Kênh đầu tư mới cho các bạn sinh viên tài chính học hỏi

Tại sao các nhà giao dịch lấy lợi nhuận quá sớm ?

Trong bài học hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu cách một nhà giao dịch lấy lợi nhuận thế nào sau khi thị trường di chuyển có lợi cho họ và một số các khó khăn liên quan đến điều này mà các nhà giao dịch thường gặp phải.
Trước khi đi vào chi tiết để tìm hiểu trailing stop là gì và có bao nhiêu nhà giao dịch vận dụng nó vào chiến lược giao dịch forex, điều đầu tiên quan trọng là bạn cần hiều về tâm lý giao dịch phía sau việc lấy lợi nhuận.


1. Giới thiệu về tâm lý giao dịch
2. Bài học từ những giao dịch thua lỗ
3. Hai sai lầm phá hủy tài khoản của bạn
4. Tại sao các nhà giao dịch lấy lợi nhuận quá sớm ?
5. Sử dụng Trailing Stop
 
Sai lầm phổ biến phá hủy tài khoản của bạn

Trong “Bài học từ những thua lỗ trong giao dịch“ vừa rồi, chúng tôi đã xem xét xã hội ảnh hưởng như thế nào lên cách nhìn của các nhà giao dịch về khía cạnh thành công và thất bại về. Trong bài học ngày hôm nay, chúng ta sẽ xem xét một số những sai lầm phổ biến nhất mà ngay cả những người thông minh cũng mắc phải khi tham gia giao dịch như một thói quen tự nhiên đã ăn sâu vào con người.


giao dịch mà bạn biết chắc là tốt, nhưng thị trường đang di chuyển ngược với xu hướng mà bạn phán đoán.
Có lẽ một trong những ví dụ tốt nhất là những người đã bán NASDAQ trong năm 1999 và đầu năm 2000. Trong thời điểm khá hiển nhiên là giá trị của chỉ số NASDAQ đã được đánh giá quá cao và cùng với sự kỳ vọng của mọi người về việc chỉ số này sẽ tiếp tục tăng trưởng. Đã có nhiều nhà giao dịch tuyệt vời đã nhận ra đó là thời điểm phải bắt đầu bán ra, vào khoảng cuối năm 99. Nếu lật lại biểu đồ, bạn có thể thấy một khối lượng lớn đã được bán ra sau khi chỉ số này đạt mức giá đỉnh điểm vào năm 2000, các nhà giao dịch đã đúng trong phân tích của họ. Tuy nhiên, thật không may cho rất nhiều cổ phiếu khác của họ vẫn tiếp tục chạy lên đáng kể từ các điểm đã được coi là đánh giá quá cao vào cuối năm 99, làm gục ngã nhiều nhà giao dịch, những người mà cuối cùng đã được chứng minh là đúng.
Như chúng ta đã học ở bài học trước, h.am m.uốn mạnh mẽ của con người được luôn đúng sẽ thường xuyên giữ họ ở mãi những giao dịch mà lý ra họ nên thay đổi ngay cả khi thị trường cuối cùng có thể chứng minh họ đúng.
Một vấn đề phổ biến khác là các nhà giao dịch khởi đầu đi theo một chiến lược giao dịch forex nào đó. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, những lần không đạt được lợi nhuận khiến họ trở nên thất vọng và đi trệch hướng với kế ban đầu với mong muốn không bỏ sót cơ hội nào.
Đầu tiên, họ đã thật sự bị thuyết phục bởi hiệu quả đã được chứng minh của chiến lược này. Sau khi thử nghiệm và cân nhắc, họ đi đến quyết định sẽ bám sát chiến lược giao dịch để đi đến thành công. Nhưng rối sau đó, khi nghiêm túc theo kế hoạch đề ra, họ vấp phải những lệnh thua lỗ cũng như bỏ lỡ những đoạn thị trường biến động mà không vào thị trường, họ bắt đầu bị lung lay tinh thần. Thật sự thì bất cứ một chiến lược giao dịch nào cũng phải có những giai đoạn không hoàn hảo cũng như chuyện gặp phải những giao dịch thua lỗ cũng là chuyện bình thường. Như tôi đã từng đề cập trong bài học trước, một chiến lược ít lệnh lỗ chưa chắc là hiệu quả hơn một chiến lược có nhiều lần lỗ, vấn đề quan trọng hơn là bạn cần phải hiểu rõ những đặc điểm của chiến lược, tỉ lệ những lần lời-lỗ cùng với việc vận dụng cách quản lý tiền hợp lý để đạt được lợi nhuận khi tổng kết về lâu dài. Nếu tổng kết về lâu dài mà chiến lược của bạn không hoạt động hiệu quả, lúc đó hãy cân nhắc điểu chỉnh lại kế hoạch của mình. Còn trong mọi yếu tố đã được bạn cân nhắc kỹ và bạn vẫn khẳng định đó là một chiến lược đúng, vậy thì tại sao phải e ngại những lần thua lỗ nho nhỏ (những thua lỗ đã được dự tính cho dù nếu xảy ra cũng vẫn đảm bảo cho hệ thống có lợi nhuận) mà lập tức lung lay tinh thần và thay đổi kế hoạch ? Nếu bạn không kiên định, bạn sẽ rất dễ đi trệch hướng đã vạch ra, và tất nhiên, đường đến thành công cũng sẽ trở nên hết sức khó khăn.
Như vậy, chúng ta đã xem xét hai trong hầu hết những sai lầm phổ biến mà các nhà giao dịch thường mắc phải khi vào thị trường : 1 là giữ mãi một giao dịch cho dù thị trường đã di chuyển ngược chiều phán đoán, và 2 là thay đổi kế hoạch kinh doanh một cách nóng vội với mong muốn không bỏ sót cơ hội nào (cũng như không chấp nhận có một giao dịch thua lỗ nào).
Trong bài học tiếp theo chúng ta sẽ bắt đầu tìm hiểu các chiến lược kinh doanh khác nhau mà có thể được sử dụng để quản lý một giao dịch khi bạn đã vào thị trường, đây cũng là những cách phổ biến mà các nhà giao dịch thường sử dụng để giúp loại bỏ một số hiệu ứng cảm xúc tiêu cực trong quá trình giao dịch của mình.
Các bài học trong phần Làm chủ Tâm lý giao dịch :
1. Giới thiệu về tâm lý giao dịch
2. Bài học từ những giao dịch thua lỗ
3. Hai sai lầm phá hủy tài khoản của bạn
4. Tại sao các nhà giao dịch lấy lợi nhuận quá sớm ?
5. Sử dụng Trailing Stop
 
Cách sử dụng Pivot Point
PHƯƠNG PHÁP BREAKOUT
Pivot Point được sử dụng trước tiên để tìm điểm vào thị trường, nhờ vào các mức Support và Resistance của nó. Những biến động giá mạnh nhất thường xảy ra tại khu vực pivot point.
Chỉ khi giá chạm mức pivot point, bạn sẽ có thể quyết định nên BUY hay SELL, đặt take profit và stop loss tại đâu. Thông thường, nếu giá ở phía trên pivot, đó là khu vực giá lên, nếu nằm dưới pivot, đó là khu vực giá xuống.
Nếu giá quanh quẩn ở khu vực pivot point và đóng cửa dưới pivot, bạn có thể vào lệnh SELL. Bạn nên đặt Stop loss trên Pivot Point ( PP) và take profit tại S1.
Tuy nhiên, nếu bạn thấy giá tiếp tục rơi qua khỏi S1, mà nếu như lúc đó bạn chưa thoát khỏi thị trường, bạn có thể dời Stop loss từ trên PP xuống trên S1 và theo dõi cẩn thận. Thường thì S2 là mức mong muốn thấp nhất trong ngày và bạn nên dùng nó để đặt mục tiêu lợi nhuận cho mình.


Thật nhiều màu sắc sinh động phải không nào ?
Nhìn vào khu vực hình oval màu cam. Chú ý xem đường PP hoạt động như một Support như thế nào, tuy nhiên nếu bạn BUY , bạn đã không thể lấy lợi nhuận tại R1
Bây giờ bạn hãy để ý hình tròn màu tím đầu tiên. Giá phá vỡ qua đường PP nhưng không chạm được đến S1 mà quay ngược lại PP. Trong lần thứ 2 phá vỡ PP (hình tròn màu tím thứ 2) giá mới chạm được vào S1 và sau đó quay trở lại PP.
Ở khu vực hình oval màu hồng, PP tiếp tục hoạt động như một mức Support mạnh, tuy nhiên giá không thể đến được R1
Ở hình tròn màu vàng, giá phá vỡ PP, chạm S1, và sau đó tiếp tục rơi xuống S2.
Như vậy, với biểu đồ như trên, nếu bạn đã cố gắng vào lệnh BUY nào đó, bạn đã phải thoát lệnh và chịu lỗ.
Theo ý kiến cá nhân, chúng tôi sẽ không nghĩ mình sẽ vào lệnh BUY trong những trường hợp trên. Vì sao ư ? Một bí mật nho nhỏ, đó là vì chúng tôi không cho các bạn thấy trên biều đồ này, giá đang trong xu hướng xuống.
Bạn hãy luôn nhớ xu hướng là bạn . Không nên đâm sau lưng bạn mình, vì thế, hãy cố gắng hết sức đừng bao giờ chơi ngược xu hướng.
Trong bài học sau, bạn sẽ học cách sử dụng nhiều khung thời gian cùng lúc để nhận diện chính xác xu hướng, điều này sẽ giúp bạn giảm thiểu sai lầm như trong ví dụ trên.
Tóm tắt bí quyết giao dịch với Pivot Points
Dưới đây là một số gợi ý dễ nhớ sẽ giúp bạn có được những quyết định giao dịch tốt.với Pivot Points :
Nếu giá đang ở PP, chú ý giá sẽ di chuyển đến R1 hoặc S1
Nếu giá tại R1, nó có thể di chuyển đến R2 hoặc quay ngược lại PP
Nếu giá tại S1, nó có thể di chuyển đến S2 hoặc quay lại PP
Nếu giá tại R2, nó có thể di chuyển đến R3 hoặc quay trở lãi R1
Nếu giá tại S2, nó có thể di chuyển đến S3 hoặc quay lại S1
Nếu không có những tin tức quan trọng ảnh hưởng đến thị trường, giá thường di chuyển từ PP đến S1 hoặc R1
Nếu có tin tức quan trọng ảng hưởng thị trường, giá có thể đi qua R1 hay S1 và đến thẳng R2. S2 hoặc R3, S3.
R3 và S3 chỉ ra những mức tối đa mà giá có thể di chuyển đến ( trừ rất ít trường hợp ngoại lệ giá di chuyển mạnh hơn).
Đường Pivot hoạt động tốt trong khi thị trường ít biến động và biên độ dao động trong khu vực giữa R1 và S1.
Khi thị trường trong xu hướng mạnh, giá vượt mạnh qua các mức cản và đi thẳng.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Pivot là gì và cách tính pivot
Pivot Point và các mức support, resistance đi cùng với nó được tính bằng cách sử dụng giá mở cửa, giá cao nhất, giá thấp nhất, giá đóng cửa của phiên giao dịch trước đó. Thị trường Forex là thị trường 24h, và hầu hết các nhà giao dịch sử dụng giờ đóng cửa là 4h chiều ngày hôm trước theo giờ New York ( 4:00pm EST).

Công thức tính Pivot Point như sau :
Pivot point (PP) = (High + Low + Close) / 3
Các mức Support và Resistance được tính theo Pivot Point như sau :
Mức Support và Resistance thứ nhất :
First support (S1) = (2*PP) – High
First resistance (R1) = (2*PP) – Low
Mức Support và Resistance thứ hai :
Second support (S2) = PP – (High – Low)
Second resistance (R2) = PP + (High – Low)
 
Mô hình Long White Candlestick


1) Giới thiệu chung:

– Loại: đảo chiều/tiếp tục xu hướng

– Báo hiệu: tăng giá/giảm giá

– Độ tin cậy: thấp

– Yêu cầu xác nhận: hoàn toàn yêu cầu

– Số nến: 1

(2) Mô tả và tiêu chí nhận diện:

Mô hình Long White Candlestick báo hiệu sức mua mạnh trong thị trường. Nó có thân nến màu trắng hoặc xanh và tương đối dài. Kích cỡ của bóng trên và bóng dưới không quan trọng.


(3) Phân tích tâm lý:

Mô hình Long White Candlestick là chỉ báo về sức mua mạnh. Dạng nến màu trắng hoặc xanh có thân dài ám chỉ rằng giá đóng cửa nằm cao trên giá mở cửa. Long White Candlestick cho thấy giá tăng đáng kể sau khi mở cửa biểu hiện sức mua mạnh và người mua chiếm ưu thế. Các dạng Long White Candlestick nhìn chung là các mô hình tăng giá tuy nhiên cũng phụ thuộc vào bức tranh kỹ thuật chung trên đồ thị. Nó có thể cảnh báo một bước ngoặc hoặc đánh dấu một vùng hỗ trợ trong tương lai sau một đợt giảm giá kéo dài. Tuy nhiên nếu nó xuất hiện sau một đợt tăng giá đáng kể và kéo dài thì có thể báo hiệu sự tăng giá quá mức trong thị trường và cảnh báo giá đã ở những vùng nguy hiểm.Long White Candlestick là mô hình nến đơn có độ tin cậy thấp. Nó chỉ phải ánh giao dịch trong một ngày và có thể báo hiệu sự tiếp tục xu hướng hoặc đảo chiều. Vì thế nó yêu cầu xem xét đến các dạng nến khác để xác nhận xu hướng tốt hơn.

(4) Phân tích kinh nghiệm:Long White Candlestick là dấu hiệu cho thấy người mua chắc chắn chiếm ưu thế trong thị trường, tuy nhiên đây chỉ là dấu hiệu nến đơn độc vì thế độ tin cậy của nó rất thấp. Cơ hội đầu tư từ dạng nến này cũng rất thấp.
 
cái sự tèo tháng 12 là ko tránh khỏi, các bác nhặt hàng không phải vội
biggrin.gif
 
Bài này bữa có xem rồi nè. Mà cả triệu người mới có 1 người thôi bác ah. Em chắc chắn ko nằm trong số đó.
 
Sau đây mình sẽ cập nhật khái niệm 1 số tin kinh tế quan trọng ảnh hưởng đến thị trường Forex mọi người chú ý cập nhật nhé.
 
Doanh số nhà chờ bán (pending home sales index)
Doanh số nhà chờ bán là gì?



Doanh số nhà chờ bán (pending home sales index) là một chỉ số kinh tế dẫn đầu dùng để đo lường hoạt động của thị trường bất động sản. Doanh số nhà chờ bán còn được gọi là doanh số nhà dang dở, khác với doanh số nhà mới xây.

Doanh số nhà chờ bán của Mỹ sẽ do Hiệp hội Các nhà bất động sản Mỹ công bố.

Tầm quan trọng của doanh số nhà chờ bán đối với các nhà đầu tư


Doanh số nhà chờ bán không chỉ cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về nhu cầu nhà ở mà còn hỗ trợ họ nhận biết được diễn biến nền kinh tế. Nhờ vào chỉ số này mà các nhà đầu tư cũng như những người mua nhà sẽ cảm thấy thoải mái hơn và tự tin hơn với năng lực tài chính của bản thân trước khi quyết định mua nhà. Hơn thế, số liệu này có tác động chi phối không nhỏ tới sức khoẻ nền kinh tế, các thị trường vốn và danh mục đầu tư của nhà đầu tư. Thông qua việc theo dõi số liệu kinh tế – doanh số nhà chờ bán, nhà đầu tư có thể tìm ra được phương án đầu tư ít rủi to nhất cho mình và chọn lựa được cách thức quản lý danh mục đầu tư của mình một cách toàn diện hơn.

Sức khoẻ nền kinh tế ảnh hưởng nhiều nhất tới các thị trường tài chính. Kết quả công bố doanh số nhà chờ bán có sức tác động trực tiếp tới thị trường chứng khoán, trái phiếu và hàng hoá. Xem xét ở góc độ sâu sắc hơn, xu hướng của số liệu doanh số nhà chờ bán ẩn chứa thông tin hết sức có giá trị đối với cổ phiếu của các công ty xây dựng, công ty cho vay cầm cố và các công ty kinh doanh đồ nội thất.

Ảnh hưởng của doanh số nhà chờ bán của Mỹ lên đồng USD về mặt lý thuyết

Đối với số liệu về doanh số nhà chờ bán, không có mức giới hạn xác định “sức khỏe” của ngành bất động sản, thay vào đó là so sánh mức độ tăng hay giảm của kết quả kỳ này với kỳ trước (hay kết quả tháng/năm này với kết quả tháng/năm trước đó). Về mặt lý thuyết, doanh số nhà chờ bán với kết quả kỳ này cải thiện hơn so với kỳ trước hay kỳ vọng, thì đồng USD sẽ tăng giá. Ngược lại, doanh số nhà chờ bán giảm hay tiêu cực hơn so với kỳ trước hoặc kỳ vọng, đồng USD sẽ giảm giá.
 
Manufacturing PMI là gì
PMI – Purchasing Managers’s Index – là chỉ số tóm tắt kết quả một cuộc khảo sát doanh nghiệp hàng tháng do Institute of Supply Management của Mỹ tiến hành từ năm 1948. Cuộc khảo sát này đưa ra một số câu hỏi cho purchasing managers của các doanh nghiệp trong mẫu (sample) về tình hình sản xuất kinh doanh của họ trong tháng. Các câu hỏi được thiết kế rất đơn giản chỉ yêu cầu người trả lời chọn một trong ba phương án: tốt hơn, không thay đổi, kém hơn. Kết quả của từng câu hỏi sẽ được tổng kết thành một subindex trong PMI theo công thức là tổng của số phần trăm trả lời tốt hơn cộng với 1/2 số phần trăm trả lời không đổi. Như vậy nếu chỉ số bằng 50 điểm thì hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến câu hỏi đó không đổi so với tháng trước, trên 50 là tốt hơn còn dưới 50 là tệ đi. Một số subindex quan trọng là new orders, output, employment, inventories, input & output price. Các subindex sẽ được tính trung bình trọng số để tạo thành PMI toàn phần.


Hình thức chỉ số như vậy gọi là diffusion index có ưu điểm tránh được sự mơ hồ cho người trả lời nhưng vẫn có tính định lượng rõ ràng. Thêm vào đó, cách thức xây dựng làm cho chỉ số PMI dao động xung quanh mức trung tính 50 điểm mà không cần bất kỳ sự hiệu chỉnh nào, rất phù hợp cho các mô hình kinh tế lượng. Hiện tại chỉ số PMI của Mỹ được xếp ngang hàng với chỉ số NFP (Non-Farm Payroll) về việc làm về mức độ quan trọng và ảnh hưởng vào giá chứng khoán cũng như các hoạt động tài chính khác. PMI của các nước phát triển khác cũng vậy, luôn được giới tài chính và các nhà hoặch định chính sách theo dõi sát sao, là một dữ kiện đầu vào quan trọng cho các quyết định của họ. Trong thời gian gần đây PMI của các nước BRIC, đặc biệt của TQ, càng ngày càng có ảnh hưởng lớn đến thị trường tiền tệ và nguyên liệu thô (commodity) quốc tế.

Hầu như toàn bộ các PMI phát triển sau này đều do Markit Economics quản lý và giữ bản quyền. Công ty này phối hợp với một số tổ chức lớn khảo sát và chuẩn hóa chỉ số PMI của các nước cho hai khu vực kinh tế quan trọng là công nghiệp sản xuất (manufacturing) và dịch vụ (service). Ở những nước phát triển chỉ số PMI cho một tháng được công bố tạm thời vào tuần cuối cùng trong tháng, gọi là flash PMI. Sau khi Markit thu thập đủ số liệu và có những hiệu chỉnh cần thiết, chỉ số PMI cuối cùng sẽ được công bố vào đầu tháng sau. Một đối tác lớn của Markit là ngân hàng HSBC, trong thời gian gần đây đã tiến hành khảo sát và xây dựng PMI cho nhiều nước đang phát triển trong đó có VN.

Hiện tại chỉ số PMI của VN chỉ được xây dựng cho khu vực công nghiệp sản xuất và chỉ công bố một lần (final PMI). Chỉ số này được thu thập từ tháng 4/2011 và chính thức ra mắt ngày 8/5/2012. Vì thời gian thu thập dữ liệu chưa nhiều nên kỹ thuật hiệu chỉnh mùa vụ của PMI VN có thể chưa chuẩn xác. Tuy nhiên đây sẽ là một chỉ số kinh tế rất quan trọng mà bất kỳ nhà kinh tế nào của VN cũng nên biết và theo dõi. Dưới đây các subindex trong PMI của VN do HSBC-Markit khảo sát:

– Output:
– New orders:
– Export new orders:
– Backlogs:
– Stock of Finished Goods
– Employment
– Input price
– Output price
– Suppliers’ delivery times
– Quantity of purchases
– Stock of purchases


Là chỉ số tổng hợp dựa trên 5 chỉ số chính, bao gồm: Các đơn đặt hàng mới, mức hàng tồn kho, tình hình sản xuất, tình trạng giao hàng và môi trường làm việc. Mỗi chỉ số có tỷ trọng khác nhau và được điều chỉnh theo các nhân tố nhất định. Chỉ số được thu thập từ cuộc điều tra của hơn 300 trưởng phòng mua hàng khắp quốc gia trong hơn 20 ngành làm việc khác nhau


PMI sản xuất: Đo lường mức độ hoạt động mua sắm trong lĩnh vực sản xuất, chỉ số này vượt quá 50 là dấu hiệu cho thấy một lĩnh vực trong nền kinh tế được mở rộng. Chỉ số này tăng lên sẽ làm cho đồng tiền quốc gia mạnh lên. Để đưa ra chỉ số này các nhà quản lý đã nghiên cứu rất nhiều chỉ tiêu : việc làm, sản lượng, các đơn hàng mới, các nhà cung cấp, lượng hàng hóa dự trữ. Các nhà thương mại thường rất chú ý đến chỉ số này vì nó ảnh hưởng lớn đến các công ty của họ. Đây là chỉ tiêu có thể chỉ ra sự thay đổi một lĩnh vực trong toàn bộ nền kinh tế.
 
Chỉ số giá tiêu dùng CPI
Chỉ số giá tiêu dùng CPI nói lên điều gì?
CPI là tên viết tắt tiếng Anh của Chỉ số giá tiêu dùng. Trong rất nhiều trường hợp các quốc gia còn dùng CPI như đại diện cho thông số về lạm phát, mặc dù không phải bao giờ cũng đúng, hoặc chỉ phản ánh tương đối.
Giá cả của hàng hoá dịch vụ luôn luôn biến động theo thời gian, tuy nhiên nếu như giá cả thay đổi quá nhanh chóng, nó có thể là một cú sốc đối với nền kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một chỉ số cơ bản đo lường giá cả hàng hoá dịch vụ và cho biết liệu nền kinh tế có bị lạm phát hoặc giảm phát hay không. Chỉ số giả cả thường rất được quan tâm theo dõi và nó đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định tài chính quan trọng như chính sách lãi suất của cục dự trữ liên bang Mỹ hay quyết định tiến hành hedging của các ngân hàng và doanh nghiệp lớn. Cũng rất có lợi cho các nhà đầu tư cá nhân tiến nếu họ tính đến chỉ số CPI khi tiến hành hedging hoặc đưa ra quyết định phân bổ vốn đầu tư.



CPI được hình thành từ các thông tin chi tiêu của hang nghìn hộ gia đình trên toàn quốc. Thông tin được thu thập thông qua phỏng vấn và nhật kí chi tiêu của các đối tượng lựa chọn để nghiên cứu. Rổ hàng hoá dịch vụ được sử dụng để tính bao gồm hơn 200 danh mục, thuộc 8 nhóm: thực phẩm và đồ uống, nhà đất, may mặc, vận tải, chăm sóc sức khoẻ, giải trí, giáo dục và truyền thông, và một số loại hàng hoá dịch vụ khác. Giá cả của khoảng 800.000 hàng hoá dịch vụ trong rổ tính được thu thập hàng tháng từ hàng ngàn các cửa hàng bán lẻ, các nhà cung cấp dịch vụ, các công ty cho thuê nhà đất và các phòng khám sức khoẻ.

Vậy chỉ số CPI mách bảo điều gì?

Các số liệu trên sẽ hình thành lên một bức tranh về sự biến động của chi phí sinh hoạt từ đó giúp các chuyên gia tài chính nhận định được khả năng lạm phát có nguy cơ làm suy sup cả một nền kinh tế nếu ở lạm phát ở mức độ quá cao. cả lạm phát và giảm phát quá mức đều rất đáng sợ mặc dù giảm phát quá mức ít khi xảy ra hơn.

Chúng ta thường nhìn nhận giảm phát và giảm giá là những dấu hiệu tốt. Và thực tế điều này có thể là tốt trong một chừng mực nào đó. Ví dụ giá của dịch vụ điện thoại đã liên tục giảm xuống trong nhiều năm qua và chắc chắn sẽ còn tiếp tục giảm nữa vì internet ngày càng chiếm ưu thế. Và chắc chắn bạn chẳng bao giờ nghe thấy người tiêu dùng nào phàn nàn về điều này. Tuy nhiên giảm phát chắc chắn cũng là một hiện tượng không tốt đối với nền kinh tế. Bằng chứng là cuộc đại suy thoái diễn ra vào những năm 30 khi mà có cả núi người thất nghiệp không có nổi một đồng để mua hàng hoá và dịch vụ cho dù chúng được chào bán với mức giá cực kì hấp dẫn.

Khi giá cả tăng tới mức không thể kiểm soát nổi thì lạm phát trở thành siêu lam phát. điển hình là ở Đức vào những năm 20, lạm phát của Đức trong thời gian này đã có lúc đạt mức 3.25 triệu phần trăm một tháng. Trong suốt chiến tranh thế giới thứ II, Hy Lạp có mức lạm phát 8.55 tỉ phần trăm một tháng, Hungary thì thậm chí còn kinh khủng hơn. Hungary đã cho phát hành giấy bạc mệnh giá 100 triệu Pengo vào năm 1946 nhưng vào thời điểm này tờ giấy bạc này chả có nghĩa gì do đó chính phủ buộc phải định giá lại đồng tiền của nước mình. Giấy bạc 1triệu pengo giờ đây cũng chỉ có giá tương đương với 1 pengo trước kia, và nghiễm nhiên nó trở thành đơn vị tiền tệ thấp nhất. Đưa ra ví dụ này để thấy được cho dù chỉ số CPI có biến động theo chiều nào thì nó vẫn khiến cho nhiều người phải lo sợ.

Có một số hình thức biến động giá cả trong nền kinh tế, như làm giảm phát hoặc thiểu phát(disinflation) hoặc làm tăng lạm phát (reflation). Làm giảm lạm phát là việc làm cho lạm phát chững lại, nhưng vẫn đang trong tình trạng lạm phát. Khi lạm phát xảy ra đối với một nền kinh tế không tăng trưởng, ta gọi đó là lạm phát đình đốn, khiến cho lạm phát càng trở nên nghiêm trọng.

Một số ứng dụng của CPI

CPI thường được sử dụng để điều chỉnh thu nhập của người dân và các hoạt động kinh tế khác. Cục an ninh xã hội Mỹ thường xem xét CPI để đưa ra mức thu nhập phù hợp cho người dân, cấu trúc thuế của cục dự trữ liên bang cũng dựa trên CPI để điều chỉnh mức thuế cho phù hợp, và các ông chủ thì sử dụng CPI để điều chỉnh lương nhân viên cho phù hợp với chi phí sinh hoạt. các thông tin về hoạt động bán lẻ, thu nhập theo giờ và theo tuần, tổng thu nhập và tổng sản phẩm quốc dân được gắn kết với CPI để lý giải các chỉ số có liên quan trong thời kì không có ảnh hưởng của lạm phát.

CPI và thị trường

Thay đổi của giá cả của hàng hoá dịch vụ trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến các chứng khoán có lãi suất cố định. Nếu giá cả tăng, các khoản lãi cố định sẽ có giá trị thực tế thấp hơn và do đó làm giảm mức sinh lợi của các chứng khoán. Lạm phát cũng sẽ gây ảnh hưởng đến các khoản tiền lương, trợ cấp, hưu trí vì chúng là các khoản tiền trả cố định. Những người hưởng lương hưu sẽ phải nhìn đồng tiền của họ “biến mất” dần dần vì giảm sức mua theo thời gian.

Biến động giá cả có thể ảnh hưởng xấu đến các công ty. Người ta thường kì vọng mức độ lạm phát nhẹ trong nền kinh tế đang tăng trưởng, tuy nhiên nếu giá cả của các yếu tố đầu vào tăng quá nhanh các nhà sản xuất sẽ bị giảm lợi nhuận. Mặt khác giảm phát chắc chắn sẽ dẫn tới giảm mức cầu của người tiêu dùng. Trong trường hợp này các nhà sản xuất buộc phải giảm giá để bán được hàng, tuy nhiên giá cả các yếu tố đầu vào có thể không giảm một lượng tương ứng. Vì thế biên lợi nhuận của nhà sản xuất cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Tự bảo vệ mình trước tác động của lạm phát.

Tuy nhiên do thị trường ngày càng được hoàn thiện hơn nên các sản phẩm đầu tư có thể giúp ta đối phó với ảnh hưởng của lạm phát. Các quỹ tương hỗ hoặc các ngân hàng có thể mua các chứng khoán ngăn ngừa lạm phát, còn được gọi là TIPS (inflation-protected securities). Ngoài ra còn có thể sử dụng các hợp đồng tương lai để ngăn ngừa rủi ro. Tương tự nhiều người nắm giữ trong tay những cổ phiếu mà các cổ phiếu này lại trở thành một công cụ hết sức hữu hiệu chống lại lam phát. Đầu tư của các cá nhân trong nhiều trường hợp không chỉ bù đắp được thiệt hại do lạm phát gây ra mà còn đem lại một khoản lãi cho người nắm giữ.

CPI có lẽ là chỉ số quan trọng nhất và được quan tâm chú ý nhất. Nó cũng là chỉ số đo lường sự thay đổi trong chi phí sinh hoạt được biết đến nhiều nhất. CPI được sử dụng để điều chỉnh tiền lương, phúc lợi xã hội, lương hưu, thuế và các chỉ số kinh tế khác nữa. Nó cũng cung cấp cho các nhà đầu tư các thông tin về những biến động có thể xảy ra trên thị trường tài chính_nơi mà cổ phiếu có mối quan hệ cả trực tiếp và gián tiếp đối với CPI. Nắm chắc chỉ số giá cả trong tay, các nhà đầu tư có thể đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp và bảo vệ mình bằng cách mua các công cụ đầu tư như TIPS.



Một trong những tác giả được biết nhiều tới các nghiên cứu lạm phát thành công và sâu sắc là Giáo sư Paul Samuelson. Khi nghiên cứu về thông tin lạm phát, nhà vật lý học vĩ đại Stephen Hawkin có trầm ngâm cho rằng hiện tượng lạm phát phức tạp và có thể xem như một hiện tượng vật lý thì đúng hơn là khoa học xã hội-nhân văn… Còn nói chung thì chúng ta với tư cách là người tiêu dùng luôn lo ngại lạm phát cao dẫn tới mất giá đồng tiền, do sụt giảm sức mua.
 
Báo cáo của FOMC (FOMC Statement)
Ủy ban Thị trường Mở – FOMC là một tổ chức gồm có 7 Thống đốc trong Hội đồng quản trị của Ngân hàng Dự trữ Liên bang và 5 Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang. FOMC thường tổ chức cuộc họp định kỳ 8 lần/năm để thảo luận và đưa ra quyết định về xu hướng ngắn hạn đối với chính sách tiền tệ. Các thay đổi trong chính sách tiền tệ thường được thông báo trong cuộc họp báo ngay sau cuộc họp.
Tầm quan trọng của thông báo lãi suất từ Ủy ban Thị trường Mở – FOMC đối với các nhà đầu tư


Thông báo lãi suất từ FED đưa ra trong cuộc họp với FOMC thường được đánh giá là thông tin có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới các thị trường. Trong các tuần trước thời điểm diễn ra cuộc họp, giới đầu tư cũng như giới kinh doanh thường tranh luận về khả năng thay đổi lãi suất. Sự thay đổi trong bình luận của các quan chức FOMC trong cuộc họp cũng rất quan trọng do nó cung cấp cho nhà đầu tư manh mối chính sách tiền tệ trong thời gian tiếp theo đó. Nếu như kết quả công bố khác với kỳ vọng thị trường trước đó, sẽ gây ra tác động tiêu cực và khó lường tới biến động giá của các thị trường.
Mức lãi suất mà FED đưa ra thường được coi là mức lãi suất chuẩn cho các mức lãi suất khác. Một sự thay đổi trong lãi suất của FED, lãi suất cho vay giữa các ngân hàng, sẽ tác động tới việc sử dụng vốn cho vay phiên tối, tác động trực tiếp tới các mức lãi suất khác nhau từ trái phiếu cho tới lãi suất các khoản cho vay cầm cố.
Mức lãi suất thường tác động tới nền kinh tế. Mức lãi suất cao có xu hướng làm cho nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, ngược lại mức lãi suất thấp hơn sẽ là nhân tố kích thích tốc độ tăng trưởng của hoạt động kinh tế. Nói một cách khác, mức lãi suất tác động tới môi trường kinh doanh. Trong ngành tiêu dùng, số lượng nhà và xe sẽ được tiêu thụ ít hơn khi lãi suất tăng. Hơn thế, mức lãi suất còn tác động trực tiếp tới lợi nhuận tập đoàn.
Ảnh hưởng của thông báo lãi suất từ Ủy ban Thị trường Mở – FOMC lên đồng USD về mặt lý thuyết
Thông thường, khi Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ – FED duy trì quan điểm thắt chặt và chống lạm phát hàng đầu cho triển vọng nền kinh tế, cũng như thực hiện tăng lãi suất cơ bản, thì đồng USD sẽ được hậu thuẫn tăng giá. Ngược lại, nếu như FED tỏ quan điểm quan tâm tới sức tăng trưởng nền kinh tế Mỹ hơn là lạm phát và duy trì mức lãi suất không đổi hay cắt giảm lãi suất, thì đồng USD sẽ chịu sức ép giảm giá.
 
Khai báo thất nghiệp tuần (Unemployment Claims)
Khai báo thất nghiệp tuần là số liệu được tổng hợp và công bố hàng tuần dựa trên thống kê số lượng người nộp hồ sơ yêu cầu được bảo hiểm thất nghiệp lần đầu. Khi khai báo thất nghiệp tăng, cho thấy dấu hiệu thị trường lao động đang suy yếu và ngược lại số liệu này giảm cho thấy thị trường lao động khả quan. Số liệu trung bình của khai báo thất nghiệp tuần được tính trong 4 tuần liên tiếp sẽ cung cấp rõ nét hơn xu hướng của thị trường lao động.



Tầm quan trọng của khai báo thất nghiệp ban đầu hàng tuần đối với nhà đầu tư
Khai báo thất nghiệp tuần là số liệu cơ bản cho các nhà đầu tư tham khảo để đánh giá tình hình của thị trường lao động. Nếu như, khai báo thất nghiệp giảm ít hơn so với kỳ trước, đồng nghĩa với số lượng người lao động có việc làm nhiều hơn và số lượng việc làm được các công ty cung ứng nhiều hơn, cho thấy nhu cầu mở rộng sản xuất cũng như kinh doanh tại các doanh nghiệp đang tăng cao, tương ứng tốc độ phát triển kinh tế cũng khả quan. Mặt khác, nhiều người có việc làm cho thấy thu nhập của cá nhân và của các hộ gia đình sẽ được nâng lên, làm tăng sức chi tiêu tiêu dùng, hỗ trợ sức tăng trưởng kinh tế.


Mặt khác, đôi khi số người thất nghiệp giảm cho thấy nền kinh tế đang rơi vào tình trạng khan hiếm lao động. Các doanh nghiệp rơi vào giai đoạn khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn nhân lực, điều này sẽ gây ra 2 hậu quả tiêu cực. Thứ nhất, tình trạng thiếu hụt lao động sẽ gây khó khăn cho sự mở rộng và phát triển quy mô sản xuất – kinh doanh của các công ty. Thứ 2, khi lao động khan hiếm, nguy cơ lạm phát tiền lương tăng cao rất dễ xảy ra, do các công ty phải đưa ra nhiều mức lương hấp dẫn để lôi kéo thêm lao động từ các công ty khác. Một khi chi phí sử dụng lao động tăng cao sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của các công ty, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến giá trị cổ phiếu của các công ty này.
 
Chỉ số giá sản xuất – PPI
PPI là gì? Nó đo lường cái gì? Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo lường mức độ lạm phát trải qua bởi các nhà sản xuất. Số liệu này mô tả mức độ thay đổi giá cả trung bình trong rổ hàng hóa cố định được mua bởi nhà sản xuất. Một cách tổng thể, lạm phát cao dẫn đến lãi suất cao, điều này sẽ có xu hướng làm mạnh đồng tiền của quốc gia.

Nó nghe có vẻ giống CPI, vậy đâu là sự khác biệt?
PPI
là một chỉ số của giá thương phẩm. Ngược lại, CPI đo lường cả giá của thương phẩm và dịch vụ – nhà, giao thông, y tế và những dịch vụ khác chiếm 50% của CPI. CPI cũng bao gồm hàng hóa nhập khẩu trong khi PPI thì không.
Một sự khác biệt giữa PPI và CPI là PPI đo lường giá trị của đồng vốn dành cho trang thiết bị trong kinh doanh.


“Rổ hàng hóa ” bao gồm những gì?
Các hàng hóa liên qua đến tiều dùng chiếm 75% biểu đồ tròn. Hàng hóa tiêu dùng, chủ yếu là xe hơi chiếm 40%. Thực phẩm chiếm 26% gồm : thịt, cá, sản phẩm liên quan đến bơ sữa, trái cây và rau quả. Danh mục năng lượng, chủ yếu là gas và dầu nhiên liệu chiếm thêm 9%. Danh mục trang thiết bị chiếm 25% gồm: ôtô và xe tải.
Các số liệu được đặt với nhau như thế nào ?
Các nhà kinh tế Bộ Lao động so sánh giá của nhiều món hàng – khoảng 3.450. Giá thì được lấy mẫu hàng tháng.
PPI lõi là gì?
Nhiều nhà kinh tế xem xét PPI trừ đi thực phẩm và năng lượng cái mà được gọi là PPI lõi.Vậy tại sao? Bởi vì giá thực phẩm và năng lượng thay đổi rất nhanh. Giá năng lượng có thể bị ảnh hưởng bởi thời tiết chẳn hạn như nếu bão gây ảnh hưởng đến các dàn khoan dầu thì sẽ anh hưởng đến sản lượng khai thác. Điều tương tự cũng có thể xảy ra đối với thực phẩm. Đó là lý do tại sao phải loại trừ chúng để thấy được xu thế lạm phát thật của PPI.
Các “nhà chuyên nghiệp” xem xét PPI như thế nào ?
Các “nhà chuyên nghiệp” xem xét PPI một cách chung chung và xem xét nhiều phương pháp:
• So sánh tháng gần đây nhất với hai đến ba tháng trước
• Xem xét sự thay đổi trung bình của chỉ số PPI được công bố trong sáu hoặc mười hai tháng trước.
• Xác định tỉ lệ lạm phát giữa các năm.
Điểm chính ở đây là không nên để ý quá nhiều vào bản báo cáo đơn độc. Tốt hơn là hãy xác định xu thế và liệu có một xu thế mới sắp xuất hiện không.
PPI ảnh hưởng như thế nào đối với USD?
Đồng đô có xu hướng mạnh lên khi tăng lãi suất ngắn hạn. Vì thế nếu Fed tăng lãi suất, thì USD tăng giá.
Nếu lạm phát cao, USD thường sẽ tăng vì điều này cho thấy Fed có lý do để tăng lãi suất.
 
Tổng Giá Trị Thị Trường –Gross Domestic Product (GDP)
Chắc hẳn các bạn ai cũng từng nghe nói đến GDP. GDP có lẽ là một trong những cụm từ news thông dụng nhất trên mọi phương tiện thông tin quần chúng. Và trong website này mình cũng đã nhắc đến GDP ko ít lần!
Vậy GDP là gì??

GDP là viết tắt của cụm từ Gross Domestic Product (tạm dịch là thu nhập tổng sản phẩm quốc dân) là một trong những thước đo dùng để đánh giá thu nhập và đầu ra quốc gia trong một nền kinh tế nhất định. GDP được định nghĩa là tổng giá trị thị trường của tất cả những mặt hàng và dịch vụ đến tay người tiểu dùng mà được sản xuất trong đất nước đó trong một giai đoạn thời gian cụ thể. Chỉ số này còn được coi như tổng giá trị cộng dồn ở mỗi khâu sản xuất ( những khâu sản xuất trung gian) của tất cả những mặt hàng và dịch vụ đến tay người tiêu dùng được sản xuất trong một quốc gia ở tại một giai đoạn nhất định và được cấp cho một giá trị tiền nhất định.


Cách thông dụng nhất để tính ra và hiểu được chỉ số GDP là phương pháp tính lượng tiêu dùng:
GDP = tiêu thụ + tổng số đầu tư + chi tiêu chính phủ + ( xuất khẩu – nhập khẩu)
Tức là GDP = C+I+G+(X-M)
Các nhà kinh tế học thường thích chia đôi cụm từ tiêu thụ nói chung thành 2 phần : tiêu thụ cá nhân, và chi tiêu công cộng ( còn gọi là chi tiêu chính phủ). 2 ưu điểm trong việc chi tổng số tiêu thụ ra trở thành như trên là:
Tiêu thụ cá nhân là nỗi lo chính của mảng phúc lợi kinh tế. Những nguồn đầu tư cá nhân và những phần thương mại cần dùng trong nền kinh tế hoàn toàn hướng tới việc gia tăng tiêu thụ cá nhân lâu dài.
Nếu tách riêng khỏi yếu tố nội sinh tiêu thụ cá nhân, thì tiêu thụ chính phú có thể coi như là yếu tố ngoại sinh để những mức chi tiêu chính phủ khác nhau có thể được đặt trong một khung kinh tế vĩ mô đầy ý nghĩa.
Mức sống và GDP:
GDP bình quân một đầu người thường được dùng để biểu thị mức sống trong một nền kinh tế, lý do cơ bản là tất cả những cư dân của nước đó đều có lời từ sự gia tăng sản xuất của nền kinh tế.
Ưu điểm lớn nhất trong việc sử dụng chỉ số GDP bình quân một đầu người để biểu thị mức sống là ở điểm số này thường được đánh giá rộng rãi, liên tục và nhất quán. Liên tục ở điểm là hầu hết tất cả các đất nước đều cung cấp thông tin về chỉ số GDP theo quý( việc này giúp người dùng tin có thể xác định được hướng của xu thế nhanh hơn). Rộng rãi ở điểm một vài chỉ số đánh giá của GDP thì được áp dụng thực tế ở khắp mọi nơi trên thế giới ( cho phép so sánh thuần mức sống giữa các đất nước khác nhau). Và nhất quán ở điểm các định nghĩa mang tính chuyên ngành được dùng trong GDP đều có tính tương đối nhất quán giữa các đất nước, và vì vậy mà người ta tin rằng nước nào cũng đánh giá các yếu tố giống nhau.
Nhược điểm lớn nhất của GDP trong việc biểu thị mức sống là, nếu nói một cách chặt chẽ thì GDP vốn ko phải là thước đo của mức sống. GDP được dùng để đánh giá những dạng hình đặc biệt của các hoạt động kinh tế trong một đất nước. Trong định nghĩa của GDP chẳng có gì gợi ý rằng chỉ số này cần thiết để giá mức sống cả. Ví dụ nhé, một nước có nền xuất khẩu tuyệt đối (100%) và ko nhập khẩu tí nào sẽ có chỉ GDP rất cao, nhưng mức sống lại cực kì thâp.
Một ý kiến khác ủng hộ việc sử dụng chỉ số GDP là tuy chỉ số này ko phải biểu thị của mức sống nhưng ( tất cả những yếu tố khác đều giống nhau) mức sống có chiều hướng tăng lên khi GDP bình quân một đầu người gia tăng. Điều này khiến cho chỉ số GDP đại diện được cho yếu tố mức sống, hơn là một công cụ được sử dụng để đánh giá trực tiếp yếu tố này. Vì khi công nhân làm việc năng suất hơn, các chủ doanh nghiệp phải cạnh tranh để có thể tra họ lương cao hơn. Ngược lại, nếu ko năng suất, lương sẽ hạ hoặc các doanh nghiệp này ko thể sinh lời được.
Có rất nhiều tranh luận xung quanh cách sử dụng này của GDP
 
Quay lại
Top Bottom