Quyển I: Thanh Đề.
Chương 2:
Từ lúc sinh ra, nàng chưa hề có một ngày sung sướng.
Cha nàng là sĩ tử hàn môn, mẹ nàng là con gái thương hộ. Cha tôn sùng chi, hồ, giả, dã, chê mẹ suốt ngày chỉ có mùi tiền. Mẹ ngày ngày sổ sách bàn tính, bảo cha nàng chỉ là đồ nghèo khổ, không có mẹ nàng thì bây giờ vẫn ở nhà tranh vách đất, viết chữ lên cát, chứ làm gì có sách vở mà dùng.
Nàng biết cha không ưa mình. Mẹ nàng gả vào nhà năm năm mới có một đứa con gái, từ đó chẳng hề mang thai thêm lần nào. Cha nàng cứ khăng khăng bám lấy "bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại" để đòi nạp thiếp, một lần là ba người. Dì hai sinh cho cha một đứa em trai, dì ba sinh cho cha thêm một đứa bé gái, cha chưa bao giờ trách mắng hai đứa, chưa bao giờ để chúng đói ăn, đói mặc. Mẹ nàng cũng chẳng thích thú gì nàng. Năm ấy, bà khó khăn lắm mới có con, không ngờ lại đẻ ra một con vịt trời.
Bà hay bảo nàng: Nếu không có đống của hồi môn kia, có khi vì mày mà địa vị của tao còn kém hơn cả con giặt đồ.
Mười năm đầu đời lớn lên như con hầu đứa ở, nàng đáng ra phải gầy gò ốm yếu, đen đúa xấu xí, ngốc nghếch câm lặng. Chẳng hiểu sao mà càng lớn nàng lại càng xinh đẹp, như đóa hoa mẫu đơn e ấp ôm nhụy, chờ ngày bung nở dưới nắng sớm mai. Năm mười ba, nàng đứng bán ở hàng vải của mẹ, không biết bao nhiêu chàng trai ngắm nhìn nàng; thậm chí có người lén dúi quà vào tay nàng, cho dù chỉ là cái khăn tay hay trâm gỗ.
Cha nàng biết được, đánh nàng một trận thừa sống thiếu chết, bắt con gái phải ở nhà không được ló mặt ra ngoài.
Cha mẹ nàng lại cãi nhau, nàng rúc vào gối, lén lau nước mắt.
Năm nàng mười lăm, sạp vải của mẹ nàng gặp đối thủ cạnh tranh đến từ kinh thành. Mẹ nàng ra ngoài ngày càng nhiều, lúc về nhà là than thở, "Rõ là có quý nhân chống lưng, sao cứ tranh bán vải với dân thường làm chi?" rồi lên gi.ường đi nghỉ. Cha nàng suốt ngày ở bên phòng dì tư, thậm chí chẳng màng gì đến sách vở. Dì hai, dì ba đối xử càng ngày càng tốt với nàng, chăm nàng như con ruột, mua cho nàng váy áo, trang sức, khen nàng xinh đẹp; dì ba là con nhà quan suy bại, còn dạy nàng viết chữ.
Tài chính ngày càng suy sụp, dì hai ton hót với cha để bán nàng cho nhà quyền quý làm thiếp. Nào là lụa son gấm vóc, nào là cáo mệnh phu nhân, không gì không đưa ra nịnh nọt.
Ngày nàng bị đưa đi trên xe ngựa, mẹ nàng đội nắng chạy theo. Nàng quay đầu nhìn lại, thấy người phụ nữ đanh đá lạnh lùng, miệng mồm sắt đá nay mồ hôi đầm đìa, mặt mày đầy nước mắt, gào thét tên con gái. Tiếc là tiền trao cháo múc, nàng đã là vợ của người, không thể quay đầu được nữa.
Nàng lại nhớ đến quá khứ khi gia đình còn sung túc. Mẹ nàng chán ghét nàng, coi nàng như đứa hầu con ở, nhưng chưa từng bạc đãi nàng, cũng chưa bao giờ để nàng phải đói ăn, cho dù có khi bữa cơm của nàng chỉ có nửa bát cơm nguội với khúc cá kho khô lạnh ngắt. Cha nàng chẳng ưa gì nàng, nhưng khi rảnh rỗi mà vui vẻ sẽ ngâm lên cho nàng nghe vài câu trong sách, dạy nàng cầm bút viết tên mình. Dì tư xinh đẹp như những mảng phụng tiên nở rộ trên gấm đỏ, từng là con hát trong đoàn kịch, thỉnh thoảng lại chỉ nàng một vài bài hát, có bài về Giang Nam sông nước mỹ nhân như mây, có bài về kinh thành phồn hoa tự cẩm.
Là quá khứ nàng bỏ lại phía sau.
Từ năm nàng bốn tuổi, đã không quen khóc nữa, bây giờ muốn rơi lệ, bỗng khó khăn biết bao.
Nến hồng lay động, nàng nhìn vị quan lang hơn nàng mười lăm tuổi, cười như mẫu đơn mới nở, rung động lòng người.
Chồng nàng dịu dàng lồng tay vào tóc nàng, gỡ xuống trâm cài lược giắt, tẩy đi son phấn bột màu. Y đút từng chút cháo loãng cho nàng, ôn hòa giới thiệu tên y, dặn nàng ở trong phủ phải cẩn thận, không được đi lung tung, không được tự tiện tới tiền viện. Dặn nàng bây giờ đã là thiếp thất của quan phủ, người ngoài nhìn vào cũng khách sáo gọi di nương, chớ để tay mình lấm bẩn, có gì thì sai sử đứa hầu.
Y vừa nói vừa vuốt tóc nàng, lòng nàng mềm xuống như nước.
Có lẽ nàng sẽ gửi gắm cho y một đời.
Đêm dài quấn quýt, y không hành phòng với nàng, chỉ ôm nàng thật chặt, thì thào: "Nhân Nhân."