- Tham gia
- 15/11/2011
- Bài viết
- 30
I. Chủ trương đấu tranh từ năm 1930 đến 1935
1. Hoàn cảnh lịch sử
a) Tình hình thế giới.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929 - 1933 làm cho nền kinh tế xã hội của tất cả các nước tư bản chủ nghĩa đều bị đình trệ, nền dân chủ tư sản bị thủ tiêu và thay thế vào đó là nền chuyên chính của bọn phát xít.
Tháng 10 năm 1929, khủng hoảng diễn ra sớm nhất ở Mĩ rồi lan sang các nước tư bản khác. Khủng hoảng diễn ra ở tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính. Cuộc khủng hoảng đã gây ra những hậu quả hết sức nặng nề không chỉ kinh tế mà cả chính trị và xã hội cho thế giới tư bản chủ nghĩa.
Cuộc khủng hoảng ở các nước tư bản đã lan sang các xứ thuộc địa, nhân dân ở các nơi này phải chịu gánh nặng khủng hoảng của “chính quốc”.
Tại Pháp, cuộc khủng hoảng diễn ra muộn hơn, nhưng lại hết sức mạnh và sâu sắc. khủng hoảng công nghiệp xen kẽ khủng hoảng nông nghiệp và tài chính. Sản lượng công nghiệp Pháp giảm sút 1/3, nông nghiệp giảm 2/5, ngoại thương giảm 3/5 thu nhập quốc dân giảm 1/3. Cũng như nhiều đế quốc khác muốn thoát khỏi tình trạng bi thảm của cuộc khủng hoảng, giới tư bản tài chính Pháp tìm cách trút hậu quả nặng nề của nó lên đầu nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa (trong đó có Đông Dương).
b) Tình hình trong nước
Kinh tế ở Việt Nam vốn đã bị phụ thuộc vào nền kinh tế Pháp, nay trong cuộc khủng hoảng này lại càng phải gánh chịu hậu quả nặng nề hơn. Chính quyền thực dân ở Đông Dương đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính.
Nông nghiệp bị phá hoại nặng nề do giá nông sản bị sụt nhanh chóng: giá gạo từ 13,1 đ/tạ năm 1930 xuống còn 3,2 đ/tạ năm 1933; giá cao su từ 20 france/kg năm 1929 xuống còn 4 france/kg năm 1931. Hàng ngàn hécta đồng ruộng bị bỏ hoang, hàng trăm đồn điền bị thu hẹp diện tích hoặc ngưng hoạt động. Từ năm 1930 - 1933 diện tích đất hoang hóa từ 200.000 ha - 500.000 ha. Sản xuất gạo giảm từ 1.797.000 tấn năm 1928 xuống còn 959.000 tấn năm 1931.
Sản xuất công nghiệp cũng bị đình đốn, nhất là ngành khai mỏ. Hàng loạt nhà máy xí nghiệp đóng cửa, thương mại xuất nhập khẩu đều bị sút giảm, trị giá xuất khẩu giảm từ 18.000.000 đồng Đông Dương (năm 1929) chỉ còn 10.000.000 đồng Đông Dương (năm 1934), hàng vạn công nhân và lao động bị sa thải hoặc nghỉ việc.
Để góp phần giải quyết khủng hoảng kinh tế ở chính quốc và giữ cho Đông Dương trong quỹ đạo thực dân, thực dân Pháp cho ngưng lại cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II theo quy mô lớn đang diễn ra, đồng thời chúng khẩn trương áp dụng những biệp pháp cấp thiết ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Trước hết là việc Pháp cho thắt chặt hàng rào thuế quan, chỉ ưu tiên cho hàng hóa Pháp vào Đông Dương, kiên quyết giành độc quyền thương mại ở thị trường này. Hàng Pháp vào Đông Dương từ chỗ chỉ chịu mức thuế thấp nhất (2,5%) đến việc miễn thuế hoàn toàn, trong khi hàng các nước vào thị trường này chịu thuế ngày một cao, có thứ phải nộp thuế 100% giá trị hàng hóa.
Việc tăng thuế cũng là một biện pháp sớm được chú ý. Thuế thân ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ tăng 20%, thuế môn bài tăng từ 3 - 8 lần. Các biện pháp thu tài chính khác ở Đông Dương như mở công trái, lạc quyên, vay dài hạn… cũng được áp dụng, tất cả đã đem về cho ngân sách liên bang một nguồn thu lớn và tăng nhanh. Chỉ tính năm 1930 có 17 khoản thu ngoài thuế đã đem về cho ngân sách 117.000.000 đồng. Chính phủ Pháp còn quy định lại giá trị đồng bạc Đông Dương, tiến hành thu bạc cũ đổi bạc mới có lượng bạc kém hơn. Chỉ tính khoản thu chênh lệch 7 gram/ đồng đã thu được 49.000.000 đồng.
Đối với chủ tư bản người Pháp ở thuộc địa, chính quyền thực hiện “trợ cấp tài chính” để giúp họ khỏi bị phá sản. Một số nhà tư bản được hợp nhất lại cả vốn liếng vào quy mô kinh doanh, tạo ra sức cạnh tranh lớn hơn để tồn tại và phát triển, nhất là trong các ngành trồng lúa, cao su, cà phê. Trong quan hệ chủ - thợ, chính phủ thực dân cho ban hành một số quy chế lao động mới như chế độ lao động đới với phụ nữ, trẻ em, trách nhiệm vi phạm luật lệ lao động, hoà giải tranh chấp về lao động…, nhìn chung là các “qui chế” này chỉ nhằm bảo vệ cho giới chủ tư bản, góp phần xoa dịu bởi mâu thuẫn của giới lao động.
*Về chính trị - xã hội, chính quyền thực dân ở Đông Dương thi hành chính sách hai mặt. Một mặt là đẩy mạnh các biện pháp văn hóa giáo dục, tuyên truyền lôi kéo người bản xứ, tranh thủ các tầng lớp thượng lưu, tô vẽ cho cái gọi là “văn minh khai hóa”, đề cao tư tưởng chống cộng, coi chống cộng là một chủ thuyết trong các hoạt động chính trị - xã hội.
Mặt khác chúng thi hành chính sách khủng bố trắng một cách tàn bạo ở cả thành thị và thôn quê, nhất là từ sau khởi nghĩa Yên Bái tháng 2/1930. Bạo lực của chính quyền thực dân đã gây ra nhiều tổn thất cho các lực lượng yêu nước, nhưng địch vẫn không tạo được sự yên ổn về chính trị và trật tự xã hội, ngược lại nó chỉ làm ngột ngạt thêm không khí ở thuộc địa, làm âm ỉ thêm trong lòng xã hội những ngọn lửa đấu tranh quyết liệt mà thôi.
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội thuộc địa Việt Nam tiếp tục phân hóa, mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp tiếp tục tăng lên. Giai cấp nông dân và giai cấp vô sản là hai bộ phận đông đảo nhất trong xã hội, cũng là hai đối tượng chủ yếu của chính sách bóc lột vơ vét của tư bản Pháp ở thuộc địa. Họ lại có đời sống bị bần cùng hóa và hiện đang bị đe dọa trực tiếp bởi nạn chết đói, thất nghiệp không có cách nào chống đỡ. Người Pháp lúc đó đã tận mắt nhìn thấy và loan báo “người ta có thể cầm chắc là nông dân sống ở cái mức cùng cực của đói kém và nghèo khổ”, còn công nhân thì những người chưa bị sa thải có đồng lương “không bao giờ vượt quá từ 2 - 2,5 france/ ngày (tức là 20 - 25 xu/ ngày). Trong các xưởng dệt ngày làm việc từ 7 giờ sáng đế 9 giờ tối, ở các đồn điền công nhân phải làm việc từ 15 - 16 giờ một ngày…”. Do đó các tầng lớp lao động như nông dân, thợ thủ công, vô sản, cùng những người làm nghề tự do ở cả thành thị và thôn quê, đều mong muốn đấu tranh cải thiện đời sống và chống lại xã hội thuộc địa.
Song ngay cả trong giai cấp địa chủ, tư bản và tầng lớp thượng lưu bản xứ cũng có những bộ phận gặp nhiều khốn khó vì bị phá sản, bị chèn ép, bị vỡ nợ bởi thuế má ngày một cao và không đủ sức cạnh tranh với tư bản Pháp. Từ năm 1929 - 1933 ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn có 502 vụ án khánh tận và 160 vụ án phát mãi tài sản.
Đó cũng là lúc các thuộc địa nói chung, Đông Dương nói riêng, từ trong cùng cực của đời sống kinh tế, phải giải phóng khỏi ách thống trị của ngoại bang bằng chính sức mạnh của mình. Đông Dương trong cuộc khủng hoảng kinh tế không còn bình yên như trước nửa, đã trở thành một Đông Dương sôi động trong sự phân hóa của xã hội thuộc địa. Điều kiện vật chất xã hội ấy là cơ sở cho sự phát triển các tư tưởng mới đang du nhập vào Việt Nam.
Tư tưởng tư sản tiếp tục ăn sâu vào nhiều bộ phận xã hội nhưng kể từ sau thất bại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, những bộ phận tích cực đi theo đường lối ấy bị thất bại và tan vỡ về tổ chức làm cho nhiều người mất phương hướng, một số đi theo đường lối cải lương thì được tán dương chủ thuyết Pháp - Việt đề huề, hoặc lao sâu vào con đường tiêu cực chống phá cách mạng giải phóng dân tộc. Trong lúc đó tư tưởng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin dần dần chiếm ưu thế. Sự xuất hiện Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm 1930 khác hẳn sự ra đời của các tổ chức chính trị đương thời, đã thu hút sự chú ý của đông đảo các giai tầng xã hội. Sự tuyên truyền chống cộng đã phản tác dụng, vô hình chung lại đề cao chủng nghĩa Cộng sản. Đó cũng là lúc hình ảnh nhà nước công - nông ở Liên Xô đang có sức thuyết phục khá lớn, nhiều dân tộc bị áp bức đang mơ ước chế độ Xô - Viết… Như thế một thời kỳ đấu tranh cách mạng đi theo xu hướng mới đã xuất hiện.
* Khái quát về cao trào cách mạng 1930 – 1931
Ở Việt Nam từ năm 1930 trở đi, con đường Cách mạng vô sản đã dẫn dắt nhân dân ta đấu tranh bằng những cao trào rộng lớn. Mở đầu cho những bước phát triển mới là sự bùng nổ cao trào chống đế quốc phong kiến những năm 1930 - 1931, đỉnh cao là sự xuất hiện và tồn tại của các Xô - Viết ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Không phải là do “Cộng sản kích động” như các quan chức thực dân lúc ấy nhận định, cao trào cách mạng những năm 1930 - 1931 bùng nổ ngay sau thất bại của khởi nghĩa Yên Bái, là hậu quả của những chính sách kinh tế - xã hội của thực dân Pháp ở Đông Dương trong giai đoạn này. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 đã kịp thời đưa ra đường lối phù hợp nhất với nguyện vọng đấu tranh của xã hội lúc đó, vì vậy Đảng Cộng Sản đã trở thành người lãnh đạo phong trào dân tộc.
Bắt đầu là những cuộc đấu tranh ôn hòa ủng hộ các chiến sĩ Yên Bái, chống chính sách khủ bố trắng của Pháp, nổ ra từ tháng 2 - 4/1930. Phong trào được mở màn bằng các cuộc bãi công ở đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, lan nhanh ra khắp thành thị và thôn quê ở Bắc - Trung - Nam. Qua đó các Đảng bộ địa phương được thống nhất về tổ chức, quần chúng công nông được tập hợp lại, tinh thần đấu tranh của nhân dân tiếp tục được hâm nóng lên và gây dựng phong trào thành phong trào mới.
Ngày 1/5/1930 nhân kỷ niệm Quốc Tế Lao động, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ động giành lấy việc phát động phong trào trên phạm vi toàn quốc với 2 lực lượng đông đảo nhất là vô sản và nông dân cờ đỏ búa liềm lần đầu tiên xuất hiện ở các thành phố lớn và nhiều vùng thôn quê. Những cuộc mít - tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng kỷ niệm ngày 1/5 được tổ chức thật rầm rộ. Trong đó cuộc mít - tinh ở Vinh - Bến Thủy đã bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Quần chúng rất căm phẫn, được nhân dân các vùng xung quanh ủng hộ, họ tiếp tục đấu tranh chống khủng bố. Phong trào của công nông từ Vinh - Bến Thủy lan nhanh sang các huyện, tổng của hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Với sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân theo lời kêu gọi của Xứ ủy Trung Kỳ. Chỉ 3 tháng kể từ 1/5/1930 ở Nghệ An và Hà Tĩnh có 97 cuộc đấu tranh. Đó là bước chuẩn bị trực tiếp đưa phong trào ở đây lên đỉnh cao.
Từ cuối tháng 8/1930 những cuộc biểu tình với quy mô lớn ở các vùng nông thôn 2 tình Nghệ An và Hà Tĩnh đã lôi kéo hàng chục ngàn người kết thành một khối, mít - tinh biểu tình, biểu dương lực lượng. Cuộc đấu tranh nọ kế tiếp cuộc đấu tranh kia nổ ra không dứt và chuyển sang bạo động. Ngày 30/8/1930, hơn 3 ngàn nông dân huyện Nam Đàn biểu tình kéo đến huyện lỵ phá huyện đường. Ngày 1/9/1930, gần 20.000 nông dân huyện Thanh Chương đấu tranh với khí giận ngút trời. Ngày 7/9/1930 hơn 3000 nông dân huyện Can Lộc kéo vào huyện đường đốt sổ sách, giấy tờ, sổ sách của chính quyền tay sai, phá nhà lao. Ngày 12/9/1930, hơn 8.000 nông dân huyện Hưng Nguyên biểu tình và bị đàn áp dã man tại ga Yên Xuân nhưng quần chúng vẫn không nao núng, họ càng tập họp đông hơn và xông lên tấn công vào hệ thống chính quyền địch ở cơ sở. Quần chúng nông dân các vùng nông thôn được công nhân các nhà máy, xí nghiệp ở Vinh, Bến Thủy ủng hộ, đã biểu dương sức mạnh đoàn kết, lòng căm thù, ý chí quyết đấu đòi tự do cuộc sống. Trong quá trình đó sự tàn bạo của kẻ thù càng làm cho nhân dân sôi sục.
Trước khí thế “xông lên chọc trời” của quần chúng cách mạng, chính quyền thực dân phong kiến ở nhiều nơi của Nghệ An - Hà Tĩnh đã bị tan rã, hoặc tê liệt, bỏ chạy. Trong tình hình đó các chi bộ Đảng và tổ chức Nông Hội Đỏ ở các thôn - xã đứng ra quản lý, điều hành mọi hoạt động trong địa phương thay thế vào vị trí các cơ sở chính quyền địch đã bỏ trống. Dựa theo những hiểu biết sơ lược về chính quyền Xô Viết ở nước Nga qua các tài liệu và báo chí của Đảng, người ta gọi các tổ chức vừa dựng lên là Xã Bộ Nông, Thôn Bộ Nông hoặc các Xô Viết Mặc dù còn sơ khai nhưng các Xô Viết Nghệ Tĩnh đã có thực chất là một chính quyền cách mạng của công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua Đảng tiên phong của nó. Việc đập tan bộ máy chính quyền cũ, xây dựng bộ máy chính quyền mới, tổ chức một xã hội mới dân chủ tự do thật sự cho nhân dân lao động, tích cực bảo vệ chính quyền vừa giành được…, đó là những nhiệm vụ lớn lao mà các Xô Viết đã bước đấu thực hiện, nhất là các Đảng bộ ở đây chưa sẵn sàng, các điều kiện chủ quan, khách quan, thu
Thuận lợi của cách mạng cả nước chưa có, những việc làm tích cực đó còn là sự đột phá táo bạo. Các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh chỉ được tồn tại chưa đầy 8 tháng, kể từ tháng 9/1930, nhưng đã có nhiều cố gắng sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa - xã hội. Đó là những hoạt động bãi bỏ các thứ thuế vô lý, bất công; chia lại đất công cho nông dân nghèo kể cả nam và nữ; quy định lại tô tức; tổ chức sản xuất chung; trợ cấp gia đình thiếu túng; bài trừ phong tục tập quán lạc hậu; lập Đội Tự Vệ Đỏ; xây dựng các đoàn thể quần chúng… Chính bọn tay sai của thực Pháp cũng phải thừa nhận một thực tế trong các Xô Viết: “Họ chôn cất người chết, cấp tiền bạc cho gia đình người chết hoặc bị nạn trong các cuộc biểu tình, cho cả những người nghèo khổ nữa. Họ phát thuốc cho người ốm, xử các vụ kiện tụng. Họ trừng trị những người nghiện thuốc phiện, nghiện rượu và cấm các hội hè cúng tế trong làng…”
Xô Viết Nghệ Tĩnh đã thu hút sự chú ý quan tâm của nhiều lực lượng trong, ngoài nước lúc đó. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng Sản Đông Dương, cả nước dấy lên phong trào đấu tranh, ủng hộ Xô Viết, chống khủng bố trắng. Nguyễn Ái Quốc và Quốc Tế Cộng Sản rất chú ý theo dõi và góp ý kiến cho những người cộng sản Đông Dương để bảo vệ các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh. Ở các nước Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ đã có nhiều hoạt động báo chí và xã hội ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Còn bọn thực dân phong kiến thì vô cùng hoảng sợ. Chúng cho rằng “Từ khi nước Pháp đặt nền đô hộ trên đất nước này, chưa bao giờ có một nguy cơ nào đe dọa sự an nguy nội bộ của mình lớn hơn, thực sự hơn” và nó “Rất trầm trọng… tầm rộng lớn của nó đã làm chúng ta sửng sốt…”. Chính vì vậy từ Toàn quyền Đông Dương Pasquier, Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol đến các lực lượng tay sai trong chính phủ Nam triều, đều trực tiếp đến Nghệ An - Hà Tĩnh để vạch kế hoạch bình định. Sau đó là hàng loạt biện pháp tàn bạo và nham hiểm cùng với các biện pháp lừa bịp của chúng đã được tung ra để đàn áp các Xô Viết.
Đồn bót được dựng lên dày đặc, binh lính các nơi được điều động về, bắn giết bắt bớ giam cầm là những hoạt động đầu tiên của những công cụ bạo lực mà chính quyền thực dân đối phó với phong trào quần chúng. Các chính sách “Lấy quan nhà trị dân nhà”, “Buộc dân cày ra đầu thú” được đem ra áp dụng. Chúng “Phát thẻ quy thuận”, tổ chức “Rước cờ vàng”, chúng lập “Xã đoàn”, dùng sách báo tranh ảnh tuyên truyền vu cáo nói xấu công sản… Trong thực tế lúc ấy địch chỉ cần dùng 1 biện pháp quân sự cũng thừa sức để đàn áp các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh, nhưng chúng đã không từ một biện pháp nào kể cả các biện pháp kinh tế xã hội và lừa mị để đánh phá cách mạng. Đến giữa năm 1933 các Xô Viết Nghệ Tĩnh lần lượt thất bại. Tuy nhiên, đó không phải là sự thất bại của đường lối và phương pháp Cách mạng vô sản. Xô Viết Nghệ Tĩnh và cả phong trào cách mạng 1930 - 1931 là minh chứng hùng hồn nhất cho truyền thống yêu nước, lòng dũng cảm kiên cường, sức sống mãnh liệt và sức sáng tạo phi thường của dân tộc Việt Nam. Nó khẳng định trong thực tế: Đường lối cách mạng, uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng, của giai cấp vô sản Việt Nam. Nó sáng tạo ra nhiều hình thức và phương pháp đấu tranh mới cho cách mạng; đồng thời nó để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho những người yêu nước và cách mạng đang đấu tranh cho nền tự do và độc lập của Tổ quốc.
Về vị trí của cao trào cách mạng này, Đảng ta đã đánh giá: “Trực tiếp mà nói, không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930 - 1931 trong đó công - nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi thường của mình thì không thể có cao trào những năm 1936 - 1939”. Cao trào đấu tranh cách mạng 1930 -1 931 đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, là “Bước thắng lợi đấu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển về sau của cách mạng.”
2. Đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam từ năm 1930 – 1935
a) Hội nghị lần thứ nhất BCH TW lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam (14 - 30/10/1930)
Tháng 10-1930, giữa lúc phong trào cách mạng đang diễn ra sôi nổi trên cả nước, Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Luận cương chính trị, bầu ra Ban chấp hành Trung ương chính thức do Tổng bí thư Trần Phú đứng đầu.
*Luận cương chính trị
· Nội dung:
- Luận cương đã phân tích đặc điểm tình hình xã hội thuộc địa nửa phong kiến và nêu lên những vấn để cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Luận cương chỉ rõ: mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyển, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
- Luận cương vạch ra phương hướng cách mạng Đông Dương là: lúc đầu cách mạng đông là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, có tính chất thổ địa và phản đế “tư sản dân quyền cách mạng là thời kì dự bị để làm xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư sản dân quyển thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kì tư bổn mà tranh đấu để thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
- Luận cương khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là: đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khắn khít với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chũ nghĩa mới phá tan được giai cấp địa chủ, để tiến hành cách mạng thổ địa thắng lợi và có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Trong hai nhiệm vụ này, luận cương xác định: vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, là cơ sở để Đảng lãnh đạo dân cày. Về lực lượng cách mạng luận cương chỉ rõ, giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng. Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng, tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kì đầu. Chỉ có các phần tử đau khổ ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.
- Về phương pháp cách mạng Luận cương chỉ rõ: để đạt được mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công nông thì phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường “võ trang bạo động”. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật “phải theo khuôn phép nhà binh”.
- Đối với quốc tế Luận cương khẳng định cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên lạc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở Đông Dương.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng, Luận cương khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mac- Lenin làm nền tảng tư tưởng, đại biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương, đấu tranh để đạt được mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
· Ý nghĩa của luận cương:
Từ nội dung cơ bản như trên có thể thấy Luận cương đã khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng mà Cương Lĩnh chính trị đầu tiên đã nêu ra. Song Luận cương chính trị của Trần Phú có mặt khác nhau so với Cương lĩnh chính trị của Nguyễn Ái Quốc như sau:
Luận cương chính trị không nêu ra mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, mà lại đặt nặng về đấu tranh giai cấp và về cách mạng ruộng đất.
Đánh giá không đúng vai trò của tầng lớp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc và chưa thấy được khả năng phân hóa, lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc, từ đó Luận cương đã không đề ra một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp, tức là không xây dựng được một mặt trận dân tộc chống đế quốc và tay sai.
- Nguyên nhân chủ yếu của những mặt khác nhau:
Thứ nhất, Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững những đặc điểm của xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam.
Thứ hai, do nhận thức giáo điều máy móc về vấn đề dân tộc và giai cấp lại chịu ảnh hưởng trực tiếp khuynh hướng “tả” của Quốc tế Cộng Sản. Vì vậy BCHTW tháng 10/1930 đã không chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ của Nguyễn Ái Quốc được nêu trong đường cách mệnh, chánh cương vắn tắt và sách lược vắn tắt.
- Luận cương chính trị của Đảng năm 1930 đã đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của cách mạng Việt Nam, trang bị cho những người cộng sản Đông Dương vũ khí sắc bén để đấu tranh với các tư tưởng phi vô sản. Và những nhược điểm trên đã được Đảng dân dần khắc phục qua thực tiễn của đấu tranh cách mạng.
b) Chủ trương khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng:
Giữa lúc cao trào 1930-1931 của quần chúng nhân dân do Đảng phát động đang dân cao thì đế quốc Pháp và tay sai thẳng tay đàn áp, khủng bố hòng dập tắt phong trào và tiêu diệt Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Hàng vạn người bị bắt, tù đày. Các trại giam, nhà tù chật ních tù chính trị như tù Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), Côn Đảo… Từ năm 1930-1933, thực dân Pháp bắt giam 246532 người riêng Côn Đảo từ năm 1930-1935 có 833 tù chính trị bị tra tấn đến chết.
Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và địa phương bị phá vỡ, hầu hết các ủy viên BCHTW Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ bị bắt.
Trong hoàn cảnh đó những người cộng sản đó vẫn kiên cường đấu tranh. Những Đảng viên trong tù kiên trì bảo vệ lập trường, quan điểm cách mạng của Đảng, tổng kết bài học kinh nghiệm chỉ đạo phong trào, tổ chức vượt ngục, những đảng viên không bị bắt thì tìm cách gây dựng lai tổ chức Đảng.
Một số đảng viên đang hoạt động ở Trung Quốc, Xiêm trở về nước hoạt động.
Đầu năm 1932 Lê Hồng Phong và một số đồng chí nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng Sản tổ chức ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6-1932 Ban lãnh đạo Trung ương đã công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Đây là văn kiện chính trị quan trọng của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kì cách mạng Đông Dương đang thoái trào, nhằm giữ vững sự ổn định và thống nhất tư tưởng, chính trị và tổ chức trong toàn Đảng, tiếp tục đấu tranh theo hình thức thích hợp, liên kết những yêu cầu khẩn thiết trước mắt với những nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng phản đế và cách mạng ruộng đất để khôi phục lực lượng, tiếp tục đưa cách mạng tiến lên. Trên cơ sở khẳng định đường lối, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Đông Dương được vạch ra trong Luận cương chính trị tháng 10.1930, Chương trình đã nêu ra 4 yêu cầu chung: đòi chính quyền thực dân thực hiện các quyền tự do dân chủ; chống chính sách đàn áp cách mạng, thả tù chính trị, thủ tiêu hội đồng đề hình; bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế khác, miễn thuế cho dân nghèo; bỏ độc quyền rượu, thuốc phiện, muối và những yêu sách riêng cho mỗi tầng lớp nhân dân. Chương trình nêu lên sự cấp thiết phải củng cố, phát triển Đảng, các đoàn thể cách mạng của quần chúng, nhất là công hội và nông hội, tổ chức mặt trận thống nhất các lực lượng phản đế; phải kết hợp những khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp với hoạt động bí mật, kết hợp những yêu sách kinh tế với yêu sách chính trị, kết hợp yêu sách từng phần với những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền. Chương trình hành động đã giữ vững và giương cao ngọn cờ cách mạng của Đảng, góp phần khôi phục nhanh chóng phong trào cách mạng và chuẩn bị cho Đại hội I của Đảng.
Những yêu cầu trước mắt về chính trị cùng với những biện pháp tổ chức do Đảng vạch ra trong chương trình phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Phong trào cách mạng từng bước đã được khôi phục. Trên cơ sở đó, Đảng ta còn tích cực đẩy mạnh việc phát triển các tổ chức cơ sở Đảng, giữ vững tinh thần cách mạng tiến công, kiên trì lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng.
Khi hệ thống tổ chức của Đảng được khôi phục từ cơ sở tới Trung ương, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng quyết định triệu tập Đại hội Đảng. Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội đề ra các nhiệm vụ trước mắt: Củng cố và phát triển Đảng cả về lượng và chất; Đẩy mạnh cuộc vận động và thu phục quần chúng; Tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc…
Có thể nói những năm đầu tiên trên con đường Cách mạng vô sản, phong trào dân tộc sau hơn nửa thế kỷ tồn tại, phát triển đã có những yếu tố căn bản được kiểm nghiệm trong thực tế để khẳng định có thể đảm bảo đưa phong trào đến thắng lợi cuối cùng.
II. Giai đoạn 1936-1939
1. Hoàn cảnh lịch sử
a) Tình hình thế giới
Cuộc khủng hoàng kinh tế trong những năm 1929-1933 ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.
Chủ nghĩa phát xít đã xuất hiện và thắng thế ở một số nơi như phát xít Hít le ở Đức,phát xít Prăngcô ở Tây Ban Nha,phát xít Mútxôlini ở Italia và phái Sĩ quan trẻ ở Nhật Bản. Chế độ độc tài phát xít là nền chuyên chính của những thế lực phản động nhất, Sôvanh nhất, tàn bạo và dã man nhất. Chúng tiến hành chiến tranh xâm lược, bành trướng và nô dịch các nước khác. Tập đoàn phát xít cầm quyền ở Đức, Italia và Nhật Bản đã liên kết với nhau thành khối "Trục", ráo riết chuẩn bị chiến tranh để chia lại thị phần thế giới và thực hiện mưu đồ để tiêu diệt Liên Xô. Nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế
Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản họp tại Mátxcơva (tháng 7-1935) dưới sự chủ trì của G.Đimitơrốp. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu đã tham dự Đại hội. Đại hội xác định:
-Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới lúc này chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung, mà là chủ nghĩa phát xít.
-Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới lúc này là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hòa bình.
-Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó,các Đảng cộng sản và nhân dân các nước trên thế giới phải thống nhất hàng ngủ của mình,lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chiến tranh,đòi tự do,dân chủ hòa bình và cải thiện đời sống.
-Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa,Đại hội chỉ rõ: Do tình hình thế giới và trong nước thay đổi nên vấn đề lập mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt
b) Tình hình trong nước
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933 đã tác động sâu sắc đến đời sống các tầng lớp nhân dân. Bọn phản động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân để phục vụ cho chiến tranh, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ và thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.
Tình hình trên đây làm cho các giai cấp và tầng lớp xã hội tuy có quyền lợi khác nhau, nhưng đều căm thù thực dân, tư bản độc quyền Pháp và đều có nguyện vọng chung trước mắt là đấu tranh đòi được quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.
Hệ thống tổ chức của Đảng và các cơ sở cách mạng của quần chúng đã được khôi phục. Mặt khác chính phủ Mặt trận bình dân Pháp ban hành một số chính sách dân chủ cho các thuộc địa. Đối với Đông Dương Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình,ân xá tù chính trị, nới rộng quyền tự do báo chí.. Đây là những yếu tố quan trọng, quyết định bước phát triển mới của phong trào cách mạng nước ta
2. Chủ trương và nhận thức của Đảng
a) Chủ trương của Đảng
Trước những chuyển biến mới của tình hình trong nước và thế giới, đặc biệt dưới ánh sáng của chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, trong những năm 1936-1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp Hội nghị lần thứ hai (tháng 7-1936), lần thứ 3 (tháng 3-1937), lần thứ tư (tháng 9-1937) và lần thứ năm (tháng 3-1938) đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và hình thức đấu tranh mới, phù hợp với tình hình cách mạng nước ta.
*Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh:
Ban Chấp hành Trung ương xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là “cách mạng tư sản dân quyền – phản đế và điền địa – lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xô viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Song , xét rằng, cuộc vận động quần chúng hiện thời cả về chính trị và tổ chức chưa tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công nông, giải quyết vấn đề điền địa. Trong khi đó, yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy Đảng phải nắm lấy những yêu cầu này để phát động quần chúng đấu tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này.
-Về kẻ thù của cách mạng: Kẻ thù nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
-Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình.
-Về đoàn kết quốc tế: Để tập trung, cô lập và chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng vào Đông Dương, đòi các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, thì không những phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, “ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp”, mà còn phải đề ra khẩu hiệu “ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp” để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn phát xít ở Pháp và bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương.
-Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Chuyển từ hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp. Trong khi tranh thủ mở rộng các hình thức tổ chức đấu tranh công khai hợp pháp thì tránh sa vào chủ nghĩa công khai, mà phải giữ nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức và hoạt động bí mật của Đảng,giữ vững mối quan hệ giữa bí mật và công khai,hợp pháp và không hợp pháp và phải bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức Đảng bí mật đối với những tổ chức và hoạt động công khai hợp pháp.
-Về chủ trương: Thành lập mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương. Tháng 3/1938, đổi tên thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương
*Một số phong trào đấu tranh đòi quyền tự do dân sinh, dân chủ tiêu biểu như:
- Phong trào Đông Dương Đại hội. Năm 1936, Đảng vận động và tổ chức nhân dân thảo ra bản dân nguyện vọng gửi tới phái đoàn chính phủ Pháp, tiến tới triệu tập Đông Dương Đại hội (8-1936). Các ủy ban hành động thành lập khắp nơi, phát truyền đơn, ra báo, mít tinh, thảo luận dân chủ, dân sinh…) . Tháng 09/1936 Pháp giải tán Ủy ban hành động, cấm hội họp, tịch thu các báo. Qua phong trào, đông đảo quần chúng được giác ngộ, đoàn kết đấu tranh đòi quyền sống. Đảng thu được một số kinh nghiệm về phát động và lãnh đạo đấu tranh công khai, hợp pháp.
-Phong trào đón Gô –đa: năm 1937, lợi dụng sự kiện đón Gô đa và Toàn quyền mới sang Đông Dương, Đảng tổ chức quần chúng mít tinh, biểu dương lực lượng đưa yêu sách về dân sinh, dân chủ .
-1937-1939: nhiều cuộc mít tinh , biểu tình đòi quyền sống tiếp tục diễn ra , nhân ngày Quốc tế lao động 01/05/1938, lần đầu tiên nhiều cuộc mít tinh tổ chức công khai ở Hà Nội, Sài Gòn có đông đảo quần chúng tham gia.
b) Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ
-Tháng 10/1936 Trung ương Đảng được tổ chức lại do đồng chí Hà Huy Tập làm tổng bí thư, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới, ban chấp hành trung ương Đảng cũng đặt ra vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng Đông Dương: Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không nhất thiết phải gắn kết chặt với cách mạng điền địa. "Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước.Nghĩa là chọn địch nhân chính,nguy hiểm nhất để tập trung,để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng".Đây là nhận thức mới của Ban Chấp hành Trung ương, nó phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
-Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa những năm 1936 trở đi khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo đúng đắn của Đảng. Hội nghị lần thứ ba (3/1937),lần thứ tư(9/1937) và tiêp đó là hội nghị lần thứ năm (3/1938) đã đi sâu về công tác tổ chức của Đảng,quyết định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp được đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa,chống phát xít,đòi tự do,cơm áo,hòa bình.
-Tháng 3-1939, Đảng ra bản Tuyên ngông của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc, nêu rõ họa phát xít đang đến gần, Chính phủ Pháp hiện đã nghiêng về phía hữu, ra sức bóp nghẹt tự do dân chủ, tăng cường bóc lột nhân dân và ráo riết chuẩn bị đấu tranh. Tuyên ngôn kêu gọi các tầng lớp nhân dân phải thống nhất hành động hơn nữa trong việc đòi các quyền tự do dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh đế quốc.
-Tháng 7-1939 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích. Tác phẩm đã phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận dân chủ Đông Dương- một vấn đề chính trị trung tâm của Đảng lúc đó. Tác phẩm Tự chỉ trích chẳng những có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh để khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng cường đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận quan trọng về xây dựng Đảng, về công tác vận động thành lập mặt trận thống nhất rộng rãi trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.
Tóm lại, trong những năm 1936-1939 chủ trương mới của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ của mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, các mối quan hệ giữa liên minh công-nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa phong trào cách mạng Đông Dương, phong trào cách mạng ở Pháp và trên thế giới, đề ra các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, thích hợp nhằm hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền thắng lợi hàng ngày, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh cao hơn vì độc lập và tựu do
Các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương trong thời kì này đánh dấu bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh và tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng, mở ra một cao trào mới trong cả nước
Cao trào cách mạng 1936-1939 thực sự là cuộc vận động cách mạng sâu rộng, hiếm có ở một nước thuộc địa, đã tuyên truyền đường lối chủ trương cách mạng của Đảng cho quảng đại nhân dân, mở rộng lực lượng và trận địa cách mạng, sáng tạo nên những hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh mới linh hoạt, gắn kết phong trào cách mạng Đông Dương vơi cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa phát xít của nhân dân thế giới.
1. Hoàn cảnh lịch sử
a) Tình hình thế giới.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929 - 1933 làm cho nền kinh tế xã hội của tất cả các nước tư bản chủ nghĩa đều bị đình trệ, nền dân chủ tư sản bị thủ tiêu và thay thế vào đó là nền chuyên chính của bọn phát xít.
Tháng 10 năm 1929, khủng hoảng diễn ra sớm nhất ở Mĩ rồi lan sang các nước tư bản khác. Khủng hoảng diễn ra ở tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính. Cuộc khủng hoảng đã gây ra những hậu quả hết sức nặng nề không chỉ kinh tế mà cả chính trị và xã hội cho thế giới tư bản chủ nghĩa.
Cuộc khủng hoảng ở các nước tư bản đã lan sang các xứ thuộc địa, nhân dân ở các nơi này phải chịu gánh nặng khủng hoảng của “chính quốc”.
Tại Pháp, cuộc khủng hoảng diễn ra muộn hơn, nhưng lại hết sức mạnh và sâu sắc. khủng hoảng công nghiệp xen kẽ khủng hoảng nông nghiệp và tài chính. Sản lượng công nghiệp Pháp giảm sút 1/3, nông nghiệp giảm 2/5, ngoại thương giảm 3/5 thu nhập quốc dân giảm 1/3. Cũng như nhiều đế quốc khác muốn thoát khỏi tình trạng bi thảm của cuộc khủng hoảng, giới tư bản tài chính Pháp tìm cách trút hậu quả nặng nề của nó lên đầu nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa (trong đó có Đông Dương).
b) Tình hình trong nước
Kinh tế ở Việt Nam vốn đã bị phụ thuộc vào nền kinh tế Pháp, nay trong cuộc khủng hoảng này lại càng phải gánh chịu hậu quả nặng nề hơn. Chính quyền thực dân ở Đông Dương đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính.
Nông nghiệp bị phá hoại nặng nề do giá nông sản bị sụt nhanh chóng: giá gạo từ 13,1 đ/tạ năm 1930 xuống còn 3,2 đ/tạ năm 1933; giá cao su từ 20 france/kg năm 1929 xuống còn 4 france/kg năm 1931. Hàng ngàn hécta đồng ruộng bị bỏ hoang, hàng trăm đồn điền bị thu hẹp diện tích hoặc ngưng hoạt động. Từ năm 1930 - 1933 diện tích đất hoang hóa từ 200.000 ha - 500.000 ha. Sản xuất gạo giảm từ 1.797.000 tấn năm 1928 xuống còn 959.000 tấn năm 1931.
Sản xuất công nghiệp cũng bị đình đốn, nhất là ngành khai mỏ. Hàng loạt nhà máy xí nghiệp đóng cửa, thương mại xuất nhập khẩu đều bị sút giảm, trị giá xuất khẩu giảm từ 18.000.000 đồng Đông Dương (năm 1929) chỉ còn 10.000.000 đồng Đông Dương (năm 1934), hàng vạn công nhân và lao động bị sa thải hoặc nghỉ việc.
Để góp phần giải quyết khủng hoảng kinh tế ở chính quốc và giữ cho Đông Dương trong quỹ đạo thực dân, thực dân Pháp cho ngưng lại cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II theo quy mô lớn đang diễn ra, đồng thời chúng khẩn trương áp dụng những biệp pháp cấp thiết ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Trước hết là việc Pháp cho thắt chặt hàng rào thuế quan, chỉ ưu tiên cho hàng hóa Pháp vào Đông Dương, kiên quyết giành độc quyền thương mại ở thị trường này. Hàng Pháp vào Đông Dương từ chỗ chỉ chịu mức thuế thấp nhất (2,5%) đến việc miễn thuế hoàn toàn, trong khi hàng các nước vào thị trường này chịu thuế ngày một cao, có thứ phải nộp thuế 100% giá trị hàng hóa.
Việc tăng thuế cũng là một biện pháp sớm được chú ý. Thuế thân ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ tăng 20%, thuế môn bài tăng từ 3 - 8 lần. Các biện pháp thu tài chính khác ở Đông Dương như mở công trái, lạc quyên, vay dài hạn… cũng được áp dụng, tất cả đã đem về cho ngân sách liên bang một nguồn thu lớn và tăng nhanh. Chỉ tính năm 1930 có 17 khoản thu ngoài thuế đã đem về cho ngân sách 117.000.000 đồng. Chính phủ Pháp còn quy định lại giá trị đồng bạc Đông Dương, tiến hành thu bạc cũ đổi bạc mới có lượng bạc kém hơn. Chỉ tính khoản thu chênh lệch 7 gram/ đồng đã thu được 49.000.000 đồng.
Đối với chủ tư bản người Pháp ở thuộc địa, chính quyền thực hiện “trợ cấp tài chính” để giúp họ khỏi bị phá sản. Một số nhà tư bản được hợp nhất lại cả vốn liếng vào quy mô kinh doanh, tạo ra sức cạnh tranh lớn hơn để tồn tại và phát triển, nhất là trong các ngành trồng lúa, cao su, cà phê. Trong quan hệ chủ - thợ, chính phủ thực dân cho ban hành một số quy chế lao động mới như chế độ lao động đới với phụ nữ, trẻ em, trách nhiệm vi phạm luật lệ lao động, hoà giải tranh chấp về lao động…, nhìn chung là các “qui chế” này chỉ nhằm bảo vệ cho giới chủ tư bản, góp phần xoa dịu bởi mâu thuẫn của giới lao động.
*Về chính trị - xã hội, chính quyền thực dân ở Đông Dương thi hành chính sách hai mặt. Một mặt là đẩy mạnh các biện pháp văn hóa giáo dục, tuyên truyền lôi kéo người bản xứ, tranh thủ các tầng lớp thượng lưu, tô vẽ cho cái gọi là “văn minh khai hóa”, đề cao tư tưởng chống cộng, coi chống cộng là một chủ thuyết trong các hoạt động chính trị - xã hội.
Mặt khác chúng thi hành chính sách khủng bố trắng một cách tàn bạo ở cả thành thị và thôn quê, nhất là từ sau khởi nghĩa Yên Bái tháng 2/1930. Bạo lực của chính quyền thực dân đã gây ra nhiều tổn thất cho các lực lượng yêu nước, nhưng địch vẫn không tạo được sự yên ổn về chính trị và trật tự xã hội, ngược lại nó chỉ làm ngột ngạt thêm không khí ở thuộc địa, làm âm ỉ thêm trong lòng xã hội những ngọn lửa đấu tranh quyết liệt mà thôi.
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội thuộc địa Việt Nam tiếp tục phân hóa, mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp tiếp tục tăng lên. Giai cấp nông dân và giai cấp vô sản là hai bộ phận đông đảo nhất trong xã hội, cũng là hai đối tượng chủ yếu của chính sách bóc lột vơ vét của tư bản Pháp ở thuộc địa. Họ lại có đời sống bị bần cùng hóa và hiện đang bị đe dọa trực tiếp bởi nạn chết đói, thất nghiệp không có cách nào chống đỡ. Người Pháp lúc đó đã tận mắt nhìn thấy và loan báo “người ta có thể cầm chắc là nông dân sống ở cái mức cùng cực của đói kém và nghèo khổ”, còn công nhân thì những người chưa bị sa thải có đồng lương “không bao giờ vượt quá từ 2 - 2,5 france/ ngày (tức là 20 - 25 xu/ ngày). Trong các xưởng dệt ngày làm việc từ 7 giờ sáng đế 9 giờ tối, ở các đồn điền công nhân phải làm việc từ 15 - 16 giờ một ngày…”. Do đó các tầng lớp lao động như nông dân, thợ thủ công, vô sản, cùng những người làm nghề tự do ở cả thành thị và thôn quê, đều mong muốn đấu tranh cải thiện đời sống và chống lại xã hội thuộc địa.
Song ngay cả trong giai cấp địa chủ, tư bản và tầng lớp thượng lưu bản xứ cũng có những bộ phận gặp nhiều khốn khó vì bị phá sản, bị chèn ép, bị vỡ nợ bởi thuế má ngày một cao và không đủ sức cạnh tranh với tư bản Pháp. Từ năm 1929 - 1933 ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn có 502 vụ án khánh tận và 160 vụ án phát mãi tài sản.
Đó cũng là lúc các thuộc địa nói chung, Đông Dương nói riêng, từ trong cùng cực của đời sống kinh tế, phải giải phóng khỏi ách thống trị của ngoại bang bằng chính sức mạnh của mình. Đông Dương trong cuộc khủng hoảng kinh tế không còn bình yên như trước nửa, đã trở thành một Đông Dương sôi động trong sự phân hóa của xã hội thuộc địa. Điều kiện vật chất xã hội ấy là cơ sở cho sự phát triển các tư tưởng mới đang du nhập vào Việt Nam.
Tư tưởng tư sản tiếp tục ăn sâu vào nhiều bộ phận xã hội nhưng kể từ sau thất bại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, những bộ phận tích cực đi theo đường lối ấy bị thất bại và tan vỡ về tổ chức làm cho nhiều người mất phương hướng, một số đi theo đường lối cải lương thì được tán dương chủ thuyết Pháp - Việt đề huề, hoặc lao sâu vào con đường tiêu cực chống phá cách mạng giải phóng dân tộc. Trong lúc đó tư tưởng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin dần dần chiếm ưu thế. Sự xuất hiện Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm 1930 khác hẳn sự ra đời của các tổ chức chính trị đương thời, đã thu hút sự chú ý của đông đảo các giai tầng xã hội. Sự tuyên truyền chống cộng đã phản tác dụng, vô hình chung lại đề cao chủng nghĩa Cộng sản. Đó cũng là lúc hình ảnh nhà nước công - nông ở Liên Xô đang có sức thuyết phục khá lớn, nhiều dân tộc bị áp bức đang mơ ước chế độ Xô - Viết… Như thế một thời kỳ đấu tranh cách mạng đi theo xu hướng mới đã xuất hiện.
* Khái quát về cao trào cách mạng 1930 – 1931
Ở Việt Nam từ năm 1930 trở đi, con đường Cách mạng vô sản đã dẫn dắt nhân dân ta đấu tranh bằng những cao trào rộng lớn. Mở đầu cho những bước phát triển mới là sự bùng nổ cao trào chống đế quốc phong kiến những năm 1930 - 1931, đỉnh cao là sự xuất hiện và tồn tại của các Xô - Viết ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Không phải là do “Cộng sản kích động” như các quan chức thực dân lúc ấy nhận định, cao trào cách mạng những năm 1930 - 1931 bùng nổ ngay sau thất bại của khởi nghĩa Yên Bái, là hậu quả của những chính sách kinh tế - xã hội của thực dân Pháp ở Đông Dương trong giai đoạn này. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 đã kịp thời đưa ra đường lối phù hợp nhất với nguyện vọng đấu tranh của xã hội lúc đó, vì vậy Đảng Cộng Sản đã trở thành người lãnh đạo phong trào dân tộc.
Bắt đầu là những cuộc đấu tranh ôn hòa ủng hộ các chiến sĩ Yên Bái, chống chính sách khủ bố trắng của Pháp, nổ ra từ tháng 2 - 4/1930. Phong trào được mở màn bằng các cuộc bãi công ở đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, lan nhanh ra khắp thành thị và thôn quê ở Bắc - Trung - Nam. Qua đó các Đảng bộ địa phương được thống nhất về tổ chức, quần chúng công nông được tập hợp lại, tinh thần đấu tranh của nhân dân tiếp tục được hâm nóng lên và gây dựng phong trào thành phong trào mới.
Ngày 1/5/1930 nhân kỷ niệm Quốc Tế Lao động, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ động giành lấy việc phát động phong trào trên phạm vi toàn quốc với 2 lực lượng đông đảo nhất là vô sản và nông dân cờ đỏ búa liềm lần đầu tiên xuất hiện ở các thành phố lớn và nhiều vùng thôn quê. Những cuộc mít - tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng kỷ niệm ngày 1/5 được tổ chức thật rầm rộ. Trong đó cuộc mít - tinh ở Vinh - Bến Thủy đã bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Quần chúng rất căm phẫn, được nhân dân các vùng xung quanh ủng hộ, họ tiếp tục đấu tranh chống khủng bố. Phong trào của công nông từ Vinh - Bến Thủy lan nhanh sang các huyện, tổng của hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Với sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân theo lời kêu gọi của Xứ ủy Trung Kỳ. Chỉ 3 tháng kể từ 1/5/1930 ở Nghệ An và Hà Tĩnh có 97 cuộc đấu tranh. Đó là bước chuẩn bị trực tiếp đưa phong trào ở đây lên đỉnh cao.
Từ cuối tháng 8/1930 những cuộc biểu tình với quy mô lớn ở các vùng nông thôn 2 tình Nghệ An và Hà Tĩnh đã lôi kéo hàng chục ngàn người kết thành một khối, mít - tinh biểu tình, biểu dương lực lượng. Cuộc đấu tranh nọ kế tiếp cuộc đấu tranh kia nổ ra không dứt và chuyển sang bạo động. Ngày 30/8/1930, hơn 3 ngàn nông dân huyện Nam Đàn biểu tình kéo đến huyện lỵ phá huyện đường. Ngày 1/9/1930, gần 20.000 nông dân huyện Thanh Chương đấu tranh với khí giận ngút trời. Ngày 7/9/1930 hơn 3000 nông dân huyện Can Lộc kéo vào huyện đường đốt sổ sách, giấy tờ, sổ sách của chính quyền tay sai, phá nhà lao. Ngày 12/9/1930, hơn 8.000 nông dân huyện Hưng Nguyên biểu tình và bị đàn áp dã man tại ga Yên Xuân nhưng quần chúng vẫn không nao núng, họ càng tập họp đông hơn và xông lên tấn công vào hệ thống chính quyền địch ở cơ sở. Quần chúng nông dân các vùng nông thôn được công nhân các nhà máy, xí nghiệp ở Vinh, Bến Thủy ủng hộ, đã biểu dương sức mạnh đoàn kết, lòng căm thù, ý chí quyết đấu đòi tự do cuộc sống. Trong quá trình đó sự tàn bạo của kẻ thù càng làm cho nhân dân sôi sục.
Trước khí thế “xông lên chọc trời” của quần chúng cách mạng, chính quyền thực dân phong kiến ở nhiều nơi của Nghệ An - Hà Tĩnh đã bị tan rã, hoặc tê liệt, bỏ chạy. Trong tình hình đó các chi bộ Đảng và tổ chức Nông Hội Đỏ ở các thôn - xã đứng ra quản lý, điều hành mọi hoạt động trong địa phương thay thế vào vị trí các cơ sở chính quyền địch đã bỏ trống. Dựa theo những hiểu biết sơ lược về chính quyền Xô Viết ở nước Nga qua các tài liệu và báo chí của Đảng, người ta gọi các tổ chức vừa dựng lên là Xã Bộ Nông, Thôn Bộ Nông hoặc các Xô Viết Mặc dù còn sơ khai nhưng các Xô Viết Nghệ Tĩnh đã có thực chất là một chính quyền cách mạng của công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua Đảng tiên phong của nó. Việc đập tan bộ máy chính quyền cũ, xây dựng bộ máy chính quyền mới, tổ chức một xã hội mới dân chủ tự do thật sự cho nhân dân lao động, tích cực bảo vệ chính quyền vừa giành được…, đó là những nhiệm vụ lớn lao mà các Xô Viết đã bước đấu thực hiện, nhất là các Đảng bộ ở đây chưa sẵn sàng, các điều kiện chủ quan, khách quan, thu
Thuận lợi của cách mạng cả nước chưa có, những việc làm tích cực đó còn là sự đột phá táo bạo. Các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh chỉ được tồn tại chưa đầy 8 tháng, kể từ tháng 9/1930, nhưng đã có nhiều cố gắng sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa - xã hội. Đó là những hoạt động bãi bỏ các thứ thuế vô lý, bất công; chia lại đất công cho nông dân nghèo kể cả nam và nữ; quy định lại tô tức; tổ chức sản xuất chung; trợ cấp gia đình thiếu túng; bài trừ phong tục tập quán lạc hậu; lập Đội Tự Vệ Đỏ; xây dựng các đoàn thể quần chúng… Chính bọn tay sai của thực Pháp cũng phải thừa nhận một thực tế trong các Xô Viết: “Họ chôn cất người chết, cấp tiền bạc cho gia đình người chết hoặc bị nạn trong các cuộc biểu tình, cho cả những người nghèo khổ nữa. Họ phát thuốc cho người ốm, xử các vụ kiện tụng. Họ trừng trị những người nghiện thuốc phiện, nghiện rượu và cấm các hội hè cúng tế trong làng…”
Xô Viết Nghệ Tĩnh đã thu hút sự chú ý quan tâm của nhiều lực lượng trong, ngoài nước lúc đó. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng Sản Đông Dương, cả nước dấy lên phong trào đấu tranh, ủng hộ Xô Viết, chống khủng bố trắng. Nguyễn Ái Quốc và Quốc Tế Cộng Sản rất chú ý theo dõi và góp ý kiến cho những người cộng sản Đông Dương để bảo vệ các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh. Ở các nước Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ đã có nhiều hoạt động báo chí và xã hội ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Còn bọn thực dân phong kiến thì vô cùng hoảng sợ. Chúng cho rằng “Từ khi nước Pháp đặt nền đô hộ trên đất nước này, chưa bao giờ có một nguy cơ nào đe dọa sự an nguy nội bộ của mình lớn hơn, thực sự hơn” và nó “Rất trầm trọng… tầm rộng lớn của nó đã làm chúng ta sửng sốt…”. Chính vì vậy từ Toàn quyền Đông Dương Pasquier, Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol đến các lực lượng tay sai trong chính phủ Nam triều, đều trực tiếp đến Nghệ An - Hà Tĩnh để vạch kế hoạch bình định. Sau đó là hàng loạt biện pháp tàn bạo và nham hiểm cùng với các biện pháp lừa bịp của chúng đã được tung ra để đàn áp các Xô Viết.
Đồn bót được dựng lên dày đặc, binh lính các nơi được điều động về, bắn giết bắt bớ giam cầm là những hoạt động đầu tiên của những công cụ bạo lực mà chính quyền thực dân đối phó với phong trào quần chúng. Các chính sách “Lấy quan nhà trị dân nhà”, “Buộc dân cày ra đầu thú” được đem ra áp dụng. Chúng “Phát thẻ quy thuận”, tổ chức “Rước cờ vàng”, chúng lập “Xã đoàn”, dùng sách báo tranh ảnh tuyên truyền vu cáo nói xấu công sản… Trong thực tế lúc ấy địch chỉ cần dùng 1 biện pháp quân sự cũng thừa sức để đàn áp các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh, nhưng chúng đã không từ một biện pháp nào kể cả các biện pháp kinh tế xã hội và lừa mị để đánh phá cách mạng. Đến giữa năm 1933 các Xô Viết Nghệ Tĩnh lần lượt thất bại. Tuy nhiên, đó không phải là sự thất bại của đường lối và phương pháp Cách mạng vô sản. Xô Viết Nghệ Tĩnh và cả phong trào cách mạng 1930 - 1931 là minh chứng hùng hồn nhất cho truyền thống yêu nước, lòng dũng cảm kiên cường, sức sống mãnh liệt và sức sáng tạo phi thường của dân tộc Việt Nam. Nó khẳng định trong thực tế: Đường lối cách mạng, uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng, của giai cấp vô sản Việt Nam. Nó sáng tạo ra nhiều hình thức và phương pháp đấu tranh mới cho cách mạng; đồng thời nó để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho những người yêu nước và cách mạng đang đấu tranh cho nền tự do và độc lập của Tổ quốc.
Về vị trí của cao trào cách mạng này, Đảng ta đã đánh giá: “Trực tiếp mà nói, không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930 - 1931 trong đó công - nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi thường của mình thì không thể có cao trào những năm 1936 - 1939”. Cao trào đấu tranh cách mạng 1930 -1 931 đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, là “Bước thắng lợi đấu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển về sau của cách mạng.”
2. Đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam từ năm 1930 – 1935
a) Hội nghị lần thứ nhất BCH TW lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam (14 - 30/10/1930)
Tháng 10-1930, giữa lúc phong trào cách mạng đang diễn ra sôi nổi trên cả nước, Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Luận cương chính trị, bầu ra Ban chấp hành Trung ương chính thức do Tổng bí thư Trần Phú đứng đầu.
*Luận cương chính trị
· Nội dung:
- Luận cương đã phân tích đặc điểm tình hình xã hội thuộc địa nửa phong kiến và nêu lên những vấn để cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Luận cương chỉ rõ: mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyển, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
- Luận cương vạch ra phương hướng cách mạng Đông Dương là: lúc đầu cách mạng đông là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, có tính chất thổ địa và phản đế “tư sản dân quyền cách mạng là thời kì dự bị để làm xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư sản dân quyển thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kì tư bổn mà tranh đấu để thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
- Luận cương khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là: đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khắn khít với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chũ nghĩa mới phá tan được giai cấp địa chủ, để tiến hành cách mạng thổ địa thắng lợi và có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Trong hai nhiệm vụ này, luận cương xác định: vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, là cơ sở để Đảng lãnh đạo dân cày. Về lực lượng cách mạng luận cương chỉ rõ, giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng. Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng, tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kì đầu. Chỉ có các phần tử đau khổ ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.
- Về phương pháp cách mạng Luận cương chỉ rõ: để đạt được mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công nông thì phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường “võ trang bạo động”. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật “phải theo khuôn phép nhà binh”.
- Đối với quốc tế Luận cương khẳng định cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên lạc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở Đông Dương.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng, Luận cương khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mac- Lenin làm nền tảng tư tưởng, đại biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương, đấu tranh để đạt được mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
· Ý nghĩa của luận cương:
Từ nội dung cơ bản như trên có thể thấy Luận cương đã khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng mà Cương Lĩnh chính trị đầu tiên đã nêu ra. Song Luận cương chính trị của Trần Phú có mặt khác nhau so với Cương lĩnh chính trị của Nguyễn Ái Quốc như sau:
Luận cương chính trị không nêu ra mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, mà lại đặt nặng về đấu tranh giai cấp và về cách mạng ruộng đất.
Đánh giá không đúng vai trò của tầng lớp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc và chưa thấy được khả năng phân hóa, lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc, từ đó Luận cương đã không đề ra một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp, tức là không xây dựng được một mặt trận dân tộc chống đế quốc và tay sai.
- Nguyên nhân chủ yếu của những mặt khác nhau:
Thứ nhất, Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững những đặc điểm của xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam.
Thứ hai, do nhận thức giáo điều máy móc về vấn đề dân tộc và giai cấp lại chịu ảnh hưởng trực tiếp khuynh hướng “tả” của Quốc tế Cộng Sản. Vì vậy BCHTW tháng 10/1930 đã không chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ của Nguyễn Ái Quốc được nêu trong đường cách mệnh, chánh cương vắn tắt và sách lược vắn tắt.
- Luận cương chính trị của Đảng năm 1930 đã đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của cách mạng Việt Nam, trang bị cho những người cộng sản Đông Dương vũ khí sắc bén để đấu tranh với các tư tưởng phi vô sản. Và những nhược điểm trên đã được Đảng dân dần khắc phục qua thực tiễn của đấu tranh cách mạng.
b) Chủ trương khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng:
Giữa lúc cao trào 1930-1931 của quần chúng nhân dân do Đảng phát động đang dân cao thì đế quốc Pháp và tay sai thẳng tay đàn áp, khủng bố hòng dập tắt phong trào và tiêu diệt Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Hàng vạn người bị bắt, tù đày. Các trại giam, nhà tù chật ních tù chính trị như tù Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), Côn Đảo… Từ năm 1930-1933, thực dân Pháp bắt giam 246532 người riêng Côn Đảo từ năm 1930-1935 có 833 tù chính trị bị tra tấn đến chết.
Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và địa phương bị phá vỡ, hầu hết các ủy viên BCHTW Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ bị bắt.
Trong hoàn cảnh đó những người cộng sản đó vẫn kiên cường đấu tranh. Những Đảng viên trong tù kiên trì bảo vệ lập trường, quan điểm cách mạng của Đảng, tổng kết bài học kinh nghiệm chỉ đạo phong trào, tổ chức vượt ngục, những đảng viên không bị bắt thì tìm cách gây dựng lai tổ chức Đảng.
Một số đảng viên đang hoạt động ở Trung Quốc, Xiêm trở về nước hoạt động.
Đầu năm 1932 Lê Hồng Phong và một số đồng chí nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng Sản tổ chức ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6-1932 Ban lãnh đạo Trung ương đã công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Đây là văn kiện chính trị quan trọng của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kì cách mạng Đông Dương đang thoái trào, nhằm giữ vững sự ổn định và thống nhất tư tưởng, chính trị và tổ chức trong toàn Đảng, tiếp tục đấu tranh theo hình thức thích hợp, liên kết những yêu cầu khẩn thiết trước mắt với những nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng phản đế và cách mạng ruộng đất để khôi phục lực lượng, tiếp tục đưa cách mạng tiến lên. Trên cơ sở khẳng định đường lối, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Đông Dương được vạch ra trong Luận cương chính trị tháng 10.1930, Chương trình đã nêu ra 4 yêu cầu chung: đòi chính quyền thực dân thực hiện các quyền tự do dân chủ; chống chính sách đàn áp cách mạng, thả tù chính trị, thủ tiêu hội đồng đề hình; bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế khác, miễn thuế cho dân nghèo; bỏ độc quyền rượu, thuốc phiện, muối và những yêu sách riêng cho mỗi tầng lớp nhân dân. Chương trình nêu lên sự cấp thiết phải củng cố, phát triển Đảng, các đoàn thể cách mạng của quần chúng, nhất là công hội và nông hội, tổ chức mặt trận thống nhất các lực lượng phản đế; phải kết hợp những khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp với hoạt động bí mật, kết hợp những yêu sách kinh tế với yêu sách chính trị, kết hợp yêu sách từng phần với những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền. Chương trình hành động đã giữ vững và giương cao ngọn cờ cách mạng của Đảng, góp phần khôi phục nhanh chóng phong trào cách mạng và chuẩn bị cho Đại hội I của Đảng.
Những yêu cầu trước mắt về chính trị cùng với những biện pháp tổ chức do Đảng vạch ra trong chương trình phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Phong trào cách mạng từng bước đã được khôi phục. Trên cơ sở đó, Đảng ta còn tích cực đẩy mạnh việc phát triển các tổ chức cơ sở Đảng, giữ vững tinh thần cách mạng tiến công, kiên trì lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng.
Khi hệ thống tổ chức của Đảng được khôi phục từ cơ sở tới Trung ương, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng quyết định triệu tập Đại hội Đảng. Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội đề ra các nhiệm vụ trước mắt: Củng cố và phát triển Đảng cả về lượng và chất; Đẩy mạnh cuộc vận động và thu phục quần chúng; Tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc…
Có thể nói những năm đầu tiên trên con đường Cách mạng vô sản, phong trào dân tộc sau hơn nửa thế kỷ tồn tại, phát triển đã có những yếu tố căn bản được kiểm nghiệm trong thực tế để khẳng định có thể đảm bảo đưa phong trào đến thắng lợi cuối cùng.
II. Giai đoạn 1936-1939
1. Hoàn cảnh lịch sử
a) Tình hình thế giới
Cuộc khủng hoàng kinh tế trong những năm 1929-1933 ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.
Chủ nghĩa phát xít đã xuất hiện và thắng thế ở một số nơi như phát xít Hít le ở Đức,phát xít Prăngcô ở Tây Ban Nha,phát xít Mútxôlini ở Italia và phái Sĩ quan trẻ ở Nhật Bản. Chế độ độc tài phát xít là nền chuyên chính của những thế lực phản động nhất, Sôvanh nhất, tàn bạo và dã man nhất. Chúng tiến hành chiến tranh xâm lược, bành trướng và nô dịch các nước khác. Tập đoàn phát xít cầm quyền ở Đức, Italia và Nhật Bản đã liên kết với nhau thành khối "Trục", ráo riết chuẩn bị chiến tranh để chia lại thị phần thế giới và thực hiện mưu đồ để tiêu diệt Liên Xô. Nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế
Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản họp tại Mátxcơva (tháng 7-1935) dưới sự chủ trì của G.Đimitơrốp. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu đã tham dự Đại hội. Đại hội xác định:
-Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới lúc này chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung, mà là chủ nghĩa phát xít.
-Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới lúc này là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hòa bình.
-Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó,các Đảng cộng sản và nhân dân các nước trên thế giới phải thống nhất hàng ngủ của mình,lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chiến tranh,đòi tự do,dân chủ hòa bình và cải thiện đời sống.
-Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa,Đại hội chỉ rõ: Do tình hình thế giới và trong nước thay đổi nên vấn đề lập mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt
b) Tình hình trong nước
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933 đã tác động sâu sắc đến đời sống các tầng lớp nhân dân. Bọn phản động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân để phục vụ cho chiến tranh, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ và thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.
Tình hình trên đây làm cho các giai cấp và tầng lớp xã hội tuy có quyền lợi khác nhau, nhưng đều căm thù thực dân, tư bản độc quyền Pháp và đều có nguyện vọng chung trước mắt là đấu tranh đòi được quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.
Hệ thống tổ chức của Đảng và các cơ sở cách mạng của quần chúng đã được khôi phục. Mặt khác chính phủ Mặt trận bình dân Pháp ban hành một số chính sách dân chủ cho các thuộc địa. Đối với Đông Dương Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình,ân xá tù chính trị, nới rộng quyền tự do báo chí.. Đây là những yếu tố quan trọng, quyết định bước phát triển mới của phong trào cách mạng nước ta
2. Chủ trương và nhận thức của Đảng
a) Chủ trương của Đảng
Trước những chuyển biến mới của tình hình trong nước và thế giới, đặc biệt dưới ánh sáng của chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, trong những năm 1936-1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp Hội nghị lần thứ hai (tháng 7-1936), lần thứ 3 (tháng 3-1937), lần thứ tư (tháng 9-1937) và lần thứ năm (tháng 3-1938) đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và hình thức đấu tranh mới, phù hợp với tình hình cách mạng nước ta.
*Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh:
Ban Chấp hành Trung ương xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là “cách mạng tư sản dân quyền – phản đế và điền địa – lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xô viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Song , xét rằng, cuộc vận động quần chúng hiện thời cả về chính trị và tổ chức chưa tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công nông, giải quyết vấn đề điền địa. Trong khi đó, yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy Đảng phải nắm lấy những yêu cầu này để phát động quần chúng đấu tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này.
-Về kẻ thù của cách mạng: Kẻ thù nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
-Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình.
-Về đoàn kết quốc tế: Để tập trung, cô lập và chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng vào Đông Dương, đòi các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, thì không những phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, “ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp”, mà còn phải đề ra khẩu hiệu “ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp” để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn phát xít ở Pháp và bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương.
-Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Chuyển từ hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp. Trong khi tranh thủ mở rộng các hình thức tổ chức đấu tranh công khai hợp pháp thì tránh sa vào chủ nghĩa công khai, mà phải giữ nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức và hoạt động bí mật của Đảng,giữ vững mối quan hệ giữa bí mật và công khai,hợp pháp và không hợp pháp và phải bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức Đảng bí mật đối với những tổ chức và hoạt động công khai hợp pháp.
-Về chủ trương: Thành lập mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương. Tháng 3/1938, đổi tên thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương
*Một số phong trào đấu tranh đòi quyền tự do dân sinh, dân chủ tiêu biểu như:
- Phong trào Đông Dương Đại hội. Năm 1936, Đảng vận động và tổ chức nhân dân thảo ra bản dân nguyện vọng gửi tới phái đoàn chính phủ Pháp, tiến tới triệu tập Đông Dương Đại hội (8-1936). Các ủy ban hành động thành lập khắp nơi, phát truyền đơn, ra báo, mít tinh, thảo luận dân chủ, dân sinh…) . Tháng 09/1936 Pháp giải tán Ủy ban hành động, cấm hội họp, tịch thu các báo. Qua phong trào, đông đảo quần chúng được giác ngộ, đoàn kết đấu tranh đòi quyền sống. Đảng thu được một số kinh nghiệm về phát động và lãnh đạo đấu tranh công khai, hợp pháp.
-Phong trào đón Gô –đa: năm 1937, lợi dụng sự kiện đón Gô đa và Toàn quyền mới sang Đông Dương, Đảng tổ chức quần chúng mít tinh, biểu dương lực lượng đưa yêu sách về dân sinh, dân chủ .
-1937-1939: nhiều cuộc mít tinh , biểu tình đòi quyền sống tiếp tục diễn ra , nhân ngày Quốc tế lao động 01/05/1938, lần đầu tiên nhiều cuộc mít tinh tổ chức công khai ở Hà Nội, Sài Gòn có đông đảo quần chúng tham gia.
b) Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ
-Tháng 10/1936 Trung ương Đảng được tổ chức lại do đồng chí Hà Huy Tập làm tổng bí thư, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới, ban chấp hành trung ương Đảng cũng đặt ra vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng Đông Dương: Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không nhất thiết phải gắn kết chặt với cách mạng điền địa. "Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước.Nghĩa là chọn địch nhân chính,nguy hiểm nhất để tập trung,để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng".Đây là nhận thức mới của Ban Chấp hành Trung ương, nó phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
-Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa những năm 1936 trở đi khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo đúng đắn của Đảng. Hội nghị lần thứ ba (3/1937),lần thứ tư(9/1937) và tiêp đó là hội nghị lần thứ năm (3/1938) đã đi sâu về công tác tổ chức của Đảng,quyết định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp được đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa,chống phát xít,đòi tự do,cơm áo,hòa bình.
-Tháng 3-1939, Đảng ra bản Tuyên ngông của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc, nêu rõ họa phát xít đang đến gần, Chính phủ Pháp hiện đã nghiêng về phía hữu, ra sức bóp nghẹt tự do dân chủ, tăng cường bóc lột nhân dân và ráo riết chuẩn bị đấu tranh. Tuyên ngôn kêu gọi các tầng lớp nhân dân phải thống nhất hành động hơn nữa trong việc đòi các quyền tự do dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh đế quốc.
-Tháng 7-1939 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích. Tác phẩm đã phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận dân chủ Đông Dương- một vấn đề chính trị trung tâm của Đảng lúc đó. Tác phẩm Tự chỉ trích chẳng những có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh để khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng cường đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận quan trọng về xây dựng Đảng, về công tác vận động thành lập mặt trận thống nhất rộng rãi trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.
Tóm lại, trong những năm 1936-1939 chủ trương mới của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ của mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, các mối quan hệ giữa liên minh công-nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa phong trào cách mạng Đông Dương, phong trào cách mạng ở Pháp và trên thế giới, đề ra các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, thích hợp nhằm hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền thắng lợi hàng ngày, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh cao hơn vì độc lập và tựu do
Các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương trong thời kì này đánh dấu bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh và tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng, mở ra một cao trào mới trong cả nước
Cao trào cách mạng 1936-1939 thực sự là cuộc vận động cách mạng sâu rộng, hiếm có ở một nước thuộc địa, đã tuyên truyền đường lối chủ trương cách mạng của Đảng cho quảng đại nhân dân, mở rộng lực lượng và trận địa cách mạng, sáng tạo nên những hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh mới linh hoạt, gắn kết phong trào cách mạng Đông Dương vơi cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa phát xít của nhân dân thế giới.