấy để giúp tôi bình ổn lại.

Tâm trạng ổn định hơn, song tôi cũng không còn lòng dạ đâu mà uống trà, kể ngay cho Đường Triêu nghe những chuyện mình đã trải qua:

"Bạn gái của em tôi vừa qua đời vi tai nạn xe hơi. Em trai tôi nói lúc trước xảy ra sự cố có thấy một vài hiện tượng kỳ lạ, người tài xế gây ra tai nạn đó có nhờ lại vì gặp một người phụ nữ lên mới xảy ra chuyện đó, còn nói người phụ nữ đó không có chân, song ở hiện trường nơi xảy ra tai nạn thì không có nhân chứng nào nhìn thấy cô ta cả".

"Sao?".

Tôi kể hết một lượt lại cho Đường Triêu nghe, nhưng không biết vì sao lại không nhắc đến "Tần Hoài đăng ảnh thanh kỳ bào" với anh ta. Tôi cũng không biết vì sao tôi lại giấu chuyện đó, có lẽ theo bản năng không muốn nói với người nào.

Đường Triêu nghe xong liền chau mày lại: "Không đúng, không thể vô duyên vô cớ mà xảy ra những chuyện này được, nhất định phải có người nào hoặc vật gì đó gây ra. Cô thử nghĩ lại xem!".

Anh ta nhìn xoáy vào tôi, hơi nghi hoặc.

Tôi tránh ánh mắt đó, ôm lấy đầu: "Tôi không biết, tôi quả thực không biết. Tôi sợ lắm, nếu vừa rồi không phải có chiếc đèn pin anh đưa cho thì Úy Bân đã... Tôi quả thực không dám nghĩ nữa, vì sao nó lại đến tìm bọn tôi".

"Tiểu Ảnh, cô đang giấu tôi điều gì? Chắc chắn còn chuyện mà cô biết nhưng lại giấu không muốn nói cho tôi", Đường Triệu nắm lấy hai cánh tay tôi, nhìn tôi nói với vẻ kiên định: "Tiểu Ảnh, hãy tin tôi, tôi sẽ giúp cô".

Nhìn thấy sự chân thành trong đôi mắt anh ta, nghĩ đến chiếc xường xám đã vứt đi rồi vẫn có thể quay trở lại, tôi quyết định không giấu giếm gì thêm nữa:

"Là một tấm kỳ bào, một tấm kỳ bào từ thời Dân quốc".

Tôi kể hết tất cả mọi chuyện cho Đường Triêu nghe. Khi đến đoạn tôi gặp hiện tượng lạ kỳ khi xem ảnh của Tiểu Cổ, anh ta chau mày nói:

"Không lẽ nào chứ! Vì sao bọn họ lại muốn tìm Úy Bân? Chẳng phải từ trước đến nay nó chỉ đòi mạng phụ nữ hay sao? Nếu như Tiểu Cổ đã chịu kiếp nạn này thay cô, vậy tại sao người tiếp theo lại là Úy Bân chứ không phải là cô?".

"Tôi cũng không biết là tại sao", tôi lắc đầu.

"Phải rồi, trên người cô có là bùa mà tôi cho".

Tôi cúi đầu xuống nhìn, thấy trên cổ mình đeo lá bùa hộ thân, cuối cùng cũng hiểu vì sao cô ta không tới tìm mình. Tôi vội bám lấy Đường Triêu:

"Hay xin giúp tôi một tấm cho Úy Bân được không?"

"Được, chờ một chút. Mới rồi cô nói nhìn thấy cả thiếu phụ họ Lạc và Tiểu Cổ đúng không? Bọn họ kéo Úy Bân ư?", Đường Triệu hỏi.

"Phải!".

"Mau đi thôi. Úy Bân đang gặp nguy hiểm rồi". Anh ta kéo áo tôi cùng chạy ra ngoài.

"Tôi đã đưa đèn pin cho Úy Bân, bảo nó để sáng liên tục".

"Đèn pin không thể bật liên tục được, bởi vì pin tối đã chỉ có thể duy trì được trong một giờ thôi, thế nên chỉ lúc bật lúc tắt được".

Nghe Đường Triêu nói, tim tôi căng thẳng như muốn nhảy ra ngoài, chỉ có một giờ thôi ư? Từ lúc tôi đi tới giờ đã ba tiếng rồi, Úy Bân sẽ không xảy ra chuyện gì chứ? Không, không, nhất định không thể có chuyện gì với nó được.

Trên đường về gù không bị kẹt xe, song tôi vẫn cảm thấy tốc độ quá chậm, còn thời gian thì trái lại trôi đi quá nhanh, kim phút quay hết một vòng thì tim tôi cũng bị co thắt thêm một phần.

Mở cửa ra, bên trong là một bóng tối dày đặc, yên tĩnh vô cùng, yên tĩnh tới mức tôi có thể nghe thấy tiếng tim mình đập. Mùi hơi người duy nhất mà tôi có thể ngửi thấy trong phòng là mùi bia đã chua, khi ấy tôi hy vọng biết bao rằng Úy Bân đang trốn trong một góc nào đó uống đến say mèm.

Tôi mò mẫm bật đèn. Trên sàn vẫn đầy những vỏ lon bia lăn lốc. Úy Bân không năm trên ghế salon, cũng không say ngã trong góc nào đó của phòng khách.

Đi vào phòng ngủ, cũng không có. Gọi vào điện thoại di động của nó, thấy tiếng chuông vang lên trong khe ghế salon. Trong đống ảnh để trên bàn, tôi nhìn thấy chiếc đèn pin nhỏ xinh đỏ đang tỏa ra chút ánh sang vàng đục yếu ớt cuối cùng, yếu ớt đến mức khiến cho trái tim người ta như bị thắt chặt lại, lẽ nào Úy Bân... ?

Ngẩng đầu lên nhìn ra ban công, giá treo quần áo đã trống không, không còn tấm kỳ bào đó nữa. Kính cửa sổ phản chiếu khuôn mặt mờ nhòa của tôi và cả dáng hình Đường Triệu. Tôi quay người lại nhìn anh ta, anh ta cũng nhìn tôi, chúng tôi cứ đứng như vậy nhìn nhau, cả hai đều đờ đẫn, không nói một câu nào, song đều cảm thấy bất an.

Cứ lặng lẽ như vậy, trong không gian ngoài hơi thở gấp của chúng tôi, bắt đầu thoảng lên mùi máu tanh nồng.

Gần như cùng lúc, tôi và Đường Triêu quay nhìn về phía nhà tắm.

Tôi run rẩy đi về phía đó, ngay cả dung khí gọi tên Úy Bân lên cũng không còn. Mỗi bước tiến đến gần cánh cửa đó hơn, mùi máu càng đậm hơn, càng gần càng đậm đặc. Cuối cùng tôi lấy hết dũng khí đẩy bật cánh cửa ra, nhắm mắt bước vào. Chiếc giày vải màu trắng của tôi lập tức được nhuộm thành màu đỉ. Úy Bân nằm trần truồng trong bồn tắm, tay phải gác lên thành bồn, máu ở cổ tay đã đông kết lại thành cục màu đỏ sậm. Quần áo của nó cũng vắt trên thành, dưới sàn là con dao của người Tạng mà nó đã mua trong chuyến đi Tây Tạng năm ngoái, lưỡi dao cong cong nhuốm đầy máu nên đã không còn nhìn thấy ánh sang nguyên bản nữa.

"Úy Bân đang cười đấy, khóe miệng nó hơi hé lên đầy này, cười như đang nằm mơ vậy. Từ sau khi Tiểu Cổ chết, tôi chưa từng thấy nó cười. Giờ thì cuối cùng nó cũng cười rồi. Trông khi cười nó rất đẹp trai đúng không?"

Tôi quỳ xuống, vuốt má Úy Bân tồi ngẩng lên nói với Đường Triêu. Tôi không biết vẻ mặt tôi lúc ấy thế nào, nhưng anh ta không nói gì, mỗi khi tôi nói một câu anh ta đều gật đầu. Tới lúc nói xong, tôi không thể kìm nén hơn được nữa, bật khóc thành tiếng.
 
Quay lại
Top Bottom