Quốc bảo chân kinh: Long hoa mật tạng quyển 2

shopoga

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
3/9/2023
Bài viết
592
QUYỂN 2







CHƯƠNG 7



PHẦN 4



TRANH GIÀNH THUỘC ĐỊA.



Kinh Dương Vương nói:

Này con! Trường phái Duy vật bị trường phái Thần giáo đánh bại, mang hận thù đi về phương Tây. Còn nhắc nhở rằng sẽ đánh bại phái Thần giáo không xa khi xã hội Vua, Chúa phát triển.




Các Bộ Lạc Chúa Đất ở phương Tây, đón tiếp trường phái Duy vật biện chứng vào hàng thượng khách, làm tôn sư thay thế cho phù thủy. Mở ra đường hướng chính trị thôn tính Độc Bá Thiên Hạ, tiến tới công lệ thay cho giáo Điều phù thủy. Điều lệ của Chúa Đất trước đây. Đặc ra kế sách khai thác tài nguyên thiên nhiên như Vàng, Bạc, Đồng Thau, Lộ Thiên v.v… Rèn luyện lên Đao, Búa, Tên, Giáo v.v.. Từ nền phong kiến Chúa Đất chuyển sang giai đoạn sơ khai phong kiến độc tài Vua, Chúa. Các Chúa Đất lạc hậu liền bị thôn tính hoặc bị diệt trừ mở màn chiến tranh mỗi lúc một quy mô. Tranh giành nổi lên, tranh giành thuộc địa, thắng là Vua thua là giặc, thật ra mà nói giặc hay Vua cũng chẳng khác gì nhau. Những kẻ bị bắt làm tù binh với khẩu hiệu thuận ta thì sống, chống ta thì chết. Thây chất thành đống, máu nhuộm đỏ sông, từ chiến tranh, tranh giành thuộc Địa. Có chổ biến thành chiến tranh diệt chủng.



Có thể nói nền phong kiến độc tài Thần giáo ở phương Đông đã đến hồi cực Thịnh, trở thành phong kiến Đế, Vương, Vua, Chúa thịnh hành ra đời. Thôn tính các Bộ Lạc, các Bộ Tộc trở thành cường quốc thế lực lớn lên từng ngày. Thật ra mà nói các dân tộc các Bộ Lạc, các Vương Quốc đều phát nguồn từ Hồng Bàng, Hồng Đế mà ra. Sự xưng Đế, Xưng Vương đã có từ lâu lắm rồi. Nước Xích Quỉ thời Kinh Dương Vương ta theo dòng chảy lịch sử lâu đời từ thời Hồng Đế tới bấy giờ. Thời Đại Kinh Dương Ta cũng đã kéo dài gần hai nghìn năm, cũng đã đến thời cực thịnh khó mà tránh khỏi kiếp nạn.



Với hàng chục Bộ Tộc, Bộ Lạc, Vương Quốc lớn, Vương Quốc nhỏ, bao bọc xung quanh nước Xích Quỷ ta. Đáng ngại nhất là phương Bắc, bên kia bờ sông Trường Giang, các Vương Quốc lớn đã có mưu đồ từ lâu, thôn tính nước ta. Tuy việc chưa xảy ra nhưng cũng cần tính trước chuẩn bị khi cần. Nếu chúng ta tới đâu hay tới đó, một khi chiến tranh xảy ra, thời bị động khó đối phó kịp. Cảnh chết chóc, nhà tan cửa nát, quê hương làng xốm tiêu điều, chiến tranh, tranh giành thuộc địa là chiến tranh mạnh được yếu thua, chiến tranh diệt chủng. Địa ngục, nô lệ, tù đày đến với con người nhanh hơn tên bắn. Xã hội nhân loại đại loạn không luật lệ gì cả, giải quyết với nhau bằng gươm, đao, giáo, mác mà thôi.



Cha đã xem kĩ Phong Thủy Địa Mộc nước Xích Quỷ ta. Chỉ có lợi cho mặt chăn nuôi, trồng trọt, đánh bắt cấy lúa. Nói chung là thuận lợi cho mặt làm giàu, đất đai phần nhiều là bằng phẳng, ít hiểm trở, sông ngòi kinh rạch chằn chịt, thông ra biển. Nước ta tuy lớn nhưng nằm ở thế bao vây, thế lực từ các dãy núi cao đánh xuống, Lĩnh Nam yêu quái đánh ra, ngoài biển đánh vào, các thế lực phương Bắc đánh vô, thời nước Xích Quỉ ta dần thu hẹp lại. Nhưng Cha vẩn chưa tìm ra giải pháp ứng phó, về lâu về dài. Theo Cha nghĩ chỉ có một cách duy nhất, muốn giữ được non sông màu mở nầy, thời phải có hai loại vũ khí, không phải là loại vũ khí Đồng Thau tầm thường mà là thứ vũ khí Bảo Bối hiện đại vũ trụ, có thể một nhác Đao nhác Búa tiêu diệt cả Đại Quân xâm lược. thứ Bảo Bối thứ hai là Bảo Bối Binh Pháp Trí Tuệ, điều khiển Thiên Hạ muôn người như một. Tập hợp sức mạnh toàn dân tộc thành một khối thống nhất, nhất hô bá ứng. Mỗi người dân là một Dũng sĩ diệt giặc, nước Xích Quỷ như một bó đủa khổng lồ không ai địch nổi nữa. Ngoại xâm kéo đến chỉ có đi mà không có về. Nước Xích Quỷ ta từ lâu lúc nào cũng phòng thủ chuẩn bị cho tình huống xấu nhất xảy ra.



Kinh Dương Vương nói:

Phái Thần giáo thuộc Dương sẽ có lợi cho dân tộc về mặt tinh thần nhưng có hại cho dân tộc về mặt phát triển vì xu thế mê tín nô lệ Thần Quyền, đời sống vật chất, lệ thuộc Thần Linh nhiều quá. Trước bối cảnh thiên nhiên như nắng hạn, Lụt Bão, ốm đau dịch bịnh, không lo tìm ra phương pháp cứu chữa, chỉ lo cầu cạnh lễ cúng tế Thần Linh mà quên đời sống có làm mới có hưởng. Chiến đấu với bệnh tật, không ngoài tìm ra phương thuốc trị bệnh. Chiến đấu với cái đói cái nghèo, không ngoài tìm toài phát minh khoa học biết vận dụng sức mạnh thiên nhiên làm lợi cho cuộc sống con người. Đẩy lùi lạc hậu con người không ngoài nâng cao trình độ nhận thức. Lệ thuộc nô lệ vào Thần Linh nhiều quá, không tự bảo vệ được mình, thời bảo vệ xã hội sao nổi, nói gì đến non sông Tổ Quốc. Nếu không tìm tài phát minh sáng kiến tiêu diệt đẩy lùi bệnh tật, đói nghèo, lạc hậu là mối lo chung cho toàn xã hội. Nếu không hạn chế lệ thuộc thiên nhiên cũng thời tiết, thời tai họa ập đến khó mà lường, những năm xảy ra đầy khắc nghiệt, hạn chế thất thu, dân tình đói khổ. Làm Vương một đất nước mà không giữ vững được đời sống ấm no cho muôn dân. Thời không đánh giặc, giặc cũng đánh ta.



Một khi chiến tranh đã nổ ra. Thời Thần Linh cũng vô phương cứu chữa, không ngăn nổi chiến tranh. Thờ phụng Thần Linh là một điều tốt, hể có cảm thời có ứng. Nhưng Thần Linh không phải là Đấng tối cao Quyền Năng Vô Hạn nên Thần Linh cũng bất lực trước thiên nhiên, trước xung đột chiến tranh. Vì vậy phái Thần giáo cũng không giải quyết được gì lớn lao cho con người cho non sông Tổ Quốc nước Xích Quỷ Ta về sau. Nhất là các thế lực đang trên đà hùng mạnh dồm ngó đến đất nước ta.



Nhưng nước Xích Quỷ ta chỉ biết lao theo quyền lực lạm dụng độc tài độc trị, làm cho ai cũng phải khiếp sợ. Theo xu hướng phái Duy vật, chỉ biết tôn thờ cái lợi trước mắt mà quên đi cái hại về sau. Đẩy tình thế vào cuộc tranh giành quyền lực thảm khốc như các thế lực tranh giành thuộc địa ở phương Tây. Có nơi đi đến cảnh diệt chủng. Theo Quốc Sư Thục Lục nước Xích Quỷ Ta, ngựa chiến nhiều quân lực phải mạnh, lương thực đầy đủ, Vũ khí sắc bén nhất là cung tên đao giáo kiếm. Phát huy giáo dục tinh thần yêu nước thời khó nước nào đánh bại được nước Ta.



Thái Tử nói:

Thưa Cha! Quốc Sư Thục Lục là người biết lo xa các nước hùng mạnh khác chưa dám tấn công xâm lược nước ta. Là vì chúng thấy Quốc Vương nước Xích Quỷ không tửu sắc, không tham tàn bạo ác rất được lòng dân hơn hẳn những các Quốc Vương khác, lại có một vị Quốc Sư lắm tài ba khó có ai hơn được. Nhưng đó chỉ là hiện nay mà thôi còn về lâu về dài khó mà nói trước. Cuộc thế chuyển xây thay đổi bất thường.



Theo như con nghĩ:

Một Quốc gia hùng mạnh ấm no hạnh phúc trên hẳn các Vương Quốc khác, xã hội đó có đủ hai yếu tố, văn minh tinh thần, văn minh vật chất. Văn minh vật chất là yếu tố tiến lên dân giàu nước mạnh, giàu về kinh tế, mạnh về quân lực. Văn minh tinh thần là văn minh Chính Nghĩa, nâng cao trình độ dân trí chấn hưng dân khí. Văn Minh tinh thần là Văn Minh Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp phục vụ công bằng văn minh xã hội, thời đất nước đó mới thật sự hùng mạnh, thật sự dân giàu nước mạnh, thời coi như đánh bại hơn một nữa ý chí xâm lược của các thế lực ngoại xâm. Ngăn chặng được ngoại xâm mà không cần động đến gươm đao giáo mác.



Muốn có được xã hội như vậy không thể tìm thấy ở trường phái Thần giáo hay ở các vị Thần Linh. Cũng không thể tìm thấy ở trường phái Duy vật tôn thờ khoa học hay ở nhà khoa học mà là ở vị Quốc Vương sáng suốt, thực hiện đường lối đúng đắng thông thoáng rộng mở, lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh sẳn có nơi dân. Làm tiền đồ cho non sông Tổ Quốc, tận dụng Tinh Hoa trường phái Thần giáo cũng như trường phái Duy vật giáo làm lợi cho xã hội cho Tổ Quốc. Như con ong chăm chỉ, chỉ lấy mật không lấy hoa. Chỉ vận dụng tinh hoa Duy Tâm Thần Giáo, Duy Vật Biện Chứng. Mà không cần dùng đến phái Duy Vật, hay phái Duy Tâm. Hai trường phái nầy đều cản trở cho việc phát triển văn minh xã hội.



Nói cho cùng Văn Minh vật chất đưa xã hội đến no cơm ấm áo, binh hùng cường mạnh, xã hội giàu sang, Tổ Quốc giàu mạnh, không sợ đói nghèo.



Văn minh tinh thần là văn minh Văn Hóa Chính Nghĩa là rường cột trật tự xã hội, cốt lõi tạo lên nội lực non sông Tổ Quốc. Tạo lên khí thế tinh thần yêu nước, tạo lên sức mạnh đoàn kết muôn người như một sức mạnh dời non lấp biển. Cũng như con người đứng vững là nhờ cốt lõi bộ xương cứng cỏi vững vàng của con người. Tinh Thần đứng vững là nhờ cốt lõi của văn hóa truyền thống. Nếu biết vận dụng tinh hoa hai trường phái Duy tâm lẫn Duy vật thời đất nước đó là đất nước bất bại, khó đất nước nào đánh bại được. Dù cho đó là cường quốc lớn hơn gấp năm bảy lần.

*********



Hết phần 4 chương 7 mời xem tiếp phần 5 chương 7 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng Kinh là Văn Kinh tối thượng thừa, chỉ cần nhớ một câu một chữ không quên, lại hiểu rõ ý nghĩa câu kinh ấy thời coi như không còn sa đọa xuống địa ngục. Vì sao lại có hiệu lực như vậy. Vì kinh văn Long Hoa Mật Tạng Kinh, là Kinh Văn Mật Tạng, Kinh Văn Thượng Thừa của các loại Kinh, không những tối đại linh thiên mà còn thậm thâm vi diệu. Nơi nào có Kinh Long Hoa Mật Tạng. Thời nơi đó có Hồn Thiên Dân Tộc phò trì, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, che chở. Vượt qua tất cả kiếp nạn.

Nơi nào có Kinh

Nơi đó có Quốc Tổ Vua Hùng

Hồn Thiêng Dân Tộc trùng trùng

Phò trì hộ giá, Thánh, Thần chở che.
 
CHƯƠNG 7



PHẦN 5



CHỦ NGHĨA THỨ BA



Kinh Dương Vương nói:

Tinh hoa của hai trường phái đó là gì. Nếu xử dụng cả hai trường phái đó thời khó mà hòa hợp được. Vì hai trường phái ấy như nước và lửa, như âm và Dương, khó mà dung hòa hai trường phái lại với nhau. Ở phương Đông ta chưa có vị nào đủ sức kết hợp hai trường phái ấy thành một, làm lợi ích cho quốc gia xã hội.



Thái Tử nói:

Thưa Cha! Sự sống con người là sự sống Tâm Linh và Thể xác luôn song hành, cuộc sống xã hội con người là cuộc sống tinh thần lẫn vật chất. Thần Linh và các nhà Bác Học, khoa học không thể thiếu trong đời sống xã hội, cũng như con người. Vì thế duy vật cũng như duy tâm đều quý cả nếu biết tận dụng lấy nó.



Ở đây con muốn nói là:

Cha có thể vận dụng cái hay Tinh Hoa của hai trường phái. Trường phái Duy Tâm Thần Giáo cái hay ở đây là sự tín ngưỡng Giáo dục, giáo điều chân chính của duy tâm Thần Giáo. Kết dính nhân loại lại với nhau, đồng chung sự tôn thờ, cũng như sự tôn nghiêm trong cuộc sống. Ổn định xã hội về mặt Tinh Thần. Giáo điều của các đấng Thần Linh bao giờ cũng có hiệu quả hơn là Vương Quan truyền dạy.



Cái lợi của Trường Phái Duy Vật là làm cho con người nhận thức về khoa học chuyên sâu về vật chất và sự đấu tranh tồn tại, mình muống sống vững thời đứng lên từ đôi chân tự bảo vệ mình, tin vào chính mình và luôn hướng tới đạt được mục đích những gì mình muốn. Sức mạnh kết hợp tinh hoa giữa Duy Tâm cùng Duy Vật làm lợi cho xã hội. Văn Minh vật chất lẫn Tinh Thần.



Mọi vạn vật sống trên đời, sự sống bao giờ cũng song hành cả Âm lẫn Dương ở cảnh giới Trung Hòa, hòa hợp lẫn nhau đồng tiến hóa. Nếu chỉ Âm không, hay Dương không, khi đã đến thời kỳ quá độ không những khó phát triển, mà tự nó trở lại xung đột lẫn nhau hủy diệt nhau. Sự ở đời cũng cho ta thấy Âm Dương tượng hiệp vạn vật hóa sanh. Nam Nữ trao trinh sanh con cháu lưu truyền.



Để nhận thức được rõ hơn về tinh hoa của hai trường phái, thời phải lắng nghe hai trường phái thuyết giáo, lọc lừa những tinh hoa những mặt có lợi an dân trị quốc. Cha chính là con ong chăm chỉ, tận tị lắng nghe, khi nào nào hai đóa hoa Duy Tâm lẫn Duy vật không còn mật để hút nữa thời thưởng vàng bạc châu báu cho họ, không xài họ, lấy kiến thức của người, không lấy người. Lấy cái hay của trường phái không xử dụng trường phái. Cũng như con ong chỉ lấy mật không lấy hoa.



Các loài hoa tuy khác nhau về màu sắc, về hình dạng nhưng Tinh của các loài hoa đồng cùng vị ngọt, không xung khắc nhau. Không những dùng mật ong trị bịnh mà còn bỗ dưỡng nữa. Không những trường phái Duy Tâm, Duy vật, còn nhiều trường phái nữa. Chúng đều có tinh hoa của chúng, ta cần nhiều trường phái, không phải dùng họ mà tôm gốp tinh hoa của họ, dung hòa thành một. Mở ra một hướng đi mới. Hướng đi trong lòng người, trong lòng nhân loại, đưa xã hội tiến lên một tầm cao. Chủ Nghĩa Đại Đồng. Chủ Nghĩa nhân quyền, Dân Chủ. Chủ Nghĩa Công Bằng Bình Đẳng xã hội.



Kinh Dương Vương càng nghe càng sáng mắt ra, hết kinh ngạc nầy đến kinh ngạc khác.



Kinh Dương nói:

Xưa nay, Cha chưa từng nghe nói một chủ nghĩa lạ lùng như vậy. Không hiểu chủ nghĩa ấy có thực hiện được không? đưa đến dân giàu nước mạnh không? Có chống đở nổi các thế lực ngoại xâm không?



Thái Tử Nói:

Chủ nghĩa Đại Đồng là chủ nghĩa lấy Quyền con người làm nền tản Nhân Quyền. Chủ nghĩa lấy Dân làm Gốc Dân Chủ. Đất nước Xích Quỷ Ta không chỉ một dân tộc mà đa dân tộc (đa sắc tộc) có trên mấy mươi Bộ Lạc, mỗi Bộ Lạc điều có phong tục tập tập quán bản sắc riêng. Dân Tộc Đa Nguyên như nước Xích Quỷ ta. Không phù hợp thể chế độc tài độc trị. Mà chỉ phù hợp thể chế Đa Nguyên.



MỘT ĐẤT NƯỚC CHUNG CÙNG ĐA BỘ LẠC, ĐA SẮC TỘC NHƯ THẾ THỜI PHẢI SỐNG DƯỚI NGÔI NHÀ CHUNG HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. ĐƯỢC THIẾT LẬP TRÊN NỀN TẢN CHUNG ĐA NGUYÊN, NHÂN QUYỀN, DÂN CHỦ.




Chủ Nghĩa Đại Đồng là chủ nghĩa Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ. Tiến tới Chủ Nghĩa Đa Nguyên Thiên Quyên Nhân Chủ. Chủ Nghĩa bao hàm cả cái Chung lẫn cái Riêng là một. Thống nhất cùng chung quyền lợi, giữa cá nhân cũng như tập thể, giữa Tư Hữu và Công Hữu. Xã hội vừa khoa học vật chất vừa truyền thống Tâm Linh, xã hội Thần Thánh, xã hội Công Bằng văn minh. Tất cả đều sống theo Đạo Pháp Truyền Thống. Sống theo Hiến pháp Nhân quyền Dân Chủ. Sống theo Luật pháp Công Bằng Bình Đẳng. Vương, Quan là đầy tớ trung thành của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, phải nói là tuyệt đối trung thành, truyền thống Đạo Pháp dân tộc, trung thành Hiến pháp, Luật pháp mà Quốc Vương là vị tối cao Đại Diện cho mọi tần lớp nhân dân thể hiện sự Trung Thành đó.



Nắm vững Cán Cân Công Lý. Thi Hành Đạo Pháp truyền thống dân tộc, thi hành nhân quyền con người, thi hành Luật pháp Công Bằng xã hội. Các cấp Chính Quyền, Vương Quan các cấp cầm cân nẫy mực, làm trọng tài cho cạnh tranh bình đẳng, đưa xã hội lên một tầm cao. Không những giữ vững Độc Lập mà còn làm khiếp đảm các thế lực ngoại xâm, một đất nước toàn dân đều là làm chủ đất nước đó. Thử hỏi nước nào mạnh hơn để mà xâm lược.



Một đất nước mà toàn dân đều có bổn phận đối với xã hội đối với non sông Tổ Quốc, đối với truyền thông anh linh dân tộc. Tuân thủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, thời không nói cũng biết đất nước đó hùng mạnh tới mức độ nào. Một đất nước mà có Tam Bảo Chí Tôn, chính là Nền Quốc Đạo dân tộc. Dân đã có gốc thời dân mạnh vô cùng, Chủ Nghĩa Đại Đồng đa nguyên Nhân Quyền Dân Chủ là Chủ Nghĩa thật sự của dân, do dân và vì dân. Nhà nước lấy Quyền con người làm nền tản lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh Dân Chủ toàn dân, thời khó khăn nào cũng vượt qua kẻ thù nào cũng đánh thắng, kinh tế, chính trị, quân sự vững như núi như non.



Sự hưng thịnh của nền Phong Kiến Thần Giáo đã tới hồi cực thịnh suy vong, nhất là ở phương Đông chúng ta. Phía bên kia bờ Bắc thượng nguồn sông dương tử trường giang. Có Vương Quốc đã chuyển sang Phong Kiến Chế Độ Vua Chúa, kiến lập lên nhiều giáo điều, quân lực, xã hội, chính trị càng ngày càng thêm cũng cố. Muốn chuyển xây tình thế chúng ta vượt lên trên phong kiến Chế Độ Vương, Vua, Chúa. Tiến tới xã hội mạnh về Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp truyền thống Chính Nghĩa, mạnh về khoa học đời sống, đưa giáo dục Văn Hóa lên hàng Quốc Sách, vượt lên trên Thần Giáo. Xóa bỏ mê tính tiến lên chánh tín khoa học, Đạo Đức đời sống Tâm Linh. Thời không còn lo sợ gì nữa.



Thái Tử Hùng Lan thấy Cha có vẽ lo lắng về tương lai luận thuyết của mình, liền nói thêm rằng:

Thưa Cha con đã có cách và tìm ra hướng đi mới. Kinh Dương Vương nghe con nói thế liền phấn khởi tin tưởng những gì tương lai của con mình. Kinh Dương Vương khen con không những có chí lớn, mà còn biết lèo lái con thuyền vận mệnh dân tộc, tài lắm, tài lắm.



Kinh Dương Vương bất ngờ hỏi:

Con đã tìm ra Căn Cội, Chủ Nghĩa thứ ba Chủ Nghĩa Đại Đồng Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ rồi sao?



Thái Tử nói:

Thưa Cha đúng vậy. Không đánh mà thắng, gồm thâu thiên hạ về một mối, đó là thượng sách. Bất chiến tự nhiên thành. Nhưng làm được điều này rất khó, phải thật sự làm chủ Tâm Linh của mình.

Thông đạt chứng ngộ đến tận cùng vũ trụ.

Tận cùng nguồn gốc của thế giới vật chất.

Tận cùng nguồn gốc nhân loại con người.

Tận cùng nguồn gốc Tâm Linh con người.




Tạo ra Chủ Nghĩa thứ ba. Chủ Nghĩa thật sự Công Bằng Bình Đẳng văn minh. Chủ Nghĩa của Nhân Loại, do Nhân Loại, vì Nhân Loại. Chủ Nghĩa của sự đoàn kết, chủ nghĩa của sự hùng mạnh văn minh vật chất, văn minh tinh thần. Chủ Nghĩa của sự Độc Lập vĩnh cửu. Chủ Nghĩa Thần Thánh. Chủ Nghĩa của sự giàu sang, tự do hạnh phúc.



Dùng vũ lực, bạo lực, gươm đao, giáo mác, cung tên, ngựa hay voi tốt, mưu mô xảo quyệt, biết người biết ta, giành lấy thiên hạ chỉ là hạ sách mà thôi. Xây dựng cơ nghiệp hoặc bảo vệ cơ nghiệp trên đường lối, đường hướng Tà Đạo như vậy. Thời Độc Lập lâu dài không bền vững. Thời gian sẽ vùi lấp tất cả.



Kinh Dương Vương nghe nói đến bốn chữ không đánh mà thắng gồm thâu thiên hạ về một mối, bất chiến tự nhiên thành, thời hỏi:

Điều này có thật không?



Thái Tử đáp:

Thưa Cha có ạ; Đó là Thiên Đạo vũ trụ Văn Hóa Cội Nguồn. Chỉ có Đạo Trời mới gồm thâu muôn vật, mà chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn mới gồm thâu được nhân loại thiên hạ. Văn Hóa Cội Nguồn là đỉnh cao Tinh Hoa của nhiều trường phái Chủ Nghĩa thứ 3. Chính là Chủ Nghĩa Đại Đồng Văn Hóa Cội Nguồn. Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ thật sự Công Bằng văn minh.



Nếu tìm đến tận cùng nguồn Cội vũ trụ, thời tất cả sẽ được chứng minh về Nguồn Cội Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ. Tìm cho ra sự sống đều phát nguồn từ bản thể Đại Đồng. Bản Thể Tối Cao Vũ Trụ. Và cũng tìm thấy sức mạnh vũ trụ. Sức Mạnh Cái Chung Toàn Hoàn Vũ, Vũ Trụ. Chứng minh cho được Đại Linh Hồn vũ trụ. Đại Thần Lực vũ trụ tiến hóa tạo ra thế giới vật chất vũ trụ. Đại Linh Hồn vũ trụ khởi tạo ra Tiểu Linh Hồn con người. Có làm được như vậy mới tìm ra được chủ nghĩa thứ ba. Chủ Nghĩa Tinh Hoa cả Duy Tâm lẫn Duy Vật. Chủ Nghĩa của sự bất chiến tự nhiên thành.



Kinh Vương Dương hỏi:

Bằng cách nào con tìm ra Cội Nguồn vũ trụ? Để tìm ra Chủ Nghĩa thứ 3. Nguồn Cội của Chủ Nghĩa Đa Nguyên, Nhân Quyền Dân Chủ Đại Đồng?



Thái Tử đáp:

Thưa Cha! Nếu không tìm ra Cội Nguồn của Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ. Mà chỉ thực hiện Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ. Thời không thành Chủ Nghĩa Đại Đồng, rơi vào Tư Bản Chủ Nghĩa mà thôi. Chủ Nghĩa chưa rốt ráo Công Bằng Bình Đẳng văn minh.



Để tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn. Trước hết ta phải nắm bắt Linh Hồn của chính mình, thu phục tâm viên, ý mã hàng phục vô lượng thức tánh trong tâm, kể cả thiện tánh, trí tánh, ác tánh, trở về tánh không, tánh không tánh, chính là tự nhiên tánh, làm chủ Tự Nhiên Tánh chân như hư không vũ trụ, như như tự tại thời hàng phục tất cả Ma Tánh, Quỉ Tánh, Phàm Tánh trong tâm linh của mỗi con người. Sự hàng phục này phải có thời gian lâu hay mau là do nổ lực quyết tâm của mình. Như người diễn xiếc hàng phục Thú Cầm, người biểu sao thời Thú Cầm làm theo vậy, khi làm chủ được vô lượng thức tánh Linh Hồn của chính mình, thời coi như chiếc chìa khóa vạn năng mở tung bí mật vũ trụ đã ở trong tay.



Cũng như bọt nước nó đã làm chủ được nó và tự điều khiển nó xâm nhập vào bản thể của nước, tìm hiểu nước vì nước là Cội Nguồn của tất cả bọt nước, và từ nơi bản thể của nước, bọt nước sẽ tìm ra cái Văn Hóa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ Cội Nguồn mình cần. Khi tiểu Linh Hồn con người hòa nhập vào Đại Linh Hồn vũ trụ, bước vào kho tàng tri thức vũ trụ và chọn nơi đây những tri thức bổ ích xây dựng lên Chủ Nghĩa tri thức, Chủ Nghĩa văn minh bậc nhất thiên hạ.



Chủ Nghĩa mùa xuân, đồng vị ngọt của các loại hoa. Chủ Nghĩa ở đỉnh cao. Chủ Nghĩa của xã hội đỉnh cao tri thức, trên hẳn Chủ Nghĩa tư hữu và công hữu.



Chủ Nghĩa Đại Đồng là chủ nghĩa kết hợp lợi ích giữa cái Công và cái Tư. Chủ Nghĩa Thần Thánh. Thiên Đạo vũ trụ Văn Hóa Cội Nguồn là con đường Thần Thánh rộng lớn, xuyên suốt không gian thời gian, xuyên suốt quá khứ vị lai sẽ trở thành Nền Quốc Đạo sau này. Đệ nhất Gươm Thiên Trấn Quốc.



Kinh Dương Vương mừng rỡ hỏi:

Con đã tìm ra Chủ Nghĩa tri thức đỉnh cao nhân loại chưa?



Thưa Cha đúng vậy. Chỉ cần kiểm chứng lại nữa mà thôi. Sự kiểm chứng ấy Thái Tử Hùng Lan phải mất sáu năm gian khổ, mới thật sự tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn. Con đường chủ nghĩa tri thức đỉnh cao xã hội, mở ra giai đoạn lịch sử mới đưa xã hội nhà nước Văn Lang lên một tầm cao kéo dài Độc Lập 2701 nghìn năm. Thời Văn Hóa Cội Nguồn, chủ nghĩa đỉnh cao tri thức đi vào thất truyền.

*********



Hết phần 5 chương 7 mời xem tiếp phần 1 chương 8 Long Hoa Mật Tạng. Bộ Kinh tối cao có một không hai trên đời.
 
CHƯƠNG 8



PHẦN 1



GIAI ĐOẠN KHÓ KHĂN MỞ MÀN TIÊN ĐẠO



Theo yêu cầu của Thái Tử. Kinh Dương Vương cho xây dựng tại khu vườn cấm một ngôi nhà khang trang, ba phòng rộng rãi thoáng mát, đầy đủ tiện nghi. Cách cung Đình không xa về hướng Tây Nam khoảng hơn năm dặm. Khu vườn cấm là khu vườn được xây dựng từ lâu, từ thời Kinh Dương Vương đời thứ năm, kiến tạo hơn 10 năm mới xong. Phải nói khu vườn cấm là khu vườn cấp cao, đa dạng thực vật hiếm lạ. Nơi đây được trồng nhiều loại gỗ quí, nhiều loại hoa quí, nhiều loài cây ăn trái quí hiến cho quả thơm ngon bổ dưỡng. Có hơn trăm loài Chim thường bay tới đây nhất là mùa quả chín, trong đó có cả Chim Phụng Hoàng.



Khu vườn rộng chừng hơn 3 dặm tư vuông được kiến trúc tạo lập, sông, suối, ao hồ, non bộ đường đi ngan dọc lắm công phu. Khu vườn cấm là khu vườn đặc biệt không ai được đến, chỉ trừ Quốc vương, vương Hậu, vương phi hoặc Thái Tử, Công Chúa mà thôi. Vì kiến trúc nơi đây Châu báu, ngọc ngà, vàng bạc, châu báu nhiều vô số kể.



Hàng năm được tu bổ sửa sang nên quang cảnh nơi đây ví như Tiên Cảnh Bồng Lai thượng giới, nhất là những độ xuân về. Hương Hoa ngào ngạc. Đức Vương cùng gia đình đến đây du ngoạn thưởng thức vẻ đẹp phong cảnh, nghe chim hót, nghe chim ca, xem hoa nở, nghe thát reo, ăn quả ngọt, dạo chơi cả ngày cũng không thấy cháng. Quả đúng nơi đây vừa thanh tịnh, vắng vẻ, vừa không sợ đói khác rất phù hợp cho con người chân tu đạt đến cảnh giới tối cao vũ trụ. Mở ra Chân Trời mới.



Từ khi Thái Tử đến khu vườn này để tu luyện, hầu tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Thái Tử là người văn hay giỏi võ, giỏi kế thừa chân truyền Cha mẹ. Kinh Dương Vương và Thần Long Nữ. Võ nghệ pháp thuật cao cường đi trên mặt nước như đi trên đất liền, phi thân trên ngọn cây như đi trên đường lộ. Tuy còn trẻ tuổi nhưng khó có người địch lại. Với sự thừa kế Văn Võ của Cha Mẹ Thái Tử đủ sức bảo vệ lấy mình không sợ bất cứ đối thủ nào, dù cho đó là yêu tinh quỉ dữ.



Tuy Thái Tử đã đến khu vườn cấm, nhưng Thái Tử chưa một lần dạo chơi, suốt ngày ở trong thiền phòng, tập trung tư tưởng tham thiền quán tưởng. Hầu mong nắm bắt được Linh Hồn của chính mình, sự bao hàm ý nghĩ tràng lan, không biết đâu là đầu mối, nắm bắt chỗ nào. Cũng không biết khởi đầu từ đâu. Đã hơn một tháng trôi qua mà chẳng nắm bắt được gì. Càng suy luận càng rơi vào đâu đâu, càng thêm mờ mịt, bế tắc. Thái Tử kiên nhẫn chuyển đổi tư duy quán tưởng những đối tượng cần tìm. Trước hết là Thần giáo.



Thái Tử liền tập trung quán nghiệm các giáo điều của các giáo phái Thần giáo. Không thấy chỗ nào là nắm bắt Linh Hồn, làm chủ Linh Hồn của mình cả, mà chỉ là một giáo lý nô lệ. Nô lệ Thần Linh, nô lệ Thần quyền, nô lệ cho thói hư tật xấu đầy tham vọng của mình. Rơi vào tà kiến, thờ cúng Thần Linh cũng chỉ vì sơ sệt, cầu tài được lợi, cầu quyền cầu lực, cầu vô bịnh, cầu bớt bịnh, nhờ Thần Linh ban phúc cho mình. Theo sự phán xét của Thần Linh tự trói buộc mình vào cảnh mê tín nô lệ. Theo các trường phái Thần giáo Linh Hồn không bao giờ tự chủ, làm chủ được mình, mãi mãi là con chiên nô lệ của các Thần Linh. Mà Thần Linh nào phải Đấng tối cao vũ trụ, quyền năng có hạng, có những điều Thần Linh cũng đành bó tay như chiến tranh xung đột xảy ra Thần Linh không ngăn cản được. Đói nghèo lạc hậu Thần Linh không giải quyết được. Thói hư tật xấu trong người làm hại bản thân, gia đình, xã hội, Thần Linh đành bó tay và còn nhiều thứ Thần Linh bất lực chỉ biết đứng nhìn không làm nổi.



Thái Tử càng nghĩ càng thấy chán, vì các trường phái Thần giáo còn ở đâu xa cái mà Thái Tử cần. Đó là Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng. Cội Nguồn của Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ giải thoát đói nghèo giải thoát nô lệ, tiến tới giải thoát sanh tử. Làm Chủ Linh Hồn làm chủ vận mệnh của chính mình. Chủ Nghĩa của sự Công Bằng văn minh, dân giàu nước mạnh, làm khiếp đảm các thế lực ngoại xâm. Giữ vững nền Độc Lập dân tộc lâu dài.



Thái Tử thấy rõ các trường phái Thần giáo chỉ là những giáo phái tôn thờ các Đấng Thần Linh. Nhờ tu thiền luyện khí có chút ít pháp thuật thần thông, nhưng pháp thuật thần thông không làm cho xã hội Công Bằng Bình Đẳng. Cũng như nân cao trình độ nhận thức con người hiểu biết về nhân cách đạo đức. Lại đặc ra những giáo điều bó buộc con người quá lớn. Xu hướng lệ thuộc vào Thần Linh, ỷ lại vào các Đấng Thần Linh, phó mặt cho nghèo đói, chiến tranh và lạc hậu, phó mặt cho thói hư tật xấu do con người gây ra, làm bẩn dơ xã hội.



Thái Tử nhàm chán Trường Phái Thần Giáo chuyển sang mục tiêu khác, mục tiêu pháp chú Thần quyền. Nghiên cứu tất cả Ma thuật, yêu thuật, pháp chú Thần Quyền. Thái Tử càng thấy mù xa những gì mà mình đang tìm. Càng chuyên sâu về Thần Quyền càng rơi vào Mê Tín không phải Chánh Tín. Cái Tin hướng ngoại không phải cái tin nội tâm. Vì thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa từ nội tậm mà ra, không phải vọng cầu mà có. Huống chi là làm chủ linh hồn hàng phục vô lượng vô biên duy thức trong tâm, tiến tới an định tự nhiên hội khập vào Cội Nguồn Vũ Trụ.



Mục đích tu luyện Yêu thuật Ma thuật phục vụ cho lòng tham vọng của mình, phục vụ cho sự tranh bá, tranh quyền điều khiển âm linh tứ tượng, ngũ hành bát quái. Triệu Quỉ gọi Thần dùng tâm lực, luyện bùa, luyện chú, luyện pháp thuật như đi mây về gió, sái đậu thành binh. Tuy có công năng chữa bệnh trừ tà nhưng chỉ là thứ bệnh tầm thường, còn những chứng bệnh nan y tạo ra thời bất lực vô phương cứu chữa. Nhất là những thứ bệnh tâm như thói hư tật xấu lại càng vô phương cứu chữa hơn. Dù cho có tu luyện Yêu Thuật Ma Thuật tu luyện đỉnh cao. Cũng không có tác dụng cho việc trị quốc an dân xây dựng lên xã hội công bằng văn minh, xã hội đỉnh cao tri thức của Nhân Loại, xã hội dân giàu nước mạnh thiên đàng trần gian, xã hội văn minh Tinh Thần, văn minh vật chất.



Thái Tử nghĩ chuyên sâu về pháp chú Thần Quyền, không những không đưa linh hồn đến đỉnh Chân Như Chánh Đẳng Chánh Giác mà còn làm cho linh hồn rơi vào Tà Kiến, không mong gì làm cho nhân loại yên bình được.



Xã hội văn minh là xã hội lấy Văn Hóa Chính Nghĩa làm đầu. Không phải lấy Ma Thuật. Yêu Thuật. Pháp Thuật làm đầu. Nếu dùng bạo lực cường bạo trị dân thời làm cho xã hội thêm trì trệ. Duy trì cuộc sống mạnh được yếu thua càng lạc hậu chậm phát triển. Đây chính là mối họa về sau dẫn đến mất nước bị các thế lực xâm lược thôn tính. Quá nhàm chán Thần Quyền. Thái Tứ loại bỏ các trường phái Thần Giáo tôn thờ Thần Linh, lẫn các trường phái pháp thuật, Ma Thuật, Yêu Thuật thần quyền, chuyển sang nghiên cứu tìm trong các trường phái Duy vật. Duy vật Thần Quyền. Duy vật luận chứng.



Duy vật Thần Quyền là trường phái Phù Thủy hưng thịnh ở phương Tây. Duy vật giáo song song với Duy Tâm Thần giáo ở phương Đông, rất dễ lạc vào tà ma ngoại Đạo.



Duy vật Thần giáo chuyên sâu vào lảnh vực vật chất, lảnh vực Cầm Thú như Đá Thiên, Ngọc Thiên, Chồn Thiên, Cáo Thiên, Rắn Thiên, Hổ Thiên, Lửa Thiên v.v…



Duy vật luận chứng là tôn phong các nhà khoa học, các nhà luận chứng vật chất đề cao vật chất. Đề cao phát minh khoa học. Nếu khám phá nắm bắt được quy luật vật chất. Kết hợp chúng sẽ trở thành Đấng tối cao vũ trụ, Phái Biện Chứng Duy Vật cho rằng làm bá chủ Vật Chất cũng có nghĩa là làm chủ thiên hạ. Thái Tử phải mất nhiều tháng quán tưởng lần mò tìm kiếm vật chất, theo chủ thuyết trường phái Duy vật biện chứng.



Thái Tử tự sắp xếp phân chia thế giới vật chất ra làm 5 phần.

1: Thể Lực

2: Thể Hơi

3: Thể Lỏng

4: Thể Đặc

5: Thể Lửa




Để hiểu rõ hơn 5 thể nói trên của thế giới vật chất vũ trụ và tìm hiểu chúng.



Thái Tử bắt đầu quáng tưởng Thể Đặc, nói chung Thể Đặc là Đất Đá bụi bặm. Thể lỏng là nước. Thể hơi là khí. Thể lực là điện lực. Thể lửa là do ma sát bốn thể tạo ra. Thể Lửa hâm nóng làm cho bốn thể kết tinh. Tạo ra rong rêu Thảo Mộc. Tinh của rong rêu Thảo Mộc , hình thành lên sự sống từ đơn bào, tiến hóa lên đa bào, hình thành lên thế giới sơ căn động vật.



Thái Tử nghĩ Hình thành lên một sự sống. Ngoài linh căn linh thức cọng với tứ đại giả hợp Tinh Hoa của Đất, Nước, Khí, Lửa thành một sự sống. Như vậy một sự sống có hai phần Linh Căn và xác Thể (hay nói cho dễ hiểu một sự sống có cả linh hồn và thể xác). Thái Tử nghĩ nếu tách riêng từng thể ra thành một thể Độc Lập không có một sự tác động nào nữa, thời các Thể ấy chỉ là thể chết bất động mà thôi. Như vậy các Thể, Khí, Nước, Đất, Lửa không phải là ông chủ của sự sống, chỉ là thể thụ động của thể khác tác động vào làm cho nó động theo. Thể tác động vào chính là Linh Căn Linh Thức Linh Hồn. Chính vì sự tác động của Linh Căn linh thức chuyển động tam thể Khí, Đất, Nước, tạo ra hơi ấm truyền miên duy trì sự sống. Nếu không có Linh Căn Linh thức tác động duy trì tứ đại thời nó tự tan rã.



Thái Tử lại nghĩ: Thể Lỏng, Thể Hơi, Thể Đặc nói chung là các thể. Cũng như thể xác con người. Thể Đặc là xương thịt gân cốt. Thể Lỏng là máu huyết. Thể hơi là khí thở con người. Linh Căn Linh Hồn con người tác động vào ba thể nầy tạo ra hơi ấm giọi là tứ đại. Đất, Nước, Gió, Lửa. Xét cho cùng tứ đại giai không. Đủ nhân duyên thời nhốm hợp, hết nhân duyên thời tan rã. Vì thế sự sanh tử của con người cũng không có chi là lạ. Tất cả chỉ là giả tạm sanh diệt, diệt sanh. Dù cho đó là Địa Cầu, hay càn khôn vũ trụ cũng thế mà thôi.



Thái Tử thông suốt Thể Hơi không chủ sự sống, Thể Lỏng không chủ sự sống. Thể Đặc không chủ sự sống. Thể Lửa không chủ sự sống. hợp tan, tan hợp theo nhân duyên tứ đại giai không. Tứ đại không phải chủ của sự sống. Mà chủ của sự sống là ai? Thái Tử lại tìm hiểu thêm một lần nữa. Các thể tách riêng thành thể Độc Lập, không có sự tác động nào nữa, thời các Thể cũng chỉ là thể chết bất động mà thôi.



Sanh là Linh Căn Linh Hồn nhốm hợp duy trì tứ đại nôi lớn th.ân thể. Tử là tứ đại tan rã Linh Căn Linh Hồn bỏ thể xác mà đi. Thể xác phàm tục chỉ là thể thụ động khi bị tác động không phải là chủ động của sự sống. Mà chủ của sự sống chính là Linh Căn Linh Hồn. Sự sống bất diệt không bao giờ chết. Theo nghiệp ác nghiệp thiện luân hồi mà thôi.



Vậy chủ sự sống là ai, tứ đại hay Linh Hồn. Nếu nói Linh Hồn là chủ của sự sống. Nhưng Linh Hồn là Vô Vi làm sao tác động vào tứ đại được ? Thái Tử nghĩ Linh Hồn phải tác động qua Thể Lực. Thể Lực là trung gian nối liền sự sống Linh Hồn cùng thể xác. Nói chung là tất cả tần lớp Thể Lực. Thể Lực con người. Thể Lực tứ đại. Tất cả đồng nhất của một thể lực Vũ Trụ. Thể lực tứ đại, thể lực con người, thể lực vũ trụ khi bị tác động thời chuyển hóa thành điện năng. Tác động vào tinh hoa Thể Khí đã cấu tạo thành hệ Thần Kinh. Năng Lượng Điện Năng là tinh hoa tinh thể tối cao của khí chất không mùi, không vị, không sắc, không hình, không tướng, nó xuyên qua tất cả không để lại dấu vết. Nó tác động vào hệ Thần Kinh làm cho Tứ Đại chuyển động theo sự sống của Linh Căn Linh Hồn. Thái Tử nghĩ ai làm chủ được Linh Căn Linh Hồn thời người đó sẽ là Đấng tối cao, Quyền năng vô hạn. Nhưng nắm bắt được Thể Lực hiểu rõ thể lực sanh ra từ đâu là cả một vấn đề. Linh Hồn và Thể Lực một hay là hai. Đỉnh tối cao của Duy Tâm cùng Duy vật đều nằm tại đây.



Thái Tử nghĩ, từ Thể Đặc lên Thể Hơi, từ Thể Hơi xuống Thể Đặc. Tuy chúng không là chủ thể, chủ động sự sống nhưng chúng chuyển thể từ dạng này sang dạng khác, theo quy luật tự nhiên. Quy luật Sanh, Trụ, Dị, Diệt, hể có sanh thời có tử. Chuyển đổi theo quy luật tuần hoàn.



Thể Hơi chuyển thành Thể Lỏng, Thể Lỏng chuyển thành Thể Đặc, sự chuyển đổi ấy phải trải qua hàng triệu triệu năm, trí huệ phàm tục khó mà nhận thấy được. Thái Tử rà đi kiếm lại, thế giới vật chất bắt đầu từ Thần Lực cho đến Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc và chúng ma sát tạo thành thể lửa Tứ Đại vũ trụ. Đất, Nước, Gió, Lửa.



Tuy Thái Tử tìm ra Nguồn Cội của Tứ Đại là Thể Lực. Thế mà vẩn chưa tìm ra cách nắm bắt Linh Hồn làm chủ Linh Hồn. Dù cho thông suốt hết thảy thế giới vật chất Vũ Trụ, cũng không thể tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn. Nguồn Cội của tất cả vạn vật tam thiên đại thiên thế giới cũng như con người. Chủ Nghĩa Đại Đồng Nguồn Cội vũ trụ Thái Tử thấy còn rất xa chưa thể với tới được. Khi nào hội nhập Cội Nguồn. Hội nhập vào kho tàn tri kiến vũ trụ, rồi từ ấy rút ra những Tinh Hoa mở đường cho nhân loại đi đến chân trời hạnh phúc, đi đến xã hội Công Bằng Bình Đẳng văn minh, xã hội Thiên Đàng Cực Lạc Quốc. Vì nổ lực tham thiền quán tưởng dài ngày nên Thái Tử Mệt lăng đùng ra và đi vào giấc ngủ ngon.

*********



Hết phần 1 chương 8 mời xem tiếp phần 2 chương 8 Long Hoa Mật Tạng. Nếu không phải đại căn đã từng làm Vua làm Chúa làm Phật, làm Thánh, làm Tiên trong vô lượng kiếp thời không thể nào thấu hiểu nỗi Kinh Văn trong Long Hoa Mật Tạng.
 
CHƯƠNG 8



PHẦN 2



CĂNG THẲNG



Nhìn những món ăn toàn là cao lương mỹ vị. Thái Tử nghĩ những thứ này chỉ làm cho cơ thể béo phì, ăn sung mặc đẹp chỉ để phuc vụ cho đời sống thể xác, còn việc tìm cầu nắm bắt Linh Hồn thời khác nào mò kim đáy biển. Linh Hồn do đâu mà có ? ai sanh ra, Linh Căn Linh Hồn. Tất cả đều còn nằm trong huyền bí phức tạp vô cùng. Theo Thái Tử nghĩ, Linh Hồn là mấu chốt, để tìm ra Cội Nguồn vũ trụ, chìa khóa vạn năng để mở cánh của Cội Nguồn vũ trụ. Cánh của Cội Nguồn vũ trụ không mở được, thời Văn Hóa Cội Nguồn sẽ không bao giờ xuất hiện ở chốn nhân gian.



Nhân loại sẽ chìm trong u minh, đưa xã hội nhân loại đến chiến tranh diệt chủng, không còn cứu vãn được. Với bao nỗi suy nghĩ làm Thái Tử quên luôn cả ăn lẫn uống. Thái Tử càng ngày càng gầy đi thấy rõ, thời gian cứ thế trôi qua hơn sáu mươi ngày. Để bớt đi sự căn thẳng Thái Tử liền tản bộ dạo chơi khu vườn cấm, có lẽ đây là lần đầu tiên từ khi Thái Tử đến đây để tu luyện. Nơi đây thật vắng vẻ không một bóng người nhưng thay vào đó là sự vui đùa của những chú Chim chúng ca hát líu lo thật tự nhiên, trong sáng vô tư. Hình như chúng không mang lấy ưu phiền, không cần tính toán những gì xa xôi, nghe tiếng Chim hót như truyền cảm một tâm hồn vô tư. Thái Tử nghe tiếng Chim hót, liền tan bao nổi ưu phiền, tâm hồn sảng khoái thành một con người khác hẳn con người của sự tự do vô tư thanh nhàn thoát tục. Đi một khoảng đường, Thái Tử đã lạc vào thế giới non bộ, trùng điệp núi non, Chim kêu Vượn hú, suối lượn uốn quanh, muôn hoa rực thắm, lấn đá chen cây, Lan, Huệ thi nhau nhìn suối, Đào, Mai ngoảnh mặt nhìn mây, Tùng Bách thi nhau đua tàng khoe dáng, mặt Hồ lóng lánh. Sen đùa giỡn lá xòe ra mởn mởn xanh. Cá lượng từng đàn. Bướm nghe nhạc rừng, suối reo không ngừng, gió tìm vào Động. Nước luồng qua khe. Cảnh Quang tuyệt đẹp. Xuân vầy thêm xinh.

Tâm Hồn thanh thoảng biết bao nhiêu

Nhìn nước nhìn non ánh nắng chiều

Lung linh cành biếc xuân nẩy lộc

Hoa nhìn mây nước Chim nhẹ kêu

Cá lội tung tăng nghe nhạc suối

Tùng, Trúc, Đào Mai sắc dáng thêu

Bồng Lai Tiên cảnh nơi trần thế

Thanh thảng tự nhiên rõ mọi điều.


Nhìn cảnh quang đẹp lạ lùng không mất vẻ tự nhiên chẳng khác nào bồng lai Thiên giới, tuy do con người kiến tạo lập lên. Nhưng ẩn tàng không biết bao nhiêu là huyền cơ đạo pháp. Thái Tử xuất thần nghĩ con người là Tạo Hóa Con, sau Tạo Hóa Cha. Thái Tử lại nghĩ con người là Tạo Hóa Con, con của Tạo Hóa Cha. Tạo Hóa Cha Tạo lập lên vũ trụ. Tạo Hóa Con, tạo lập lên Thiên Đàng Cực Lạc. Tạo Hóa Cha lập lên con người. Tạo Hóa Con tạo lập lên xã hội con người. Và làm chủ những gì Tạo Hóa Cha đã lập lên. Sự thừa kế làm chủ giang sang vũ trụ ấy, con người phải trở về với Cội với Nguồn đến với đấng Cha Ông.



Muốn cứu vớt thiên hạ tìm ra con đường hạnh phúc. Nhứt là hạnh phúc xã hội văn minh, xã hội Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng tự do. Xã hội của sự tự giác ý thức nhận thức cao. Muốn có xã hội như thế, không phải tự nhiên mà có được, phải có con đường Chân Chính đi lên. Con đường dưới hợp lòng Dân trên thuận Lòng Trời. Chỉ có con đường như thế mới tiến tới xã hội văn minh.



Thái Tử nhìn những hòn non bộ thật mà giả, giả mà thật, cảnh quang nơi đây không phải tự nhiên mà có, mà do con người sáng tạo lập nên, giả mà thật, thật mà giả, cũng như hình và bóng, bóng của hình. Nhìn sự liên kết hòn non bộ tạo thành một dãy núi nhưng lại là những dãy núi giả. Nhìn những dãy núi giả thật, thật giả ở đây so sánh các dãy núi ở các Châu lục. Thời là những dãy núi thu nhỏ. Tuy nhỏ mà lớn, cái nhỏ không khác gì cái lớn. Thái Tử ngộ ra một điều, tiểu Linh Hồn nào khác chi Đại Linh Hồn. Bọt Nước đồng bản thể của Nước. Tuy một mà hai tuy hai mà một.



Thái Tử xuất Thần quan sát suy xét so sánh tìm ra chân tướng của sự thật và bổng nhiên hội ngộ. Thái Tử nghĩ các dãy núi của các Châu lục hùng vĩ xinh đẹp là do bàn tay Tạo Hóa Cha Trời chuyển xây Tứ Đại. Đất Nước Gió Lửa theo định luật tự nhiên tạo lập ra, giả lập lên. Cũng như các hòn non bộ giả sơn ở đây vừa xinh đẹp vừa hùng vĩ là do Tạo Hóa Con bàn tay con người, tôm gốp đất đá để tạo lập ra, giã lập tạo lên theo ý tưởng con người. Con người duy trì thời nó còn, con người không duy trì nữa theo thời gian sẽ biến mất. Sự giả lập không thật. Theo nhân duyên hiện ra hết nhân duyên tan biến trở về hư không. Trở về Thể tướng không tướng Cội Nguồn của thế giới vật chất.



Thái Tử lại nghỉ, chân tướng của Tứ Đại vốn không tướng, chỉ là nhốm hợp theo nhân duyên hiện ra. Với lớp bụi vi trần theo bàn tay Tạo Hóa Cha Trời nhốm lại, tạo lập lên Đất Đá vũ trụ, chuyển xây Tứ Đại, Đất Nước Gió Lửa giả lập tạo lên núi non sông hồ biển cả, giả lập tạo lên cảnh giới Địa Cầu vũ trụ. Và con người cũng vậy, do Địa Mẫu Âu Cơ tốm thâu Tinh Hoa khí ngũ Địa, Đất Nước Gió Lửa tạo lập lên thể xác con người và thật tướng của con người cũng chỉ là Tinh Hoa vi trần cát bụi Tứ Đại, đủ duyên thì nhốm, hợp, hết duyên thì tan rã.



Lại thêm một tia sáng lóe lên trong đầu Thái Tử.Trường Phái Duy Tâm. Trường Phái Duy Vật không thể nào vượt qua Thiên Thể chân tướng hư không. Chân Tướng hư không, không thể dùng mắt thường mà thấy được. Chỉ khi nào người ấy có được thanh tịnh Huệ Nhãn, thanh tịnh Pháp Nhãn. Phái Biện Chứng Duy Vật chỉ dựa vào Nhục Nhãn con mắt thường. Nên cho rằng trong hư không chỉ là sự trống không, Vạn vật sanh ra ở đời chỉ là một sự tự nhiên mà thôi. Và sự ngẫu nhiên của sự trùng lặp. Phái duy Vật biện chứng chỉ lẫn quẩn trong vòng Duy Thức cái thấy biết phân biệt chấp tướng, chấp pháp luân chuyển trong cảnh giới Vô Thường khó mà thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi. Khó mà thấy rõ Cội Nguồn của thế giới vật chất.



Phái Duy Vật không bao giờ nhận ra Cội Nguồn của thế giới Vật chất vốn không tướng, mọi hình tướng đều là giả lập, giả tướng mà thôi, cho đến thể xác cũng thế. Có lẽ thế giới Linh Hồn hay chính Linh Hồn ta cũng vậy. Thật Tướng, Thật Tánh của Linh Hồn cũng chỉ là không tướng, không tánh, bản thể linh minh Diệu giác trong sạch vô vi, không ý, không thức. Nguồn Cội bản thể Linh Hồn không tánh, không tướng, không ý, không thức, thời làm gì có thói hư tật xấu, tham lam tật đố kêu căng ngạo mạn làm hại nước hại dân, những thứ tánh rác rưởi ấy làm bẩn dơ xã hội, hôi hám và đầy dẫy tội ác. Thật Tánh của Linh Hồn là Không Tánh làm gì có những thứ tánh ấy. Nếu Có cũng do Linh Hồn mê muội khởi tưởng tạo ra gieo mầm tội ác, gieo nghiệp hung dữ tạo ra những thứ tánh nhơ bẩn đó mà thôi. Những thứ tánh không tật có trong căn Cội của mỗi Linh Hồn.



Những người mê muội họ mãi duy trì những tánh xấu xa đó. Còn những người giác ngộ họ loại bỏ ngay những tánh hư tật xấu ra khỏi Linh Hồn của họ. Để khỏi bị những tánh hư tật xấu ấy làm hại bản thân, làm hại gia đình, làm hại non sông Tổ Quốc cuối cùng đọa sa xuống Địa Ngục khốn khổ mãi.



Cuối cùng Thái Tử cũng đã nhận ra chân tướng, chân tánh, bộ mặt thật của Linh Hồn (hội ngộ bổn lai diện mục, minh tâm kiến tánh) Chân Tánh Linh Căn Linh Hồn. Lòng tràng đầy niềm tin tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng tối cao vũ trụ không còn xa nữa.



Thái Tử nhìn thác nước, những bọt nước do nước sanh ra, sau đó liền tan biến trở về là nước, như đánh thức Thái Tử một điều quan trọng. Tiểu Linh Hồn con người muốn hội nhập vào Đại Linh Hồn vũ trụ, thời cũng phải giống như bọt nước kia. Tự nó tan về là nước. Linh Căn Linh Thức Linh Hồn cũng thế. Tự nó tan biến hệ ý thức trí thức phân biệt lặng yên Vô Thức Tự Nhiên. Linh Hồn không khởi ý niệm vắng lặng như như đại định thẳng đó vô tâm, vô niệm, vô ý, vô trí là phải, một niệm khởi lên là trái không thành. Tự nhiên không một niệm nào cả là đúng. Thời không bao lâu sẽ Đại Ngộ chân tâm chân tánh của mình. Tánh không là chân tánh. Tướng không là chân tướng. Ý không là chân ý. Trí không là chân trí. Tự nhiên như hư không, không phải tu chứng đắc gì cả, giống như viên Ngọc dính bẩn rửa sạch bẩn viên Ngọc sáng ra. Viên Ngọc vẩn là viên Ngọc trước sau vẫn như vậy trôi lăn vô lượng kiếp không bớt, khi thành đấng tôi cao cũng chẳng có gì thêm, trước sao sau vậy. Linh Thức bọt nước tự nó trở về bản thể Linh Giác là nước, không còn là Linh Thức bọt nước nữa. Cũng như thức tánh trở về chân tánh, và luôn an trụ nơi Chân Tánh tức là Vô Trụ (vô sở trụ sanh kỳ tâm).



Cũng như không phải dính bụi mà viên Ngọc thêm, không phải rửa bụi mà viên Ngọc bớt, viên Ngọc trước sau vẫn là viên Ngọc, Vốn tự nó không nhiểm bẩn, những thứ tánh nhơ bẩn chỉ là giả tánh, không phải chân tánh.



Thế là Thái Tử đã tìm thấy Bổn Lai Diện Mục của chính mình, đạt đến cảnh giới Minh Tâm Kiến Tánh.



Muốn hàng phục Tâm Viên Ý Mã ví như người mất Ngựa đi tìm ngựa và đã tìm thấy con ngựa của mình ở phía trước và đang tìm cách nắm bắt chúng để con ngựa Ý Mã Tâm Viên theo mình trở về Cội Nguồn vũ trụ. Muốn làm được như thế phải hiểu ngựa mới hàng phục được ngựa, phải hiểu khỉ mới hàng phục được khỉ. Và sợi dây trói ngựa chính là Giới và sợi giây trói khỉ chính là Định, thay đổi món ăn của chúng là Tự Nhiên, tự nhiên là món ăn thường xuyên, để cho Ý Ngựa Tâm Khỉ thuần thục, vì thế phải nổ lực siêng năng là điều không thể thiếu. Thái Tử nghe trong tâm hồn lân lân nhẹ nhổm.



Để hàng phục Tâm Viên Y Mã, Thái Tử dùng sợi dây Giới, Định tối cao, ngăn chặn thấy nghe hay biết phân biệt ngoại cảnh lục trần. Lục trần tức là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Thấy nghe hay biết tự nhiên khác với thấy nghe hay biết phân biệt.



Thấy nghe hay biết tự nhiên là thấy nghe hay biết không khởi tâm khởi ý phân biệt. Thấy nghe hay biết, khởi tưởng phân biệt là thấy nghe hay biết bọt nước tạo ra vô lượng ý thức. Thấy - Nghe - Hay - Biết không khởi tưởng phân biệt. Thời chính Linh Thức Tánh Thức chuyển hóa thành vô lượng thể tánh Như Lai. Người muốn đạt đến cảnh giới tối tuyệt đối không được khởi tưởng nhận thức phân biệt.



Thái tử loại bỏ cái, thấy nghe hay biết khởi tưởng phân biệt nhận thức của bọt nước, tức là ý tưởng nhận thức huân tập chủng nghiệp của tâm viên ý mã, xưa nay rong ruổi chạy theo lục trần, bám lấy lục trần trôi lăng mãi trong vòng sanh tử. Thái Tử buộc Tâm Viên Ý Mã phải đi theo Thiên ý tự nhiên của ông chủ. Thấy nghe hay biết tự nhiên không cho khởi tưởng, nhận thức, phân biệt Lục trần, tức là nhận thức khởi tưởng phân biệt, sắc, thịnh, Hương, vị, xúc, pháp. Nhờ cắt đứt nhân duyên Lục trần, Lục căn lần lần thanh tịnh, Lục thức lần lần trong sáng, không còn mê muội u tối nữa, theo ông Chủ trở lại Cội Nguồn.

*********



Hết phần 2 chương 8 mời xem tiếp phần 3 chương 8 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng là những bí Mật Tạo Hóa không dễ gì nhận biết được. Chỉ cần nhận biết một câu một chữ trong kinh thời coi như đã vượt qua ức kiếp tu luyện. Thành tựu công đức vô biên.

Kinh văn vô thượng thậm thâm

Chỉ cần đọc tụng cũng lên thiên đàng

Huống chi đọc tụng nhiều lần

Coi như thành Phật, Thánh, Thần khó chi.







CHƯƠNG 8



PHẦN 3



MƯỜI TÁM GIỚI



Lục Trần: Sắc - Thinh - Hương - Vị - Xúc - Pháp.

Lục Căn: Nhãn - Nhĩ - Tỷ - Thiệt - Thân - Ý.

Lục Thức: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức.



Như vậy Thái Tử tạm thời không cho Lục Thức khởi tưởng phân biệt bám theo Lục Trần. Bằng phương pháp Đại Giới. Cắt đức nhân duyên không cho Lục Thức phân biệt Lục Trần, Đại Định. Chỉ an trụ vào Thấy - Nghe - Hay - Biết tự nhiên.



Nói một cách dễ hiểu hơn, là Thái Tử tạm thời không cho Lục Thức bọt nước Tiểu Linh Hồn của mình. Khởi tưởng phân biệt Lục Trần, bám theo Lục Trần huân tập ái dục. Lục Thức bị Đại giới tự nhiên trói chặt, Đại Định. Lục Thức đã an định. Thời lục căn thanh tịnh lần lần trong sạch, Lục căn càng thanh tịnh trong sạch bao nhiêu thời cảnh giới Thần Thông tự hiện ra bấy nhiêu. Cũng như mặt kính đã lau sạch bụi thời cảnh giới bí mật vũ trụ tự hiện ra dần. Cũng như mặt Hồ yên lặng thời trăng sao trời đất điều hiện rõ.



Từ Lục Thức phàm phu mê muội chuyển thành Lục Huệ của Bậc Đại Giác Ngộ. Trong Lục Huệ. Tự nhiên thanh tịnh pháp Huệ là cao nhất. Chính là cái thấy, nghe, hay, biết Toàn Năng Toàn Giác Cái thấy, nghe, hay, biết của bọt nước trở thành cái thấy, nghe, hay, biết của nước. Cái thấy, nghe, hay, biết tự nhiên không chấp trước, cái Thấy - Nghe - Hay - Biết của Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Sự chấp trước cái tôi cái ta không còn nữa. Trở thành Đáng Đại Từ Bị, Đại Trí, Đại Dũng. Cái thấy, nghe, hay, biết tự nhiên vũ trụ là mình, mình là vũ trụ, không phân biệt gì cả.

*********



Hết phần 3 chương 8 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 4 chương 8
 
CHƯƠNG 8



PHẦN 4



GIÁC NGỘ



Nhìn núi non trùng điệp, Chim kêu vượn hú, suối lượng uốn quanh. Hoa chen lá, đá ẩn tàng chen cây Cánh hoa lấp lánh đua nhau thi màu thi sắc. Tùng Bách thi nhau xanh mướt đua tàng, khoe tán. Đào Mai đua dáng đua xuân. Gió reo cửa Động, nước luồn qua khe, lá cành rung nhẹ, bướm nghe nhạc rừng, nước non cảnh đẹp, cảnh vật tưng bừng.



Nhưng Thái Tử có nghe như không nghe, có thấy như không thấy, có hay như không hay, có biết như không biết, Thái Tử giờ đây thấy, nghe, hay, biết tự nhiên không khởi một niệm phân biệt.



Thái Tử xuất thần liên tưởng quan sát càng thêm Đại Ngộ. Chân giả, giả chân, trong chân có giả, trong giả có chân. Trong bọt nước có bản thể của nước, trong Tiểu Linh Hồn có bản thể của Đại Linh Hồn.



Bản thể Linh giác trong sạch vô vi, vô vi mà thường vi, không tánh, không tướng, không ý không thức. Nhưng Khi bản thể Linh giác tiếp xúc với cảnh giới Lục Trần, biến sanh sáu thức, sáu thức này sanh ra dựa trên ngũ uẩn. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, rồi huân tập nghiệp lực thông qua thập nhị nhân duyên. Hình thành hành trình sanh tử. Có thể nói tốm tắc khái niệm như sau: Chỉ cần phá vỡ cắt đứt nhân duyên của chúng, thời chân tánh thanh tịnh ngay.



Chân Tánh mê không làm chủ được mình luôn chạy theo Tánh thấy, nghe, hay, biết của mình khởi ý phân biệt Lục Trần, khởi ra vô lượng nghiệp thức. Nhất là những nghiệp thức ác làm cho chân tâm chân tánh không thanh tịnh được, lao theo trần cảnh huân tập nghiệp quả luân hồi sanh tử. Chân Tánh mê không làm chủ được mình gọi đó là Vô Minh (1) không làm chủ thấy, nghe, hay, biết của mình khởi tâm phân biệt vô minh sanh Hành (2) vì mê bám lấy Lục Trần khởi ý gieo nghiệp sanh ra Lục Thức (3). Như vậy Chân Tánh là bản thể nước. Vì không làm chủ được bản thể khởi ý phân biệt sanh ra thức bọt nước ý thức, bọt nước ý thức dựa trên ngũ uẩn, sắc, thọ, tưởng huân tập quả nghiệp hành, thức thông qua thập nhị nhân duyên, luân hồi sanh tử.



Sáu thức do vô minh, tánh mê tạo ra, nên sáu thức u mê không khác nào tánh mê cả. Sáu thức từ ý thức phản tỉnh nhận thức phân biệt cảnh giới sắc chất, vì thế Danh Sắc sanh ra (4) Danh Sắc là danh từ. Danh từ Lục Trần sanh ra liền xâm nhập vào ý thức, nhận thức, Lục Nhập (5). Đã có Lục Nhập thời sự tiếp xúc liên tục xảy ra, Xúc (6) đã tiếp xúc liên tục cảm thụ rồi trở thành thói quen Thụ (7) đã trở thành thói quen trì niếu ưa thích ưu ái. Ái (8) cái gì ưu ái ưa thích, thời bảo thủ giữ chặc không buôn ra Thủ (9). Thủ là quả nghiệp của ý thức, nhận thức, quả nghiệp đã có thời nó tiếp tục khởi sanh, dù cho đó là nghiệp dữ hay nghiệp lành, quả nghiệp đã có, Hữu (10) đã kết quả ý thức, nhận thức đủ nhân duyên, thời liền khởi sanh, Sanh (11) đã có sanh thời theo quy luật tự nhiên, thành, trụ, hoại, không. Sanh, lão, bệnh tử. Tử (12) đó là chuổi nhân duyên tạo lên vòng sanh tử theo định luật tiến hóa tự nhiên không có chi là lạ. Muốn thoát khỏi sanh tử ra khỏi cảnh giới luân hồi thoát ra cảnh giới Mê cảnh giới ác thời cắt đức nhân duyên. Cũng như người tạo vật tạo ra cảnh giới nầy chán chê thời bỏ đi, hoặc tạo ra cảnh giới khác chơi vậy. Chán chê cảnh giới ác thời bỏ đi, tạo ra nhân duyên cảnh giới Thiện để vui chơi.



Thái Tử đã nhận ra sự huyền diệu của bộ máy huyền cơ vũ trụ, nhờ làm chủ được Linh Căn Linh Hồn của chính mình, hàng phục Tâm Viên Ý Mã đi vào cảnh tối cao Đại Định phải nói là không thể luận bàn cho hết được sự diệu dụng của nó và đây chính là chìa khóa vũ trụ mà ai ai cũng có, dùng nó để đạt đến mục đích cuối cùng. Thái Tử đã thật sự làm chủ Linh Hồn của mình, tiến đến mở cánh của Cội Nguồn. Bước vào nhà vũ trụ, làm chủ vũ trụ.



Thái Tử bỏ cái thấy, nghe, hay, biết, phân biệt của thức, bọt nước. Trở về cái thấy, nghe, hay, biết tự nhiên, phản tỉnh ra vô lượng ý giác ngộ, ý thức giác ngộ khởi sanh ra khế hiệp với Chân Tâm Chân Tánh. Liền khởi dụng như Lai Tạng Tánh vũ trụ. Phải nói là bất khả tự nghì không thể luận bàn được nữa. Sự thấy, nghe, hay, biết tự nhiên của Thái Tử, đưa Thái Tử đến lần lần khám phá hết bí mật sự huyền vi cũng như huyền cơ của vũ trụ.



Chỉ trong chốc lác Thái Tử đã đạt đến đỉnh cao của thiền tâm, an trụ vào Chánh Định, Chánh Tư Duy, Chánh Kiến, Chánh Niệm, Chánh Nghiệp, Chánh Tuệ hay còn gọi là Chánh Giác.



Đây nói về Đức Cha Trời Long Hoa Cửu Huyền, ẤN Quang Tối Thắng Như Lai, Lạc Long Quân, Đấng tối cao hiện thân của Đức Tổ Tiên, Đấng chủ quản Linh Hồn, Đấng điều hành bộ máy Huyền Cơ vũ trụ, thấy rõ người con Cả Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần, đang dùng con mắt Huệ Nhãn thanh tịnh cùng Đại Nguyện lực phá vở vô minh che khuất Chân Tâm Chân Tánh, làm chủ bản thể Linh giác của mình, thời khen ngợi. Thế mới xứng là con Cả của Cha Trời.



Nói về Thái Tử đã đạt đến Chánh giác dùng con mắt thanh tịnh Huệ Nhãn. Hay còn gọi là thanh tinh Pháp Nhãn. Cái thấy, cái nghe, cái hay, cái biết bản thể linh giác của nước, không phải cái thấy, nghe, hay, biết phân biệt của thức bọt nước, phen lần bí mật vũ trụ tìm ra Cội Nguồn và mỗi lúc Thái Tử càng tiến xa tiến xâu vào bí mật vũ trụ. Từ đây về sau tất cả mọi biến động. Dù chỉ là chiếc lá rơi, cũng làm tăng thêm sự chứng ngộ Nhìn rõ sự thật huyền ẩn của chúng, bộ mặt thật của nhân duyên và vô thường.



Mỗi bước chân của Thái Tử là mỗi bước giác ngộ. Có lẽ cảnh quang nơi đây cũng hiểu Đấng Đại giác ra đời, Đấng Cứu Thế. Nên thi nhau tỏa hương ngào ngạc. Khu rừng cấm bổng chốc rực rỡ như cảnh Bồng Lai. Trước mặt Thái Tử là chiếc Ngai Rồng bằng vàng và chiếc Ngai Phụng chạm ngọc. Nơi đây Kinh Dương Vương cùng Vương Hậu thường ngồi để ngắm cảnh xem hoa, nghe Chim hót hòa mình vào Đất Trời cảnh giới thiên nhiên.



Thái Tử ngồi lên Ngai vàng nghĩ! Có lẽ Vua Cha xem cảnh quang sắc thắm nơi đây bằng con mắt phân biệt, nhận thức cảnh quang bằng con mất hiểu biết để làm vui. Còn Thái Tử thì khác. Xem cảnh quan bằng con mắt thanh tịnh không phân biệt chi cả. Điều kỳ lạ ở đây Lục Căn, Lục Thức Thái Tử thanh tịnh đến lạ lùng. Không phân biệt. Thế mà nhận ra tất cả hương vị của mỗi loài hoa. Của mỗi âm thanh dù là âm thanh nhỏ nhất của côn trùng Thảo Mộc, xa đến mười dặm.



Điều kỳ lạ này đã đánh thức Thái Tử nhận rõ thêm, Tánh thấy, nghe, hay, biết của nước và tánh thấy, nghe, hay, biết phân biệt của bọt nước, có thể nói sự thấy, nghe, hay, biết thanh tịnh của Chân Tánh, nước, như ánh sáng Mặt Trời, còn sự thấy, nghe, hay, biết phân biệt của ý thức bọt nước ví như ánh sáng con đôm đốm mà thôi. Ánh sáng trí huệ Mặt Trời đã xuất hiện, ánh sáng Bình Đẳng trong sáng vô vi, hàng triệu hàng nghìn năm mới xuất hiện một lần.



Thái Tử Hùng Lan hầu như đã nhận ra bản thể Linh giác Chân Tánh vốn trong sạch vô vi, mà thường vi, bất tăng bất giảm, không cấu nhiểm, không mùi vị, không danh sắc, không thọ tưởng hành thức, vì bản thể không cấu nhiểm của Chân Tâm trong sạch vô vi, không cấu nhiễm nên phản tỉnh đo lường phân biệt nhận biết tất cả Gọi Đó Là Bản Thể Minh Tâm. Thể Tánh Chân tâm trong sáng Vô Vi Vô Sắc thu nhiếp tất cả. Nên gọi đó là Kiến Tánh. Nhận rõ Bổn lai diện mục, minh tâm kiến tánh của chính mình, thời coi như đã trở thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Thái Tử hiểu rõ mỗi Linh Căn Linh Hồn dù trôi lăng trong sanh tử Lục Trần vẩn trong sạch không cấu nhiểm, giống như Hoa sen gần bùn mà chẳng nhiểm bùn. Nhưng vì chấp trước chạy theo cái biết phân biệt hướng ngoại của chính mình, hướng ngoại chính là chạy theo lục trần lặng hụp trong thế giới vật chất huân tập thành nghiệp lực kết quả nghiệp thức, vì thế mà luân hồi khắp ba đường sáu nẻo.



Ánh sáng trí tuệ Mặt Trời của Thái Tử đã phá tan dần từng lớp vô minh đã từ lâu bao phủ lấy Linh Hồn. Với hành trình hướng tìm về Cội Nguồn bọt nước tan biến trở lại là nước. Linh Thức trở về Linh Giác, tánh thức trở thành Tánh Giác.



Có thể nói Thái Từ cảnh giới mê, trở về cảnh giới giác. Làm chủ Linh Căn Linh Hồn của chính mình. Từ Giả Tánh trở về Chân Tánh.



Thời chiếc chìa khóa vạn năng đã có trong tay. Chỉ còn nổ lực Chánh Định, chánh Tư Duy, chánh niệm tức là Vô Niệm thời sẽ mở tung cánh cửa Cội Nguồn vào nhà vũ trụ. Tìm ra Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ Đại Đồng. Cứu nhân loại thế gian đang lặng hụp trong khổ đau.



Đói nghèo, lạc hậu, chiến tranh, hận thù, sanh, lão, bệnh, tử. là Nguồn Cội của sự khổ. Phải nhổ tận gốc Nguồn Cội của chúng.



Nhưng có một điều đáng nói ở đây là Thái Tử như Mặt Trời xuất hiện ở mùa Đông. Thiên Ấn dù ra đời nhưng trình độ dân trí còn quá lạc hậu, lại còn truyền khẩu, không phải truyền bằng Văn Kinh, vì giấy, bút, chữ viết khi ấy chưa ra đời nên không hấp thụ được bao nhiêu lời dạy của Thái Tử sau nầy.



Khi nhân gian còn chìm trong u minh. Những cơn bão lạc hậu. Cơn bão Mê tín dị đoan, lại mê muội quyền năng tri giác tối tăm không tiếp nhận được ánh sáng Mặt Trời. Ví như người mù dù ánh sáng Mặt Trời có rọi trúng đỉnh đầu cũng không nhận thấy được. Tuy người mù không thấy ánh sáng Mặt Trời chiếu đến nhưng không vì thế mà ánh sáng Mặt Trời không cứu họ mà còn đem lại cho họ sự sống. Đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết quả nhận thức về Chính Nghĩa sống hòa bình, tự do hạnh phúc. Văn Hóa Cội Nguồn ra đời cách đây năm nghìn năm mở màn cho Thiên Ấn ra đời nên không có Kinh luân truyền lại. Chỉ lấy tâm ấn tâm truyền khẩu cho nhau, rồi đi vào thất truyền. Thiên Ấn thất truyền. Thiên Bút xuất hiện sau năm nghìn năm. Sau Công Nguyên 2 nghìn năm kể từ khi Chúa Giê Xu ra đời Thiên Ấn, Thiên Bút xuất hiện.

*********



Hết phần 4 chương 8 mời xem tiếp phần 5 chương 8 Long Hoa Mật Tạng. Bộ Kinh Thượng Thừa tối cao vũ trụ. Không có sự làm lành cầu phước báo nào hơn. Là In Ấn, biên chép truyền bá bộ kinh nầy. Dù là một câu một chữ cũng tiêu tan vô lượng tội ác cầu chi đặng nấy không sai. Huống chi là giảng dạy cho người khác nghe. Thời phước đức dù cho hưởng trăm nghìn ức kiếp cũng không hết.

Chỉ cần nghĩ đến Mật Kinh thôi

Cũng đã tiêu tan ức tội rồi

Huống chi đọc tụng hay biên chép

Vua Trời không khó, Chúa an ngôi.







CHƯƠNG 8



PHẦN 5



PHÁT HIỆN NHỮNG CƠ BẢN



Vào thiền phòng đã hơn một tháng, lần này khác hơn lần trước Thái Tử chỉ ngồi yên lặng. Mình là vũ trụ. Vũ trụ cũng chính là mình. Thấy, nghe, hay, biết thanh tịnh, không một niệm khởi dù cho đó là một niệm không. Như như vắng lặng. Đây là một bí pháp Mật Tạng của thiền, định lực phát sanh từ đại định nầy, Mặt Trời Trí Huệ lần lần xuất hiện soi rọi khắp hư không vũ trụ, phát hiện lần những huyền bí mà trí thường, mắt thường không thể nào khám phá ra được.



Nhân loại phàm trần bị vô minh che mất Chân Tánh, phiền não nhiễu hại nghiệp lực xoay chuyển, luôn luôn lặng hụp trong biển khổ. Chiến tranh, nghèo đói, lạc hậu, ốm đau bịnh tật bám lấy không yên, chưa hết cái khổ này chồng lên cái khổ khác. Nên Đức Chí Tôn mới đầu thai xuống thế gian mở ra Thiên Ấn Cội Nguồn. Thái Tử Hùng Lan chính là Đức Chí Tôn Thiên Đế đầu thai. Đấng Cứu Thế ra đời. Nên ý chí trí lực có một không hai trong nhân thế không ai có thể bì kịp sánh nỗi.



Thái Tử mỗi lúc mỗi khám phá bí mật của bộ máy Tâm Linh, hàng phục Tâm Viên Ý Mã làm cho Linh Hồn, biển lặng, sóng yên Minh Tâm Kiến Tánh những gì bí mật vũ trụ mỗi lúc một rõ ràng. Huệ tâm sáng suốt tột cùng, phen lần Huyền Cơ Tạo Hóa, cũng như về mặt Tinh Thần lẫn Vật Chất vũ trụ. Bổng có cơn gió thổi mạnh làm cơ thể như muốn chao đảo. Hầu như cơn gió đánh thức Thái Tử một điều quan trọng.



Đã là con người không chỉ về mặt Tâm Linh không mà còn có cả thể xác. Muốn cứu nhân loại đưa nhân loại đến văn minh vật chất lẫn văn minh tinh thần. Không những mở ra con đường đạo đức mà còn cả con đường khoa học. Vật chất nuôi dưỡng thể xác. Đạo lý dưỡng nuôi Linh Hồn. Thái Tử nghĩ vật chất ư, có vai trò gì trong cuộc hành trình giải thoát. Thái Tử liền chuyển hướng huệ quang khám phá vật chất. Thái Tử nghĩ, thế giới vật chất vũ trụ vô tận vô biên nhưng thật ra chỉ có năm thể mà thôi.

1: Là Thể Lực vũ trụ.

2: Là Thể Hơi Khí vũ trụ.

3: Là Thể Lỏng Nước vũ trụ.

4: Là Thể Đặc Đất vũ trụ.

5: Là Thể Lửa hơi ấm vũ trụ




Và cũng chính Thể Lửa hơi ấm nầy làm cho 4 thể lực, khí, nước, đất kết tinh tạo ra sự sống Động vật, Thực vật, trong đó có thể xác con người.



Thể Hơi Chân Khí là thể trung gian giữa vô hình Linh Căn Linh Thức Thần Lực với hửu hình vật chất. Giữa vô sắc với hửu sắc. Vì thế sự sống của vũ trụ vật chất cũng như sự sống của con người. Chân Khí Thể Hơi luôn luôn đóng vai trò rất quan trọng trong sự sống con người, sự sống Trái Đất, sự sống vũ trụ.



Thái Tử phân tích sự quan trọng Chân Khí Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc đối với sự sống như sau.



Người ta có thể nhịn đói cả tháng cũng không chết. Nhưng nhịn uống một tuần là chết ngay. Nhưng điều đáng nói ở đây chỉ cần nín thở vài hơi là ngủm cuộc đời. Như vậy Thể Hơi Chân Khí đối với sự sống vô cùng quan trọng. Thể hơi chân khí không những rất quan trọng trong sự sống mà còn đóng vai trò chủ lực trung gian giữa Linh Hồn và Thể Xác cũng như sức khỏe và trường thọ.



Thái Tử nhìn thấy nhân loại xem chân khí rất thường. Vì chân khí đâu đâu cũng có, không cần tìm kiếm chi cả đây là một sự sai lầm lớn, trên đời nầy không có cái gì quý hơn chân khí, kể cả vàng bạc châu báu.



Sự sống con người chỉ cần một lượng chân khí hít thở không gián đoạn là đủ nên con người nào có thấy chân khí quý hiếm gì đâu.



Còn Thiên Tiên, Địa Thiên thời khác hẳn. Tu Thiền luyện khí hít thở thu nạp tinh hoa chân khí tích lũy vào cơ thể con người càng nhiều càng tốt, không những trường thọ vô bịnh tật mà còn tích tụ được nhị xác thân. Thậm chí hiển hiện pháp thuật Thần Thông tự tại. Nhân loại phàm tục không thấu rõ được điều nầy nên xem thường tinh hoa chân khí. Chỉ hít thở theo quán tính tự nhiên duy trì sự sống. Một liều lượng chân khí vừa đủ để cơ thể sống mà thôi. Còn tập trung tư tưởng để hít thở thu nạp tinh hoa chân khí là một chuyện khác.



Thái Tử dùng huệ nhãn quan sát chân khí thấy rõ tinh hoa ngũ khí, tinh hoa kim khí, tinh hoa mộc khí, tinh hoa thủy khí, tinh hoa hỏa khí, tinh hoa thổ khí lưu chuyển cùng khắp hu không theo thể lực, thể hơi, thể lỏng, thể đặc đầy khắp không gian chỗ nào cũng có. Thái Tử nghĩ rất tiếc càng về sau con người càng làm ô nhiễm tinh hoa ngũ khí này. Chính con người làm hại con người, làm hại sức khỏe, làm hại lục phủ ngũ Tạng của họ, bệnh tật dữ dội.



Tinh Hoa Chân khí vũ trụ nếu đem phân tích thời vô số kể nhưng cốt lại thời hai vế mà thôi. Thanh khí và trược khí. Thanh khí là thể khí không bị ô nhiễm độc hại còn trược khí là khí ô nhiễm độc hại.



Thái Tử nhìn thấy các Thiên Tiên, Địa Tiên tu luyện tinh hoa chân khí không những giảm đi sự đói khác bệnh tật. Lại thêm trường thọ, trí huệ khai mở, đã thông kinh mạch mà còn làm giảm đi sức ép của vũ trụ. Giảm luôn lực hút Trái Đất, th.ân thể nhẹ nhàng, thân hình cân đối xinh đẹp mịn màng. Nhất là đối với Tiên Nữ.



Thái Tử nghĩ một đất nước luôn gìn giữ môi trường trong sạch chân khí không bị ô nhiễm, toàn dân ai ai cũng tu thiền luyện khí, thời làm giảm đi gánh nặng xã hội, về bệnh tật, ngu si, lạc hậu. Đất nước ấy sẽ trở thành đất nước Thần Thánh. Luyện chân khí tích tụ vào cơ thể không những chịu đựng được nhiệt độ cao, cái lạnh cũng không làm hại được. Nếu tu luyện chân khí đỉnh cao thời khỏi hẳn bệnh tật. Làm cơ bản cho mọi sự Thần Thông biến hóa và Thái Tử đã nhớ lại vì Thiên Sứ Thiên Thần Trí Huệ đã thể hiện thần thông tự tại trước Thái Tử.



Thái Tử lại dùng thanh tịnh Huệ Nhãn quan sát vũ trụ. Thời thấy rõ vô hình điều khiển hửu hình. Vô sắc điều khiển hửu sắc. Muốn khám phá sự bí mật huyền vi vũ trụ. Không có con đường nào khác hơn là phải tu thiền luyện khí. Thu hút Tinh Hoa chân khí vũ trụ tạo lập nhị xác thân. Xác thân tinh khí và thần lực. Nhờ nhị xác thân, thời Chân Tánh mới hiển lộ thần thông trí huệ như ý được. Tiến tới toàn năng toàn giác. Mở ra Thiên Ấn Cội Nguồn.



Thái Tử lại dùng Huệ Nhãn quan sát trên thể hơi chân khí vũ trụ, Thể Lực vũ trụ không đâu là không có, Thể Lực vũ trụ cũng chính là Thần Lực vũ trụ, trên Thể Lực vũ trụ là Linh giác vũ trụ, Linh giác vũ trụ gồm 2 vế, Chân Tánh và Thức Tánh, Chân Tánh ví như nước, Thức Tánh ví như bọt nước.



Một khi thể lực vũ trụ bị khuấy động thời chuyển hóa thành điện năng, khi điện năng ma sát chạm nhau, thời tạo ra chân hỏa Tam Muội không có thứ gì dập tắc được. Thứ lửa tam muội nầy thiêu rụi thế giới vật chất. Biến tinh thể Thảo Mộc thành tinh thể mặn.



Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần không phải là để tu luyện chứng Đạo làm Phật Tổ hay vì danh lợi. Mà là Đấng cứu thế, truyền lời dạy Cha Trời xuống chốn nhân gian. Thiên Ấn vũ trụ. Muốn làm được điều này Thái Tử phải vượt qua bao khó khăn, thử thách sáng suốt phen lần từng mối huyền vi vũ trụ. Tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ấn truyền xuống thế.



Muốn làm được việc đó Thái Tử không thể không có nhị xác thân Tinh Khí Thần, do tu thiền luyện khí mà ra. Nhị xác thân là xác thân trung thân giữa vô sắc thân và phàm thân. Vô sắc thân là Thân Thức, Thức Thân, Thần Lực, với thức thân Thần Lực này các vị Đại Bồ Tát đi xuyên qua sắt thép, sành sứ, Kính, Đá xuyên qua quả Địa Cầu không để lại dấu vết, còn nhị xác thân không làm được điều đó, xác thân của Thiên Tiên, Địa Tiên nhị xác thân như trên Kinh đã nói, là xác thân do tu thiền luyện khí mà ra. Lâu hay mau đều do người tu luyện mà thành.



Để hiểu rõ hơn Thái Tử phân tích: trên xác thân phàm tục là nhị xác thân Tinh Khí Thần, Thần ở đây không phải là Chơn Thần mà là Thần Lực. Trên nhị xác thân Tinh Khí Thần, là căn thân Thần Thức Huệ Mạng Linh Hồn. Với Căn Thân Linh Căn Thần Thức Huệ Mạng Linh Hồn. Các vị Đại Bồ Tát đi xuyên qua tất cả. Sắt, thép, sành sứ, kính, kiến, thậm chí đi xuyên qua quả địa cầu, mà không để lại dấu vết. Vì thế mất xác thân phàm tục, chẳng khác nào lột bỏ một vỏ bọc linh hồn, lớp võ bọc già cỗi. Không ảnh hưởng gì tới linh hồn cả. Thậm chí cả nhị Xác Thân, Tinh Khí Thần cũng thế. Chỉ có Căn Thân Huệ Mạng Linh Hồn là vô cùng quan trọng.

*********



Hết phần 5 chương 8 mời xem tiếp phần 1 chương 9 Long Hoa Mật Tạng. Có thể nói trong tam thiên đại thiên thế giới không có gì quý hơn bộ kinh nầy. Những ai ca ngợi Bộ Kinh Nầy thời những người nầy trong vô lượng kiếp, thường đứng đầu đại chúng, lời nói ai cũng muốn nghe. Huống chi là yêu quý gần gủi đọc tụng tìm hiểu ý nghĩa của kinh.
 
CHƯƠNG 9



PHẦN 1



NẤT THANG ĐẦU TIÊN CHINH PHỤC VŨ TRỤ



Để tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ấn vũ trụ, Thái Tử bước lên nất thang đầu tiên tập trung ý chí cho cuộc mở màn tu thiền luyện khí tiến sâu vào bí mật vũ trụ, cảnh giới tối cao của trí huệ. Theo sự nhân biết của Thái Tử, con người là Tiểu Thiên vũ trụ, vũ trụ thu nhỏ mà thôi. Có thể nói một cách dễ hiểu hơn, con người là Tinh Hoa vũ trụ do Tổ Tiên tạo ra bao hàm cả Âm lẫn Dương. Luyện nhị xác thân cũng thế phải biết kết hợp Tinh Hoa Âm Dương của chân khí. Âm Dương giao hóa, kỳ tích phát sanh, nhị xác thân phát triển hình thành. Ẩn tàng trong thi thể xác thịt phàm tục.



Theo tính toán nhận thấy của Thái Tử. ÂM và DƯƠNG ngày đêm, phải có thời điểm giao hợp kết tinh giao nhau sanh sanh hóa hóa.



Thời điểm kết tinh của ÂM DƯƠNG là Tý - Ngọ thời điểm giao hóa của ÂM DƯƠNG là Mẹo - Dậu.



Để tâm ý thanh tinh là nền tản làm phát sanh Thần Lực. Ý trí trở nên mạnh mẽ thu hút chân khí vũ trụ. Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu đưa sâu vào lục phủ ngũ Tạng tích tụ tại Đan Điền. Mỗi lần hít thở theo ý tưởng đưa chân khí vào Đan Điền là mỗi lần tích góp Tinh Khí Thần, làm tăng thể lực trong người giảm đi sự đói khác và mỏi mệt.



Để tu luyện nhị xác thân mau đạt kết quả Thái Tử tự vẽ hình người. Chấm các huyệt đạo trên người một cách thuần thục. Từ huyệt đạo trọng yếu chủ lực cho đến các huyệt đạo bình thường, 365 huyệt. Gần tương ứng với 365 ngày.



Với tư thế ngồi xếp bằng lưng thẳng đầu hơi cúi, mắt mở hí hí nhìn chót mũi. Hai chân tréo lên nhau, hai lòng bàn chân ngữa lên trời Có lúc Thái Tử ngồi xếp bằng hai chân chồng lên nhau mà thôi, hai lòng bàn tay cũng thế, với tư thế ngồi như thế. Thái Tử hướng tiểu thiên vũ trụ về Đại Thiên vũ trụ. 360 huyệt đạo thông theo hai lòng bàn chân, hai lòng bàn tay và đỉnh đầu. Ngũ thông năm cửa lớn thông thiên, thông địa của con người.



Có khi Thái Tử đan tréo các ngón tay chồng lên nhau, với tư thế ngồi tu thiền luyện khí của Thái Tử với bao ẩn tàng triết lý mầu nhiệm. Những bước đi cơ bản để rồi tiến sâu hơn trên con đường hội nhập chinh phục vũ trụ. Nhờ ý chí cương quyết hơn một tháng đầu Thái Tử dốc hết tâm trí, mọi tạp niệm đều dứt sạch, ngồi kiết già tập trung luyện khí, chỉ thấy cơ thể khỏe hơn. Còn tất cả thời không phát hiện được gì.



Thái Tử đâm lo suy nghĩ, không lẽ ta thấy sai, nên suy luận cũng sai. Phương pháp tu thiền luyện khí còn có chỗ chưa hợp lý nên tu luyện cả tháng mà chưa thấy hiệu quả. Thái Tử để hết tâm trí suy luận lại từ đầu. Không lẽ tu thiền luyện khí đến cả trăm năm mới thành thời hết đời người mất còn gì, còn đâu mở ra hướng đi mới cứu nhân độ thế.



Không lẽ phương pháp tu thiền luyện khí ta cũng như các Đạo sĩ tu thiền luyện khí của các Thần giáo. Thái Tử tự nghĩ Không thể được, sự tu luyện của các Đạo sĩ Thần giáo là sự tu luyện lần mò không nắm bắc được bí quyết tu thiền luyện khí. Cũng như sự huyền vi của tu thiền luyện khí.



Các giáo chủ Thần Giáo không làm chủ được Linh Hồn, không làm chủ được lục Căn lục Thức, cũng như thức tánh, Chân tánh của mình. Vô minh luôn luôn xoay chuyển, khó mà tiến sâu vào bí mật tu thiền luyện khí đỉnh cao của Tạo Hóa. Không đủ trí tuệ phen lần nhân duyên bí mật đó.



Trong lúc Thái Tử để hết tâm suy luận lại từ đầu, hầu tìm ra giải pháp những chỗ chưa hợp lý. Vô tình Thái Tử nhìn thấy một chồi cây xanh mới mọc ngoài khung cửa, chồi xanh ấy rất lạ hầu như cuốn hút Thái Tử. Thái Tử tò mò tập trung tư tưởng khám phá, cả hàng giờ nào có thấy chi lạ đâu, không có gì thay đổi. Chồi cây vẫn là chồi cây.



Lúc ấy Thái Tử mới thôi tập trung khám phá chồi cây. Tiếp tục luyện tập tu thiền luyện khí, thời gian trôi qua lại thêm 1 tuần nữa, lần này Thái Tử cảm thấy cơ thể hầu như có điềm khác lạ nhưng chưa được rõ ràng lắm.



Vô tình Thái Tử nhìn ra chồi cây xanh, thời vô cùng kinh ngạc, chồi cây xanh thêm nhiều lá sum sê. Thái Tử tự hỏi chồi xanh ra lá hôm qua, hay bữa nay? Hay là sự phát triển không dừng rất chậm. Thái Tử như bừng lên giác ngộ phải rồi, sự phát triển của chồi cây rất chậm. Trong một giờ khó nhìn thấy sự phát triển của nó mà phải nhìn hàng tuần, thời mới thấy sự phát triển của nó. Tu thiền luyện khí khác nào phải nhìn hàng tháng hàng năm mới thấy kết quả. Thái Tử nhìn chồi cây sum sê như cảm ơn sự nhắc nhở đánh thức của người.



Đúng lúc ấy có một người xuất hiện, Thái Tử vô cùng ngạc nhiên. Thái Tử hỏi:

Ngươi đến đây tìm ai?



Người ấy lễ phép nói:

Tôi tìm Thái Tử.



Thái Tử nghe người ấy nói vô cùng kinh ngạc và hỏi:

Ngươi tìm ta có chuyện gì?



Người ấy lễ phép thưa:

Nghe Thái Tử là người thông thái, trí huệ vô biên, Cha Tiểu Thần qua đời để lại cho Tiểu Thần vật gia bảo quí hiếm, bảo vật Thần Lửa, khi nào cần thời lấy lửa, nhưng Tiểu Thần tìm mãi không tìm thấy lửa, có người bảo Tiểu Thần thử ma sát vào nhau, Tiểu Thần ma sát mãi chỉ thấy hơi nóng bốc ra mà thôi, cọ qua cọ lại cả năm cũng không thấy lửa, vật lấy lửa coi như là vật Thiên. Người nào làm chủ vật đánh lửa coi như người đó là con của Thần Mặt Trời.



Ở vào thời kỳ ấy lửa vô cùng quan trọng đối với con người và có nhiều Thần giáo thờ lửa.



Nghe chuyện lạ Thái Tử tò mò hỏi:

Ngươi có đem theo vật chí bảo đó không?



Người ấy nói:

Dạ có nó rén cứng vô cùng.



Người ấy nói xong đưa cho Thái Tử. Thái Tử cầm lấy quan sát một hồi rồi ma sát vào nhau mỗi lúc một mạnh, sự ma sát liên tục của hai thỏi đá đã bốc khói. Thái Tử vận lực lên hai bàn tay ma sát hai thỏi đá tốc độ nhanh hơn mạnh hơn, thời ánh sáng lóc lên tia lửa phát ra dữ dội. Thái Tử đưa chúng vào mồi để cháy, tức thì ngọn lửa bốc lên, nếu sơ ý không cẩn thận sẽ gây ra hỏa hoạn, tàn phá thiêu rụi núi rừng, nhà cửa sự sống của con người và vạn vật. Đốm lửa cháy rừng.



Người xuất hiện la lên:

Có lửa rồi, thế mà tôi cọ xác chúng cả năm không có, Tôi hiểu rồi.



Người ấy nhận lại vật đánh lửa rồi biến mất. Thái Tử vô cùng kinh ngạc người ấy là Thiên Thần sao ?



Lửa Âm Dương. Lửa Lòng. Lửa Công Lý, Chân Lý. Những thứ lửa mà Thái Tử cần phải biết cách tạo ra nó, dùng nó để làm lợi ích cho cuộc sống con người, thứ ánh sáng đem về cho nhân loại bao sự sống yên vui hạnh phúc. Thái Tử là nhà khoa học vĩ đại. Luôn luôn khám phá quy luật bí mật sẳn có nơi vũ trụ làm lợi ích phục vụ cho đời sống con người. Thái Tử lấy lửa theo phương thức tự nhiên. Không có sự bí mật Thần Lửa nào cả mà chỉ áp dụng theo phương thức khoa học, khi ngọn lửa đã bốc cháy, Thái Tử nhìn lên không gian theo hướng biến mất của người xa lạ bổng nghe trên không có giọng hát vọng xuống.

Lửa Lòng, Lửa Huệ, Lửa Âm Dương

Quy luật xưa nay vốn sự thường

Huyền cơ bí mật nào xa lắm

Quanh ta đầy dẫy bí pháp vương.


Thái Tử như người tỉnh mộng, trí huệ bừng khai mở lên một đỉnh cao mới. Thái Tử giờ đây nhìn vào cái gì vật gì, cảnh quang đều nhìn thấy ẩn tàng lời dạy của Đức Cha Trời. Đấng tạo vật Đấng lập lên tất cả, vũ trụ sự sống chết cùng con người. Đấng toàn năng, toàn giác. Đấng sáng tạo và lập lên tất cả. Sự phát triển của cỏ cây, cũng như cách lấy lửa, làm tăng thêm sự giác ngộ, hiểu rõ về thành quả trên bước đường mình đi.



Niềm tin và sự quyết đoán dẫn Thái Tử đến mục đích cuối cùng. Thái Tử siêng năng tu tập không dừng nghỉ. Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu, 4 thời 8 giờ không bỏ sót. Ý chí Thọ tưởng thu nạp chân khí đều đặng đưa sâu tận Đan Điền. Còn những giờ khác Thái Tử luôn trụ tâm thức tại Đan Điền, thở ra hít vào bằng Đan Điền, cứ thế ngày qua tháng lại hơn một năm. Hôm nay Thái Tử kiểm chứng sự thành công hơn một năm đã qua. Thời thấy rõ sự thay đổi trong cơ thể, cũng như các giác quan, nếu đem so sánh với lúc chưa tu thiền luyện khí, thời hai trạng thái khác xa như hai người ở hai cảnh giới khác nhau. Như người ốm nặng và người khỏe mạnh hay nói một cách khác một phàm một Thánh. Sự hít thở Thái Tử giờ đây khác với người thường, không phải do phổi làm chủ mà do Đan Điền làm chủ, phổi chỉ là giai phụ. Mỗi lần tham thiền luyện khí, thời nơi Đan Điền tỏa ra luồn khí nóng lan tỏa ra các huyệt Đạo xung quanh như. Hoang Du, Thủy Phân, Thiên Khu, Đại Cự, Khí Hải Quan Nguyên, rồi lan tỏa rộng ra Phúc Kết, Thương Đạo, xuống Cực Trung lên Trung Quản, Cự Huyết, Cửu Vĩ, lan tỏa ra Thủy Đạo, Xung Môn, Đại Hách, Kỳ Môn, Khí Xung lan xuống Khúc Cốt, Hội Âm, lan ra Đới Mạch, Lương Môn, Cự Liêu, Bất Dung, Chương Môn, Nhật Nguyệt, Ngũ Khu. Làm cho toàn phần bụng nóng rang. Rồi lan tỏa khắp châu thân, làm cho thân người nhẹ bổng, tuy hôm nay trời giá rét xuống đến không độ, nước như đóng băng, thế mà Thái Tử không thấy lạnh lẽo chi cả, khi Thái Tử chỉ mặc một chiếc áo mỏng. Thái Tử không cho mặc áo mỏng dễ cảm lạnh là vì Thái Tử hiểu rõ thể lực của mình giờ đây đã khác hẳn hơn trước kia, có thể chịu đựng sự nóng lạnh mà người thường không thể nào chịu nổi.



Đồ ăn thức uống được đưa đến những món cao lương mỹ vị hàm lượng bổ dưỡng cao. Nếu không luyện tập thời rất dễ bị bệnh béo phì, làm tổn thương đến các kinh mạch, nhưng lần lần Thái Tử càng phát hiện là mình không thấy đói khác. Nhất là những món ăn Động Vật dần dần không thích hợp với khẩu vị của Thái Tử. Vì các giác quan đã dần dần trong sạch. Nhất là cơ quan vị giác, khứu giác. Cũng như cơ thể lục phủ ngũ Tạng phản tỉnh khó chịu khi ăn chất Động Vật có lúc dẫn đến nôn mửa, gây khó chịu cho cơ thể. Có thể nói đây là sự phản ứng của nhị xác thân mới hình thành trong cơ thể của Thái Tử. Nếu nhị xác thân của Thái Tử hình thành lớn mạnh thời Thái Tử trở thành người ăn chay, chỉ ăn toàn Thực Vật. Điều này đã làm cho Kinh Dương Vương và Thần Long Nữ lo lắng cho sức khỏe Thái Tử vì sợ Thái Tử ốm gầy rồi mất mạng, theo quan niệm của nhân gian thường tình. Trường Trai chính là khổ hạnh, nhưng họ có hiểu đâu Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đều coi trọng việc ăn chay, vì ăn chay ẩn tàng nhiều lợi ích. Về mặt tâm linh thời Đại Từ Đại Bi, còn về mặt thể xác không những đẩy lùi bệnh tật mà còn tích tụ Chánh Khí phát Đại Dương Quang, tu luyện mau thành chánh quả. Đó là một trong trăm nghìn lợi ích, còn nhiều lợi ích nữa kể không hết. Sự dư thừa các món ăn hằng bữa của Thái Tử đã làm cho Phụ Vương cùng Mẫu Hậu lo lắng. Sao con lúc này ít ăn như thế hay có bệnh hoạn gì không ? Nhưng vì có lời dặn của Thái Tử, không ai được gặp vì gặp như thế không những làm cho Thái Tử mất mạng trong lúc nhập thiền vận hành chân khí mà còn làm cho Thái Tử Động Tâm, tu luyện khó thành chánh quả.



Kinh Dương Vương và Thần Long Nữ không dấu nổi lo lắng trong lòng, liền kêu xão Nữ thị Tỳ hỏi:

Người thấy sức khỏe Thái Tử dạo này ra sao ? Thị Nữ ngươi thấy Thái Tử dạo này ra sao?



Nhìn nét mặt lo lắng Quốc Vương, Vương Hậu lo cho Thái Tử không phải là lo cho mình. Nhưng Thị Nữ cảm thấy lòng ấm áp như có cái gì cảm động nghèn nghẹn trong lòng.



Thị Nữ lễ phép trả lời:

Muôn tâu Quốc Vương, Vương Hậu. Con chỉ được phép đem đồ ăn thức uống đến phòng ăn, chừng nào có hiệu lịnh Thái Tử mới được vào dọn dẹp, gần 2 năm nay tiểu Nữ chưa một lần nhìn thấy Thái Tử, thời làm sao tiểu Nữ biết Thái Tử mập ốm thế nào mà kể.



Quốc Vương và Vương Hậu Phi nghe xão Nữ thị tỳ nói thế, thời chỉ biết thở dài mà thôi. Quốc vương nghĩ vì tương lai của non sông Tổ Quốc mà con ta phải chịu bao khổ sở, Cha con xa cách, tuy ở gần mà cách nhau như hàng vạn dặm. Với bao nỗi nhớ thương. Sợ con đau ốm vì dốc sức tu luyện, tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên ẤN vũ trụ, Bình Định Thiên Hạ về một mối. Đẩy lùi chiến tranh, đẩy lùi Lạc Hậu, đói nghèo, mở ra trang sử mới, trang sử công bằng văn minh, bảo tồn độc lập lâu dài, đây là một việc làm vô cùng khó khăn mà từ xưa tới nay chưa có ai làm nỗi.



Kinh Dương Vương nghĩ phía trước còn quá khó khăn, đầy dẫy gian nan kham khổ mơ hồ không chút hy vọng. Không biết giờ này đã gần 2 năm con đã lần ra manh mối nào chưa? Để cho con có đầy đủ sức khỏe, thay thế cao lương mỹ vị nem Rồng chả Phụng bằng những Thực Vật quí hiếm, trên núi tuyết, nơi hang sâu, ngoài hang Đảo, dưới biển sâu, để tăng thêm sức khỏe. Mật ong, sữa bò, tổ yến nấu với gạo nếp, uống nước sâm nghìn năm, cọng với Linh Chi, tuyết quả, phải nói đây là những món ăn thức uống quí hiếm trong đời, trợ duyên cho người tu thiền luyện khí mau Đắc Đạo.



Nhờ trợ duyên những món ăn quí hiếm Thái Tử thể lực Chân Khí tăng tiến thần tốc. Mỗi khi tham thiền luyện khí, Chân Khí cuồn cuộn tăng lên như nước biển triều dân, cơ thể nhẹ nhỏm, tưởng chừng như bay bổng khỏi mặt đất, không thấy mệt mỏi chi cả dù thức suốt ngày suốt đêm hàng tháng.



Trải qua một thời gian ngắn chỉ hơn 3 năm Thái Tử đã đạt đến cảnh giới, tam hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều dâng. Hiếm thấy trong thế giới tu thiền luyện khí, trong nhân loại từ xưa tới nay. Kinh Dương Vương Cha của Thái Tử là người tu thiền khí rất siêng có hơn 70 năm cũng không hơn được Thái Tử bây giờ.



Đạt đến cảnh giới tam hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều dâng. Không phải ngẫu nhiên mà thành tựu mau chóng đến thế mà do cơ thể Thái Tử có nhiều tướng tốt, lại thêm thông minh xuất chúng trí huệ thượng thừa, tu theo phương pháp thượng thừa, cọng với nhiều nhân duyên tốt đẹp khác nữa. Nên mới có kết quả thành tựu nhanh đến nỗi ai nghe qua cũng khâm phục, trong thế giới tu thiền luyện khí.



Thái Tử hiểu rõ, con người là Tinh Hoa vũ trụ thu nhỏ cả một sự huyền bí, khám phá bí mật con người là nền tản chỗ tựa tiến dần khám phá vũ trụ. Linh giác vũ trụ, vật thể vũ trụ. Linh Hồn con người, thể xác con người, sợi móc xích trung gian để tồn tại, chính là vô cực Chân Nguyên Thần Lực vũ trụ, Thần lực con người. Thế giới vật chất cũng như thể xác con người tồn tại hay tan rã đều liên quan đến Lực này, Vô Cực Chân Nguyên Thần Lực. Vô Cực Chân Nguyên là thể lực vô vi xuyên qua tất cả không để lại dấu vết là đầu dây mối nhợ chuyển hóa hình thành ra thế giới vật chất.



Vô Cực Chân Nguyên, Thần Lực vũ trụ là trung gian nối liền giữa bản thể Linh giác vũ trụ và vật thể vũ trụ, tức là bản thể Linh giác Tổ Tiên và thế giới vật chất, vật thể vũ trụ, mà thế giới vật chất có ba thể, từ bán vô vi đến hửu vi, từ thể hơi đến thể lỏng, thể đặc, có thể nói một cách dễ hiểu, Vô Cực Chân Nguyên, Thần Lực vũ trụ là trung gian nối liền giữa bản thể Linh giác vũ trụ và Chân Khí vũ trụ, siêu vô vi và hửu vô vi. Siêu vô vi là Linh giác vũ trụ. Hửu vô vi là Chân Khí vũ trụ.



Hửu vô vi Chân Khí chuyển hóa thành thể hơi vũ trụ, là trung gian giữa Vô Cực Chân Nguyên Thần Lực vũ trụ và vật chất hửu sắc Thể Lỏng.



Rồi từ vật chất hửu sắc, Thể Lỏng chuyển hóa thành nước, làm trung gian giữa Hửu vô vi Chân Khí thể hơi và hửu sắc thể Đặc. Sự liên quan móc xích, từ vô hình đến hửu hình, từ vô vi đến hửu vi, từ vô sắc đến hửu sắc. Từ Thể Lực đến Thể Hơi đến Thể Lỏng đến Thể Đặc. Sự liên quan tồn tại hay tan rã của bốn thể trên, qua liên kết tiến hóa, chuyển hóa tồn tại hay hủy diệt Thái Tử thấy biết rõ ràng.



Thái Tử hiểu rõ, con người là Tinh Hoa vũ trụ, vũ trụ thu nhỏ, tiểu Thiên vũ trụ. Hiểu Tiểu Thiên vũ trụ là hiểu Đại Thiên vũ trụ, hiểu con người là hiểu vũ trụ, hiểu vũ trụ là hiểu bí mật của con người, hiểu bí mật của con người chính là chiếc chìa khóa vạn năng để mở tung vũ trụ, kho tàng tri thức nhân loại mà Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa thành tâm bảo vệ và gìn giử. Đó chính là Văn Hóa Cội Nguồn, Thiên Ấn vũ trụ.



Thái Tử tốm thâu Tinh Hoa vũ trụ, bổ sung bồi đắp cho Tinh Hoa con người, đưa con người tiến đến giai đoạn mới, giai đoạn tiến về vũ trụ, hiểu vũ trụ và làm chủ vũ trụ. Tu Thiền luyện khí, tốm thâu Chân Khí vũ trụ, cũng có nghĩa tốm thâu vũ trụ, từ vô vi Thần Lực vũ trụ đến hửu vi hửu sắc vũ trụ cọng thêm sự ăn uống của Thái Tử, đã đầy đủ nhân duyên kết hợp bốn thể, Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc, đưa Thái Tử đến thành tựu nhị xác thân nhanh chóng, Tinh khí Thần hợp nhất chuyển hóa. Nhị xác thân đã hình thành, thời những bí mật vũ trụ, bí mật con người lần lần hiển lộ. Dẫn con người từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, hiểu con người mới làm chủ được con người. Hiểu tâm Linh mới làm chủ được Tâm Linh. Hiểu xã hội mới làm chủ được xã hội. Hiểu vũ trụ mới làm chủ được vũ trụ. Hiểu công năng của tu thiền luyện khí, thời người tu thiền luyện khí mới thu lượm gặt hái thành quả mau chóng được.



Điều đáng nói ở đây muốn tu thiền luyện khí có hiệu quả cao, thời phải làm chủ được tâm của mình, được ý của mình. Tức là hàng phục Tâm viên, ý Mã, Thân Tâm thanh tịnh, chăm chỉ tốm thâu Chân Khí và giữ Chân Khí tại Đan Điền. Tâm Điền - Khí Điền - Đan Điền. Là mật tạng vũ trụ. Ý thức làm chủ tam điền này. Thời tu thiền luyện khí thành tựu mau chóng. Nhờ thành tựu nhị xác thân mau chóng. Vì thế con người cũng tiến tới đỉnh cao mau chóng, tiến lần tới những nất thang làm chủ vũ trụ. Thái Tử hiểu rõ trong thế giới Động Vật có đến 8 muôn 4 nghìn loài, chỉ có loài người là Động vật cao cấp mà cũng chỉ có loài người mới có khả năng làm chủ vũ trụ. Trở về với Đấng Ông Cha. Đấng tạo lập lên vũ trụ. Tạo lập lên con người. Tốm thâu Tinh Hoa Chân Khí vũ trụ, được rót vào cơ thể con người. Tức thời làm tăng thêm sức mạnh, kể cả sức mạnh Thần Lực, Thể Lực, Ý Chí, mọi hiện tượng bắt đầu thay đổi, đẩy lùi đói khác, bệnh tật, nóng lạnh của thời tiết, càng lúc càng rõ rệt. Khi tu thiền luyện khí kết quả thành tựu lên cao. Không những thế người tu thiền luyện khí làm cho huyệt Đạo càng ngày càng thông suốt, da dẽ hồng hào tăng tuổi thọ, tráng kiện về thể xác, minh mẩn về tâm hồn, phán đoán chính xác, giải quyết mau lẹ. Đó là ưu điểm của người tu thiền luyện khí. Thái Tử nghĩ một dân tộc văn minh, thời dân tộc đó văn minh vật chất phải đi đôi với văn minh tinh thần, thời dân tộc đó mới thật sự văn minh. Con người muốn có hạnh phúc trọn vẹn, phải biết tu dưỡng thể xác, cũng như tu dưỡng tinh thần, nếu không phải thế thời khó mà tìm thấy hạnh phúc trọn vẹn.
 
PHẦN HỎI ĐÁP.



Hỏi: Đấu tranh giải phóng Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. trả lại quyền tự do, Quyền Bình Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc. Mà Tạo Hóa đã ban mỗi con người, những quyền bất khả xâm phạm có phải là Đại Từ Đại Bi không?



Đáp: Nếu làm được như vậy đúng là Đại Từ Đại Bi. Còn nếu giải phóng dân tộc ra khỏi áp bức Độc Quyền Độc Tài Độc Trị tàn bạo, rồi lên cầm quyền cai trị không những không trả lại quyền tự do, Quyền Bình Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc, những quyền cơ bản mà Tạo Hóa đã ban cho mỗi con người. Tiếp tục con đường cũ Độc Tài Độc Trị thời cuộc giải phóng đó đối với dân mà nói là cuộc chiến tranh phi nghĩa, được là Vua, thua là giặc, dân vừa thoát ra khỏi họng cọp, liền rơi vào miệng sói và sự việc này cứ lặp đi lặp lại hai nghìn năm rồi. Một dân tộc mà mang hai chữ Đồng Bào thời dân tộc đó là dân tộc Đa Nguyên, Dân Tộc kết hợp nhiều chủng Tộc. Dân Tộc Bách Việt Văn Lang, hay 54 dân tộc anh em Việt Nam. Đã là Dân Tộc Đa Nguyên kết hợp nhiều chủng tộc như vậy. Thời không phù hợp chế độ độc tài độc trị. Mà chỉ phù hợp sống theo Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo dân tộc truyền thống giữ nước và dựng nước mà thôi. Sống theo Hiến Pháp, Luật pháp,Đạo Pháp là sống Công Bằng Bình Đẳng, Quyền Tự Do, Quyền Ngôn Luận, Quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc mới thật sự thể hiện đầy đủ đi vào đời sống con người.



Hỏi: Thế nào là Đạo Lớn?



Đáp: Đạo là con đường để đi, nếu đó là con đường Văn Hóa Cội Nguồn, Văn Hóa Đại Đồng. Thời đó chính là con đường lớn, Đại Đạo ra đời. Không phân biệt Đảng phái, Đạo giáo, Tôn giáo, màu da chủng tộc, giàu nghèo, Tà Chánh, dốt ngu, Thiện ác đều đi được cả. Mỗi bước chân là mỗi bông hoa mùa xuân nở theo chân của họ.



Hỏi: Thế nào là Đức Lớn?



Đáp: Suốt đời vì nhân loại nhưng không cầu bổng lộc gì cả. Phi ân bất cầu báo, chỉ sống theo lòng từ bi bác ái, thương nhân loại khốn khổ, luôn ở ngôi Chánh Đẳng, Chánh Giác trong sạch Vô Vi. Những kẻ bỏ sức ra một đồng, muốn thâu vào bạc tỉ. Lúc nào cũng vì ngôi cao bổng lộc. Quyền thế và Địa vị, lối sống như vậy chỉ vì danh vì lợi vì chức vì quyền. Sống trên mồ hôi, nước mắt xương máu của dân, những kẻ như vậy dù giàu có đến đâu, quyền lực đến đâu cũng chỉ là kẻ thất Đức mà thôi.



Hỏi: Thế nào là người biết?



Đáp: Người hiểu biết là người thấy thiện nên theo, thấy ác nên bỏ. Tôn thờ Chính Nghĩa, tôn thờ non sông Tổ Quốc, tôn thờ Văn Hóa Cội Nguồn. Tôn trọng người chính là tôn trọng mình, sống Bình Đẳng, thường làm lợi ích cho Tổ Quốc trên lợi ích cá nhân. Hạnh phúc thiên hạ cũng chính là hạnh phúc của mình, người có ý tưởng vì nhân loại, thời lúc nào cũng làm cho nhân loại vui. Lối sống giản dị dù ở địa vị cao hay giàu sang phú quí. Cũng không phô thanh thế của mình. Người như thế chính là người Đại hiểu biết.



Hỏi: Như thế nào là người giác ngộ?



Đáp: Hòa mình tất cả hết thảy các tầng lớp xã hội nhưng trụ vững lòng thanh tịnh sống vì Chính Nghĩa không sống theo danh lợi chạy theo danh lợi. Không vì thế mà danh lợi đánh mất mà càng ngày càng lớn, ví như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, sống trong danh lợi mà không nhiễm danh lợi. Những người nào vì nhân loại, không vì mình và cụ thể nhất là xem qua hành động của họ như Quốc Tổ Vua Hùng, như Phật, như Chúa chẳng hạn. Đó là những người Đại giác ngộ.



Hỏi: Thế nào là người ngu?



Đáp: Những kẻ thường cho mình có trí nhưng làm hại non sông Tổ Quốc, làm hại Đồng Bào anh em, làm trái lại lương tâm. Không rõ sau khi chết Linh Hồn mất hay còn, cứ làm bừa, mãi sa chân vào con đường tội lỗi, để rồi nhận lấy hậu quả thê thảm, người như thế khác nào người mù, trí mù. Không trở thành kẻ ngu mới là chuyện lạ.



Hỏi: Thế nào là tư tưởng lớn?



Đáp: Những người phát Đại Nguyện đều là những người có tư tưởng lớn, Quốc Tổ Vua Hùng là người có tư tưởng lớn, Quốc Tổ Vua Hùng phát nguyện rằng. Ta nguyện giải thoát tất cả sự thống khổ, khổ nô lệ, nô lệ bạo lực cửa quyền, nô lệ kiến thức, khổ đói nghèo, khổ lạc hậu, khổ sanh, lão, bệnh, tử, làm cho nhân loại thật sự tự do thật sự hạnh phúc. Đại Đồng Bình Đẳng ai ai cũng thể hiện đầy đủ những quyền mà Tổ Tiên Đức Cha Trời đã ban cho họ, đầy đủ trí tuệ, không có sự bí mật nào mà không biết, không có sự huyền bí nào mà không thông. Dù cho đó là sự huyền bí quá khứ lúc chưa sanh vũ trụ hoặc suốt vị lai vũ trụ bị hủy diệt và sanh vũ trụ mới và mỗi Linh Hồn tự làm chủ lấy mình. Làm chủ vũ trụ an vui tự tại. Nếu ta không đưa nhân loại tới cảnh giới đỉnh cao như vậy, thời ta chưa hội nhập vào ngôi vị Chánh Đẳng, Chánh Giác, vẩn còn tiếp tục là Đấng Cứu Thế. Tùy nhân duyên mà hiện thân hoặc đầu thai ra, ta lúc nào cũng theo sát nhân loại, lập ra nhiều phương tiện để cứu khổ cứu nạn, đưa nhân loại đến bở giải thoát, trở thành Chánh Đẳng, Chánh Giác, ngôi vị Chí Tôn. Ngôi Vị Thế Tôn. Bắt chước Quốc Tổ làm theo Quốc Tổ là người có chí lớn. Tư tưởng lớn trong Chính Nghĩa không phải là tư tưởng xưng hùng xưng bá, đưa nhau vào con đường máu đổ đầu rơi, oan oan tương báo, nợ nợ đáo đầu, hận thù chồng chất như non như núi. Đó chỉ là tư tưởng của con người cuồng vọng háo danh, háo lợi, lợi dụng Chính Nghĩa phục vụ cho lòng tham vọng của mình, lòng tham vô đáy, vơ vét của cải, vơ vét quyền lực bao nhiêu cũng không đủ, trở thành kẻ Độc ác, Độc quyền, Độc tài, Độc trị mà nhân loại là nạn nhân của những con người này.

*********


Hết phần 1 chương 9 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 2 chương 9. Long Hoa Mật Tạng Kinh, được coi như là Bộ Kinh đại giải thoát. Giải thoát đói nghèo, giải thoát tội lỗi, giải thoát nô lệ, giải thoát ngu si, giải thoát hận thù, giải thoát địa ngục, giải thoát sanh tử luân hồi.
 
CHƯƠNG 9



PHẦN 2



TU THIỀN



Tu Thiền là gì?

Nói một cách ngắn gọn dễ hiểu. Tu Thiền là làm cho tâm trí lắng yên, bình an, nhẹ nhàng thoải mái, hiệu quả của sự lắng yên tâm trí là làm phát sanh trí huệ, giống như ngọn lửa đang cháy hoặc lụn tàn, đổ thêm ngụm dầu làm cho ngọn lửa bừng sáng bốc lên cao.



Tu Thiền có hai cách: ĐỊNH sanh THIỀN và THIỀN sanh ĐỊNH.



Định: là tập trung tư tưởng vào một điểm cố định. Chú tâm lắng suy nghĩ, làm cho tâm trí yên lặng đó là Thiền.



Sơ Thiền:
là thư giản buông thả tất cả, không vướng bận chi hết, lắng yên tâm thức bình an nhẹ nhàng, sự lắng yên Tâm Thức ấy gọi là Thiền sanh Định, cũng giống như ăn để sống, sống là do ăn Thiền sanh Định. Định sanh Thiền cũng vậy mà thôi, hể có Thiền thời sanh Định, hể có Định thời sanh Thiền. Như vậy Thiền Định là một phương pháp mật tạng vũ trụ, làm cho tâm trí bình an, nhẹ nhàng, tỉnh lặng, xóa tan đi những năm tháng lao tâm, lao trí mệt mõi. Cũng như dừng nghĩ không cho phát sanh nghiệp quả, nhất là nghiệp quả ác.



Nói về Thiền, thời có từng bật cao thấp khác nhau, thư giản dứt căng thẳng lo âu đó cũng là Thiền. Tiến sâu hơn nữa là buôn thả tất cả tâm hồn tỉnh lặng, Đạo Thiền. Tiến sâu hơn nữa, giác ngộ Chân Tâm, Chân Tánh, an trụ Chân Tâm Chân Tánh, Chánh Đẳng Chánh Giác, tối thượng Thiền, Chánh Định, Tâm Hồn đã an trụ Chánh Định, thời coi như đã vào cảnh giới Cực Lạc.



Nói về tu thiền luyện khí, luyện Đạo, luyện Quyền, luyện pháp, không phải bây giờ mới có mà đã có từ khi con người ra đời, nếu nói con người ra đời đầu Tiên vũ trụ thời xa xưa lắm, không có số lượng nào ví dụ được, vô số vô biên. Còn nói gần thời con người ra đời trên quả Địa Cầu nầy, thời cách đây 75 triệu 600 nghìn năm, trải qua gần 5 tiểu kiếp. Còn nói gần hơn nữa, tức là đầu tiểu kiếp thứ 9 người Hồng Hoang nguyên thủy, những người sống sót cuối tiểu kiếp thứ 8. Sống qua tiểu kiếp thứ 9.



Cách đây năm nghìn năm, Quốc Tổ Hùng Vương ra đời. Ở vào thời kỳ nhân loại đã tiến hóa trên đà văn minh ý tưởng khắp đó đây, khắp vùng phương Đông đã có trên 60 giáo phái, mỗi giáo phái đều có sở trường khác nhau, nhưng nói chung mục đích là đưa con người đạt đến đỉnh cao, xưng hùng xưng bá thống trị Thiên Hạ.



Nói đến Thiền Định, thời mỗi giáo phái đều có cách tu thiền luyện Định, ở bước đầu khác nhau như phái Thần Lửa. Định sanh Thiền. Ngồi xếp bằng nhìn vào ngọn nến cách đó không xa, tập trung tinh thần, chăm chú nhìn ngọn nến không chớp mắt, sau đó nhắm mắt lại và hình dung ngọn nến ở ngay điểm chính giữa hai chân mày, với phương pháp này, phái Thần Lửa Định tâm nhờ an trụ vào ngọn nến, nhờ định Tâm mà sanh Thiền. Thiền đã sanh thời Định tâm càng thêm kiến cố, tiến sâu hơn các tu sĩ, Đạo sĩ phái Thần Lửa này vận hành ngọn lửa Tâm Linh chạy khắp Châu thân, gọi đó là luyện Đạo, rồi ứng dụng ra quyền pháp, quyền thuật và đỉnh cao của giáo phái này là ngũ thông, lẩn quẩn trong cảnh giới của Địa Tiên.



Ở vào thời kỳ này có tới hơn 60 giáo phái như phái Thần Quyền, phái Luyện Chú, phái Tuyệt Thực, phái Hít Thở, phái Luyện Đan v.v… Đỉnh cao của các giáo phái này cũng không hơn được giáo phái Thần Lửa, cũng chỉ ở cảnh giới ngũ thông cảnh giới của Địa Tiên mà thôi. Nói chung các giáo phái ở vào thời kỳ ấy hầu hết là theo phương pháp, chú tâm vào một điểm nào đó để sanh thiền. Các giáo phái này còn mãi dò dẩm trong đêm tối, lẩn quẩn trong sanh tử, khó mà thoát khỏi luân hồi lục Đạo. Bị cái thấy, nghe, hay, biết của chính mình xây chuyển, khởi tâm chấp trước phân biệt khởi nghiệp liên miên.



Còn tu thiền sanh Định là lối tu khó hơn, như phái Du già sau này thành phái Tăng già, là do quán tưởng sanh Định. Sơ căn của tu Thiền là thư giãn buôn thả từ từ, cho đến buôn thả hoàn toàn, không vướng bận chi cả, giãi tỏa cảm giác căng thẳng bận bịu vướng víu Tiến xa hơn nữa là dứt lần dục niệm, cội căn gốc rễ của mọi tội lỗi lầm cho tâm hồn trở nên trong sáng an lạc. Nhờ vào ý thức giác ngộ định tâm trở lại gọi đó là Thiền.



Nói tốm lại sơ căn của tu Thiền là thư giãn buôn thả từ từ, cho đến lúc buôn thả hoàn toàn giãi tỏa cảm giác căn thẳng yên tỉnh sâu lắng thanh thỏa tâm hồn. Đó là Thiền, nhờ công năng của Thiền. Định tâm trở lại, Thiền sanh Định. Tiến xa hơn nữa. Nhờ định tâm trở lại phát hiện những cái mà xưa nay mình không nghĩ tới. Có thể nói là lầm đường lạc lối sanh tâm nhàm chán, mãi chạy theo vô thường biển khổ lúc nào cũng căn thẳng mệt mõi và kết quả cũng chỉ là con số không. Tâm hồn sa đọa, tương lai mờ mịt. Nhìn cảnh xô bồ vật lộn với đời. Đấu đá nhau dẫn đến lưỡng bại câu thương. Chạy theo dục vọng thấp hèn xa rời Đạo Đức, làm suy thoái truyền thống Đạo Đức Cha ông đúng là khổ, càng nghĩ càng sanh nhàm chán, sự nhàm chán ấy gọi là Thiền. Nhàm chán càng mãnh liệt, thời Định Tâm càng kiên cố bấy nhiêu. Và cứ thế Định Tâm càng lớn thời trí huệ càng tăng. Trí Huệ càng tăng, thời giác ngộ càng cao. Giác ngộ càng cao, thời Thiền trở nên kiên cố. Thiền trở nên kiên cố, thời Định Tâm vững như núi như non. Trí huệ trở nên Thánh Thiện. Tối cao của trường phái này là đạt đến cảnh giới Thiên Tiên chứng lục thông đang đà đi trên con đường giải thoát. Nhưng đối với Văn Hóa Cội Nguồn thời còn xa lắm đối với các trường phái này, huống chi các trường phái Thần giáo. Bà La Môn giáo thời còn xa vời vợi Văn Hóa Cội Nguồn hơn nữa.



Còn tu Thiền của Thái Tử là sự tu Thiền của Đấng Đại giác ngộ, không có một phái nào sánh kịp. Tu Thiền luyện khí của phương pháp tối thượng Thừa, của bật Chánh Đẳng Chánh Giác Đấng cứu thế. Theo nguyên lý sự sống con người vật chất nuôi thể xác. Đạo lý nuôi Linh Hồn. Theo quan niệm cuộc sống những lý luận xa vời thực tế thiếu khoa học, sẽ làm cho Linh Hồn lụn bại ngu xuẩn làm hại mình hại người. Ở đời ai cũng biết vật chất nuôi thế xác, nhưng vật chất đó tạp nhiểm chất độc hoặc ít hàm lượng chất bổ, thời kết quả sẽ ra sao khi ta ăn hoặc uống những vật chất tạp nhiểm chất Độc đó. Có phải những vật chất độc hại ấy làm cho cơ thể ta nhiểm Độc theo phát sinh bịnh tật gầy yếu mất sức. Còn ngược lại vật chất trong sạch, không nhiểm Độc, lại dồi dào chất bổ. Sẽ làm cho cơ thể ta khỏe mạnh lạc quan yêu đời.



Như ta đã biết vật chất dưỡng nuôi thể xác Đạo lý dưỡng nuôi Linh Hồn. Chúng ta tiếp thu Đạo lý trong sáng, sẽ làm cho Tâm Hồn trong sáng Thánh Thiện. Vì Đạo là món ăn tinh Thần của Linh Hồn. Đạo Lý nói ra thì nhiều nhưng tốm lại thì có hai mà thôi. Ác và Thiện, Phi Nghĩa và Chính Nghĩa. Người tu thiền luyện khí càng lên cao thời Tâm Hồn càng hướng về Chính Nghĩa, xa cuồng loạn, thời hợp lẽ trời thuận Thiên mệnh. Nhờ thuận Thiên mệnh, muôn phước vạn lành theo cuộc sống hiện ra và tiến tới tu Thiền luyện khí của bậc đại giác ngộ.



Bằng ngược lại tu Thiền luyện khí lên cao tham cầu dục vọng xa rời Chính Nghĩa. Cuồng loạn tà Tâm, thời hậu họa không biết đâu mà lường. Theo lẽ người tu Thiền luyện khí kéo dài tuổi thọ nhưng vì Tâm Hồn hướng về nẻo ác phi Nghĩa. Cơ thể không dung hòa được Thủy, Hỏa, Phong, trong nội thể. Nặng thời tẩu hỏa nhập Ma, Tâm Hồn trở nên điên loạn ác độc tàn bạo vô cùng, đi lần đến sự hủy diệt. Nhẹ thời suy tim, suy gan, suy thận, giảm đi tuổi thọ.



Thường tu Thiền luyện khí, thời phải nương theo cảnh quang trong lành, thanh vắng yên tỉnh, sẽ làm cho tâm hồn dễ định tỉnh hơn, chỉ trường hợp những bật Đại giác ngộ đã chứng quả Ba La Mật. Hội ngộ Chân Tánh, Thật Tánh, Thật Tướng, Thật Pháp, Thiên Tạng, Luật Tạng, Pháp Tạng vũ trụ như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Thời dù ở chỗ nào Thân Tâm vẩn thường thanh tịnh không tu không chứng không đắc gì cả, tùy nhân duyên sanh ra đời cứu thế mà thôi. Như Quốc Tổ Vua Hùng chẳng hạn, và còn không biết bao nhiêu vị đã xuống thế, hộ trì giữ gìn Văn Hóa Thiên Ấn, Thiên Bút Cội Nguồn.



Tu Thiền luyện khí là mật Tạng vũ trụ, đưa Hành giã trở lại Cội Nguồn. Quả của tu Thiền là an lạc tâm hồn trí huệ sáng soi. Quả của luyện khí là sức khỏe dồi dào tăng thêm tuổi thọ. Tu Thiền luyện khí là Mật Tạng linh hồn, làm cho các giác quan khai mở linh hoạt nhậy bén, thông minh kỳ lạ, Thấu suốt quá khứ vị lai, khám phá ra nhiều điều kỳ thú, tiến tới cảnh làm chủ bản thân, làm chủ Tâm Linh, làm chủ vũ trụ.



Đỉnh cao của tu Thiền là nhận ra bộ mặt thật của Linh Hồn. Minh Tâm Kiến tánh làm chủ Chân Tánh, làm chủ giác Tánh, tiến tới ngôi vị Chánh Đẳng Chánh Giác, vào cảnh giới vi Diệu thậm thâm, không thể suy nghĩ hay luận bàn được nữa.



Sự tu Thiền luyện khí của Thái Tử, không giống các Đạo sĩ, Tu sĩ của các giáo phái thời đó. Dò dẫm từng bước và mỗi bước tu Thiền luyện khí, xuất hiện nhiều sự lạ cho rằng chứng Đạo hay đắc Đạo.



Thái Tử vượt qua những chứng đắc chấp trước này của các Đạo sĩ, Tu sĩ của các giáo phái, tiểu thừa, trung thừa. Thái Tử nói. Mỗi tâm Linh từ bản thể Linh giác vũ trụ đi ra, khi trở về bản thể mỗi đoạn đường là mỗi mùa xuân. Do mật Tạng tâm Linh hiện ra mà thôi, không có gì mới mẻ cả.



Các giáo sĩ, Đạo sĩ, Tu sĩ của các giáo phái, vì không hiểu Mật Tạng Tâm Linh, Thức tánh, Chân tánh của mình, có những công năng diệu dụng như vậy, chẳng khác nào kính được lau chùi sáng ra mà thôi. Cũng giống như người lực sĩ bị trói, làm giảm đi sức mạnh cũng như tài năng của mình. Tu Thiền luyện khí chính là phương pháp mở trói, khi trói đã được mở thời người lực sĩ tung bay thể hiện tài năng thấy, nghe, hay, biết của mình. Mỗi nất thiền là mỗi lớp mở trói, mở trói cho đến khi không còn trói buộc bất cứ điều gì, thật sự tự do, thật sự giải thoát, thời liền nhận ra chân Tánh bộ mặt thật bí mật của Tâm Linh. Ông Tổ của muôn loại Thần Thông. Quyền năng vô hạn, ra khỏi sanh tử ở mãi ngôi Chánh Đẳng, Chánh Giác, tùy nhân duyên trở lại phàm trần cứu đời độ thế mà thôi.



Các Đấng Đại Giác này từ Cội Nguồn đi ra rồi trở về Cội Nguồn một cách an toàn. Nói chung tất cả Tâm Linh cũng từ Cội Nguồn đi ra nhưng vì bị trói trong nghiệp lực. Lại quên mất đường về, bị vô minh che lấp Chân Tánh của họ. Nhìn thấy cảnh bị trói trong nghiệp lực, lại quên mất đường về Cội Nguồn, thọ lảnh đủ quả khổ, vì thương nhân loại Đức Chí Tôn mới xuống trần, mở đường chỉ đường cho nhân loại, trở về Cội Nguồn vào ngôi Chánh Đẳng Chánh giác ngôi nhà chung vũ trụ. Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần sanh ra từ bụng mẹ như bao nhiêu người khác. Nhưng ý chí, trí huệ, lòng từ bi thời khác hẳn người phàm, rồi trở thành Đấng Cứu Thế.



Trên bước đường trở về vũ trụ. Thái Tử không đi trên con đường tiểu thừa mà đi trên con đường Đại Thừa, Thượng Thừa, tối Thượng thừa. Không đi trên con đường Tiểu Đạo mà đi trên con đường Đại Đạo. Con đường Tự Do Đại Đồng Bình Đẳng. Chủ Nghĩa Đại Đồng chính là Văn Hóa Cội Nguồn. Không phân biệt Tôn giáo, Đảng phái, Chủng tộc, màu da, sang hèn, thiện ác. Ai đi trên con đường Đại Đạo Đại Đồng thượng thừa này, cứ mỗi bước chân là mỗi bông Hoa hạnh phúc, mỗi nấc thang là mỗi tầng mùa xuân.



Sự tu Thiền luyện khí của Thái Tử là phương pháp tối thượng thừa, phá vở nhân duyên nghiệp lực, cỡi bỏ phiền não nhanh chóng. Làm chủ ý thức, làm chủ Chân Tánh, tiến tới làm chủ vũ trụ, để rồi trở thành Đấng Cứu Thế, đưa nhân loại tới bến bờ giải thoát. Phát huy Chân Tánh an trụ vào cảnh giới Đại Đồng, muôn ý thành một ý, muôn Tánh thành một Tánh, sức mạnh Tâm Linh, ý chí Tâm Linh, ánh sáng Tâm Linh bộc phát dữ dội, phá vỡ vô minh nhanh chóng. Chúng ta nên lưu ý, mỗi tâm Linh con người là cả một thế giới Tánh Linh trong đó, có thể nói có tới 8 muôn 4 nghìn Tánh Linh, mỗi Tánh Linh có vô lượng Tánh Linh đồng chủng của nó. Ví dụ Tánh Tham, không phải chỉ có một tánh tham mà có vô lượng vô biên tánh tham đồng chủng tánh của nó. Tánh sân hận, Tánh ngu si, Tánh ngạo mạn, Tánh Đa nghi, Tánh bảo thủ, Tánh ganh ghét, mỗi Tánh đều có vô lượng vô biên tánh đồng chủng tánh với nó. Mỗi tâm Linh con người là cả một Vương Quốc Tánh Linh và chỉ có Chân Tánh mới có đủ khả năng làm chủ Vương Quốc Tâm Linh đó mà thôi. Còn 8 muôn 4 nghìn tánh do ý thức phân biệt khởi tạo ra đều là giã tánh, nên mỗi sở tánh trong tâm, không đủ quyền lực thống nhất Vương Quốc Tâm Linh mà chỉ có Chân Tánh mới đủ khả năng đó.



Mỗi Vương Quốc Tâm Linh của mỗi con người khi Chân Tánh chưa xuất hiện, thời Vương Quốc Tâm Linh đó thường hay đảo lộn, lúc thế này, lúc thế kia vì không có Tánh chủ Tánh. Cũng như một đất nước không Vua, thế lực nào mạnh tạm thời thế lực đó làm Vua mà thôi, hết phước hết lực, thời thế mạnh hơn, khác tánh lên thay vậy, cứ thế lặp đi lặp lại mãi điên đảo. đảo điên luân hồi vạn nẽo.



Kết luận Vương Tánh chính là Chân Tánh mà Chân Tánh là chủ của 8 muôn 4 nghìn chủng Tánh, chủng Tánh chính là sở Tánh, sở Tánh sanh ra do Chân Tánh, lúc còn mê gọi là vô minh, Chân Tánh vọng chấp phân biệt tạo khởi ra vô lượng thức tánh vô minh, ví như nước khởi tạo ra bọt nước, nước thời chỉ có một nhưng bọt nước thời nhiều. Dứt mê chấp gọi đó là Ngộ. Chủng tánh, sở tánh biến mất, trở về Chân Tánh, bọt nước tan biến trở về là nước. Vương Tánh, Chân Tánh xuất hiện liền làm chủ Vương Quốc Tánh Linh của mình. Mỗi Niệm của Vương Tánh, Chân Tánh là mỗi Niệm giác tha, giác hạnh làm cho Vương Quốc Tánh Linh Chủng Tánh. Hội Ngộ hội nhập thống nhất thành một khối tự do, Độc Lập, Bình Đẳng. Đại Đồng.



Nhờ sự thống nhất muôn vạn thức tánh trở về một tánh chính là Chân Tánh, muôn ý trở về một ý. Nhờ thống nhất vương quốc Tâm Linh, nên Tâm Linh của Thái Tử trở nên mạnh mẽ phi thường dồn hết sức lực vào cảnh giới tu Thiền luyện khí nên tốc độ thành tựu nhị xác thân mau chóng không có mấy người tu hành theo kịp.
 
Hỏi: Niệm Chân Tánh có quyền lực đến thế sao?



Đáp: Đó là niệm của Chánh Đẳng Chánh giác do Chân Tánh phát ra, không những mỗi niệm có hiệu lực diệt vô lượng phiền não tội ác, còn có sức mạnh phá vỡ Địa Ngục sanh tử, hàng chục vô lượng vô biên chủng tánh sở tánh trong tâm. Chân Tánh là tánh tự nhiên. Tánh không Tánh, cũng là một thứ Tánh trong sạch vô vi mỗi niệm tánh này. Là mỗi niệm Chánh giác, diệt vô lượng vô biên phiền não, vô lượng vô biên tội ác, làm cho thế giới tâm Linh trong tâm trở nên trong sáng, phát sanh Công Đức không thể nghỉ bàn. Tánh thanh tịnh, ý thanh tịnh, trí thanh tịnh, cảnh giới tu Thiền trong tâm thức đã bước sang giai đoạn Đại Đồng, giai đoạn Tâm Tánh, ý thức, trí thức hợp nhất, liền hiển lộ Thần Thông. Giống như người lực sĩ tự mở sạch trói liền phát huy tác dụng sẵn có của mình. Như kính lau sạch bụi thời tất cả điều hiện rõ trong đó. (Minh Tâm Kiến Tánh).



Linh Hồn con người đã trải qua vô lượng ức kiếp, mỗi kiếp ví như mỗi gon tàu nối dài vô tận, thành một chuỗi nhân duyên, từ quá khứ đến hiện tại, kiếp hiện tại là Đầu Tàu. Một phần tác động bởi nghiệp lực quá khứ, một phần do dục vọng ý thức trì níu cảnh giới hiện tại lao thẳng về trước, gieo mầm Thiện, ác kết quả nhân duyên nghiệp lực, luân chuyển trong ba đường sáu nẽo. Lên thiên Đàng hay xuống Địa ngục đều kết tập nhân duyên ở kiếp hiện tại này.



Thái Tử vì quá hiểu rõ như vậy, nên mở đường cho nhân loại trở về Cội Nguồn, sống trên Thiên Đàng Cực Lạc. Nhờ hội Ngộ Chân Tánh sớm. Mặt Trời trí huệ của Thái Tử sáng soi, nên tu Thiền luyện khí thành tựu nhanh chóng. Các giác quan phát huy tác dụng hiển lộ Thần Thông. Tai, mắt, nghe, thấy khắp Địa Cầu, lần lần đến các Cung Trời.



Theo như các Đạo sĩ, Tu sĩ, giáo sĩ cho đây là chứng Đạo, thành Đạo, Đắc Đạo. Thái Tử thời lại khác, đây là chuyện bình thường không có gì lạ cả. Nên Thái Tử thấy cũng như không thấy, nghe cũng như không nghe, không khỡi ý tưởng phân biệt Thân tâm luôn luôn thanh tịnh. Vì Thái Tử hiểu rõ thật Tướng vũ trụ là không tướng, thật Tánh vũ trụ là không Tánh, thật sắc vũ trụ là không sắc. Những cảnh giới Thiên Đàng. Trần gian, Địa Ngục là do Âm Dương phân định, nhân duyên kết tập, Thiện, Ác, Mê, Ngộ phân ngôi phước họa luân phiên quả, không có chi là lạ cả, còn duyên thì nhóm hết duyên thì tan. Còn phước thì giàu sang, Quyền thế, hết phước thời nghèo khó, nói chẳng ai nghe, vô thường chuyển đổi có gì mới mẻ đâu, làm chủ ý thức, làm chủ Chân Tánh, làm chủ vũ trụ đó là việc nên làm.



Tìm ra con đường cứu thế đáng quan tâm. Thái Tử hiểu rõ, con đường cứu thế không ở cõi trời, không ở nhân gian, không ở Địa Ngục mà ở ngay tâm Hồn của chính mình, Chân Tánh của mình tiến tới làm chủ vũ trụ, sống tự do Bình Đẳng, trong cảnh giới Đại Đồng an lạc hạnh phúc không còn sanh tử nữa. Cảnh quan vũ trụ đã hiện ra trước mắt nhưng Thái Tử không chú ý mà chỉ chú tâm tu Thiền luyện khí mà thôi. Càng tu Thiền luyện khí càng thấy cơ thể nhẹ nhàng như muốn bay bổng lên không, điều này cũng không có gì là khó hiểu. Theo Nguyên lý vũ trụ. Lực ép Khí, Khí ép Nước, Nước ép đất. Hay nói một cách khác. Thể Lực ép Thể Hơi, Thể Hơi ép Thể Lỏng, Thể Lỏng ép Thể Đặc, cũng vì theo nguyên lý tự nhiên trên, Trái Đất không dễ gì nổ tung được. Khi nào lực vũ trụ yếu đi, thời Trái Đất sẽ nổ.



th.ân thể con người là Tứ Đại giả hợp Đất, nước, gió, lửa mà phần hơi ấm của con người, Thể Đặc là chính nên con người dù đang sống trên mặt Địa Cầu, không bị tung bay ra không gian với tốc độ quay của nó. Biết rằng với tốc độ quay của nó đã tạo ra lực hút nhưng không đáng kể so với lực ép vũ trụ. Thể Đặc bị Thể Lỏng ép, Thể Lỏng bị Thể Hơi ép, Thể Hơi bị Thể Lực ép. Mà con người là một khối Thể Đặc, thời không cách gì bay ra khỏi mặt Địa Cầu, muốn bay ra khỏi địa cầu phải hiểu bộ máy huyền vi của vũ trụ, điều khiển chúng và làm chủ chúng.



Hay nói ngược lại, Thể Lực hút Thể Hơi, Thể Hơi hút Thể Lỏng, Thể Lỏng hút Thể Đặc, sự hút, ép đó không phải do Thể Lực tự chủ mà do Thể Chủ của Thể Lực. Nói về Thể Chủ của Thể Lực vũ trụ chính là bản thể Linh giác của Tổ Tiên. Bản thể rộng lớn khắp hư không tác Động thành lập vũ trụ. Duy trì sự sống vũ trụ.



Nói về sự sống con người là do sự phản tỉnh máy động Căn Thân Huệ Mạng Linh Hồn, Linh Hồn con người, duy trì sự sống con người qua trung gian thể lực và chân khí. Căn Thân Linh Hồn theo sự nhận biết thu hút vật chất tác động qua Thần Lực. Như Thái Tử tu Thiền luyện khí là do Linh giác Thái Tử chủ trì. Tốm thâu vô cực. Thái Cực Chân nguyên vũ trụ. Chân Khí - Tinh Khí Thể Hơi - Thể Lỏng vũ trụ tích tụ vào cơ thể. Sức mạnh Thần Thông cứ thế tăng lần lên. Đạt đến cảnh giới, Di sơn Đão Hải. Từ sức mạnh con người trở thành sức mạnh vũ trụ. Không những Thái Tử hiểu rõ sự hình thành của Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc mà còn hiểu rõ sự tiến hóa, cũng như móc xích liên hoàn ép, hút của nó. Mà các thể trung gian luôn luôn đóng vai trò quan trọng. Chẳng hạn như Thể Hơi Chân Khí vũ trụ không những là trung gian của Thể Lực và Thể Lỏng bao bọc xung quanh Trái Đất, bảo tồn sự sống cho quả Địa Cầu. Mà còn rất quan trọng trong thể xác con người, luyện khí càng nhiều sức lực càng mạnh, luyện khí càng cao thi thể càng nhẹ nhàng, làm giảm đi sức ép vũ trụ, tự nổi lần lần giống như bong bóng sắt chìm mãi ở đáy nước, bổng được bơm hơi vào tự nổi lần lên. Bong bóng tự thấy mình càng lúc càng nhẹ nhàng vì không khí bơm càng lúc càng nhiều vào cơ thể bong bóng.



Nói tốm lại. Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc đều có sự co giãn của nóng lạnh, ép, hút, lực vũ trụ, nhất là Thể Lỏng Thể Hơi có Lực đẩy phản hồi rất mạnh, chống lại Lực ép vũ trụ, không những thế, Thể Hơi Thể Lỏng tự phân định nổi chìm, nặng nhẹ khác nhau.



Giữa các tiểu kiếp, lớp Chân Khí bao bọc trái Đất dâng cao 8 muôn 4 nghìn lớp chia làm 3 phần, Thượng, Trung, Hạ. Thượng có 3 phần, Thượng Thượng - Thượng Trung - Thượng Hạ, Trung Thượng - Trung Trung - Trung Hạ, Hạ Thượng - Hạ Trung - Hạ Hạ.



Nói chung Thể Hơi gồm 3 phần, chín Địa Khí như thế, tự do phân định thứ lớp, non nhẹ thời nổi lên trên tiếp giáp với chân không vũ trụ, còn khí già thì bị ép chìm xuống tiếp giáp mặt đất. Lớp khí già là lớp khí chuyển sang Thể Lỏng Hơi Nước rồi từ hơi nước chuyển thành nước. Ba muôn lớp khí già tiếp giáp với mặt Địa Cầu, khí nóng là hơi, khí lạnh là nước. Nhất là mười nghìn lớp khí già, bị lực vũ trụ ép chìm xuống mặt Địa Cầu, khi nóng bốc hơi tạo thành cả nghìn lớp mây, khi lạnh liền chuyển thành nước rơi xuống mặt Đất gây ra lụt lội. Nhất là gần cuối tiểu kiếp gây ra các trận Đại Hồng Thủy, gây kiếp nạn cho nhân loại con người.



Thái Tử khi thành Chánh quả thuyết giáo nói rằng. Nhân Loại hiện nay ở vào giai đoạn gần cuối tiểu kiếp, chỉ còn 10 nghìn năm nữa là hết tiểu kiếp thứ 9, chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, ba tần chín địa lớp khí già này càng về sau càng thái chuyển thành nước, làm cho nước biển càng về sau càng dâng cao, gây ra những trận Đại Hồng Thủy diệt vong sự sống con người, nhất là những thế kỷ gần cuối tiểu kiếp, không chỉ là nước biển dâng cao và các trận Đại Hồng Thủy không đâu. Mà còn có cả Hỏa, phong, nhiệt độ nóng lạnh tăng cao bão lớn mà còn có cả Động Đất liên miên, hủy diệt nhân loại con người. Những ai còn sống sót chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, trở thành người Hồng Hoang Bàng Cổ sơ khai.



Ở vào thời kỳ Thái Tử ra đời, ba muôn lớp khí non, hầu như cạn kiệt biến mất, chỉ còn lại mờ nhạc rất hiếm. Ở vào thời kỳ con người dần dần nặng nề, con người tu thiền luyện khí, kết tụ nhị xác thân tinh khí thần, hầu như không đạt được đỉnh cao thường thường là chỉ ở vào cảnh giới của Địa Tiên ít ai đạt đến cảnh giới của Thiên Tiên. Lớp khí non là Thái Lực Chân Nguyên, Tiên Thiên Chân Khí, lớp khí này hầu như biến đi cạn kiệt gần hết, chỉ còn lớp khí già dày đặc Hậu Thiên Chân Khí.



Hậu Thiên Chân Khí hay còn gọi là Địa Thiên Chân Khí. Ở vào thời kỳ này người tu thiền luyện khí khó có người tu luyện thành nhị xác thân Tiên Thiên mà chỉ tu luyện thành nhị xác thân Hậu Thiên, Địa Thiên mà thôi. Nên khó đạt đến cảnh giới thượng thừa, ngang tầm với Thiên Tiên được. Nhưng Thái Tử thời lại khác, vì Thái Tử chính là Đức Chí Tôn đầu thai, đã trải qua vô lượng kiếp tu hành thanh tịnh, khí Tiên Thiên lúc nào cũng tích tụ nơi tâm Hồn Thái Tử.



Căn Thân Huệ Linh Hồn Thái Tử là Căn Thân Huệ Mạng Chánh Đẳng Chánh Giác Nên hào quang nơi Tâm Thái Tử lúc nào cũng sáng soi khắp cùng Trái Đất. Hay nói một cách dễ hiểu, Tâm Hồn Thái Tử lúc nào cũng tràng đầy tìm lực, ẩn tàng khí Tiên Thiên mà không phải người nào cũng có.



Thái Tử thu nạp Chân Khí vũ trụ, hội tụ ở Đan Điền, để cho Âm khí Dương khí giao hòa với nhau kết sanh nhị xác thân. Nhị xác thân hình thành tới đâu, thời ngũ thông hiển lộ tới đó, Thái Tử càng lúc càng thấy những thứ, người thường không thể nào thấy được, tai Thái Tử nghe những tiếng mà người thường không thể nào nghe được, Thái Tử cảm nhận sự biến đổi trong đời sống xã hội mà người thường không thể nào cảm nhận được.



Thái Tử giờ đây đã thấy rõ nhân loại, nhân gian phàm trần, đang sống trên biển nước loãng, tức là phần khí già bao bọc xung quanh quả đất. Còn nước biển Đại Dương hay ở sông hồ, đó chẳng qua là do biến động của Âm Dương, nóng, lạnh, làm cho Thể Lỏng ở dạng lúc là nước, lúc là khí. Không những thế Thái Tử còn thấy rõ, ngoài quả Địa Cầu này ra còn 4 quả Địa Cầu khác, có nhân loại phàm trần đang sanh sống đông đúc, nhưng sự thấy này không phải là mục đích, mục tiêu mà Thái Tử đang tìm.



Thái Tử đang tìm là tìm Văn Hóa Cội Nguồn, Thiên Đạo vũ trụ Chủ Nghĩa Đại Đồng, mở đường cứu thoát nhân loại. Đây mới chính là mục tiêu, mục đích của Thái Tử, vì vậy Thái Tử cần phải nổ lực nhiều hơn nữa đạt đến đỉnh Quả trí huệ cao nhất, mới đủ khả năng mở ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo Thiên Ấn vũ trụ. Vì thế Thái Tử vẩn tiếp tục tu thiền luyện khí, kết hợp với ăn Chay, hầu mau đạt đến kết quả, nhìn Thái Tử hiện giờ d.a thịt mịn màng hồng hào phát sáng làm tăng thêm vẻ uy nghi tuấn tú. Đạt đến cảnh giới này, Thái Tử như hiểu ra một điều, không có sự nổ lực nào mà vô ích, nhất là sự nổ lực vì Nhân Loại lại càng cao quí hơn nữa, làm cho sức mạnh tinh thần trở nên Đại Hùng Đại Lực, Đại Từ Bi, Đại ý chí đạt đến cảnh giới phi thường. Mỗi niệm của Thái Tử là mỗi niệm chuyển Thiên Hạ về Trời.



Mọi vạn vật sanh tạo ra đều có nguồn gốc nhân duyên nghịch, thuận của nó, cũng như đất - nước - gió - lửa, Thể Lực - Thể Hơi - Thể Lỏng - Thể Đặc, nguồn gốc nhân duyên sanh ra nó. Theo nguyên lý vũ trụ hể cái gì có sanh, thời phải chuyển hóa, từ dạng này sang dạng khác và cuối cùng bị hủy diệt trở về chân không.



Nơi vũ trụ có một bản thể không sanh diệt đó là bản thể Linh giác vũ trụ hay còn gọi là bản thể Linh giác tối thượng Tổ Tiên, bất tăng, bất giảm. Không cấu nhiễm, trong sạch vô vi, thường còn mãi mãi, không sanh ra cũng không diệt đi, trước sau như một, như như thường còn, không có sự khởi đầu nên không có sự chấm dứt. Vô lượng thọ.



Chính bản thể Linh giác vũ trụ vô lượng thọ này, Tịnh thời sanh Lực, Động niệm thời sanh thức, đây là một quy luật không thay đổi, Linh giác vũ trụ an trụ Đại Định, thời sanh ra Thần Lực vũ trụ. Thần Lực sanh ra một thời gian liền chuyển đổi, trẻ, trung, già, tử. Tử là chuyển đổi qua dạng khác. Chẳng hạn, lực già chuyển ra khí, khí già chuyển ra nước, nước già chuyển ra lớp bụi phù sa vũ trụ rồi trở thành Đất, làm tăng thêm sự sống cho thế giới Thực Vật cũng như thế giới Động Vật.



Người tu Thiền luyện khí, thời phải hiểu rõ chu kỳ kết tinh, chu kỳ giao hợp chuyển hóa của Trời, Đất. Nói về ngày, đêm. Ngày là Dương, Đêm là Âm, theo quy luật của Tạo Hóa. Dương non, dương già không kết tinh mà chỉ kết tinh ở giai đoạn trung Dương mà thôi. Thời điểm kết t.inh hoàn hảo nhất trong ngày là giờ Ngọ. Âm cũng thế, âm non, âm già không kết Dịch mà Kết Dịch vào giai đoạn trung âm, đỉnh cao của sự kết Dịch đó là vào giờ Tý. Còn Mẹo - Dậu là giờ chuyển giao âm Dương, vạn vật sanh sôi nẩy nở tiến hóa từ đây. ÂM - DƯƠNG kết tụ Tinh - Dịch rồi giao nhau tiến hóa, bồi đắp sự sống sinh sôi sự sống, cả nghịch lẫn thuận, cả sinh lẫn tử. Tinh, Dịch vũ trụ của thể hơi, khí, thể lỏng, nước, thể đặc, đất. Phần lớn là do hơi ấm vũ trụ tác động mà thành.



Sự kết Tinh - Kết Dịch ba thể như sau.

1: Thể Đặc: kết tụ Tinh - Dịch ở Tý - Ngọ, giao hóa chuyển hóa ở Mẹo - Dậu giao thời giữa ngày đêm.

2: Thể Lỏng: kết tụ Tinh - Dịch ở Tý - Ngọ, giao hóa chuyển hóa ở Mẹo - Dậu ở tháng.

3: Thể Hơi, khí già: kết tụ Tinh - Dịch ở Tý - Ngọ, giao hóa chuyển hóa ở Mẹo - Dậu ở năm.



Cứ 3 năm tu thiền luyện khí là một nất thang tiến hóa lên. Tu thiền luyện khí đến 9 năm thời nhị xác thân bắt đầu hình thành, luyện tới 12 năm 1 giáp thì thành nhị xác thân. Nếu tu thiền luyện khí nửa Hoa giáp 30 năm, thời sẽ đạt đến Ngũ Khí Triều Nguyên, thêm 30 năm nữa đúng một Hoa giáp 60 năm, thời sẽ đạt đến Tam Hoa Tụ Đỉnh, nhị xác thân theo ý tưởng biến hóa vô cùng. Nói thời nói thế, như Kinh Dương Vương tu thiền luyện khí hơn 70 năm vẫn chưa thành còn ở giới pháp thuật thần thông hạn hẹp, đi trên mặt nước như đi trên đất liền, phi thân như tên bắn, Thần Lực theo ý tuôn ra thành chưởng lực. Nhưng Thái Tử thì lại khác, vì Thái Tử hiểu rõ quy luật tu Thiền luyện khí, cũng giống như người bơi rành, người mới tập bơi sự tu Thiền luyện khí ở cấp thượng thừa. Thái Tử là Ông Tổ của tu Thiền, chỉ trong vòng hơn 3 năm đã đạt đến cảnh giới Tam Hoa Tụ Đỉnh, Ngũ Khí Triều Nguyên, tiến lần đến cảnh giới Thần Thông Quảng Đại.

*********



Hết Phần 2 chương 9 mời xem tiếp phần 3 chương 9 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng Kinh là bộ kinh tối mật hàng triệu triệu năm mới xuất hiện, nếu không phải đã tu vô lượng kiếp thờ Trời thời không dễ gì gặp được bộ kinh nầy. Bộ Kinh tối cao của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Là báu vật Vũ Trụ quý hiếm đến nỗi luận bàn trăm nghìn kiếp cũng không thể nào hết được.

Ngâm nga vài chữ kệ kinh

Siêu sanh thượng giới đăng trình cung mây

Kinh nào hơn được kinh đây

Mật Kinh vũ trụ tối cao đất trời

Chỉ cần ca ngợi một lời

Giàu sang phú quí, cõi Trời khó chi.​
 
CHƯƠNG 9



PHẦN 3



GIẢI TỎA CHƯỚNG NGẠI



Đạt đến cảnh giới này, Thái Tử mới hiểu rõ thêm, sự tồn tại vũ trụ có động có tịnh tuần hoàn tiến hóa, để hòa hợp nhị xác thân cùng xác thân là một, thời phải luyện tập thể chất. Quyền pháp, thể dục, thể thao, thời kinh mạch huyệt Đạo lưu thông, th.ân thể cường tráng, cơ bắp rén cứng, sức lực bền bỉ, đẩy lùi tất cả bệnh tật dù cho đó là những bệnh nan y khó chữa trị.



Thái tử nhớ lại 108 động tác với những tư thế rất khó tập, dùng để rèn luyện thể lực cơ bắp, khai thông huyệt Đạo, lưu thông khí huyết, tôi luyện ý chí, đối diện quân thù.



Kinh Dương Vương thường dạy Thái Tử, con muốn đạt đến đỉnh cao của bật Tôn sư thời con phải tu luyện Quyền pháp, thập bát môn võ nghệ, còn phải siêng năng luyện tập 108 thế thức thần công, nhờ vào những thể thức khó tập này sẽ làm cho con cơ thể rén chắc dẽo dai và sức chịu đựng cao, nhanh nhẹn, Động - Tịnh vững vàng. Muốn đạt đến đỉnh cao của Thần Quyền, thời con phải tu tập đến đỉnh cao của 108 thế thức Thần Công. Muốn tu tập đỉnh cao 108 thế thức Thần Thông, thời con phải biết tu Thiền luyện khí, có tu Thiền luyện khí, thời khi luyện Thần Quyền, Đạo thuật, Kiếm thuật, Quyền thuật, chưởng pháp, kinh công, mới đạt đến cảnh giới Thân - Pháp - Ý hợp nhất, xuất thần nhập hóa, thời con đối mặt với kẻ thù, không còn lo sợ gì nữa, con như những đỉnh núi cao mà kẻ thù nhìn thấy phải khiếp sợ. Ngay như cha đây hơn 70 năm tu luyện cũng không đạt đến cảnh giới ấy.



Nhưng Kinh Dương Vương nào có hiểu, nếu tâm ý chưa rốt ráo thanh tịnh, thời dù có tu luyện đến trăm năm, nghìn năm cũng ở mức hạn nào đó mà thôi, khó mà tiến xa hơn được nữa, cũng như con người thường tục sanh ra biết ngồi, rồi đến biết đi, biết chạy. Nhưng biết bay phải mọc ra đôi cánh, tu Thiền luyện khí cũng vậy, muốn đạt đến đỉnh cao phải hội ngộ Chân Tâm Chân Tánh.



Thái Tử nghĩ, muốn đưa xã hội đến đỉnh cao Dân Giàu Nước Mạnh, Thời phải thấu hiểu căn cội vật chất (văn minh vật chất) làm chủ tinh thần đi vào tinh hoa Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng văn minh. Và cũng không còn con đường nào khác hơn là toàn dân biết tu dưỡng Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Đức (văn minh tinh thần).



Muốn cho cơ thể ít bệnh tật khỏe mạnh, không còn con đường nào khác hơn là cần phải lựa chọn chế độ ăn uống, siêng năng lao động, siêng năng luyện tập thể chất, thể lực, Quyền pháp, thể dục, thể thao, tu Thiền luyện khí. Muốn cho Đất Nước Tổ Quốc mãi mãi Thái Bình thịnh vượng không còn con đường nào khác hơn là phải xem Quyền con người làm trọng Nhân Quyền. Phải lấy dân làm gốc Dân Chủ và phát huy cái gốc của dân làm phát sanh Nội Lực, sức mạnh của toàn dân tộc Tinh Thần Lẫn Vật Chất. Và nòng cốt phát huy sức mạnh toàn dân tộc chính là phát huy truyền thống dân tộc, Văn Hóa Tối Cao Cội Nguồn. Văn Hóa Tối Cao Cội Nguồn chính là Hiến pháp, Luật pháp, Đạo pháp. Hiến Pháp,Luật Pháp. Đạo Pháp Chính Nghĩa là Hiến Pháp dựng nước, giữ nước, mở màn nhà nước Văn Lang, đi vào truyền thống anh linh dân tộc năm nghìn năm chủ quyền Độc Lập.



Lại thêm một năm nữa trôi qua, trừ các giờ luyện tập. Quyền pháp. Thân pháp cho máu huyết lưu thông, nội lực hùng hậu, còn các giờ khác, Thái Tử luôn luôn làm chủ phong bế giác quan, tu Thiền luyện khí. Thái Tử chuyên tâm thu nạp Chân Khí, những gì xung quanh, cũng không cần để ý đến, dù tai có nghe lên tận các tần trời, có nghe tận các tần Địa Ngục. Mắt có thể nhìn thấy những vật nhỏ nhất như vi khuẩn như thể không màu sắc như gió Điện lực vũ trụ, nhìn thấy Linh Hồn nhân loại chuyển kiếp đầu thai.



Sự thấy nghe hay biết ấy đã không giải quyết được gì tương lai cho đất nước hoặc giải thoát sự khốn khổ cho nhân loại con người. Nếu chìm đắm trong cảnh ngũ thông sanh tâm chấp trước phân biệt, vui buồn theo phân biệt, Thiên Đàng, Trần Gian, Địa Ngục, thời rơi vào Ma chướng ngay. Không thể nào đạt đến cảnh giới tối cao Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì chính mình bị cái Thấy, Nghe, Hay, Biết, Phân Biệt của chính mình xây chuyển, mất phương hướng làm chủ Chân Tâm Chân Tánh rơi vào Ma Chướng ngay.



Thái Tử chuyển tâm thu nạp dưỡng khí, thấy nghe hay biết khắp khắp cùng vũ trụ nhưng không khởi tưởng phân biệt chi cả, luôn luôn làm chủ, thấy, nghe, hay, biết, của mình.



Thấy nghe hay biết khắp cùng vũ trụ, khởi tâm nhận định phân biệt lúc này. Chỉ làm hại cho cuộc tiến xa hơn nữa, thấy, nghe, hay biết, khởi tưởng nhận định phân biệt lúc này, đã không giải quyết được gì. Lại rơi vào cảnh tối tăm biến hóa vô thường vũ trụ, chấp giả làm chân, thấy Rắn tưởng Rồng, thấy Ma tưởng Phật thời tai hại biết bao.



Thiên Đạo Cội Nguồn vũ trụ đâu không thấy mà chỉ thấy Ma Đạo, Quỉ Đạo, Thần Đạo mà thôi, vì các Đạo này bị cái thấy, nghe, hay, biết, phân biệt xây chuyển chưa ra khỏi kiến chấp bảo thủ, còn nằm trong nghiệp quả luân hồi, đau khổ chồng chất như biển cả núi non, chỉ khi nào hội nhập Cội Nguồn vào ngôi Chánh Đẳng, Chánh Giác. Hiểu rõ đi đến mục đích cuối cùng nhất định phải làm chủ chân tâm chân tánh, làm chủ thấy, nghe, hay, biết của mình. Mỗi Niệm Vô Niệm Tự Nhiên.



Những gì Đấng tạo lập lên tất cả, lập lên vũ trụ cùng con người và những định luật bất di bất dịch của Đấng ấy. Người tu Thiền Luyện Khí đạt đến đỉnh cao cần phải hiểu rõ. Truyền bá lại cho hậu thế, để cho hậu thế gặt hái, tiến tới làm chủ ý thức, làm chủ Linh Hồn, làm chủ vũ trụ. Làm Chủ Sanh Tử. Muốn sanh thời sanh, muốn tử thời tử tự tại.



Những lần luyện khí gần đây, Thái Tử nhận thấy trong cơ thể như có gì không ổn, hai dòng máu Nóng, Lạnh chống chỏi nhau mỗi ngày mỗi hiện rõ trong nội thể của mình. Hiện tượng này đã đánh thức Thái Tử thêm lần nữa, tu Thiền luyện khí chưa đủ để cho cơ thể tiến đến đỉnh cao mà còn phải làm cho Âm Dương hợp nhất, lưu chuyển thông suốt trong cơ thể con người.



Một xã hội tiến hóa cao, thời xã hội đó có nhiều cạnh tranh quyết liệt, những mâu thuẩn tiếp tục xảy ra trong xã hội, nếu không có cách giải quyết thời sẽ bùng nổ ra chiến tranh làm đảo lộn sự sống, cũng như th.ân thể. Thể xác Thái Tử đã đạt đến cảnh giới, Tam Hoa tụ đỉnh, Ngũ khí triều dân, thời tiết bất xâm, bách Độc khó hại. Thần Lực - Khí Lực - Tinh Lực dồi dào, đáng lý ra thời không có chuyện gì xảy ra nữa nhưng không phải thế, trong nội thể tìm ẩn nóng lạnh xung đột lẫn nhau.



Điều nầy cho thấy rằng một đất nước đạt đến cảnh giới Văn Minh tối cao không phải là hết xung đột. Nếu mỗi người dân tự tách rời không đi vào quy luật chung xa rời Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Tự mình phá hủy cái chung nghiêng về cái riêng thời sự xung đột lẫn nhau khó mà tránh khỏi.



Để giải quyết bài toán khó trong nội thể, làm bài học rút ra từ đây, sau này điều hành đất nước, tháo gỡ tìm ẩn xung đột cạnh tranh dung hòa một mối, tăng thêm sự hùng mạnh của đất nước. Thái Tử để hết tâm trí tập trung suy nghĩ quán nghiệm lại từ đầu đến cuối, vì sao có hiện tượng này xảy ra như vậy, nếu không tìm ra giải pháp hóa giải cứ theo đà này tu luyện, thời chính mình làm hại cho chính mình có khi còn nguy hiểm cho tánh mạng. Còn dừng lại không tu luyện nữa, thời Thiên Đạo Cội Nguồn sẽ không tìm ra, nhân loại mãi mãi ở trong cảnh tối tăm, chiến tranh sẽ bao trùm lấy họ, Tứ Nạn, Tam Tai sẽ diệt lấy họ.



Tứ Nạn: là Đói Nghèo lạc hậu, là Binh Đao máu lửa, chiến tranh loạn lạc, là Ôn Tai Dịch họa bệnh tật xâm hại, là thời tiết khắc nghiệt Động đất liên miên hết chỗ này sang chỗ khác.



Tam Tai: là Thủy - Hỏa - Phong.



Loài người khó tránh khỏi 7 tai họa này, nếu không có cách tránh nó. Lượn theo nó, làm chủ nó thời khó mà tránh khỏi hậu họa.



Thái Tử là Đấng cứu thế, không những Thái Tử sẽ tìm ra giải pháp cứu thế mà còn hóa giải sự xung đột của các thế lực đang bành trướng trong cơ thể của Ngài. Cũng như các thế lực xung đột bành trướng nơi địa cầu.



Thái Tử nghĩ, thể xác con người là bộ máy tuần hoàn Tiểu Thiên vũ trụ, có cả Âm lẫn Dương, có cả Thượng lẫn Hạ, có hàng cả mấy trăm huyệt Đạo, mỗi huyệt Đạo là mỗi cửa ải giao thương các kinh mạch, mỗi kinh mạch là sự sống của hàng vạn tế bào, sự sống của hàng vạn tế bào thông ra mỗi đầu Lông. Hơn nữa Chân khí vũ trụ mà Thái Tử thu nạp bấy lâu nay, mỗi lúc mỗi dâng trào cuồn cuộn trong nội thể Thái Tử, tự nó phân định Âm Dương không chịu dung hòa với nhau, xung đột với nhau mỗi ngày mỗi thêm dữ dội lúc tu Thiền luyện khí. Thái Tử hầu như khám ra những điều hửu ích nữa đó là tuần hoàn. Tuần hoàn chính là tiến hóa của sự sống, con người vì xã hội, xã hội vì con người, con người vì cái chung, cái chung bảo vệ cái riêng, bảo vệ tuần hoàn chính là bảo vệ sự sống, bảo vệ sự sống cũng chính là biết vận dụng tuần hoàn Vận dụng Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đi vào cuộc sống Dân bảo vệ Hiến Pháp. Hiến Pháp bảo vệ Dân. Cũng như người nông dân bảo vệ sự sống cây lúa, và chính sự sống cây lúa bảo vệ sự sống của người nông dân. tiến hóa xã hội đến dân giàu nước mạnh cũng chính là sự nhận thức về Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Pháp Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Thiên Tạng vũ trụ. (Xem Long Hoa Thiên Tạng sẽ hiểu rõ hơn)

*********



Hết phần 3 chương 9 mời xem tiếp phần 4 chương 9 Long Hoa Mật Tạng.







CHƯƠNG 9



PHẦN 4



PHĂNG LẦN GỠ RỐI.



Sự hình thành nóng lạnh trong nội thể mỗi ngày mỗi lớn để phăng lần từng mối, gỡ rối từng khúc, Thái Tử quán nghiệm lại bốn thể lớn của vũ trụ.

1. Thể Lực

2. Thể Hơi

3. Thể Lỏng

4. Thể Đặc




Rồi đưa ra luận chứng phân tích. Thái Tử nghĩ Thể Lực vô cực Chân nguyên là Thể Lực chưa phân định Âm Dương. Thể Lực vũ trụ này, xuyên qua sắc, thép, kim cương, vàng, đá, sành, kiến kính, không để lại dấu vết, chỗ nào cũng có khắp cùng vũ trụ, lực này bị khuấy Động liền tạo ra hai dòng từ trường Âm và Dương nóng - lạnh Động tịnh, khi nào từ trường Âm Dương va chạm vào nhau thời phát ra tiếng sấm và những tia lửa bắn ra gọi là sét. Thể Lực là Thể Chủ của ba thể kia, thể chưa phân định Âm Dương, thời làm gì tìm ẩn nóng lạnh dẫn đến sự xung đột nóng lạnh trong nội thể không phải do Thần lực tạo ra.



Dưới Vô Cực Chân nguyên, là Thái Cực Chân nguyên, tức là Thái Thanh Chân Khí, khí vừa mới tượng hình, do Lực già chuyển hóa sanh ra Thái Thanh Chân Khí là giai đoạn đầu phân định lưỡng nghi, Âm chưa thành Âm, Dương chưa thành Dương, cũng như một mầm cây bắt đầu nảy mầm hai nhánh, sự nẩy mầm này chỉ là giai đoạn đầu khởi điểm Âm Dương, thời làm sao xung khắc nhau được, nếu xung khắc đó mới chỉ là hiện tượng mà thôi.



Còn sự xung khắc trong nội thể thì quá rõ ràng, có thể xảy ra xung đột đến mất mạng. Thái Tử nghĩ hiện tượng này là do Âm Dương chân khí, cùng thái Âm thái Dương chân khí xung đột tạo ra mà thôi. Thái âm Thái Dương Chân Khí là do Thái Thanh Chân Khí đã già chuyển hóa sanh ra. Sự chuyển hóa này đã trờ thành quy luật, không những ở trong Chân Khí mà ngay cả xã hội cũng vậy, thời kỳ quá độ của chế độ sẽ tự nó đổi mới chuyển sang chế độ khác.



Trong vũ trụ tuổi thọ của Thể Lực, gấp 20 lần của thể khí, tuổi thọ của thể khí gấp 20 lần của thể lỏng, tuổi thọ của thể lỏng gấp 20 lần của thể đặc, tuổi thọ của thể đặc gấp 20 lần tăng giảm sẽ bị hủy hoại, cứ một lần tăng giảm trải qua 16 triệu 800 nghìn năm. Đạo pháp cũng thế đều có tuổi thọ an trụ của nó, chẳng hạn như Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ, an trụ tuổi thọ là năm tiểu kiếp, 84 triệu năm, thời chuyển đến Liên Hoa Hải Tạng.



Giải quyết sự nóng lạnh xung đột trong nội thể, Thái Tử tiến đến giải pháp, dùng ý tưởng lưu dẫn chúng làm cho chúng chuyển động theo luật tuần hoàn lưu chuyền khắp kinh mạch, dung hoàn Âm Dương tiến lên một tầm cao mới. Sự lưu dẫn chân khí theo luật tuần hoàn dung hòa Âm Dương khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch là một phương pháp vô cùng hửu hiệu. Sự xung đột nóng lạnh trong cơ thể biến mất, thay vào đó Thần Lực, Công Lực, Nội Lực tăng lên gấp 3 gấp 4 lần.



Thái Tử nghĩ dung hòa hàng trăm Bộ Lạc theo đường lối Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng. Mà nền tản của sự dung hòa nầy là tôn trọng Quyền con người Nhân Quyền, phải lấy Dân làm Gốc Dân Chủ. Đi vào Công Bằng Bình Đẳng. Tuy thiên hạ có muôn ý khác nhau. Nhưng chung cùng lương tâm đồng nhất quyền con người, dân là gốc, công bằng bình đẳng tinh hoa sự sống con người. Và cũng chỉ có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính Đa Nguyên, Nhân Quyền Dân Chủ Công Bằng Bình Đẳng mới dung hòa hết thảy các tần lớp xã hội đi vào thống nhất. Tạo lên sức mạnh nội lực dân tộc.



Thái Tử dẫn khí từ Đan Điền xuống Khí Hải, Quan Nguyên, Trung Cực, Khúc Cốt, Hội Âm chót xương cụt, hết phần bụng dưới. Rồi từ chót xương cụt, phần lưng chạy lên đỉnh đầu, yêu Di Xương cùng Dương Quan, thắt lưng, rồi tới mệnh môn, Thần Đạo, Chí Dương, Chân Trụ, Đào Đạo, Đại Thùy, Á Môn, Phong Phủ, Hậu Đình, Bách Hội. Bách Hội là Hội đỉnh đầu.



Thái Tử tiếp tục dẫn chân khí chạy về phía trước đỉnh đầu xuống mặt, xuống ngực, xuống bụng trên, bụng dưới trở về Đan Điền. Bách Hội. Tiền Đình. Tinh Hội. Thần Đình. Ấn Đường. Tinh Minh. Hòa Liêu. Nhân Trung. Thừa Tương. Thái Tử vận chân khí tới đây hết phần mặt rồi tiếp tục xuống cổ xuống ngực. Thừa Tương, Liêm Tuyền, Trung Quản, Thủy Phân rồi hội tụ tại Đan Điền.



Cứ thế Thái Tử vận hành càng lúc càng trôi chảy, thể xác con người là thể xác tiểu Thiên vũ trụ, nay Thái Tử vận hành Chân Khí chuyển vận chạy từ trước ra sau, từ sau ra trước, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, tuần hoàn không dứt, làm cho các huyệt Đạo thông suốt, làm cho kinh mạch thông theo, một bí pháp vô cùng quan trọng đối với cơ thể con người tiểu Thiên vũ trụ. Thái Tử khai thông cơ thể, làm cơ thể bừng lên sức sống mãnh liệt. Thái Tử dần dần chinh phục tiểu Thiên vũ trụ, làm chủ tiểu Thiên vũ trụ, tiến lần đến làm chủ Đại Thiên vũ trụ.



Nhờ chăm chú vận hành chân khí khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch, sự vận hành ấy dần dần lưu chảy thông suốt. Từ Đan Điền xuống xương cụt, theo đường xương sống chạy lên đỉnh đầu, rồi xuống tráng, xuống mắt, xuống mũi, xuống miệng, xuống cổ, xuống ngực, xuống bụng rồi trở về Đan Điền, sự tuần hoàn ấy Thái Tử vận chuyển chân khí lặp đi lặp lại.



Mới vận chuyển chân khí, Thái Tử cảm nhận như dòng khe nước nhỏ. Nhưng giờ đây khác hẳn, Thái Tử cảm nhận như một con sông lớn lưu chuyển chảy cuồn cuồn từ ÂM sang DƯƠNG từ DƯƠNG sang ÂM. Từ Hạ Thiên đến Thiên Tiên. Từ Bách Hội xuống Hội Âm, Chân khí tràng chảy đến dâu, không những khai thông huyệt Đạo kinh mạch mà còn rộng mở huyệt Đạo kinh mạch.Sự xung đột Âm Dương không còn nữa. Thay vào đó một th.ân thể nhẹ bổng, trào dân sức sống Thể Lực thượng thừa.
 
Thái Tử từ khi tu Thiền luyện khí, tích tụ nơi Đan Điền. Huyệt ÂM GIAO. Chân khí tích tụ mỗi ngày mỗi lớn mạnh, lan tỏa rộng lớn khai thông các huyệt Đạo xung quanh, các kinh mạch theo đó cũng rộng mở cả bụng dưới lẫn bụng trên gần mấy chục huyệt Đạo nhưng ở đây chỉ kể một số huyệt Đạo chủ yếu mà thôi. Xung quanh xa gần huyệt Đan Điền như huyệt Khí Hải, Thủy Phân, Quan Nguyên, Trung Quản lên tận Cự Khuyết xuống Khúc Cốt rồi lan tỏa rộng ra hai bên khai thông một số các huyệt Đạo khác Phúc Kết, Thủy Đạo, Hoang Du, Thiên Khu, Đại Cự, Đại Hách, Kỳ Môn, Cự Huyết, Lương Môn, Bất Dung, Chương Môn, Nhật Nguyệt, Đới Mạch, Cự Liêu, Ngủ Khu, Xung Môn v.v..



Hình Ngồi Thiền 2.






Sự khai thông này cũng giống như các Biển Hồ Bể Khí tràng đầy Khí Lực thống suốt cùng nhau tạo lên sức lực khôn lường. Huyệt Đạo khai mở, kinh mạch thông suốt, sức lực sinh khí tràn đầy. Thái Tử mỗi lần tu Thiền luyện khí thời thấy có một luồn khí nóng từ Đan Điền tỏa ra xung quanh vùng bụng dưới rồi tỏa lên khắp châu thân và gần đây Thái Tử thấy hai luồn nóng lạnh chống chỏi nhau. Và Thái Tử đã nghỉ ra phương pháp vận hành lưu dẩn Chân khí khai thông toàn bộ các huyệt Đạo - Kinh mạch châu thân.



Thái Tử dẩn chân khí bắt đầu từ ĐAN ĐIỀN xuống KHÍ HẢI xuống QUAN NGUYÊN rồi đến TRUNG CỰC. KHÚC CỐT, HỘI ÂM. Thông qua xương cụt ra sau lưng, khai thống TRƯỜNG CƯỜNG chạy lên theo đường xương sống khai thông YÊU DI. Thuộc phạm vi vùng mông, xương cùng. Chân Khí lan tỏa ra hai bên vùng mông khai thông các huyệt Đạo như Hội Dương, ở xương cụt, Hạ Liêu, Trung Liêu, Thứ Liêu, Bàng Quang Du, Tiểu Tràng Du, Bàn Hoang, Quan Nguyên Du.



Thái Tử lại tiếp tục dẩn Chân Khí chạy lên vùng eo lưng, khai thông huyệt DƯƠNG QUAN của eo lưng, thông lên MỆNH MÔN xuống sống bụng, Chân Khí lan tỏa ra hai bên khai thông các huyệt chạy dọc theo hai bên xương sống như huyệt Thận Du, Tam Tiêu Du, Đại Tràng Du, Thương Liêu, Chí Thất, Vị Du. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí khai thông lên huyệt CHÍ DƯƠNG. Đốt xương sống ngực thứ 7. Dưới đốt xương sống ngực thứ 7 thuộc Âm. Huyệt Chí Dương nằm ngay tại vùng giáp ranh đó.




Chân Khí chạy lên huyệt CHÍ DƯƠNG lan tỏa ra hai bên khai thông các huyệt Đạo như huyệt Đởm Du, Tỳ Du, Can Du, Cách Du, Cách Quan. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí chạy lên vùng lưng khai thông huyệt THÂN TRỤ cùng các huyệt Đạo dọc theo hai bên vùng lưng xương sống ngực như các huyệt Đạo Phế Du, Quyết Âm Du, Tâm Du, Thần Đường, Cao Hoang, Phách Hộ, Phụ Phân.



Thái Tử lại tiếp tục dẫn chân khí thông lên ĐÀO ĐẠO, ĐẠI CHÙY. Chân Khí lan tỏa hai bên xương sống khai thông các huyệt Đạo vùng lưng cũng như vùng lưng bả vai như huyệt Đại Chữ, Kiên Trung Du, Đại Trứ, Khúc Viên, rồi thông qua các huyệt Đạo lưng hai bên xương vai như huyệt, Phụ Phân, Thiên Liêu, Kiên Ngoại Du, Kiên Tỉnh, Bình Phong, Kiên Liêu, Kiên Ngưng, Thiên Tông, Phong Môn. Tức thì khai thông ra toàn bộ vùng lưng, vùng eo, vùng mông. Đại Chùy, Đào Đạo, Thân Trụ, Thần Đao, Chí Dương, Trung Khu, Tích Trung, Đại Chữ, Kiên Tỉnh, Kiên Ngưng, Phong Môn, Bình Phong, Thiên Tông, Kiên Liêu, Kiên Ngoại Du, Phong Môn, Thiên Liêu. Phụ Phân. Quyết âm Du. Tâm Du. Đốc Du. Thiên Tông, Kiên Trinh, Đại Trứ, Phế Du, Cách Du, Cam Du, Đảm Du, Tỳ Du, Tam Tiêu Du, Vị Du, Chí Thất, Mệnh Môn, Thận Du, Đại Tràng Du, Quan Nguyên Du, Tiểu trường Du, Thượng Liêu, Thứ Liêu, Dương Quan, Trung Liêu, Hạ Liêu, Bàng Quang Du, Trung Lữ Du, Bạch Hoàng Du, Thừ Phù, Yêu Di, Trường Cường.






Chú ý ở đây chỉ nói đại khái những huyệt Đạo chủ yếu mà Thái Tử đã khai thông toàn bộ lưng, eo, mông. Huyệt Đạo khai mở kinh mạch theo đó cũng thông suốt. Thái Tử lại tiếp tục dẫn Chân Khí thông lên 7 đốt xương sống cổ, khai thông huyệt Đạo Á môn. PHONG PHỦ. Chân khí lan tỏa ra hai bên sống cổ khai thông các huyệt như Thiên Dũ, Phong Trì, Thiên Trụ, An Miên, Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí thông lên đầu, khai thông HẬU ĐÌNH rồi thông lên BÁCH HỘI đỉnh đầu, Thái Tử dừng nghỉ để cho Chân Khí hội tụ Đỉnh Đầu càng lúc càng mạnh, làm cho Huyệt BÁCH HỘI khai thông rộng mở. Bách Hội khai thông rộng mở, thời các kinh mạch chủ lực liền thông suốt, nhiệm mầu thay. Đầu óc Thái Tử trở nên minh mẩn lạ thường. Thái Tử lại tiếp tục dẩn Chân khí từ Bách Hội chạy về phía trước Đầu, khai thông TIỀN ĐÌNH, TINH HỘI rồi đến THẦN ĐÌNH. Chân khí lan tỏa rộng ra khai thông một số huyệt Đạo như Thông Thiên, Khúc Sai. Chân khí tuông xuống trán khai thông Tinh Minh, Dương Bạch xuống ẤN ĐƯỜNG. Chân khí lan tỏa khai thông Toản Túc, Ty Trúc Không, Ngư Yêu, Thái Dương. Thái Tử lại dẫn Chân khí xuống mắt xuống mũi. Khai thông huyệt Nhân Trung, chân khí lan tỏa rộng ra khai thông huyệt Thừa Khớp, Nghinh Hương, Cự Liêu, Hòa Liêu, Tứ Bạch, Khách Chủ Nhân, Hạ Quang. Thái Tử lại tiếp tục dẩn chân khí chạy xuống miệng xuống càm khai thông huyệt Thừa Tương. Chân khí lan tỏa rộng ra khai thông huyệt Địa Thương, Quyền Liêu, Đại Nghinh. Thái Tử dẫn chân khí tới đây hầu hết khai thông các huyệt Đạo chủ yếu ở phần mặt Bách Hội, Tiền Đình, Tinh Hội, Thần Đình, Thông Thiên, Khúc Sai, Tinh Minh, Dương Bạch, Ấn Đường, Toản Trúc, Ti Trúc Không, Ngư Yêu, Thái Dương, Nhân Trung, Đồng Tử Liêu, Tứ Bạch, Địa Thương, Nghinh Hương, Cự Liêu, Hòa Liêu, Quyền Liêu, Thừa Tương. Thái Tử lại dẩn chân khí xuống cổ khai thông huyệt Liêm Truyền. Chân khí lan tỏa khai thông huyệt Nhân Nghinh, Thiên Đỉnh, Thủy Đột, Khuyết Bồn.






Thái Tử lại dẫn khí xuống khai thông THIÊN ĐỘT thông xuống phần ngực chân khí tỏa ra một vùng rộng lớn. Khai thông Khí Xá, Du Phủ, Trung Phủ v.v… Khuyết Bồn, Kiên Tỉnh, Vực Trung. Thái Tử lại tiếp tục dẫn Chân khí chạy xuống khai thông huyệt ĐẢN TRUNG rồi thông xuống khai thông Cưu Vĩ. Chân khí liền tỏa ra một vùng rộng lớn khắp vùng ngực, làm thông suốt một số huyệt Đạo như huyệt Thần Phong, Nhũ Trung, Nhũ Căn, Ưng Song, Thiên Khê v.v…



Khai thông xong các huyệt Đạo ở phần ngực, Thái Tử lại dẫn chân khí khai thông các huyệt Đạo ở phần bụng trên, từ huyệt Đạo Cưu Vĩ thông xuống CỰ KHUYẾT, TRUNG QUẢN, THỦY PHÂN. Chân khí liền lan tỏa khắp vùng bụng trên, khai thông một số huyệt Đạo như huyệt Bất Dung, Kỳ Môn, Nhật Nguyệt, Lương Môn, Đới Bạch. Rồi thông xuống ÂM GIAO tức là huyệt ĐAN ĐIỀN, trở về bể nguồn nơi xuất phát. Chân khí cuồn cuộn lan tỏa xuống Khí Hải, Hoang Du, Thiên Khu, Đại Cự Y, Quan Nguyên, Trung Cực thông xuống Khúc Cốt lan tỏa khai thống hết thảy các huyệt Đạo ở bụng dưới như huyệt Đại Hách, Duy Đạo, Ngũ Xu, Xung Môn, Cự Liêu, Đại Cự, Khí Xung, Thủy Đao, Ngủ Khu v.v…



Thái Tử vận hành Chân khí tuần hoàn cứ thế mà vận chuyển khai thông huyệt Đạo kinh mạch càng lúc càng thông suốt, càng lúc nhuần nhuyễn dễ dàng. Vận hành Chân khí, khí thông huyệt Đạo, kinh mạch là một bí pháp, ẩn tàng huyền vi khó mà nói cho hết. Tuy Thái Tử đã đi hơn nữa đoạn đường tu Thiền luyện khí, vận hành khai thông huyệt Đạo, kinh mạch. Nhưng đã đưa Thái Tử đến đỉnh cao, khó có người theo kịp.



Để bước sang giai đoạn khó hơn, đòi hỏi người tu Thiền vận hành Chân khí phải tập trung ý chí tinh thần cao độ, tập trung, thấy nghe hay biết, chú tâm vào tu Thiền vận khí mà thôi.



Tổ Tiên tạo lập lên vũ trụ, thời chúng ta phải tạo lập lên sự sống con người, con cái của Tổ Tiên thay thế Tổ Tiên cai quản vũ trụ. Tổ Tiên tạo lập lên thể xác con người là thể xác hoàn hảo, anh linh tối cao, thể xác Tiểu Thiên vũ trụ, thể xác tinh hoa hơn cả tinh hoa 8 muôn 4 nghìn loài cọng lại. Cũng không hơn được thể xác Tiểu Thiên vũ trụ con người. Linh Hồn đầu thai để được làm người là điều rất khó, đầu thai được làm người thời coi như Linh Hồn đã làm chủ bộ máy thể xác huyền vi vũ trụ. Linh Hồn nhờ làm chủ bộ máy thể xác.








Tiểu Thiên vũ trụ này, tiến hóa Linh Hồn phát Huệ mau chóng, đạt đến đỉnh của sự giác ngộ, làm chủ vũ trụ, lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Bộ máy thể xác con người, bộ máy Tâm Linh con người là cả kho tàng bí mật vũ trụ. Không có bộ máy nào huyền diệu hơn bộ máy Tâm Linh, bộ máy thể xác con người. Không có con thuyền nào bay vào vũ trụ, hơn được con thuyền Tâm Linh. Con thuyền tiểu Thiên Vũ Trụ, thể xác con người. Thái Tử phát huy vận dụng lều lái con thuyền Tâm Linh, con thuyền tiểu Thiên vũ trụ bay đến tận Cội Nguồn vũ trụ, gặt hái những thành quả mà không thể ai cũng gặt hái được. Không có sức mạnh nao hơn được sức mạnh con người, dù cho đó là sức mạnh của Rồng, Voi, Sư Tử, Cọp, Báo v.v… Nhưng ít ai hiểu được điều này, nếu ai hiểu được bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ, điều khiển và phát huy sức mạnh của nó, thời Di sơn đảo hải chỉ là việc nhỏ mà thôi. Chúng ta sẽ lần lượt thấy rõ Thái Tử phát huy sức mạnh tìm ẩn mật tạng bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ thể xác con người ở những đoạn kinh sau.



Có thể nói Thái Tử đang phát huy tìm năng sức mạnh con người, sức mạnh tâm Linh con người, tiến sâu về bí mật vũ trụ, mở đường cứu thế, làm khiếp đảm loài Ma - Quỉ - Yêu - Tinh, đem lại hạnh phúc cho nhân loại con người, nhân loại anh em.






Sở dĩ con người yếu hơn loài Rồng, Voi Sư Tử, Hổ, Báo là vì con người không hiểu tiềm ẩn sức mạnh con người, cũng như sức mạnh tâm Linh, nên không tu Thiền luyện khí, tỉnh tâm thu nạp năng lượng vũ trụ. Vận hành năng lượng Vũ Trụ. Khai thông huyệt đạo kinh mạch. Vì thế bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ thể xác con người trở nên yếu ớt, bệnh tật hoành hành thời tiết xâm hại. Cũng như một xã hội mà thiếu đi văn hóa Cội Nguồn lại thêm các huyết mạch giao thương, trục lộ chủ chốt chật hẹp tắc nghẽn, thời xã hội đó không nói chúng ta cũng hiểu, không những lạc hậu đói nghèo lắm điều khốn khổ. Văn Hóa Cội Nguồn lưu chảy trong tâm linh chính là Nguồn sinh khí nuôi dưỡng Tinh Thần, phát huy nội lực tiềm ẩn Tâm Linh, làm tinh thần Dân Tộc lớn mạnh, không có sức mạnh nào hơn được. Thái Tử đang nổ lực tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Thiên Đạo vũ trụ, Chủ Nghĩa Đại Đồng nuôi dưỡng tinh Thần phát huy đến chỗ chí linh, chí Thánh.




Nói đến con người thời ai ai cũng biết có cả phần Hồn, lẫn phần Xác. Thái Tử là nhà khoa học vũ trụ. Tu Thiền luyện khí, vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo, kinh mạch là ba phương án tối cao, đưa sức mạnh con người lên ngan tầm sức mạnh vũ trụ. Tiểu Thiên vũ trụ hòa nhập vào Đại Thiên vũ trụ. Thái Tử là nhà khoa học Đa năng xã hội, nhà lãnh tụ Tinh Thần vĩ đại dân tộc, không những tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, vận hành Văn Hóa Cội Nguồn khai thông tinh thần làm cho các Bộ Tộc, Bộ Lạc, các tần lớp xã hội, các giáo phái, các màu da. Chủng Tộc hội nhập vào Cội Nguồn, triệu người như một, tiến tới cảnh dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, kéo dài Độc Lập, minh chứng lịch sử thời Đại Vua Hùng kéo dài hơn hai nghìn bảy trăm lẽ một năm.



Sự phát triển văn minh xã hội không chỉ là sự văn minh, máy móc, vật chất mà còn phải văn minh về thể lực đi đôi với văn minh Tinh Thần, làm chủ xã hội đi đôi với làm chủ bản thân, làm chủ ý thức, làm chủ Tâm Linh của mình. Hướng về tương lai tươi sáng, sống trong bầu không khí trong lành Đại Đồng, Bình Đẳng, Công Bằng văn minh.








Nếu chúng ta không biết khai thông nhân loại, khai thông mọi tổ chức chính trị, mọi thành phần giai cấp xã hội, mọi tôn giáo, Đảng phái. Bằng con đường Chính Nghĩa Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đồng Bình Đẳng, thời phải nói chúng ta đang sống trong thế giới đầy bệnh hoạn với bao nhiêu là sự bế tắc, dẫn đến bao nhiêu là xung đột, dẫn đến xã hội Địa Ngục, thế giới Địa Ngục, con người làm hại con người, đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời, thời hậu quả không biết đâu mà lường. Thái Tử là nhà Đại khoa học vũ trụ, Đại khoa học xã hội Tinh Thần lẫn vật chất. Nói đến tu Thiền luyện khí là nói đến chúng ta tiến tới làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ vận mệnh xã hội. Hàng phục thói hư tật xấu, trở thành một chân Tâm trong sáng. Đại Đồng chủng tánh đạt đến cảnh giới bất sanh bất diệt. Làm chủ vận mệnh làm chủ vũ trụ. Vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch, làm cho cơ thể tràng đầy sinh lực. Đẩy lùi mọi bệnh tật.






Vận hành Văn Hóa Cội Nguồn, khai thống trí huệ con người, thấy rõ tương lai tốt đẹp, không còn lẩn quẩn trong phạm vi nhỏ hẹp, giống như con Ếch ra khỏi đáy giếng, gà con ra khỏi lớp vỏ trứng, với cái nhìn khác xưa cái nhìn hiểu thế nào là về sự ngu dốt của mình. Người vận hành Chân khí, cũng giống như ao hồ sông rạch xưa nay bị lu lấp, tắc nghẽn, nay bổng cơn mưa kéo đến làm cho ao, hồ, sông, rạch không những đầy nước, lại khai thông dòng chảy, khai thông sức mạnh liên kết cùng nhau dẫn đến bất tận. Nói về con người đã được khai thông huyệt Đạo kinh mạch, thời sức mạnh toàn thân bất tận. Thái Tử thấy rõ điều đó.




Để tiến đến giai đoạn khó khăn hơn, đòi hỏi người tu Thiền luyện khí phải tập trung cao độ, cùng một lúc vận hành khai thông nhiều huyệt Đạo. Đây là một việc làm khó, đối với người căn cơ kém, còn đối với Thái Tử dẫn Chân khí từ Đan Điền xuống Khúc Cốt, Hội Âm, Trường Cường, rồi lan tỏa rộng ra Bế Quan, Xung Môn, Âm Liêm, Thừa Phụ xuống hai chân khai các huyệt Đạo bốn mặt, mặt sau, mặt trước, mé ngoài, mé trong. Từ Háng - Mông xuống các đầu ngón chân rồi vận khí chạy trở lên Xung Môn, Bế Quan.



Để vận hành Chân khí khai thông các huyệt Đạo có hiệu quả, Thái Tử nhớ rõ các huyệt Đạo vị trí huyệt Đạo nằm trên cơ thể một cách rõ ràng. Thái Tử vận hành Chân khí thông lên hai bên hông khai thông huyệt Cư Liêu rồi đến Ngủ Khu, Đới Mạch, Chương Môn.



Thái Tử vận hành Chân khí thông lên nách, khai thông huyệt cực tuyền, rồi thông lên bả vai khai thông huyệt Kiên Ngung, Kiên Tỉnh hai bên trên bả vai, để tiếp tục cuộc hành trình vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo kinh mạch Thái Tử tiếp tục dẩn Chân khí chạy xuống hai cánh tay khai thông các huyệt Đạo ở hai mặt cánh tay mé ngoài, mé trong của hai cánh tay xuống tận các đầu ngón tay rồi dẩn Chân khí trở lại, chạy lên vai khai thông hai huyệt Thiên Đỉnh ở bả vai gần giáp cổ. Để tiếp tục cuộc hành trình vận hành Chân khí, Thái Tử dẩn Chân khí thông lên cổ khai thông hai huyệt Thiên Song. Chân khí cuồn cuộn thông lên đầu, khai thông các huyệt Đạo dọc theo hai bên tai lên Bách Hội.



Chân khí từ hai huyệt Thiên Song ở cổ cuồn cuộn thông lên huyệt Thiên Dung, thông lên Ế Phong, Hoàn Cốt giáp tai, rồi thông lên Chính Cung, Nhĩ Môn, Khiếu Âm, Khúc Tấn, Giác Tôn, Thừa Linh rồi thông lên Bách Hội. Hai dòng sông Chân khí hiệp lại nhau làm cho Bách Hội khai mở một cách kỳ lạ làm thông suốt các kinh mạch nhỏ lớn khắp toàn châu thân. Thái Tử thấy cơ thể nhẹ như bong bóng Thần Lực bất tận, khí lực như Đại Dương. Lúc này Thái Tử không cần tập trung ý tưởng dẩn Chân khí nữa mà ý để đâu thời Chân khí chạy tới đó.



Chân khí theo ý Thái Tử chạy xuống trán, xuống mắt, xuống mũi, xuống miệng, xuống cổ, xuống ngực, xuống bụng rồi trở về Đan Điền và cứ thế theo luật tuần hoàn vận hành Chân khí lưu chuyển thuần thục. Ba con sông lớn thi nhau mà chảy đem Nguồn Chân khí vũ trụ bồi đắp kinh mạch, huyệt Đạo, Tế Bào nguồn Chân khí năng lượng sống vũ trụ, từ trước ra sau, từ sau ra trước, từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu, sự tuần hoàn này Chân khí tuôn chảy đến đâu, thời các lỗ chân lông đều khai mở đến đó. Có thể nói chẳng khác gì bốn biển, năm châu, giờ đây đã được Dung Hòa, Đông Tây Nam Bắc, Trung Ương, Thượng, Hạ thành một mối, Thái Bình An Lạc Đại Đồng Bình Đẳng. Phàm, Thánh hợp nhất các thứ tệ nạn xã hội liền bị đẩy lùi hết chỗ dung thân, cũng như khai thông huyệt Đạo kinh mạch bệnh tật liền bị tiêu trừ.



Sức mạnh của một Quốc gia không phải chỉ ở một người hay một tổ chức chính trị, Đảng phái tôn giáo, không có dân thời lấy đâu có Chính Quyền, lấy dân làm gốc là đều tất yếu. Nhưng phát huy được cái gốc của dân, đó mới là điều thăng chốt, tiến tới xã hội văn minh, xã hội Đại Đồng Bình Đẳng mà chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn mới là chỗ tựa vững chắc của toàn dân. Có thể nói mỗi việc làm mỗi suy nghĩ của Thái Tử, để lại cho chúng ta những Di sản quí hiếm và không cho phép chúng ta đánh mất Di sản quí hiếm mà Tiền Nhân để lại cho chúng ta thứ tài sản vô giá này.
 
PHẦN THƯA HỎI :



Hỏi: Thế nào là hết lòng vì dân vì nước?



Đáp: Người hết lòng vì dân vì nước là người thương yêu Đồng Bào như thương yêu máu thịt của mình, suốt cuộc đời chỉ lo cho dân cho nước mà không đòi hỏi cầu lấy Danh, Lợi, địa vị nào cả. Không bao giờ dìu dắc Đồng Bào vào cảnh anh em tương tàn, nồi da nấu thịt. Đi đầu trong mọi lĩnh vực nhân cách Đạo Đức, Trung Hiếu mãi mãi tôn thờ truyền thống dân tộc Văn Hóa Cội Nguồn. Những kẻ giả nhân giả nghĩa, giả Đạo giả Đức làm hại dân tộc, làm hại non sông Tổ Quốc, chỉ lừa dối những kẻ thiếu hiểu biết, lừa dối Thần Thánh sao được. Và cán cân Công Lý vũ trụ sẽ chuyển xây vận mệnh kẻ ấy vào Thiên La Địa La trùng trùng tai họa. Danh, tánh của những kẻ ấy sẽ được công luận lên án, đời đời bị Thiên Hạ nguyền rủa.



Hỏi: Thế nào là đặc niềm tin đúng chỗ.



Đáp: Tin Văn Hóa Cội Nguồn, truyền thống anh linh dân tộc. Tinh Hoa Truyền Thống Dân Tộc là nguồn nước Thánh Quốc Bảo Chí Tôn, Chí Thánh của dân tộc mà Ông Cha ta đã dày công vun đắp, truyền lại cho chúng ta.



Hỏi: Thế nào là lợi dụng Tôn giáo Đạo giáo phục vụ cho mưu đồ xâm lược?



Đáp: Các thế lực ngoại xâm họ thường lợi dụng học thuyết chân chính, của các Tôn giáo Đạo giáo những giáo điều của Tôn giáo Đạo giáo có lợi về mặt chính trị, họ liền áp dụng đầu độc dân tộc ta, làm cho dân tộc ta quên đi Nguồn Cội, sa ngã bị mê hoặc, làm mất đi ý chí tự cường, ý chí trung Hiếu, lu mờ truyền thống Con Rồng Cháu Tiên. Cụ thể dân tộc ta vô cùng khốn khổ phải chịu cảnh nô lệ hàng nghìn năm, sống trong chảo dầu biển lửa, sống trong kiềm kẹp với hàng trăm lớp trói chính sách của quân xâm lược, dân ta phải chịu cảnh trâu cày ngựa cỡi, đói nghèo lạc hậu khốn khổ vô cùng. Các học thuyết Tôn giáo Đạo giáo một khi các thế lực ngoại xâm lợi dụng biến chúng thành con dao nhiều lưỡi, uy hiếp tinh thần dân tộc. Vì hiểu tính cách lợi hại con Dao nhiều lưỡi này mà quân xâm lược luôn luôn mang theo nó, để uy hiếp đè bẹp tinh thần dân tộc ta, nên chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Cảnh thực hư của các giáo điều mà chúng luôn luôn dùng những giáo điều ấy mở đường cho xâm lược. Một dân tộc Rồng Tiên bị chúng trói vào giáo điều và chúng cho đó là pháp luật, thời con Rồng biến thành con giun ngay. Chúng Ta hãy hội nhập Văn Hóa Cội Nguồn chính là diệu dược Linh Đơn một khi uống vào liền thấy rõ chân tướng của loài Hồ Ly, Cáo, Sói.



Hỏi: Giặc nội tâm. Giặc ngoại xâm. Giặc nào nguy hiểm hơn?



Đáp: Giặc nội tâm. Giặc ngoại xâm. Giặc nào cũng nguy hiểm nhưng giặc nội tâm càng nguy hiểm hơn, muốn cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Thời phải loại bỏ thói hư tật xấu ra khỏi Linh Hồn của mỗi chúng ta, giặc thói hư tật xấu là thứ giặc vô cùng nguy hiểm, đồng bọn của chúng là giặc dốt, giặc ngu si, giặc mê muội. Chúng hùa nhau tham lam, vơ vét của dân, của nhà nước, trộm cướp là thứ giặc con, đặc ra chính sách bóc lột làm cho dân khốn đốn, giặc Cha thứ giặc luôn luôn bốc mùi tàn bạo. Một xã hội ấm no Thái Bình Hạnh Phúc là một xã hội đầy lòng Chân Chính, Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa cao. Muốn hiểu rõ sự nguy hại của thói hư tật xấu giặc nội tâm, thời phải dùng đến gươm Thiên trí Huệ trong Văn Hóa Cội Nguồn, báu vật của Trời Đất, có đủ ba ánh sáng để tiêu diệt chúng.

1: Đó là ánh sáng Công Lý Chính Nghĩa Đạo Đức truyền thống dân tộc.

2: Là ánh sáng Chân Lý Đạo Pháp Thiên Đạo Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng vũ trụ.

3: Là ánh sáng Luật pháp, công bằng xã hội.




Ba nguồn ánh sáng này một khi đã chiếu lên, tức thời u minh non sông Tổ Quốc tan biến ngay. Trả lại cho con người Tâm Hồn trong sáng, giặc nội Tâm sẽ lùi sâu vào tâm thức dần dần bị tiêu diệt, thay vào đó là một Tâm Hồn vị tha và đầy lòng quả cảm. Đẹp như Tiên và mạnh như Rồng.

*********


Hết phần 4 chương 9 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 5 chương 9.







CHƯƠNG 9



PHẦN 5



GIAI ĐOẠN 3

TU THIỀN LUYỆN KHÍ



Thái Tử giờ đây, nhất cử nhất động đều phát tuôn thần lực, ai nhìn thấy cũng khiếp vía. Các lỗ chân lông đều khai mở, Chân khí thu nạp vào Đan Điền liền thông suốt đến các lỗ chân lông ngay, người tu luyện đến đây đã là kinh khiếp lắm rồi nhưng đối với Thái Tử thời chưa đạt, phải tiến lên một nất cao hơn nữa.



Thái Tử tiến đến phương pháp hít thở theo lỗ chân lông, một phương pháp tối cao của người tu Thiền luyện khí. Lại một lần nữa Thái Tử cho ta thấy, tiến đến phương pháp hít thở theo lỗ chân lông là để phát huy sức mạnh toàn năng cơ thể con người Tiểu Thiên vũ trụ. Đây là một phương pháp hơi khó nhưng đối với Thái Tử thời không thấy khó tí nào cả, còn đường đi Thái Tử cho ta thấy, phát huy sức mạnh toàn thân, Tiểu Thiên vũ trụ, thời phải có phương pháp đối với cơ thể, binh pháp đối với xã hội. Phát huy sức mạnh toàn năng Tiểu Thiên vũ trụ, thời phải tu Thiền luyện khí, tỉnh tâm thu nạp năng lượng vũ trụ, vận hành Chân khí, khai thông huyệt Đạo kinh mạch, khai thông các lỗ chân lông, 8 muôn 4 nghìn lỗ chân lông một khi đã hít thở thu nạp năng lượng vũ trụ, thời bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ đã hội nhập vào bộ máy Đại Thiên vũ trụ, thu hút sức mạnh vũ trụ chuyển thành sức mạnh của mình.



Phát huy sức mạnh của một Quốc gia không khác gì mấy, 80 triệu dân hay 100 triệu dân, ví như mỗi người dân là mỗi đầu Lông của Tổ Quốc, các thành phần tổ chức Đảng phái, Tôn giáo, Đạo giáo các dân tộc anh em, ví như các huyệt Đạo của Tổ Quốc và sự giao thương với nhau, ví như là các kinh mạch.



Văn Hóa Cội Nguồn chính là năng lượng sống, cả ba mặt, khoa học, Tinh Thần, vật chất, vận hành Văn Hóa Cội Nguồn, lưu chuyển khai thông, thời kinh mạch giao thương liền được thông suốt mở rộng, đời sống xã hội tiến tới đỉnh cao nhanh chóng. Một đất nước như thế, không nói chúng ta cũng hiểu, đất nước ấy không những vững mạnh về vật chất mà mạnh cả Tinh Thần và cả sức mạnh toàn xã hội Tổ Quốc. Đất nước ấy dù có nhỏ, dù ít dân nhưng khó có đất nước nào đánh bại, dù cho đó là cường Quốc dân số hơn gấp mười lần. Đất nước ấy tuy dù ít dân nhưng dân tộc ấy là dân tộc Rồng Tiên thật sự.



Đức ÂU CƠ khi sinh ra nhân loại thể xác con người, thời loài Rồng hủy bỏ thân xác loài Rồng, Linh Hồn Loài Rồng đầu thai vào con người làm chủ bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ trước nhất, còn các loài khác lần lượt đầu thai làm chủ thể xác con người Tiểu Thiên vũ trụ kế theo sau. Một dân tộc mà sức mạnh như Rồng, đẹp như Tiên, thử hỏi thế lực nào chống nổi.



Sức mạnh của một Quốc gia mà chỉ mạnh ở Vua Quan hay của một Đảng phái, thời sức mạnh Quốc gia ấy chỉ là sức mạnh của con người bình thường, không phải sức mạnh của con người đã khai thông huyệt Đạo kinh mạch. Vì vậy sức mạnh của một Quốc gia không chỉ ở Vua Quan hay một Đảng phái thống trị mà là sức mạnh toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị và Văn Hóa Cội Nguồn chính là rường cột tạo lên sức mạnh đó.



Sức mạnh vô tận của con người là dùng Chân khí năng lượng sống vũ trụ khai thông huyệt Đạo kinh mạch, tạo lên sức mạnh Đại Đồng Tổng Thể từ vô hình cho đến hửu hình, từ Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng cho đến Thể Đặc, sức mạnh tìm ẩn của con người đã được phát huy.



Dân giàu nước mạnh, nước mạnh thời trổ Hoa Độc Lập, Hoa Độc Lập bền vững là nhờ đã kế thừa được cái quả truyền thống mỗi ngày mỗi to lên, quả truyền thống mỗi ngày mỗi to lên là nhờ Tinh Hoa Văn Hóa Cội Nguồn làm cho nó phát triển càng lớn mạnh. Lại một lần nữa Thái Tử cho ta thấy bài học Căn Cội của sự thống nhất, bài học phát huy sức mạnh toàn dân, phát huy nội lực tìm ẩn xã hội. Bài học phát huy nội lực toàn dân, đưa con người đưa xã hội tiến đến cảnh giới tối cao, cảnh giới Cực Lạc.



Trở lại vấn đề chính. Thái Tử ngoài Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu tu Thiền luyện khí, còn các giờ khác Thái Tử tu tập hít thở theo lỗ chân lông, đầu tiên thấy hơi khó nhưng sau đó trở thành thói quen, Chân khí theo lỗ chân lông ra vào thông suốt. Thái Tử chỉ cần hít một luồng Chân khí vận dụng toàn thân, tức thời thân hình bốc cao lên khỏi mặt đất ngay. Thái Tử đã biết mình đạt đến đỉnh cao của vũ thuật, quyền pháp, chưởng pháp đỉnh cao của Thiên Tiên, Địa Tiên.



Nhưng con đường tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn còn rất xa, vì còn phải vượt qua cảnh giới tối cao của vô minh. Đây không phải việc làm mà ai ai cũng làm nổi, phải Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi, Đại trí huệ mới vượt qua nổi. Trong cảnh giới tối cao của vô minh, những cảnh giới xuất hiện càng lúc càng kỳ bí, những cảnh tượng khủng khiếp, những cảnh tượng êm đềm mãi hiện ra bất tận, nếu không làm chủ cái thấy nghe hay biết của mình, khởi tâm phân biệt chạy theo sự thấy nghe hay biết, thời tức khắc rơi vào Ma Đạo, Quỉ Đạo ngay, mắc vào bẫy lưới của Ma Vương và Đại Quỉ đã ẩn sâu tận đáy Tâm Hồn của con người, tất cả đều đã hiện ra. Cứ một đoạn đường tiến sâu vào Mật Tạng vũ trụ là mỗi lần Thái Tử đổi phương pháp tu luyện.



Nói về xão nữ Thị Tỳ, vừa đem đồ ăn thức uống rời khỏi cấm cung, thời nghe tiếng nói vọng đến từ rất xa:

Cúc Phương cứ bảy ngày ngươi mới đem đồ ăn thức uống đến vào buổi trưa đúng Ngọ, vì ta sắp sửa nhập Thiền vào cảnh giới Đại Định, không được cho ai tới gần khu rừng cấm nhất là nơi ta đang nhập Định.



Cúc Phương khiếp vía tưởng là mình đang nằm mơ, cứ rờ tai dụi mắt chừng nhìn giõ đồ ăn cùng xe ngựa mới biết là mình không có nằm mơ. Cúc Phương nhìn quanh nhìn quất không thấy Thái Tử đâu cả, đâm ra sợ hãi, hỏi:

Có phải Thái Tử dạy bảo tỳ nữ đó không?



Cúc Phương lại nghe tiếng nói của Thái Tử như con Muỗi vo ve:

Ngươi không thể thấy ta được đâu vì ta đang ngồi trong thiền phòng khu rừng cấm. Thôi ngươi trở về đi, 7 ngày sau ngươi đem đồ ăn thức uống đến theo lời dặn của ta khi nảy.



Cúc Phương nghe xong càng khiếp vía, vì từ đây đến nơi Thái Tử rất xa đến mấy dặm đường, Cúc Phương bổng chuyển sợ hãi thành niềm vui, hay là Thái Tử thành Đạo rồi, có lẽ là thế.



Xão nữ Thị Tỳ Cúc Phương đem việc Thái Tử căn dặn nói lại cho Thần Long Nữ mẹ của Thái Tử cùng Kinh Dương Vương Cha của Thái Tử nghe. Nghe xong Thần Long Nữ, Kinh Dương Vương vô cùng mừng rỡ. Nghĩ con ta Đắc Đạo thật rồi ngũ thông khai mở. Kinh Dương Vương lại nghĩ Con hơn Cha là nhà có phúc, ta tu luyện đã hơn 70 năm cũng không được thế, có lẽ hơn hẳn các Đạo sĩ, tu sĩ của các giáo phái rồi. Thần Long Nữ cũng nghĩ như vậy liền nói, đã Đắc Đạo cao đến thế còn tu luyện nữa để mà làm gì? Kinh Dương Vương hồi tưởng lại lời nói của Thái Tử trước đây thở dài nói.



Hùng Lan sở dĩ dốc sức tu luyện để tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, cái gì là Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng thật quá mơ hồ vời vợi, chưa bao giờ nghe nói, nói chi đến việc nhìn thấy. Thần Long Nữ nghe Kinh Dương Vương nói thế cũng thở dài theo càng lo lắng cho Thái Tử, dặn tỳ Nữ Cúc Phương rằng việc hôm nay ngươi không được nói cho ai biết. Cúc Phương vân dạ rồi lui ra. Địa Tiên lấy Chân khí làm Đạo. Thiên Tiên thời tiến xa hơn nữa, tham thiền quán tưởng hành Đạo. Nói 1 cách dễ hiểu, Địa Tiên chú trọng về Khí. Thiên Tiên chú trọng về Pháp.

*********


Hết phần 5 chương 9 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 1 chương 10.
 
CHƯƠNG 10



PHẦN 1



PHÁP THUẬT THẦN THÔNG.



Tuy Thái Tử biết mình đã đạt đến cảnh giới tối cao vượt trên cả Thiên Tiên và Địa Tiên. Nhưng con đường tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn còn quá xa, vì còn phải vượt qua cảnh giới vô minh của vô lượng kiếp, đầy khó khăn gian truân nguy hiểm. Nếu không hội ngộ Chân Tánh, làm chủ thấy nghe hay biết, hàng phục tâm viên ý Mã, thời dễ mắc vào bẫy lưới của Vô Minh, Ma Vương và Đại Quỉ, rơi vào con đường tà Đạo thời nguy hiểm biết là bao. Theo sự nhận biết của Thái Tử, muốn tiến sâu vào Mật Tạng vũ trụ, thời phải hiểu rõ Duy Thức chủng Tánh, Cội Nguồn của muôn loại pháp thuật Thần Thông, pháp thuật Thần Thông biến hóa, theo căn nguyên của Duy Thức. Duy Thức là cái biết đã khởi tưởng phân biệt. Ý Thức là Thần Chủ của Lực. Lực là chủ của Khí. Khí là chủ của Nước mà Nước là chủ của Đất. Hay nói một cách dễ hiểu.



Duy Thức là do bản thể Linh giác Chân Tánh phân biệt khởi niệm tạo ra. Chân Tánh ví như Nước, Thức Tánh ví như bọt Nước. Duy Thức Tánh bọt Nước sanh ra liền làm chủ Thể Lực mà Thể Lực là chủ của Thể Khí mà Thể Khí là chủ của Thể Lỏng Nước, Nước lại là chủ của Thể Đặc Đất. Sự liên kết của Ngũ Thể.

1: Thể Thức

2: Thể Lực

3: Thể Khí (Hơi)

4: Thể Lỏng (Nước)

5: Thể Đặc (Đất)




Thành một chuổi nhân duyên hệ thống giây chuyền liên kết móc xích cuốn hút vào nhau.



Chỉ cần ý tưởng khởi niệm chuyển động thời Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc bị cuốn hút hoặc phản ép theo ý tưởng ấy ngay. Tất cả mọi suy nghĩ, mọi suy tưởng, mọi suy luận đều gọi là Duy Thức cả, pháp thuật Thần Thông, không ngoài nguyên tắc, Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức luân phiên biến hóa, tạo ra cảnh giới Duy Thức Thần Thông.



Duy Thức Thần Thông, Duy Thức Suy Luận, Duy Thức Suy Tưởng, Duy Thức Khoa Học, Duy Thức thuộc hệ nhận thức, Duy Thức thuộc hệ Vô Thức, Duy Thức thuộc hệ tưởng không phải là tưởng, phi phi tưởng xứ v.v… Nói chung những nhóm hệ Duy Thức này được Thái Tử phát huy khai thác tận dụng rốt ráo.



Duy Thức Thần Thông là loại Duy Thức pháp thuật Thần Thông biến hóa, có một sức mạnh tổng thể nối liền từ vô hình đến hửu hình, từ vô sắc đến hửu sắc, từ vô tướng đến hửu tướng, vô vi chuyển hóa hửu vi. Vì thế ý tưởng đã khai tưởng ra cảnh giới gì thời Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức ứng dụng biến hiện ra cảnh giới ấy, thu hút cuốn hút Lực khí nước đất ứng dụng theo hiện ra cảnh giới đó, gọi là pháp thuật Thần Thông.



Duy Thức Thần Thông là hệ Duy Thức Mật Tạng đa dạng biến hóa khôn lường, không thể nào luận bàn cho hết được, nếu không phải là Phật Trí, Thánh Trí thời khó mà nhận biết được. Chỉ một việc Thái Tử mới khởi tưởng về Thần Thông, thời các hệ Duy Thức khác liền hội nhập vào ý tưởng đó ngay. Giống như ánh sáng nhập vào ánh sáng, không có sự chướng ngại nào cả, hàng vạn hệ Duy Thức hội nhập vào một hệ Duy Thức không chướng ngại gì cả mà chỉ làm tăng thêm uy lực mầu nhiệm biến hóa cho pháp thuật Thần Thông mà thôi. Để hiểu thêm pháp thuật Thần Thông, vô vi chuyển hửu vi, vô hình chuyển hửu hình, sự chuyển vận đó phải qua trung gian, Thể Lực và Chân khí.



Ý Thức khởi tưởng, Duy Thức vô vi, Lực - Khí là Thể Lực vừa vô vi vừa hửu vi, Thể Lỏng, Thể Đặc thuộc hửu vi. Một khi ý Thức khởi tưởng chuyển biến thời Thần Lực Chân Khí cuốn hút chuyển biến theo, thu hút Thể Lỏng, Thể Đặc Nước Đất hiện ra cảnh giới ý tưởng của Duy Thức. Có thể nói cảnh giới ý tưởng vô vi thuộc hình, cảnh giới hửu vi chỉ là cái bóng của ý tưởng Duy Thức mà thôi. Hay nói một cách khác, cảnh giới tâm thức luôn luôn tồn tại trong tâm thức (Hình). Cảnh giới hửu vi chỉ là cái bóng của Hình, đã là cái bóng của Hình, đủ nhân duyên thời nhốm hợp theo nghiệp lực của Hình, hết nhân duyên nghiệp lực thì tan rã, từ Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc trở xuống, còn Duy Thức cảnh Hình không tan hoại nhập vào pháp Tạng Duy Thức, lưu trử tại đây. Nói tốm lại, Linh Hồn cùng thể xác chung một nhịp sống, như bóng với hình, như hình với bóng, nối liền với nhau qua nhịp cầu trung gian Thể Lực và Thể Khí. Một khi Chân Khí Thể Lực cạn kiệt thời Linh Hồn thể xác tách đôi, Hình còn Bóng mất.



Vì vậy Linh Hồn muốn bảo tồn sự trường thọ của thể xác, thời phải tu Thiền luyện khí, người thường Tục không hiểu được điều này nên không chú trọng đến tu Thiền luyện khí, để kéo dài tuổi thọ, người thường Tục Chân Khí và Thần Lực chỉ đủ duy trì sự sống, thông qua lối hít thở theo quán tính tự nhiên bình thường. Nên đối với việc pháp thuật Thần Thông thời rất xa lạ, thật ra pháp thuật Thần Thông luôn luôn tồn tại bên họ, cũng giống như mù không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng thật ra ánh sáng mặt trời ở ngay trên đầu họ, chẳng ảo tưởng xa xôi chút nào.



Thần Lực vũ trụ, Chân Khí vũ trụ không ở đâu xa luôn luôn tồn tại ở sát bên người nhưng ít ai nhận ra giá trị Chân Khí, Thần Lực năng lượng sống vũ trụ, sức mạnh vũ trụ, để rồi thu nạp Chân Khí, Thần Lực vũ trụ làm tăng sức mạnh con người, con người phàm tục vì không nắm bắt được năng lượng sống vô giá ấy, nên phải làm con người thường tục, thân xác nặng nề đầy dẫy bệnh tật, tiếc thay.



Thái Tử là nhà Khoa Học vũ trụ quá hiểu rõ điều này, nên việc tu Thiền luyện khí mau đạt kết quả, kết tụ nhị xác thân nhanh chóng Thần Lực, Chân Khí sung mãn đạt đến cảnh giới Tam Hoa tụ Đỉnh, Ngũ khí triều dâng, nên việc tu luyện thuật xuất Hồn ra khỏi thể xác phàm tục, Linh Hồn Thái Tử giờ đây đã có nhị xác thân, tức là cái Thân Tinh, Khí, Thần, đã kết tụ do tu Thiền luyện khí kết hợp với Tinh Thể của Thái Tử tạo ra.



Trước khi luyện tập pháp thuật xuất hồn Thái Tử ngồi xếp bằng điều hòa Chân Khí. Sau đó thời yên lặng trong cảnh giới Đại Định, rồi khởi tưởng Linh Hồn bay lên ra khỏi xác thân, rồi hạ xuống nhập vào thi thể, cứ thế Thái Tử tập đi tập lại nhiều lần, càng lúc càng thuần thục hơn cho đến khi xuất hồn nhập hồn như ý.



Để mở rộng thêm phạm vi hiểu biết về Thuật xuất hồn, đối với việc xuất hồn rất dễ đối với người tu Thiền luyện khí, nhất là những người tu Thiền luyện khí đã kết tụ nhị xác thân. Còn rất khó khăn đối với người thường tục, vì Linh Hồn người thường tục phần lớn Linh Hồn hoạt động đều nương theo thể lực, con người nương khí hít thở theo tự nhiên quán tính của con người nên khó mà xuất hồn ra khỏi thể xác phàm tục vì bị lệ thuộc vào Thần Lực, Chân Khí của thể xác, bộ máy sống tiểu Thiên vũ trụ. Vì tu Thiền luyện khí nên Linh Hồn Thái Tử không còn phụ thuộc vào Thần Lực Chân Khí sẵn có của thể xác mà còn làm cho thể xác Thần Lực, Chân Khí sung mãn đạt đến cảnh giới Tam Hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều dâng. Lúc này Thái Tử chỉ cần một ý niệm khởi tưởng, tức thời Thần Hồn Thái Tử nhị xác thân ra khỏi thể xác phàm tục ngay. Lúc này nếu có người để ý thời không khỏi kinh ngạc, vì nơi Thiền phòng luôn có mặt hai Thái Tử, một Thái Tử ngồi Thiền, một Thái Tử đang hoạt động như bóng Ma. Thể xác phàm tục từ đây đối với Thái Tử chỉ là một lớp áo da Thái Tử thường mặt mà thôi.



Và cho đến một hôm, Thái Tử liền xuất hồn ra khỏi lớp áo da thể xác phàm tục tưởng mình bay lên không trung nhắm hướng trung Đông, Tây Tây Bắc bay đến dãy núi cao nhất vùng Tây Tạng. Nhị xác thân là thân xác Tinh Khí Thần. (Thần Lực, Chân Khí và Tinh Khí). Thể xác nầy nhẹ, không những giảm đi lực ép của vũ trụ mà còn giảm luôn lực hút của trái Đất, th.ân thể luôn theo ý Linh Hồn muốn nặng thời nặng muốn bay thời bay. Đứng trên đỉnh núi của dãy núi cao nhất, có lẽ nghìn năm không có dấu chân người, có lẽ đây chính là nơi lý tưởng để cho Thái Tử tu luyện pháp thuật Thần Thông.



Thái Tử đứng trên đỉnh núi cao hớp một luồn Chân Khí, tức thời Thái Tử bổng to như người khổng lồ, nếu lúc này có người nhìn thấy họ sẽ khiếp hoảng sợ hãi ngất đi.



Đây nói về thể xác phàm tục Thái Tử vẩn luôn trong tư thế ngồi Thiền, tim vẩn đập máu vẩn lưu thông, vì sao lại có chuyện lạ như thế. Không có gì là chuyện lạ cả, thể xác con người là bộ máy sống, chỉ cần có Chân Khí là nó vẩn sống động bình thường. Thái Tử đã khai thông kinh mạch huyệt Đạo, lại khai thông các lỗ chân lông, lại tập cho bộ máy sống thể xác thu nạp Chân Khí theo lỗ chân lông, bộ máy sống thể xác tự nó hấp thu Chân Khí nên lục phũ ngũ tạng hoạt động bình thường, máu huyết lưu thông nhờ huyệt Đạo kinh mạch thông suốt. Thể xác thường không được thế, khi Linh Hồn rời khỏi thể xác, thời phổi ngừng thở không thu nạp được năng lượng sống Chân Khí vũ trụ, nên lục phũ ngũ tạng ngưng hoạt động theo, thể xác dần dần tan rã. Thể xác Thái Tử như cổ máy thu hút năng lượng sống Chân Khí vô tận, cũng giống như người tài xế đã rời khỏi xe nhưng xe vẩn còn nổ không tắc vì còn đầy đủ nhiên liệu đủ yếu tố để hoạt động.



Nói về Thái Tử ở trên đỉnh núi cao hớp một luồn Chân Khí làm cho Chân tướng trở nên to lớn dị thường. Pháp thuật Thần Thông là pháp thuật do Duy Thức ứng dụng năm nguyên tắc để biến hóa là Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức để biến hóa. Thức sắc, thức thọ, thức hành, thức biến hay nói một cách dễ hiểu, sắc thức, thọ thức, tưởng thức, hành thức và ý thức. Khởi dụng Thần Thông biến hóa, nếu không phải mắt Phật mắt Thánh thì không thấy nổi. Muốn biến thành cọp hay biến mình thành cọp trước tiên Thái Tử hình dung con cọp (Thọ) rồi khởi tưởng ra con cọp (Tưởng) hiện rõ màu sắc móng vuốt mắt mũi (Sắc) con cọp đang sống động (Hành) sau cùng là ý thức khởi động con cọp tự nhận thức ra mình là cọp (Thức biến). Cuộc hành trình pháp thuật Thần Thông như sau. Trước tiên Thái Tử hình dung con cọp, đó là sự hình dung tổng quát chưa rõ nét (Thọ Thức) thức thứ 2 liền xuất hiện. Khởi tưởng hình con cọp rõ nét hơn (Tưởng Thức) thức thứ 3 liền xuất hiện làm cho con cọp lộ rõ màu sắc đến rõ nét hoàn hảo (Sắc Thức) thức thứ 4 xuất hiện làm cho con cọp sống động (Thức Hành). Sau cùng là thức, thức thứ 5 ý thức tự nhận thức ra mình và chuyển động toàn thân theo ý muốn, tức thời thân hình Thái Tử biến mất thay vào đó là một hình thể con cọp. Để hiểu thêm về pháp thuật Thần Thông, ví như người làm bánh, có bột mới làm bánh, không có bột muốn làm bánh cũng không làm đươc, bột làm bánh ở đây là nói đến Tinh Khí Thần, người thường cũng có Duy Thức, khởi ra sắc thọ tưởng thành thức, đó chỉ là cái khuôn trống rổng, vì thiếu bột để thành bánh. Thái Tử thời lại khác có cả khuôn lẫn bột đầy đủ chỉ cần người thợ khéo tay sẽ làm ra đủ dạng hình của bánh.



Thái Tử tu luyện thuật biến hóa chỉ trong chốc lác đã thành thục. Thái Tử chỉ khởi tưởng ra hình con cọp to lớn, tưởng mình là cọp đang vồ lấy con mồi, tức thời một lằn chớp nổi lên, Thái Tử biến đâu mất, một con cọp xuất hiện ngay sau đó, chạy nhãy một hồi, con cọp lắng yên tâm trí trở lại, hồi tưởng về mình là Thái Tử, con cọp tức thời rùng mình biến mất hiện nguyên hình là Thái Tử. Cứ như thế Thái Tử tu luyện tập đi tập lại Thần Thông biến hóa từ chậm cho đến nhanh, chỉ cần khởi tưởng liền biến hóa được ngay. Đúng là ý đã khởi thời thức đã biến ra hình dạng nào, thời Tinh Khí Thần cuốn hút theo hiện ra hình tướng đó.



Để có pháp thuật Thần Thông biến hóa cao hơn, từ biến hóa đơn tiến lên biến hóa phân thân. Thái Tử ngồi yên lặng 2 bàn tay bắt ấn cung Dần khởi tưởng ra năm con cọp lớn, theo phương vị ngũ hành. Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Con màu xám, con màu vàng, con màu đen, con màu trắng, con màu đỏ. Khởi tưởng cho đến khi thấy rõ năm con cọp hiện ra trong tâm thức hết sức sinh động rõ ràng từng bộ phận, sắc lông, miệng mũi, chân cẳng, móng vuốt nhất nhất sinh động rõ ràng. Lúc ấy Thái Tử đã quên mình, và chính mình là năm con cọp, với tư thế sắp vương mình chạy nhảy. Năm con cọp liền hớp một luồng Chân Khí, đồng loạt vương mình tung bay chạy nhảy, tức thời một lằn chớp nổi lên Thái Tử liền biến mất, thay vào đó là năm con cọp to lớn hiện ra, với khí thế hung hảm vô cùng gầm rú chạy nhảy làm vang động cả núi rừng, Chim muôn dã thú kinh hồn khiếp vía, sau một hồi chạy nhảy gầm rú, khí lực hùng hảm dần dần hạ xuống tâm ý trở lại lắng trong, năm con cọp đã nhận thức ra mình là Thái Tử, liền xả ấn rùng mình biến mất hoàn hình trở lại là Thái Tử. Cứ theo phương pháp ấy Thái Tử biến thành năm con cọp, rồi lại hoàn hình trở lại, luyện đi luyện lại mãi, luyện đến xuất thần nhập hóa, vừa khởi tưởng thời năm con cọp đã hiện ra.



Đối với người thường tục cho việc pháp thuật Thần Thông là một sự huyền bí, lắm khi còn cho đó là huyền thoại không thật có. Còn đối với người giác ngộ Chân Tánh thấu rõ Chân Tâm, cũng như người tu Thiền luyện khí, thời pháp thuật Thần Thông là đều có thật, hể dày công tu luyện thời có nó. Đối với người giác ngộ Chân Tánh, thấu rõ Chân Tâm, thời pháp thuật Thần Thông chỉ là trò ảo thuật khoa học mà thôi. Liên kết ý tưởng liên hợp Duy Thức biến hiện tạo ra cảnh giới Duy Thức vô vi, cuốn hút Tinh Khí Thần hiện ra cảnh giới hửu vi, cảnh giới Duy Thức là hình, cảnh giới vật thể là bóng, hình và bóng giống hệt nhau, liên kết giữa hửu và vô, giữa Thức, Lực và Chân Khí Tinh Khí.



Muốn đạt được pháp thuật Thần Thông phải dựa vào cơ sở yếu tố của nó. Thần Lực, Chân Khí, Tinh Khí và ý tưởng của hệ Ngũ Thức, Sắc Thức, Thọ Thức, Tưởng Thức, Hành Thức và ý thức gọi chung năm thức này là Duy Thức Thần Thông, tất cả cảnh giới trong tâm thức là do năm thức này khởi tạo ra cả, người mê lầm tưởng cảnh giới trong tâm, cảnh giới hiện thực trần gian là thật, còn người giác ngộ Chân Tánh thấu rõ Chân Tâm, cảnh giới nhân gian là do Duy Thức Chân Tâm, Chân Tánh vũ trụ tạo ra, tất cả chỉ là ảo thuật không thật. Cũng giống như năm con cọp do Thái Tử biến ra tất cả đều không thật. Thái Tử là bật trí huệ Chánh giác, căn cốt vào hàng thượng đẳng, nên tu Thiền luyện khí chỉ có mấy năm thành tựu kết quả ít ai làm nỗi. Thái Tử nhận định, muốn tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn, thời việc tu Thiền luyện khí rất cần thiết, vì tu Thiền luyện khí trí huệ sẽ khai mở thời coi như đã có ánh sáng soi đường đi đến tận cùng Cội Nguồn vũ trụ, tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn cứu nhân loại thoát khổ. Muốn tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, việc trước tiên là phải khai thông trí tuệ, như người mù đã được sáng mắt, như người điếc đã được thông tai, sau đó mới nói đến vận dụng. Lực, Hùng, Bi, Trí, Nhẫn, Dũng, Chí, Đức. Để vượt qua bao chướng ngại đến nơi đến đích. Đức tính thương người cứu dân độ thế là động lực thôi thúc Thái Tử vượt qua bao gian khổ, khám phá ra bao bí mật vũ trụ làm lợi ích cho cuộc sống con người.



Thái Tử nhận định việc khai thác tài nguyên vũ trụ, trong đó Thần Lực Thể Lực vũ trụ, Chân Khí, Tinh Khí vũ trụ năng lượng sống là quí hiếm hơn cả. Thái Tử không phải là nhà Đạo sĩ, Tu sĩ mà là nhà khoa học vũ trụ, tìm con đường cứu thế, đưa xã hội nhân loại đến đỉnh cao của sự văn minh Tinh Thần lẫn vật chất.



Theo Thái Tử một xã hội văn minh không chỉ văn minh Tinh Thần lẫn vật chất mà còn văn minh làm trong sạch môi trường, trong lành không khí. Nếu không phải thế, thời xã hội đó là sự văn minh mở đường cho xã hội bịnh hoạn rác rưỡi, mùi hôi thối độc hại khắp nơi, làm thiệt hại cho dân chúng, cho nhà nước rất lớn. Xã hội văn minh là xã hội tự biết phát huy nội lực sẵn có của mình, biết khai thác tài nguyên năng lượng sống vũ trụ, bồi đắp cho xã hội con người. Theo Thái Tử phát huy Thể Lực con người, đẩy lùi bệnh tật, tăng trưởng trí huệ là cơ bản thăng chốt, thiết yếu nhất.
 
Muốn khai thông trí huệ, Thể Lực con người không chỉ học và hành. Thể Dục Thể Thao luyện quyền múa kiếm mà còn phải tu Thiền luyện khí, khai thông huyệt Đạo kinh mạch, Chân Tâm hướng Thiện, duy trì Chính Nghĩa. Phát huy sức mạnh Tinh Thần Dân Tộc, không có con đường nào khác hơn, là tiếp thu Văn Hóa Cội Nguồn, vận hành Văn Hóa Cội Nguồn lưu chuyển khai thông mọi tần lớp xã hội các Đảng phái, Tôn Giáo, các màu da, chủng tộc, anh em tiến gần tới công bằng văn minh xã hội.



Phát huy sức mạnh phát triển vật chất xã hội không có con đường nào khác hơn là hiểu rõ tài nguyên vũ trụ. Khai thác tài nguyên Thần Lực vũ trụ, tao ra điện năng phục cho xã hội đời sống con người. Trong Thể Lực vũ trụ có Điện Lực vũ trụ. Trong Chân Khí vũ trụ có Dầu Khí vũ trụ. Điện Năng và Dầu Khí là 2 nguồn tài nguyên vô giá sống còn của máy móc, hai nguồn tài nguyên này dồi dào, thời mới làm thay đổi được bộ mặt nghèo nàn của xã hội. Ở thế gian máy móc thực dụng phục vụ con người phục vụ phát triển đời sống xã hội, còn ở Thiên Đàng máy móc thực dụng còn gọi là Bảo Bối. Nói cho cùng máy móc thực dụng thế gian hay máy móc thực dụng Bảo Bối ở Thiên Đàng. Mục đích chung cũng chỉ là để phục vụ cho con người đời sống xã hội mà thôi.



Nói về Thái Tử tu luyện pháp pháp thuật Thần Thông cũng vậy, chỉ cần biết cách khai thác tài nguyên năng lượng sống Thần Lực vũ trụ, Chân khí vũ trụ, thu nạp vào bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ con người, khai thác Duy Thức tâm linh làm nên những điều huyền diệu của pháp thuật Thần Thông. Người thường tục sức mạnh Linh Hồn chỉ dựa vào Thể Lực sẳn có tự nhiên của thể xác bộ máy sống con người nhưng Linh Hồn con người không hiểu thế, lại còn hoan lạc phung phí Tinh - Khí lực con người dẫn đến kiệt huệ tinh khí lực nhanh chóng, làm cho th.ân thể nặng nề yếu ớt đầy bịnh hoạn. Đối với người tu Thiền luyện khí thời thân khẩu ý thường thanh tịnh, như cái lu không bị lủng chảy kín mít, Tinh Lực, Khí Lực, Thần Lực, dồi dào, đạt đến cảnh giới pháp thuật Thần Thông tự tại, nếu người nào biết kiềm chế hoan lạc, giảm bớt đi sự tiêu hao Tinh Lực Khí Lực Thể Lực con người, thời hạnh phúc sẽ đến với họ vì sức khỏe quí hơn vàng, những người chỉ biết ham ăn hố uống không kiêng cữ gì cả, hoan dâm vô độ sẽ làm giảm tuổi thọ, bệnh hoạn lũ lược sanh ra.



Xã hội máy móc chỉ cần dồi dào Điện năng và Dầu khí, làm hạ giá thành xuống thấp nhất, thời đời sống phát triển xã hội đó sẽ làm lên bao điều kỳ diệu. Một xã hội đã văn minh về vật chất, lại thêm văn minh về Tinh Thần, thấu triệt Văn Hóa Cội Nguồn, sự kết hợp phát triển ấy sẽ đem lại bao kết quả kỳ tích đến bất ngờ.



Sức mạnh con người nương vào sức mạnh vũ trụ, sức mạnh vũ trụ được con người khai thác một cách có khoa học. Thái Tử đã làm được việc ấy, sử dụng Duy Thức, ý tưởng biến hiện Thần Thông tài tình ảo diệu.



Cứ giáp tuần Thái Tử lại bay về thành Giang Nam Xích Quỷ khu vườn cấm để nhập xác ăn uống tu Thiền luyện khí vận động cơ thể. Quyền pháp, Chưởng pháp, cho huyệt Đạo kinh mạch khí huyết lưu thông, tiếp nối sự sống cho thể xác phàm tục hết ngày rồi lại đến ngày, Thái Tử lại xuất hồn ra đi đến nơi núi cao không dấu chân người tiếp tục tu luyện pháp thuật Thần Thông, khám phá thêm về bí mật của Duy Thức Thần Thông, hầu thấu rõ tài năng biến hóa của. Chúa Tể Ma Vương và Đại Quỷ, chúng được che đậy bởi cảnh giới vô minh.



Để tiến cao thêm pháp thuật Thần Thông hơn nữa, Thái Tử liền co tay bắc ấn cung Thìn niệm tưởng rùng mình liền hóa ra năm con Rồng to lớn và từ năm con Rồng to lớn mỗi con lại hít một luồn Chân Khí làm chuyển động cả núi non, sau đó thời mỗi con Rồng tự biến hóa ra hàng nghìn hàng trăm con Rồng, với cách biến hóa này thời Quỉ Ma khiếp đảm sợ đến mất hết hồn vía rụng rời chân tay với cách biến hóa này đừng nói Ma Quỉ mà ngay cả Thiên Tiên, Địa Tiên cũng ít người làm nỗi. Trên đỉnh núi cao hàng vạn con Rồng xuất hiện, làm khiếp đảm chim muôn vạn Thú. Thái Tử không những đạt đến cảnh giới tối cao của thuật phân thân, cả thuật phân Tánh chỉ có những bật hiểu ngộ Chân Tánh, làm chủ Chân Tánh mới làm nổi.



Cách tu luyện phân thân, phân tướng, phân tánh, phân ý này là pháp thuật Thần Thông Chí Tôn vô thượng, nếu quên mất mình là ai thời khó mà hoàn hình trở lại, hàng vạn con Rồng sau cơn làm mưa làm gió, Thần Lực Khí Lực đã giảm sút, hàng vạn con Rồng nhận thức ra mình là Thái Tử tức thời hàng vạn con Rồng liền biến mất hiện nguyên hình là Thái Tử. Cứ thế Thái Tử hết tu luyện hóa Cọp rồi tới tu luyện hóa Rồng, hết hóa Rồng rồi đến hóa Công, hóa Phụng, hết loài này sang loài khác và sự tập luyện biến hóa như thế cũng mất cả hàng năm ròng.



Một hôm Thái Tử nhìn cây sanh cổ thụ hàng nghìn nghìn năm, nghĩ ta đã tập phép biến hoa Chim muôn, vạn Thú, con người, Thần Thánh cho đến các loài Ma Quỉ v.v… Ta chỉ dùng ấn thập nhị Địa Chi, ấn tam muội, ấn lưỡng nghi Âm Dương, chứ chưa dùng đến ấn ngũ hành, Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Thế là Thái Tử dùng ấn ngũ hành để tu luyện biến hóa ra đất nước, gió lửa, cảnh quang cây cối, núi sông.



Thái Tử ngồi yên lặng với tư thế tọa thiền, ngón tay giữa ấn vào giữa lòng bàn tay, rồi ngón tay cái ấn chặt đè lên ngón tay giữa, rồi khởi tưởng ra Cội sanh, cành lá sum sê, gốc rễ chằng chịt, giống hệt cây sanh Cổ Thụ trước mắt. Trong Tâm Thái Tử cây sanh Cổ Thụ đã hiện ra nhất nhất rõ ràng, ý thức Thái Tử liền khởi động cây sanh do sắc, thọ, tưởng, hành lập nên lúc Thái Tử nhận thức cây sanh là mình, mình là cây sanh tức thời một lằn chớp nỗi lên Thái Tử biến mất, thay vào đó là một cây sanh to lớn Cổ Thụ đã hiện ra giống hệt cây sanh Cổ Thụ kia, nếu lúc này có người xuất hiện thời không thể nào phân biệt được cây nào thật cây nào giả.



Nói về pháp thuật Thần Thông, thời không phải con người tu luyện mới có mà ngay cả Chim muôn vạn Thú, Ma Quỉ chỉ cần tu Thiền luyện khí lâu năm là có pháp thuật Thần Thông, kể cả các loài cây, cỏ sống hàng nghìn nghìn năm cũng có pháp thuật Thần Thông nhưng không được cao minh lắm.



Thái Tử vốn con người làm chủ bộ máy sống Tiểu Thiên vũ trụ, từ bộ máy sống Tiểu Thiên vũ trụ, tu Thiền luyện khí kết tụ nhị xác thân, Thân Tướng Tiên Thiên, thọ ngan trời đất. Chim muôn vạn Thú các loài Ma Quỉ làm sao sánh được, đầy đủ 32 tướng tốt 80 vẽ đẹp. Nhị xác Thân là thân tướng, vừa vô vi vừa hửu vi, có thể thấy mà cũng có thể không thấy tùy tâm ứng dụng, vì cái thân ấy là cái thân tam bữu Tinh Khí Thần. Thần Lực, Khí Lực và Tinh Khí, cái thân này muốn biến, muốn hiện là đều do Duy Thức tạo ra. Như trên Kinh đã nói Duy Thức Thần Thông là Duy Thức ngũ uẩn biến chuyển, sắc thức, thọ thức, tưởng thức, hành thức, ý thức, năm Duy Thức này đều gọi là tâm thức, năm Duy Thức này đều gọi Duy Thức ảo thuật máy móc tâm linh.



Có thể ví dụ 5 thức này như sau, ví như 5 người thợ vẽ, mỗi người có 1 cái tài khác nhau đồng vẽ 1 con chim. Người thứ nhất vẽ hình con chim. Người thứ hai vẽ lông cánh sắc màu con chim. Người thứ ba vẽ sự cảm giác cái biết của con chim. Người thứ tư vẽ sự động chuyển của con chim và người thứ năm rất quan trọng vẽ ý thức, con chim tự nhận thức ra mình rồi đập cánh bay mất. Hay có thể nói rằng năm nét vẽ chung nhau tạo lập lên con chim như thật, pháp thuật Duy Thức Thần Thông là thế. Con Chim do năm thức tạo nên là Hình, còn Tinh Khí Thần theo hình hiện bóng mà thôi, đó là thể xác hay thể chất của con Chim. Khi hình biến thời bóng theo đó cũng tan theo hình, trở về căn cội của nó.



Thể Lực vũ trụ ngày nay đã được con người khai thác, bằng cách dùng lực nam chân khuấy động Thần Lực vũ trụ thu hút tạo ra hai dòng từ trường điện lực phục vụ máy móc, phục vụ con người.



Người chưa giác ngộ Chân Tánh không bao giờ hiểu được điều nầy, đã khai thác khuấy động Thần Lực vũ trụ, tức là đã động đến bản thể Linh giác của Đức Cha Trời, vì sao lại như thế Vì trên Thần Lực vũ trụ, chính là Linh giác vũ trụ, Linh giác vũ trụ có 2 phần, Trí Thân và Giác Thân. Khi chúng ta khai thác Thần Lực vũ trụ, nói theo nghĩa Đạo, khai thác Thể Lực vũ trụ nói theo nghĩa đời.



Thần Lực vũ trụ hay Thể Lực vũ trụ cũng chỉ là một, thời coi như chúng ta đã động đến Linh giác pháp Thân của Đức Cha Trời. Linh giác pháp thân vũ trụ có tánh thấy nghe hay biết tự nhiên. Khi Linh giác bị khuấy động liền trở thành Linh Thức. Linh Thức nầy sinh ra thời Tánh thấy nghe hay biết của Linh Thức cũng hiện rõ, trong điện lực hiện ra. Để hiểu thêm về Linh giác vũ trụ một khi đã bị khuấy động, liền tạo ra Linh Thức chớ không phải tạo ra ý thức, linh thức trong điện lực không có ý thức.



Người ta chỉ nghĩ vì sao điện năng lại kỳ diệu đến như thế. Phải nói là vô tận của sự kỳ diệu vì họ không hiểu trong Thể Lực vũ trụ, có Linh giác vũ trụ. Thể Lực vũ trụ bị khai thác, bị khuấy động trở thành điện lực. Thời Linh giác của Thể Lực vũ trụ theo đó biến thành Linh Thức của điện, mà Linh Thức của điện chính là Linh giác vũ trụ hiện ra. Linh giác vũ trụ đã biến thành Linh Thức của điện. Đức tính thấy nghe hay biết của Linh Thức Điện Lực cũng không có gì thay đổi so với tính thấy nghe hay biết của Linh giác của Thể Lực, vì cái tính thấy nghe hay biết liên tục không đứt đoạn hay gián đoạn, cái thấy nghe hay biết truyền miên. Vì thể nó sẽ giữ mãi cảnh giới, màu sắc, hình ảnh, khi nó đã tiếp thu sao chép.



Thời nay một số đông người xem ti vi truyền hình, quên lửng hình ảnh sống động như thật hiện ra trong ti vi truyền hình, cứ ngỡ đó là người thật nào hay đâu những hình ảnh sống động đó chỉ là hình ảnh sao chép của Điện mà thôi, như trên đã nói trong Điện có Linh Thức của Điện làm nên sự kỳ diệu đó.



Nói đến cảnh giới trong Linh Thức của Điện thời có 2 phần, Linh Thức vô sắc và Linh Thức hửu sắc. Linh Thức vô sắc là Linh Thức trong sạch. Linh Thức hửu sắc là Linh Thức đã chuyển thành màu sắc, hình ảnh, cảnh quang mà ta đã thường thấy qua màn hình ti vi.



Nhìn Thái Tử đã dùng bốn Đức tính tự nhiên thấy nghe hay biết tạo lập cảnh giới trong tâm thức hiện ra cây sanh Cổ Thụ, nhưng chỉ bốn Đức tính này dù đã liên kết với nhau cũng không thể biến hóa hay sống động như thật được, vì còn thiếu một thức chủ lực chủ chốt nữa, đó là ý thức Thần Hồn của Duy Thức. Trong cảnh giới hình ảnh sống động của Điện chỉ có Linh Thức (sắc - thọ) sắc thức, thọ thức. Còn tưởng thức, hành thức, ý thức chưa có. Hình ảnh trong Điện lực chỉ là hình ảnh sao chép của Linh Thức, sắc thức - thọ thức mà thôi. Chỉ có 2 thức này mà đã làm cho Điện đa năng kỳ bí ảo diệu vô cùng, vì sắc thức - thọ thức, Linh Thức của Điện, còn có nhiều tính khác nữa như tính phân biệt, tính đo lường v.v… Huống chi Linh Hồn con người, chỉ nói đến mỗi chủng tánh, thời có đủ ngũ thức, Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, thời diệu dụng huyền diệu biết đến dường bao, huống chi là cả một hệ thống chủng tánh Thiện, Ác, Mê, Ngộ trong tâm linh của mỗi con người.



Nhưng xưa nay mấy ai làm chủ được tánh Linh của mình đâu, tâm viên ý mã rong ruổi mãi, lúc này lúc nọ, thọ lảnh biết bao nhiêu là sự khổ. Người Đại giác ngộ luôn luôn làm chủ Chân Tánh của mình để làm nên bao nhiêu việc kỳ diệu khám phá vũ trụ chinh phục vũ trụ giang sang máy móc mà Tổ Tiên đã tạo ra. Thái Tử tập Thần Thông biến hóa càng lúc càng cao cường, biến hóa ra núi ra sông hồ ao biển, để đạt đến đỉnh của Thần Thông biến hóa, Thái Tử chuyển sang giai đoạn hô phong hoán vũ, chuyển mình thành giông Bão mưa to gió lớn, sấm sét ầm ầm.



Một hôm trên đỉnh dãy núi cao Trời đang vào hạ, bổng dưng khí Trời lạnh lẽo mây đen xuất hiện phủ kín đầy Trời, cuồng phong mỗi lúc mỗi thêm dữ dội, chuyện lạ ấy là do Thái Tử tạo ra. Hôm ấy Thái Tử tưởng thân hình to lớn đến vài chục dặm và cao lên tận các tần mây, tay tả ấn cung tốn, tay hửu ấn cung đoài. Thái Tử hớp lấy Chân khí vũ trụ, nuốt chửng vô số tần mây, Thái Tử liền tưởng ra một cơn mưa bão, tức thời thân hình to lớn của Thái Tử biến mất thay vào đó là cơn mưa bão lụt lội khủng khiếp sấm sét ầm ầm rung chuyển cả không gian trong phạm vi hơn trăm dặm, cát bay đá chạy, cây cối ngã đổ, núi đồi sụp lở, sức tàn phá của cơn bão lụt khủng khiếp, Chim muôn vạn Thú chết vô số kể, cơn mưa bão kéo dài đến mấy giờ liền sau đó thời tạnh hẳn. Thái Tử đã trở lại nguyên hình.



Thái Tử nhìn thấy cảnh tượng đổ nát xơ xác chết chóc thời giật mình hối hận, đã gây tổn hại đến cỏ cây, sinh linh vạn vật Thái Tử còn nhìn thấy, mước nguồn đổ về khủng khiếp tràn ngập khắp nơi làm thiệt hại con người. Thái Tử nghĩ quả thật Thủy, Hỏa, Phong là tam tai của thế gian. Từ đó Thái Tử không tu luyện pháp thuật biến hóa ra Thủy Hỏa Phong nữa sợ gây tổn hại cho sinh linh muôn loài vạn vật.



Thái Tử giờ đây có thể nói đã trở thành ông Tổ của pháp thuật Thần Thông. Ánh sáng tâm Linh đã xuất hiện, như báo hiệu Mặt Trời trí huệ sắp ra đời. Bọn Ma Vương cùng Đại Quỉ vô cùng khiếp sợ trí huệ Thần Thông của Thái Tử. Chúng rủ nhau lùi dần vào bóng u minh, vì chúng biết Mặt Trời trí huệ sắp xuất hiện.

*********



Hết phần 1 chương 10 mời xem tiếp phần 2 chương 10 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Chỉ có Quốc Tổ mới có sức thần thông trí huệ vô biên phá vỡ Vô Minh nhanh chóng tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, nhưng rất tiếc vì thời đó không có giấy bút cũng như chữ viết để lưu chép kinh văn chỉ truyền miệng cho nhau, dẫn đến tam sao thất bổn dần dần Văn Hóa Cội Nguồn biến mất không còn. Thế mà vẫn kéo dài độc lập 2701 năm, huống chi có kinh văn thời coi như độc lập muôn năm cuộc sống không khác chi trên các cõi trời. Thiên đàng cực lạc trần gian.

Văn Hóa ra đi giờ trở lại

Việt Nam vận hội khắp bốn phương

Địa Long Thánh Địa bừng tỏa sáng

Lạc Hồng Con Cháu dậy mùa xuân.​
 
CHƯƠNG 10



PHẦN 2



NHỮNG PHÚT SUY TƯ



Thái Tử nghỉ pháp thuật Thần Thông chỉ là cảnh giới của Duy Thức biến hóa mà thôi, muốn tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, phải làm chủ Duy Thức làm chủ Chân Tánh vào cảnh giới tự nhiên Chánh Định, tiến tới đỉnh cao nhất của sự giác ngộ, hội nhập bản thể Cội Nguồn, Thức Tánh trở về Chân Tánh, bọt nước trở về bản thể nước, đi thẳng vào cảnh giới vô thức, vô ý, vô trí thấy nghe hay biết tự nhiên không một niệm khởi tưởng vào cảnh giới tự nhiên Chánh giác.



Thái Tử bay về thành Giang Nam nước Xích Quỉ khu vườn cấm, tiếp tục hành trình tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, pháp tạng vũ trụ, cũng như lời dạy của Đức Cha Trời, truyền bá để lại thế gian. Thái Tử đã vượt qua cảnh giới Thiên Tiên, Địa Tiên nhưng Văn Hóa Cội Nguồn còn quá xa. Vì cảnh giới Thiên Tiên chỉ lanh quanh lẩn quẩn trong cảnh giới Duy Thức, huống chi là Địa Tiên.



Địa Tiên chú trọng về luyện khí, Thiên Tiên chú trọng về luyện pháp. Sau 2 giờ vận hành Chân khí, tiếp đến là hít thở bằng các lỗ chân lông, sau đó liền đi vào cảnh giới nhập định, từ đây về sau Thái Tử không xuất hồn ra khỏi thể xác Tiểu Thiên vũ trụ nữa, vì thể xác con người Tiểu Thiên vũ trụ rất quan trọng cho cuộc hội nhập trở về Cội Nguồn. Thái Tử nhập định xong các giác quan đều hướng ngược vào trong.



Có nghĩa là thấy nghe hay biết trong nội thể tiến lần lên thấy nghe hay biết trong nội tâm. Ví dụ: Tai không nghe bên ngoài nữa mà nghe ngược trở vào nội thể nghe tim đập nghe máu huyết lưu thông, sau đó nghe về tánh nghe của mình, sáu Căn vốn thanh tịnh, nên sáu Căn Thức cũng mau chóng đi vào vô thức vào cảnh giới đại định, lục thông liền khai mở tối đa.



Thái Tử liền thấy nhân loại trần gian thật đáng thương, sống mãi trong cảnh sanh già bịnh chết, sum hộp để rồi chia ly, vui thì ít khổ thời nhiều, luân hồi sanh tử, khổ này chưa dứt khổ khác đã chồng lên, khổ về lạc hậu, đói nghèo, khổ về chiến tranh áp bức, khổ về tù đày nô lệ hành hạ dã man, khổ mất tự do, Quyền sống, Quyền được sống, Quyền mưu cầu hạnh phúc, đã bị kẻ quyền thế cướp đi, khi nào cần chúng lại ban cho một ít. Đây Quyền tự do, Quyền sống, Quyền được sống, Quyền mưu cầu hạnh phúc của các nô lệ ngươi đây. Nhưng thật ra chúng có bao giờ trao trả những Quyền mà Tổ Tiên đã ban tặng cho mỗi người đâu, toàn là lời bịp bộm giả dối.



Nhìn thấy cảnh con người làm khổ con người, không những khổ ở thế gian còn khổ sang Địa Ngục, cái khổ triền miên bám lấy con người, bám lấy hồn người, hồn sa địa ngục thời quyền thế còn đâu do ác nghiệp dấy khởi sa đọa vào Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh Có cảm có ứng, ác gieo ác gặt nhìn cảnh Địa Ngục Linh Hồn bị lửa đốt, Kiếm đâm, chết ở ngục này sanh qua ngục khác, cảnh khổ không sao diển tả cho hết được. Nhìn cảnh Linh Hồn bị róc thịt, lột da, nấu dầu, moi tim, rút gân vô cùng thê thảm, những cực hình dã man đau đớn nhất được đem ra sử dụng. Nghỉ mà đau lòng ai cứu lấy họ đây, lớp người trước rơi vào Địa Ngục, lớp người sau tiếp tục sa chân.



Còn cái khổ nào hơn khi đã sa đọa vào kiếp Quỉ, có ai muốn mình trở nên xấu xí như thế, đầu chẽ, mắt lồi, miệng thối, người hôi, những răng nanh trông thật gớm ghiết, mình đầy gai nhọn, d.a thịt xù xì còn hơn da cóc thấy mà phát tởm, phải sống nơi dơ bẩn, như Quỉ Lông Mao, chuyên ăn phân người thây thúi, sống trong cảnh giới tanh hôi, lủi thủi nơi hoang vắng bóng đêm, cô đơn tẻ nhạc hết trăm năm này sang trăm năm khác, cái khổ nào hơn đã sanh vào loài Quỉ.



Loài ngạ Quỉ còn khốn khổ hơn nữa, đầu to như núi cổ nhỏ như kim, nuốt rất khó đói khát truyền miên, đói đến nổi mũi phun ra khói, khác đến nổi miệng tuôn ra lửa ôi còn cái khổ nào hơn. Những thống khổ này không ai tạo ra cho mình cả, mà do chính mình tạo ra, gieo nghiệp ác kết quả phải thọ lảnh quả báo như thế, cũng chỉ vì Lạc Đạo sai đường, không làm chủ được tánh Linh của mình, chạy theo dục vọng đê hèn luôn luôn khởi tâm dấy nghiệp ác, lặn hụp mãi trong biển khổ trầm luân, hết kiếp người rồi tới kiếp Địa Ngục, hết kiếp Địa Ngục lại sanh kiếp Quỉ, hết kiếp Quỉ lại đến kiếp súc sanh, cứ thế lanh quanh lòng vòng khốn khổ mãi.



Thái Tử dùng huệ nhãn soi rọi chốn nhân gian, thấy Thiên Đàng không có đường lên còn Địa Ngục thời muôn vạn lối để đi xuống. Ta xem chốn nhân gian có mấy ai thật sự lo cho Thiên Hạ, đưa Thiên Hạ đến con đường hạnh phúc, mà chỉ tranh giành Thiên Hạ để xưng hùng xưng bá mà thôi. Cứu Thiên Hạ thoát khổ chỉ có con người mở rộng tấm lòng từ bị. Chiến thắng dục vọng đê hèn, chiến thắng tội lỗi, làm chủ Linh Hồn, làm chủ Chân Tánh. Đem ánh sáng Cội Nguồn đến với Thiên Hạ, giải thoát Linh Hồn về Thiên giới, khỏi phải luân hồi Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Kiếp làm Súc Sanh nào có vui gì như đầu thai làm Heo, Gà, Trâu, Bò, Dê, Ngựa, Chó, Mèo v.v… Kiếp bị người xẻ thịt nấu nhừ rán mỡ, nếu sống nơi hoang dã cũng chỉ làm mồi cho Sói, Hổ, Báo mà thôi. Sự vay trả, trả vay không dứt, may nhờ chút phước thiện, mới sanh được làm người. Linh Hồn chuyển kiếp sanh ra làm người rất khó, đã được sanh ra làm người, may mắn không tật nguyền khỏe mạnh, lại có chút trí huệ mà bỏ lở cuộc hướng lành, thời uổng lắm thay. Một phen mất thân người muôn kiếp khó trở lại.



Thái Tử là nhà khoa học Tâm Linh, thấu rõ mọi ngõ ngách huyền bí của Tâm Linh, trở thành nhà tu Thiền nhập Định cừ khôi, không dính mắc hay cảm xúc trước một hoàn cảnh, dù thuận hay nghịch, dù khổ hay vui đang xảy ra. Lúc nào cũng tự tại an nhiên, không khởi tưởng phân biệt chấp trước, luôn ở vào phương tiện khách quan ngoài cuộc. Vì không khởi tưởng phân biệt chấp trước nên lục thông càng lúc càng nhiệm mầu, huệ quang càng lúc càng sáng tỏ. Có thể nói Thái Tử đã đạt đến cảnh giới của bậc Tổ Thiền. Thấy như không thấy, nghe như không nghe, luôn luôn làm chủ Chân Tánh, làm chủ thấy nghe hay biết, không khởi tưởng phân biệt Chánh Định. Lái con thuyền Tâm Linh mỗi lúc mỗi tiến sâu về Cội Nguồn Mật Tạng vũ trụ. Thái Tử nhìn thấy Thiên Đàng, nhìn thấy Địa Ngục, hai cảnh giới trái ngược nhau,. Một cảnh giới Cực Lạc, một cảnh giới cực khổ nhưng Thái Tử không lộ cảm xúc nào cả Cho dù đó là Ma Vương, Đại Quỉ tới làm hại Thái Tử. Không phải Thái Tử là nhà vô cảm mà là nhà khoa học tâm Linh, thấu hiểu Luật Thiền Định. Chỉ cần 1 niệm khởi của tâm Linh thời huệ quang giảm sút ngay không thể nào tiến sâu vào cảnh giới Mật Tạng vũ trụ được nữa. Vì Ma chướng đã khởi lên ngăn chặn.

*********


Hết phần 2 chương 10 mời xem tiếp phần 3 chương 10 Long Hoa Mật Tạng Kinh.







CHƯƠNG 10



PHẦN 3



NIỀM TIN ĐỨC TIN LÀ NỀN TẢN DẨN ĐẾN MỌI SỰ THÀNH CÔNG



Con đường tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn là một việc làm vô cùng khó khăn, phải theo phương pháp độc nhất vô nhị. Biết cách làm phát sanh ngọn lửa ý thức hiểu biết cao phát huệ rồi tiến tới Đại huệ Chánh Đẳng Chánh giác. Điều trước hết là đầy đủ niềm tin Đức tin. Tin mình làm được, tin sự quyết đoán của mình, ý mong cầu giải thoát, giải thoát cho mình, giải thoát cho người, giải thoát cho toàn nhân loại.



Thái Tử sanh ra và lớn lên như bao người phàm tục, nhưng khác hơn phàm tục là lòng thương yêu nhân loại vô bờ bến, lại thêm đầy đủ Niềm tin, Đức tin và tin vào sự quyết đoán của mình. Ý tưởng lý tưởng đã vượt lên trên nhân loại phàm phu, chưa tu mà đã trở thành người Đại Thiện, chưa học Đạo mà giới luật tinh nghiêm. Tấm lòng bao la rộng mở thương yêu nhân loại, như thương yêu chính bản thân mình.



Thái Tử đã hội tụ đủ yếu tố, bản thân, gia đình, xã hội, Đức tin, Chân Thiện và giới Luật tinh nghiêm, nên Thái Tử đã mau chóng trở thành Đức Chí Tôn Quốc Tổ vừa là Đấng cứu thế vừa là nhà lãnh tụ xã hội. Thiên tài cả Đời lẫn Đạo có một không hai trong nhân loại con người. May mắn thay tốt đẹp thay cho con cháu Văn Lang ngày xưa, cho con cháu Việt Nam ngày nay. Vì vậy con cháu Việt Nam muốn đến với Tổ Tiên Cội Nguồn. Trước hết phải đầy đủ Đức tin, niềm tin và tự tin mình sẽ làm được những gì mà ông Cha ta đã làm. Đi theo Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng thời rất dễ, vì Quốc Tổ đã xây cầu đắp lộ cho ta đi. Chúng ta chỉ cần nổ lực cần mẩn làm theo, học theo lời dạy trong Kinh, làm phát sanh ngọn lửa trí huệ, để rồi hội nhập vào Cội Nguồn làm chủ lấy mình, làm chủ xã hội, tiến xa hơn nữa là làm chủ vũ trụ giang sang Tổ Tiên lập lên cho chúng ta.



Thái Tử là Đấng Chí Tôn đầu thai xuống thế. Đức Chí Tôn là con cả của Đức Cha Trời. Theo lịnh của Đức Cha Trời xuống chốn nhân gian sanh vào bụng mẹ, nên đã quên kiếp trước của mình. Không biết mình là ai, tất cả phải làm lại từ đầu, mở đường khai lộ cho chúng ta đi. Nhưng việc mở đường khai lộ gian nan và đầy dẫy khó khăn mà Thái Tử từng bước từng bước hình thành xây dựng lên con đường đó. Mỗi chặn đường là mỗi Tinh Hoa Đạo học xã hội quí hiếm vô cùng. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng là Đạo pháp Chí Tôn vô thượng. Xưa kia thời Thiên Ấn, chỉ truyền cho Quốc Vương kế vị trị quốc an dân. Nhưng thời nay đã khác Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng là của toàn nhân loại, vì tất cả nhân loại đều là con cháu nhà Trời. Thời nay là thời có cả Thiên Ấn lẫn Thiên Bút, giai đoạn cực kỳ quan trọng cho sự tiến hóa Linh Hồn đỉnh cao của nhân loại con người ở vào giai đoạn gần cuối tiểu kiếp thứ 9.

*********

Hết phần 3 chương 10 mời xem tiếp phần 4 chương 10 Long Hoa Mật Tạng. Những gì mà thế hệ nhân loại thừa kế thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Báu vật Long Hoa Mật Tạng, kho tàng tri kiến vũ trụ, những tinh hoa Mật Tạng vi diệu thâm thâm không thể luận bàn cho hết được những người may mắn sự thừa kế và sở hửu bộ kinh nầy. Thời coi như Cha Trời đã chọn lựa vào ngôi Thế Tôn, Chí Tôn. Chuyển đại pháp luân thay Cha Trời cứu nhân độ thế. Đưa nhân loại về trời vào ngôi nhà chung vũ trụ, sống mãi trên Thiên Đàng Cực Lạc.

Chỉ nghe một chữ Mật Kinh

Thăng hoa cuộc sống bước chân về trời

Đời đời kiếp kiếp đời đời

Hết sa địa ngục sang giàu triền miên

Huống chi đọc tụng chép in

Ra thân truyền bá cứu dân độ đời

Cháu con danh rạng sáng ngời

Ông Bà, Cha Mẹ vãn hồi siêu thăng

Chỉ cần tin nhớ một câu

Tai qua nạn khỏi biết bao phước lành

Huống chi đọc tụng thuộc lòng

Phật, Tiên, Thánh, Chúa, Tổ, Thần khó chi.​
 
CHƯƠNG 10



PHẦN 4



GIAI ĐOẠN QUAN TRỌNG HỘI NHẬP CỘI NGUỒN LÊN NGÔI CHÍ TÔN ĐẤNG CỨU THẾ RA ĐỜI



Suốt một thời gian nhập định, Thái Tử thấy rõ Tam Thiên Đại Thiên thế giới, cũng như 18 tần Địa Ngục, như thấy rõ trong lòng bàn tay. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng vẩn chưa hiện ra. Thái Tử còn phải đi thêm một đoạn đường nữa.



Để chuẩn bị cho cuộc hành trình hội nhập Cội Nguồn, Thái Tử đã trở lại ăn uống bình thường, làm tăng thêm thể chất cho xác thân phàm tục. Thật đáng sợ mỗi khi Thái Tử tập luyện thập bát môn võ thuật, chỉ có đôi bàn tay không, đôi lúc lấy cành cây thay cho Kiếm, thế mà khi Thái Tử vung lên kình lực phát ra từ cành cây làm rung chuyển khu rừng cấm, phát khiếp cả người, khiếp đảm cả yêu tinh ma quỉ , ý tới đâu thời thần Kiếm liền tới đó. Thần, Thánh cũng không chống đỡ nổi. Thái Tử từ khi vào Thiền phòng đến nay gần 6 năm, những gì Thái Tử đã đạt. Đó chỉ mới là hành trang chuẩn bị cho cuộc tiến sâu về Cội Nguồn.



Có thể nói Thái Tử giờ đây khác hẳn người thường tục. Vì có nhị xác thân ẩn tàng trong xác Thân phàm tục, tuy hai mà một, tuy một mà hai, nhị xác thân biến thời xác thân phàm tục cũng biến hóa theo. Một hôm Thái Tử tu Thiền luyện khí xong, khởi tưởng ra cảnh giới của Nước. Tức thời thân hình phàm tục của Thái Tử biến mất, thay vào đó là cảnh giới của Nước đã hiện ra trong Thiền phòng.



Vì nhớ thương con Thần Long Nữ Thứ phi Nương Nương Mẫu Hậu Mẹ của Thái Tử, không kiềm chế được lòng thương, liền hỏi Xão Nữ Thị Tỳ Cúc Phương rằng:

Cúc Phương con có gặp Thái Tử không?



Cúc Phương nghe hỏi liền thưa:

Thưa Mẫu Hoàng con chưa từng gặp Thái Tử lần nào nhưng hôm nay con phá lệ quyết tâm để gặp.



Vương phi nghe Cúc Phương nói thế thời mừng rỡ vô cùng, chuyện này không thể cho Kinh Dương Vương nghe được, vì Kinh Dương Vương mà nghe được sẽ quở phạt nặng, có khi còn mất cả mạng, nên bà nói:

Nếu Quốc Vương phát hiện quở phạt thời nói là ta biểu làm như thế. Nếu Thái Tử có quở phạt con cũng nói là ta biểu con làm như vậy.



Cúc Phương nghe Thần Long Nữ Vương Phi Nương Nương nói như vậy nên lấy làm an tâm quyết gặp Thái Tử cho bằng được.



Lòng thôi thúc lại thêm tánh tò mò muốn tìm hiểu Thái Tử dạo này ra sao, tu luyện đạt tới cảnh giới nào, Cúc Phương rất thương Vương phi Nương Nương, coi Vương Phi Nương Nương còn hơn mẹ đẻ của mình nên đành đánh liều một phen, gặp mặt Thái Tử một lần dù chết cũng được.



Cúc Phương nghĩ:

Người gì mà 7 ngày mới ăn uống một lần, có lẽ Thái Tử đã ốm đến nổi xương bọc lấy da, có lẽ giờ đây Thái Tử trông xấu xí lắm, đi đứng hết nổi nữa là khác.



Cúc Phương càng nghĩ càng thở dài:

Đã là Thái Tử thời tiền hô hậu ủng cần gì tu luyện mệt nhọc thế này. Ôi quả là chuyện lạ đời.



Vì muốn gặp mặt Thái Tử nên Cúc Phương tới sớm hơn một ngày không theo thường lệ vào ngày thứ 7 tới sớm hơn một ngày, ngày thứ sáu mà thôi. Vì nghĩ mông lung Cúc Phương đã tới của Thiền phòng lúc nào không hay, Cúc Phương giật mình đứng lại một hồi, nhưng sau đó lên tiếng:

Thưa Thái Tử, Tỳ Nữ cần gặp Thái Tử có chút việc.



Cúc Phương miệng thưa mà tim tưởng chừng như ngừng đập, Cúc Phương thưa đi thưa lại mãi mà Thiền phòng vẩn im phăng phắc, không có một tiếng động, dù cho đó là tiếng động rất nhỏ. Trời không lạnh mà Cúc Phương đã run lập cập.



Cúc Phương nghĩ:

Chuyện gì thế.



Cúc Phương nghĩ:

Hay là ...



Cúc Phương không dám nghĩ thêm nữa. Tuy Cúc Phương đang run lập cập nhưng cũng đánh bạo đẩy cửa bước vào, cánh cửa vừa mở. Cúc Phương đã phải hồn xiêu phách lạc. Vì không thấy Thái Tử đâu mà chỉ thấy phòng toàn là Nước nhưng không tuôn chảy ra ngoài. Cúc Phương lấy tay dụi dụi 2 con mắt, cứ tưởng là mình hoa mắt nhưng không phải đây là sự thật. Cúc Phương liền bước vội vào phòng không thấy ngộp gì cả, lại thêm quần áo vẫn ráo khô. Cúc Phương sợ quá bước vội ra ngoài mặt tái mét không còn chút máu, quên cả đóng cửa.



Đây nói về Mẫu Hậu Mẹ Thái Tử thấy Cúc Phương về mặt mày có vẻ khác lạ, liền hỏi:

Đã gặp Thái Tử chưa?



Cúc Phương lễ phép thưa:

Thưa Vương Phi Tỳ Nữ chưa được gặp, vì Thái Tử bận việc nên không cho gặp.



Nhìn vẽ thất vọng của Vương Phi Nương Nương. Cúc Phương nghĩ tình mẫu tử thiêng liêng có tình nào hơn tình mẹ thương con. Cúc Phương biết ở lại lâu sẽ bị bại lộ. những nghi vấn bí mật mà mình đã thấy, liền xin phép rút lui.



Ngày thứ 7 lại đến Cúc Phương cố nén cơn sợ hải đem đồ ăn thức uống đến cho Thái Tử, đặc vào phòng ăn, rồi ra phòng khách chờ đợi. Đây là việc làm thường xuyên gần 6 năm nay của Cúc Phương nhưng lần này khác hẳn, Cúc Phương hồi hộp vô cùng, đã đến giờ thu dọn. Cúc Phương trở lại phòng ăn với nỗi kinh ngạc, ta có hoa mắt không vì đồ ăn thức uống đã hết sạch. Đây là điều Cúc Phương chưa từng thấy, mới hôm qua ta đã đến đây, tìm kiếm Thái Tử không gặp, lại gặp chuyện kỳ quái nơi Thiền phòng Thái Tử. Hay là hôm qua Thái Tử dạo chơi khu rừng cấm. Có gì mà dạo chứ, khu rừng cấm gần 6 năm nay không người chăm sóc hoang vu sầm uất, phong cảnh đâu còn xinh đẹp như xưa, có lẽ ta đa nghi nghĩ bậy mà thôi. Thái Tử vẩn bình an không có điều gì nhưng việc ta thấy Nước Thiền phòng Thái Tử hết sức Ma quái, việc đó thời sao đây? Hay là Thái Tử đã trở thành. Cúc Phương nghĩ đến đây thời sợ hại tái mét cả mặt mày.



Một tuần nữa lại đến, Cúc Phương vẫn làm cái việc mà mình thường làm, chờ đến giờ thu dọn đĩa bát. Cúc Phương bước vào phòng ăn nhìn thấy đồ ăn thức uống vẩn còn nguyên.



Cúc Phương nghĩ: Có lẽ Thái Tử đã quên mất giờ ăn. Thấy lạ Cúc Phương bằng đánh bạo tới Thiền phòng lên tiếng gọi Thái Tử nhưng chẳng nghe Thái Tử trả lời mà chỉ nghe như là Thái Tử đang ngủ. Cúc Phương hé cửa nhìn vào suýt nữa thì chết ngất, vì Cúc Phương thấy một con Rồng to lớn khoanh tròn đang ngủ. Cúc Phương như muốn quỵ luôn tại chỗ, quên cả dọn đồ ăn thức uống, ba chân bốn cẳng lên xe ngựa trở về cung rồi sanh bịnh, nằm liệt gi.ường mặt mày tái xanh tái mét.



Vương Phi hỏi gì Cúc Phương cũng lắc đầu, cùng lắm là nói Tỳ Nữ không biết gì hết. Thấy chuyện lạ Vương Phi cho mời nội y đến, vị nội y giỏi nhất đương triều. Nội y xem bịnh xong nói. Thưa Vương Phi hầu nữ Cúc Phương không có bệnh chi cả, chỉ vì quá sợ hãi sanh bịnh mà thôi. Nội y cho mấy liều thuốc dưỡng thần, sau mấy ngày dưỡng bệnh Cúc Phương dần dần khỏi hẳn. Suy nghĩ ta chưa một lần nhìn thấy Rồng, chỉ nghe kể mà thôi, nay ta đã thấy được Rồng, ắt sẽ có điềm lành đến với ta. Cúc Phương nghĩ tới đó liền mạnh hẳn không còn bệnh hoạn gì cả, mặt mày sáng sủa tươi lên phơi phới. Cúc Phương nghĩ Thái Tử xưa nay ở khu vườn cấm làm bạn với Rồng. Cúc Phương nhớ lại nghe Vương Phi thường kể gần đây ta nhìn thấy hào quang tỏa sáng nơi khu rừng cấm. Kinh Dương Vương cũng thấy như vậy. Cúc Phương bừng sáng trí lên, hay là Thái Tử chứng quả Đắc Đạo rồi, Cúc Phương nghĩ có thể lắm chứ.



Nói về Kinh Dương Vương đêm đêm nhìn về khu vườn cấm thấy hào quang xuất hiện càng lúc càng sáng, càng rực rỡ, thời biết con mình sắp tìm ra con đường cứu thế. Ban đêm nhìn thấy hào quang, ban ngày nhìn thấy mây ngũ sắc xuất hiện càng lúc càng nhiều. Kinh Dương Vương đang ngắm nhìn mây ngũ sắc, thời nghe tiếng chân người đi đến. Kinh Dương Vương quay đầu nhìn lại thì ra đó là tiếng chân của Vương Phi Nương Nương cùng Cúc Phương. Không hiểu vì sao hôm nay Vương Phi Nương Nương nét mặt rực rỡ như mùa xuân, dưới ánh ban mai, cả Cúc Phương cũng thế. Kinh Dương Vương nhìn 2 người nói có lẽ Đông đã qua Xuân lại đến nên Vương Phi đã hết u sầu.



Vương Phi Nương Nương nói Quốc Vương bệ hạ có khác gì tôi đâu, không bao lâu nữa ta sẽ gặp lại con. Kinh Dương Vương là bật Chân Vương Thánh Đế Tâm Linh sáng suốt minh mẩn vô cùng. Nghe Vương Phi Nương Nương nói thế liền gật đầu nói rằng, đúng thế Trẩm cũng nhận định nói như vậy. Văn Hóa Cội Nguồn nhất định ra đời, ta là Quốc Vương chân chính cai trị vì đất nước, ta muốn được tai nghe mắt thấy một nền Quốc Đạo đưa đất nước lên tầm cao mới ngan tầm xã hội Thiên Đàng Cực Lạc. Dù có chết cũng lấy làm thỏa nguyện, Kinh Dương Vương, Thần Long Mẫu Vương Phi Nương Nương hai người như trẻ lại. Cảnh tương lai đã hiện ra. Cảm ơn Trời Đất đã ban cho đất nước Xích Quỉ Đấng con Trời làm rạng rỡ non sông Tổ Quốc.



Nói về Cúc Phương bớt sợ hãi khi nhìn thấy bao chuyện lạ nhưng giờ đây chuyển sợ thành vui. Bằng đem chuyện thấy nghe nơi Thái Tử ở kể lại cho Kinh Dương Vương cùng Vương Phi Nương Nương nghe xong 2 người lấy làm kinh ngạc lẫn sửng sốt. Hai người không hẹn nhau đồng nói con ta chứng quả Đắc Đạo rồi, Đắc Đạo thật rồi, Thành Công thật rồi. Kinh Dương Vương nói với Cúc Phương những gì ngươi thấy là do pháp thuật Thần Thông biến hóa của Thái Tử mà ra. Kinh Dương Vương dặn dò Cúc Phương, ngươi không nên kể chuyện này cho ai nghe.



Lần này đến khu rừng cấm đem đồ ăn thức uống đến cho Thái Tử, Cúc Phương nghĩ Thái Tử giờ đây có thể thấy trước biết trước mọi việc, mỗi hành động bước chân của ta. Sự suy nghĩ của ta Thái Tử đều thấy rõ cả.



Cúc Phương vừa xuống xe ngựa cách đó hàng vài trăm mét, liền nghe tiếng nói như tiếng chuông ngân vọng ra:

Cúc Phương ngươi đừng sợ, Cha ta nói đúng đấy những gì ngươi nhìn thấy là do ta biến hóa mà ra thôi.



Cúc Phương nghe xong lời Thái Tử liền ớn lạnh nổi da gà. Vì đã minh chứng suy nghĩ của mình là đúng, cuộc nói chuyện cách xa hàng 6 - 7 dặm mà Thái Tử cũng nghe được.



Cúc Phương lại nghe Thái Tử nói tiếp:

Những gì ngươi đối với ta, công lao quả thật to lớn. Từ nay ngày nào ngươi cũng đêm đồ ăn thức uống đến cho ta vào lúc giữa trưa đúng Ngọ.



Cũng như mọi khi sau giờ Ngọ,Cúc Phương vào phòng ăn thu dọn bát đĩa trở về cung thành. Đem việc Thái Tử căn dặn nói lại cho Quốc Vương cùng Vương Phi nghe.



Đây nói về nước Xích Quỹ luôn luôn được Trời ưu đãi, mưa thuận gió hòa, dân chúng luôn luôn được mùa trúng lớn, cảnh thái bình an lạc khắp nơi nơi. Khi ấy xa gần nước Xích Quỹ có nhiều Bộ Tộc nỗi lên rất hùng mạnh, nhất là bên kia phía bờ Bắc. Con cháu của Bàng Nhân Hoàng Đế có ý thôn tính nước Xích Quỹ. Kinh Dương Vương lấy làm lo lắng cho cuộc chiến tranh chống ngoại xâm này, tất cả đều trông chờ vào Thái Tử vì Kinh Dương Vương đã về già. Nay nghe Thái Tử thay đổi sự ăn uống, ngày ăn một bữa, trước đây thời một tuần chỉ ăn có một lần. Nhất là Mẹ Thái Tử hết sức vui mừng nói phải ăn uống cho nhiều mới có đủ sức để mà tu luyện. Vì muốn cho Thái Tử có da có thịt, bằng hối thúc Kinh Dương Vương cho người kiếm những đồ ăn thức uống giàu chất bổ dưỡng.



Cho tới một hôm Kinh Dương Vương, liền cho người vét sữa Bò với những con mập nhất trong đàng. Những con Bò sữa này với chế độ ăn uống đặc biệt, nuôi chúng hết sức công phu. Cỏ non, mật ong và những bông lúa đã ngậm sữa. Sữa được vét từ những con Bò thật khỏe mạnh đem nấu với gạo nếp thơm, pha nước Cốt Linh Chi Nhân Sâm nghìn năm được sắc lọc từ trước nấu thành một bát cháo đặc biệt dành riêng cho Thái Tử.



Nhìn bát cháo nghi ngút hương thơm, Thái Tử đã hiểu đây là bát cháo tốn nhiều công phu tâm huyết. Có lẽ đây là bát cháo quyết định sự sống còn hay tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Thiên Đạo vũ trụ. Quả thật không sai sau khi ăn xong bát cháo, thời toàn thân lừng bừng khí lực cơ thể nhẹ bổng khác thường, bộ máy sống thể xác Tiểu Thiên vũ trụ đã phát huy thần lực đến cực điểm. Không thể để bỏ qua cơ hội này, liền đằng vân giá vũ bay lên không trung nhắm dãy núi cao xa tít bay thẳng tới.



Nói về Cúc Phương ngồi chờ ngoài phòng khách cách đó khoảng chừng 50 mét, nghĩ vẩn nghĩ vơ, chợt thấy Thái Tử từ trong phòng ăn bước ra. Cúc Phương tim đập loạn lên vì đây là lân đầu tiên Cúc Phương nhìn thấy Thái Tử, chỉ còn 50 ngày nữa là 6 năm, không thể tin được, Thái Tử giờ đây trở thành thanh niên khỏe mạnh, vóc người rén chắc cao lớn đẹp như Thiên Thần gián thể. Cúc Phương sít chút nữa thời kêu lên. Thái Tử không để ý gì đến Cúc Phương nhảy lên không trung biến mất. Cúc Phương ngơ ngác nhìn theo, tưởng chừng như trải qua một giấc mơ, đã qua quá giờ Ngọ sang giờ Mùi mà Cúc Phương vẩn còn ngơ ngác. Một cơn gió mạnh vụt qua làm Cúc Phương tỉnh giấc mơ trở về thực tại vào thu dọn bát đĩa trở về cung.
 
Nơi Hoàng Cung Quốc Vương Kinh Dương Vương cùng Vương Phi Nương Nương chăm chỉ lắng nghe Cúc Phương kể lại những gì mà Cúc Phương đã thấy. Kinh Dương Vương nghe xong ra nhiều suy nghĩ. Còn Vương Phi Nương Nương Thần Long Mẫu nói, không lẽ con nó bay về Trời. Kinh Dương Vương làm thinh không nói gì cả.



Đây nói về Thái Tử bay đến đỉnh cao Thượng Nguồn của các con sông lớn, ngồi dưới Cội Cây sanh Hình Rồng. Ngồi xếp bằng tam Thiền nhập Định. Phát Đại Nguyện rằng:



*- Nguyện thứ nhất: Khi ta thành Đạo thời Đạo pháp của trời sẽ tuôn chảy tưới nhuần các Châu Lục. Làm tươi trẻ Linh Hồn nhân loại, trí huệ đều được khai mở, thấu suốt Cội Nguồn vào pháp Đại Đồng Bình Đẳng tự chủ Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc.



*- Nguyện thứ hai: Khi ta thành Đạo nước pháp Chân Lý, Công Lý, Đạo Lý của Trời sẽ biến thành Nước pháp Cam Lộ, cứu khổ cứu nạn làm vơi đi bao nổi đau khổ. Khổ sinh, khổ tử, khổ già, khổ bệnh, khổ chia ly, khổ đói nghèo lạc hậu, khổ nỗi hàm oan, khổ áp bức, khổ nghịch cảnh, khổ tù đày, khổ Địa Ngục, khổ dốt dại ngu si. Biến tất cả những thống khổ ấy trở thành an vui an lạc cuộc đời.



*- Nguyện thứ ba: Khi ta thành Đạo, thời Đạo pháp của Trời Linh ứng vào hàng bật nhất cầu chi đặng nấy. Chỉ cần việc ấy không trái lại lời dạy của Đức Cha Trời Chân Lý, Công Lý, Đạo Lý vũ trụ.



*- Nguyện thứ tư: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời biến thành Chủ Nghĩa Đại Đồng, không phân biệt màu da chủng tộc. Các Đảng phái, tôn giáo, các tần lớp xã hội, giàu nghèo, sang hèn, Ác Thiện, hể có cảm thời có ứng, có công thời có quả. Phàm Thánh cũng như nhau.



*- Nguyện thứ năm: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời thành Đạo Đại Đồng Bình Đẳng, Luật là Thầy, Đạo là Cha, Công Lý Hiến Pháp là Vua. Phàm, Thánh toàn nhân loại, đều đầy đủ các Quyền mà Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu đã ban tặng cho mỗi con người. Như Quyền tự do, Quyền Ngôn Luận, Quyền bình đẳng, Quyền sống, Quyền mưu cầu hạnh phúc, Quyền quyết định vận mệnh của mình. Nhất là Quyền được Hiến pháp, Luật pháp, Đạo pháp, Công Lý cho phép. Còn những Quyền, Hiến pháp, Luật pháp, Đạo pháp, Công Lý không cho phép, đó không gọi là Quyền mà là đi ngược lại lời dạy của Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu.



*- Nguyện thứ sáu: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời sẽ biến thành những món ăn tinh thần, chuyển hóa Căn Thân Huệ Mạng có công năng giãi trừ vô lượng tội ác. Không còn sa đọa Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Sanh về Thiên giới, muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc, Lầu Đài Cung Điện đều theo ý muốn hiện ra. Sống mãi không chết không già không bệnh, không tử.



*- Nguyện thứ bảy: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời trôi chảy không ngừng hết tiểu kiếp này sang tiểu kiếp khác. Lưu chuyển khắp ta bà thế giới, khắp năm châu bốn biển, khắp hư không vũ trụ. Làm lợi ích mãi cho nhân loại con người.



*- Nguyện thứ tám: Khi ta thành Đạo, thời Đạo trời sẽ trở thành Quốc Đạo Chính Nghĩa của mỗi dân tộc, mỗi chủng tộc, mỗi màu da. Từ Địa Ngục, Trần Gian, Thiên Đàng. Đời Đạo là một dung hòa cuộc sống, Đời vì Đạo, Đạo là Đời tuy hai mà một, tuy một mà hai. Như Lửa ánh sáng của Lửa.



*- Nguyện thứ chín: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời biến thành vô lượng quang ánh sáng soi đường cho nhân loại thoát khổ. Anh sáng Chân Lý, ánh sáng Công Lý, ánh sáng Đạo Đức, ánh sáng vật chất khoa học, vũ trụ, ánh sáng khoa học Tâm Linh Duy Thức chủng tánh, ánh sáng Đại Đồng Bình Đẳng, ánh sáng Chính Nghĩa công bằng văn minh, ánh sáng giải thoát Chánh giác, ánh sáng toàn năng toàn giác và còn vô lượng vô biên ánh sáng không thể tính đếm không thể nghĩ bàn soi đường chỉ lối cho nhân loại con người. Thấu suốt quá khứ tột cùng vị lai.



*- Nguyện thứ mười: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời trở thành Đại Đạo vũ trụ, Đạo Chung cho toàn nhân loại. Tam giáo Quy nguyên. Ngũ Chi hiệp nhất. Đồng Ngộ Chân Tánh. Đồng Thành Chánh Giác. Thanh tịnh hư không. Đại Đồng Bình Đẳng.



Thái Tử vừa phát nguyện xong, tức thời từ Địa Ngục, Trần Gian, Thiên Đàng, Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Ba cõi vũ trụ rung mình chấn động dữ dội, bừng sáng lên rực rỡ.



Lúc ấy nơi hư không vũ trụ phát ra tiếng nói khen rằng:

Hi hửu thay, hi hửu thay, hi hửu thay. Cho con lớn của ta, lời nguyện của con sẽ thành hiện thực.



Nói về dưới cùng Địa Ngục, trên khắp các Tầng Trời bổng nhiên rực rở làm kinh động đến chư Thiên, chúng Quỉ Thần. Chư Thiên, Chúng Quỉ Thần tự hỏi với nhau, chuyện gì thế, chuyện gì thế, hào quang chấn động này do đâu mà ra.



Thời giữa hư không bổng nhiên phát ra tiếng nói:

Điềm lạ này từ chốn nhân gian tạo ra. Thái Tử con Quốc Vương KINH DƯƠNG VƯƠNG.



Chư Thiên và chúng Quỉ Thần lấy làm lạ là ai thế. Thái Tử là ai thế mà có uy lực đến dường này, nghe đồn rằng Đức Chí Tôn đã sanh xuống chốn nhân gian, không lẽ tin đồn này là sự thật. Đức Chí Tôn chuyển đại pháp luân, phá tan vô minh, đẩy lùi Ma tánh, Quỉ Tánh ánh sáng Chánh giác xuất hiện ra đời, Mặt Trời Đại Huệ xuất hiện tỏa sáng. Chư Thiên Quỉ Thần quá đỗi hoan hỉ vui mừng hò reo vui sướng.



Nói về Thái Tử ngồi xếp bằng yên lặng bất động dưới Cội sanh hình Rồng ánh sáng Chánh giác mỗi lúc một tỏa sáng, vì bản thể Linh giác đang phản bổn hoàn nguyên. Từ bọt Nước tan biến trở về là Nước. Từ thức Tánh trở về Chân Tánh. Tánh thấy nghe hay biết hướng ngược về chính mình, nghe trong tìm thức, thấy trong Linh Hồn. Thấy nghe hay biết ngược về quá khứ, nhờ an trụ Chánh giác làm chủ Chân Tánh. Quá khứ mỗi lúc một hiện rõ ra, thấy rõ mình ở cõi Long Vân trung Thiên giới xuống thế đầu thai. Ánh sáng Chánh giác càng lúc càng sáng soi tận cùng cảnh giới của vô minh.



Lúc bấy giờ bốn phương tám hướng ở dưới đất, bốn phương tám hướng ở trên không, chúng Ma và Quỉ dữ nghĩ rằng. Chúng ta sống chuyên nhờ vào bóng tối, nhờ vào sự mê muội ngu si của Linh Hồn con người, vô minh bảo bọc che chở cho chúng ta. Nay bóng tối vô minh sắp bị phá vỡ, ngu si mê muội, tối tăm, mờ ám trong Linh Hồn con người cũng dần dần tan biến mất. Thời còn gì Vương Quốc của ta. Ngu si, mê muội, tối tăm, mờ ám là Căn Cội của mọi tội lỗi, chính là Thành trì của Ác Ma và Ác Quỉ. Nay chúng thấy ánh sáng Chánh giác chiếu lên công phá thành trì của chúng.



Thành trì của chúng là vô minh che lấp Chân Tánh con người. Một khi ánh sánh Chánh Đẳng Chánh Giác chiếu lên vầng thái dương Tâm Linh xuất hiện, phá tan sự ngu si, mê muội, mê chấp biến mất. Thay vào đó là ánh sáng Chính Nghĩa, ánh sáng Chân Lý, ánh sáng Công Lý, ánh sáng Đạo Đức, thời chúng không còn chỗ để dung thân. Chúng liền cùng nhau kéo đến không cho Thái Tử thành Đạo. Tức thời u minh kéo đến, mây đen mờ mịt, trên không dưới đất, Ác Ma, Ác Quỉ mỗi lúc một đông, chúng thi nhau phù phép, mưa to gió lớn, sấm sét ầm ầm, mỗi lúc một thêm dữ dội. Đá chạy cát bay núi đồi như muốn sụp đổ.



Cùng lúc ấy Long Thần hộ pháp, Ngũ Long xuất hiện. Trấn giữ ngũ phương ứng dụng vào Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Rồng vàng trấn thủ Trung Ương vây quanh bảo bọc Thái Tử. Rồng Đen trấn giữ hướng Bắc. Rồng Đỏ trấn giữ hướng Nam. Rồng Trắng trấn giữ hướng Tây. Rồng Xanh trấn giữ hướng Đông. Thiên Thần trấn giữ trên không. Địa Thần trấn giữ dưới đất. Mặc sức cho Ác Ma, Ác Quỉ công phá suốt 49 ngày đêm. Sấm sét giông bão ngút trời, mưa to gió lớn gào thét khủng khiếp. Thái Tử vẩn bình yên vô sự.



Nói về dân chúng khắp châu lục bị trận đại hồng thủy do Ác Ma, Ác Quỉ gây ra suốt 49 ngày đêm, thiệt hại mùa màng, chết chóc vô số kể, nước Xích Quỹ cũng không tránh khỏi thiệt hại đó, dân chúng khắp châu lục khiếp hoảng. Thành tâm cầu khẩn với Đấng Trời Cao.



Chúng con lạy Đấng Trời Cao. Người cứu giúp chúng con, chúng con đã quá khổ. Khổ đói khổ rét, khổ đau, khổ bệnh, khổ già, khổ chết, khổ chia ly, khổ chiến tranh, khổ tù đày, khổ lao dịch, khổ sai, khổ nổi oan ức, khổ mất nước nhà tan, ôi biết bao nhiêu là nổi khổ cái khổ này chồng chất lên cái khổ kia. Giờ đây chúng con lại phải hứng chịu bao cái khổ ập đến do mưa bão gây ra. Hỡi trời xanh xin người cứu lấy chúng con, xin người cứu lấy chúng con, xin người cứu lấy chúng con. Lời nguyện cầu nhân loại khắp châu lục vang lên. Tức thời từ trên dãy núi cao thượng nguồn của các con sông lớn chảy về các châu lục. Ba Đạo hào quang rực rỡ phóng lên vũ trụ phát ra tiếng sấm lớn, làm rung chuyển vũ trụ, hiện ra vô số Mặt Trời bóng đêm biến mất. Trời quang mây tạnh, ba Đạo hào quang biến mất vô số Mặt Trời biến theo, Bình Minh tỏa sáng truyền hơi ấm về cho nhân gian mở màng ngày mới.



Thái Tử suốt 49 ngày đêm, làm chủ Chân Tánh, làm chủ thấy nghe hay biết. Thức Tánh trở về Chân Tánh ví như bọt Nước tan biến trở lại là Nước. Duy Thức tánh hội nhập Cội Nguồn, huệ quang Chánh giác càng lúc càn sáng, thành trì Ác Ma, Ác Quỉ như sắp sụp đổ đến nơi. Chúng Ác Ma. Ác Quỉ càng lúc càng khiếp sợ, chúng rủ nhau kéo đến công phá dữ dội phải nói là vô cùng kinh khiếp nữa là khác, nhưng chúng không làm gì nổi. Vì có Long Thần, Ngũ Long trấn giữ Thần Thánh bảo bọc. Huệ Quang Thái Tử sáng tới đâu, thời vô minh biến tan tới đó, hào quang Chánh giác hiện ra vô số Mặt Trời trí huệ thiêu rụi thành trì của chúng.



Cảnh giới Tổng Thể quá khứ vũ trụ vô lượng vô biên. Phật Thánh Tiên đã hội nhập Cội Nguồn. Đại Đồng Tổng Thể quá khứ vũ trụ. Cảnh giới tổng thể hiện tại vô lượng vô biên. Phật Thánh Tiên khắp cùng vô lượng vô biên vũ trụ đang chuyển Đại pháp luân. Cảnh giới tương lai tổng thể vũ trụ đều hiện ra, quá khứ tổng thể vũ trụ nhất nhất đều đã hiện ra. Trong tổng thể Đại Đồng thống nhất bản thể Linh giác tối cao vũ trụ. Tổng thể Đại Đồng Bình Đẳng hiệp nhất thống nhất quá khứ, hiện tại, vị lai vũ trụ đã hiện ra.



Như vậy quyền lực tối cao vũ trụ đã ấn chứng trao quyền cho Thái Tử, chuyển Đại Pháp Luân Ấn Bút đầy đủ. Tức thời ba Đạo hào quang từ Tâm Linh Thái Tử phóng lên hư không, theo tiếng kêu cứu cầu nguyện của nhân loại, theo luật cảm ứng của vũ trụ. Tổng thể toàn năng toàn giác Linh ứng vũ trụ, đã thọ ký kỷ nguyên vũ trụ. Kỷ nguyên vũ trụ Long Hoa ra đời, thừa hành di Chí Tổ Tiên, ban hành Thiên Tạng vũ trụ, Pháp Tạng vũ trụ, Luật Tạng vũ trụ, từ nơi Mật Tạng vũ trụ khai mở tại chốn nhân gian. Thế là Văn Hóa Cội Nguồn vũ trụ ra đời, cách đây năm nghìn năm.



Thái Tử Hùng Lan trở về ngôi vị Chí Tôn, thay mặt cho Đức Cha Trời, truyền bá chủ nghĩa Đại Đồng xuống nhân gian. Đại Đạo vũ trụ. Đưa nhân loại trở về Cội Nguồn qua sông mê đến bờ giác. Ánh sáng Chủ Nghĩa Đại Đồng đã tỏa sáng, Văn Hóa Cội Nguồn ra đời làm chấn động vũ trụ. Mặt Trời Chân Lý. Mặt Trời Công Lý. Mặt Trời Đạo Lý, bừng lên thiêu rụi lòng tà gian của lủ Ác Ma và Ác Quỉ.



Thái Tử đã hội nhập Cội Nguồn ở cương vị Chí Tôn, ở ngôi vị Chánh giác, quyền lực tối cao, quyền năng vô tận. Thay thế Đức Cha Trời chuyển Đại Pháp Luân. Nên sự thấy biết của Chí Tôn Thái Tử là sự thấy biết của bản thể Chân Tánh, vượt xa cái thấy biết của Thức Tánh. Tức là cái thấy biết bản thể của Nước, khác xa sự thấy biết của Bọt Nước.



Do sự thấy biết phát ra từ Chánh Đẳng, Chánh Giác bản thể Cội Nguồn. Nên Thái Tử đã thấy rõ tất cả, quá khứ vũ trụ, hiện tại vũ trụ, vị lai vũ trụ, cũng như tiền kiếp Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa quá khứ. Từ vô thủy quá khứ sanh ra.



Những Linh Căn Linh Hồn chuyển kiếp luân hồi liền quên mất Cội Nguồn trở thành bất giác mê muội u minh. Trải qua vô lượng kiếp tiến hóa, vô lượng kiếp tu luyện, từ bất giác mê muội u minh trở thành Hoàng giác thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Từ bọt Nước hội nhập trở về Nước, Thức Tánh trở thành Chân Tánh lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Đến khi viên mãn Đại Nguyện thời hội nhập Cội Nguồn vào tổng thể Đại Đồng Bình Đẳng ngôi vị tối cao vũ trụ.



Các vị Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, đã hội nhập Cội Nguồn vào tổng thể Đại Đồng Bình Đẳng ngôi vị tối cao vũ trụ. Nếu việc đó cần thiết quan trọng đối với vũ trụ, thời các Ngài từ nơi quá khứ tổng thể Cội Nguồn Chánh Giác sẽ hiện thân ra làm lợi ích cho toàn nhân loại con người.



Sở dĩ Đức Chí Tôn chưa hội nhập Cội Nguồn là vì nguyện lực Độ sanh của Đức Chí Tôn chưa viên mãn trọn vẹn. Đức Chí Tôn đã thề nguyện, khi nào tận Độ hết thảy nhân sinh hội nhâp Cội Nguồn vào ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Thời ta mới hội nhập vào ngôi vị Tổ Tiên. Đấng tối cao. Đấng lập lên vũ trụ cùng con người.



Thái Tử nhìn thấy chốn nhân gian chìm đắm trong u minh khốn khổ. Thiên Đàng không có đường lên, còn Địa Ngục dãy đầy lối xuống, thương thay đáng thương thay. Chốn nhân gian có mấy ai thật sự lo cho Thiên Hạ, mà chỉ tranh giành Thiên Hạ để được lợi lộc mà thôi.



Chỉ có những người giác ngộ, những người thật sự thương dân, mới thật sự cứu dân thoát nạn, mà chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Đại Đạo vũ trụ, mới mong cứu nhân loại thoát khổ. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Đại Đạo vũ trụ cao thâm khó hiểu. Nhất là hoàn cảnh hiện nay, trình độ dân trí còn quá thấp kém, lại thêm đời sống còn quá nghèo hèn lạc hậu. Chữ nghĩa giấy mực chưa tinh vi còn quá lạc hậu thô sơ, không thể nào lưu chép Kinh Luân để lại được.



Vì thế ta phải sanh xuống nhân gian tới ba lần, và lần này chỉ là khai mở nền móng Cội Nguồn, mở màn kỷ nguyên Long Hoa vũ trụ ra đời, để lại Thiên Ấn. Lần hai tái sanh nhân gian ta sẽ để lại cả ẤN lẫn BÚT, thời Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng lưu chuyển ra đời mới có hiệu quả như mong muốn. Lần thứ ba giữa tiểu kiếp thứ 10 Đại hội Long Hoa toàn vũ trụ. Thọ Ký cõi nước Cực Lạc cho những người có công trong Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng theo Di chí Tổ Tiên. Cha Trời, Địa Mẫu.



Theo Thiên Luật vũ trụ, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa sanh xuống chốn nhân gian, thời phải sống theo luật nhân gian. Hôm nay ta vẩn còn Phụ Thân, Phụ Mẫu, Phụ Hoàng Mẫu Hậu thương yêu ta hết mực, mang nặng đẻ đau, nuôi nấng nâng niu, chăm sóc, biết bao khó nhọc. Đạo làm con phải lo báo hiếu, đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục.



Theo Thiên Luật trong các điều khoản báo hiếu, thời khuyên Cha Mẹ làm lành lánh dữ là cao hơn cả. Phục vụ Cha Mẹ ăn ngon, mặt ấm chỉ là bậc tiểu hiếu, khuyên Cha Mẹ làm lành lánh dữ là bậc trung hiếu, truyền Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đạo vũ trụ để cho linh hồn Cha Mẹ về trời hưởng phước đó mới là bậc Đại Hiếu.



Vì thế Đại trung với Tổ Quốc. Đại hiếu với dân là tôn thờ Văn Hóa Cội Nguồn. Truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn cho toàn dân. Chúng ta sinh ra và lớn lên trong sự yêu thương và đùm bọc của cha mẹ. Trong sự che chở của xã hội. Theo Thái Tử, để đền đáp công ơn ấy Không có gì hơn là truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đạo Vũ Trụ cho cha mẹ, cho nhân loại xã hội, thời coi như đã trả được tứ ân. Ân Cha Mẹ, ân Tổ Quốc, ân Thầy, ân Xã Hội.

*********



Hết phần 4 chương 10 mời xem tiếp phần 5 chương 10 Long Hoa Mật Tạng. Bộ Kinh báu vật vũ trụ. Mỗi câu mỗi chữ ẩn tàng bao huyền cơ. Mỗi câu mỗi chữ là chân lý tinh hoa của cuộc sống. Những ai làm theo tu theo thời coi như vận mệnh thay đổi. Ví như cá chép hóa Rồng, không còn là cá Chép nữa.
 
CHƯƠNG 10



PHẦN 5



TIỀN THÂN THÁI TỬ



Thái Tử thấy rõ tiền thân kiếp trước của mình. Đức Chí Tôn Giáo Tổ, Kim Thân của ta hiện nay đang tĩnh tọa ở cung Long Vân, cõi Trời Thiên Vân trong Cữu Trùng Bảo Tháp. Chư Thiên canh phòng nghiêm ngặt.



Thái Tử vốn hiểu rõ việc Chư Thiên sanh xuống chốn nhân gian là điều không ai muốn, dù cho đó là hưởng tột đỉnh vinh hoa phú quí ở nhân gian. Sanh xuống nhân gian đồng nghĩa là sanh vào cõi u minh bể khổ tối tăm mù mịt Địa Ngục trần gian. Sanh xuống nhân gian thời dễ nhưng trở về Thiên Đàng thời rất khó, phải nói là vô cùng khó, có khi còn đọa luôn xuống cõi âm phủ, thời coi như hết đời vì đã lạc vào ba đường khổ. Vì thế Phật Thánh Tiên Thần Chúa phần đông sanh xuống chốn nhân gian thi hành phận sự. Đều cầu nguyện Đức Cha Trời hộ độ.



Những bậc cứu thế. Phần đông thường sanh vào nghịch cảnh, chịu trăm nghìn sự thống khổ, đánh thức tâm Linh hồi âm chuyển ý hướng thiện xa rời tội ác. Rất hiếm Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa sanh ra chốn nhân gian để hưởng vinh hoa phú quí vì hưởng vinh hoa phú quí sẽ dẫn dắt Linh Hồn sa đọa nhanh chóng, ác tâm dấy khởi hết mong về Trời. Hết mong trở về ngôi vị cũ.



Trường hợp Đức Chí Tôn, sanh xuống chốn nhân gian vào Dòng Dõi Quốc Vương mà không bị Danh, Lợi, Quyền thế, Bát phong, xây chuyển, Lục trần lôi kéo là điều hi hữu hiếm thấy trong đời. Cho nên nói, đang hưởng vinh hoa phú quí muốn gì được nấy. Mà chuyển tâm hướng thiện làm lành lánh dữ là điều hiếm thấy. Phải nói những người này phần lớn là các vị Đại Thánh Đại Bồ Tát, ví như Hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Với khoản thời gian quá ngắn nơi chốn nhân gian, Thái Tử phải cố gắng mới hoàn thành nổi theo di chí của Đức Cha Trời,. Để rồi Trở lại Trung Trung Thiên giới.



Theo lời dạy của Đức Cha Trời Long Hoa Lạc Long Quân. Chốn nhân gian tiểu kiếp thứ 9 sắp hết, 16 triệu 800 nghìn năm sắp qua gần đến hồi kết thúc. Chuyển sang tiểu kiếp mới là tiểu kiếp thứ 10. Nếu không xuống trần mở cửa Thiên Đàng lấp đường Địa Ngục, thời nhân loại trần gian khó mà về trời. Lại sa đọa xuống các tần Địa Phủ. Uổng công tu luyện trải qua vô số kiếp 16 triệu 800 nghìn năm.



Gần cuối tiểu kiếp thứ 9 càng về sau nhân loại càng gặp nhiều đại họa hung hiểm do bộ máy huyền cơ xoay chuyển. Động Đất, nước biển dân cao, mưa to gió lớn, nhiệt độ tăng cao, nhiệt độ hạ thấp, nhân loại con người khó mà thoát khỏi kiếp nạn này. Giai đoạn càng về sau càng gần cuối tiểu kiếp, Động Đất diễn biến phức tạp, càng về sau càng mạnh, lan rộng toàn cầu, những thành phố lớn chôn vùi đỗ nát. Nhân loại chạy đâu cho thoát những cảnh chết chóc này. Càng về cuối tiểu kiếp mực nước biển dần dần dâng cao. Làm ngập chìm lần đất đai các châu lục, cọng thêm mưa to bão lớn tàn phá cây cối, mùa màn, lở núi sụp đồi, nhân loại phàm trần làm sao chống đở nỗi đành phải bỏ mạng. Nào phải chỉ có vậy nhiệt độ tăng cao, hạ thấp nhất là những thế kỷ gần cuối tiểu kiếp, nhiệt độ tăng đến nổi con người còn sống sót phải ở lổ ở hang. Hỏa hoạn do sấm sét thường xảy ra khắp nơi cùng khắp châu lục. Nhiệt độ hạ thấp đến nổi nơi đâu cũng toàn băng giá, con người dù thích nghi lần với thời tiết nhưng vẩn có người chịu không nổi đành bỏ mạng.



Nhưng điều đáng nói ở đây, thể xác nhân loại bị hủy diệt do Động Đất, do nước biển dâng cao, do mưa to bão lớn, do thời tiết tăng cao hạ thấp, nhưng Linh Hồn nhân loại sẽ về đâu ? khi Thiên Đàng không có lối lên, còn Địa Ngục thời nhiều lối xuống.



Và vì thế Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần mở ra con đường Đại Lộ đưa Thiên Hạ về Trời. Mà Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Đại Đạo vũ trụ chính là con đường đưa Thiên Hạ nhân loại phàm trần về Trời. Cuối tiểu kiếp thứ 9 chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, nhân loại những ai còn sống sót chu kỳ lặp lại khởi đầu sự Hồng Hoang người tiền sử nguyên thỉ. Rồi sau đó hàng triệu năm chuyển sang giai đoạn Hồng Nguyên rồi đến Hồng Bàng. Giai đoạn Bàng Cổ sơ khai kéo dài hàng triệu năm tiến tới Hồng Bàng xã hội. Sự tiến hóa nhân loại theo chu kỳ ở mỗi tiểu kiếp na ná giống nhau, lặp đi lặp lại mãi. Cũng giống như chu kỳ Xuân Hạ Thu Đông ở năm trước, được lặp lại Xuân Hạ Thu Đông ở năm sau. Sự trùng lặp này là sự trùng lặp theo định luật tự nhiên. Cứ mỗi tiểu kiếp gần kết thúc nhân loại đã trải qua 16 triệu 800 nghìn năm. Tôi luyện tiến hóa Linh Hồn, những Linh Hồn có Đạo có Đức lần lượt sanh về Trời. Còn những Linh Hồn vô Đạo vô Đức sẽ trở về cõi âm phủ. Còn những Linh Hồn Đại ác sẽ đọa vào Địa Ngục. Những Linh Hồn ở cõi âm phủ chờ đủ nhân duyên, đầu thai trở lại nhân gian tiếp tục tu luyện tiến hóa Linh Hồn. Để cứu vớt nhân loại gần cuối tiểu kiếp thứ 9 nên Tam Giáo lần lượt tái xuất nhân gian diều dắt nhơn sanh về Trời. Nếu không có tam giáo Phật, Thánh, Tiên ra đời, thời Linh Hồn nhân loại nhân gian sẽ lạc vào tà Ma ác Đạo, trở thành Ác Quỉ, Ác Ma cùng hung cực ác. Buộc lòng Đức Cha Trời phải tận diệt trí mạng của Ác Ma và Ác Quỉ, nếu không tận diệt thời bộ máy huyền vi vũ trụ sẽ bị Ác Ma Ác Quỉ làm đảo lộn. Đức Chí Tôn là bậc tối cao ở Thiên Giới con cả Đức Cha Trời, làm gương mẫu mở đường xuống thế trước. Cho các đàn em xuống thế sau.



PHẦN THƯA HỎI :



Hỏi: Vì sao cuối tiểu kiếp thứ 9 mực nước Biển lại dâng cao ngập chìm hầu hết các Đồng Bằng Châu Lục?



Đáp: Theo nguyên lý Tiến Hóa vũ trụ, hể có sinh thời có tử, chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Thể lực vũ trụ do bản thể Linh giác vũ trụ tạo ra, hể có sinh thời có tử, từ dạng này chuyển qua dạng khác. Thể Lực cũng vậy, Thể Lực được sanh ra thời phải đến lúc già đến lúc tử, chuyển sang qua dạng khác, giai đoạn khí. Khí già chuyển ra nước ở dạng thể hơi. Nước già sẽ chuyển thành màu mỡ lớp bụi phù sa vũ trụ và bị ép rớt xuống mặt Địa Cầu. Như trên đã nói Thể Lực già chuyển sang thể khí. Thể khí già chuyển sang thể lỏng nước. Như chúng ta đã biết hơi nước và nước là là do nhiệt độ nóng lạnh tạo ra. Gần cuối tiểu kiếp nhiệt độ nóng lanh hạ thấp, tăng cao, làm cho thể lỏng ở lúc dạng hơi, lúc ở dạng nước. Nhiệt độ trên các tần khí quyển hạ xuống thấp, thời các tần lớp ở dạng thể hơi, đều chuyển thành nước rớt hết xuống mặt đất, Làm giảm đi sự kìm hảm bớt sức nóng của Mặt Trời. Thế là dưới mặt trái đất nhiệt độ tăng cao làm cho Băng tuyết băng giá ở hai đầu cực Nam, cực Bắc tan chảy làm tăng thêm mực nước biển. Với hai nguyên do chính trên đã làm cho mực nước biển dân cao làm ngập chìm hầu hết các đồng bằng của các Châu lục.



Hỏi: Vì sao giữa tiểu kiếp thứ 10 mực nước biển cạn lần lộ ra đất đai bằng phẳng rộng lớn?



Đáp: Như chúng ta đã biết hể có sanh ra thời phải có già, có tử, vì thế Thể Lỏng nào có ngoại lệ. Lớp nước gìa ở cuối tiểu kiếp thứ 9 chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, thời bắt đầu thái hóa sự già cỗi, cô đọng chuyển thành phù sa. Sự chuyển hóa ấy có hai lớp, lớp nước già nằm sâu trong lòng đất, Đại Dương và lớp nước già nằm sâu, dưới lớp đáy đại dương, cô đọng chuyển thành phù sa, tạo ra lớp màu mỡ mới cho trái đất. Như chúng ta đã biết Đại Đồng Bình Đẳng là Đạo Luật của Trời, đem chỗ cao lấp xuống chỗ sâu. Cuối tiểu kiếp là những trận mưa khủng khiếp, làm lở núi sụp đồi. cũng như những trận động đất khủng khiếp, làm thay đổi lục địa, Thậm chí tách đôi lục địa ra. Những trận đại Hồng Thủy mang theo đất đá bồi lấp xuống chỗ sâu. Giữa tiểu kiếp thứ 10 Thể Lực chuyển hóa sanh ra Thể Khí (khí thiên tiên) tuổi thọ con người ở vào thời điểm ấy tăng lên 8 muôn 4 nghìn tuổi, con người sanh ra phần nhiều không cần tu thiền luyện khí cũng có Thân Thông. Thể Khí chuyển hóa thành Thể Lỏng tăng lên đỉnh điểm, đã hạn chế sức nóng của Mặt Trời, nhiệt độ Trái Đất ổn định trở lại bình thường, Cực Nam Cực Bắc quả Địa Cầu đóng băng trở lại. Những yếu tố nói trên, làm cho mực nước biển cạn lần đất đai bằng phẳng lộ ra rộng lớn. Cứ thế trải qua hàng triệu năm. Cho đến khi Hỏa Tai nổi lên tiếp nối nhau 3 nghìn năm khắp địa cầu hủy diệt muôn sanh linh cùng vạn vật, trong đó có nhân loại con người. Địa Cầu đất đai không còn bằng phẳng như thời Hồng Hoang, Hồng Nguyên, Hồng Bàng. (xem bộ kinh sau thời Hậu Đế sẽ nói rõ hơn).



Nói tóm lại. Ở kiếp giảm của tiểu khiếp. Nhân loại trần gian trải qua ba lần kiếp nạn hủy diệt.



Kiếp nạn thứ 1 là Thủy Nạn ở cuối tiểu kiếp kéo dài 1 nghìn năm. Chuyển sang tiểu kiếp mới, tiểu kiếp tiếp theo.



Kiếp nạn thứ 2 là Hỏa Nạn ở gần giữa kiếp giảm núi lửa phụt lên chỗ nầy đến chỗ khác, khắp địa cầu kéo dai 3 nghìn năm tạo ra vô số núi non lồi lỗm Đại Cầu không còn bằng phẳng như trước nữa.



Kiếp nạn thứ 3 là Phong Tai tiếp theo ở vào giai đoạn Hồng Đế sau thời Hồng Bàng vài triệu năm kéo dài 2 nghìn năm. Nhân loại sống sót qua kiếp nạn Phong Tai. Trở thành người nguyên thỉ thời ăn lông ở lỗ. Và đến giai đoạn Thủy Tai ở cuối tiểu kiếp. Chuyển qua tiểu kiếp mới. Trở thành người Thỉ Tổ Hồng Hoang.

*********



Hết phần 5 chương 10 mời xem tiếp phần 1 chương 11 Long Hoa Mật Tạng.



HẾT QUYỂN 2.
 
×
Quay lại
Top Bottom