Hỏa ngục - Tiểu thuyết mới nhất của Dan Brown



Chương 36


Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc.
Sienna lặp lại những từ này trong lúc tiếp tục xem xét từng phân một trong quang cảnh chiến trận dữ dội của Vasari, hy vọng có thể thấy chi tiết gì đó nổi bật.
Cô nhìn thấy những đôi mắt chết chóc ở khắp mọi nơi.
Bọn mình đang tìm kiếm cặp mắt nào đây?
Cô tự hỏi liệu cặp mắt chết chóc có ám chỉ tới những xác chết thối rữa rải rác khắp châu Âu do dịch hạch không.
Ít nhất điều đó cũng giải thích cho cái mặt nạ dịch hạch…
Bất ngờ, một bài đồng dao trẻ con nảy ra trong tâm trí Sienna: Cổ đeo chuỗi hồng hoa. Túi đầy cỏ với hoa. Hóa thành đám tro tàn. Tất cả đều ra ma.
Cô thường hát bài đồng dao này khi còn là một nữ sinh ở Anh cho tới khi nghe nói bài đồng dao xuất xứ từ trận dịch hạch ở London năm 1665. Người ta cho rằng, chuỗi hồng hoa là nói đến những cục hạch sưng tấy có quầng đỏ trên da phát triển thành chuỗi và là dấu hiệu cho thấy một người đã bị nhiễm bệnh. Người bệnh thường mang theo trong túi áo đầy các loại thảo dược hoặc hoa với hy vọng được bảo vệ trước mùi cơ thể đang bị hủy hoại của chính họ cũng như mùi hôi thối của cả thành phố, nơi hàng trăm nạn nhân dịch hạch bỏ mạng mỗi ngày, và xác họ được hỏa thiêu sau đó. Hóa thành đám tro tàn [19]. Tất cả đều ra ma.
“Ơn chúa”, Langdon đột ngột buột miệng, xoay người về phía bức tường đối diện.
Sienna tò mò. “Có gì không ổn à?”
“Đó là tên một tác phẩm nghệ thuật từng được trưng bày ở đây. Ơn chúa.”
Bối rối, Sienna nhìn Langdon vội vã băng ngang phòng về phía một cánh cửa kính nhỏ và cố gắng mở ra. Cửa đã bị khóa. Anh áp mặt vào kính, khum hai bàn tay quanh mắt và nhìn vào bên trong.
Dù Langdon đang cố tìm kiếm cái gì, Sienna cũng hy vọng anh tìm thấy thật nhanh. Ông bảo vệ vừa xuất hiện lần nữa, lần này mang vẻ mặt nghi ngờ rất rõ ràng khi nhìn thấy Langdon đi tới săm soi một cánh cửa khóa kỹ.
Sienna rối rít vẫy tay với ông bảo vệ, nhưng ông ta lạnh lùng nhìn cô một lúc lâu và đi mất.
Lo Studiolo.
Nằm phía sau cánh cửa kính, ngay đối diện mấy từ cerca trova được giấu kỹ trong Sảnh Năm trăm, là một gian nhỏ xíu không có cửa sổ. Được Vasari thiết kế như một phòng làm việc bí mật cho Công tước Francesco I, gian Studiolo vuông vức có trần uốn thành vòm tròn như hầm rượu, khiến cho người ở bên trong có cảm giác như đang ở trong một hòm châu báu cỡ lớn.
Rất phù hợp là nội thất gian phòng cũng lấp lánh những món đồ đầy thẩm mỹ. Hơn ba mươi bức tranh hiếm có trang hoàng cho những bức tường và trần nhà, được treo sát nhau đến mức không còn không gian trống nào trên tường. Cú ngã của Icarus… Phúng dụ đời người… Mẹ Thiên nhiên tặng Prometheus bảo ngọc…
Lúc nhìn qua lớp kính vào không gian rực rỡ phía sau, Langdon thì thào với chính mình “Cặp mắt chết chóc”.
Lần đầu tiên Langdon ở bên trong Lo Studiolo là cách đây vài năm, trong một chuyến tham quan riêng theo các lối đi bí mật của cung điện. Anh đã sững sờ khi biết có vô số cánh cửa, cầu thang và lối đi bí mật trong cung điện, chẳng khác gì tổ ong, kể cả một vài hạng mục được giấu kín phía sau những bức vẽ bên trong Lo Studiolo.
Tuy nhiên, các lối đi bí mật không phải là thứ khiến Langdon quan tâm. Thay vào đó, anh chú ý đến một tác phẩm nghệ thuật hiện đại rất táo bạo được trưng bày ở đây – Ơn Chúa – một tác phẩm gây tranh cãi của Damien Hirst, từng gây sóng gió khi xuất hiện bên trong Studiolo lừng danh của Vasari.
Một cái khuôn đầu lâu kích thước thật bằng platinum đặc, bề mặt phủ kín hơn tám nghìn viên kim cương nạm sáng lấp lánh hiện ra. Hiệu ứng vô cùng ấn tượng. Hai hốc mắt trống rỗng của cái sọ lấp loáng ánh sáng và đầy sức sống, tạo ra một cặp biểu tượng đối lập nhau – sự sống và cái chết, vẻ đẹp và sự hãi hùng. Mặc dù cái sọ kim cương của Hirst đã bị chuyển khỏi Lo Studiolo từ lâu nhưng ký ức về nó đã làm Langdon nảy ra một ý tưởng.
Cặp mắt chết chóc, anh nghĩ bụng. Một cái đầu lâu là chuẩn xác, phải không nhỉ?
Đầu lâu là một chủ đề thường xuyên xuất hiện trong Hỏa Ngục của Dante, nổi tiếng nhất là hình phạt tàn khốc đối với Bá tước Ugolino ở tầng địa ngục thấp nhất – ông ta bị kết án phải mãi mãi gặm đầu lâu của một vị tổng giám mục xấu xa.
Phải chăng bọn mình đang tìm một cái đầu lâu?
Langdon biết rõ, gian Studiolo bí ẩn được xây dựng theo kiểu “tủ bách khoa toàn thư” truyền thống. Gần như tất cả bức vẽ của gian phòng đều lắp bản lề bí mật, có thể xoay thành những hộc tủ, nơi công tước cất giữ những món đồ lạ lùng mà ông quan tâm – các mẫu khoáng vật hiếm hoi, những sợi lông vũ đẹp mắt, một hóa thạch vỏ ốc anh vũ hoàn hảo, và thậm chí người ta còn cho rằng có cả xương ống chân của một nhà sư được trang trí bằng bạc.
Rất tiếc, Langdon ngờ rằng tất cả món đồ trong các hộc tủ đều đã được dọn đi từ lâu, và anh chưa từng nghe nói có bất kỳ hộp sọ nào được trưng bày ở đây, trừ tác phẩm của Hirst.
Suy nghĩ của anh bị đứt quãng bởi tiếng cửa đóng mạnh ở đầu sảnh bên kia. Những tiếng bước chân vội vã băng qua sảnh tiến lại rất nhanh.
“Thưa ông!”, một giọng nói giận dữ quát lên. “Sảnh này không mở cửa!”
Langdon quay lại nhìn thấy một nữ nhân viên đang tiến về phía mình. Cô ấy nhỏ, với mái tóc nâu cắt ngắn. Cô ấy đang mang bầu rất lớn. Người phụ nữ hối hả tiến lại phía họ, tay chỉ vào đồng hồ và lớn tiếng gì đó về việc khu vực này chưa mở cửa. Lúc tiến lại gần hơn, cô bắt gặp ánh mắt Langdon và lập tức dừng sững lại, sửng sốt đưa tay che miệng.
“Giáo sư Langdon!”, cô ấy kêu lên, vẻ bối rối. “Tôi xin lỗi! Tôi không biết anh ở đây. Chào mừng anh trở lại!”
Langdon cứng đờ người.
Anh tin chắc mình chưa bao giờ gặp người phụ nữ này trước đó.
 


Chương 37


“Tôi suýt nữa không nhận ra anh, thưa giáo sư!”, người phụ nữ nói bằng thứ tiếng Anh nằng nặng trong lúc tiến lại gần Langdon. “May nhờ trang phục của anh.” Cô mỉm cười trìu mến và gật đầu tán thưởng bộ cánh Brioni của Langdon. “Rất thời trang. Trông anh chẳng khác gì người Ý.”
Miệng Langdon khô khốc, nhưng anh cố nở một nụ cười nhã nhặn lúc người phụ nữ đến bên anh. “Xin… chào chị!”, anh ấp úng. “Chị khỏe không?”
Cô ấy bật cười, tay ôm lấy bụng. “Kiệt sức mất rồi. Con bé Catalina đêm nào cũng quẫy đạp.” Người phụ nữ nhìn quanh phòng, vẻ ngơ ngác. “Ngài Tiểu Mái vòm không hề nói anh sẽ quay lại đây hôm nay. Tôi cứ ngỡ ông ấy đi cùng anh?”
Ngài Tiểu Mái vòm ư? Langdon hoàn toàn không hiểu cô đang nói đến ai.
Người phụ nữ rõ ràng nhận ra vẻ bối rối của anh và phì cười trấn an. “Không sao, tất cả mọi người ở Florence đều gọi ông ấy bằng biệt danh đó. Ông ấy không bận tâm đâu.” Cô nhìn xung quanh. “Ông ấy dẫn anh vào à?”
“Đúng vậy”, Sienna lên tiếng và bước lại từ bên kia sảnh, “nhưng ông ấy có cuộc hẹn ăn sáng. Ông ấy nói các chị sẽ không phiền nếu chúng tôi ngắm nghía quanh quẩn ở đây”. Sienna nhiệt tình chìa tay ra. “Tôi là Sienna. Em gái của anh Robert.”
Người phụ nữ bắt tay Sienna có phần hơi quá trịnh trọng. “Tôi là Marta Alvarez. Cô thật là may mắn vì có hẳn giáo sư Langdon làm hướng dẫn viên riêng.”
“Vâng”, Sienna tán dương, cố giấu động tác đảo mắt. “Anh ấy rất thông minh.”
Không khí chợt im ắng và có phần gượng gạo khi người phụ nữ ngắm nhìn Sienna. “Buồn cười nhỉ”, cô ấy nói, “tôi chẳng thấy có nét nào giống nhau. Có lẽ trừ chiều cao của cô.”
Langdon cảm thấy như sắp có vụ va chạm tàu hỏa đến nơi. Ngay lúc này hoặc hết cơ hội.
“Marta”, Langdon ngắt lời, hy vọng mình đã nghe chính xác tên của người phụ nữ. “Tôi xin lỗi làm phiền chị nhưng… tôi đoán có lẽ chị biết lý do vì sao tôi lại ở đây.”
“Nói thật là không hề”, cô ấy trả lời, mắt hơi nheo lại. “Tôi không tài nào tưởng tượng được là anh đang làm gì ở đây.”
Tim Langdon đập rộn lên, và trong khoảnh khắc im lặng gượng gạo sau đó, anh nhận ra canh bạc của mình sắp thua đến nơi. Đột nhiên Marta nhoẻn miệng rồi bật cười to.
“Thưa giáo sư, tôi đùa thôi! Dĩ nhiên, tôi có thể đoán tại sao anh quay lại. Thành thật mà nói, tôi không biết tại sao anh lại thấy việc đó thú vị, nhưng vì anh và ngài Tiểu Mái vòm đã bỏ gần một tiếng trên đó đêm qua nên tôi đoán anh quay lại để cho em gái anh xem phải không?”
“Phải …”, anh vội đáp. “Chính xác đấy. Tôi rất muốn chỉ cho Sienna xem, nếu việc đó không… phiền?”
Marta ngước nhìn lên ban công tầng hai và nhún vai: “Không sao. Tôi cũng lên đó bây giờ.”
Tim Langdon đập rộn lên khi anh nhìn lên ban công tầng hai ở phía sau sảnh. Mình đã ở trên đó tối qua ư? Anh chẳng nhớ gì cả. Cái ban công ấy, anh biết rõ, ngoài việc ở đúng độ cao với mấy từ cerca trova, còn là lối vào bảo tàng của cung điện, nơi Langdon luôn tới thăm mỗi khi anh ở đây.
Marta định dẫn họ đi qua sảnh thì chợt dừng lại, như thể vừa nghĩ ra gì đó. “Này, giáo sư, chẳng lẽ chúng ta không thể tìm được thứ gì đó đỡ kinh dị hơn cho cô em gái đáng yêu của anh xem à?”
Langdon chẳng biết nói sao.
“Chúng ta sẽ xem thứ kinh dị à?”, Sienna hỏi. “Cái gì thế? Anh ấy không hề nói với tôi.”
Marta mỉm cười duyên dáng và liếc nhìn Langdon. “Giáo sư, anh có muốn tôi cho em gái anh biết về nó không, hay anh muốn tự mình làm việc đó hơn?”
Langdon gần như vồ lấy cơ hội đó. “Tất nhiên rồi, Marta, tại sao chị không kể cho cô ấy nghe chứ?”
Marta quay lại phía Sienna, nói rất chậm rãi. “Tôi không biết anh trai cô đã kể với cô những gì, nhưng chúng ta sẽ lên bảo tàng để xem một cái mặt nạ rất khác thường.”
Mắt Sienna hơi mở to. “Mặt nạ gì cơ? Có phải cái mặt nạ dịch hạch xấu òm người ta vẫn đeo dịp Carnevale không?”
“Đoán giỏi lắm”, Marta nói, “nhưng không, không phải mặt nạ dịch hạch đâu. Là một loại mặt nạ khác hẳn. Người ta gọi là mặt nạ người chết.”
Marta nghe rõ tiếng Langdon há miệng sửng sốt. Cô lừ mắt nhìn anh, rõ ràng nghĩ rằng anh đang cố tình tỏ ra kịch tính một cách thái quá để dọa cô em gái.
“Đừng có nghe anh trai cô”, cô ấy nói. “Mặt nạ người chết là một phong tục rất phổ biến vào thế kỷ XVI. Về cơ bản nó chỉ là cái khuôn thạch cao theo đúng gương mặt của ai đó, được đúc một thời gian sau khi người đó qua đời.”
Mặt nạ người chết. Langdon cảm thấy tia sáng đầu tiên kể từ lúc anh tỉnh lại ở Florence. Hỏa Ngục của Dante… Nhìn qua cặp mắt chết chóc. Mặt nạ!
Sienna lên tiếng hỏi, “Người ta dùng khuôn mặt ai để đúc chiếc mặt nạ?!”
Langdon đặt tay lên vai Sienna và cố gắng trả lời một cách bình thản nhất. “Một thi sĩ nổi tiếng của Ý. Tên ông ấy là Dante Alighieri.”
 


Chương 38


Mặt trời Địa Trung Hải chiếu rực rỡ trên boong tàu The Mendacium trong lúc nó lắc lư theo những đợt sóng trên biển Adriatic. Cảm thấy mệt mỏi, Thị Trưởng uống cạn ly Scotch thứ hai và thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ phòng làm việc.
Tin tức từ Florence không được tốt.
Có lẽ một phần do lần đầu tiên uống rượu sau một thời gian rất dài, nên ông ta cảm thấy mất phương hướng và bất lực một cách lạ lùng, như thể con tàu này đã mất động cơ và đang trôi nổi vô định theo thủy triều.
Cảm giác là một điều rất xa lạ với Thị Trưởng. Trong thế giới của ông ta, luôn tồn tại một thứ la bàn đáng tin cậy – quy trình – và nó chưa bao giờ chỉ đường sai cả. Quy trình là thứ giúp ông ta đưa ra những quyết định khó khăn mà không cần phải xem xét lại.
Cũng chính quy trình yêu cầu phải từ chối Vayentha, và Thị Trưởng thực hiện việc đó không chút do dự. Ta sẽ xử lý cô ả ngay khi vụ khủng hoảng hiện tại chấm dứt.
Cũng chính quy trình đòi hỏi Thị Trưởng biết về các khách hàng của mình càng ít càng tốt. Cách đây rất lâu ông ta đã quyết định rằng Consortium không có trách nhiệm đạo đức để phán xét họ.
Cung cấp dịch vụ.
Tin tưởng khách hàng.
Không đặt câu hỏi.
Giống như lãnh đạo của hầu hết các công ty khác, Thị Trưởng chỉ cung cấp dịch vụ với giả định rằng các dịch vụ ấy sẽ được thực hiện trong khuôn khổ luật pháp. Nói cho cùng, hãng Volvo không có trách nhiệm bảo đảm rằng những bà mẹ nôn nóng [20] sẽ không phóng nhanh qua khu vực trường học, cũng chẳng khác gì việc hãng Dell sẽ phải chịu trách nhiệm nếu có ai đó sử dụng một máy tính của họ để tấn công tài khoản ngân hàng.
Còn lúc này, trước tất cả mọi chuyện đang diễn ra, Thị Trưởng thầm rủa cái đầu mối liên hệ đáng tin cậy đã giới thiệu vị khách hàng này cho Consortium.
“Ông ấy sẽ không đòi hỏi nhiều về hậu mãi và chi tiền rất hào phóng”, đầu mối liên hệ quả quyết với ông ta. “Ông ấy rất giỏi, là một siêu sao trong lĩnh vực của mình, và vô cùng giàu có. Ông ấy chỉ cần biến mất trong một hoặc hai năm thôi. Ông ấy muốn mua khoảng thời gian yên tĩnh để thực hiện một dự án quan trọng.”
Thị Trưởng đã đồng ý mà không cần suy nghĩ nhiều. Bố trí chỗ lưu trú dài hạn luôn là dịch vụ dễ kiếm tiền, và Thị Trưởng tin tưởng vào khả năng của đầu mối liên hệ.
Đúng như mong đợi, công việc đem lại bộn tiền.
Cho tới tuần trước.
Giờ đây, trước tình trạng hỗn loạn mà người đàn ông này gây ra, Thị Trưởng thấy mình đi vòng quanh chai Scotch và đếm từng ngày mong cho trách nhiệm của mình với vị khách này nhanh kết thúc.
Điện thoại trên bàn réo vang, Thị Trưởng nhận ra đó là Knowlton, một trong những điều phối viên hàng đầu của mình, đang gọi từ tầng dưới.
“Ừ”, ông ta đáp.
“Thưa ngài”, Knowlton bắt đầu nói, giọng đầy lo lắng. “Tôi không muốn làm phiền ngài chuyện này, nhưng có lẽ ngài đã biết, chúng ta có nhiệm vụ đăng tải một đoạn video lên cho truyền thông vào ngày mai.”
“Phải”, Thị Trưởng trả lời. “Đã chuẩn bị xong chưa?”
“Đã xong, nhưng tôi nghĩ có lẽ ngài cầm xem trước khi đưa lên.”
Thị Trưởng sững lại, không hiểu lời đề nghị. “Đoạn video có nhắc đến tên chúng ta hay làm ảnh hưởng thế nào đó đến chúng ta không?”
“Không, thưa ngài, nhưng nội dung khá phiền phức. Ông khách xuất hiện trên màn hình và nói…”
“Thôi đi”, Thị Trưởng ra lệnh, sửng sốt vì một điều phối viên cao cấp lại dám đề xuất việc phá vỡ quy trình ngang nhiên như vậy. “Nội dung là thứ vô hình. Cho dù vấn đề gì thì đoạn video của ông ta cũng phải được công bố, dù qua hay không qua chúng ta. Ông khách đó có thể dễ dàng công bố đoạn video này bằng hình thức điện tử, nhưng ông ấy thuê chúng ta. Ông ấy trả tiền chúng ta. Ông ấy tin tưởng chúng ta.”
“Vâng, thưa ngài!”
“Anh không được trả tiền để làm một nhà phê bình phim”, Thị Trưởng cảnh cáo. “Anh được trả tiền để giữ lời hứa. Hãy thực hiện công việc của mình.”
Trên cầu Ponte Vecchio, Vayentha vẫn đợi, đôi mắt sắc lẻm của ả quét qua hàng trăm gương mặt trên cầu. Ả rất cảnh giác và cảm thấy chắc chắn rằng Langdon chưa đi qua mặt mình, nhưng chiếc máy bay không người lái đã im tiếng, rõ ràng nhiệm vụ truy tìm của nó không còn cần thiết nữa.
Chắc Brüder đã tóm được anh ta.
Đầy miễn cưỡng, ả bắt đầu nghĩ tới viễn cảnh u ám về một phiên điều trần ở Consortium. Hay còn tệ hơn nữa.
Vayentha lại nghĩ tới hai đặc vụ đã từng bị từ chối… chẳng bao giờ còn nghe nói đến họ nữa. Chắc họ chỉ chuyển sang công việc khác, ả tự trấn an mình. Thế nhưng lúc này, ả đang tự hỏi liệu ả có nên phóng xe vào vùng đồi núi Tuscany, biến mất và sử dụng những kỹ năng của mình để bắt đầu một cuộc sống mới hay không.
Nhưng ta có thể trốn tránh họ được bao lâu?
Rất nhiều mục tiêu đã tận mắt chứng kiến khi Consortium đã để bạn vào tầm ngắm thì chuyện giữ bí mật trở thành điều ảo tưởng. Vấn đề chỉ là thời gian mà thôi.
Lẽ nào sự nghiệp của ta lại kết thúc như thế này? Ả tự hỏi, vẫn không tài nào chấp nhận được rằng công việc suốt mười hai năm ròng rã của ả ở Consortium lại chấm hết vì một loạt những sự cố không may. Suốt cả năm trời ả đã thận trọng giám sát những nhu cầu của vị khách hàng mắt xanh. Ông ấy nhảy lầu tự sát đâu phải lỗi của ta… và dường như ta đang rơi theo ông ấy.
Cơ hội chuộc tội duy nhất của ả là qua mặt được Brüder… nhưng ngay từ đầu ả đã biết đây là một việc ít có khả năng thành công.
Đêm qua ta đã có cơ hội, nhưng ta lại thất bại.
Lúc miễn cưỡng quay lại chiếc xe máy của mình, Vayentha đột nhiên nhận ra một âm thanh phía xa… tiếng rít chói lói quen thuộc.
Ngỡ ngàng, ả ngước nhìn lên. Trước vẻ ngạc nhiên của ả, chiếc trực thăng giám sát không người lái vừa cất cánh trở lại, lần này gần phía đầu kia của Cung điện Pitti. Vayentha nhìn theo trong lúc chiếc máy bay nhỏ xíu bắt đầu bay thành vòng tròn phía trên cung điện.
Chiếc máy bay trở lại hoạt động chỉ có thể đồng nghĩa với một việc.
Họ vẫn chưa tóm được Langdon!
Anh ta ở chỗ quái nào nhỉ?
Tiếng rít chói tai trên đầu lại kéo Tiến sĩ Elizabeth Sinskey ra khỏi cơn mê. Chiếc máy bay lại bay lên à? Nhưng mình nghĩ…
Bà đổi tư thế trên băng ghế sau của chiếc xe thùng, nơi anh chàng đặc vụ trẻ vẫn ngồi bên cạnh. Bà lại nhắm mắt, cố chống lại cơn đau và buồn nôn. Nhưng chủ yếu là cố chống lại nỗi sợ hãi.
Thời gian đang cạn dần.
Mặc dù kẻ thù của bà đã nhảy lầu tự sát, bà vẫn thấy bóng của hắn trong những giấc mơ, thuyết giảng cho bà trong bóng tối của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.
Rất cần người có hành động táo bạo, hắn ta tuyên bố, đôi mắt xanh lè lóe lên. Nếu không phải chúng ta, thì ai? Nếu không phải lúc này, thì bao giờ?
Elizabeth sẽ ngăn chặn hắn ngay khi có cơ hội. Bà sẽ không bao giờ quên lúc thoát vội khỏi cuộc gặp gỡ đó và lao vào ghế sau chiếc limousine, rồi băng qua Manhattan về phía Sân bay quốc tế JFK. Sốt ruột muốn biết ngay gã điên này là kẻ nào, bà rút điện thoại di động và nhìn kỹ tấm hình vừa chụp được.
Khi nhìn tấm hình, bà thốt lên kinh ngạc. Tiến sĩ Elizabeth Sinskey biết chính xác người đàn ông này lài ai. Tin mừng là rất dễ lần theo dấu vết hắn. Nhưng rủi thay hắn lại là một thiên tài trong lĩnh vực của mình – hắn lựa chọn trở thành một con người rất nguy hiểm.
Chẳng có gì sáng tạo… có sức phá hủy… hơn một bộ óc xuất chúng với một mục tiêu.
Lúc đến sân bay ba mươi phút sau đó, bà gọi cho đội của mình và đưa người đàn ông này vào danh sách theo dõi khủng bố sinh học của tất cả cơ quan chức năng trên thế giới – CIA, CDC, ECDC, và tất cả tổ chức tương tự trên toàn cầu.
Đó là những gì mình có thể làm cho tới khi trở lại Geneva, bà nghĩ.
Kiệt sức, bà mang hành lý tới quầy làm thủ tục và trao cho cô nhân viên hộ chiếu cùng vé của mình.
“Ồ, Tiến sĩ Sinskey”, cô nhân viên mỉm cười nói. “Một quý ông rất lịch thiệp vừa gửi một tin nhắn cho bà.”
“Sao cơ?”, Elizabeth không hề biết ai đó lại nắm được thông tin chuyến bay của bà.
“Ông ấy rất cao?”, cô nhân viên nói. “Với đôi mắt màu xanh lục?”
Elizabeth buông rơi hành lý. Ông ta ở đây ư? Bằng cách nào?! Bà nhìn quanh, săm soi những gương mặt phía sau mình.
“Ông ấy đã đi rồi”, cô nhân viên nói, “nhưng ông ấy muốn chúng tôi trao cho bà thứ này”. Cô ấy đưa cho Elizabeth một tờ giấy gấp lại.
Elizabeth run run mở tờ giấy và đọc lời nhắn viết bằng tay.
Đó là một câu trích nổi tiếng rút ra từ tác phẩm của Dante Alighieri.
“Những nơi tăm tối nhất của địa ngục
dành riêng cho những kẻ
giữ thái độ trung dung
trong những thời kỳ khủng hoảng đạo đức.”
 


Chương 39


Marta Alvarez mỏi mệt ngước nhìn cầu thang dốc đứng dẫn từ Sảnh Năm trăm lên bảo tàng trên tầng hai.
Mình có thể làm được mà, cô ấy tự nhủ.
Là nhân viên quản lý văn hóa và nghệ thuật tại Cung điện Vecchio, Marta đã leo lên cầu thang này không biết bao nhiêu lần, nhưng gần đây, khi đã mang thai hơn tám tháng, việc leo lên cầu thang này trở nên nhọc nhằn hơn rất nhiều.
“Marta, chị có chắc chúng ta không cần đi cầu thang máy không?” Robert Langdon nhìn đầy vẻ quan tâm và ra hiệu về phía buồng thang máy nhỏ gần đó, được bảo tàng lắp đặt dành cho những vị khách tàn tật.
Marta mỉm cười biết ơn nhưng lắc đầu. “Tôi đã nói với anh tối qua, bác sĩ của tôi nói việc tập luyện rất tốt cho đứa bé. Thêm nữa, thưa giáo sư, tôi biết anh sợ bị nhốt trong không gian chật hẹp.”
Langdon giật mình trước câu nói của cô ấy. “Ồ, vâng. Tôi quên mất mình đã nói đến chuyện đó.”
Quên mất đã nói đến chuyện đó ư? Marta bối rối. Mới chưa đầy mười hai giờ trước, và chúng ta đã thảo luận rất lâu về sự cố thời niên thiếu để lại tâm lý sợ hãi đó cơ mà.
Đêm qua, trong khi người bạn đồng hành phục phịch mắc lắm bệnh của Langdon, ngài Tiểu Mái vòm, lên gác bằng thang máy thì Langdon hộ tống Marta đi bộ. Trên đường đi, Langdon đã kể lại cho cô ấy câu chuyện khó quên về sự cố bị ngã xuống cái giếng hoang khi còn nhỏ và việc này khiến anh mắc chứng sợ những không gian chật chội.
Lúc này, cô em gái của Langdon vượt lên phía trước, túm tóc đuôi ngựa vàng óng của cô lúc lắc sau lưng, trong khi đó, Langdon và Marta từ từ đi lên, dừng lại vài lần để cô ấy có thể lấy lại nhịp thở. “Tôi ngạc nhiên là anh muốn nhìn lại cái mặt nạ”, cô ấy nói. “Trong tất cả các tác phẩm ở Florence, thứ này có vẻ ít thú vị nhất.”
Langdon nhún vai vẻ lấp lửng. “Tôi quay lại chủ yếu để Sienna được ngắm nó. Nhân tiện, cảm ơn chị vì đã cho chúng tôi vào đây lần nữa.”
“Dĩ nhiên là thế rồi.”
Xét ra thì danh tiếng của Langdon chắc chắn cũng đủ để tối qua thuyết phục Marta mở phòng trưng bày, nhưng thực tế anh có ngài Tiểu Mái vòm đi cùng có nghĩa là cô ấy thật sự không có lựa chọn nào khác.
Ignazio Busoni – người mang biệt danh ngài Tiểu Mái vòm – là một nhân vật tiếng tăm trong giới văn hóa ở Florence. Là giám đốc lâu năm của Museo dell’s Opera del Duomo, Ignazio giám sát tất cả lĩnh vực của di tích nổi bật nhất Florence này – Il Duomo – Vương cung Thánh đường có mái vòm màu đỏ đồ sộ nổi bật cả trong lịch sử cũng như cảnh quan của Florence. Niềm đam mê của ông ấy dành cho các danh thắng, kết hợp với trọng lượng cơ thể ngót trăm cân và khuôn mặt đỏ như gà chọi khiến ông được gắn cái biệt danh rất đôn hậu là ngài Tiểu Mái vòm – II Duomino.
Marta không biết Langdon quen thân với ngài Tiểu Mái vòm như thế nào, nhưng ông ấy gọi cho cô chiều hôm qua và nói muốn đưa một vị khách kín đáo tới xem chiếc mặt nạ người chết của Dante. Khi biết vị khách bí mật hóa ra chính là người biểu tượng học kiêm sử gia nghệ thuật người Mỹ nổi tiếng Robert Langdon, Marta cảm thấy hơi kích động vì có cơ hội dẫn hai nhân vật nổi tiếng này vào khu trưng bày của cung điện.
Khi họ lên đến đỉnh cầu thang, Marta đặt tay lên hông, thở thật sâu. Sienna đã đứng bên lan can ban công, nhìn xuống Sảnh Năm trăm.
“Vị trí tôi rất thích để quan sát căn phòng”, Marta thở hổn hển. “Cô có góc nhìn hoàn toàn khác đối với các bức bích họa. Tôi nghĩ anh trai cô đã kể cho cô nghe về thông điệp bí ẩn giấu trong bức tranh kia phải không?” Cô ấy chỉ tay.
Sienna sốt sắng gật đầu. “Cerca trova.”
Trong khi Langdon nhìn về phía gian phòng, Marta quan sát anh. Nhờ ánh sáng của những ô cửa sổ gác lửng, cô ấy không thể không nhận ra Langdon trông không ấn tượng như tối qua. Cô thích bộ cánh mới của anh, nhưng anh cần cạo râu. Gương mặt anh có vẻ xanh xao và mệt mỏi. Thêm nữa, đầu tóc anh, tối qua vốn dày và tươm tất, sáng nay trông rất tệ, như thể anh vẫn chưa tắm gội.
Marta quay lại phía bức bích họa trước khi anh nhận ra ánh mắt cô. “Chúng ta đang đứng gần như cùng độ cao với cerca trova “, Marta nói. “Cái vị có thể nhìn thấy mấy chữ đó bằng mắt thường.”
Cô em gái của Langdon tỏ ra dửng dưng với bức bích họa. “Kể cho tôi nghe về cái mặt nạ người chết của Dante đi. Tại sao nó lại ở Cung điện Vecchio này?”
Anh nào, em nấy, Marta nghĩ và lầm bầm trong bụng, vẫn không hiểu tại sao cái mặt nạ lại khiến họ say sưa đến vậy. Cái mặt nạ người chết của Dante có một lịch sử rất lạ lùng, đặc biệt là gần đây, và Langdon không phải là người đầu tiên hứng thú gần như phát rồ với nó. “Chà, nói tôi xem cô biết gì về Dante?”
Cô gái trẻ tóc vàng xinh đẹp nhún vai. “Thì cũng chỉ những điều mọi người học ở trong trường thôi. Dante là thi sĩ người Ý nổi tiếng nhất với tác phẩm Thần khúc, mô tả chuyến đi tưởng tượng của ông qua địa ngục.”
“Mới đúng một phần”, Marta đáp. “Trong trường ca, rốt cuộc Dante cũng thoát khỏi địa ngục, đi qua luyện ngục và cuối cùng đến được thiên đường. Nếu cô đã từng đọc Thần khúc, cô sẽ thấy hành trình của ông được chia thành ba phần – Hỏa Ngục, Luyện ngục và Thiên đường.” Marta ra hiệu cho họ theo cô đi dọc ban công về phía lối vào bảo tàng. “Thế nhưng, lý do chiếc mặt nạ nằm tại Cung điện Vecchio chẳng liên quan gì đến Thần khúc cả. Nó gắn với thực tiễn lịch sử. Dante sống ở Florence, và ông rất yêu thành phố này. Ông là một công dân Florence xuất chúng và quyền thế, nhưng khi diễn ra thay đổi về quyền lực chính trị, Dante đã ủng hộ nhầm phe, cho nên ông bị trục xuất ra khỏi tường thành và cấm không bao giờ được trở về.”
Marta dừng lại để thở khi họ đến gần lối vào bảo tàng. Cô lại đặt tay lên hông, ngả ra sau và tiếp tục nói. “Một số người cho rằng việc bị trục xuất là lý do vì sao mặt nạ người chết của Dante lại buồn như vậy, nhưng tôi có một giả thuyết khác. Tôi hơi lãng mạn, và tôi nghĩ rằng gương mặt buồn rầu liên quan đến một phụ nữ có tên Beatrice nhiều hơn. Các vị thấy đấy, Dante dành cả đời mình yêu điên cuồng một thiếu phụ tên là Beatrice Portinari. Nhưng buồn thay, Beatrice lại cưới một người đàn ông khác, nghĩa là Dante không những phải sống trong cảnh xa thành Florence yêu dấu của mình, mà còn phải rời xa cả người phụ nữ ông yêu say đắm. Tình yêu của ông dành cho Beatrice trở thành chủ đề chính trong Thần khúc.”
“Hay quá”, Sienna nói với giọng điệu cho thấy cô chẳng nhập tâm lấy một từ. “Nhưng tôi vẫn chưa rõ tại sao cái mặt nạ người chết lại được cất ở cung điện này?”
Marta nhận thấy việc nhấn đi nhấn lại này của cô gái trẻ vừa lạ thường vừa gần như bất lịch sự. “Chà”, cô tiếp tục trong khi bước đi, “khi Dante mất, ông vẫn bị cấm không được về Florence, và xác ông được an táng tại Ravenna. Nhưng vì người yêu đích thực của ông, Beatrice, được chôn cất ở Florence và vì Dante yêu Florence đến vậy nên việc mang mặt nạ người chết của ông đến đây giống như là một lễ vật từ tâm dành cho ông”.
“Tôi hiểu rồi”, Sienna nói. “Thế còn việc chọn tòa cung điện này?”
“Cung điện Vecchio là biểu tượng lâu đời nhất của Florence, và ở thời Dante, đây là trung tâm của thành phố. Thực tế, có một bức vẽ nổi tiếng trong thánh đường mô tả Dante đứng bên ngoài tường thành phố, bị trục xuất, trong khi nhìn rõ ở hậu cảnh là tòa tháp cung điện yêu dấu của ông. Xét theo nhiều khía cạnh, bằng cách cất mặt nạ người chết của ông ấy ở đây, chúng ta cảm thấy như cuối cùng Dante cũng được trở về nhà.”
“Hay quá”, Sienna nói, cuối cùng cũng có vẻ thỏa lòng. “Cảm ơn chị!”
Marta đến cửa bảo tàng và gõ ba lần. “Tôi, Marta đây! Chúc một buổi sáng tốt lành!”
Có tiếng chìa khóa lạch cạch phía trong và cánh cửa mở ra. Một nhân viên bảo vệ già mỉm cười mỏi mệt với cô ấy và kiểm tra đồng hồ đeo tay của mình. “Hơi sớm đấy”, ông ấy mỉm cười nói.
Marta vừa giải thích vừa ra hiệu về phía Langdon, và ông bảo vệ lập tức tươi cười nét mặt. “Chào ngài! Chào mừng trở lại đây!”
“Chào bác!”, Langdon đáp lại rất thân thiện trong khi ông bảo vệ ra hiệu cho tất cả vào trong.
Họ băng qua một gian phòng nhỏ, nơi ông bảo vệ ngắt hệ thống an ninh rồi mở cánh cửa thứ hai nặng nề hơn. Khi cửa mở ra, ông ấy bước sang bên, dang tay ra mời chào. “Xin mời vào bảo tàng!”
Marta mỉm cười cảm ơn và dẫn các vị khách vào trong.
Không gian dùng làm bảo tàng này ban đầu được thiết kế làm nơi làm việc của chính quyền, tức là thay vì là một không gian trưng bày ngổn ngang, nó là một mê cung gồm các gian phòng có diện tích vừa phải cùng rất nhiều hành lang, tất cả choán lấy nửa tòa nhà.
“Mặt nạ người chết của Dante ở góc kia thôi”, Marta nói với Sienna. “Nó được trưng bày trong một không gian hẹp gọi là hành lang, đúng ra chỉ là một lối đi giữa hai gian phòng lớn hơn. Cái mặt nạ được cất trong một tủ đồ cổ đặt chìm trong bức tường bên nên không dễ nhận ra cho tới khi các vị tới gần nó. Vì lý do này, có nhiều khách tham quan đi qua cái mặt nạ mà không hề chú ý đến nó!”
Langdon sải bước nhanh hơn, mắt nhìn thẳng về phía trước, cứ như thể cái mặt nạ có một sức mạnh lạ lùng gì đó tác động đến anh. Marta huých Sienna và thì thào, “Rõ ràng anh trai cô không hề quan tâm đến bất kỳ vật nào khác của chúng tôi, nhưng chừng nào cô đã đến đây thì đừng bỏ qua bức tượng bán thân Machiavelli hay quả cầu Mappa Mundi trong Phòng Bản đồ”.
Sienna gật đầu lịch thiệp và vẫn bước đi, mắt cô cũng nhìn thẳng về phía trước, Marta khó khăn lắm mới theo kịp. Khi họ đến gian phòng thứ ba, cô ấy đã tụt lại sau một chút và cuối cùng đành dừng lại.
“Giáo sư?”, cô ấy gọi to, thở hổn hển. “Anh… có muốn cho em gái anh xem… thứ gì đó của phòng trưng bày… trước khi chúng ta xem cái mặt nạ này không?”
Langdon quay lại, có vẻ bối rối, như thể vừa trở lại hiện tại từ một ý nghĩ xa xăm nào đó. “Xin lỗi chị nói gì cơ?”
Marta thở không ra hơi, chỉ vào một tủ trưng bày gần đó. “Một trong những… bản in lâu đời nhất cuốn Thần khúc?”
Khi nhìn thấy Marta thấm mồ hôi trên trán và cố gắng lấy lại nhịp thở, Langdon có vẻ xấu hổ. “Chị Marta, thứ lỗi cho tôi! Dĩ nhiên rồi, vâng, xem nhanh văn bản đó cũng rất thú vị.”
Langdon vội vã quay lại, để Marta hướng dẫn họ tới chỗ chiếc tủ cổ. Bên trong là một cuốn sách bọc da đã sờn, mở đến trang nhan đề rất hoa mỹ: La Divina Commedia: Dante Alighieri.
“Tuyệt vời”, Langdon thốt lên, đầy kinh ngạc. “Tôi nhận ra trang đầu sách. Tôi không biết các vị lại có một ấn bản Numeister gốc.”
Dĩ nhiên anh biết rõ mà, Marta nghĩ bụng, vẻ khó hiểu. Tôi đã cho anh xem hiện vật này tối hôm qua!
“Giữa thế kỷ XV”, Langdon nói vội với Sienna, “Johann Numeister đã tạo ra bản sách in đầu tiên của tác phẩm này. Vài trăm bản được in ra, nhưng chỉ còn khoảng chục bản. Chúng rất hiếm”.
Giờ thì Marta hiểu rằng Langdon đang cố tình giả ngây giả ngốc để có thể ra vẻ ta đây với cô em gái của mình. Việc đó dường như không hay ho cho lắm với một vị giáo sư có tiếng là khiêm tốn trong giới học thuật.
“Bản sách này mượn từ Thư viện Laurentia”, Marta kể. “Nếu cô và Robert chưa từng ghé thăm nơi đó thì rất nên đến ngay đi. Họ có hẳn một cầu thang đặc biệt do chính Michelangelo thiết kế, là lối lên phòng đọc công cộng đầu tiên trên thế giới. Sách ở đó còn được xích luôn vào ghế ngồi để không ai có thể lấy mang đi được. Dĩ nhiên, nhiều cuốn sách chỉ là các bản sao thôi.”
“Tuyệt vời”, Sienna nói, mắt ngó sâu hơn vào thư viện. “Lối này tới chỗ cái mặt nạ phải không?”
Sao phải nôn nóng thế nhỉ? Marta cần thêm một phút nữa để lấy lại nhịp thở. “Vâng, nhưng có thể hai vị muốn nghe chi tiết này.” Cô ấy chỉ tay qua hốc tường về phía một cầu thang nhỏ mất hút lên trần nhà. “Lối đó dẫn lên một sàn quan sát trên mái, nơi các vị có thể nhìn xuống trần treo nổi tiếng của Vasari. Tôi rất sẵn sàng đợi ở đây nếu các vị muốn…”
“Nào, chị Marta”, Sienna vọt miệng. “Tôi rất muốn xem cái mặt nạ. Chúng tôi không có nhiều thời gian.”
Marta đăm đăm nhìn người phụ nữ trẻ xinh xắn, vẻ khó hiểu. Cô rất không thích việc người chưa quen biết nhiều gọi nhau bằng tên riêng. Tôi là Bà Alvarez, cô thầm mắng. Và tôi đang đặc cách với các vị đấy.
“Được rồi, Sienna”, Marta sẵng giọng. “Cái mặt nạ ngay lối này thôi.”
Marta chẳng phí thời gian kể lể thêm cho Langdon và cô em gái của anh trong lúc họ đi qua dãy các phòng trưng bày để tới chỗ cái mặt nạ. Đêm qua, Langdon và Tiểu Mái vòm đã dành gần nửa tiếng trong khu vực hành lang chật hẹp để quan sát chiếc mặt nạ rồi, Marta, vốn rất tò mò trước vẻ sốt sắng của hai người đàn ông với món đồ đó, nên đã hỏi xem thái độ quan tâm ấy của họ có liên quan gì đến một loạt sự kiện bất thường xung quanh cái mặt nạ trong năm qua không. Langdon và Tiểu Mái vòm tỏ ra bối rối và không trả lời rõ ràng.
Giờ đây, trong lúc họ tiến tới hành lang, Langdon bắt đầu giải thích cho cô em gái quy trình đơn giản thường áp dụng để tạo ra một cái mặt nạ người chết. Marta thích thú nghe những mô tả cực kỳ chính xác của anh, không như lời thừa nhận không thật của anh rằng anh chưa từng nhìn thấy bản sao hiếm có cuốn Thần khúc của bảo tàng.
“Ngay sau khi có người qua đời”, Langdon mô tả, “người chết được tẩm liệm, mặt được phủ một lớp dầu ô liu. Sau đó, da được đắp một lớp thạch cao ướt, phủ kín mọi thứ - miệng, mũi, mi mắt – từ chân tóc xuống đến cổ. Khi lớp thạch cao đã cứng lại, có thể dễ dàng nhấc nó ra và sử dụng như một cái khuôn để đổ thạch cao mới vào. Chỗ thạch cao này khô lại thành một bản sao chi tiết hoàn hảo đúng với khuôn mặt người quá cố. Tục này đặc biệt phổ biến khi muốn tưởng nhớ những nhân vật lỗi lạc và thiên tài – Dante, Shakespeare, Voltaire, Tasso, Keats – tất cả họ đều có mặt nạ người chết”.
“Cuối cùng chúng ta cũng đến đây”. Marta nói khi cả ba người đến bên ngoài hành lang. Cô ấy bước sang bên và ra hiệu cho em gái của Langdon vào trước nhất. “Cái mặt nạ nằm trong tủ trưng bày dựa vào bức tường bên trái cô. Chúng ta đề nghị các vị vui lòng ở ngoài khu vực rào chắn.”
“Cảm ơn chị!” Sienna bước vào hành lang hẹp đi về phía tủ trưng bày, và ngó vào bên trong. Mắt cô lập tức mở to, và cô ngó lại nhìn anh trai với vẻ khiếp đảm.
Marta đã nhìn thấy phản ứng này cả nghìn lần. Các vị khách tới đây thường đều nhảy dựng lên và lùi ngược lại khi lần đầu tiên nhìn thấy cái mặt nạ - bộ mặt nhăn nhúm một cách kỳ dị, cái mũi khoằm và đôi mắt nhắm nghiền của Dante.
Langdon sải bước tiến vào ngay sau Sienna, đến bên cạnh cô và nhìn vào trong tủ trưng bày. Anh lập tức lùi lại, gương mặt anh cũng toát lên vẻ kinh ngạc.
Marta càu nhàu. Lại làm màu làm mè rồi. Cô vào theo họ. Nhưng khi ngó vào tủ, cô cũng há hốc miệng kêu thành tiếng rất to. Ôi lạy Chúa!
Marta Alvarez cứ ngỡ sẽ nhìn thấy cái mặt nạ người chết quen thuộc của Dante nhìn lại mình, nhưng không phải, tất cả những gì cô nhìn thấy là lớp vải sa tanh màu đỏ của cái tủ và cái giá nơi vẫn thường đặt mặt nạ.
Marta bưng miệng và kinh hãi nhìn tủ trưng bày trống rỗng. Nhịp thở của cô tăng nhanh và cô phải bám lấy một trụ rào để đứng vững. Cuối cùng, ánh mắt cô rời khỏi cái tủ trống trơn và xoay về phía những người bảo vệ gác đêm ở lối vào chính.
“Cái mặt nạ của Dante!”, cô hét lên như một ả điên. “Cái mặt nạ của Dante đã biến mất!”
 
Chương 40


Marta Alvarez run rẩy trước cái tủ trưng bày trống trơn. Cô hy vọng cảm giác căng thẳng đang lan khắp bụng chỉ là tâm lý hoảng sợ chứ không phải là cơn đau đẻ.
Cái mặt nạ người chết của Dante đã biến mất!
Hai nhân viên bảo vệ lúc này đã biết sự việc và vừa vào hành lang, nhìn cái tủ trống trơn, và lập tức hành động. Một người chạy tới phòng kiểm soát video gần đó để truy cập vào đoạn phim từ máy quay an ninh đêm qua, trong khi người kia vừa kết thúc cuộc gọi cho cảnh sát báo mất trộm.
“Cảnh sát sẽ đến sau hai mươi phút nữa!”, anh ta nói với Marta và ngắt cuộc gọi với cảnh sát.
“Hai mươi phút nữa cơ à?”, cô ấy hỏi lại. “Chúng ta có một vụ trộm nghệ thuật nghiêm trọng đấy.”
Người bảo vệ giải thích rằng anh ta được biết hầu hết cảnh sát trong thành phố hiện đang giải quyết một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng hơn nhiều, và họ đang cố gắng tìm một nhân viên còn rảnh đến để lấy lời khai.
“Vẫn còn gì nghiêm trọng hơn cơ à?”, cô ấy thắc mắc.
Langdon và Sienna liếc nhìn nhau lo lắng, và Marta cảm thấy hai vị khách của mình đang bị quá tải về cảm xúc. Chẳng có gì lạ cả! Đơn giản là họ muốn ghé qua để chiêm ngưỡng chiếc mặt nạ nhưng lúc này, họ phải chứng kiến hậu quả của một vụ trộm cắp nghệ thuật ghê gớm. Đêm qua, bằng cách nào đó, có kẻ đã tiếp cận được phòng trưng bày và đánh cắp cái mặt nạ người chết của Dante.
Marta biết trong bảo tàng có nhiều đồ vật còn giá trị hơn thế, cho nên cô cố gắng tự trấn an rằng như vậy vẫn còn may mắn. Thế nhưng, đây là vụ trộm cắp đầu tiên trong lịch sử bảo tàng này. Mình thậm chí không biết quy trình xử lý!
Marta đột nhiên cảm thấy yếu đuối hẳn, và cô phải tiến lại bám vào một cột rào chống.
Cả hai nhân viên bảo vệ phòng trưng bày đều có vẻ hoang mang khi họ kể lại cho Marta nghe chính xác những hành động của họ cùng các sự việc đêm qua: Lúc 10 giờ, Marta vào đây cùng với Tiểu Mái vòm và Langdon. Một lúc không lâu sau đó, cả ba người cùng nhau đi ra. Nhân viên bảo vệ đã khóa mọi cánh cửa lại, cài đặt chế độ báo động, và theo như họ biết, không hề có ai ở trong hay bên ngoài phòng trưng bày kể từ lúc đó.
“Không thể nào!”, Marta gắt lên bằng tiếng Ý. “Cái mặt nạ nằm ở trong tủ khi cả ba chúng tôi rời khỏi đó tối qua, cho nên rõ ràng có ai đã ở bên trong phòng trưng bày kể từ lúc ấy!”
Mấy nhân viên bảo vệ đều ngơ ngác. “Chúng tôi không hề nhìn thấy gì cả!”
Giờ này, cảnh sát đang trên đường tới hiện trường, Marta cố gắng vác cái bụng bầu của mình di chuyển thật nhanh tới phòng điều khiển an ninh. Langdon và Sienna lo lắng bám sát sau cô ấy.
Đoạn video an ninh, Marta nghĩ bụng. Nó sẽ cho chúng ta biết đích xác kẻ nào ở đây tối qua!
Cách đó ba dãy nhà, trên cầu Ponte Vecchio, Vayentha lần vào chỗ khuất khi hai sĩ quan cảnh sát lách qua đám đông, rà soát toàn bộ khu vực cùng ảnh của Langdon.
Khi họ tới gần Vayentha, bộ đàm của một người lạo xạo lên tiếng – một thông báo định kỳ cho tất cả các chốt. Nội dung thông báo ngắn gọn bằng tiếng Ý, nhưng Vayentha vẫn nắm được ý chính: Bất kỳ sĩ quan nào rảnh trong khu vực Cung điện Vecchio đều phải thông báo để tới lấy lời khai tại cung điện bảo tàng này.
Mấy viên cảnh sát tỏ ra do dự, còn tai Vayentha thì vềnh lên.
Bảo tàng cung điện Vecchio ư?
Vụ thất bại tối qua – sự cố đã hủy hoại sự nghiệp của ả - diễn ra trong những ngõ phố ngay bên ngoài Cung điện Vecchio.
Thông báo của phía cảnh sát vẫn tiếp tục bằng tiếng Ý đầy âm thanh nhiễu đến mức không hiểu nổi, ngoại trừ hai từ nghe rất rõ ràng. Cái tên Dante Alighieri.
Cơ thể ả lập tức căng cứng. Dante Alighieri ư?! Chắc chắn đây không phải là sự trùng hợp. Ả xoay người về phía Cung điện Vecchio và định vị tòa tháp có lỗ châu mai vượt lên trên mái của các tòa nhà gần đó.
Chính xác thì đã có chuyện gì xảy ra ở bảo tàng? Ả thắc mắc. Và từ khi nào?!
Gạt các tình tiết sang bên, Vayentha từng làm chuyên gia phân tích hiện trường đủ lâu để biết rằng khả năng trùng hợp hiếm xảy ra hơn rất nhiều so với hầu hết mọi người hình dung. Bảo tàng Cung điện Vecchio… Và Dante? Chắc chắn chuyện này phải có liên quan tới Langdon.
Vayentha từ lâu đã nghi ngờ rằng Langdon sẽ quay lại thành cổ. Chỉ có việc đó mới hợp lý – thành cổ là nơi Langdon có mặt tối hôm qua khi mọi thứ thất bại.
Lúc này, dưới ánh sáng ban ngày, Vayentha tự hỏi Langdon làm cách nào quay lại được khu vực xung quanh Cung điện Vecchio để cố tìm kiếm thứ gì đó. Có rất nhiều cây cầu, nhưng có vẻ chúng đều cách xa vườn Boboli.
Bên dưới, ả chú ý tới một nhóm chèo thuyền bốn người đang lướt trên mặt nước và đi qua phía dưới cầu. Trên thân thuyền có dòng chữ CÂU LẠC BỘ CHÈO THUYỀN FLORENCE / SOCIETÀ CANOT-TIERI FIRENZE. Những mái chèo trắng-đỏ nổi bật của con thuyền vung lên rồi hạ xuống đều tăm tắp.
Lẽ nào Langdon đã đi thuyền qua sông? Có vẻ điều đó không đúng, nhưng có gì đó mách bảo ả rằng nội dung thông báo của cảnh sát về Cung điện Vecchio là một manh mối ả cần chú ý.
“Xin vui lòng để lại tất cả máy ảnh!” một phụ nữ nói bằng thứ tiếng Anh giọng Ý.
Vayentha quay lại, thấy một quả cầu tua rua bằng len màu cam có xếp nếp đang vẫy trên cây gậy trong khi một nữ hướng dẫn viên du lịch cố gắng dẫn nhóm du khách của mình vượt qua cầu Ponte Vecchio.
“Trên đầu quý vị là kiệt tác lớn nhất của Vasari!”, cô hướng dẫn viên nói bằng vẻ nhiệt thành được rèn luyện kỹ, giơ quả cầu len lên không và hướng ánh mắt của tất cả mọi người lên trên.
Vayentha không hề chú ý về hướng này trước đó, nhưng có vẻ đó là một cấu trúc nhà ở tầng hai chạy phía trên các cửa hàng giống như một tòa chung cư hẹp vậy.
“Hành lang Vasari”, cô hướng dẫn viên nói. “Nó dài gần một cây số và là lối đi an toàn cho gia tộc Medici di chuyển giữa Cung điện Pitti và Cung điện Vecchio.”
Mắt Vayentha mở to lúc ả nhìn công trình kiến trúc như đường hầm phía trên đầu. Ả đã nghe nói về hành lang này, nhưng không biết nhiều về nó.
Nó dẫn thẳng tới cung điện Vecchio ư?
“Với một số rất ít ỏi những nhân vật quan trọng”, cô hướng dẫn viên tiếp tục, “thậm chí ngày nay họ vẫn có thể tiếp cận hành lang này. Đó là một bảo tàng nghệ thuật kỳ vĩ chạy dài suốt lộ trình từ Cung điện Vecchio tới góc đông bắc vườn Boboli”.
Những gì cô hướng dẫn viên nói tiếp sau đó, Vayentha không còn nghe nữa.
Ả đã lao bổ về phía chiếc mô tô của mình.
 


Chương 41


Những vết khâu trên da đầu Langdon lại giật nhoi nhói khi anh và Sienna chen nhau vào phòng điều khiển video cùng với Marta và hai nhân viên bảo vệ. Không gian chật chội này tương đương một cái buồng thay lễ phục được cải tạo lại cùng với cả dãy ổ cứng đang chạy ro ro và các màn hình máy tính. Không khí bên trong nóng đến ngột ngạt và sặc mùi khói thuốc lá hôi rình.
Langdon lập tức cảm thấy những bức tường đang đóng sập lại xung quanh mình.
Marta ngồi xuống trước màn hình video đang ở chế độ chạy lại và hiển thị một hình ảnh đen trắng rất nhiễu của khu vực hành lang, góc quay từ phía trên cửa. Thời gian hiển thị trên màn hình cho biết đoạn phim được truyền tín hiệu từ giữa buổi sáng hôm qua – chính xác là hai mươi tư giờ trước – rõ ràng là trước khi bảo tàng mở cửa và rất lâu trước khi Langdon cùng vị Tiểu Mái vòm bí ẩn xuất hiện vào tối hôm đó.
Anh chàng bảo vệ tua nhanh đoạn video, và Langdon nhìn thấy cả đoàn du khách ào ào kéo vào hành lang, di chuyển giật cục rất nhanh. Từ góc nhìn này, không thể thấy được chiếc mặt nạ, nhưng rõ ràng nó vẫn nằm trong tủ trưng bày vì du khách liên tục dừng lại để nhìn vào trong hoặc chụp ảnh trước khi di chuyển tiếp.
Làm ơn nhanh lên nào, Langdon nghĩ thầm, vì biết rõ cảnh sát đang trên đường tới. Anh băn khoăn không rõ anh và Sienna có nên cáo lỗi và rút lui không, nhưng họ cần xem đoạn video này bởi bất kỳ điều gì trên đoạn ghi hình này cũng sẽ trả lời cho rất nhiều câu hỏi liên quan đến chuyện quái quỷ đang diễn ra lúc này.
Đoạn video vẫn tiếp tục chạy, giờ nhanh hơn, và bóng chiều tà bắt đầu di chuyển ngang qua gian phòng. Khách du lịch ra vào cho tới khi đám đông bắt đầu thưa dần, và rồi đột ngột biến mất hoàn toàn. Khi thời gian ghi trên hình vượt qua 17 giờ, đèn đóm của bảo tàng đều tắt, và tất cả chìm vào im lặng.
5 giờ chiều. Giờ đóng cửa.
“Cho chạy nhanh lên đi”, Marta yêu cầu, nhổm người về phía trước và chăm chú nhìn lên màn hình.
Anh chàng bảo vệ cho đoạn video chạy tiếp, mốc thời gian trôi rất nhanh, đột ngột cho tới lúc 10 giờ tối, đèn trong bảo tàng nhấp nháy sáng lên.
Anh chàng bảo vệ vội cho đoạn băng chậm lại tốc độ bình thường.
Một lúc sau, cái dáng bụng bầu quen thuộc của Marta Alvarez xuất hiện trong hình. Theo sát cô ấy là Langdon, bước vào trong chiếc áo khoác hiệu Harris Tweed Camberley, quần khaki, và đôi giày da lười quen thuộc. Anh thậm chí còn nhìn rõ chiếc đồng hồ Chuột Mickey của mình lấp ló bên dưới ống tay áo trong lúc di chuyển.
Mình ở đó… trước khi bị bắn.
Langdon cảm thấy cực kỳ lo ngại khi nhìn chính mình đang làm mọi việc mà anh hoàn toàn không nhớ tí gì. Mình đã ở đây tối qua… quan sát cái mặt nạ người chết ư? Bằng cách nào đó, trong khoảng thời gian từ lúc đó đến giờ, anh lại để mất quần áo, chiếc đồng hồ Chuột Mickey và hai ngày trong đời mình.
Khi đoạn video tiếp tục chạy, anh và Sienna chen nhau lại gần sát phía sau Marta và những nhân viên bảo vệ để nhìn cho rõ hơn. Đoạn phim không tiếng tiếp tục, cho thấy Langdon và Marta đến bên tủ trưng bày và ngắm chiếc mặt nạ. Trong lúc đó, một cái bóng to lớn hiện ra tối sầm cả ô cửa đằng sau anh, và một người đàn ông to béo xuất hiện trong khuôn hình. Ông ta mặc bộ đồ màu nâu nhạt, tay xách cặp, và chật vật lắm mới lách được qua cửa. Cái bụng to phưỡn của ông ta thậm chí làm cho bà bầu Marta cũng trở nên thon thả.
Langdon nhận ra người đàn ông này ngay lập tức. Ignazio thì phải?!
“Đó là ông Ignazio Busoni”, Langdon thì thào vào tai Sienna. “Giám đốc của Museo dell’Opera del Duomo. Một người quen của tôi đã vài năm rồi. Chỉ có điều tôi chưa từng nghe nói ông ấy được gọi là Tiểu Mái vòm.”
“Cái tên quá hợp”, Sienna khẽ đáp.
Vài năm qua, Langdon đã tư vấn cho Ignazio về các hiện vật và lịch sử liên quan đến Il Duomo – Vương cung Thánh đường do ông ấy chịu trách nhiệm – nhưng tham quan Cung điện Vecchio có vẻ nằm ngoài lĩnh vực của Ignazio. Dẫu sao, Ignazio Busoni, ngoài việc là một nhân vật có ảnh hưởng trong giới nghệ thuật Florence, còn là một học giả rất mê Dante.
Một nguồn thông tin đáng tin cậy về cái mặt nạ người chết của Dante.
Khi tập trung trở lại với đoạn video, Langdon nhìn thấy Marta đang kiên trì đợi ở bức tường hậu của hành lang trong khi anh và Ignazio nghiêng người phía trên rào chắn để có thể nhìn gần chiếc mặt nạ nhất. Trong khi hai người đàn ông tiếp tục xem xét và thảo luận kéo dài vài phút, có thể nhìn rõ Marta sốt ruột xem đồng hồ đeo tay ở phía sau lưng họ.
Langdon ước gì đoạn video an ninh có cả âm thanh. Không biết mình và Ignazio nói những gì? Mình và ông ấy tìm kiếm cái gì?
Vừa lúc ấy, trên màn hình, Langdon bước qua rào chắn và cúi sát xuống chiếc tủ, mặt anh chỉ cách lớp kính vài phân. Marta lập tức can thiệp, rõ ràng nhắc nhở và Langdon lùi lại với thái độ biết lỗi.
“Xin lỗi vì tôi khắt khe như vậy”, Marta lên tiếng, liếc mắt qua vai nhìn lại anh. “Nhưng như tôi đã nói với các vị, cái tủ trưng bày là đồ cổ và cực kỳ mỏng manh. Chủ nhân của chiếc mặt nạ kiên quyết yêu cầu chúng tôi bắt mọi người phải đứng sau rào chắn. Ông ấy thậm chí còn không cho nhân viên của chúng tôi mở tủ khi ông ấy vắng mặt.”
Phải mất một lúc những lời nói của cô ấy mới được lĩnh hội. Chủ nhân của chiếc mặt nạ ư? Langdon cứ đinh ninh chiếc mặt nạ là tài sản của bảo tàng.
Sienna cũng ngạc nhiên không kém và lập tức xen vào. “Hóa ra bảo tàng không sở hữu chiếc mặt nạ à?”
Marta lắc đầu, đưa mắt trở lại màn hình. “Một nhà tài trợ giàu có đã đặt mua chiếc mặt nạ người chết của Dante từ bộ sưu tập của chúng tôi nhưng để nó trưng bày vĩnh viễn ở đây. Ông ấy ra giá cho mượn rất thấp, và chúng tôi vui vẻ chấp thuận.”
“Khoan đã”, Sienna lên tiếng. “Ông ấy trả tiền mua mặt nạ… và để các vị giữ nó?”
“Thỏa thuận như vậy rất phổ biến”, Langdon nói. “Kết hợp từ thiện mà – một cách cho các nhà tài trợ đem những khoản trợ cấp cho bảo tàng mà không cần nêu rõ món quà là đồ từ thiện.”
“Nhà tài trợ đó là một người khác thường”, Marta nói. “Một học giả thiên tài về Dante, nhưng hơi… nói thế nào nhỉ… cuồng?”
“Ông ấy là ai?”, Sienna hỏi, giọng điệu hờ hững của cô vẫn không giấu được vẻ khẩn trương.
“Ai à?”, Marta cau mày, vẫn đăm đăm nhìn màn hình. “Chà, có lẽ cô đã đọc về ông ấy trong các bản tin gần đây – tỉ phú người Thụy Sĩ Bertrand Zobrist?”
Với Langdon, các tên chỉ láng máng quen, nhưng Sienna túm vội lấy cánh tay Langdon và bóp mạnh, trông như thể cô vừa nhìn thấy ma.
“Ồ, vâng…”, Sienna ngắc ngứ, mặt xám ngoét. “Bertrand Zobrist. Nhà sinh hóa nổi tiếng. Kiếm bộn tiền nhờ các bằng sáng chế sinh học khi tuổi đời còn rất trẻ.” Cô ngừng lại, nuốt khan. Cô nghiêng người và thì thầm với Langdon. “Về cơ bản Zobrist đã sáng chế ra lĩnh vực điều khiển chuỗi phôi.”
Langdon không hiểu điều khiển chuỗi phôi nghĩa là gì, nhưng nó có vẻ rất đáng ngại, đặc biệt là gần đây lại xuất hiện những hình ảnh liên quan đến dịch hạch và chết chóc. Anh tự hỏi liệu Sienna có biết nhiều về Zobrist không bởi vì cô đọc rất nhiều về lĩnh vực y học… hoặc có lẽ vì cả hai đều là những người tuổi trẻ tài cao. Các nhà bác học có theo dõi công việc của nhau không nhỉ?
“Lần đầu tiên tôi nghe nói về Zobrist là vài năm trước”, Sienna giải thích, “khi ông ấy có một số tuyên bố cực kỳ khiêu khích trên truyền thông về tăng trưởng dân số”. Cô ngừng lại, gương mặt tối sầm. “Zobrist là người đề xướng Phương trình Khải huyền Dân số.”
“Sao cơ?”
“Về cơ bản thì đó là một sự ghi nhận bằng toán học rằng dân số trên trái đất đang gia tăng, con người sống thọ hơn, và các nguồn tài nguyên thiên nhiên của chúng ta đang cạn dần. Phương trình dự đoán rằng xu hướng hiện tại không thể dẫn đến kết quả nào khác hơn là sự sụp đổ tất yếu của xã hội. Zobrist công khai tiên liệu rằng loài người sẽ không tồn tại thêm được một thế kỷ nữa… trừ phi chúng ta trải qua một sự kiện tuyệt chủng quy mô lớn nào đó”, Sienna thở dài não nề và nhìn thẳng vào mắt Langdon. “Thực tế, Zobrist từng được trích lời nói rằng ‘điều tốt đẹp nhất từng xảy ra ở châu Âu chính là Cái chết Đen’.”
Langdon sững sờ nhìn cô. Anh cảm thấy sởn tóc gáy, hệt như lúc hình ảnh chiếc mặt nạ dịch hạch vụt đến trong tâm trí. Cả buổi sáng anh đã cố gắng chống chọi với ý niệm rằng tình trạng tiến thoái lưỡng nan của anh hiện thời có liên quan đến một đại dịch chết người… nhưng cái ý niệm ấy càng lúc càng khó đẩy lui.
Việc Bertrand Zobrist mô tả Cái chết Đen như là điều tốt đẹp nhất từng đến với châu Âu hẳn là khá bất ngờ, nhưng Langdon biết rằng nhiều sử gia cũng đã ghi chép lại những lợi ích kinh tế xã hội lâu dài mà thảm kịch vào thế kỷ XIV này mang lại cho châu Âu. Trước khi xảy ra đại dịch, đặc điểm của thời Trung cổ chính là tình trạng quá tải dân số, nạn đói, và khó khăn về kinh tế. Cái chết Đen bất ngờ ập đến, dù rất kinh khủng, đã giúp “làm vãn bầy người” một cách hiệu quả, tạo ra sự dư thừa thức ăn và cơ hội, điều mà theo nhiều sử gia, chính là một tác nhân then chốt giúp mang đến thời kỳ Phục Hưng.
Khi nghĩ đến biểu tượng nguy hiểm sinh học trên ống nghiệm có chứa tấm bản đồ địa ngục đã được chỉnh sửa của Dante, một ý nghĩ đáng sợ bám riết lấy anh: Cái máy chiếu nhỏ xíu kỳ lạ do một ai đó tạo ra… Bertrand Zobrist – một nhà hóa sinh và cực kỳ mê cuồng Dante – giờ đây có lẽ là một ứng cử viên rất hợp lý.
Cha đẻ của giải pháp điều khiển chuỗi phôi di truyền. Langdon cảm thấy các mảnh ghép lúc này đang ráp đúng vị trí. Nhưng tiếc thay bức tranh đang định hình lại càng lúc càng đáng sợ.
“Tua nhanh phần này đi”, Marta ra lệnh cho anh chàng bảo vệ, giọng đầy sốt ruột, muốn bỏ qua đoạn ghi hình Langdon và Ignazio Busoni nghiên cứu cái mặt nạ để có thể tìm ra ai là người đã đột nhập vào bảo tàng và đánh cắp nó.
Anh chàng bảo vệ nhấn nút tua nhanh, và mốc thời gian tăng lên.
Ba phút… sáu phút… tám phút.
Trên màn hình, có thể nhìn thấy Marta đứng phía sau hai người, liên tục phải thay đổi tư thế và nhìn đồng hồ.
“Tôi rất xin lỗi vì chúng tôi nói chuyện lâu như vậy!”, Langdon nói. “Trông chị không được thoải mái.”
“Là lỗi của tôi”, Marta đáp. “Cả hai vị đều nhắc tôi nên về nhà và bộ phận bảo vệ sẽ cho các vị ra nhưng tôi cảm thấy như thế là khiếm nhã.”
Đột nhiên, trên màn hình, Marta biến mất. Anh chàng bảo vệ cho đoạn video trở lại tốc độ bình thường.
“Không sao”, Marta nói. “Tôi nhớ có đi vào nhà vệ sinh.”
Anh chàng bảo vệ gật đầu và lại bấm nút tua nhanh, nhưng anh ta chưa kịp bấm thì Marta đã túm lấy tay anh ta. “Khoan đã!”
Cô ấy nghiên đầu và đăm đăm nhìn màn hình vẻ không hiểu.
Langdon cũng đã nhìn thấy. Sao lại như vậy?!
Trên màn hình, Langdon vừa thò tay vào túi chiếc áo khoác vài tweed của mình, lôi ra một đôi găng tay phẫu thuật và lồng vào hai tay.
Cùng lúc đó, Tiểu Mái vòm chuyển ra vị trí phía sau Langdon, mắt chăm chú nhìn ra hành lang nơi Marta mới đi khỏi một lúc trước để vào nhà vệ sinh. Một lúc sau, người đàn ông to béo gật đầu với Langdon theo nghĩa dường như là hiện trường không còn ai.
Bọn mình làm quái gì thế nhỉ?!
Langdon nhìn chính mình trên màn hình trong khi đôi tay đeo găng của anh vươn ra chạm vào mép cửa tủ… sau đó, rất nhẹ nhàng, kéo về phía sau cho tới khi cái bản lề cổ xưa xê dịch và cánh cửa từ từ mở ra… để lộ ra chiếc mặt nạ người chết của Dante.
Marta Alvarez há hốc miệng kêu thành tiếng đầy kinh hãi và đưa tay lên che mặt.
Cùng chung nỗi hãi hùng với Marta, Langdon không tin vào mắt mình khi nhìn thấy chính anh thò tay vào tủ, nhẹ nhàng dùng cả hai tay nắm lấy chiếc mặt nạ người chết của Dante và nhấc nó ra.
“Lạy Chúa lòng lành!”, Marta bật kêu, đứng phắt dậy và xoay lại đối diện với Langdon. “Chính anh làm việc đó ư? Tại sao?”
Langdon chưa kịp trả lời thì một nhân viên bảo vệ đã rút ra một khẩu Beretta đen xì và chĩa thẳng vào ngực anh.
Lạy Chúa!
Robert Langdon nhìn trân trân họng súng của người bảo vệ và cảm thấy căn phòng nhỏ xíu này đang đóng kín lại quanh anh. Marta Alvarez đã đứng hẳn dậy, trợn trừng nhìn anh, mặt toát lên nổi hoài nghi và bị phản bội. Trên màn hình an ninh phía sau lưng cô ấy, lúc này Langdon đang giơ chiếc mặt nạ ra phía ánh sáng xem xét nó.
“Tôi chỉ lấy nó ra một lát thôi”, Langdon thanh minh, lòng thầm mong điều đó là sự thật. “Ignazio khẳng định với tôi chị sẽ không phiền lòng!”
Marta không trả lời. Cô ấy như hóa đá, rõ ràng đang cố nghĩ xem tại sao Langdon lại nói dối mình… và thực tế làm sao Langdon lại có thể bình tĩnh đứng bên cạnh và xem đoạn băng khi anh biết nó sẽ tiết lộ những gì.
Mình không hiểu tại sao chính mình lại mở cái tủ!
“Robert”, Sienna thì thào. “Nhìn xem! Anh tìm thấy gì đó!” Sienna vẫn chăm chú xem đoạn băng, tập trung tìm cho ra câu trả lời bất kể tình thế khó khăn của họ lúc này.
Trên màn hình, giờ đây Langdon đang giơ cao chiếc mặt nạ và nghiêng nó về phía ánh sáng, sự chú ý của anh rõ ràng tập trung vào một thứ gì đó rất đáng quan tâm ở phía sau món đồ.
Từ góc máy quay này, tiếng tích tắc, chiếc mặt nạ che khuất một phần gương mặt Langdon ở vị trí làm cho đôi mắt của Dante trùng khớp với của Langdon. Anh lại nhớ lời tuyên bố - chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc - và cảm thấy lạnh toát.
Langdon không rõ mình đang kiểm tra cái gì ở phía sau chiếc mặt nạ nhưng ở thời khắc đó trong đoạn video, khi anh chia sẻ phát hiện của mình với Ignazio, người đàn ông béo ị ấy giật lùi lại, lập tức lần tìm cặp kính và quan sát lần nữa… rồi lần nữa. Ông ấy bắt đầu lắc đầu lia lịa và đi tới đi lui trong hành lang đầy kích động.
Đột nhiên, cả hai người ngẩng lên, rõ ràng đã nghe thấy tiếng gì đó trong hành lang – chắc chắn là Marta đang từ nhà vệ sinh quay lại. Langdon vội vàng lôi từ trong túi áo mình ra một chiếc túi Ziploc lớn, nhét chiếc mặt nạ người chết vào và nhẹ nhàng trao nó cho Ignazio. Ông này lại cất nó vào cặp của mình, với vẻ hơi do dự. Langdon nhanh nhẹn đóng ô cửa kính trên chiếc tủ trưng bày lúc này trống trơn, và hai người nhanh chóng sải bước ra sảnh để đón đầu Marta trước khi cô ấy phát hiện ra vụ trộm cắp của họ.
Cả hai người bảo vệ lúc này đều đã chĩa súng vào Langdon.
Marta như đứng không vững, phải vịn vào bàn làm điểm tựa. “Tôi không hiểu!”, cô ấy kêu lên. “Anh và Ignazio Busoni đã đánh cắp chiếc mặt nạ người chết của Dante ư?!”
“Không!”, Langdon khăng khăng, cố hết sức chống chế. “Chúng tôi đã được chủ nhân của nó cho phép mang chiếc mặt nạ ra khỏi tòa nhà.”
“Được phép của chủ nhân ư?”, cô ấy hỏi vặn. “Từ Bertrand Zobrist sao!?”
“Phải! Ông Zobrist đồng ý để chúng tôi kiểm tra một số dấu vết ở phía sau! Chúng tôi gặp ông ấy chiều hôm qua!”
Ánh mắt Marta bắn ra những tia lửa. “Giáo sư, tôi chắc chắn rằng anh không hề gặp Bertrand Zobrist chiều hôm qua.”
“Chắc chắn chúng tôi đã…”
Sienna đặt một tay lên cánh tay Langdon. “Robert…”, cô thở dài ủ rũ. “Cách đây sáu ngày, Bertrand Zobrist đã lao xuống từ đỉnh tháp Badia, cách đây chỉ vài tòa nhà thôi.”
 


Chương 42


Vayentha bỏ lại chiếc mô tô của mình ngay phía bắc Cung điện Vecchio và đi bộ men theo đường bao của Quảng trường Signoria. Trong lúc len lỏi qua điện thờ ngoài trời của khu Longia dei Lanzi, ả không thể không chú ý thấy rằng tất cả bức tượng dường như đều đang thể hiện các sắc thái của một chủ đề duy nhất: Những biểu hiện đầy bạo lực của việc nam giới áp chế phụ nữ.
Bắt cóc đám phụ nữ Sabine.
Chiếm đoạt Polyxena.
Perseus cầm thủ cấp Medusa.
Hay đấy, Vayentha nghĩ thầm, kéo mũ trùm xuống mắt và len lỏi qua đám đông để tiến về lối vào cung điện, nơi đang đón những du khách đầu tiên trong ngày. Theo tất cả dấu hiệu ở đây thì mọi việc vẫn hết sức bình thường tại Cung điện Vecchio này.
Không có cảnh sát, Vayentha nghĩ. Ít nhất là chưa có.
Ả kéo cao áo khóa áo khoác lên tới cổ để bảo đảm không làm lộ vũ khí của mình và bước thẳng qua cổng vào. Theo những tấm biển chỉ dẫn tới II Museo di Palazzo, ả băng qua hai tiền sảnh lộng lẫy và theo một cầu thang đồ sộ leo lên tầng hai.
Trong lúc lên tầng, ả nhớ lại nội dung trao đổi của cảnh sát.
Bảo tàng Cung điện Vecchio… Dante Alighieri.
Chắc chắn Langdon ở đó.
Những tấm biển của bảo tàng dẫn Vayentha vào một khu trưng bày rộng lớn được trang hoàng vô cùng ấn tượng – Sảnh Năm trăm – nơi nhiều nhóm du khách chen lẫn vào nhau, chiêm ngưỡng những bức bích họa đồ sộ trên tường. Vayentha chẳng thèm bận tâm đến chuyện chiêm ngưỡng nghệ thuật ở đây nên nhanh chóng xác định một tấm biển khác ở góc bên phải căn phòng, chỉ thẳng lên một lối cầu thang.
Trong khi băng qua gian sảnh, ả chú ý thấy một nhóm sinh viên đại học tụ tập quanh một tác phẩm điêu khắc duy nhất, cười nói và chụp ảnh.
Tấm biển đề: Hercules và Diomedes.
Vayentha nhìn những bức tượng và lầm bầm.
Bức điêu khắc mô tả hai nhân vật anh hùng trong thần thoại Hy Lạp – cả hai đều hoàn toàn khỏa thân – đang quấn lấy nhau trong một keo đấu vật. Hercules đang kẹp Diomedes cắm đầu xuống đất, chuẩn bị quẳng anh ta đi, trong khi Diomedes đang tóm chặt cơ quan sinh dục của Hercules, như thể muốn nói “Ngươi có chắc ngươi muốn quẳng ta đi không?”
Vayentha nhăn mặt. Câu chuyện về việc nắm được cà của người khác.
Ả rời mắt khỏi bức tượng quái lạ và nhanh chóng leo lên cầu thang về phía khu vực bảo tàng.
Ả lên đến một ban công rất cao nhìn xuống sảnh. Hơn chục du khách đang đợi bên ngoài lối vào bảo tàng.
“Tạm lùi giờ mở cửa”, một du khách nhanh nhảu thông báo, ló mặt ra từ phía sau chiếc máy quay cá nhân của mình.
“Có biết tại sao không?”, ả hỏi.
“Không, nhưng nghe trong lúc đợi chúng ta lại thấy quang cảnh rất tuyệt!”. Người đàn ông vung tay lướt qua toàn bộ Sảnh Năm trăm bên dưới.
Vayentha bước lại mép lan can và nhìn xuống gian phòng rộng thênh thang phía dưới. Dưới tầng, một sĩ quan cảnh sát duy nhất đang tiến đến, chẳng có vẻ gì gấp gáp, cũng không mấy người chú ý thấy anh ta đang băng qua phòng tới phía cầu thang.
Anh ta đến để lấy lời khai, Vayentha nghĩ thầm. Tác phong uể oải của nhân viên công lực lúc lên cầu thang cho thấy đây là một công việc rất bình thường – chẳng có vẻ gì giống như tình trạng nháo nhào tìm kiếm Langdon ở cổng Porta Romana.
Nếu Langdon ở đây thì tại sao người ta lại không vây kín tòa nhà nhỉ?
Hoặc Vayentha đã phỏng đoán sai rằng Langdon ở đây, hoặc cảnh sát địa phương và Brüder chưa nhận ra và hợp tác với nhau.
Lúc viên sĩ quan lên đến đỉnh cầu thang và len lỏi về phía lối vào bảo tàng, Vayentha thản nhiên quay đi và vờ đang chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ. Nghĩ đến lệnh từ chối cùng tầm ảnh hưởng rộng rãi của Thị Trưởng, ả không dại gì để bị nhận ra.
“Chú ý!”, một giọng nói vang lên đâu đó.
Tim Vayentha như hụt một nhịp khi viên sĩ quan dừng lại ngay sát sau lưng ả. Ả nhận ra giọng nói kia phát ra từ bộ đàm của anh ta.
“Chờ lực lượng tiếp viện!” giọng nói lại vang lên.
“Chờ lực lượng tiếp viện ư!” Vayentha cảm thấy có gì đó vừa thay đổi.
Vừa lúc ấy, bên ngoài cửa sổ, Vayentha nhận ra một vật màu đen đang lớn dần ở chân trời phía xa. Nó đang từ hướng vườn Boboli bay về phía Cung điện Vecchio.
Cái máy bay, Vayentha nhận ra ngay. Brüder biết rồi. Và anh ta đang tới lối này.
Điều phối viên của Consortium Laurence Knowlton vẫn đang dằn vặt bản thân về chuyện gọi cho Thị Trưởng. Anh ta biết rõ hơn hết là nên đề nghị Thị Trưởng xem trước đoạn video của ông khách trước khi nó được đăng tải cho giới truyền thông vào ngày mai.
Nội dung quá không phù hợp.
Quy trình là nhất.
Knowlton vẫn còn nhớ y nguyên “câu thần chú” mà các điều phối viên trẻ được học khi bắt đầu giải quyết nhiệm vụ cho tổ chức. Không hỏi. Chỉ việc thực thi.
Đầy do dự, anh đặt chiếc thẻ nhớ màu đỏ vào dãy công việc thực hiện trong sáng mai, lòng vẫn băn khoăn không biết giới truyền thông sẽ phản ứng sao với thông điệp quái dị này. Liệu họ có dám công bố nó không?
Dĩ nhiên họ sẽ làm. Nó do Bertrand Zobrist gửi tới mà.
Zobrist không chỉ là một nhân vật thành công đến kinh ngạc trong lĩnh vực hóa sinh, ông ta còn đang là chủ đề thời sự gây xôn xao sau vụ tự sát vào tuần trước. Đoạn video dài chín phút này sẽ giống một lời nhắn từ dưới mồ, và nội dung kinh khủng của nó sẽ làm cho người ta gần như không thể tắt nó đi.
Đoạn video này sẽ lan đi chỉ trong vài phút sau khi được tung ra.
 


Chương 43


Marta Alvarez đầy kích động lúc bước ra khỏi phòng video chật hẹp, bỏ lại Langdon cùng cô em gái thô lỗ của anh trước họng súng của những nhân viên bảo vệ. Marta bước tới một ô cửa sổ và nhìn xuống Quảng trường Signoria, cảm thấy nhẹ nhõm khi nhận ra một chiếc xe cảnh sát đỗ ở phía trước.
Đến lúc rồi!
Marta vẫn không thể nào hình dung tại sao một người được kính nể trong lĩnh vực chuyên môn của mình như Robert Langdon lại ngang nhiên lừa dối cô như vậy, lợi dụng sự đặc cách trong chuyên môn mà cô dành cho anh, và còn đánh cắp một hiện vật vô giá.
Ignazio Busoni còn hỗ trợ anh ta nữa ư!? Thật không thể tưởng tượng nổi!
Với ý định nói vài suy nghĩ của mình với Ignazio, Marta rút điện thoại di động và bấm số văn phòng của Tiểu Mái vòm, nằm cách đó chỉ vài dãy nhà, tại bảo tàng Museo dell’Opera del Duomo.
Đường dây chỉ đổ chuông đúng một lần.
“Văn phòng ông Ignazio Busoni đây”, một giọng nữ quen thuộc vang lên.
Marta vốn thân thiện với thư ký của Ignazio nhưng lúc này không có tâm trạng để buôn chuyện. “Eugenia, Marta đây. Tôi cần nói chuyện với Ignazio.”
Đường dây ngừng bặt rồi đột nhiên cô thư ký bật khóc nức nở.
“Có chuyện gì vậy?”, Marta hỏi.
Eugenia thổn thức báo cho Marta biết rằng cô ấy vừa đến văn phòng và biết tin Ignazio bị một cơn trụy tim nặng đêm qua trong một con hẻm gần Duomo. Lúc khoảng nửa đêm ông ấy cố gọi cho cấp cứu nhưng các nhân viên y tế đến không kịp. Busoni đã qua đời.
Hai chân Marta gần như khuỵu xuống. Sáng nay cô đã nghe thời sự thông báo một quan chức không rõ danh tính của thành phố qua đời đêm trước, nhưng cô không bao giờ nghĩ đó lại là Ignazio.
“Eugenia, nghe này”, Marta vội nói, cố gắng giữ bình tĩnh trong lúc giải thích nhanh mọi việc cô vừa chứng kiến trên các máy quay video của Cung điện – chiếc mặt nạ người chết của Dante đã bị Ignazio và Robert Langdon đánh cắp và Langdon hiện đã bị bắt giữ.
Marta không biết mình trông đợi phản ứng thế nào từ Eugenia, nhưng chắc chắn những gì cô nghe được nằm ngoài dự kiến.
“Robert Langdon à!?”, Eugenia hỏi. “Chị có ở cùng Langdon không?!”
Eugenia dường như không chú ý tới điểm mấu chốt của câu chuyện. Có, nhưng cái mặt nạ…
“Tôi cần nói chuyện ngay với anh ấy!”, Eugenia gần như hét lên.
Bên trong phòng an ninh, đầu Langdon tiếp tục ong ong trong khi những nhân viên bảo vệ chĩa vũ khí vào anh. Đột ngột, cánh cửa bật mở và Marta Alvarez xuất hiện.
Qua cánh cửa để ngỏ, Langdon nghe rõ tiếng rít từ xa của chiếc máy bay không người lái đâu đó bên ngoài, tiếng động cơ rền rĩ của nọ đi kèm với tiếng còi hú đang đến gần. Họ đã tìm ra vị trí của bọn mình.
“Cảnh sát đang đến đấy”, Marta nói với mấy nhân viên bảo vệ, rồi cử một người trong số họ ra hướng dẫn nhân viên công lực vào bảo tàng. Người còn lại vẫn ở phía sau, họng súng chĩa vào Langdon.
Trước vẻ ngạc nhiên của Langdon, Marta đưa chiếc điện thoại di động cho anh. “Có người muốn nói chuyện với anh”, cô nói, giọng đầy bí ẩn. “Anh cần mang máy ra khỏi đây thì mới có sóng.”
Cả nhóm rời khỏi phòng điều khiển chật chội để ra khu vực trưng bày ngay bên ngoài, nơi ánh nắng tràn vào qua những cửa sổ thật lớn nhìn xuống khung cảnh ấn tượng của Quảng trường Signoria. Mặc dù vẫn đứng trước họng súng nhưng Langdon cảm thấy nhẹ nhõm hơn hẳn khi thoát ra khỏi không gian tù túng.
Marta ra hiệu anh lại gần cửa sổ và trao điện thoại cho anh.
Langdon cầm lấy, vẻ ngơ ngác và đưa máy lên tai. “Vâng? Tôi Robert Langdon đây.”
“Chào anh”, người phụ nữ nói bằng thứ tiếng Anh nhát gừng, nặng trịch. “Tôi là Eugenia Antonucci, thư ký của Ignazio Busoni. Anh và tôi, chúng ta gặp nhau tối qua khi anh đến văn phòng ông ấy.”
Langdon chẳng nhớ được gì. “Vâng?”
“Tôi rất lấy làm tiếc phải nói với anh chuyện này, nhưng Ignazio, ông ấy đã chết vì đau tim tối qua rồi.”
Langdon bóp chặt chiếc điện thoại. Ignazio Busoni đã chết rồi ư?!
Giờ người phụ nữ kia thổn thức khóc, giọng cô ấy đượm buồn. “Ignazio gọi cho tôi trước khi chết. Ông ấy để lại cho tôi một tin nhắn và bảo tôi dứt khoát phải để anh nghe. Tôi sẽ bật cho anh.”
Langdon nghe thấy mấy tiếng sột soạt, và một lúc sau, đoạn ghi âm giọng Ignazio Busoni không ra hơi vang đến tai anh.
“Eugenia”, ông ấy thở hổn hển, rõ ràng đang trong đau đớn. “Hãy bảo đảm rằng Robert Langdon nghe được tin nhắn này. Tôi đang gặp chuyện. Tôi không nghĩ mình sẽ quay về đến văn phòng.” Ignazio rên rỉ và có một quãng im lặng kéo dài. Khi bắt đầu nói tiếp, giọng ông ấy yếu hẳn. “Robert, tôi hy vọng anh thoát. Chúng vẫn bám sau tôi… và tôi… tôi không được khỏe. Tôi đang cố gắng gọi cho một bác sĩ, nhưng…” Lại một đoạn im lặng kéo dài, như thể Tiểu Mái vòm đang cố tập trung chút sinh lực cuối cùng và sau đó… “Robert, nghe kỹ này. Những gì anh tìm thấy đã được cất giấu an toàn. Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên. Thiên đường Hai mươi lăm.” Ông ấy dừng lại một lúc lâu và sau đó thì thào, “Chúc may mắn”.
Đến đó lời nhắn kết thúc.
Tim Langdon đập nhanh, và anh biết mình vừa chứng kiến những lời cuối cùng của một người đang hấp hối. Việc những lời ấy được gửi riêng tới anh chẳng giúp anh bớt lo lắng. Thiên đường Hai mươi lăm ư? Cổng đã mở cho mình ư? Langdon suy nghĩ. Ý ông ấy là cánh cổng nào chứ?! Điều duy nhất có chút ý nghĩa là Ignazio nói rằng chiếc mặt nạ đã được cất giấu an toàn.
Eugenia trở lại đầu dây. “Giáo sư, anh có hiểu lời nhắn này không?”
“Có, nhưng chỉ một chút thôi.”
“Tôi có thể làm được gì không?”
Langdon suy nghĩ câu hỏi này một lúc lâu. “Hãy bảo đảm không có ai khác nghe được tin nhắn này.”
“Kể cả cảnh sát à? Một thám tử sắp đến để lấy lời khai của tôi.”
Langdon cứng người. Anh nhìn người bảo vệ vẫn đang chĩa súng vào mình. Rất nhanh, Langdon xoay người về phía cửa sổ và hạ giọng, thì thào thật nhanh, “Eugenia… chuyện này nghe có vẻ lạ lùng, nhưng vì Ignazio, tôi cần cô xóa lời nhắn đó và đừng nói với cảnh sát rằng cô vừa nói chuyện với tôi. Rõ chưa? Tình hình rất phức tạp và…”
Langdon cảm thấy họng súng ấn vào sườn anh nên quay lại nhìn người bảo vệ, chỉ cách vài phân, đang chìa bàn tay còn lại ra để đòi lại chiếc điện thoại của Marta.
Trên máy, có một khoảng im lặng dài, và cuối cùng Eugenia nói, “Anh Langdon, sếp của tôi tin tưởng anh… cho nên tôi cũng vậy.”
Rồi cô ấy tắt máy.
Langdon đưa điện thoại lại cho người bảo vệ. “Ignazio Busoni chết rồi”, anh nói với Sienna. “Ông ấy chết vì trụy tim đêm qua sau khi rời khỏi bảo tàng này”, Langdon ngừng lại. “Chiếc mặt nạ vẫn an toàn. Ignazio đã giấu nó trước khi chết. Và tôi nghĩ ông ấy để lại cho tôi một manh mối để tìm nó.” Thiên đường hai mươi lăm.
Hy vọng lóe lên trong mắt Sienna, nhưng khi Langdon quay lại phía Marta, trông cô ấy đầy vẻ nghi ngờ.
“Chị Marta”, Langdon nói. “Tôi có thể lấy lại chiếc mặt nạ của Dante cho chị, nhưng chị cần để chúng tôi đi. Ngay lập tức.”
Marta cười to. “Tôi sẽ không làm chuyện đó đâu. Anh là người đã đánh cắp chiếc mặt nạ! Cảnh sát đang đến…”
“Chị Alvarez”, Sienna nói xen vào. “Tôi xin lỗi, nhưng chúng tôi đã không thành thật với chị.”
Langdon vờ kinh ngạc. Sienna đang làm gì thế?! Anh hiểu hết câu nói bằng tiếng Ý đó.
Marta cùng ngỡ ngàng không kém trước những lời của Sienna, mặc dù vẻ bất ngờ của cô dường như là do sự thật rằng Sienna đột nhiên nói bằng thứ tiếng Ý trôi chảy và không lẫn vào đâu.
“Trước hết, tôi không phải là em gái của anh Robert Langdon”, Sienna nói bằng giọng đầy hối lỗi.
 


Chương 44


Marta Alvarez lùi lại một bước và khoanh tay nhìn kỹ người phụ nữ trẻ tóc vàng đứng trước mặt mình.
“Tôi xin lỗi”, Sienna tiếp tục, vẫn nói bằng thứ tiếng Ý trôi chảy. “Chúng tôi đã nói dối chị nhiều chuyện.”
Người bảo vệ cũng lúng túng không kém Marta, mặc dù anh ta vẫn giữ nguyên vị trí.
Giờ Sienna nói thật nhanh, vẫn bằng thứ tiếng Ý, kể với Marta rằng cô làm việc tại một bệnh viện ở Florence, nơi Langdon đã đến vào tối hôm trước cùng với một vết thương do đạn bắn vào đầu. Cô giải thích rằng Langdon chẳng nhớ được gì về các sự kiện đã khiến anh phải vào bệnh viện, và rằng anh rất ngạc nhiên trước đoạn video an ninh chẳng kém gì Marta.
“Cho chị ấy xem vết thương của anh”, Sienna ra lệnh cho Langdon.
Khi nhìn thấy những vết khâu bên dưới mái tóc rối bù của Langdon, Marta ngồi xuống bậu cửa sổ và đưa hai tay ôm lấy mặt vài giây.
Suốt mười phút qua, Marta không chỉ biết rằng chiếc mặt nạ người chết của Dante đã bị đánh cắp trong ca trực của cô, mà còn biết rằng hai tên kẻ trộm lại chính là một vị giáo sư người Mỹ được kính nể ở Florence mà cô tin tưởng, người vừa qua đời. Hơn nữa, cô nàng Sienna Brooks, người Marta cứ đinh ninh là cô em gái người Mỹ mắt to của Robert Langdon, hóa ra lại là một bác sĩ, đang thừa nhận đã nói dối và nói được tiếng Ý trôi chảy.
“Chị Marta”, Langdon lên tiếng, giọng trầm xuống và đầy thấu hiểu. “Tôi biết mọi việc thật khó tin, nhưng tôi thật sự không nhớ gì đêm qua. Tôi không biết tại sao Ignazio và tôi lại lấy chiếc mặt nạ.”
Marta cảm nhận được từ ánh mắt anh rằng anh đang nói sự thật.
“Tôi sẽ trả lại chiếc mặt nạ cho chị”, Langdon nói. “Tôi hứa với chị. Nhưng tôi không thể tìm lại nó trừ khi chị để chúng tôi đi. Tình hình rất phức tạp. Chị cần để chúng tôi đi, ngay bây giờ.”
Mặc dù rất muốn chiếc mặt nạ vô giá sẽ trở về, nhưng Marta không hề có ý định để ai đi cả. Cảnh sát đâu rồi?! Cô ấy nhìn xuống chiếc xe cảnh sát duy nhất trên Quảng trường Signoria. Rất lạ là những nhân viên công lực vẫn chưa đến được bảo tàng. Marta cũng nghe thấy âm thanh rì rì rất lạ tai ở phía xa, giống như tiếng ai đó đang sử dụng cưa máy. Và nó càng lúc càng to hơn.
Cái gì thế nhỉ?
Giọng Langdon giờ đầy cầu khẩn. “Chị Marta, chị biết Ignazio mà. Ông ấy không bao giờ lấy chiếc mặt nạ mà không có lý do chính đáng. Ở đây có một bức tranh lớn hơn nhiều. Chủ nhân của chiếc mặt nạ, Bertrand Zobrist, là một người rất phức tạp. Chúng tôi nghĩ có lẽ ông ta liên quan đến việc gì đó rất kinh khủng. Tôi không có thời gian để giải thích tất cả, nhưng tôi xin chị hãy tin chúng tôi.”
Marta chỉ đăm đăm nhìn. Chẳng có chi tiết nào trong những lời này có ý nghĩa cả.
“Chị Alvarez”, Sienna nói, nhìn thẳng vào Marta với ánh mắt lạnh lùng. “Nếu chị lo lắng cho tương lai của mình, và của con chị, thì chị cần để chúng tôi đi, ngay bây giờ.”
Marta khoanh tay che chắn trước bụng, cực kỳ không vui trước lời đe dọa thấy rõ nhằm vào đứa con chưa chào đời của mình.
Tiếng rền rĩ điếc tai bên ngoài nghe to hơn, và khi Marta ngó ra ngoài cửa sổ, cô không nhìn thấy nguồn phát ra âm thanh đó, nhưng cô nhìn thấy một thứ khác.
Người bảo vệ cũng nhìn thấy nó, mắt anh ta mở to.
Bên dưới Quảng trường Signoria, đám đông đang rẽ ra để lấy lối cho một đoàn xe cảnh sát tiến vào mà không hề hụ còi, đi đầu là hai chiếc xe thùng màu đen, lúc này phanh két lại bên ngoài cửa cung điện. Những người lính mặc đồng phục đen nhảy ra, mang theo súng lớn và chạy vào trong cung điện.
Marta cảm giác sợ hãi. Họ là những kẻ nào vậy?!
Người bảo vệ cũng cảnh giác không kém.
Âm thanh rền rĩ điếc tai đột nhiên rít lên, và Marta lùi vội lại khi nhìn thấy một chiếc trực thăng nhỏ hiện ra bên ngoài cửa sổ.
Chiếc máy bay bay vè vè cách không đầy mười thước, gần như thể nó đang soi mói những người trong phòng. Đó là một chiếc máy bay nhỏ, có lẽ chỉ dài một thước, với một ống màu đen dài gắn phía trước. Cái ống đó chĩa thẳng về phía họ.
“Nó sắp bắn đấy!”. Sienna hét lên. “Mọi người nằm xuống!” Cô ngồi thụp xuống bên dưới bậu cửa sổ, còn Marta cứng người vì sợ hãi nhưng vẫn làm theo mọi người một cách bản năng. Anh chàng bảo vệ cũng thụp xuống, chĩa khẩu súng vào chiếc máy bay nhỏ bé.
Trong tư thế lom khom của mình bên dưới bậu cửa, Marta có thể nhìn rõ Langdon vẫn đứng im, nhìn sững Sienna với vẻ khó hiểu, rõ ràng anh không tin rằng đang có mối nguy hiểm. Sienna chỉ thụp xuống sàn một chớp mắt rồi bật dậy, nắm lấy cổ tay Langdon và bắt đầu kéo anh về phía hành lang. Chỉ một khắc sau, họ đã cùng nhau tới lối vào chính của tòa nhà.
Anh chàng bảo vệ bật nhổm dậy và phủ phục như một tay súng bắn tỉa, nâng vũ khí của mình nhắm về phía hành lang nơi hai người đang chạy đi.
“Đừng bắn!”, Marta hạ lệnh. “Họ không thể thoát được đâu!”
Langdon và Sienna biến mất ở góc nhà, và Marta biết chỉ vài giây nữa là hai người sẽ đâm sầm vào những nhân viên công lực đang tiến vào từ hướng kia.
o O o
“Nhanh lên!”, Sienna giục, vội vã cùng Langdon chạy ngược trở lại lối họ đi vào. Cô hy vọng họ có thể ra đến cửa chính trước khi lao vào đám cảnh sát, nhưng giờ cô nhận ra cơ hội làm việc này gần như bằng không.
Langdon cũng nhận thấy như vậy. Không cần thông báo, anh dừng phắt lại tại một chỗ hành lang giao nhau khá rộng. “Chúng ta sẽ không thể ra khỏi lối này đâu.”
“Đi nào!”, Sienna vội vã ra hiệu cho anh chạy theo. “Robert, chúng ta không thể cứ đứng đực ở đây!”
Langdon có vẻ rối trí, ngó sang bên trái, về phía hành lang ngắn dẫn tới một gian phòng nhỏ lờ mờ ánh sáng. Tường của gian phòng treo đầy những tấm bản đồ cổ, và ở chính giữa phòng là một quả cầu sắt khổng lồ. Langdon nhìn quả cầu kim loại và bắt đầu chậm rãi gật gù, sau đó gật lia lịa.
“Lối này”, Langdon nói, lao thẳng về phía quả cầu sắt.
Robert! Sienna chạy theo nhưng có phán đoán ngược lại. Hành lang đó rõ ràng dẫn sâu hơn vào bảo tàng, cách xa lối thoát.
“Anh Robert?”, cô hổn hển và cuối cùng cũng bắt kip anh. “Anh đang đưa chúng ta đi đâu?!”
“Qua Armenia”, anh đáp.
“Cái gì?!”
“Armenia”, Langdon nhắc lại, mắt anh sán chặt về phía trước. “Tin anh đi!”
Phía dưới một tầng nhà, lẫn trong đám du khách khiếp sợ trên ban công Sảnh Năm trăm, Vayentha cúi đầu xuống khi đội SRS của Brüder vượt qua ả vào trong bảo tàng. Dưới nhà, tiếng những cánh cửa đóng sầm vang vọng khắp sảnh khi đám cảnh sát bịt kín khu vực.
Nếu Langdon thực sự ở đây, anh ta đã bị mắc kẹt.
Thật không may, chính Vayentha cũng vậy.
 


Chương 45


Với lớp ván ốp bằng gỗ sồi và phần trần gỗ ấm áp, Sảnh Bản đồ thế giới giống như một thế giới tách biệt hẳn với nội thất bằng thạch cao và đá ốp khô cứng của Cung điện Vecchio. Ban đầu là gian phòng cất giữ mũ áo của tòa nhà, không gian rộng rãi này gồm hàng chục buồng nhỏ và tủ từng được sử dụng để cất giữ hành trang của Đại Công tước. Ngày nay, các bức tường được trang trí toàn bản đồ - năm mươi ba bức vẽ bằng tay trên da thuộc – mô tả thế giới theo nhận thức vào những năm 1550.
Bộ sưu tập bản đồ vô cùng ấn tượng của sảnh này còn nổi bật với sự hiện diện của một quả cầu khổng lồ ở chính giữa phòng. Vẫn được biết đến với tên gọi Mappa Mundi, trái cầu cao một mét tám này từng là quả cầu có thể quay được to nhất ở thời đại của nó. Người ta đồn rằng có thể xoay tròn nó dễ dàng chỉ bằng một ngón tay. Ngày nay, quả cầu là trạm dừng chân cuối cùng cho du khách sau khi đã đi hết chặng đường dài dằng dặc qua các phòng trưng bày và tới một lối cụt, nơi họ vây quanh quả cầu và ra về theo đúng lối họ đã vào.
Langdon và Sienna hổn hển chạy đến Sảnh Bản đồ. Trước mặt họ, Mappa Mundi đứng sừng sững, nhưng Langdon thậm chí không liếc mắt nhìn nó, anh hướng mắt tới những bức tường bên ngoài của gian phòng.
“Chúng ta cần tìm Armenia!”, Langdon nói. “Tấm bản đồ Armenia!”
Lúng túng thấy rõ trước yêu cầu của anh, Sienna lao bổ tới bức tường bên phải của gian phòng để tìm kiếm tấm bản đồ Armenia.
Langdon lập tức bắt tay vào việc tìm kiếm dọc bức tường bên trái, lần bước theo chu vi của gian phòng.
Ả Rập, Tây Ban Nha, Hy Lạp…
Mỗi quốc gia được khắc họa rất chi tiết, nếu như ta nhớ rằng các bức vẽ này được làm ra từ hơn năm trăm năm trước, ở một thời kỳ nhiều nơi trên thế giới còn chưa được vẽ trên bản đồ hoặc khám phá.
Armenia đâu nhỉ?
So với trí nhớ vô cùng chính xác của mình thì những gì Langdon còn nhớ được về “chuyến tham quan các lối đi bí mật” tại nơi này vài năm về trước rất mờ mịt, một phần do ly rượu Gaja Nebbiolo thứ hai mà anh uống trong bữa trưa ngay trước chuyến tham quan. Thật khéo thay, từ nebbiolo lại có nghĩa là “mờ sương”. Mặc dù vậy, lúc này Langdon vẫn nhớ đã được từng xem một tấm bản đồ duy nhất trong gian phòng này - Armenia – tấm bản đồ nắm giữ một đặc tính vô song.
Mình biết nó ở trong này, Langdon nghĩ, tiếp tục lướt nhìn dãy bản đồ dường như bất tận.
“Armenia!”, Sienna reo lên. “Đằng này!”
Langdon xoay lại và thấy cô đang đứng trong góc sâu bên phải của gian phòng. Khi anh chạy đến, Sienna chỉ vào tấm bản đồ Armenia với vẻ mặt như nói, “Chúng ta tìm thấy Armenia rồi, giờ làm sao?”
Langdon biết họ không có đủ thời gian để giải thích. Thay vào đó, anh chỉ vươn tay, nắm lấy phần khung gỗ rất lớn của tấm bản đồ, và kéo mạnh nó về phía mình. Toàn bộ tấm bản đồ trội tuột vào phòng, cùng với một phần bức tường và ván ốp, để lộ ra một lối đi bí mật.
“Được rồi”, Sienna nói, giọng đầy ấn tượng. “Armenia là đây.”
Không chút do dự, Sienna vội vã bước qua lối vào, chẳng chút e dè tiến vào không gian tối om phía trước. Langdon theo sau cô và nhanh chóng kéo bức tường đóng lại phía sau họ.
Mặc dù nhớ không rõ lắm về chuyến tham quan các lối đi bí mật, Langdon vẫn rất ấn tượng với lối đi này. Anh và Sienna vừa đi qua, đúng như vậy, lớp kính trong suốt để bước vào Cung điện Vô hình – cái thế giới bí mật tồn tại phía sau những bức tường của Cung điện Vecchio – một lãnh địa tối mật mà chỉ duy nhất vị công tước đương trị vì thời đó cùng những người thân cận nhất với ông ấy mới có thể tiếp cận được.
Langdon dừng lại một lúc bên trong khuôn cửa và làm quen với không gian xung quanh họ - một hành lang bằng đá lờ mờ nhờ ánh sáng tự nhiên yếu ớt lọt vào qua một loạt cửa sổ gắn chì. Lối đi này dẫn xuống dưới năm mươi thước tới một cánh cửa gỗ.
Anh xoay sang bên trái, nơi có cầu thang nhỏ đi lên nhưng bị chặn bằng một sợi xích. Tấm biển phía trên cầu thang để rõ:
USCITA VIETATA
Langdon leo thẳng lên cầu thang.
“Đừng anh!”, Sienna cảnh báo. “Nó nói ‘KHÔNG CÓ LỐI RA’ đấy.”
“Cảm ơn”, Langdon nói kèm theo một nụ cười chế giễu. “Anh đọc được tiếng Ý mà.”
Anh tháo sợi xích, mang trở lại cánh cửa bí mật và nhanh nhẹn dùng nó để buộc chặt bức tường xoay. Anh luồn sợi xích qua tay nắm cửa và quấn quanh một cái mấu cố định gần đó để cánh cửa không thể kéo mở ra từ phía bên kia được nữa.
“Ồ”, Sienna bẽn lẽn nói. “Ý tưởng hay đấy.”
“Nó không giữ chân bọn họ được lâu đâu”, Langdon nói. “Nhưng chúng ta sẽ không cần nhiều thời gian. Theo anh.”
Cuối cùng khi tấm bản đồ Armenia bị giật tung, đặc vụ Brüder cùng lính của gã tràn vào hành lang hẹp để đuổi theo, nhắm thẳng tới cánh cửa gỗ đầu bên kia. Khi cả bọn tràn ra ngoài, Brüder cảm thấy một luồng khí lạnh quất thẳng vào mặt, đồng thời lóa mắt vì ánh nắng chói chang.
Gã bước lên lối đi bên ngoài, len lỏi theo phần mái của cung điện. Mắt gã lần theo con đường dẫn thẳng tới một cánh cửa nữa, cách đó khoảng năm mươi thước, và lại chui vào trong tòa nhà.
Brüder đánh mắt về bên trái lối đi, nơi phần mái vòm cao ngất của Sảnh Năm trăm vươn lên như một trái núi. Không thể vượt qua. Giờ Brüder nhìn sang bên phải, nơi lối đi bám sát một vách tường dựng đứng chiếu thẳng xuống một giếng trời sâu hoắm. Chết ngay lập tức.
Mắt gã lại nhìn thẳng về phía trước. “Lối này!”
Brüder và người của gã tiến vội theo lối đi về phía cánh cửa thứ hai trong khi chiếc máy bay thám thính lượn vòng tròn như một con kền kền trên đầu.
Khi Brüder cùng người của gã xông qua cửa, tất cả dừng phắt lại, gần như xô thẳng vào nhau.
Họ đang đứng trong một gian phòng bằng đá nhỏ xíu không còn lối thoát nào khác ngoài cánh cửa mà cả bọn vừa bước qua. Chỉ có duy nhất một cái bàn gỗ dựa vào tường. Phía trên đầu, những hình người kỳ quái được mô tả trong các bức tranh vẽ trên trần như trợn mắt nhìn họ, vẻ giễu cợt.
Đây là một lối cụt.
Một người lính của Brüder tiến vội lên và đọc lướt bảng thông tin trên tường. “Khoan đã”, anh ta nói. “Nó nói có một finestra ở đây – một kiểu cửa sổ bí mật chăng?”
Brüder nhìn quanh nhưng chẳng thấy ô cửa sổ bí mật nào cả. Gã bước lại và tự mình đọc tấm bảng.
Rõ ràng nơi này từng là phòng làm việc riêng của Công nương Bianca Cappello và có một cửa sổ bí mật – una finestra segrata – để Bianca có thể ngầm quan sát chồng bà phát biểu bên dưới Sảnh Năm trăm.
Brüder đưa mắt tìm kiếm gian buồng một lần nữa, và nhận ra một lỗ hổng gắn lưới mắt cáo rất nhỏ được giấu kín ở bức tường bên. Chẳng lẽ bọn họ thoát qua lối đó?
Gã hùng hổ tiến lại và kiểm tra lỗ hổng, có vẻ quá nhỏ cho một người bằng cỡ Langdon chui qua. Brüder áp mặt vào tấm lưới và nhìn qua, để khẳng định chắc chắn rằng không có ai thoát qua đường này. Ở phía bên kia tấm lưới là một khoảng trống chạy thẳng qua vài tầng nhà, xuống sàn Sảnh Năm trăm.
Vậy thì bọn chúng biến đi đằng quái nào?!
Lúc quay lại gian buồng đá nhỏ xíu, Brüder cảm thấy toàn bộ tâm trạng chán chường của ngày hôm nay đang trào dâng trong lòng. Trong một khoảnh khắc hiếm hoi không tiết chế được cảm xúc, đặc vụ Brüder ngửa cổ và gầm lên một tiếng giận dữ.
Tiếng gầm làm inh tai trong không gian chật hẹp.
Từ phía dưới, trong Sảnh Năm trăm, đám du khách cùng sĩ quan cảnh sát đều ngoái nhìn lên lỗ hổng gắn lưới mắt cáo trên tường cao. Căn cứ vào những tiếng vọng lại, gian phòng làm việc riêng của Công nương giờ đang được dùng làm chuồng nhốt một con thú hoang.
Sienna Brooks và Robert Langdon đứng khuất trong bóng tối đặc quánh.
Mấy phút trước, Sienna nhìn thấy Langdon khôn ngoan dùng sợi xích để giữ chặt tấm bản đồ Armenia có thể di chuyển được, rồi mới chạy tiếp. Tuy nhiên, trước vẻ ngạc nhiên của cô, thay vì tiếp tục tiến vào hành lang, Langdon lại leo lên cầu thang dốc đứng đề biển:
KHÔNG CÓ LỐI RA
“Anh Robert!”, cô thì thào vẻ bối rối. “Tấm biển đó nói ‘Không có lối ra’ mà! Thêm nữa, em nghĩ chúng ta cần đi xuống!”
“Đúng thế”, Langdon nói, ngoái nhìn lại. “Nhưng đôi khi chúng ta cần đi lên… để đi xuống.” Anh nháy mắt khích lệ cô. “Em còn nhớ cái rốn của Satan không?”
Anh ấy đang nói chuyện gì nhỉ? Sienna bước lên theo anh, cảm thấy mất phương hướng.
“Em đã từng đọc Hỏa Ngục chưa?”, Langdon hỏi.
Rồi… nhưng em nghĩ lúc em bảy tuổi.
Một lúc sau, cô sực nhớ ra. “Ồ, cái rốn của Satan!”, cô nói. “Giờ em nhớ rồi.”
Phải mất một lúc lâu, nhưng giờ Sienna đã nhận ra Langdon đang nói đến đoạn kết trong Hỏa Ngục của Dante. Trong mấy khổ thơ này, để thoát ra khỏi địa ngục, Dante phải leo xuống cái bụng đầy lông lá của quỷ Satan, và khi tới được rốn của Satan – được xem la trung tâm của trái đất – thì lực hấp dẫn của trái đất đột ngột đổi hướng, và để tiếp tục leo xuống luyện ngục, Dante lại phải tìm cách leo lên.
Sienna chẳng nhớ gì mấy về Hỏa Ngục ngoài nỗi thất vọng khi chứng kiến những biến động đột ngột của lực hấp dẫn ở trung tâm trái đất, vì rõ ràng tài năng của Dante không bao gồm việc am hiểu về tính chất vật lý của các lực vector.
Họ lên đến đỉnh cầu thang, Langdon mở cánh cửa duy nhất họ thấy ở đó, trên cửa có ghi:
SALA DEI MODELLI DI ARCHITECTTURA [21].
Langdon giục cô vào bên trong, đóng và chốt chặt cửa lại phía sau.
Gian phòng nhỏ hẹp và trống trơn, chỉ có vài cái hòm trưng bày các bản mẫu bằng gỗ những thiết kế kiến trúc của Vasari dành cho phần nội thất của cung điện. Sienna không hề để tâm lắm đến các bản mẫu này. Tuy nhiên, cô lại để ý thấy rằng gian phòng không hề có cửa lớn, cửa sổ và đúng như thông báo… không có lối thoát.
“Vào giữa thế kỷ XIV”, Langdon thì thào, “Công tước vùng Athens lên nắm quyền lực tại cung điện và cho xây lối thoát bí mật này phòng trường hợp bị tấn công. Nó được gọi là Cầu thang Công tước Athens, và dẫn xuống một cửa hầm nhỏ ở con phố bên cạnh. Nếu chúng ta đi được tới đó, sẽ không ai nhìn thấy chúng ta thoát ra”. Anh chỉ tay vào một bản mẫu. “Nhìn xem. Có nhìn thấy gì ở bên cạnh không?”
Anh ấy đưa mình lên đây để cho mình xem các bản mẫu sao?
Sienna ném một cái nhìn lo lắng vào mô hình thu nhỏ và thấy một cầu thang bí mật dẫn thẳng từ nóc cung điện xuống tận phố, được giấu kín giữa các bức tường bên trong và bên ngoài của tòa nhà.
“Em nhìn thấy cầu thang rồi, Robert”, Sienna gắt, “nhưng chúng hoàn toàn ở phía đối diện của cung điện. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ tới được đó!”.
“Biết tin tưởng một chút đi em”, anh nói kèm theo một nụ cười méo xệch.
Có tiếng đổ vỡ đột ngột vọng lại từ bên dưới cho họ biết rằng tấm bản đồ Armenia vừa bị giật tung. Họ đứng như trời trồng trong khi lắng nghe tiếng bước chân của đám lính bước vào hành lang, không ai trong số đó nghĩ rằng con mồi của họ sẽ còn leo lên cao hơn nữa… đặc biệt lại theo một cầu thang nhỏ xíu có gắn biển:
KHÔNG CÓ LỐI RA
Khi những tiếng động phía dưới lắng đi, Langdon tự tin sải bước qua phòng trưng bày, lách qua các hiện vật, tiến thẳng đến thứ trông như một cái tủ lớn ở bức tường đằng kia. Cái tủ khoảng một mét vuông và ở vị trí cách sàn khoảng một mét. Không chút do dự, Langdon nắm lấy tay tủ và kéo mạnh cánh cửa ra.
Sienna sửng sốt.
Không gian bên trong có vẻ như một khoảng trống sâu, như thể cánh cửa tủ là một cánh cổng dẫn vào thế giới khác. Phía sau là một vùng tối đen.
“Theo anh”, Langdon nói.
Anh cầm lấy chiếc đèn pin duy nhất treo trên bức tường bên cạnh khung cửa. Sau đó, bằng sự nhanh nhẹn và mạnh mẽ đến ngạc nhiên, vị giáo sư nhấc mình chui qua lỗ hổng và biến mất trong cái hang thỏ ấy.
 


Chương 46


Tầng áp mái, Langdon nghĩ thầm. Tầng áp mái ấn tượng nhất trên trái đất.
Không khí bên trong khoảng trống tỏa ra toàn mùi bụi và cũ kỹ, như thể hàng thế kỷ bụi thạch cao giờ đây trở nên mịn và nhẹ đến mức không chịu nằm yên mà cứ lơ lửng trong không khí. Không gian rộng rãi ấy phát ra những tiếng cọt kẹt và rền rĩ, khiến Langdon có cảm giác mình vừa chui vào bụng một con thú đang còn sống.
Khi lấy được thăng bằng trên thanh vì kèo rộng bản, anh giơ đèn pin lên, để cho quầng sáng xuyên qua bóng tối.
Trải dài trước mắt anh là một đường hầm dường như bất tận chằng chịt một mạng lưới bằng gỗ gồm những hình tam giác và tứ giác hình thành từ vị trí giao cắt của những trụ, xà, vì kèo cùng nhiều thành phần kết cấu khác tạo thành bộ xương vô hình của Sảnh Năm trăm.
Phần không gian áp mái đồ sộ này là nơi Langdon từng xem xét trong chuyến tham quan các lối đi bí mật mà anh còn nhớ mang máng cách đây vài năm. Khuôn cửa sổ quan sát trông như chạn bát được khoét trong tường của một gian phòng trưng bày mô hình kiến trúc nên khách khứa có thể xem xét các mô hình vì kèo, sau đó soi đèn pin qua lỗ hổng và xem kết cấu thật.
Lúc này, Langdon đã ở bên trong phần xép áp mái, anh ngạc nhiên khi thấy cấu trúc vì kèo này rất giống cấu trúc một kho thóc cũ ở New England - một tập hợp trụ và vì kèo truyền thống với các mối nối kiểu “mũi tên của thần Jupiter”.
Sienna cũng đã trèo qua lỗ hổng và đứng thăng bằng trên một thanh rầm bên cạnh anh, thấy rõ là mất phương hướng. Langdon vung vẫy đèn pin ra trước và sau để cho cô thấy cảnh tượng hết sức đặc biệt.
Từ đầu bên này, nhìn xuyên suốt chiều dài của tầng áp mái chẳng khác gì nhìn qua một cái ống dài gồm những tam giác cân đang chĩa thẳng, hướng về một điểm mất hút xa vời nào đó. Dưới chân họ, tầng áp mái không hề có chỗ đặt chân, và các rầm đỡ nằm ngang của nó hoàn toàn lộ thiên, trông giống như cả loạt thanh tà vẹt đường sắt khổng lồ.
Langdon chỉ thẳng xuống đường ống hun hút chạy dài, nói bằng giọng cổ ghìm âm lại. “Không gian này nằm ngay phía trên Sảnh Năm trăm. Nếu chúng ta tới được đầu bên kia, anh biết cách tới được Cầu thang Công tước Athens.”
Sienna phóng ánh mắt đầy hoài nghi vào cái mê cung rầm và vì kèo trải rộng trước mặt họ. Lối đi duy nhất họ thấy rõ để vượt qua tầng áp mái chính là nhảy giữa các thanh giằng giống như bọn trẻ con vẫn làm trên các đường tàu hỏa. Các thanh giằng rộng bản, mỗi thanh đều gồm vài xà rầm bó lại với nhau bằng đai sắt lớn tạo thành một cụm chắc chắn, đủ rộng để đứng thăng bằng bên trên. Tuy nhiên, thử thách là ở chỗ khoảng cách giữa các thanh xà quá lớn khó có thể nhảy qua một cách an toàn.
“Em không thể nhảy giữa những thanh xà này được đâu”, Sienna thì thào.
Langdon cũng ngờ rằng chính anh khó lòng làm được, và một khi ngã xuống là cầm chắc cái chết. Anh soi cây đèn pin xuống khoảng trống giữa các thanh rầm chống.
Phía dưới họ hơn hai mét, treo lên các thanh sắt là một bề mặt nằm ngang phủ bụi dày – một kiểu sàn gì đó – mở rộng hút tầm mắt họ. Mặc dù trông nó có vẻ rất chắc chắn nhưng Langdon biết mặt sàn đó cơ bản gồm những giàn khung phủ bụi. Đây chính là “mặt sau” của phần trần treo trong Sảnh Năm trăm – một bề mặt gồm những nẹp gỗ làm khuôn cho ba mươi chín bức tranh của Vasari, tất cả được treo nằm ngang thành một dạng kết cấu giống như nhiều mảnh vải may ghép lại.
Sienna chỉ xuống bề mặt phủ bụi bên dưới hai người. “Chúng ta có thể leo xuống dưới kia và đi trên đó không?”
Không thể trừ khi cô muốn rơi qua một bức tranh của Vasari để lọt xuống Sảnh Năm trăm.
“Thực tế có một cách hay hơn”, Langdon bình tĩnh nói, không muốn làm cô sợ hãi. Anh bắt đầu di chuyển theo trụ chống về phía xương sống trung tâm của tầng áp mái.
Trong lần tham quan trước, ngoài việc ngó qua cái cửa sổ quan sát trong căn phòng mô hình kiến trúc, Langdon còn khám phá phần áp mái bằng chân, chui vào đây qua một khuôn cửa ở đầu bên kia của tầng áp mái. Nếu không bị rượu vang làm lu mờ trí nhớ thì Langdon chắc chắn có một lối đi vững chãi chạy dọc theo xương sống trung tâm của tầng áp mái, giúp du khách tiếp cận được một sàn quan sát rộng rãi ở chính giữa khu vực này.
Tuy nhiên, khi đến được trung tâm của trụ chống, Langdon tìm thấy một lối đi chẳng giống gì với lối anh còn nhớ được trong lần tham quan của mình.
Ngày hôm đó mình uống bao nhiêu Nebbiolo không biết?
Thay vì một kết cấu vững chắc phục vụ du khách, anh chỉ nhìn thấy một đống ván lỏng lẻo được đặt vuông góc ngang qua các thanh xà để tạo thành lối đi tạm bợ - giống sợi dây làm xiếc hơn là cây cầu.
Rõ ràng, lối đi vững chắc dành cho du khách, bắt nguồn từ đầu bên kia, chỉ dài tới sàn quan sát trung tâm mà thôi. Từ chỗ đó, du khách lại theo đúng dấu chân của mình quay lại. Còn cái xà thăng bằng trước mặt Langdon cùng Sienna lúc này chắc chắn được lắp để những người thợ có thể làm việc tại khu vực áp mái còn lại ở đầu bên này.
“Giống như chúng ta đang đi trên ván vậy”, Langdon nói, mắt nhìn những tấm ván hẹp với vẻ không lấy gì làm chắc chắn.
Sienna nhún vai, không hề lúng túng. “Cũng đâu có tệ hơn Venice vào mùa lụt.”
Langdon nhận ra cô có lý. Trong chuyến đi nghiên cứu gần đây nhất của anh tới Venice, Quảng trường St. Mark ngập sâu đến ba mươi centimet nước, và anh đã đi bộ từ khách sạn Danieli tới Vương cung Thánh đường trên những tấm ván gỗ kê trên các khối xỉ than và những cái xô úp ngược. Dĩ nhiên, khả năng làm ướt giày đế mềm rất khác với khả năng ngã xuyên qua một kiệt tác thời Phục Hưng rồi tử vong.
Langdon gạt mọi ý nghĩ ra khỏi tâm trí, bước lên tấm ván hẹp, cố tỏ ra quả quyết với hy vọng sẽ giúp trấn an cảm giác lo lắng mà Sienna đang cố giấu. Tuy nhiên, bất chấp bề ngoài tự tin, tim anh vẫn đập thình thịch khi di chuyển qua tấm ván đầu tiên. Lúc anh ra đến gần giữa, tấm ván oằn xuống dưới sức nặng của anh, kêu răng rắc. Anh bước nhanh chân hơn, và cuối cùng cũng tới được đầu kia tương đối an toàn trên trụ giằng thứ hai.
Langdon thở ra một hơi rồi quay lại để soi đèn sáng cho Sienna, định đưa ra mấy lời động viên cô. Nhưng rõ ràng cô không cần đến. Quầng sáng của anh vừa soi tỏ tấm ván, cô đã vượt qua hết chiều dài của nó với sự khéo léo tuyệt vời. Tấm ván gần như không oằn dưới thân hình mảnh mai của cô, và chỉ trong mấy giây cô đã có mặt bên anh ở đầu kia.
Như được khuyến khích, Langdon quay lại và tiếp tục tiến lên tấm ván tiếp theo. Sienna đợi cho tới khi anh đã qua hẳn và có thể quay lại chiếu sáng đèn cho mình rồi mới đi theo, bám sát anh. Bằng nhịp độ đều đặn, họ cứ đi tới. Hai bóng người lần lượt di chuyển dưới ánh sáng của cây đèn pin duy nhất. Đâu đó bên dưới họ, tiếng bộ đàm cảnh sát lạo xạo vọng lên qua lớp trần mỏng. Langdon thoáng mỉm cười. Chúng ta đang lượn lờ ngay bên trên Sảnh Năm trăm, không trọng lượng và vô hình.
“Anh Robert?”, Sienna thì thào. “Anh nói Ignazio bảo anh tìm chiếc mặt nạ ở đâu?”
“Ông ấy có dặn… nhưng dưới dạng một loại mật mã.” Langdon nhanh chóng giải thích rằng Ignazio rõ ràng không muốn hé lộ về vị trí của chiếc mặt nạ trong máy trả lời, và vì thế ông ấy chia sẻ thông tin theo một hình thức khó hiểu hơn. “Ông ấy nói đến thiên đường, anh cho rằng là một cách ám chỉ tới phần cuối của Thần khúc. Chính xác lời ông ấy là ‘Thiên đường Hai mươi lăm’.”
Sienna ngước nhìn lên. “Chắc chắn ý ông ấy là Khổ XXV.”
“Anh đồng ý”, Langdon nói. Một khổ thơ cơ bản tương tự với một chương sách, từ này gợi nhớ lại truyền thống “hát” bằng miệng các thiên sử thi. Thần khúc chính xác gồm một trăm khổ thơ, được chia làm ba phần.
Hỏa Ngục có từ khổ I đến XXXIV
Luyện ngục có từ khổ I đến XXXIII
Thiên đường có từ khổ I đến XXXIII
Thiên đường Hai mươi lăm, Langdon thầm nghĩ, rất mong trí nhớ rành mạch của mình đủ mạnh để nhớ được toàn bộ phần nội dung. Mặc dù không giúp tìm ra chính xác, chúng ta vẫn phải tìm một bản sách.
“Còn nữa”, Langdon tiếp tục. “Điều cuối cùng Ignazio dặn anh là: ‘Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên’”. Anh ngừng lại, quay lại nhìn Sienna. “Khổ XXV có lẽ gợi ý cho một địa điểm cụ thể ở Florence này. Rõ ràng là một nơi nào đó có cổng.”
Sienna cau mày. “Nhưng thành phố này có đến hàng chục cổng.”
“Phải, đó là lý do tại sao chúng ta phải đọc Khổ XXV của Thiên đường.” Anh nhoẻn miệng cười đầy hy vọng với cô. “Nói gì thì nói, em cũng không thuộc toàn bộ Thần khúc có phải không?”
Cô lặng thinh nhìn anh. “Mười bốn nghìn dòng chữ Ý cổ mà em đọc khi còn là một đứa trẻ sao?” Cô lắc đầu. “Anh là một người có trí nhớ kỳ dị, giáo sư ạ. Còn em chỉ là một bác sĩ.”
Trong khi họ tiếp tục đi tới, Langdon cảm thấy hơi buồn vì sau tất cả những gì họ đã trải qua cùng nhau, Sienna rõ ràng vẫn muốn giữ kín sự thật về trí thông minh tuyệt vời của mình. Cô ấy chỉ là một bác sĩ thôi ư? Langdon bật cười khan. Cô nàng bác sĩ khiêm tốn nhất trên đời, anh nghĩ thầm, nhớ lại tập báo cáo mình đã đọc về những tài năng đặc biệt của cô. Tuy nhiên, dù rất tiếc nhưng không lấy gì làm lạ, tài năng ấy không bao gồm việc nhớ trọn vẹn một trong những trường ca dài nhất trong lịch sử.
Họ im lặng đi tiếp, vượt qua vài xà rầm nữa. Cuối cùng, Langdon nhìn thấy trong khoảng tối phía trước một hình khối khiến anh phấn chấn. Sàn quan sát! Tấm ván không lấy gì làm chắc chắn mà họ đang bước bên trên dẫn thẳng tới một kết cấu vững chãi hơn nhiều và có hẳn thành lan can. Nếu trèo lên cái sàn đó, họ có thể tiếp tục đi cho tới khi thoát khỏi tầng áp mái, qua cánh cửa, mà theo trí nhớ của Langdon, là rất gần Cầu thang Công tước Athens.
Đến gần sàn hơn, Langdon liếc nhìn xuống phần trần treo hơn hai mét bên dưới. Cho đến lúc này, các ô trần nhà phía dưới đều giống nhau. Tuy nhiên, ô trần phía trước rất lớn, lớn hơn nhiều so với những ô khác.
Bức lễ phong thánh của Cosimo I đây mà, Langdon đăm chiêu.
Ô trần hình tròn rất lớn này là bức vẽ quý giá nhất của Vasari – ô trần trung tâm của Sảnh Năm trăm. Langdon thường trình chiếu những hình ảnh của tác phẩm này cho sinh viên của mình, chỉ ra các chi tiết giống với bức Lễ phong thánh của Washington trong điện Capitol ở Hoa Kỳ - một tác phẩm khiêm nhường gợi nhắc rằng nước Mỹ non trẻ đã tiếp nhận nhiều thứ từ Ý chứ không chỉ khái nhiệm về một nền Cộng hòa.
Nhưng hôm nay, Langdon quan tâm đến việc vượt nhanh qua bức Lễ phong thánh hơn là nghiên cứu nó. Trong lúc tăng tốc độ di chuyển, anh hơi ngoái đầu lại để nói khẽ với Sienna rằng họ đã gần đến đó.
Vừa làm như vậy, bàn chân phải của anh lỡ đà nên không đặt đúng chính giữa tấm ván, chiếc giày đế mềm đi mượn của anh lệch ra ngoài mép một nửa. Anh bị lệch khớp mắt cá chân và chúi về phía trước, nửa ngã, nửa xô tới, cố gắng bước nhanh thêm một bước nữa để lấy lại thăng bằng.
Nhưng đã quá muộn.
Đầu gối anh va mạnh vào tấm ván, còn hai tay anh vươn hết cỡ một cách tuyệt vọng về phía trước, cố gắng bíu lấy thanh giằng. Chiếc đèn pin rơi lạch cạch xuống một khoảng trống tối om bên dưới, đập thẳng vào lớp vải toan, mắc vào đó như một tấm lưới. Chân Langdon lắc mạnh, vừa hay đẩy anh bám an toàn vào thanh giằng tiếp theo trong khi tấm ván trượt luôn xuống dưới, rơi mạnh lên phần khung gỗ bao quanh tấm toan bức Lễ phong thánh của Vasari sâu hơn hai mét phía dưới.
Tiếng động vang vọng khắp tầng áp mái.
Kinh hãi, Langdon lồm cồm bò dậy và quay lại phía Sienna.
Trong ánh sáng lờ mờ của chiếc đèn pin bị rớt đang nằm trên lớp toan phía dưới, Langdon có thể nhìn thấy Sienna đang đứng trên thanh giằng phía sau mình, giờ đây bị mắc kẹt hẳn vì không còn cách nào vượt qua. Mắt cô nói rõ những gì Langdon đã biết. Tiếng động của tấm ván rơi chắc chắn đã tố giác bon họ.
Mắt Vayentha hướng thẳng lên phần trần nhà lộng lẫy.
“Chuột trên tầng áp mái chăng?”, người đàn ông cầm máy quay bông đùa khi nghe tiếng động dội xuống.
Những con chuột rất to, Vayentha nghĩ bụng, ngước mắt nhìn bức tranh hình tròn ở chính giữa trần sảnh. Lúc này, một đám bụi nhỏ đang trút xuống từ giữa các khung tranh, và Vayentha có thể nhìn rõ một chỗ phình lên chút ít trên lớp toan, gần như thể có ai đó đang ấn nó xuống từ phía trên.
“Có lẽ một sĩ quan cảnh sát nào đó đánh rơi khẩu súng của anh ta từ sàn quan sát rồi”, người đàn ông nói, đưa mắt nhìn chỗ lồi trên bức vẽ. “Chị nghĩ họ đang tìm cái gì? Chuyện này xem ra rất thú vị.”
“Một sàn quan sát à?”, Vayentha hỏi lại. “Thực tế mọi người có thể lên trên đó à?”
“Chắc chắn rồi.” Anh ta làm hiệu về phía lối vào bảo tàng. “Ngay phía trong cánh cửa kia là một cái cửa dẫn thẳng lên lối đi trên tầng áp mái. Chị có thể nhìn thấy công trình vì kèo của Vasari. Thật phi thường.”
Tiếng Brüder đột ngột lại ầm vang khắp Sảnh Năm trăm. “Vậy thì họ biến đi đằng quái nào?”
Những lời nói của gã, cũng giống như tiếng gầm thống thiết của gã lúc trước, phát ra từ sau tấm lưới ở tít trên bức tường cao bên trái Vayentha. Rõ ràng Brüder đang ở trong một gian phòng sau tấm lưới cách đúng một tầng nhà bên dưới phần trần trang trí của gian phòng.
Mắt Vayentha lại hướng chỗ phình ra ở tấm toan trên đầu.
Đám chuột trên tầng áp mái, ả nghĩ thầm. Đang tìm kiếm một lối thoát.
Ả cảm ơn người đàn ông cầm máy quay và nhanh chóng tiếp cận vào bảo tàng. Cách cửa đã đóng, nhưng hiện giờ có rất nhiều cảnh sát ra vào, ả đoán rằng nó không hề khóa.
Quả thật, trực giác của ả đã đúng.
 


Chương 47


Bên ngoài quảng trường, trong đám cảnh sát đang hỗn loạn đổ tới có một người đàn ông trung niên đứng trong bóng râm của Loggia dei Lanzi. Ông ta đang quan sát mọi việc với vẻ rất chăm chú. Người đàn ông đeo một cặp kính hiệu Plume Paris, cà vạt họa tiết cánh hoa, và một bên tai có chiếc khuyên vàng nhỏ xíu.
Vừa đứng quan sát cảnh náo loạn, ông ta vừa gãi gãi cổ. Người đàn ông này bị mẩn ngứa suốt đêm, và có vẻ càng lúc càng nặng, biểu hiện là những nốt nhỏ trên cằm, cổ, má và cả trên mắt.
Liếc mắt xuống móng tay mình, ông ta thấy rướm máu. Ông ta rút một chiếc khăn ra và lau móng tay, đồng thời thấm cả những nốt mụn rướm máu trên cổ và má.
Khi đã lau sạch, ông ta lại hướng ánh mắt về hai chiếc xe thùng màu đen đỗ bên ngoài cung điện. Chiếc xe gần nhất có hai người ngồi ở băng ghế sau.
Một trong số đó là gã lính có vũ trang mặc đồ đen.
Người kia là một phụ nữ tóc bạc đã đứng tuổi nhưng rất xinh đẹp, đeo một chiếc bùa màu lam.
Người lính trông như thể đang chuẩn bị một ống tiêm dưới da.
Bên trong chiếc xe thùng, tiến sĩ Elizabeth Sinskey thẫn thờ nhìn ra ngoài về phía cung điện, tự hỏi không biết cuộc khủng hoảng này đã tồi tệ đến mức độ nào rồi.
“Thưa bà”, một giọng nói trầm trầm vang lên bên cạnh bà.
Bà lảo đảo quay lại phía người lính kèm bên mình. Anh ta đang nắm lấy cánh tay bà và cầm một ống tiêm. “Xin hãy ngồi yên!”
Mũi kim tiêm nhọn hoắt xuyên vào d.a thịt bà.
Người lính đã hoàn thành mũi tiêm. “Giờ xin hãy ngủ lại đi!”
Khi nhắm mắt lại, bà vẫn kịp nhận ra có một người đàn ông đang nhìn bà từ trong bóng râm. Ông ta đeo một cặp kính thời trang và chiếc cà vạt sành điệu. Khuôn mặt ông ta nổi mẫn và đỏ ửng. Bà nhất thời nghĩ mình biết ông ta, nhưng khi mở mắt nhìn lại thì người đàn ông đã biến mất.
 


Chương 48


Trong bóng tối của tầng áp mái, Langdon và Sienna giờ đã bị chia tách bởi một khoảng trống rộng tới sáu mét. Phía dưới họ hơn hai mét, tấm ván bị rớt đã nằm yên trên phần khung gỗ căng tấm toan vẽ bức Lễ phong thánh của Vasari. Cái đèn pin, lúc này vẫn sáng, nằm trên tấm toan, tạo thành một vết lõm nhỏ, giống như một hòn đá nằm trên tấm bạt lò xo.
“Tấm ván sau lưng em”, Langdon thì thào. “Em có thể bắc nó tới thanh giằng này không?”
Sienna nhìn tấm ván. “Không thể làm được mà không khiến đầu kia rớt xuống tấm toan.”
Langdon rất e ngại rằng việc cuối cùng họ cần lúc này là gây ra một cú va chạm nữa xuyên thủng tấm toan của Vasari.
“Em có ý này”, Sienna nói, di chuyển nghiêng dọc theo thanh giằng, tiến tới bức tường bên. Langdon bám theo cây xà rầm của mình, mỗi bước chân càng lúc càng trở nên nguy hiểm khi họ đánh liều rời xa khỏi quầng sáng đèn pin. Lúc tới được bức tường bên, họ gần như đã chìm trong bóng tối.
“Dưới đó”, Sienna thì thào, chỉ tay vào khoảng tối phía dưới họ. “Gờ khung tranh. Nó được cố định vào bức tường bên. Nó sẽ đỡ được em.”
Langdon chưa kịp phản đối thì Sienna đã tụt khỏi thanh giằng, tận dụng các xà rầm đỡ làm cầu thang. Cô dễ dàng xuống được đến gờ của phần khuôn gỗ. Nó kêu ken két, nhưng vẫn giữ nguyên. Sau đó, Sienna nhích từng chút men theo tường, bắt đầu tiến về phía Langdon như thể đang nhích dần ngang qua mép của một tòa nhà cao. Khuôn gỗ lại kêu ken két lần nữa.
Khác gì băng mỏng, Langdon thầm nghĩ. Cần ở gần bờ.
Khi Sienna đi được một nửa đường, và đang tiếp cận thanh giằng nơi anh đứng bên trên trong bóng tối, Langdon chợt thấy le lói chút hy vọng rằng họ có thể thoát ra khỏi đây kịp lúc.
Đột nhiên, đâu đó trong bóng tối phía trước, Langdon nghe thấy tiếng một cánh cửa đóng mạnh lại và những bước chân di chuyển nhanh đang tiến lại theo lối đi. Quầng sáng của một ngọn đèn pin xuất hiện, quét khắp tầng áp mái, càng lúc càng gần. Langdon cảm thấy niềm hy vọng của mình vụt tắt. Có ai đó đang tiến tới, di chuyển dọc lối đi chính và chặn luôn lối thoát của họ.
“Sienna, cứ đi đi”, anh thì thào, phản ứng theo bản năng. “Cứ tiếp tục đi hết chiều dài bức tường. Có một lối thoát ở đầu kia. Anh sẽ chạy cản đầu.”
“Đừng!”, Sienna thì thào gấp gáp. “Anh Robert, quay lại đi!”
Nhưng Langdon đã di chuyển, quay ngược lại, men theo thanh giằng về phía xương sống trung tâm của tầng áp mái, bỏ mặc Sienna trong bóng tối, đang nhích dần qua bức tường bên, phía dưới anh hơn hai mét.
Khi Langdon đến được trung tâm tầng áp mái, một cái bóng không rõ mặt cùng với cây đèn pin cũng vừa đến được sàn quan sát được nâng cao lên. Bóng người đó dừng lại chỗ tay vịn thấp và chĩa quầng sáng đèn thẳng vào mắt Langdon.
Quầng sáng chói mắt, Langdon lập tức giơ tay đầu hàng. Anh cảm thấy tình thế hiện giờ không thể nguy hiểm hơn được nữa – đứng chênh vênh tít cao phía trên Sảnh Năm trăm, bị một quầng sáng rất mạnh làm chói mắt.
Langdon đợi một tiếng súng hoặc một mệnh lệnh, nhưng chỉ có sự im lặng. Một lúc sau, quầng sáng rời khỏi mặt anh và bắt đầu vung vẩy trong phần bóng tối phía sau lưng anh, rõ ràng đang tìm kiếm gì đó… hoặc ai đó. Khi quầng sáng rời khỏi mắt, Langdon vừa kịp nhận ra bóng của người đang chặn đường thoát của mình. Đó là một phụ nữ, thon thả và mặc toàn đồ đen. Anh tin chắc rằng bên dưới cái mũ bóng chày của ả là mái tóc đầu đinh.
Các cơ của Langdon cứng lại khi trí nhớ của anh toàn hình ảnh của bác sĩ Marconi nằm chết trên sàn bệnh viện.
Ả đã tìm ra mình. Ả ở đây để kết thúc công việc.
Langdon vụt nhớ tới cảnh những người thợ lặn tự do người Hy Lạp đang bơi sâu vào trong một đường hầm, vượt qua cả điểm có thể quay lại, và rồi đâm sầm vào một lối cụt lạnh lẽo.
Sát thủ lại vung quầng sáng đèn rọi vào mắt Langdon.
“Ông Langdon”, ả thì thào. “Bạn của ông đâu rồi?”
Langdon cảm thấy lạnh toát. Ả sát thủ này ở đây để giết cả hai chúng ta.
Langdon đánh mắt rời khỏi phía Sienna, liếc lại khoảng tối họ đến khi nãy. “Cô ấy không liên quan gì đến việc này. Cô cần tôi mà.”
Langdon cầu mong lúc này Sienna đã men dọc theo bức tường. Nếu vòng được qua sàn quan sát, thì cô có thể lặng lẽ leo trở lại lối đi trung tâm, ngay phía sau lưng ả đàn bà đầu đinh, và di chuyển về phía cửa.
Ả sát thủ lại nhấc đèn lên và quét vào khoảng không gian tầng áp mái trống vắng phía sau lưng anh. Khi quầng ánh sáng tạm thời rời khỏi mắt, Langdon vẫn kịp thoáng thấy một dáng người trong bóng tối phía sau ả.
Ôi, lạy Chúa, không.
Thực tế, Sienna đang lần qua một thanh giằng về phía lối đi trung tâm, nhưng rủi thay, cô lại chỉ ở phía sau kẻ tấn công có mười thước.
Sienna, không! Em ở quá gần! Ả sẽ nghe thấy em mất!
Quầng sáng lia trở lại mắt Langdon.
“Nghe kỹ đây, thưa giáo sư, ả sát thủ thì thào. “Nếu ông muốn sống, tôi khuyên ông nên tin tôi. Nhiệm vụ của tôi đã thất bại. Tôi không có lý do gì để hại ông. Ông và tôi giờ cùng một phe, và tôi biết cách giúp ông.”
Langdon không nghe rõ mấy vì ý nghĩ của anh đang tập trung vào Sienna. Ở góc nhìn nghiêng, anh thấp thoáng thấy cô đang thầm leo lên lối đi phía sau sàn quan sát, quá gần với ả đàn bà cầm súng.
Chạy đi! Anh thầm mong. Tìm cách chuồn ngay khỏi đây!
Thế nhưng trước sự thảng thốt của Langdon, Sienna lại bám sát mặt đất, cúi thật thấp trong bóng tối và im lặng quan sát.
Mắt Vayentha săm soi khoảng tối phía sau Langdon. Cô ả biến đi đằng quái nào nhỉ? Bọn họ tách khỏi nhau chăng?
Vayentha phải tìm cách không để cặp đôi đang trốn chạy này lọt vào tay Brüder. Đó là hy vọng duy nhất của ta.
“Sienna?!”, Vayentha đánh liều gọi thầm trong cổ họng. “Nếu cô nghe được tiếng tôi thì hãy nghe cho kỹ. Cô không nên để đám người dưới kia tóm được. Họ sẽ không hiền lành đâu. Tôi biết một lối thoát. Tôi có thể giúp cô. Tin tôi đi.”
“Tin cô ư?”, Langdon vặn hỏi, giọng anh đột ngột đủ lớn để bất kỳ ai ở gần đó cũng có thể nghe được. “Cô là một kẻ giết người!”
Sienna ở gần đây, Vayentha nhận ra ngay. Langdon đang nói cho ả nghe… cố gắng cảnh báo ả đây mà.
Vayentha thử lại lần nữa. “Sienna, tình hình rất phức tạp, nhưng tôi có thể đưa hai người ra khỏi đây. Hãy cân nhắc lựa chọn của cô. Cô bị mắc kẹt rồi. Cô không còn lựa chọn nào khác.”
“Cô ấy còn một lựa chọn”, Langdon nói to. “Và cô ấy đủ thông minh để chạy càng xa càng tốt.”
“Mọi chuyện đều đang thay đổi rồi”, Vayentha kiên trì. “Tôi không còn lý do gì để làm hại hai người.”
“Cô đã giết bác sĩ Marconi! Và tôi đoán cô cũng là người đã bắn vào đầu tôi!”
Vayentha biết rằng người đàn ông này sẽ không bao giờ tin ả không có ý định giết anh ta.
Thời gian trò chuyện đã hết. Mình chẳng còn gì nói để thuyết phục anh ta.
Không chút do dự, ả thò tay vào áo khoác da và rút khẩu súng giảm thanh ra.
Không động đậy trong bóng tối, Sienna vẫn bò rạp trên lối đi cách chưa đầy mười thước phía sau ả đàn bà đứng đối diện Langdon. Ngay cả trong bóng tối, cái dáng của ả đàn bà vẫn không thể lẫn vào đâu được. Trước vẻ hãi hùng của Sienna, ả đang vung vẫy chính khẩu súng mà ả đã dùng để giết bác sĩ Marconi.
Ả sắp bắn, Sienna biết như vậy, cảm nhận rõ ngôn ngữ cơ thể của ả đàn bà.
Rất quả quyết, ả bước thêm hai bước đầy hăm dọa về phía Langdon, dừng lại ở phần tay vịn bao quanh sàn quan sát phía trên bức Lễ phong thánh của Vasari. Ả sát thủ lúc này tới gần Langdon hết mức. Ả giơ súng lên và chĩa thẳng vào ngực Langdon.
“Thứ này chỉ gây đau đớn trong tích tắc thôi”, ả nói, “nhưng đó là lựa chọn duy nhất của tôi”.
Sienna phản ứng theo bản năng.
Nhịp rung bất ngờ trên những tấm ván dưới chân Vayentha vừa đủ khiến ả hơi xoay đi lúc bóp cò. Lúc khẩu súng của ả nhả đạn, ả biết nó không còn chĩa vào Langdon nữa.
Có gì đó đang tiến lại phía sau lưng ả.
Tiến lại rất nhanh.
Vayentha xoay lại tại chỗ, chuyển khẩu súng của mình đúng một trăm tám mươi độ về phía kẻ tấn công mình, và một mái tóc vàng óng ánh lên trong bóng tối khi có ai đó lao sầm hết tốc lực vào Vayentha. Khẩu súng lại nhả đạn, nhưng người ấy cúi thấp dưới cả thắt lưng để xông cả cơ thể lên thật mạnh. Hai chân Vayentha rời khỏi sàn gỗ và nửa người ả đập mạnh vào phần tay vịn rất thấp của sàn quan sát. Khi cơ thể ả văng ra ngoài rào chắn, ả vung mạnh hai tay, cố gắng níu lấy bất cứ thứ gì ngăn không cho mình rơi xuống, nhưng đã quá muộn. Ả bổ nhào qua rào chắn.
Vayentha rơi qua bóng tối, cố gắng hết sức để tránh cú va đập xuống phần sàn bụi bặm cách sàn quan sát hơn hai mét phía dưới. Nhưng lạ thay, cú tiếp đất của ả mềm hơn ả tưởng, như thể ả vừa rơi trúng một chiếc võng vải, lúc này trĩu xuống dưới sức nặng của ả.
Mất phương hướng, Vayentha nằm ngửa và trợn trừng nhìn lên kẻ tấn công mình. Sienna Brooks đang ngó qua lan can nhìn ả. Choáng váng, Vayentha mở mồm định nói, nhưng đột nhiên, ngay bên dưới ả, có một tiếng rách toạc rất to.
Lớp vải đang đỡ sức nặng của ả rách toang.
Vayentha lại rơi xuống.
Lần này, ả rơi chỉ đúng ba giây, đủ để ả thấy mình vẫn trợn trừng nhìn lên phần trần nhà được phủ kín bằng những bức tranh rực rỡ. Bức vẽ ngay bên trên ả - một tấm toan tròn rất lớn mô tả Công tước Cosimo I có các thiên sứ vây quanh trên một đám mây thiên đường – giờ để lộ ra một khoảng đen ngòm cắt qua phần chính giữa.
Rồi, sau một tiếng va chạm đột ngột, toàn bộ thế giới của Vayentha chìm vào bóng tối.
Tít trên cao, như hóa đá vì không tin vào mắt mình, Robert Langdon đăm đăm nhìn qua bức Lễ phong thánh đã bị xé rách xuống khoảng không gian sâu hoắm phía dưới. Trên sàn đá của Sảnh Năm trăm, ả đàn bà đầu đinh nằm bất động, một vũng máu thẫm đang loang nhanh từ đầu ả. Ả vẫn nắm chặt khẩu súng trong tay.
Langdon ngước mắt nhìn Sienna, cũng đang đăm đăm nhìn xuống, sững sờ vì cảnh tượng thê thảm phía dưới. Nét mặt Sienna sốc nặng. “Em không có ý định…”
“Em chỉ phản ứng theo bản năng thôi”, Langdon thì thào. “Ả định giết anh.”
Từ phía dưới, những tiếng hét hoảng hốt vọng lên qua tấm toan đã bị xé rách.
Rất nhẹ nhàng, Langdon hướng dẫn Sienna rời khỏi rào chắn. “Chúng ta cần tiếp tục di chuyển.”
 


Chương 49


Trong phòng làm việc bí mật của Công nương Bianca Cappello, đặc vụ Brüder nghe rõ một tiếng thịch kinh người kéo theo những tiếng la thất thanh càng lúc càng rõ trong Sảnh Năm trăm. Gã nhảy bổ tới tấm lưới trên tường và nhìn qua đó. Cảnh tượng trên nền đá trang nhã phía dưới khiến gã mất vài giây để suy xét.
Cô nhân viên quản lý bảo tàng bụng mang dạ chửa đã đến bên cạnh gã chỗ tấm lưới, lập tức bụm miệng, đứng chết trân vì kinh hoảng trước cảnh tượng phía dưới – một xác người rũ rượi nằm giữa vòng vây của các du khách đang hoảng loạn. Ánh mắt của cô nhân viên quản lý từ từ ngước lên trần Sảnh Năm trăm rồi thốt lên một tiếng rên đau đớn. Brüder nhìn theo ánh mắt của cô ta lên một ô trần hình tròn – một tấm toan tranh vẽ với vết rách lớn cắt ngang phần chính giữa.
Gã quay lại phía cô nhân viên quản lý. “Làm cách nào lên đó!?”
Ở đầu bên kia tòa nhà, Langdon và Sienna hổn hển leo từ tầng áp mái xuống và lao qua cửa. Chỉ trong vài giây, Langdon đã tìm thấy cái hốc phòng nhỏ, ẩn kín phía sau một tấm rèm đỏ thẫm. Anh vẫn nhớ rõ nó nhờ chuyến tham quan các lối đi bí mật của mình.
Cầu thang Công tước Athens.
Tiếng những bước chân chạy vội vã và tiếng hò hét lúc này như đang vọng đến từ mọi hướng, và Langdon biết thời gian của họ không còn nhiều. Anh kéo tấm rèm sang bên, và cùng Sienna chui qua để sang một chiếu nghỉ nhỏ.
Không nói một lời, họ bắt đầu lần xuống cầu thang đá. Lối đi được thiết kế ngoắt ngoéo và hẹp một cách đáng sợ. Càng xuống sâu, lối đi dường như càng chật hẹp. Langdon cảm thấy như thể những bức tường đang nhích vào để nghiền nát anh, nhưng thật may, họ không phải đi xa thêm nữa.
Đã đến mặt đất.
Không gian ở dưới chân cầu thang là một buồng đá nhỏ xíu, và mặc dù lối ra của nó chắc chắn là một trong những cánh cửa nhỏ nhất trên đời nhưng đó vẫn là một hình ảnh tươi đẹp chào đón họ. Chỉ cao khoảng một mét hai, cánh cửa được làm bằng gỗ nặng trịch với những đinh sắt tán và một chốt trong rất to để ngăn không cho mọi người lọt vào.
“Em nghe thấy những âm thanh đường phố phía sau cửa”, Sienna thì thào, vẻ mặt vẫn còn kinh hãi. “Bên kia là đâu nhỉ?”
“Via della Ninna”, Langdon đáp, hình dung ra một con hẻm dành cho người đi bộ rất đông đúc. “Nhưng có thể có cảnh sát.”
“Họ sẽ không nhận ra chúng ta đâu. Họ sẽ tìm kiếm một cô gái tóc vàng và một anh chàng tóc sẫm màu.”
Langdon nhìn cô vẻ lạ lùng. “Vậy chính xác thì chúng ta là…”
Sienna lắc đầu, một vẻ kiên nghị u uẩn thoáng lướt qua trên mặt cô. “Em không muốn anh nhìn thấy em như thế này, Robert ạ, nhưng rất tiếc đây chính là hình ảnh thực sự của em.” Rất bất ngờ, Sienna giơ tay và tóm lấy mái tóc vàng óng của mình. Rồi cô kéo mạnh, toàn bộ mái tóc tuột xuống.
Langdon bật ngược lại, giật mình trước sự thật rằng Sienna đội tóc giả cũng như diện mạo hoàn toàn thay đổi của cô khi không còn tóc nữa. Thực tế đầu Sienna Brooks hoàn toàn trọc lóc, lớp da đầu nhẵn nhụi của cô trơn láng và xanh xao, giống như một bệnh nhân ung thư phải trị liệu bằng hóa chất. Hóa ra cô ấy bị bệnh sao?
“Em biết”, cô nói. “Chuyện rất dài. Giờ cúi xuống.” Cô giơ mái tóc giả lên, rõ ràng có ý muốn đội lên đầu Langdon.
Cô ấy nghiêm túc thật sao? Langdon miễn cưỡng cúi xuống, và Sienna trùm mái tóc vàng lên đầu anh. Mái tóc vừa khít, nhưng cô cố gắng chỉnh trang nó cho thật ổn. Sau đó cô lùi lại và ngắm nghía anh. Không hài lòng, cô đưa tay nới cà vạt của anh, và kéo phần vòng cổ lên trên trán anh, thắt lại thành một chiếc băng đô giữ chặt lấy mái tóc giả trên đầu anh.
Giờ Sienna bắt đầu chỉnh trang bản thân, xắn cao ống quần và kéo tất xuống đến mắt cá. Khi đứng lên, cô nhếch môi cười. Nàng Sienna Brooks đáng yêu giờ đây đã là một gã đầu trọc mê nhạc rook. Tài cải trang của cựu nữ diễn viên kịch Shakespeare thật đáng kinh ngạc.
“Hãy nhớ”, cô nói, “chín mươi phần trăm nhận dạng cá nhân là ngôn ngữ cơ thể, cho nên khi anh di chuyển, hãy giống như một tay chơi nhạc rook có tuổi.
Có tuổi, anh có thể làm được, Langdon nghĩ bụng. Còn tay chơi nhạc rook thì anh không chắc lắm.
Langdon chưa kịp có ý kiến gì, Sienna đã tháo chốt cánh cửa nhỏ rồi mở ra. Cô khom người và chui ra đường phố rải sỏi đông đúc. Langdon theo sau, gần như bò trên cả bốn chân khi anh đứng trong ánh sáng ban ngày.
Ngoài một vài ánh mắt thảng thốt nhìn “đôi đũa lệch” chui ra từ một ô cửa nhỏ ở tầng hầm của cung điện Vecchio, không ai buồn nhìn họ lần thứ hai. Chỉ vài giây sau, Langdon và Sienna đã di chuyển về phía đông, lẫn vào đám đông.
Người đàn ông đeo kính Plume Paris lau vội d.a thịt đang lấm tấm máu của mình trong lúc len lỏi qua đám đông, cố giữ khoảng cách an toàn phía sau Robert Langdon và Sienna Brooks. Bất chấp cách cải trang khôn khéo của họ, ông ta vẫn nhận ra họ chui ra từ một cánh cửa nhỏ trên hẻm Via della Ninna và lập tức biết ngay họ là ai.
Ông ta bám theo họ được vài dãy nhà thì mệt đứt hơi, ngực đau dữ dội, buộc ông ta phải thở hổn hển. Ông ta cảm thấy như bị nện mạnh vào ức.
Nghiến chặt răng để nhịn đau, ông ta gắng chú ý đến Langdon và Sienna trong lúc tiếp tục theo họ qua các đường phố ở Florence.
 


Chương 50


Mặt trời buổi sáng giờ đã lên cao, tạo thành những cái bóng đổ dài trên những con hẻm hẹp len lỏi qua các toà nhà của Florence cổ kính. Các chủ cửa hàng đã bắt đầu kéo mở lưới sắt bảo vệ cửa hàng và quầy rượu của mình, không khí đã đẫm mùi thơm của cà phê espresso buổi sáng cùng món bánh sừng bò mới nướng.
Mặc dù đói cồn cào, Langdon vẫn tiếp tục đi. Mình phải tìm ra cái chiếc mặt nạ và xem đằng sau giấu cái gì.
Khi Langdon dẫn Sienna lên phía bắc dọc theo phố Via dei Leoni, anh vẫn cảm thấy không dễ quen với hình ảnh chiếc đầu trọc lóc của cô. Diện mạo thay đổi hoàn toàn của cô nhắc nhở rằng anh chỉ biết qua loa về cô. Giờ họ đang di chuyển về phía Quảng trường Duomo – khu quảng trường nơi người ta thấy xác của Ignazio Busoni sau khi thực hiện cuộc điện đàm cuối cùng.
Robert, Ignazio đã cố gắng nói, dù không thở được. Những gì anh tìm thấy đã được cất giấu an toàn. Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên. Thiên đường Hai mươi lăm. Chúc may mắn.
Thiên đường Hai mươi lăm, Langdon nhắc lại, vẫn cảm thấy khó hiểu vì trong lúc vội vàng không kịp suy nghĩ, Ignazio Busoni vẫn nhớ ra tác phẩm của Dante để nhắc đến một khổ thơ cụ thể. Rõ ràng khổ thơ đó có điều gì đó khiến Busoni nhớ. Cho dù là gì, Langdon biết mình sẽ phải tìm ra thật nhanh, ngay khi có trong tay một bản trường ca, việc anh có thể dễ dàng làm được ở rất nhiều địa điểm phía trước.
Mái tóc giả dài đến vai của anh giờ bắt đầu gây ngứa ngáy, và mặc dù cảm thấy có gì đó kỳ cục trong cách hóa trang của mình, nhưng anh phải thừa nhận rằng khả năng hóa trang ngẫu hứng của Sienna quả là một cách đánh lừa hiệu quả. Không ai nhìn họ lần thứ hai, ngay cả lực lượng cảnh sát tăng cường vừa hối hả đi qua họ về phía Cung điện Vecchio.
Sienna vẫn hoàn toàn im lặng đi bên cạnh anh mấy phút liền, Langdon phải liếc mắt nhìn lại để bảo đảm rằng cô vẫn ổn. Dường như cô ở cách xa mấy dặm, có lẽ đang cố chấp nhận thực tế rằng cô vừa giết người phụ nữ truy đuổi họ.
“Em nói gì đi chứ!”, anh đánh bạo, hy vọng kéo tâm trí cô thoát khỏi hình ảnh ả đàn bà đầu đinh nằm chết trên sàn cung điện.
Sienna từ từ ra khỏi trạng thái trầm tư. “Em đang nghĩ đến Zobrist”, cô chậm rãi nói. “Cố gắng nhớ lại bất kỳ điều gì khác mà em biết về ông ta.”
“Và?”
Cô nhún vai. “Hầu hết những gì em biết đều đến từ một bài viết gây tranh cãi mà ông ta viết cách đây vài năm. Nó thật sự khiến em ấn tượng. Trong cộng đồng y khoa, bài viết đó lập tức lan nhanh như virus.” Cô cau mày. “Xin lỗi, em không nên dùng từ đó.”
Langdon cười khan. “Em cứ nói tiếp đi.”
“Bài viết của ông ta cơ bản nói rằng loài người đang trên bờ vực tuyệt chủng, và trừ phi trải qua một thảm họa làm giảm mạnh tăng trưởng dân số toàn cầu, nếu không loài người chúng ta sẽ không thể sống nổi một trăm năm nữa.”
Langdon ngoảnh lại và nhìn sững cô. “Chỉ một thế kỷ thôi sao?”
“Đó là một luận điểm khá nghiệt ngã. Khung thời gian được dự báo ngắn hơn rất nhiều so với những dự báo trước đó, nhưng nó lại được củng cố bằng một số dữ liệu khoa học rất thuyết phục. Ông ta có thêm nhiều kẻ thù do tuyên bố rằng tất cả bác sĩ cần ngừng công việc chuyên môn, bởi vì việc làm tăng tuổi thọ của loài người chỉ càng làm vấn đề dân số trầm trọng thêm.”
Giờ Langdon đã hiểu tại sao bài viết lại lan truyền nhanh trong cộng đồng y học.
“Không có gì lạ”, Sienna tiếp tục. “Zobrist lập tức bị tấn công từ mọi phía – các chính trị gia, giới tăng lữ, Tổ chức Y tế Thế giới – tất cả đều xem ông ta là một gã điên tiên liệu về ngày tận thế và đang cố tìm cách gây hoảng loạn. Họ rất phật ý trước tuyên bố của ông ta rằng giới trẻ ngày nay, nếu họ lựa chọn việc sinh đẻ, sẽ khiến con cái mình chứng kiến sự cáo chung của loài người. Zobrist chứng minh quan điểm của mình bằng một ‘Đồng hồ Ngày tận thế,’ thể hiện rằng nếu toàn bộ thời gian tồn tại của loài người trên trái đất này được nén lại thành một giờ… thì giờ đây chúng ta đang ở những giây cuối cùng.”
“Thực tế anh đã nhìn thấy đồng hồ đó trên mạng”, Langdon nói.
“Vâng, chính là của ông ta, và nó cũng gây phẫn nộ. Tuy nhiên, phản ứng mạnh mẽ nhất chống lại Zobrist lại nảy sinh khi ông ta tuyên bố rằng những tiến triển của ông ta trong lĩnh vực điều khiển gene sẽ rất hữu dụng cho nhân loại nếu chúng được sử dụng không phải để chữa bệnh mà để tạo ra bệnh tật.”
“Cái gì cơ?”
“Vâng, ông ta cho rằng công nghệ của mình cần được sử dụng để hạn chế tăng trưởng dân số bằng cách tạo ra những loại bệnh lai tạo mà nền y học hiện đại chúng ta không thể cứu chữa được.”
Langdon cảm thấy càng lúc càng kinh hãi khi hình dung ra hình ảnh “các loại virus tự tạo” lai ghép lạ lùng mà một khi được tung ra, sẽ hoàn toàn không thể ngăn chặn được.
“Chỉ trong vài năm ngắn ngủi”, Sienna nói, “Zobrist đã từ chỗ là niềm tự hào của thế giới y học biến thành một kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Một kẻ bị nguyền rủa”. Cô dừng lại, nét mặt thoáng chút thương cảm. “Thật sự không có gì lạ khi ông ta phản ứng và tự sát. Thậm chí còn buồn hơn nữa vì luận điểm của ông ta có thể lại đúng.”
Langdon suýt ngã. “Xin lỗi! Em nghĩ ông ấy đúng ư?!”
Sienna trịnh trọng nhún vai. “Robert, nếu nói từ góc độ khoa học thuần túy – hoàn toàn logic, không hề cảm tính – em có thể nói với anh không chút nghi ngại rằng nếu không có một sự thay đổi mạnh mẽ nào đó, loài người chúng ta sẽ diệt vong. Và kết cục đó sẽ đến rất nhanh. Đó sẽ không phải là lửa, lưu huỳnh, khải huyền, hay chiến tranh hạt nhân… mà là sự sụp đổ hoàn toàn do hành tinh này quá tải dân số. Số liệu toán học là không thể tranh cãi.”
Langdon cứng người.
“Em đã nghiên cứu nhiều về sinh học”, cô nói, “và một giống loài đi đến tuyệt chủng chỉ đơn giản là do tình trạng quá đông đúc trong môi trường của nó là điều hoàn toàn bình thường. Anh hãy hình dung một quần thể tảo mặt nước sống trong một cái hồ nhỏ trong rừng, tận hưởng sự cân bằng dưỡng chất hoàn hảo của hồ nước. Nếu không được kiểm soát, chúng sinh sản tràn lan và sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh toàn bộ mặt hồ, che kín mặt trời và ngăn cản quá trình gia tăng dưỡng chất trong hồ. Khi tiêu diệt sạch mọi thứ trong môi trường của mình, tảo nhanh chóng chết và biến mất không để lại dấu vết”. Cô thở dài não nề. “Loài người cũng rất dễ gặp số phận tương tự. Sẽ sớm hơn và nhanh hơn bất kỳ ai trong chúng ta có thể hình dung.”
Langdon cảm thấy vô cùng bồn chồn. “Nhưng… dường như điều đó là không thể.”
“Không có gì là không thể, Robert, chỉ là không tưởng tượng nổi. Tâm trí con người có một cơ chế phòng vệ bản ngã nguyên thủy phủ nhận tất cả những thực tế tạo ra quá nhiều áp lực mà não phải xử lý. Cơ chế đó gọi là phủ nhận.”
“Anh đã nghe nói đến ‘phủ nhận’”, Langdon chua chát, “nhưng anh không nghĩ nó tồn tại”.
Sienna đảo mắt. “Nghe thì hay ho, nhưng tin em đi, điều đó rất thật. Phủ nhận là một phần quan trọng trong cơ chế ứng phó của con người. Không có nó, mỗi buổi sáng tất cả chúng ta đều tỉnh giấc trong tâm trạng hoảng hốt về cách chúng ta từ giã cõi đời. Có nó, tâm trí của chúng ta ngăn chặn những nổi sợ hãi hiện sinh bằng cách tập trung vào những căng thẳng mà chúng ta có thể giải quyết, chẳng hạn đi làm đúng giờ hoặc đóng tiền thuế. Nếu có những nỗi lo sợ hiện sinh lớn hơn, chúng ta vứt bỏ chúng rất nhanh, tập trung trở lại các nhiệm vụ đơn giản và những điều tầm thường hằng ngày.”
Langdon nhớ lại một nghiên cứu về dấu vết trên mạng gần đây của sinh viên một số trường đại học trong nhóm Ivy League [22] cho thấy ngay cả những người có hiểu biết cao cũng thể hiện khuynh hướng phủ nhận mang tính bản năng. Theo nghiên cứu ấy, đa phần sinh viên đại học, sau khi bấm chọn một bản tin ảm đạm về tình trạng băng vùng cực tan hay tuyệt chủng giống loài, sẽ nhanh chóng thoát khỏi trang tin đó để chọn tin gì đó giúp tâm trí họ thoát khỏi nổi sợ hãi. Những đề tài thường được lựa chọn gồm những tin thể thao nổi bật, video hài, và tin đồn thổi về những người nổi tiếng.
“Theo thần thoại cổ”, Langdon nói, “một người anh hùng mang sự phủ nhận chính là biểu hiện cao nhất của thái độ ngạo mạn và tự phụ. Không người nào tự phụ hơn kẻ tin rằng bản thân mình hoàn toàn vô hại trước những hiểm nguy của thế giới. Rõ ràng Dante cũng đồng ý như vậy, xem thói tự phụ là tội lỗi xấu xa nhất trong số bảy trọng tội… và trừng phạt những kẻ tự phụ ở tầng sâu nhất của địa ngục”.
Sienna ngẫm nghĩ một lúc rồi tiếp tục. “Bài viết của Zobrist kết tội nhiều nhà lãnh đạo của thế giới đang có thái độ cực kỳ phủ nhận… chỉ biết rúc đầu vào cát. Ông ta đặc biệt lên án Tổ chức Y tế Thế giới.”
“Anh cá rằng chuyện đó cũng không tệ.”
“Họ phản ứng bằng việc xem ông ta như một kẻ cuồng tín tôn giáo đứng ở góc phố giơ cao tấm biển ghi rằng “Tận thế đang đến gần.”
“Quảng trường Harvard có một vài kẻ như vậy.”
“Vâng, và tất cả chúng ta đều chẳng để tâm đến họ bởi vì không ai trong chúng ta có thể hình dung ra điều đó sẽ đến. Nhưng hãy tin em, chỉ vì tâm trí con người không thể hình dung ra điều gì đó đang xảy đến… như thế không có nghĩa là nó sẽ không đến.”
“Em nói như thể mình là một người hâm mộ Zobrist.”
“Em là người hâm mộ chân lý”, cô quyết liệt đáp lại, “ngay cả khi phải chấp nhận chân lý đau lòng”.
Langdon im lặng, một lần nữa cảm thấy có khoảng cách rất kỳ lạ với Sienna vào lúc này, và cố gắng hiểu sự kết hợp rất lạ thường giữa niềm say mê với suy xét độc lập của cô.
Sienna ngước nhìn anh, nét mặt cô dịu lại. “Robert, nhìn này, em không nói rằng Zobrist đúng khi cho rằng đại dịch giết chết một nửa dân số chính là câu trả lời cho vấn đề quá tải dân số. Em cũng không nói rằng chúng ta cần ngừng chạy chữa cho người ốm. Những gì em đang nói là con đường hiện tại của chúng ta là một lộ trình đi tới sự hủy diệt. Tăng trưởng dân số là cấp số mũ xảy ra ngay trong một hệ thống không gian hữu hạn với những nguồn tài nguyên hạn chế. Kết cục sẽ đến rất đột ngột. Trải nghiệm của chúng ta sẽ không phải là việc từ từ cạn kiệt khí đốt… mà nó giống như lao mình xuống từ một vách đá.”
Langdon thở hắt ra, cố gắng xử lý tất cả những điều anh vừa nghe thấy.
“Nói đến vách đá”, cô tiếp lời, thẫn thờ chỉ lên bầu trời phía bên phải, “em tin chắc rằng đó chính là nơi Zobrist đã nhảy xuống”.
Langdon ngước mắt và nhìn thấy họ vừa đi qua mặt tiền bằng đá mộc mạc của Bảo tàng Bargello nằm bên tay phải họ. Phía sau bảo tàng, đỉnh nhọn của tòa tháp Badia vươn cao vượt lên các kết cấu xung quanh. Anh đăm đăm nhìn đỉnh tòa tháp, tự hỏi tại sao Zobrist lại nhảy xuống, hy vọng đó không phải vì ông ta đã làm điều gì kinh khủng và không muốn đối diện với những gì đang xảy đến.
“Những người phê phán Zobrist”, Sienna nói, “muốn chỉ ra điểm nghịch lý ở chỗ nhiều công nghệ gene mà ông ta phát triển hiện lại giúp làm tăng đáng kể tuổi thọ”.
“Điều đó chỉ càng làm phức tạp thêm vấn đề dân số.”
“Chính xác. Zobrist từng công khai nói rằng ông ta ao ước có thể làm lại mọi việc và loại bỏ một số đóng góp của mình đối với tuổi thọ nhân loại. Em cho rằng điều đó hoàn toàn có ý nghĩa về mặt lý luận. Chúng ta càng sống lâu, càng phải dành nhiều nguồn tài nguyên của mình cho người già và người bệnh.”
Langdon gật đầu. “Anh đọc được rằng ở Hoa Kỳ, khoảng sáu mươi phần trăm chi phí chăm sóc sức khỏe dành cho những bệnh nhân trong sáu tháng cuối cùng của họ.”
“Đúng vậy, và trong khi lý trí chúng ta nói rằng ‘Điều này thật điên rồ,’ thì tim chúng ta lại nói ‘Phải giúp bà nội sống càng lâu càng tốt’.”
Langdon gật đầu. “Đó là mâu thuẫn giữa thần Apollo và Dionysus [23] – một song đề nổi tiếng trong thần thoại – cuộc chiến từ xa xưa giữa lý trí và trái tim, vốn hiếm khi cùng muốn một thứ.”
Langdon từng nghe nói rằng các hội nghị của Hội người cai rượu cũng viện dẫn thần thoại này để mô tả những người nghiện rượu cứ đăm đăm nhìn ly rượu, lý trí họ biết rằng thứ đó sẽ làm hại mình, nhưng trái tim họ lại thèm thuồng cái cảm giác dễ chịu mà nó mang lại. Thông điệp rõ ràng là: Đừng bao giờ cảm thấy cô độc vì ngay cả thần thánh cũng mâu thuẫn.
“Ai cần đến hành động quyên sinh cao cả? [24]”, Sienna chợt thì thào.
“Em nói sao cơ?”
Sienna ngước lên. “Cuối cùng em cũng nhớ ra tên bài viết của Zobrist. Bài viết đó là: ‘Ai cần đến hành động quyên sinh cao cả?’.”
Langdon chưa bao giờ nghe nói đến cụm từ quyên sinh cao cả, nhưng anh đoán được căn cứ vào gốc từ tiếng Hy Lạp – agathos và thusia. “Quyên sinh cao cả… chắc là ‘sự hy sinh tốt đẹp’ phải không?”
“Gần như vậy. Nghĩa thực tế của nó là ‘một hành động tự hy sinh vì lợi ích chung’”, cô ngừng lại. “Nó còn được biết đến như là hành động tự sát cao cả.”
Thực tế Langdon đã từng nghe nói đến thuật ngữ này, lần thứ nhất liên quan đến một người cha bị phá sản tự sát để gia đình mình có thể nhận tiền bảo hiểm sinh mạng, và lần thứ hai mô tả một kẻ giết người hàng loạt cảm thấy ân hận nên đã tự kết liễu sinh mạng vì sợ rằng hắn không thể kiểm soát được động lực giết người của mình.
Thế nhưng, ví dụ rùng rợn nhất Langdon còn nhớ là trong cuốn tiểu thuyết năm 1967 nhan đề Cuộc đào tẩu của Logan, mô tả một xã hội tương lai trong đó mọi người đều hoan nghênh hành động tự sát ở tuổi hai mươi mốt – như thế sẽ tận hưởng trọn vẹn tuổi thanh xuân mà không để tuổi già hoặc số đông dân số tạo áp lực cho các nguồn tài nguyên hữu hạn của hành tinh. Nếu Langdon nhớ đúng thì phiên bản điện ảnh Cuộc đào tẩu của Logan đã tăng “tuổi tận số” từ hai mươi mối lên ba mươi, rõ ràng nhằm cố gắng làm cho bộ phim dễ chấp nhận hơn với nhóm khán giả từ mười tám đến hai mươi lăm tuổi.
“Như vậy, bài luận giải của Zobrist…”, Langdon nói. “Anh không chắc mình hiểu được nhan đề. ‘Ai cần đến hành động quyên sinh cao cả?’ Liệu ông ta có nói vậy để châm biếm không? Giống như ai cần đến những vụ tự sát cao cả mà… tất cả chúng ta đều thực hiện?”
“Thực tế không hề, nhan đề đó là cách chơi chữ.”
Langdon lắc đầu, không hiểu.
“Ai cần tự sát – giống như trong W-H-O [25] – Tổ chức Y tế Thế giới. Trong bài viết của mình, Zobrist sỉ vả giám đốc WHO – tiến sĩ Elizabeth Sinskey – người giữ cương vị đó lâu năm và theo Zobrist, bà ấy kiểm soát dân số một cách nghiêm túc. Bài viết của ông ta nói rằng WHO sẽ tốt đẹp hơn nếu giám đốc Sinskey tự sát.”
“Một gã đáng thương.”
“Những hiểm nguy của việc là một thiên tài, em đoán vậy. Thông thường, những bộ óc đặc biệt, vốn có khả năng tập trung cao hơn những người khác, hay làm vậy để trả giá cho sự chín muồi về mặt cảm xúc.”
Langdon nhớ lại những bài viết của anh đã xem về cô bé Sienna, một thần đồng có chỉ số IQ 208 và chức năng trí tuệ ngoại hạng.
Langdon tự hỏi phải chăng khi nói về Zobrist, cô đang nói về chính mình ở một mức độ nào đó. Anh cũng thắc mắc không biết cô còn giữ bí mật của mình bao lâu nữa.
Phía trước mặt, Langdon nhận ra địa điểm mình đang tìm kiếm. Sau khi băng qua Via dei Leoni, Langdon dẫn cô tới một giao lộ rất hẹp – không hơn một con hẻm. Tấm biển đầu phố ghi VIA DANTE ALIGHIERI.
“Nghe như em biết rất nhiều về bộ não con người”, Langdon nói. “Có phải đó là lĩnh vực nghiên cứu chính của em trong trường y không?”
“Không, nhưng khi còn nhỏ, em đọc rất nhiều. Em quan tâm đến khoa học não bộ bởi vì em có một số … vấn đề sức khỏe.”
Langdon nhìn cô vẻ tò mò, hy vọng cô sẽ nói tiếp.
“Bộ não của em…”, Sienna nói khẽ. “Nó phát triển khác hẳn hầu hết trẻ em, và nó gây ra một số… vấn đề. Em bỏ nhiều thời gian cố gắng hiểu xem có chuyện gì không ổn với mình, và trong quá trình đó, em học được nhiều điều về khoa học thần kinh.” Cô nhìn vào mắt Langdon. “Và đúng, tình trạng hói đầu của em có liên quan đến vấn đề sức khỏe.”
Langdon lảng mắt, bối rối vì đã hỏi chuyện đó.
“Đừng lo”, cô nói. “Em đã học cách sống chung với nó.”
Khi họ di chuyển vào khoảng không khí lạnh lẽo của ngõ phố bị phủ bóng, Langdon ngẫm lại tất cả những điều anh vừa biết về Zobrist và những quan điểm triết lý đáng ngại của ông ta.
Một câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu anh. “Đám lính này”, Langdon bắt đầu nói. “Những kẻ đang cố giết chúng ta. Chúng là ai? Thật vô nghĩa. Nếu Zobrist đã tung ra một loại dịch bệnh tiềm tàng thì tất cả mọi người phải cùng một phe, hợp tác để ngăn chặn lại chứ?”
“Không nhất thiết, Zobrist có thể là một kẻ bị ruồng bỏ trong cộng đồng y học, nhưng có lẽ lại có một đội quân những kẻ hâm mộ tư tưởng của mình - những người tán đồng rằng loại bỏ bớt đồng loại là một tội ác cần thiết để cứu lấy hành tinh. Với tất cả những gì chúng ta biết thì đám lính này đang cố gắng bảo đảm cho việc thực hiện kịch bản của Zobrist.”
Đội quân môn đồ riêng của Zobrist ư? Langdon ngẫm nghĩ về khả năng đó. Phải thừa nhận rằng lịch sử có rất nhiều kẻ quá khích và tín đồ sẵn sàng tự sát vì đủ thứ quan niệm điên khùng – niềm tin cho rằng thủ lĩnh của họ là Đấng Cứu thế, niềm tin cho rằng một con tàu vũ trụ đang đợi họ đằng sau Mặt trăng, niềm tin cho rằng Ngày Phán xét đã cận kề. Nghiên cứu về kiểm soát dân số ít nhất cũng có nền tảng khoa học, nhưng Langdon vẫn cảm thấy có gì đó không ổn với đám lính này.
“Anh không thể tin được cả một đội lính tinh nhuệ lại chủ tâm tán thành việc sát hại những người vô tội… trong khi lo sợ rằng chính họ cũng có thể bị bệnh và chết.”
Sienna nhìn anh bối rối. “Robert, anh nghĩ những người lính làm gì khi họ lâm trận? Họ giết người dân vô tội và mạo hiểm với tính mạng mình. Bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra một khi người ta tin vào một lý do.”
“Một lý do? Lây lan một bệnh dịch ư?”
Sienna nhìn anh, đôi mắt nâu của cô như thăm dò. “Robert, lý do này không phải là lây lan một bệnh dịch… nó là cứu lấy thế giới.” Cô ngừng lại. “Một đoạn trong bài viết của Bertrand Zobrist được rất nhiều người nói đến là câu hỏi mang tính giả thuyết rất sắc bén. Em muốn anh trả lời câu hỏi đó.”
“Câu hỏi gì?”
“Zobrist đã hỏi thế này: Nếu anh có thể gạt một công tắc và ngẫu nhiên giết chết một nửa số dân trên trái đất thì anh có làm việc đó không?”
“Dĩ nhiên là không.”
“Được rồi. Nhưng sẽ ra sao khi nói rằng nếu anh không thay đổi ý kiến ngay thì loài người sẽ diệt vong trong vòng một trăm năm tới?”, cô ngừng lại. “Anh có thay đổi không? Thậm chí nếu điều có nghĩa là anh có thể phải giết chết bạn bè, gia đình và thậm chí có lẽ chính anh nữa?”
“Sienna, có lẽ anh không thể…”
“Đó là một câu hỏi mang tính giả thuyết”, cô nói. “Anh có giết một nửa dân số ngày nay để cứu loài người khỏi bị diệt vong không?”
Langdon cảm thấy quá bối rối trước chủ đề kinh khủng mà họ đang thảo luận, nên anh thở phào khi nhìn thấy lá cờ đỏ quen thuộc treo bên hông một tòa nhà bằng đá phía trước.
“Nhìn kìa”, anh nói, và chỉ tay. “Chúng ta đến đây rồi.”
Sienna lắc đầu. “Như em đã nói. Phủ nhận.”
 


Chương 51


Nhà lưu niệm Casa di Dante nằm trên phố Via Santa Margherita và dễ nhận ra nhờ lá cờ lớn được treo trên mặt tiền bằng đá trong hẻm:
MUSEO CASA DI DANTE
Sienna nhìn lá cờ với vẻ không lấy gì làm chắc chắn: Chúng ta sẽ tới nhà Dante ư?”
“Không hẳn”, Langdon nói. “Dante sống ở góc phố kia. Đây đúng hơn là bảo tàng… Dante.” Langdon đã từng tham quan địa điểm này, rất háo hức với bộ sưu tập nghệ thuật mà hóa ra chỉ gồm những phiên bản tái tạo lại các tác phẩm nổi tiếng có liên quan đến Dante trên khắp thế giới, nhưng rất đáng xem khi tất cả những thứ ấy được gom lại dưới cùng một mái nhà.
Đột nhiên trông Sienna đầy vẻ hy vọng. “Anh nghĩ họ có trưng bày một bản Thần khúc cổ à?”
Langdon cười khan. “Không, nhưng anh biết họ có một cửa hàng quà tặng bán những bưu thiếp cỡ lớn đăng nguyên vẹn nội dung Thần khúc của Dante với cỡ chữ rất nhỏ.”
Cô liếc nhìn anh hơi có phần kinh hãi.
“Anh biết. Nhưng thế còn hơn không. Vấn đề duy nhất là mắt anh đang kém cho nên em sẽ phải đọc bản in đó.”
“Đóng cửa”, một ông già gọi to khi nhìn thấy họ tiến đến cửa. “Nghỉ ngày lễ.”
Đóng cửa nghỉ ngày Sabbath ư? Langdon bỗng lại cảm thấy mất phương hướng. Anh nhìn Sienna. “Hôm nay không phải là… thứ Hai sao?”
Cô gật đầu. “Dân Florence chọn ngày Sabbath vào thứ Hai.”
Langdon làu bàu, chợt nhớ ra lịch tuần khác hẳn của thành phố này. Vì lợi nhuận du lịch tăng nhanh vào ngày cuối tuần nên nhiều thương gia ở Florence chọn chuyển “ngày nghỉ ngơi” theo Thiên Chúa giáo từ Chủ nhật sang thứ Hai để tránh nghỉ lễ Sabbath làm ảnh hưởng quá nhiều đến thu nhập của mình.
Thật không may, Langdon nhận ra, điều này cũng có thể làm tiêu tan lựa chọn khác của anh: Cửa hàng trao đổi sách bìa mềm – một trong những cửa hàng sách ở Florence mà Langdon ưa chuộng – nơi chắc chắn có sẵn các bản Thần khúc.
“Anh còn ý tưởng nào khác không?”, Sienna nói.
Langdon nghĩ một lúc lâu và cuối cùng gật đầu. “Có một chỗ ở ngay góc phố nơi những người mến mộ Dante thường tụ họp. Anh cá là ở đó có người có bản sách để chúng ta mượn.”
“Có thể cũng đóng cửa đấy”, Sienna dè chừng. “Gần như mọi chỗ trong thành phố đều chuyển ngày Sabbath sang ngày khác Chủ nhật.”
“Nơi này thì không hề nghĩ đến việc đó đâu”, Langdon mỉm cười đáp. “Đó là nhà thờ.”
o O o
Phía sau họ năm mươi thước, ẩn mình trong đám đông, người đàn ông bị phát ban trên da và đeo khuyên tai vàng đứng dựa vào một bức tường, tranh thủ cơ hội này để lấy lại nhịp thở. Nhưng tình trạng của ông ta không khá hơn được, và triệu chứng phát ban trên mặt gần như không thể xem thường, đặc biệt là phần da nhạy cảm ngay bên trên mắt. Ông ta tháo bỏ cặp kính Plume Paris và khẽ lấy tay áo lau qua hốc mắt, cố gắng không làm mụn vỡ bung. Lúc đeo lại kính, ông ta thấy “con mồi” của mình lại tiếp tục di chuyển. Ông ta gượng bám theo, tiếp tục đi sau họ, cố gắng thở nhẹ nhàng hết mức.
o O o
Cách phía sau Langdon và Sienna vài dãy nhà, bên trong Sảnh Năm trăm, đặc vụ Brüder đứng phía trên th.ân thể mềm oặt của người đàn bà đầu đinh đã quá quen thuộc, lúc này đang nằm rũ trên nền nhà. Gã quỳ xuống và gỡ lấy khẩu súng ngắn của ả, thận trọn khóa chốt an toàn trước khi trao cho một người của mình.
Cô quản lý bảo tàng bụng mang dạ chửa Marta Alvarez đứng cách xa một bên. Cô vừa kể vắn tắt lại cho Brüder nghe mọi chuyện diễn ra với Robert Langdon kể từ đêm hôm trước, kể cả chi tiết Brüder vẫn đang cố gắng xử lý.
Langdon cho biết đang bị chứng quên tạm thời.
Brüder rút điện thoại và bấm số. Đầu dây bên kia đổ chuông ba lần thì có tiếng sếp của gã trả lời, nghe xa xăm và không lấy gì làm quyết đoán.
“Ừ, đặc vụ Brüder hả? Nói đi.”
Brüder nói thật chậm rãi để bảo đảm rằng mọi lời của gã đều được hiểu rõ. “Chúng tôi vẫn đang cố gắng xác định vị trí của Langdon và cô gái, nhưng có một tình tiết khác.” Gã ngừng lại. “Và nếu như điều đó đúng thì… nó làm thay đổi mọi chuyện.”
o O o
Thị Trưởng đi tới đi lui trong văn phòng của mình, cố kìm cơn thôi thúc muốn rót thêm một ly Scotch nữa, và cố ép mình phải đối diện với cuộc khủng hoảng vẫn tiếp diễn này.
Trong sự nghiệp, chưa bao giờ ông ta phản bội khách hàng hoặc không giữ đúng thỏa ước, và chắc chắn ông ta không có ý định như vậy vào lúc này. Đồng thời ông ta cũng ngờ rằng có thể mình đang bị vướng vào một kịch bản có mục đích, lôi kéo ông ta rời xa những gì đã hình dung ban đầu.
Một năm trước, nhà di truyền học nổi tiếng Bertrand Zobrist xuất hiện trên tàu The Mendadium và đề nghị có một nơi ẩn náu an toàn để làm việc. Lúc đó, Thị Trưởng cho rằng Zobrist đang lên kế hoạch phát triển một sản phẩm y học bí mật mà quyền sáng chế sẽ làm tăng khối tài sản khổng lồ cho Zobrist. Đó không phải là lần đầu Consortium được các nhà khoa học và kỹ sư hoang tưởng thích làm việc biệt lập thuê để tránh việc những ý tưởng giá trị của họ bị đánh cắp.
Với suy nghĩ đó, Thị Trưởng chấp nhận vị khách và không lấy gì làm ngạc nhiên khi biết rằng những người ở Tổ chức Y tế Thế giới săn lùng Zobrist. Thị Trưởng cũng không suy nghĩ gì thêm khi đích thân Giám đốc WHO- tiến sĩ Elizabeth Sinskey – có vẻ xem việc tìm ra vị khách của họ là nhiệm vụ riêng của bà.
Consortium vẫn luôn phải đối mặt với những đối thủ quyền lực.
Như đã thỏa thuận, Consortium thực hiện hợp đồng của mình với Zobrist, không hề đặt câu hỏi gì, ngăn cản mọi nỗ lực của Sinskey nhằm tìm ra ông ta trong suốt thời gian bản hợp đồng đã ký với nhà khoa học có hiệu lực.
Gần như trọn thời gian.
Còn chưa đầy một tuần trước khi bản hợp đồng hết hạn, không hiểu bằng cách nào mà Sinskey tìm ra Zobrist ở Florence và ập đến, liên tục quấy nhiễu và truy đuổi ông ta cho tới khi ông ta tự sát. Lần đầu tiên trong sự nghiệp, Thị Trưởng thất bại trong việc cung cấp dịch vụ bảo vệ mà mình đã thỏa thuận, và điều đó ám ảnh ông ta, cùng với cái chết kỳ quái của Zobrist.
Ông ta tự sát chứ nhất định không chịu để bị bắt ư?
Zobrist đang cố bảo vệ cái quái gì nhỉ?
Sau cái chết của Zobrist, Sinskey đã tịch thu một thứ lấy được từ két an toàn của Zobrist, và giờ đây, Consortium lao vào một cuộc chiến trực tiếp với Sinskey tại Florence – tìm kiếm một kho báu đáng giá…
Tìm kiếm cái gì?
Theo bản năng, Thị Trưởng liếc nhìn về phía giá sách và tập sách nặng trịch được tay Zobrist có cặp mắt man dại trao cho ông ta hai tuần trước.
Thần khúc.
Thị Trưởng vớ lấy cuốn sách và mang nó trở lại bàn làm việc của mình, rồi nặng nề vứt nó xuống. Bằng mấy ngón tay đầy do dự, ông ta lật giở bìa sách tới trang đầu tiên và đọc lại câu đề tặng.
“Bạn thân mến của tôi, cảm ơn bạn vì đã giúp tôi tìm ra đường đi
Thế giới cũng cảm ơn bạn.”
Trước hết, Thị Trưởng nghĩ thầm, ông và ta chưa bao giờ là bạn bè.
Ông ta đọc câu đề tặng thêm ba lần nữa. Rồi ông ta đưa mắt nhìn cái vòng tròn đỏ tươi mà vị khách đã khoanh nguệch ngoạc trên cuốn lịch, chỉ rõ ngày đến hẹn – ngày mai.
Thế giới cảm ơn bạn ư?
Ông ta quay đầu nhìn ra đường chân trời một lúc lâu.
Ông im lặng nghĩ về đoạn video và như vẫn nghe rõ tiếng điều phối viên Knowlton trong cuộc điện đàm trước đó. Tôi nghĩ có lẽ ngài cần xem trước khi đưa lên… Nội dung khá phiền phức.
Cuộc gọi vẫn còn khiến Thị Trưởng khó xử. Knowlton là một trong những điều phối viên giỏi nhất của ông ta, và việc đề nghị như vậy hoàn toàn không phải là tích cách của anh ta. Anh ta biết tốt hơn hết là nên trình lên cấp cao hơn trong quy trình nhiều cấp.
Đặt cuốn Thần khúc lên giá, Thị Trưởng bước lại chỗ chai Scotch và rót cho mình nửa ly.
Ông ta đưa ra một quyết định rất khó khăn.
 


Chương 52


Vẫn được xem như Nhà thờ Dante, thánh đường Santa Margherita dei Cerchi giống một nhà nguyện hơn là một nhà thờ. Căn nhà thờ cúng nhỏ xíu chỉ có một gian này là địa điểm quen thuộc với những người hâm mộ Dante, họ thành kính coi đó như một thánh địa, nơi diễn ra hai thời khắc then chốt trong cuộc đời của đại thi hào.
Theo lời kể, chính tại nhà thờ này, năm lên chín tuổi, lần đầu tiên Dante để mắt đến Beatrice Portinari – người phụ nữ mà ông phải lòng ngay từ cái nhìn đầu tiên, và là người ông đau đáu dành trọn trái tim suốt cả đời. Trước nỗi đau khổ tột cùng của Dante, Beatrice kết hôn với một người đàn ông khác, và sau đó qua đời khi tuổi đời còn rất trẻ, mới chỉ hai mươi tư.
Cũng chính tại nhà thờ này, vài năm sau, Dante kết hôn với Gemma Donati – một phụ nữ theo mô tả của đại văn hào và cũng là thi sĩ Boccaccio, là người vợ mà Dante đã chọn lầm. Mặc dù có con chung nhưng hai vợ chồng họ không có nhiều tình cảm dành cho nhau, và sau khi Dante bị trục xuất, cũng chẳng ai trong số họ sốt sắng muốn gặp lại nhau.
Tình yêu trọn đời của Dante đã và sẽ luôn là nàng Beatrice Portinari đã đi xa. Dante biết rất ít về Beatrice, nhưng ký ức về nàng trong ông lại mãnh liệt đến mức bóng ma của nàng đã trở thành cảm hứng cho những tác phẩm vĩ đại nhất của ông.
La Vita Nuova, tập thờ được ca tụng của Dante, tràn ngập những dòng thơ tôn vinh “nàng Beatrice thần thánh”. Còn sùng kính hơn thế nữa, Thần khúc xem Beatrice, chứ không phải ai khác, chính là vị cứu tinh đã chỉ dẫn Dante đi qua thiên đường. Trong cả hai tác phẩm, Dante đều ao ước được gặp người phụ nữ mình không thể với tới ấy.
Ngày nay, Nhà thờ Dante trở thành địa điểm linh thiêng cho những trái tim tan vỡ, đau khổ vì tình yêu của họ không được đền đáp. Phần mộ của nàng Beatrice nằm ngay bên trong nhà thờ, và ngôi mộ giản dị đó trở thành một địa điểm hành hương cho cả những người hâm mộ Dante cũng như những kẻ thất tình.
Sáng hôm nay, Langdon và Sienna tìm đường vượt qua Florence cổ kính để tới nhà thờ. Đường phố tiếp tục thu hẹp lại cho tới khi chỉ còn toàn những lối đi cho khách bộ hành. Một chiếc xe hơi biển đia phương hiếm hoi xuất hiện, nhích từng phân qua mê cung và buộc khách bộ hành phải nép sát vào những tòa nhà khi nó đi qua.
“Nhà thờ ngay góc phố kia thôi”, Langdon bảo Sienna, hy vọng rằng du khách bên trong sẽ có thể giúp đỡ họ. Anh biết cơ hội tìm ra một hội viên Hội Bác ái tốt bụng lúc này cao hơn. Sienna lấy lại mái tóc giả của cô và trả Langdon chiếc áo khoác, và cả hai trở lại như bình thường, từ một tay mê nhạc rock và cô ả đầu trọc biến thành vị giáo sư đại học và một phụ nữ trẻ đầu tóc gọn gàng.
Langdon thấy nhẹ nhõm hẳn khi lại được là chính mình.
Khi họ rảo bước vào một ngõ phố còn chật chội hơn nữa – Via del Presto – Langdon đưa mắt nhìn các khuôn cửa. Lối vào nhà thờ lúc nào cũng khó xác định vì bản thân căn nhà quá nhỏ, không được trang hoàng gì, và bị ép chặt giữa hai tòa nhà khác. Người ta có thể đi qua nó mà không hề chú ý. Có điều lạ là tìm ra nhà thờ này không phải bằng mắt mà bằng tai thường lại dễ dàng hơn.
Một trong những đặc điểm riêng của Nhà thờ Santa Margherita dei Cerchi là nơi này thường xuyên diễn ra các buổi hòa nhạc. Những khi không có lịch hòa nhạc, nhà thờ thường chơi lại bản thu các buổi hòa nhạc trước đó để khách tham quan có thể thưởng thức âm nhạc bất kỳ lúc nào.
Đúng như dự tính, khi cả hai dọc theo ngõ phố, Langdon bắt đầu nghe thấy giai điệu nhẹ nhàng của các bản thu âm, càng lúc càng rõ hơn, cho tới khi anh và Sienna đứng trước lối vào kín đáo. Dấu hiệu duy nhất cho thấy đây là địa điểm cần tìm chỉ là một tấm biển nhỏ - một thứ hoàn toàn tương phản với lá cờ đỏ rực ở Museo Casa di Dante – cho biết đây là nhà thờ của Dante và Beatrice.
Khi Langdon và Sienna rời khỏi phố để bước vào khoảng tối của nhà thờ, không khí mát dịu hẳn và tiếng nhạc nghe rõ hơn. Không gian bên trong mộc mạc và giản dị, nhỏ hơn những gì Langdon còn nhớ. Chỉ có một vài khách du lịch, hòa vào nhau, người ghi sổ tay, người ngồi lặng lẽ trên những dãy ghế dài thưởng thức âm nhạc, hoặc chiêm ngưỡng bộ sưu tập tác phẩm nghệ thuật.
Ngoại trừ phần bàn thờ do Neri di Bicci vẽ mang đề tài Đức mẹ Maria, gần như tất cả các tác phẩm nghệ thuật nguyên gốc trong nhà thờ này đều được thay thế bằng những tác phẩm đương đại nói về hai nhân vật nổi tiếng – Dante và Beatrice – vốn là lý do để đa phần du khách tìm tới nhà thờ nhỏ bé này. Hầu hết các tranh vẽ đều mô tả ánh mắt khát khao của Dante trong lần hội ngộ đầu tiên với Beatrice, mà theo chính lời kể của thi hào, ngay lập tức ông đã phải lòng nàng. Chất lượng các bức vẽ rất khác biệt và đa phần, theo cảm nhận của Langdon, có vẻ hào nhoáng và đặt không đúng chỗ. Trong cách bài trí như thế, chiếc mũ đỏ với hai vạt che tai nổi tiếng của Dante trông như thứ gì đó đánh cắp của ông già Noel. Tuy nhiên, chủ đề lặp đi lặp lại nhiều là ánh mắt khao khát của thi hào dành cho nàng thơ của ông, Beatrice, cho thấy rõ ràng đây là một nhà thờ của tình yêu đau khổ - không được viên mãn, không được đền đáp, và không thể với tới.
Theo bản năng, Langdon ngó sang bên trái, chăm chú nhìn ngôi mộ khiêm nhường của Beatrice Portinari. Đây là lý do chính để người ta tới thăm nhà thờ này, mặc dù chẳng có gì nhiều để xem ngoài ngôi mộ và món đồ nổi tiếng đặt bên cạnh nó.
Một chiếc giỏ bằng liễu gai.
Sáng nay, như mọi khi, chiếc giỏ liễu gai giản dị được đặt cạnh mộ Beatrice. Và sáng nay, như mọi khi, nó đựng đầy những mảnh giấy gấp lại, mỗi mảnh là một lá thư viết tay của một vị khách gửi cho nàng Beatrice.
Beatrice Portinari tựa hồ đã trở thành vị thánh bảo trợ của những người tình không may mắn, và theo truyền thống đã có từ lâu, người ta có thể đặt những lời nguyện cầu viết tay gửi cho Beatrice vào trong giỏ với hy vọng rằng nàng sẽ can thiệp nhân danh người viết. Có lẽ nàng sẽ run rủi cho ai đó yêu họ hơn nữa, hoặc giúp họ tìm thấy tình yêu đích thực của mình, hoặc thậm chí cho họ sức mạnh quên đi mối tình đã mất.
Từ nhiều năm trước, khi khổ sở lùng tìm một cuốn sách về lịch sử nghệ thuật, Langdon đã dừng lại nhà thờ này để đặt một mảnh giấy vào giỏ, khẩn cầu nàng thơ của Dante đừng ban cho anh tình yêu đích thực, mà tặng cho anh một phần cảm hứng đã giúp Dante viết ra cuốn sách đồ sộ của ông.
Hãy cất tiếng hát trong ta, hỡi Nàng thơ, và qua ta kể lại câu chuyện…
Dòng mở đầu trong trường ca Odyssey của Homer dường như chính là lời khẩn cầu rất thích hợp, và Langdon thầm tin bức thư của anh đã đánh thức nguồn cảm hứng thiêng liêng của Beatrice, vì ngay khi trở về nhà, anh đã bất ngờ viết ra cuốn sách một cách dễ dàng.
“Xin lỗi!”, giọng Sienna đột ngột vang lên. “Mọi người vui lòng cho tôi hỏi chút được không?” Tất cả mọi người sao?
Langdon xoay lại nhìn Sienna đang lớn tiếng nói với số du khách tản mát, khiến tất cả đều nhìn về phía cô, có vẻ gì đó cảnh giác…
Sienna mỉm cười thân thiện với mọi người và hỏi bằng tiếng Ý xem có ai tình cờ có bản Thần khúc của Dante không. Sau vài ánh mắt lạ lùng và những cái lắc đầu, cô cố gắng hỏi lại bằng tiếng Anh, nhưng cũng chẳng hơn gì.
Một phụ nữ đứng tuổi hơn đang quét bàn thờ suỵt rất to với Sienna và giơ một ngón tay lên môi ra hiệu im lặng.
Sienna quay lại phía Langdon và cau mày, như thể muốn nói “Giờ thì làm sao?”
Lời hỏi han của Sienna hoàn toàn không phải là điều Langdon hình dung trong đầu, nhưng anh phải thừa nhận rằng anh dự liệu cô nhận được phản ứng tốt đẹp hơn so với những gì vừa rồi. Trong những lần tới thăm trước, Langdon thấy không ít du khách đang đọc Thần khúc trong không gian thiêng liêng này, rõ ràng vì muốn hoàn toàn chìm trong trải nghiệm của Dante.
Hôm nay thì không hề như vậy.
Langdon đưa mắt nhìn một cặp vợ chồng già đang ngồi gần phía trước nhà thờ. Cái đầu hói của ông cụ cúi gập về phía trước, cằm chạm hẳn vào ngực, rõ ràng ông đang ngủ gật. Bà cụ ngồi bên cạnh ông, với hai sợi cáp tai nghe màu trắng lủng lẳng bên dưới mái đầu bạc, dường như rất tỉnh táo.
Có chút hy vọng đây, Langdon nghĩ bụng, len theo lối đi cho tới khi ở vị trí song song với cặp vợ chồng già. Đúng như Langdon hy vọng, đôi tai nghe màu trắng của bà cụ chạy xuống một chiếc iPhone đặt trên đùi. Cảm giác đang bị người khác nhìn, bà ngước lên và rút tai nghe ra.
Langdon không rõ bà cụ nói ngôn ngữ gì, nhưng thành công toàn cầu của iPhone, iPad và iPod khiến những tên gọi này trở thành những từ vựng hiểu được trên khắp thế giới giống như biểu tượng nam/nữ ở các nhà vệ sinh trên toàn cầu.
“iPhone?”, Langdon hỏi, mắt nhìn chiếc máy của bà.
Bà cụ lập tức tươi nét mặt, gật đầu đầy tự hào. “Một thứ đồ chơi thông minh”, bà thì thào bằng giọng Anh. “Con trai tôi tặng cho tôi đấy. Tôi đang nghe email của mình. Anh có tin không – nghe email của tôi nhé! Báu vật nhỏ xinh này đọc thư cho tôi nghe. Với đôi mắt kèm nhèm của tôi thì điều đó đúng là tuyệt vời.”
“Cháu cũng có một cái”, Langdon mỉm cười nói trong lúc ngồi xuống cạnh bà, cẩn thận không làm ông chồng đang say ngủ của bà tỉnh giấc. Nhưng chẳng hiểu sao cháu lại để mất nó tối qua.”
“Ôi, tệ quá! Cậu đã thử tính năng ‘tìm kiếm iPhone” chưa? Con trai tôi nói…”
“Cháu dốt quá, cháu chưa kích hoạt tính năng ấy.” Langdon nhìn bà bẽn lẽn và ngập ngừng đánh bạo, “Nếu không quá phiền, bác làm ơn cho cháu mượn máy của bác chỉ một lát thôi được không? Cháu cần tra cứu một thứ trên mạng. Việc đó giúp cháu rất nhiều.”
“Được thôi!” Bà cụ tháo tai nghe và nhét điện thoại vào tay anh. “Không có gì đâu! Tội nghiệp cậu.”
Langdon cảm ơn bà và cầm lấy điện thoại. Trong khi bà cụ bên cạnh anh kể lể về việc bà sẽ cảm thấy kinh khủng như thế nào nếu đánh mất chiếc iPhone, Langdon mở cửa sổ tìm kiếm của Google và nhấn nút microphone. Khi điện thoại phát ra một tiếng kêu, Langdon đọc thật rõ ràng chuỗi tìm kiếm của mình.
“Dante, Thần khúc, Thiên đường, Khổ XXV.”
Bà cụ tỏ ra kinh ngạc, rõ ràng vẫn chưa hề biết về tính năng này. Khi các kết quả tìm kiếm bắt đầu xuất hiện trên màn hình bé xíu, Langdon liếc nhanh về phía Sienna, lúc này đang lật giở một tài liệu in gì đó gần cái giỏ thư gửi cho Beatrice.
Không xa chỗ Sienna đứng, một người đàn ông đeo cà vạt đang quỳ trong bóng tối, thành tâm cầu nguyện, đầu cúi thấp. Langdon không thể nhìn rõ mặt ông ta, nhưng anh cảm thấy buồn thay cho người đàn ông cô độc có lẽ vừa đánh mất người mình yêu thương và đến đây để tìm chút an ủi.
Langdon tập trung trở lại chiếc Iphone, và chỉ sau vài giây đã có thể chọn đường dẫn tới một địa chỉ cung cấp bản Thần khúc số hóa truy cập miễn phí, vì tác phẩm thuộc sở hữu công cộng rồi. Khi trang màn hình mở ra đúng Khổ XXV, anh phải thừa nhận rằng công nghệ anh vừa sử dụng rất ấn tượng. Mình đến phải chấm dứt việc làm một gã khờ quá coi trọng những cuốn sách bọc da, anh tự nhủ. Sách điện tử thực sự có ưu thế riêng.
Trong khi bà cụ nhìn lên, mặt có phần lo lắng và nói gì đó về chuyện giá cước dữ liệu cao khi lướt mạng Internet ở nước ngoài, Langdon cảm thấy cánh cửa cơ hội của mình rất hẹp, và anh chăm chú tập trung vào trong web trước mặt.
Văn bản rất nhỏ, nhưng ánh sáng lờ mờ trong nhà nguyện khiến cho màn hình được chiếu sáng dễ nhìn hơn. Langdon rất hài lòng khi tình cờ vào đúng bản dịch của Mandelbaum – một bản dịch hiện đại rất thịnh hành do giáo sư quá cố người Mỹ Allen Mandelbaum thực hiện. Vì bản dịch xuất sắc này, Mandelbaum đã nhận được vinh dự cao nhất của nước Ý, Huân chương Ngôi sao Đoàn kết Italia. Mặc dù phải thừa nhận bản dịch của ông ít tính thi ca hơn bản của Longfellow nhưng nó lại có vẻ dễ lĩnh hội hơn.
Hôm nay mình cần ý nghĩa sáng sủa hơn là thi pháp, Langdon nghĩ thầm, hy vọng nhanh chóng tìm ra trong nội dung văn bản chi tiết ám chỉ đến một địa điểm cụ thể ở Florence – nơi Ignazio giấu chiếc mặt nạ người chết của Dante.
Màn hình bé xíu của chiếc iPhone chỉ hiển thị được sáu dòng văn tự một lúc, và khi bắt đầu đọc, Langdon nhớ lại cả đoạn. Trong phần mở đầu của Khổ XXV, Dante nhắc đến chính Thần khúc, nỗi mất mát vật chất mà ông phải chấp nhận khi viết tác phẩm, và niềm hy vọng trong đau đớn rằng có lẽ trường ca tuyệt vời của ông có thể chiến thắng được bản án trục xuất nghiệt ngã đến tàn bạo, đẩy ông rời xa khỏi Florence yêu thương.
KHỔ XXV
“Nếu điều đó xảy ra… nếu bài thơ thiêng liêng này –
tác phẩm được cả thiên đường và mặt đất chia sẻ
làm cho ta hao gầy qua những năm tháng đằng đẵng –
có thể vượt qua sự bạo tàn
đã ngăn cản ta với quê hương yêu dấu nơi ta nằm ngủ,
một chú cừu chống lại cả đàn sói hằm hè…”
Dù đoạn thơ này là chi tiết gợi nhớ rằng Florence chính là quê hương mà Dante nhung nhớ khi viết Thần khúc, nhưng Langdon chẳng thấy chỗ nào nói đến một địa điểm cụ thể trong thành phố.
“Cậu biết gì về mức cước phí dữ liệu không?”, bà cụ xen vào, mắt nhìn chiếc iPhone của mình với vẻ sốt ruột thấy rõ. “Tôi vừa nhớ ra con trai tôi dặn hãy cẩn thận khi lướt web ở nước ngoài.”
Langdon trấn an bà rằng anh sẽ chỉ dùng một phút nữa và đề nghị thanh toán tiền cho bà, nhưng cho dù như vậy, anh vẫn cảm thấy bà cụ sẽ chẳng bao giờ để anh đọc hết cả một trăm dòng của Khổ XXV.
Anh nhanh chóng chuyển xuống sáu dòng tiếp theo và tiếp tục đọc.
“Khi đó cùng với giọng nói khác, mái tóc khác,
Ta sẽ trở về như một thi sĩ và đội lên,
ngay bồn nước rửa tội của ta, chiếc vương miện nguyệt quế;
vì ở đó lần đầu tiên ta thấy lối vào đức tin
thứ giúp cho các linh hồn được Chúa đón chào, và khi đó,
với đức tin ấy, thánh Peter đặt vòng hoa lên trán ta.”
Langdon cũng chỉ nhớ láng máng đoạn này – một cách ám chỉ vòng vo đến thỏa thuận chính trị mà các kẻ thù của Dante đưa ra cho ông. Theo lịch sử, “đàn sói” xua đuổi Dante khỏi Florence đã tuyên bố ông có thể quay về thành phố chỉ khi nào ông đồng ý chập nhận sỉ nhục công khai - tức là đứng trước toàn thể giáo đoàn, một mình chỗ bồn nước rửa tội và chỉ được khoác áo vải bố, như một cách thừa nhận lỗi lầm của mình.
Trong đoạn thơ Langdon vừa đọc, Dante, sau khi khước từ thỏa thuận ấy, đã tuyên bố rằng nếu ông trở về bồn nước rửa tội của mình, ông sẽ không mặc áo vải bố của một kẻ có tội mà là vương miện nguyệt quế của một thi sĩ.
Langdon đưa ngón tay trỏ kéo xuống tiếp, nhưng bà cụ bất ngờ phản đối, chìa tay về phía chiếc iPhone, rõ ràng đã nghĩ lại việc cho mượn máy.
Langdon không nghe thấy gì. Trong tích tắc trước khi anh chạm được vào màn hình, mắt anh lướt qua một dòng văn bản mà anh đã nhìn thấy lần thứ hai.
“Ta sẽ trở về như một thi sĩ và đội lên,
ngay bồn nước rửa tội của ta, chiếc vương miện nguyệt quế…”
Langdon đăm đăm nhìn những con chữ, thấy rõ trong tâm trạng nôn nóng tìm kiếm chi tiết nhắc đến một địa điểm cụ thể, anh gần như đã bỏ qua một khả năng ngay trong những dòng mở đầu.
“ngay bồn nước rửa tội”
Florence là quê hương của những bồn nước rửa tội được tôn vinh nhiều nhất trên thế giới, nơi đã được sử dụng trong suốt hơn bảy trăm năm để thanh tẩy và rửa tội cho những công dân Florence trẻ tuổi – trong số đó có cả Dante Alighieri.
Langdon lập tức nhớ tới hình ảnh công trình có bồn nước đó. Đó là một dinh thự bát giác rất đẹp, còn tuyệt vời hơn cả Duomo ở nhiều khía cạnh. Giờ anh tự hỏi có phải mình đã đọc được tất cả những gì cần đọc hay không.
Phải chăng tòa nhà ấy là địa điểm Ignazio nói đến?
Một tia sáng lóe lên trong tâm trí Langdon khi một hình ảnh diễm lệ hiện ra – dãy cánh cửa đồng ấn tượng – lấp lánh tỏa sáng trong ánh mặt trời buổi sớm.
Mình biết Ignazio đang cố gắng nói gì với mình rồi!
Mọi ngờ vực còn sót lại đều tan biến ngay sau đó khi anh nhớ ra rằng Ignazio Busoni là một trong những người hiếm hoi ở Florence có thể mở được những cánh cửa đó.
Robert, cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên.
Langdon trao chiếc iPhone lại cho bà cụ và hết lời cảm ơn bà.
Anh chạy lại chỗ Sienna và nói nhỏ đầy phấn khởi, “Anh biết Ignazio nói về cánh cổng nào rồi! Cổng Thiên đường!”
Sienna tỏ vẻ hồ nghi. “Cổng Thiên đường à? Chúng không nằm… trên thiên đường chứ?”
“Thực ra”, Langdon nói, cười chế nhạo và tiến thẳng ra cửa, “nếu em biết nơi nào cần thăm thì Florence chính là thiên đường”.
 


Chương 53


“Ta sẽ trở về như một thi sĩ… ngay bồn nước rửa tội của ta.”
Những lời Dante liên tục dội lên trong tâm trí Langdon khi anh dẫn Sienna đi về phía bắc, men theo một lối đi hẹp mang tên Via dello Studio. Đích đến của họ nằm ở phía trước, và cứ mỗi bước đi, Langdon lại thêm tự tin rằng họ đang đi đúng đường và bỏ lại những kẻ đeo bám phía sau.
Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên.
Khi họ đến gần cuối ngõ phố sâu như một vực thẳm, Langdon nghe thấy âm thanh nhộn nhạo của hoạt động phía trước. Đột ngột, đầu kia ngõ phố kết thúc, và họ thoát ra một không gian rộng rãi.
Quảng trường Duomo.
Khu quảng trường mênh mông cùng với hệ thống các kiến trúc phức tạp này là trung tâm du lịch, quảng trường nhộn nhịp toàn xe bus chở du khách cùng từng đoàn tham quan nhà thờ lớn danh tiếng của Florence.
Đi đến mé phía nam của quảng trường, lúc này Langdon và Sienna đứng đối diện hông nhà thờ với phần bên ngoài ốp cẩm thạch xanh lục, hồng và trắng lộng lẫy. Với quy mô cũng như kiến trúc nghệ thuật khiến người ta phải nín thở, tất cả các chiều của nhà thờ đều vươn dài đến mức gần như phi thường, tổng chiều dài của nó gần ngang bằng với Đài tưởng niệm Washington nếu nằm cạnh nhau.
Mặc dù đã từ bỏ kiểu chạm khắc đá cầu kỳ đơn sắc truyền thống để tiếp nhận kiểu pha trộn nhiều màu sắc, công trình này vẫn thuần túy theo phong cách Gothic – cổ kính, đồ sộ, và bền vững. Phải thừa nhận, ngay từ lần đầu tiên đến Florence, Langdon đã thấy công trình này vô cùng hoàn mỹ. Tuy nhiên, trong những chuyến tiếp theo, anh đều phải bỏ ra hàng giờ nghiên cứu công trình, bị cuốn hút bởi những hiệu ứng mỹ thuật khác thường, và thán phục vẻ đẹp ngoạn mục của nó.
Nhà thờ Il Duomo – hay gọi một cách trịnh trọng hơn là Vương cung Thánh đường Santa Maria del Fiore – ngoài việc cho Ignazio một biệt danh, thì từ lâu cũng đem lại cho Florence không chỉ một trái tim tinh thần mà còn cả hàng thế kỷ kịch nghệ và tình tiết. Quá khứ không mấy bình yên của tòa nhà này xuất phát từ những cuộc tranh luận kéo dài và căng thẳng về bức bích họa bị phỉ báng Phán quyết cuối cùng của Vasari bên trong mái vòm tới cuộc thi quyết liệt nhằm lựa chọn kiến trúc sư để hoàn tất phần mái vòm.
Cuối cùng Filippo Brunelleschi giành được hợp đồng và hoàn thiện mái vòm – hạng mục lớn nhất thời đó. Hiện nay có thể thấy tượng của chính Brunelleschi ngồi bên ngoài Cung điện Canonici đang mãn nguyện nhìn lên kiệt tác của mình.
Sáng hôm nay, khi ngước mắt nhìn lên trời về phía mái vòm lợp ngói đỏ nổi tiếng, từng là một kỳ công kiến trúc ở thời đại của nó, Langdon nhớ lại thời khắc ngu ngốc khi anh quyết định leo lên mái vòm để rồi phát hiện ra rằng những cầu thang chật hẹp đông nghịt khách du lịch của công trình cũng kinh khủng chẳng kém gì những không gian khép kín mà anh từng gặp phải. Cho dù như vậy, Langdon vẫn rất biết ơn thử thách mà anh đã chịu đựng khi leo lên “Mái vòm Brunelleschi”, vì nó khuyến khích anh đọc một cuốn sách thú vị cùng tên của Ross King.
“Anh Robert?”, Sienna lên tiếng. “Anh đi tiếp chứ?”
Langdon rời ánh mắt khỏi mái vòm, nhận ra rằng mình đang đứng giữa đường để chiêm ngưỡng công trình. “Anh xin lỗi.”
Họ tiếp tục di chuyển, men theo mép ngoài của quảng trường. Thánh đường lúc này ở bên phải họ, và Langdon nhìn thấy du khách đang túa ra từ các lối thoát bên sườn, gạch bỏ địa điểm này khỏi danh sách những nơi nhất thiết phải tới tham quan.
Phía đằng trước là hình dáng không thể nhầm lẫn của một gác chuông – hạng mục thứ hai trong ba công trình nằm trong quần thể Thánh đường. Vẫn được nhiều người biết đến như là tháp chuông Giotto, gác chuông này hiển nhiên thuộc về Vương cung Thánh đường kề bên. Được trang điểm bằng đá ốp màu hồng, xanh lục và trắng giống hệt Thánh đường, tòa tháp vuông vức vươn lên trời, tới một độ cao chóng mặt, gần một trăm mét. Langdon luôn kinh ngạc là công trình mảnh mai này lại có thể đứng vững suốt nhiều thế kỷ, trải qua những trận động đất và thời tiết khắc nghiệt, đặc biệt nếu biết được đỉnh của nó nặng như thế nào khi phần tháp nhọn trên đỉnh còn đỡ hơn chín tấn chuông.
Sienna bước nhanh bên cạnh anh, lo lắng lướt mắt nhìn bầu trời phía sau tòa tháp chuông, rõ ràng đang tìm kiếm chiếc máy bay do thám, nhưng không thấy nó ở đâu cả. Có khá đông người, dù bây giờ vẫn còn rất sớm, và Langdon thấy rất nên ẩn mình trong đám đông.
Khi tới gần gác chuông, họ đi qua một dãy họa sĩ biếm họa đứng bên giá vẽ, phác thảo những hình vẽ trào phúng sặc sỡ của các du khách – một cậu nhóc mắm môi mắm lợi trên chiếc ván trượt, một cô gái có hàm răng như ngựa đang cầm cây gậy đánh bóng, một cặp vợ chồng đi hưởng tuần trăng mật đang hôn nhau trên lưng một con kỳ lân. Langdon thấy rất thú vị là hoạt động này được phép diễn ra trên chính những viên sỏi thiêng liêng nơi Michelangelo từng đặt giá vẽ của mình khi còn nhỏ.
Langdon và Sienna tiếp tục đi nhanh quanh chân tháp chuông Giotto, rẽ sang phải, băng qua quảng trường rộng rãi thẳng tới trước Vương cung Thánh đường. Ở đây có rất đông du khách từ khắp thế giới đang chĩa những chiếc điện thoại có máy ảnh và cả những máy quay video về phía mặt tiền chính sặc sỡ.
Langdon không buồn ngước lên vì anh đã chú ý tới một công trình nhỏ hơn nhiều vừa xuất hiện trong tầm mắt. Nằm đối diện lối vào phía trước của Thánh đường là hạng mục thứ ba, cũng là cuối cùng, của quần thể Vương cung Thánh đường.
Đó cũng là địa điểm ưa chuộng của Langdon.
Nhà rửa tội San Giovanni.
Được trang trí bằng đá ốp cùng loại nhưng nhiều màu sắc và các trụ bổ tường giống như Thánh đường, Nhà rửa tội khác biệt với tòa nhà lớn nhờ hình dạng ấn tượng của nó – một hình bát giác hoàn hảo. Giống như một chiếc bánh ngọt nhiều lớp, theo mô tả của một số người, tòa kiến trúc tám cạnh này gồm ba tầng rõ rệt vươn cao dần đến phần mái màu trắng.
Langdon biết hình bát giác chẳng liên quan gì đến thẩm mỹ mà hoàn toàn chỉ mang tính biểu tượng. Trong Thiên Chúa giáo, con số tám tượng trưng cho sự tái sinh và tái tạo. Hình bát giác còn là hình ảnh gợi nhớ sáu ngày Chúa sáng tạo ra bầu trời và trái đất, ngày nghỉ Sabbath – Chủ nhật, và ngày thứ tám khi những người Thiên Chúa giáo được “tái sinh” và “tái tạo” nhờ lễ rửa tội. Bát giác đã trở thành một hình phổ biến của các nhà rửa tội trên khắp thế giới.
Mặc dù Langdon coi Nhà rửa tội này là một trong những tòa nhà ấn tượng nhất Florence nhưng anh vẫn luôn thấy việc lựa chọn địa điểm này có phần không được bình thường. Nhà rửa tội này, gần như không giống nơi nào khác trên trái đất, là trung tâm thu hút sự chú ý nếu nằm đơn lẻ. Tuy nhiên, ở đây, trong cái bóng của hai hạng mục “anh em” kia, Nhà rửa tội tạo ra ấn tượng về một thứ quá ư tầm thường.
Cho tới khi các vị bước vào bên trong, Langdon nhủ thầm, hình dung ra phần nội thất chạm khảm tuyệt mỹ đến mức những người chiêm ngưỡng trước kia đã phải thốt lên rằng trần nhà của Nhà rửa tội chẳng khác gì thiên đường. Nếu em biết nơi nào cần thăm, Langdon đã nói với Sienna, thì Florence chính là thiên đường.
Trong nhiều thế kỷ, điện thờ tám cạnh này là nơi diễn ra lễ rửa tội của vô số nhân vật quyền quý – trong đó có Dante.
Ta sẽ trở về như một thi sĩ… ngay bồn nước rửa tội của ta.
Do bị trục xuất, Dante chẳng bao giờ được phép trở về nơi linh thiêng này – nơi ông chịu lễ rửa tội – mặc dù Langdon càng lúc càng thấy hy vọng rằng chiếc mặt nạ người chết của Dante, trải qua một chuỗi những sự kiện diễn ra đêm qua, cuối cùng cũng đã thay mặt cho thi hào tìm được đường trở về.
Nhà rửa tội, Langdon nghĩ. Đây chắc là nơi Ignazio giấu chiếc mặt nạ trước khi chết. Anh nhớ lại lời nhắn tuyệt vọng của Ignazio trên điện thoại, và trong một khắc rợn mình, Langdon hình dung ra người đàn ông béo tốt ôm chặt lấy ngực, lảo đảo băng qua quảng trường để chui vào một ngõ hẹp, và gọi cuộc điện thoại cuối cùng sau khi cất chiếc mặt nạ an toàn trong Nhà rửa tội này.
Cổng đã mở cho anh.
Mắt Langdon vẫn dán chặt vào Nhà rửa tội lúc anh và Sienna lách qua đám đông. Lúc này Sienna di chuyển với vẻ phấn khích đến mức Langdon gần như phải rảo chân mới theo kịp. Thậm chí còn cách một quãng nhưng anh đã có thể nhìn rõ những cánh cửa chính đồ sộ của Nhà rửa tội lấp loáng trong ánh nắng.
Những cánh cửa cao hơn bốn mét rưỡi chế tác bằng đồng mạ đã khiến Lorenzo Ghiberti mất hơn hai mươi năm mới hoàn thành. Chúng đều được trang trí bằng mười ô dày đặc hình ảnh trong Kinh Thánh trang nhã và tuyệt vời đến mức Giorgio Vasari đã phải tả những cánh cửa này “hoàn hảo không thể chê ở mọi phương diện và… là kiệt tác tuyệt vời nhất từng được tạo ra”.
Tuy nhiên, chính Michelangelo mới là người đưa ra lời chứng thực khiến cho những cánh cửa này có biệt danh còn mãi đến tận hôm nay. Michelangelo đã nhận xét chúng đẹp đến mức rất phù hợp để sử dụng làm… Cổng Thiên đường.
 


Chương 54


Linh Thánh bằng đồng, Langdon thầm nghĩ trong lúc chiêm ngưỡng những cánh cửa tuyệt đẹp trước mắt họ. Cánh cổng Thiên đường lấp lánh của Ghiberti gồm mười ô vuông, mỗi ô mô tả một cảnh quan trọng rút ra từ Kinh Cựu ước. Từ vườn Địa đàng tới Moses và đền thờ vua Solomon, câu chuyện kể bằng hình thức điêu khắc của Ghiberti mở ra qua hai cột dọc, mỗi bên năm ô.
Chuỗi cảnh trí độc đáo tuyệt vời này theo thời gian đã khởi nguồn cho một hình thức thi tài trong giới nghệ sĩ và sử gia nghệ thuật, với tất cả mọi người, từ Botticelli tới những nhà phê bình hiện đại, đều khẳng định sở thích của họ dành cho “Ô đẹp nhất”. Qua nhiều thế kỷ, người ta nhất trí chung rằng “quán quân” vẫn là cảnh Jacob và Esau - ô chính giữa của cột bên trái - được lực chọn vì số lượng phương pháp nghệ thuật rất ấn tượng cần vận dụng để chế tác nó. Tuy nhiên, Langdon ngờ rằng lý do đích thực khiến ô này thắng thế là vì Ghiberti đã chọn nó để ký tên mình.
Vài năm trước, Ignazio Busoni đã tự hào cho Langdon xem những cánh cửa này, ngượng ngùng thừa nhận rằng sau nửa thiên niên kỷ phơi mình trước lũ lụt, phá hoại và ô nhiễm không khí, những cánh cửa mạ vàng đã được đổi bằng những bản mô phỏng chính xác, còn bản gốc hiện được cất giữ an toàn bên trong Bảo tàng Opera del Duomo để tu bổ. Langdon đã lịch sự kìm nén không nói với Busoni rằng anh biết rất rõ họ đang chiêm ngưỡng đồ giả, và rằng trên thực tế, những bản sao này là bộ cánh cửa Ghiberti “giả mạo” thứ hai mà Langdon từng gặp - bộ thứ nhất là khi anh nghiên cứu những mê cung tại Thánh đường Grace ở San Francisco và tình cờ phát hiện ra rằng bản sao Cổng Thiên đường của Ghiberti đã được dùng làm cửa trước của Thánh đường này từ giữa thế kỷ XX.
Khi đứng trước kiệt tác của Ghiberti, mắt anh bị thu hút bởi tấm biển thông tin ngắn gọn lắp gần đó, bên trên đề một cụm từ đơn giản bằng tiếng Ý khiến anh chú ý và giật mình.
La peste nera. Cụm từ này có nghĩa là “Cái chết Đen”. Chúa ơi, Langdon nghĩ bụng, nó xuất hiện khắp mọi nơi mình đến! Theo tấm biển đó, những cánh cửa này được đặt làm “lễ vật” dâng lên Chúa trời - một biểu hiện tỏ lòng biết ơn vì Người đã giúp Florence sống sót qua đại dịch.
Langdon cố nhìn lại Cổng thiên đường trong khi những lời của Ignazio vang lên trong tâm trí anh. Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên.
Mặc dù Ignazio đã hứa hẹn, nhưng Cổng thiên đường vẫn đóng chặt như mọi khi, ngoại trừ vào những kỳ nghỉ lễ tôn giáo hiếm hoi. Bình thường, khách du lịch đi vào Nhà rửa tội từ một bên khác, qua cửa phía bắc.
Sienna đã nhón chân tới bên cạnh anh, cố gắng quan sát đám đông. “Không hề có tay nắm cửa”, cô nói. “Không có lỗ khóa. Chẳng có gì cả.”
Đúng, Langdon nghĩ, biết rằng Ghiberti không có ý định phá hủy kiệt tác của mình bằng một thứ gì đó trần tục như là tay nắm cửa. “Cánh cửa mở vào trong. Người ta khóa từ bên trong.”
Sienna ngẫm nghĩ một lúc, rồi mím môi. “Vậy từ ngoài này… không ai biết liệu những cánh cửa này có khóa hay không.”
Langdon gật đầu. “Anh hy vọng đó chính là điều Ignazio nghĩ.”
Anh bước vài bước sang bên phải và nhìn về một cánh cửa ít trang hoàng hơn ở bên sườn phía bắc của tòa nhà – lối vào dành cho dukhách. Một thuyết trình viên trông có vẻ chán nản đang hút thuốc ở đó và từ chối trả lời du khách bằng cách chỉ vào tấm biển ở lối vào:
APERTURA [26] 13:00 – 17:00
Vài giờ nữa mới mở cửa, Langdon nghĩ và cảm thấy hài lòng. Và chưa có ai ở bên trong.
Theo thói quen, anh nhìn đồng hồ đeo tay và lại nhớ ra rằng chiếc đồng hồ Chuột Mickey đã biến mất.
Khi anh quay lại chỗ Sienna, cô đã nhập vào một nhóm du khách đang chụp ảnh qua hàng rào sắt được dựng cách vài mét phía trước Cổng Thiên đường để ngăn du khách tiếp xúc quá gần kiệt tác của Ghiberti.
Cánh cổng bảo vệ này làm bằng gang đúc màu đen, trên đỉnh gắn những mũi nhọn sơn vàng, và trông chẳng khác gì những tường rào tư gia đơn giản bao quanh các ngôi nhà vùng ngoai ô. Buồn cười là tấm biển cung cấp thông tin về Cổng Thiên đường lại không được gắn trên những cánh cổng đẹp đẽ bằng đồng, mà trên cánh cổng bảo vệ tầm thường.
Langdon đã nghe nói về việc bố trí tấm biển thông tin đôi khi gây nhầm lẫn cho khách du lịch, và vừa hay có một phụ nữ mập lùn mặc bộ đồ len hiệu Juicy Couture len qua đám đông, đọc tấm biển, cau mày nhìn cách cổng gang và chế diễu, “Cổng thiên đường cơ à? Của khỉ, trông như hàng rào ngăn chó ở nhà tôi!”. Rồi cô ta lạch bạch bỏ đi khi chưa ai kịp giải thích điều gì.
Sienna nhích tới và vịn vào cánh cổng bảo vệ, hờ hững nhòm qua các lan sắt để quan sát kết cấu khóa ở phía sau.
“Nhìn kìa”, cô thì thào, mở to mắt, ngoảnh về phia Langdon, “Cái khóa ở phía sau không khóa.”
Langdon cũng nhìn qua rào sắt và thấy cô nói đúng. Chiếc khóa đặt ở vị trí như thể đã khóa chặt, nhưng khi nhìn gần hơn, anh có thể thấy nó hoàn toàn không khóa.
Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên.
Langdon ngước mắt nhìn Cổng Thiên đường phía sau hàng rào. Nếu đúng là Ignazio để ngỏ những cánh cửa đồ sộ của Nhà rửa tội thì chỉ việc đẩy là chúng mở ra. Tuy nhiên, lọt được vào trong mà không gây chú ý cho tất cả mọi người trên quảng trường, đương nhiên bao gồm cả cảnh sát và bảo vệ của Duomo, mới là việc khó khăn.
“Nhìn kìa!”, một phụ nữ đột nhiên kêu ré lên ở gần đó. “Anh ta sắp nhảy!” Giọng cô ấy đầy kinh hãi. “Tháp chuông đằng kia kìa!”
Langdon rời mắt khỏi những cánh cửa, và nhìn thấy người phụ nữ đang hét lên… chính là Sienna. Cô đứng cách đó năm thước, tay chỉ về phía tháp chuông Giotto và kêu to, “Ở trên đỉnh ấy! Anh ta sắp nhảy!”.
Mọi cặp mắt đều ngước lên trời, tìm kiếm trên đỉnh tháp chuông. Gần đó, những người khác bắt đầu chỉ trỏ, nheo mắt, hỏi nhau.
“Có ai đó định nhảy xuống à?!”
“Đâu cơ?!”
“Tôi không nhìn thấy anh ta!”
“Trên kia, ở bên trái phải không?!”
Chỉ mất vài giây, mọi người trên khắp quảng trường đều cảm thấy hoảng loạn và có chung hành động – cùng ngước nhìn lên đỉnh tháp chuông. Với tốc độ của đám cháy đang thiêu rụi một cánh dồng cỏ khô, tâm lý sợ hãi lan khắp quảng trường cho tới khi toàn bộ đám đông đều ngóng cổ, nhìn lên, và chỉ trỏ.
Tiếp thị kiểu lây lan, Langdon nghĩ, biết rằng anh chỉ có một khắc để hành động. Lập tức, anh nắm lấy hàng rào gang đúc rồi đẩy nó mở ra vừa lúc Sienna trở lại bên cạnh anh và cùng anh lách vào không gian chật chội phía sau. Khi đã đóng lại cổng phía sau, họ quay lại đối diện với những cánh cửa bằng đồng cao bốn mét rưỡi. Hy vọng đã hiểu đúng lời Ignazio, Langdon tì vai vào một bên cánh cửa đồ sộ và đạp mạnh chân.
Chẳng có gì xảy ra, và rồi, rất từ từ, cánh cửa nặng nề bắt đầu nhúc nhích. Cánh cửa đã mở! Cổng Thiên đường mở khoảng ba mươi phân, và Sienna không bỏ phí thời gian nghiêng người lách qua. Langdon cũng theo sát, nghiêng mình lách qua khe hở rất hẹp để tiến vào không gian tối om của Nhà rửa tội.
Họ cùng quay đầu và đẩy cánh cửa theo hướng ngược lại, nhanh chóng khép cánh cổng đồ sộ lại bằng một lực dứt khoát. Lập tức, tiếng ồn ào hỗn loạn bên ngoài im bặt, chỉ còn sự im lặng.
Sienna chỉ thanh xà gỗ dài trên sàn dưới chân họ, rõ ràng vẫn được đặt vào các hốc tường hai bên cửa để làm then. “Chắc Ignazio đã tháo nó cho anh”, cô nói.
Họ cùng nâng thanh xà và đặt trở lại hốc, khóa chặt Cổng Thiên đường và nhốt họ an toàn bên trong.
Langdon và Sienna im lặng đứng lúc lâu, dựa vào cửa và lấy lại nhịp thở. So với những tiếng ồn ào của quảng trường bên ngoài, bên trong Nhà rửa tội là cảm giác bình yên như thể ở trên thiên đường.
Bên ngoài Nhà rửa tội San Giovanni, người đàn ông đeo kính Plume Paris và chiếc cà vạt in hoa lách qua đám đông, mặc kệ những ánh mắt lo lắng nhận ra tình trạng phát ban rướm máu của ông ta.
Ông ta tới chỗ những cánh cửa bằng đồng mà Robert Langdon cùng người bạn đồng hành tóc vàng của anh vừa biến mất. Thậm chí đứng ở bên ngoài, ông ta vẫn nghe rõ tiếng chèn cửa nặng nề từ bên trong.
Không thể vào bằng đường này rồi.
Không khí trên quảng trường từ từ trở lại bình thường. Những du khách đang chăm chú nhìn lên vẻ đề phòng giờ không còn quan tâm nữa. Không có ai nhảy xuống cả. Tất cả mọi người tiếp tục việc của mình.
Người đàn ông lại thấy ngứa ngáy, tình trạng phát ban của ông ta thêm nặng. Giờ đầu ngón tay của ông ta đang sưng vù và nứt nẻ. Ông ta đút tay vào túi để cố không gãi. Tim ông ta tiếp tục đập mạnh khi đi vòng quanh tòa nhà bát giác để tìm lối vào khác.
Ông ta vừa kịp vòng qua góc tường khác thì cảm thấy một cơn đau nhói ở cổ và nhận thấy mình lại đang gãi lấy gãi để.
 


Chương 55


Người ta đồn rằng, một khi bước vào Nhà rửa tội San Giovanni, sẽ không thể không ngẩng đầu nhìn lên phía trên. Mặc dù dã vào trong gian phòng này nhiều lần, nhưng lúc này Langdon vẫn cảm nhận được ảnh hưởng huyền bí của nơi đây, anh ngước mắt nhìn lên trần nhà.
Cao tít phía trên đầu, bề mặt mái vòm bát giác của Nhà rửa tội rộng hơn hai mươi tư mét từ một cạnh bất kì tới cạnh đối diện. Nó phát ra ánh sáng lấp lánh như thể được làm bằng than đá đang cháy âm ỉ. Bề mặt màu vàng hổ phách láng bóng phản chiếu ánh sáng xung quanh không đều nhau hắt lên từ hơn một triệu viên gạch ốp men- những mảnh gốm khảm không dùng vữa nhỏ xíu được cắt bằng tay từ một loại gốm men thạch anh thủy tinh. Chúng được sắp xếp thành sáu vòng tròn đồng tâm mô tả những quang cảnh lấy ra từ Kinh Thánh.
Thêm vào vẻ ảm đạm của phần phía trên gian phòng, ánh sáng tự nhiên xuyên vào không gian tối tăm qua một ô mắt trần ở chính giữa – giống điện Patheon ở Rome – được tăng cường bằng một dãy ô cửa sổ cao và hẹp., khoét sâu vào tường, nơi từng cột ánh sáng lọt qua, tập trung đến mức trông như đặc quánh, giống những xà rầm kết cấu chống đỡ ở những góc thay đổi.
Khi cùng Sienna bước sâu hơn vào phía bên trong, Langdon để ý quan sát phần trần nhà khảm gốm huyền thoại – một cách thể hiện thiên đường và địa ngục nhiều tầng, giống như mô tả trong Thần khúc.
Dante Alighieri đã tới thăm nơi này khi còn bé, Langdon nghĩ thầm. Cảm hứng từ phía trên.
Lúc này ánh mắt Langdon dừng hẳn lại ở trung tâm của phần khảm gốm. Ngay phía trên bàn thờ chính là một bức tượng Chúa Jesus cao hơn bảy mét, ngồi phán xét những kẻ được cứu rỗi và những kẻ bị nguyền rủa.
Bên tay phải của Jesus, những người ngay thẳng nhận phần thương là sự trường sinh. Tuy nhiên, bên tay trái của Người, những kẻ tội lỗi lại bị ném đá, nung trên cọc nhọn, và bị tất cả các loại sinh vật ăn thịt.
Quan sát cảnh hành hạ là quỷ Satan bằng gốm khảm rất lớn, được khắc họa như một con thú địa ngục ăn thịt người. Langdon luôn cảm thấy kinh hãi khi nhìn thấy hình ảnh này, thứ hơn bảy trăm năm trước đã trừng mắt nhìn xuống cậu bé Dante Alighieri, dọa nạt và cuối cùng truyền cảm hứng cho phần khắc họa sinh động của cậu về những gì ẩn náu ở tầng địa ngục cuối cùng.
Bức tranh gốm khảm đầy hăm dọa phía trên đầu mô tả con quỷ có sừng đang ngấu nghiến một người. Đôi chân nạn nhân lủng lẳng thõng xuống từ miệng Satan chẳng khác gì đôi chân của những kẻ tội đồ bị chôn vùi một nửa trong rãnh Malebodge của Dante.
Lo ‘mperador del doloroso regno, Langdon nghĩ bụng, nhớ lại lời văn nguyên tác tiếng Ý của Dante. Vị hoàng đế của vương quốc kinh khủng.
Hai con rắn lớn uốn mình trườn từ tai của Satan cũng đang ăn thịt những kẻ tội đồ, cảm giác rằng Satan có ba đầu, chính xác như Dante đã mô tả về nhân vật này trong Khổ cuối cùng của Hỏa ngục. Langdon lọc lại trí nhớ và nhớ lại những phân mảng trong trí tưởng tượng của Dante.
Trên đầu quỷ có ba bộ mặt… ba cái cằm ròng ròng máu tươi… ba cái miệng như máy nghiền… nghiến ngấu một lúc ba kẻ tội đồ.
Langdon biết rằng quỷ Satan với ba phần mang ý nghĩa biểu tượng: Đặt Satan trong thế cân bằng hoàn hảo với Chúa ba ngôi.
Lúc ngước nhìn lên cảnh tượng hãi hùng này, Langdon cố gắng hình dung ra hiệu quả mà bức tranh gốm khảm tạo ra với cậu bé Dante, người đến dự các buổi lễ tại nhà thờ này trong nhiều năm liền, và nhìn Satan trừng mắt với mình mỗi lần cậu cầu nguyện. Tuy nhiên, sáng nay, Langdon có cảm giác bất an rằng vua quỷ đang trừng mắt với chính anh.
Anh vội cụp mắt nhìn xuống ban công tầng hai và hành lang đứng của Nhà rửa tội – khu vực duy nhất phụ nữ được phép đứng để xem lễ rửa tội, rồi nhìn đến ngôi mộ treo của Giáo hoàng đối cử John XXIII. Xác ông nằm yên nghỉ ở bức tường tít trên cao giống như một người hang hay chủ thể trong trò thăng thiên của một nhà ảo thuật.
Cuối cùng, mắt anh mới hướng tới phần nền ốp gạch men trang trí, nơi nhiều người tin có ám chỉ đến thiên văn học thời Trung cổ. Anh đưa mắt lướt qua những hoa văn đen trắng phức tạp tới chính giữ phòng.
Nó kia rồi, anh nghĩ thầm, biết rõ mình đang nhìn đúng vị trí nơi Dante Alighieri được rửa tội trong giai đoạn nửa sau thế kỉ XIII. “Ta trở về như một thi sĩ… ngay bồn nước rửa tội của ta”, Langdon nói, giọng anh vang vọng qua không gian trống vắng. “Nó đây rồi.”
Sienna trông có vẻ lo lắng khi mắt cô nhìn đến khu vực chính giữa sàn nhà, nơi lúc này Langdon đang chỉ tay. “Nhưng… ở đó chẳng có gì cả.”
“Không còn thấy nữa”, Langdon trả lời.
Tất cả những gì còn lại là một bề mặt tám cạnh màu nâu đỏ rất lớn. Khu vực tám cạnh bằng phẳng một cách khác thường này đã phá vỡ hoa văn của sàn nhà được trang trí kỹ càng, trông khác gì một hố lớn vá víu qua loa, mà thực tế đúng là như vậy.
Langdon giải thích nhanh rằng cái bồn rửa tội nguyên gốc của nơi này từng là một cái bể bát giác lớn đặt ở chính giữa gian phòng. Trong khi các bồn hiện đại thường là những bể được nâng cao lên thì những bồn thời xưa lại đúng với nghĩa đen của từ bồn - “suối nguồn” hoặc “đài phun” - và trong trường hợp này là một bể nước sâu để những người làm lễ có thể dầm mình trong đó. Langdon thắc mắc gian phòng đá này sẽ vang như thế nào khi trẻ con hét lên vì sợ hãi lúc bị dìm xuống bể nước lạnh như đá từng tọa lạc ở giữa phòng.
“Lễ rửa tội ở đây rất lạnh lẽo và đáng sợ”, Langdon nói. “Nghi lễ khai tâm đích thực. Thậm chí còn nguy hiểm. Người ta cho rằng Dante từng nhảy vào bồn để cứu một đứa trẻ chết đuối. Nhưng dù thế nào thì cái bồn nguyên thủy cũng đã bị lấp lại vào một thời điểm nào đó trong thế kỷ XVI”.
Sienna bắt đầu quét mắt khắp tòa nhà với vẻ lo lắng thấy rõ. “Nhưng nếu bồn rửa tội của Dante đã không còn thì… Ignazio giấu chiếc mật nạ ở đâu chứ?”
Langdon hiểu nối lo lắng của cô. Không thiếu gì chỗ giấu trong gian buồng mênh mông này - phía sau những cây cột, tượng, mộ phần, bên trong các hốc tường, trên bàn thờ, thậm chí trên gác.
Tuy nhiên, Langdon cảm thấy rất tự tin khi anh xoay người nhìn về cánh cửa nơi họ vừa bước vào. “Chúng ta nên bắt đầu từ chỗ đó”, anh nói, tay chi một khu vực sát tường ngay bên phải cổng Thiên đường.
Trên một nền cao, phía sau cánh cửa có trang trí, là một bệ lục giác cao bằng đá cẩm thạch có chạm khắc, trông giống một bàn thờ nhỏ hoặc bàn hành lễ. Mặt ngoài được chạm trổ cầu kỳ đến mức trông nó giống như một mặt đá ngọc trai. Trên nóc bệ cẩm thạch ấy là phần mặt gỗ nhẵn thín với đường kính khoảng một mét.
Sienna có vẻ không chắc chắn lắm khi theo Langdon lại gần đó. Lúc họ bước lên các bậc cấp và tiến vào bên trong cánh cổng bảo vệ, Sienna nhìn rõ hơn và thảng thốt giật mình, nhận ra thứ mình đang nhìn thấy.
Langdon mỉm cười. Chính xác, nó không phải là bàn thờ hay bàn. Phần mặt gỗ nhẵn thín bên trên thực ra là cái nắp đậy – nắp của một cấu trúc rỗng.
“Bồn rửa tội phải không?”, cô hỏi.
Langdon gật đầu. “Nếu Dante được rửa tội ngày hôm nay, nhất định phải là cái bể ở chỗ này.” Không bỏ phí thời gian, anh quả quyết hít một hơi thật sâu và đặt tay lên cái nắp gỗ, thoáng chút để phòng khi chuẩn bị di chuyển nó.
Langdon nắm chặt mép của cái nắp và đẩy sang một bên, thận trọng cho nắp trượt khỏi bệ cẩm thạch và đặt lên sàn bên cạnh bồn. Sau đó anh ngó vào bên trong không gian trống rỗng, tối om rộng ngót sáu mươi phân.
Cảnh tượng kỳ lạ khiến Langdon phải nuốt khan.
Từ trong bóng tối, cái mặt nạ người chết của Dante Alighieri đang nhìn lại anh.
 
Quay lại
Top Bottom