Hỏa ngục - Tiểu thuyết mới nhất của Dan Brown



Chương 16


“Nhanh lên, Robert!”, Sienna giục giã. “Theo tôi!”
Suy nghĩ của Langdon vẫn ngập tràn những hình ảnh ảm đạm về địa ngục của Dante trong lúc anh vọt ra khỏi cửa, tới hành lang của tòa chung cư. Cho đến lúc này, Sienna Brooks vẫn kiểm soát được tình hình căng thẳng của buổi sáng nay bằng phong thái hết sức điềm tĩnh, nhưng lúc này, vẻ bình tĩnh của cô càng lúc càng căng lên với một cảm xúc Langdon chưa hề thấy qua ở cô - nỗi sợ hãi thật sự.
Trong hành lang, Sienna chạy trước, vọt nhanh qua chiếc thang máy đã chạy xuống dưới, chắc chắn là do những người đàn ông lúc này đang tiến vào sảnh bấm nút. Cô chạy nhanh về phía cuối hành lang và mất hút vào khu vực cầu thang bộ mà không hề nhìn lại phía sau.
Langdon bám sát cô, cơ thể trượt đi trên đôi giày mềm đế trơn đi mượn. Cái máy chiếu bé xíu trong túi áo ngực Brioni nảy lên, đập vào ngực Langdon trong lúc anh chạy. Đầu anh lại lóe lên những chữ cái kỳ lạ điểm xuyết ở tầng thứ tám của địa ngục: CATROVACER. Anh nhớ đến những cái mặt nạ dịch hạch và dòng chữ ký lạ lùng: Chỉ có thể nắm được chân lý qua cặp mắt chết chóc.
Langdon cố liên kết những yêu tố rời rạc này, nhưng lúc này chưa thấy điều gì có ý nghĩa cả. Cuối cùng, khi anh chạy đến một chỗ chiếu nghỉ của cầu thang, Sienna đã ở đó, đang chăm chú lắng nghe. Langdon nghe rõ tiếng bước chân chạy lên cầu thang từ phía dưới.
“Có lối thoát khác không?”, Langdon thì thào.
“Theo tôi”, cô nói nhanh.
Sienna đã giữ được mạng sống của Langdon một lần trong ngày hôm nay, cho nên anh chẳng còn lựa chọn nào khác nào khác ngoài cách phải tin tưởng người phụ nữ này. Langdon hít một hơi thật sâu và nhảy nhanh xuống thang ngay sau cô.
Họ xuống được một tầng, nghe rõ tiếng giày ủng tiến đến gần hơn, vang vọng phía dưới họ chỉ một hoặc hai tầng.
Tại sao cô ấy lại chạy thẳng về phía họ nhỉ?
Langdon chưa kịp phản đối thì Sienna đã nắm lấy tay anh và kéo tuột anh ra khỏi khu vực thang bộ để chạy vào hành lang vắng tanh của khu nhà - một hành lang dài với những cánh cửa khóa kín.
Làm gì có chỗ nấp!
Sienna gạt một công tắc đèn và vài bóng đèn tắt ngấm, nhưng hành lang lờ mờ vẫn không đủ để che giấu họ. Sienna và Langdon vẫn bị nhìn rõ ở đây. Tiếng bước chân rầm rập gần như đã áp sát họ, và Langdon biết những kẻ tấn công sẽ xuất hiện trên cầu thang bất kỳ lúc nào và có thể nhìn thẳng tới chỗ sảnh này.
“Tôi cần áo khoác của anh”, Sienna thì thào trong lúc kéo tuột áo khoác của Langdon khỏi người anh. Sau đó cô ép Langdon bò rạp sau lưng cô ngay ở một khuôn cửa thụt vào. “Đừng nhúc nhích!”
Cô ta làm gì không biết? Cô ta lộ liễu thế này cơ mà!
Mấy người lính xuất hiện trên cầu thang, lao vội lên trên nhưng hơi dừng lại khi nhìn thấy Sienna trong hành lang tối om.
“Vì Chúa!”, Sienna quát lên với họ, giọng cô rên rỉ. “Có chuyện lộn xộn quái gì vậy?”
Hai người đàn ông nheo mắt, rõ ràng không tin lắm trước những gì họ đang nhìn thấy.
Sienna vẫn quát họ bằng tiếng Ý. “Mới giờ này mà đã ồn ào quá đấy!”
Giờ thì Langdon đã thấy Sienna trùm cái áo khoác đen của anh lên trên đầu và vai như tấm khăn choàng của một bà già. Cô gập người, cố tạo tư thế che chắn để họ không nhìn thấy Langdon đang nép người trong bóng tối, và lúc này, hoàn toàn bất ngờ, cô cà nhắc tiến một bước về phía họ và rít lên như một bà già ốm yếu.
Một gã lính giơ cánh tay lên, ra hiệu cho cô quay trở lại căn hộ của mình. “Bà già! Quay về phòng đi!”
Sienna tập tễnh tiến thêm một bước, vung vẩy nắm tay đầy giận giữ. “Chúng mày làm chồng tao tỉnh dậy đấy, ông ấy đang ốm!”
Langdon nghe mà đầy hoang mang. Họ làm anh chồng ốm đau của cô tỉnh giấc ư!
Một tên lính khác giơ súng máy lên và nhắm thẳng vào cô. “Đứng lại không ăn đạn đấy!”
Sienna đứng khựng lại, nguyền rủa không thương tiếc trong lúc tập tễnh lùi về phía sau, tránh xa bọn họ.
Đám lính chạy lên, mất hút trên gác.
Không hẳn là một màn diễn kịch Shakespeare, Langdon nghĩ bụng, nhưng rất ấn tượng. Rõ ràng kinh nghiệm đóng kịch có thể là một vũ khí lợi hại.
Sienna gỡ áo khoác khỏi đầu và ném trả lại cho Langdon. “Được rồi, theo tôi!”
Lần này, Langdon làm theo không chút do dự.
Họ xuống đến chiếu nghỉ phía trên sảnh chính, nơi có hai người lính nữa vào bước vào thang máy để đi lên. Ngoài phố, một gã lính khác đứng quan sát bên cạnh chiếc xe thùng, bộ đồng phục đen của gã ôm chặt lấy thân hình lực lưỡng. Sienna và Langdon im lặng lẻn nhanh xuống tầng ngầm.
Nhà để xe tầng ngầm tối om và nồng nặc mùi nước tiểu. Sienna chạy tới góc để xe máy. Cô dừng lại trước một chiếc Trike màu bạc - loại xe ba bánh trông chẳng khác gì hậu duệ cục mịch của chiếc Vespa Ý và chiếc xe đạp ba bánh dành cho người lớn. Cô lùa tay bên dưới tấm chắn bùn trước của chiếc Trike và gỡ lấy một hộp nam châm nhỏ. Bên trong là chiếc chìa khóa, cô tra vào ổ và rồ máy.
Mấy giây sau, Langdon đã ngồi lên xe phía sau cô. Langdon ngồi chênh vênh ở phần ghế nhỏ xíu, mò mẫm hai bên sườn, cố tìm chỗ bám hay cái gì đó để ngồi cho vững.
“Không phải lúc e thẹn đâu”, Sienna nói, tóm lấy hai cánh tay anh và đặt ôm quanh phần eo thon thả của mình. “Anh sẽ cần bám chặt đấy.”
Langdon làm đúng như vậy lúc Sienna cho chiếc Trike lao lên dốc. Chiếc xe khỏe hơn so với anh hình dung, và họ gần như rời hẳn mặt đất khi phóng vọt khỏi nhà để xe, lao vào vùng ánh sáng buổi sớm mai, cách xa lối vào chính đến năm mươi thước. Gã lính vạm vỡ ở phía trước tòa nhà ngay lập tức xoay người và nhìn thấy Langdon cùng Sienna lao vọt đi, chiếc Trike của họ phát ra tiếng nổ chói tai khi Sienna tăng hết ga.
Langdon vắt vẻo ngồi ở phía sau, ngó qua vai nhìn lại phía gã lính lúc này đã giương vũ khí lên và ngắm bắn rất cẩn thận. Langdon cố gắng hết sức. Một phát đạn vang lên, nảy khỏi chắn bùn sau chiếc Trike, vừa may trượt qua trụ xương sống của Langdon.
Lạy chúa!
Sienna ngoặt gấp sang trái ở giao lộ, và Langdon cảm thấy mình đang trượt đi nên phải cố giữ thăng bằng.
“Nghiêng về phía tôi!”, cô hết lên.
Langdon ngả về phía trước, lấy lại thăng bằng lần nữa trong lúc Sienna cho chiếc Trike lao xuống một đường phố rộng hơn. Sau khi họ chạy hết một khối nhà, Langdon mới bắt đầu dám thở lại.
Đám người đó là lũ nào không biết?
Sienna vẫn tập trung vào đoạn đường phía trước mặt trong lúc phóng nhanh dọc đại lộ, luồn lách giữa dòng giao thông buổi sáng sớm. Vài khách bộ hành tỏ vẻ ngạc nhiên khi họ chạy ngang qua, rõ ràng không hiểu được khi nhìn thấy một người đàn ông hơn một mét tám trong chiếc áo Brioni lại ngồi phía sau một phụ nữ mảnh mai.
Langdon và Sienna chạy qua ba khối nhà và đang tiếng gần đến một giao lộ chính thì có tiếng còi ré lên phía trước. Một xe thùng đen bóng nhoáng rẽ ngoặt ở góc phố, ôm cua vào giao lộ rồi tăng tốc lao thẳng và phía họ. Chiếc xe thùng trông giống hệt xe của đám lính ở tòa chung cư.
Sienna lập tức ngoặt sang phải và đạp phanh gấp. Ngực Langdon áp chặt vào lưng cô khi cô cho xe trượt vào một điểm đỗ khuất khỏi tầm nhìn phía sau một chiếc xe tải chở hàng đã đỗ sẵn. Cô lái chiếc Trike nép sát ba đờ xốc sau của xe tải và tắt máy.
Họ có nhìn thấy chúng ta không!?
Cô và Langdon cúi thấp xuống và đợi… nín thở.
Chiếc xe thùng phóng ào qua không chút do dự, rõ ràng là chưa hề nhìn thấy họ. Tuy nhiên, khi chiếc xe lao qua, Langdon thoáng nhìn thấy người bên trong.
Ở ghế sau, một phụ nữ có tuổi quyến rũ bị hai người lính kèm chặt giống như một kẻ bị bắt. Đôi mắt bà sụp xuống và đầu bà gật gù như thể đang bị hôn mê hoặc có lẽ say thuốc. Bà đeo một cái bùa và có mái tóc dài rủ xuống thành từng lọn.
Trong khoảng khắc, cổ họng Langdon như nghẹn ứ, và anh nghĩ mình vừa nhìn thấy một bóng ma.
Chính là người phụ nữ trong ảo giác của anh.
 
Chương 17


Thị Trưởng bước nhanh ra khỏi phòng điều khiển, đi dọc theo mạn phải tàu The Mendacium, cố gắng tập trung suy nghĩ. Những gì vừa xảy ra ở chung cư tại Florence thật không thể tưởng tượng nổi.
Ông ta đi vòng quanh con tàu đúng hai vòng rồi bước thẳng về văn phòng của mình và lấy một chai single malt [12] Highland Part năm mươi năm tuổi. Ông ta không rót ra ly mà đặt chai xuống và xoay lưng về phía nó - một cách riêng để nhắc rằng ông ta vẫn đang kiểm soát được mọi việc.
Theo bản năng, cặp mắt ông ta di chuyển tới một tập sách bọc da dày dặn trên giá sách - một món quà của khách hàng… vị khách mà lúc này ông ta biết rõ mình đừng bao giờ nên gặp.
Một năm trước… làm sao ta biết được chứ?
Thông thường, Thị Trưởng không trực tiếp phỏng vấn các khách hàng, nhưng vị khách này do một nguồn đáng tin cậy giới thiệu nên ông ta đành chấp nhận ngoại lệ.
Hôm đó là một ngày biển hoàn toàn tĩnh lặng. Vị khách lên boong tàu The Mendacium bằng trực thăng riêng. Đó là một nhân vật nổi tiếng trong lĩnh vực của ông ta, khoảng bốn mươi sáu tuổi, râu tóc gọn gàng, và rất cao, với đôi mắt màu lục như nhìn xoáy vào người khác.
“Ngài biết đấy”, người đàn ông lên tiếng, “một người bạn chung của chúng ta giới thiệu với tôi về các dịch vụ của ngài”. Vị khách duỗi cặp chân dài và tỏ ra hết sức tự nhiên trong văn phòng được trang bị sang trọng của Thị Trưởng. “Nên cho phép tôi được nói với ngài những gì tôi cần.”
“Thực tế thì không cần”, Thị Trưởng ngắt lời, để tỏ rõ với người kia rằng ai mới là người chủ động. “Quy tắc của tôi yêu cầu rằng ngài không nói gì với tôi cả. Tôi sẽ giải thích những dịch vụ mà tôi cung cấp, và ngài sẽ quyết định xem ngài quan tâm đến dịch vụ nào, nếu có.”
Vị khách trông có vẻ ngạc nhiên nhưng chấp thuận và chăm chú lắng nghe. Cuối cùng, những gì vị khách cao ngồng muốn hóa ra lại rất bình thường với Consortium - cơ bản chỉ là biến ông ấy thành “vô hình” một thời gian để ông ấy có thể tránh xa những cặp mắt săn tìm trong lúc theo đuổi một công việc.
Đúng là trò trẻ con!
Consortium sẽ hoàn toàn thành công việc này bằng cách cho ông ấy một nhân dạng giả và một địa điểm bảo mật, hoàn toàn không có kết nối gì, nơi ông ấy có thể làm việc trong bí mật tuyệt đối - bất kể công việc gì. Consortium chưa bao giờ thắc mắc xem khách hàng cần đến một dịch vụ vì mục đích gì, mà luôn chọn cách biết càng ít về những người họ làm việc cùng càng tốt.
Suốt một năm trời, với một khoản lợi nhuận đáng kinh ngạc, Thị Trưởng cung cấp chỗ trú ẩn an toàn cho người đàn ông có đôi mắt màu lục, nhân vật hóa ra lại là một khách hàng lý tưởng. Thị Trưởng không liên hệ gì với ông ấy, và tất cả mọi hóa đơn đều được trả đúng thời hạn.
Thế rồi, thứ hai tuần trước, mọi việc thay đổi.
Rất bất ngờ, vị khách hàng liên hệ lại, yêu cầu gặp riêng Thị Trưởng. Nghĩ đến tổng số tiền vị khách đã thanh toán, Thị Trưởng chấp nhận.
Phải khó khăn lắm mới nhận ra người đàn ông râu tóc bù xù xuất hiện trên tàu chính là nhân vật bảnh bao, điềm tĩnh Thị Trưởng đã giao kèo làm ăn cách đó một năm. Cặp mắt màu lục sắc lẻm một thời ánh lên vẻ hoang dại. Trông anh ta chẳng khác gì người… bệnh.
Chuyện gì xảy ra với ông ta vậy? Ông ta đang làm việc gì vậy không biết?
Thị Trưởng dẫn vị khách có vẻ rất bồn chồn vào văn phòng mình.
“Con quỷ tóc bạc”, vị khách lắp bắp. “Càng ngày mụ ta càng tiếp cận gần hơn.”
Thị Trưởng liếc mắt xuống tập hồ sơ của vị khách, mắt dừng lại ở bức ảnh một người phụ nữ tóc bạc trông rất quyến rũ. “Vâng”, Thị Trưởng nói, “con quỷ tóc bạc của ngài. Chúng tôi đều biết rõ kẻ thù của ngài. Và dù mụ có thể rất mạnh nhưng suốt cả năm, chúng tôi đã bảo vệ ngài trước mụ, và chúng tôi sẽ tiếp tục làm như vậy”.
Người đàn ông dùng ngón tay cuộn những lọn tóc nhờn dầu đầy vẻ bồn chồn. “Đừng để cho vẻ đẹp của mụ đánh lừa ông, mụ ta là một kẻ thù nguy hiểm.”
Đúng, Thị Trưởng nghĩ, nhưng vẫn cảm thấy không hài lòng vì vị khách của mình lại gây chú ý cho một người có sức ảnh hưởng đến vậy. Người phụ nữ tóc bạc có khả năng tiếp cận và nguồn lực to lớn, do đó bà ta không phải hạng đối thủ mà Thị Trưởng muốn đối đầu.
“Nếu mụ hay lũ quỷ của mụ tìm ra tôi…”, vị khách bắt đầu nói.
“Họ sẽ không làm được”, Thị Trưởng trấn an. “Không phải chúng tôi đã che giấu ngài và cung cấp mọi thứ ngài yêu cầu ư?”
“Phải”, người đàn ông nói. “Thế nhưng, tôi sẽ ngủ ngon hơn nếu…” Ông ta ngừng lại, cố tĩnh tâm. “Tôi cần biết rằng nếu có chuyện gì xảy với tôi, ngài sẽ thực hiện nốt những nguyện vọng cuối cùng của tôi.”
“Nguyện vọng đó là gì?”
Người đàn ông thò tay vào túi và lấy ra một phong bì nhỏ dán kín. “Nội dung bên trong phong bì này là một mã truy cập vào một két an toàn ở Florence. Bên trong két, ngài sẽ thấy một vật nhỏ. Nếu có chuyện gì xảy ra với tôi, tôi cần ngài chuyển vật đó đi. Đó là một món quà.”
“Được rồi!” Thị Trưởng cầm bút để ghi chép lại. “Và tôi sẽ chuyển nó cho ai?”
“Cho con quỷ tóc bạc.”
Thị Trưởng ngước lên. “Một món quà cho kẻ khiến ngài khổ sở ư?”
“Nhưng là cái gai cho mụ.” Mắt ông ta ánh lên vẻ man dại. “Một lưỡi câu nhỏ xíu chế tác rất khéo léo từ xương. Mụ ta sẽ phát hiện ra đó là một tấm bản đồ… Virgil của riêng mụ… một tùy tùng theo tới trung tâm địa ngục của mụ.”
Thị Trưởng săm soi vị khách một lúc lâu. “Sẽ đúng như ngài muốn. Coi như mọi việc đã hoàn thành.”
“Vấn đề thời gian sẽ rất quan trọng”, người đàn ông đề nghị. “Món quà không được chuyển đi quá sớm. Ngài phải giữ kín nó cho tới khi…” Ông ta ngừng lại, bỗng nhiên chìm trong suy tưởng.
“Tới khi nào?”, Thị Trưởng nhắc.
Người đàn ông đứng phắt dậy và bước vòng ra phía sau bàn của Thị Trưởng, vồ lấy một chiếc bút đánh dấu màu đỏ và khoanh vào một ngày trên cuốn lịch bàn cá nhân của Thị Trưởng một cách điên cuồng. “Cho tới ngày này.”
Thị Trưởng mím môi và thở hắt ra, cố nén sự khó chịu trước thái độ trơ trẽn của vị khách. “Hiểu rồi”, Thị Trưởng nói. “Tôi sẽ không làm gì cho tới ngày được đánh dấu, đến thời điểm đó thì vật ở trong két an toàn, cho dù nó là gì, sẽ được gửi cho người phụ nữ tóc bạc. Tôi hứa với ngài.” Ông ta đếm số ngày trên quyển lịch tới đúng ngày đã được khoanh lại. “Tôi sẽ thực hiện nguyện vọng của ngài đúng mười bốn ngày nữa tính từ lúc này.”
“Và không được sớm hơn dù chỉ một ngày”, vị khách nhắc nhở vẻ bồn chồn.
“Tôi hiểu”, Thị Trưởng quả quyết. “Không sớm hơn một ngày nào.”
Thị Trưởng cầm lấy phong bì, nhét vào tập tài liệu của vị khách, và viết những ghi chú cần thiết để đảm bảo rằng những nguyện vọng của khách hàng được thực hiện chính xác. Vị khách không mô tả rõ đặc điểm chính xác của vật trong két an toàn, và Thị Trưởng cũng muốn mọi việc cứ như thế này. Không để tâm nhiều là một nền tảng trong triết lý của Consortium. Cung cấp dịch vụ, Không đặt câu hỏi. Không phán xét.
Vai vị khách chùng xuống và ông ta thở hắc ra nặng nề. “Cảm ơn ngài.”
“Còn gì nữa không?”, Thị Trưởng hỏi, vẻ rất muốn tránh xa vị khách đã hoàn toàn biến đổi này.
“Còn, vẫn còn.” Ông ta thò tay vào túi và lấy ra một thẻ nhớ màu đỏ thẫm nhỏ nhắn. “Đây là một tệp video.” Ông ta đặt thẻ nhớ trước mặt Thị Trưởng. “Tôi muốn nó được đưa đến cho truyền thông thế giới.”
Thị Trưởng tò mò ngắm vị khách. Consortium thường truyền phát đi rất nhiều thông tin cho khách hàng, nhưng đề nghị của người đàn ông này có gì đó không ổn. “Cũng đúng ngày đó ư?”, Thị Trưởng hỏi, ra hiệu về phía cái vòng tròn nguệch ngoạc trên cuốn lịch của mình.
“Đúng ngày đó”, vị khách trả lời. “Không sớm hơn một khắc.”
“Hiểu!” Thị Trưởng đánh những thông tin phù hợp vào thẻ nhớ màu đỏ. “Vậy là xong phải không?” Ông ta đứng lên, muốn kết thúc cuộc gặp gỡ.
Vị khách vẫn ngồi yên. “Chưa. Còn một điều cuối cùng.”
Thị Trưởng lại ngồi xuống.
Đôi mắt màu lục của vị khách lúc này trông dữ tợn. “Ngay sau khi ngài chuyển video này đi, tôi sẽ trở thành một người rất nổi tiếng.”
Ông đã là một người nổi tiếng rồi đấy thôi, Thị Trưởng nghĩ bụng, và nhớ tới những thành quả ấn tượng của vị khách hàng.
“Và ngài cũng sẽ có công”, người đàn ông nói. “Dịch vụ ngài cung cấp giúp tôi tạo ra kiệt tác… Một tác phẩm nghệ thuật sẽ làm thay đổi thế giới. Ngài nên tự hào với vai trò của mình.”
“Cho dù kiệt tác của ngài là gì?”, Thị Trưởng nói với vẻ nôn nóng càng lúc càng tăng, “tôi cũng rất vui vì ngài đã có được sự riêng tư cần thiết để tạo ra nó”.
“Để tỏ lòng biết ơn, tôi mang tới cho ngài một món quà chia tay.” Người đàn ông nhếch nhác lại thò tay vào túi. “Một cuốn sách.”
Thị Trưởng tự hỏi phải chăng cuốn sách này chính là tác phẩm nghệ thuật bí mật vị khách đã dày công tạo ra suốt thời gian qua. “Ngài đã viết cuốn sách này ư?”
“Không.” Vị khách đặt một tập sách đồ sộ lên bàn. “Hoàn toàn ngược lại… cuốn sách này được viết ra cho tôi.”
Thị Trưởng nhìn cuốn sách mà vị khách vừa đưa ra bằng vẻ khó hiểu. Ông ta nghĩ thứ này được viết ra cho ông ta ư? Cuốn sách là một tác phẩm văn học kinh điển… được viết vào thế kỷ XIV.
“Hãy đọc nó”, vị khách nài nỉ kèm theo một nụ cười kỳ quái. “Nó sẽ giúp ngài hiểu tất cả những gì tôi đã làm.”
Nói xong, vị khách nhếch nhác đứng lên, chào tạm biệt, và rời đi ngay lập tức. Thị Trưởng nhìn qua cửa sổ văn phòng mình trong khi trực thăng của vị khách rời khỏi sàn tàu và quay trở lại bờ biển nước Ý.
Lúc đó Thị Trưởng mới hướng sự chú ý trở lại cuốn sách lớn trước mặt mình. Những ngón tay đầy do dự của ông ta mở trang bìa da và lật tới phần đầu tiên. Khổ thơ mở đầu của tác phẩm được viết tay rất to đẹp, chiếm trọn toàn bộ trang đầu tiên.
“HỎA NGỤC
Giữa chừng trong hành trình cuộc đời chúng ta
Ta thấy mình trong một khu rừng tăm tối,
vì đã mất dấu con đường phía trước.”
Trên trang đối diện, vị khách đã ký vào sách với một lời nhắn viết tay:
“Bạn thân mến của tôi, cảm ơn bạn vì đã giúp tôi tìm ra đường đi. Thế giới cũng cảm ơn bạn!”
Thị Trưởng không hiểu lời nhắn này có nghĩa gì, nhưng ông ta thấy đọc thế là đủ. Ông ta gập sách lại và đặt nó lên giá sách. Thật may, mối quan hệ công việc với nhân vật kỳ lạ này sắp chấm dứt. Thêm mười bốn ngày nữa thôi, Thị Trưởng thầm nghĩ, và hướng ánh mắt về phía cái vòng tròn đỏ rực nguệch ngoạc trên cuốn lịch cá nhân của mình.
Những ngày tiếp theo, Thị Trưởng cảm thấy rất không an tâm, với vị khách. Người đàn ông này dường như đã bị quẫn trí. Tuy nhiên, bất kể trực giác của Thị Trưởng thế nào, thời gian vẫn cứ trôi đi mà không xảy ra biến cố gì.
Thế rồi, ngay trước cái ngày được khoanh tròn, một loạt sự việc tai hại xảy ra ở Florence. Thị Trưởng đã cố gắng giải quyết sự cố, nhưng nó nhanh chóng vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Cuộc khủng hoảng lên đến đỉnh điểm bằng sự việc vị khách của ông ta leo lên tháp Badia.
Ông ta nhảy xuống… và chết.
Mặc dù mất đi một khách hàng, nhất là lại theo cách thế này, nhưng Thị Trưởng vẫn giữ đúng lời với vị khách. Ông ta nhanh chóng chuẩn bị thực hiện đúng lời hứa cuối cùng của mình với người đã khuất – chuyển cho người phụ nữ tóc bạc những gì bên trong cái két an toàn ở Florence – và vấn đề thời gian chuyển hàng, như ông ta đã lưu ý, là rất quan trọng.
Không được sớm hơn cái ngày đã khoanh tròn trên lịch của ngài.
Thị Trưởng trao phong bì có chứa mật mã két an toàn cho Vayentha, người được cử đến Florence để lấy thứ bên trong – cái “lưỡi câu nhỏ xíu chế tác rất khéo léo” này. Tuy nhiên, lúc Vayentha gọi lại, tin tức của cô ta vừa gây sốc vừa rất đáng ngại. Những gì bên trong két an toàn đã bị lấy mất, và Vayentha may mắn chạy thoát. Bằng cách nào đó, người phụ nữ tóc bạc biết được tài khoản và đã dùng ảnh hưởng của mình để tiếp cận cái két, đồng thời cũng ra lệnh bắt giữ bất kỳ ai khác xuất hiện để tìm cách mở két.
Việc đó xảy ra ba ngày trước.
Vị khách có ý định rất rõ ràng rằng muốn cái vật đã bị đánh cắp là lời nguyền của ông ta dành cho người phụ nữ tóc bạc – một tiếng nói cay độc từ dưới mồ.
Nhưng nó đã được nói quá sớm…
Từ lúc đó, Consortium bước vào cuộc tranh giành quyết liệt - sử dụng mọi nguồn lực của mình để bảo vệ những nguyện vọng cuối cùng của khách hàng, cũng như bảo vệ chính mình. Trong quá trình ấy, Consortium đã vượt qua rất nhiều ranh giới mà Thị Trưởng biết sẽ rất khó quay trở lại được nữa. Lúc này, trước tất cả những gì đang diễn ra ở Florence, Thị Trưởng đăm đăm nhìn xuống mặt bàn và tự hỏi tương lai sẽ ra sao.
Trên cuốn lịch của ông ta, cái vòng tròn nguệch ngoạc của vị khách trừng trừng nhìn lại - một vòng tròn đỏ thẫm bao quanh một ngày rất đặc biệt.
Ngày mai.
Đầy miễn cưỡng, Thị Trưởng nhìn chai Scotch trên bàn trước mặt mình. Thế rồi, lần đầu tiên trong mười bốn năm, ông ta rót ra một ly và uống cạn chỉ với một hớp duy nhất.
o O o
Ở sàn tàu phía dưới, điều phối viên Laurence Knowlton rút chiếc thẻ nhớ màu đỏ khỏi máy tính và đặt lên bàn trước mặt mình. Đoạn video là một trong những điều lạ lùng nhất anh ta từng xem.
Và nó dài đúng chín phút… nếu tình theo từng giây.
Cảm thấy sợ hãi một cách khác thường, anh ta đứng lên và sải bước trong căn phòng nhỏ xíu của mình, tự hỏi không biết có nên đưa đoạn video kỳ quái kia cho Thị Trưởng hay không.
Cứ việc thực hiện nhiệm vụ của mày, Knowlton tự nhủ. Không hỏi. Không phán xét.
Cố xua đoạn video ra khỏi đầu, anh ta đánh dấu vào sổ công việc một nhiệm vụ phải làm. Ngày mai, đúng như yêu cầu của vị khách, anh ta sẽ tung tệp video ra cho giới truyền thông.
 


Chương 18


Viale Niccolò Machiavelli được xem là đại lộ đẹp nhất ở Florence. Với những khúc cong hình chữ S rất rộng uốn lượn qua cảnh quan um tùm cây cối cùng những bờ rào và hàng cây rụng lá theo mùa, con đường này là nơi yêu thích của những người đạp xe và người mê dòng xe Ferrari.
Sienna thành thục điều khiển chiếc Trike băng qua từng khúc quanh khi họ bỏ lại phía sau khu dân cư bẩn thỉu và tiến vào vùng không khí sạch sẽ, phủ kín tuyết của bờ tây thành phố. Họ vừa chạy qua một tháp đồng hồ nhà nguyện đang điểm đúng 8 giờ sáng.
Langdon bám chặt sau xe, tâm trí anh đang xoay mòng mòng với những hình ảnh khó hiểu về hỏa ngục của Dante… và gương mặt bí ẩn của người phụ nữ xinh đẹp tóc bạc mà anh vừa nhìn thấy. Bà ấy bị hai gã lính to lớn kẹp chặt ở băng ghế sau của xe thùng.
Dù bà ấy là ai, Langdon nghĩ thầm, lúc này bọn họ cũng đã giữ bà ấy.
“Người phụ nữ trên xe”, Sienna nói át tiếng động cơ chiếc Trike. “Anh có chắc đó chính là người phụ nữ trong ảo ảnh của anh không?”
“Chắc chắn.”
“Vậy nhất định anh đã từng gặp bà ấy vào một lúc nào đó trong hai ngày qua. Vấn đề là tại sao anh cứ liên tục nhìn thấy bà ấy… và tại sao bà ấy lại liên tục nhắc anh tìm kiếm và sẽ thấy.”
Langdon đồng ý. “Tôi không biết… tôi không nhớ tí gì về cuộc gặp với bà ấy, nhưng mỗi lần nhìn thấy gương mặt bà, tôi lại có cảm giác mãnh liệt rằng tôi cần giúp bà ấy.”
Rất xin lỗi! Rất xin lỗi!
Langdon bỗng tự hỏi phải chăng lời xin lỗi kỳ lạ của anh chính là dành cho người phụ nữ tóc bạc. Hay mình đã làm hỏng việc của bà ấy? Ý nghĩ đó lại hình thành một nút thắt trong lòng anh.
Langdon có cảm giác như thể kho vũ khí của anh đã bị mất một món quan trọng. Mình không nhớ gì cả. Langdon có khả năng nhớ chính xác mọi hình ảnh từ thời còn niên thiếu, vậy nên trí nhớ là thứ tài sản trí tuệ mà anh phải dựa vào nhiều nhất. Với một con người đã quen với việc nhớ được mọi chi tiết phức tạp của những gì mình nhìn thấy xung quanh, thì bị mất trí nhớ chẳng khác gì cố cho một máy bay hạ cạnh trong đêm tối mà không hề có rada.
“Có vẻ như cơ hội duy nhất của anh để tìm ra câu trả lời là giải mã bức Vực Địa ngục”, Sienna nói. “Cho dù nó ẩn chứa bí mật gì… dường như đó cũng chính là lý do anh bị săn đuổi.”
Langdon gật đầu, suy nghĩ về từ catrovacer được viết trên nền tranh - nơi có những xác người quằn quại trong Hỏa ngục của Dante.
Đột nhiên, một ý nghĩ rất rõ bật ra trong đầu Langdon.
Mình tỉnh dậy tại Florence…
Trên thế giới này, không có thành phố nào có quan hệ gần gũi với Dante hơn Florence. Dante Alighieri sinh ra ở Florence, lớn lên ở Florence. Theo truyền thuyết, ông phải lòng nàng Beatrice ở Florence, và bị đày ải khỏi quê nhà Florence, phải đi lang thang khắp miền quê nước Ý trong nhiều năm, với nỗi nhớ nhà da diết.
Ngươi sẽ rời bỏ mọi thứ ngươi yêu quý nhất, Dante viết về sự đày ải. Đây là chính là mũi tên đầu tiên mà cây cung đầy ải bắn đi.
Khi Langdon nhớ ra những lời ấy trong Khổ XVII của Thiên đàng, anh nhìn sang bên phải, có phóng tầm mắt qua sông Arno về phía những ngọn tháp phía xa của thành cổ Florence.
Langdon hình dung ra tổng thể của thành phố xưa - một mê cung toàn du khách, những chỗ đông nghịt, và ngựa xe hối hả qua những đường phố chật hẹp xung quanh nhà thờ lớn lừng danh, các bảo tàng, nhà nguyện và khu mua sắm của Florence. Anh phỏng đoán rằng nếu anh và Sienna rời khỏi chiếc Trike, hai người có thể mất tăm trong đám đông.
“Chúng ta cần tới thành cổ”, Langdon nói, “Nếu có câu trả lời thì đó chính là nơi có thể tìm ra. Thành cổ Florence là toàn bộ thế giới của Dante.”
Sienna gật đầu đồng ý và nói qua vai, “Chỗ đó cũng an toàn hơn – có nhiều nơi để ẩn nấp. Tôi sẽ đi tới cổng chào Porta Romana, và từ đó chúng ta có thể vượt sông”.
Sông, Langdon nghĩ với một thoáng lo lắng. Hành trình đi xuống địa ngục nổi tiếng của Dante cũng bắt đầu bằng việc vượt qua một con sông.
Sienna tăng ga, và khi cảnh vật vùn vụt trôi về phía sau, trong đầu Langdon điểm lại những hình ảnh của hỏa ngục, những người chết và đang hấp hối, mười rãnh Malebolge với vị bác sĩ dịch hạch cùng một từ lạ lùng - CATROVACER. Anh suy nghĩ về những từ viết vội góc dưới bức tranh Vực địa ngục - Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc - và băn khoăn không biết câu nói dữ dội đó có phải trích từ trường ca của Dante không.
Mình không nhận ra nó.
Langdon thuộc lòng tác phẩm của Dante, và khả năng xuất sắc của anh, với tư cách một nhà sử học nghệ thuật chuyên về biểu tượng, khiến nhiều lúc người ta phải mời đến anh giải thích vô số biểu tượng có sẵn trên thế giới của Dante. Thật trùng hợp, hoặc có lẽ gần như trùng hợp, anh từng có bài giảng về Hỏa ngục của Dante khoảng hai năm trước.
Dante thần thánh: Những biểu tượng của Địa ngục.
Dante Alighieri đã trở thành một trong những biểu tượng sùng bái đích thực của lịch sử, khuấy động việc thành lập các hội Dante trên khắp thế giới. Chi nhánh lâu đời nhất ở Mỹ được Henry Wadsworth Longfellow thành lập năm 1881 tại Cambridge, bang Massachusetts. Nhóm thi sĩ Fireside Poet nổi tiếng ở New England là nhóm đầu tiên ở Mỹ dịch Thần khúc, và bản dịch này vẫn nằm trong số những bản dịch được đánh giá cao và đọc nhiều nhất cho tới nay.
Là một sinh viên nổi tiếng về tác phẩm của Dante, Langdon từng được đề nghị diễn thuyết tại một sự kiện lớn do một trong những hội Dante lâu đời nhất thế giới chủ trì - Società Dante Alighieri Vienna. Sự kiện này được tổ chức tại Viện Hàn lâm Khoa học Vienna. Nhà tài trợ chính của sự kiện - một nhà khoa học giàu có và cùng là thành viên của hội Dante - đã tìm cách mượn hẳn giảng đường với hai nghìn chỗ ngồi của Viện.
Khi Langdon đến sự kiện đó, anh được chủ tọa hội thảo đón và dẫn vào trong. Lúc họ đi qua đại sảnh, Langdon không thể không chú ý đến năm từ được viết bằng kiểu chữ khổng lồ choán hết bức tường phía sau: NẾU CHÚA SAI THÌ SAO?
“Là một tác phẩm của Lukas Troberg”, vị chủ tọa nói nhỏ. “Dự án nghệ thuật mới nhất của chúng tôi. Anh nghĩ sao?”
Langdon nhìn dòng chữ đồ sộ, không biết phải phản ứng ra sao. “Ừm… nét bút của ông ấy rất phóng khoáng, nhưng khả năng kiểm soát chủ thể giả định của ông ấy dường như hơi yếu.”
Vị chủ tọa nhìn anh không hiểu. Langdon hy vọng cuộc tiếp xúc của anh với cử tọa sẽ khá hơn.
Cuối cùng, khi bước lên sân khấu, Langdon nhận được một tràng pháo tay nhiệt thành từ đám đông đứng kín trong phòng.
“Thưa quý ông, quý bà!”, Langdon bắt đầu nói, giọng anh vang lên trong loa. “Willkommen, bienvenue, welcome.”
Câu chào nổi tiếng từ Cabaret [13] khiến đám đông cười ồ tán thưởng.
“Tôi vừa được thông báo rằng cử tọa của chúng toa tối nay không chỉ có các hội viên Hội Dante, mà còn có nhiều nhà khoa học và sinh viên dự khán, những người có lẽ cũng đang khám phá Dante lần đầu tiên. Vì vậy, với những cử tọa quá bận học hành nên không đọc được các thiên trường ca Ý thời trung cổ, tôi nghĩ mình nên bắt đầu bằng phần giới thiệu tổng quan về Dante – cuộc đời, tác phẩm, và lý do tại sao ông được coi là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lịch sử.”
Tiếng vỗ tay lại vang lên.
Langdon trình diễn một loạt hình ảnh của Dante bằng một thiết bị điều khiển từ xa nhỏ xíu trong tay, đầu tiên là bức chân dung to bằng người thật của Andrea del Castagno vẽ thi sĩ đứng trong khung cửa, tay cầm một cuốn sách triết học.
“Dante Alighieri”, Langdon bắt đầu trình bày. “Nhà văn kiêm triết gia Florence này sống từ năm 1265 đến 1321. Trong bức chân dung này, giống như trong tất cả các bức vẽ khác, ông đội trên đầu một chiếc cappuccio màu đỏ - loại khăn trùm vừa khít đầu có vạt che tai - cùng áo choàng Lucca màu đỏ thẫm của ông, trở thành hình ảnh Dante được tái tạo nhiều nhất.”
Langdon chuyển tới chân dung Dante của Botticelli lấy từ Phòng trưng bày Uffizi, nhấn mạnh đến những đặc điểm đáng chú ý nhất của Dante là cằm bạnh và mũi khoằm. “Đây, gương mặt độc nhất vô nhị của Dante một lần nữa được khuôn bên trong chiếc cappuccio màu đỏ của ông, nhưng trong ví dụ này, Botticelli đã thêm một vòng nguyệt quế lên khăn của ông như một biểu tượng về năng lực về chuyên môn - trong trường hợp này là nghệ thuật thi ca - một biểu tượng truyền thống vay mượn từ Hy Lạp cổ đại và vẫn được sử dụng ngày nay trong các nghi thức tôn vinh những thi sĩ đoạt giải và cả những người giành giải Nobel.”
Langdon chuyển nhanh qua vài hình ảnh nữa, tất cả đều thể hiện Dante đội mũ trùm đỏ, áo thụng đỏ, đội vòng nguyệt quế, và có cái mũ rất nổi bật. “Và để tổng hợp cái nhìn của quý vị về Dante, thì đây là một bức tượng ở quảng trường Santa Croce… và, dĩ nhiên, cả bức bích họa nổi tiếng của Giotto ở Nhà nguyện Bargello.”
Langdon để nguyên hình ảnh bức bích họa của Giotto trên màn hình và tiến ra giữa sân khấu.
“Như các vị đương nhiên đã biết, Dante nổi tiếng nhất với kiệt tác văn học Thần khúc - một câu chuyện cực kỳ sinh động về chuyến du hành của tác giả vào địa ngục, vượt qua luyện ngục, và cuối cùng bước lên thiên đường để trò chuyện với Chúa. Theo những chuẩn mực hiện đại, Thần khúc chẳng có gì hài hước cả. Nó được coi là hài kịch vì một lý do hoàn toàn khác. Ở thế kỷ XIV, nền văn học Ý, theo yêu cầu, được chia thành hai loại: Bi kịch, đại diện cho văn học cấp cao, được viết bằng tiếng Ý chính thống, hài kịch, đại diện cho văn học cấp thấp, được viết bằng phương ngữ và dành cho đại chúng.”
Langdon chuyển các cảnh sang bức bích họa của Michelino, minh họa Dante đang đứng bên ngoài tường thành Florence, trên tay cầm một bản Thần khúc. Ở phía sau, ngọn núi bậc thang của luyện ngục vươn cao, vượt lên những cánh cổng địa ngục. Hiện nay bức vẽ được treo tại nhà thờ lớn Santa Maria del Fiore - được biết đến nhiều hơn ở Florence với tên gọi Il Duomo.
“Như quý vị có thể đoán ra từ nhan đề”, Langdon tiếp tục. “Thần khúc được viết bằng phương ngữ, thứ ngôn ngữ của giới bình dân. Nó hòa trộn tôn giáo, lịch sử, chính trị, triết học, và cả bình luận xã hội vào một tấm thảm hư cấu mà, dù rất uyên bác, quần chúng nhân dân vẫn dễ dàng lĩnh hội được nó. Tác phẩm trở thành một trụ cột quan trọng của văn hóa Ý đến mức phong cách hành văn của Dante được công nhận như là quy chuẩn cho ngôn ngữ Ý hiện đại.”
Langdon dừng lại một lúc để tạo hiệu ứng rồi nói nhỏ. “Thưa các bạn, không thể nào đánh giá hết được tầm ảnh hưởng từ tác phẩm của Dante Alighieri. Xuyên suốt lịch sử, có lẽ chỉ với ngoại lệ duy nhất là Kinh Thánh, không một tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc hoặc văn học nào truyền cảm hứng cho nhiều tác phẩm ca tụng, mô phỏng, biến thể, và chú giải hơn Thần khúc.”
Sau khi liệt kê một loạt tên tuổi nhà soạn nhạc, họa sĩ và tác giả trứ danh đã sáng tạo những tác phẩm dựa trên thiên trường ca của Dante, Langdon lướt nhìn đám đông. “Xin hãy cho tôi biết, có tác giả nào ở đây tối nay không?”
Gần như một phần ba số cánh tay giơ lên. Langdon nhìn thấy sững sờ. Ôi chao, hoặc đây là nhóm cử tọa tài năng nhất trên trái đất hoặc bài trình bày điện tử hôm nay đã thật sự phát huy tác dụng.
“Chà, như tất cả các quý vị tác giả đã biết, một nhà văn không đánh giá điều gì cao hơn lời khen ngợi sách - những lời bình luận dù chỉ một dòng của một nhân vật có ảnh hưởng cũng giúp người khác muốn mua tác phẩm của quý vị. Và, ở thời trung cổ, cũng đã có những lời khen ngợi sách. Dante đã giành được không ít lời như vậy.”
Langdon đổi hình ảnh. “Quý vị thấy thế nào nếu có được dòng này trên áo bìa sách của mình?”
“Trên trái đất này chưa từng có nhân vật nào vĩ đại hơn ông ấy.” - Michelangelo.
“Vâng”, Langdon nói, “chính là ngài Michelangelo mà tất cả các vị đều biết qua Nhà nguyện Sistine và bức tượng David. Không chỉ là họa sĩ và nhà điêu khắc bậc thầy, Michelangelo còn là một thi sĩ kiệt xuất, xuất bản gần ba trăm bài thơ, trong đó gồm một bài có nhan đề Dante, dành tặng cho người có cái nhìn khắc nghiệt về địa ngục, nguồn cảm hứng cho tác phẩm Phán quyết cuối cùng của mình. Và nếu quý vị không tin tôi, xin hãy đọc Khổ III trong Hỏa ngục của Dante và sau đó tới thăm Nhà nguyện Sistine, quý vị sẽ thấy hình ảnh rất quen thuộc này ngay phía trên bàn thờ”.
Langdon chuyển tới hình ảnh chi tiết kinh khủng về một con thú vạm vỡ đang vung mái chèo khổng lồ về phía đám người co rúm lại với nhau. “Đây là gã chèo đò địa ngục của Dante, Charon, đang dùng mái chèo đánh đập những hành khách không theo hàng lối.”
Lúc này Langdon chuyển sang một cảnh mới - chi tiết thứ hai về bức Phán quyết cuối cùng của Michelangelo - một người đang bị đóng đinh lên thánh giá. “Đây là nhân vật Haman Xấu xa [14], người mà theo Kinh Thánh, bị treo cổ tới chết. Tuy nhiên, trong trường ca của Dante, ông ta bị đóng đinh lên thánh giá. Như quý vị có thể thấy ở đây, trong Nhà nguyện Sistine, Michelangelo chọn câu chuyện của Dante thay cho câu chuyện trong Kinh Thánh”, Langdon cười và hạ giọng thì thào. “Xin đừng nói với Đức Thánh Cha!”
Đám đông cười ồ.
“Hỏa ngục của Dante tạo ra một thế giới đau đớn và thống khổ vượt xa mọi tưởng tượng trước đó của con người, và đúng là tác phẩm của ông định nghĩa cho những cái nhìn hiện đại của chúng ta về địa ngục.” Langdon ngừng lại. “Và xin hãy tin tôi, Nhà thờ Công giáo phải cảm ơn Dante rất nhiều vì điều đó. Hỏa ngục của ông hăm dọa những tín đồ sùng đạo suốt nhiều thế kỷ, và rõ ràng làm cho số người sợ hãi chăm đi lễ nhà thờ tăng lên gấp ba.”
Langdon chuyển hình ảnh. “Và điều này dẫn tới lý do tại sao tất cả chúng ta ở đây tối nay.”
Màn hình lúc này hiển thị nhan đề bài giảng của anh: DANTE THẦN THÁNH: NHỮNG BIỂU TƯỢNG CỦA ĐỊA NGỤC.
“Hỏa ngục của Dante là một nơi rất phong phú về biểu tượng và hình tượng, đến mức tôi thường dành cả một khóa học kéo dài hết học kỳ cho đề tài này. Và tối nay, tôi nghĩ không có cách nào để tiết lộ những biểu tượng trong Hỏa ngục của Dante tốt hơn là sánh bước cùng ông ấy… qua những cánh cổng địa ngục.”
Langdon bước tới mép sân khấu và quan sát đám đông. “Bây giờ, nếu chúng ta có kế hoạch làm một cuộc du ngoạn qua địa ngục, tôi đề xuất chúng ta nên sử dụng bản đồ. Và không có tấm bản đồ nào vẽ địa ngục của Dante hoàn chỉnh hơn tấm do Sandro Botticelli vẽ.”
Anh bấm điều khiển, và bức Vực Địa ngục kinh khủng của Botticelli hiện ra trước mắt đám đông. Anh nghe rõ tiếng vài người xuýt xoa khi mọi người nhìn thấy những cảnh hãi hùng đang diễn ra trong cái hang ngầm hình phễu.
“Không như một số họa sĩ, Botticelli cực kỳ trung thành trong cách hiểu văn bản Dante. Thực tế, ông ấy bỏ rất nhiều thời gian đọc Dante, đến mức nhà sử học nghệ thuật vĩ đại Giorgio Vasari đã phải nói rằng sự ám ảnh của Botticelli đối với Dante đã dẫn tới ‘những xáo trộn nghiêm trọng trong đời sống của ông’. Botticelli sáng tạo hơn hai chục tác phẩm nữa liên quan đến Dante, nhưng bản đồ này là tác phẩm nổi tiếng nhất.”
Rồi Langdon xoay người, chỉ vào góc trên bên trái của bức vẽ. “Hành trình của chúng ta sẽ bắt đầu từ chỗ này, bên trên mặt đất, nơi quý vị có thể nhìn thấy Dante trong sắc phục đỏ, cùng với người dẫn đường của mình, Virgil, đứng bên ngoài những cánh cổng địa ngục. Từ đây, chúng ta sẽ đi xuống dưới, qua chín tầng hỏa ngục của Dante, và cuối cùng đối diện với…”
Langdon nhanh chóng chuyển sang cảnh mới - hình phóng to quỷ Satan đúng như mô tả của Botticelli trong bức tranh này - một Quỷ vương ba đầu kinh khủng đang ăn thịt ba người, mỗi miệng một người.
Nghe rõ đám đông ồ lên.
“Chỉ là lướt qua những điểm thú vị sắp tới”, Langdon tuyên bố. “Nhân vật đáng sợ này chính là nơi hành trình tối nay kết thúc. Đây là tầng địa ngục thứ Chín, nơi quỷ Satan cư trú. Tuy nhiên…”, Langdon dừng lại. “Đến được đó cũng khá thú vị, cho nên chúng ta quay trở lại một chút… trở lại những cánh cổng địa ngục, nơi hành trình của chúng ta bắt đầu.”
Langdon chuyển thêm một cảnh nữa - một tờ in thạch bản của Gustave Doré mô tả lối vào dạng hầm tối được khoét trên bề mặt vách đá ảm đạm. Dòng chữ khắc phía trên lối vào đề: VỨT BỎ MỌI HY VỌNG, NHỮNG KẺ BƯỚC VÀO ĐÂY.
“Vì vậy…”, Langdon mỉm cười nói. “Chúng ta đi vào chứ?”
o O o
Tiếng bánh xe rít lên đâu đó rất to, và cử tọa trước mắt Langdon tan biến. Anh cảm thấy mình chúi về phía trước, và đập mạnh vào lưng Sienna khi chiếc Trike phanh kít lại giữa Đại lộ Viale Machiavelli.
Langdon loạng choạng, đầu vẫn đang nghĩ tới những cánh cổng địa ngục đầy đe dọa trước mắt mình. Khi lấy lại tư thế, anh nhận ra ngay mình đang ở đâu.
“Có chuyện gì vậy?”, anh hỏi.
Sienna chỉ về phía Cổng chào Porta Romana - cánh cổng bằng đá cổ kính được xem như lối vào thành cổ Florence - ở phía trước khoảng ba trăm thước. “Robert, có chuyện rồi!”
 


Chương 19


Đặc vụ Brüder đứng trong căn hộ tồi tàn và cố gắng hiểu những gì anh ta đang nhìn thấy. Ai lại sống trong chỗ của nợ này chứ? Nơi đây được bài trí sơ sài và xập xệ, giống như một phòng ký túc đại học được đặt vào nhà khoa vậy.
“Đặc vụ Brüder”, một người của anh ta gọi vọng lại từ trong sảnh. “Ngài cần xem thứ này.”
Trong lúc bước tới sảnh, Brüder thắc mắc liệu cảnh sát địa phương đã bắt được Langdon chưa. Brüder muốn giải quyết cuộc khủng hoảng này “tại chỗ”, nhưng việc để Langdon chạy thoát khiến anh ta không còn sự lựa chọn nào ngoài đề nghị cảnh sát địa phương hỗ trợ và đặt trạm kiểm soát trên đường. Một chiếc xe máy nhanh nhẩu trên đường phố của như mê cung của Florence sẽ dễ dàng tránh khỏi đội xe thùng của Brüder, với những ô cửa kính bằng polycarbonate nặng nề và lốp xe đặc chống thủng giúp họ không dễ bị xâm hại nhưng lại di chuyển vô cùng ì ạch. Cảnh sát Ý có tiếng là không chịu hợp tác với người ngoài, nhưng tổ chức của Brüder có ảnh hưởng rất lớn - cảnh sát, các lãnh sự quán, đại sứ quán. Khi bọn ta có yêu cầu, không ai dám thắc mắc.
Brüder bước vào phòng làm việc nhỏ nơi người của anh ta đứng trước một máy tính đã mở và gõ lên lớp lót cao su. “Đây chính là máy anh ta đã sử dụng”, người kia nói. “Langdon dùng nó để truy cập vào email của mình và thực hiện một số lệnh tìm kiếm. Các tệp tin vẫn còn lưu dấu vết.”
Brüder tiến lại phía bàn.
“Có vẻ đây không phải là máy tính của Langdon”, kỹ thuật viên nói. “Nó được đăng ký cho ai đó có tên viết tắt là S.C, tôi sẽ có tên đầy đủ ngay thôi.”
Trong lúc Brüder chờ đợi, đôi mắt anh ta bị thu hút vào một tờ báo trên bàn. Anh ta nhấc lên, giở nhanh qua tập báo - một quyển chương trình biểu diễn cũ của Nhà hát London Glode và một loạt bài báo. Brüder càng đọc mắt càng mở to.
Brüder cầm theo tập tài liệu quay trở lại sảnh và yêu cầu gọi cho sếp của mình. “Tôi Brüder đây”, anh ta nói “Tôi nghĩ mình đã có nhận dạng của người đang giúp đỡ Langdon.”
“Là ai?”, giọng sếp hỏi lại.
Brüder từ từ thở hắt ra. “Ngài sẽ không tin nổi đâu!”
o O o
Cách đó hai dặm, Vayentha rạp người trên chiếc BMW phóng như bay. Những xe cảnh sát phóng ào qua ả theo hướng ngược lại, hú còi inh ỏi.
Ta đã bị từ chối, ả nghĩ thầm.
Bình thường, độ rung nhè nhẹ từ động cơ bốn thì của chiếc xe phân phối lớn giúp thần kinh ả bình tĩnh lại. Nhưng hôm nay thì không.
Vayentha đã làm việc cho Consortium mười hai năm, leo từ địa vị nhân viên hỗ trợ mặt đất lên điều phối viên chiến lược, rồi lên đến đặc vụ ngoại tuyến cấp cao. Sự nghiệp là tất cả những gì ta có. Các đặc vụ ngoại tuyến phải chấp nhận một cuộc sống bí mật, đi lại nhiều, những nhiệm vụ kéo dài, tất cả đều nhằm tránh bất kỳ mối quan hệ hay cuộc sống bên ngoài nào.
Ta đã nhận nhiệm vụ này suốt một năm, ả nghĩ thầm, vẫn không sao tin được Thị Trưởng lại bấm nút và từ chối ả một cách đột ngột như vậy.
Suốt mười hai tháng, Vayentha giám sát các giao dịch hỗ trợ cho một khách hàng của Consortium - một thiên tài lập dị có đôi mắt màu xanh lục chỉ muốn “biến mất” một thời gian để có thể làm việc mà không bị đối thủ và kẻ thù quấy rầy. Ông ta rất hiếm khi đi lại, và luôn vô hình, nhưng chủ yếu ông ta làm việc. Vayentha không được biết bản chất công việc của người này vì hợp đồng của ả chỉ đơn giản là giữ bí mật cho khách hàng trước những nhân vật thế lực đang cố tìm ra ông ta.
Vayentha đã thực hiện nhiệm vụ với mức độ chuyên nghiệp tuyệt vời, và mọi thứ đều diễn ra hoàn hảo.
Hoàn hảo, tức là… cho đến tối qua.
Trạng thái cảm xúc cùng sự nghiệp của Vayentha lao dốc kể tử lúc đó.
Giờ ta là kẻ ngoài cuộc.
Nguyên tắc từ chối, nếu được vận hành, đòi hỏi đặc vụ ngay lập tức rời bỏ nhiệm vụ hiện tại của mình và rút khỏi “đấu trường” tức thì. Nếu đặc vụ bị bắt, Consortium sẽ từ chối mọi liên can với đặc vụ. Các đặc vụ đều biết rõ là đừng cố ăn may với tổ chức, vì họ đều tận mắt chứng kiến khả năng của tổ chức trong việc thay đổi thực tế thành bất kỳ điều gì phù hợp với nhu cầu của nó.
Vayentha chỉ mới biết có hai đặc vụ bị từ chối. Rất lạ là ả chưa từng thấy họ xuất hiện trở lại nữa. Ả luôn cho rằng họ đã bị triệu tập để giải trình chính thức và sa thải, với yêu cầu không bao giờ được liên lạc lại với các nhân viên của Consortium.
Nhưng lúc này Vayentha không chắc như vậy.
Ta đang quan trọng hóa vấn đề thôi, ả cố tự nhủ mình. Cho đến giờ các giải pháp của Consortium đều tao nhã hơn một sát thủ máu lạnh rất nhiều.
Cho dù như vậy, ả vẫn cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy khắp cơ thể.
Bản năng thúc giục ả thoát khỏi mái khách sạn mà không để ai phát hiện ngay khi ả nhìn thấy nhóm của Brüder đến, và ả thắc mắc không biết có phải chính bản năng đó đã cứu mạng ả không.
Giờ thì không ai biết ta đang ở đâu.
Lúc Vayentha phóng lên phía bắc trên Đại lộ Viale del Poggio Imperiale, ả nhận ra đâu là sự khác biệt trong vài tiếng đồng hồ qua. Đêm qua, ả lo lắng giữ công việc của mình. Còn bây giờ, ả lo lắng bảo vệ tính mạng.
 


Chương 20


Florence từng là một thành phố có tường bao, lối vào chính là cổng chào bằng đá Porta Romana, được xây dựng năm 1326. Trong khi hầu hết tường bao của thành phố đã bị hủy nhiều thế kỷ trước, cổng Porta Romana vẫn còn nguyên, và ngày nay, giao thông đi vào thành phố đều thông qua các lối thông hình vòm sâu hoắm xuyên qua phần tường phòng vệ đồ sộ.
Bản thân cổng thành cũng là một rào chắn cao mười lăm mét bằng gạch và đá cổ xưa, với lối đi chính vẫn còn nguyên hai cánh cổng gỗ có đóng đinh đồ sộ luôn mở cho xe cộ đi qua. Sáu trục đường chính hội tụ ở ngay trước những cánh cửa này, nối thành một vòng xuyến với ô cỏ trung tâm có đặt bức tượng lớn của nghệ sĩ Pistoletto, mô tả một phụ nữ đang rời khỏi cổng thành, đầu đội một bó cỏ rất lớn.
Mặc dù hiện nay, địa điểm này giống như một cơn ác mộng, giao thông ồn ào hơn nhưng tòa cổng thành mộc mạc của Florence lại từng là địa điểm của Fiera dei Contratti - Khu đấu xảo khế ước - nơi những người cha bán con gái mình cho những cuộc hôn nhân theo giao ước, thường là buộc họ nhảy múa gợi dục để giành được những món hồi môn cao hơn.
Sáng nay, còn cách cổng thành vài trăm bước, Sienna bất ngờ phanh lại và hốt hoảng chỉ tay. Langdon ngồi ở ghế sau chiếc Trike nhìn về phía trước và lập tức hiểu ra nỗi lo sợ của cô. Trước mặt họ, một hàng dài xe cộ chạy rà rà rồi dừng lại. Xe cộ ở vòng xuyến bị ách lại vì một rào chắn của cảnh sát và lúc này có thêm vài xe cảnh sát khác chạy tới. Những sĩ quan có vũ trang đi từ xe này tới xe khác, hỏi han.
Không thể là vì chúng ta được, Langdon nghĩ bụng. Không lẽ nào?
Một người đi xe đạp mồ hôi nhễ nhại đạp xe về phía họ, rời xa đám xe cộ, ngược lên phía Đại lộ Viale Machiavelli. Anh ta điều khiển loại xe đạp nằm ngả người, đôi chân trần của anh ta duỗi dài phía trước.
Sienna gọi to về phía anh ta bằng tiếng Ý. “Có chuyện gì thế?”
“Tôi không biết!”, anh ta hét to đáp lại, trông đầy vẻ lo lắng. “Cảnh sát!” Anh ta hối hả đạp qua, vẻ rất muốn thoát khỏi khu vực này.
Sienna ngoảnh lại phía Langdon, vẻ mặt đang lại. “Chặn đường. Quân cảnh.”
Có tiếng còi rít lên phía sau họ một quãng, Sienna thừ ra trên yên xe, đăm đăm nhìn ngược trở lại phía Đại lộ Viale Maachiavelli, cố giấu vẻ sợ hãi.
Chúng ta bị kẹt ở giữa rồi, Langdon thầm nghĩ, phóng mắt nhìn khắp khu vực xem có lối thoát nào không - một giao lộ, công viên, lối chạy xe - nhưng tất cả những gì anh thấy là những tư gia ở mé bên trái và một bức tường đá cao ngất bên phải.
Tiếng còi hú nghe to hơn.
“Lên kia”, Langdon hối thúc, chỉ tay về phía một công trường xây dựng vắng vẻ cách đó gần ba mươi thước, nơi cái máy trộn bê tông di động ít nhiều cũng có thành một chỗ ẩn náu.
Sienna cho xe lao lên vỉa hè và phóng nhanh về phía công trường. Họ đỗ phía sau máy trộn, nhưng nhận ra rằng nó chỉ đủ che kín chiếc Trike mà thôi.
“Theo tôi,” Sienna nói, chạy nhanh về phía một kho nhỏ chứa dụng cụ nép trong bụi cây sát bức tường đá.
Đó đâu phải là kho chứa dụng cụ, Langdon nhận ra ngay, mũi nhăn lại khi họ đến gần hơn. Đó là buồng vệ sinh di động mà.
Khi Langdon và Sienna tới bên ngoài buồng vệ sinh hóa chất của công nhân xây dựng, họ nghe rõ tiếng xe cảnh sát tiến lại gần phía sau. Sienna giật mạnh tay nắm cửa, nhưng nó không nhúc nhích. Một sợi xích nặng trịch cùng chiếc chìa khóa khóa chặt cánh cửa. Langdon nắm lấy cánh tay Sienna và kéo cô vòng ra phía sau buồng vệ sinh, đẩy cô vào khoảng trống rất hẹp giữa buồng vệ sinh và bức tường đá. Hai người vừa may lọt được vào đó, nhưng không khí thì rất hôi thối và khó chịu.
Langdon len vào ngay sau cô vừa lúc một chiếc Subaru Forester đen sì với dòng chữ CẢNH SÁT lồ lộ bên sườn xuất hiện. Chiếc xe từ từ lăn bánh qua chỗ họ.
Quân cảnh Ý, Langdon nghĩ, lòng đầy hoài nghi. Anh thắc mắc không biết những sĩ quan này có được lệnh nổ súng ngay khi nhìn thấy đối tượng không.
“Ai đó đang ráo riết tìm chúng ta”, Sienna thì thào. “Và bằng cách nào đó họ đã làm được”
“Nhờ GRS chăng?”, Langdon nói to. “Có lẽ là cái máy chiếu có thiết bị dò tìm bên trong?”
Sienna lắc đầu. “Tin tôi đi, nếu thứ đó có thể lần tìm được thì cảnh sát đã ở ngay trên đầu chúng ta rồi.”
Langdon thay đổi vóc người cao lớn của mình, cố gắng cho thoải mái hơn trong không gian chật hẹp xung quanh. Anh thấy mình mặt đối mặt với một bức graffiti theo phong cách nhã nhặn được vẽ vội phía sau buồng vệ sinh.
Cứ để nó cho người Ý.
Hầu hết các buồng vệ sinh di động ở Mỹ kín đặc những hình vẽ ngông nghênh, nhang nhác giống những cặp vú hoặc d.ương v.ật to tướng. Còn hình graffiti trên buồng vệ sinh này trong giống tập vở nháp của một sinh viên nghệ thuật hơn – một con mắt người, một bàn tay được khắc họa khá rõ nét, một người nhìn nghiêng, và một con rồng rất bay bướm.
“Tình trạng phá hoại tài sản tại Ý không phải ở đâu cũng giống thế này”, Sienna nói, rõ ràng là đã đọc được ý nghĩ của anh. “Viện Nghệ thuật Florence ở ngay phía bên kia bức tường đá này.”
Như để khẳng định cho lời nói của Sienna, một nhóm sinh viên xuất hiện cách đó một quãng, thong thả tiến về phía họ cùng với đồ nghề nghệ thuật trên tay. Họ đang nói chuyện phiếm, châm thuốc hút, và tỏ vẻ ngạc nhiên về thứ đang chặn đường mình tại Porta Romana.
Langdon và Sienna khom xuống thấp hơn để tránh khỏi tầm nhìn của nhóm sinh viên, và trong lúc làm như vậy, bất ngờ một ý nghĩ ký lạ nảy ra với Langdon.
Những kẻ tội đồ bị chôn nửa người với đôi chân thò lên không trung.
Có lẽ nó nảy ra từ cái mùi chất thải của con người, hoặc có lẽ từ anh chàng đạp xe với đôi chân trần khua khoắng trước mặt, nhưng cho dù lý do là gì thì Langdon cũng nhớ đến cái thể giới kinh khủng ở Malebolge và những đôi chân trần chổng ngược thò lên khỏi mặt đất.
Anh đột ngột ngoảnh lại người bạn đồng hành. “Sienna, trong bản Vực Địa ngục của chúng ta, những đôi chân chổng ngược ở rãnh thứ mười phải không nhỉ? Tầng thấp nhất của Malebolge ấy?”
Sienna nhìn anh ngơ ngác, như thể thời điểm này không phải lúc. “Đúng, ở dưới cùng.”
Trong chớp mắt, Langdon quay trở lại Vienna lúc đang có bài giảng. Anh đang đứng trên sân khấu, chỉ còn một lúc nữa là đến phần kết thúc, và vừa cho cử tọa xem bức chạm của Doré mô tả Geryon - con quái vật có cánh với cái đuôi chích chất độc ngay phía trên Malebolge.
“Trước khi chúng ta gặp Satan”, Langdon tuyên bố, giọng nói trầm ấm của anh vang rền trên loa, “chúng ta phải đi qua mười rãnh Malebolge, nơi trừng phạt những kẻ gian dối - những kẻ cố ý phạm tội”.
Langdon thay đổi ảnh chiếu để cho cử tọa xem một chi tiết về Malebolge và sau đó lần lượt dẫn dắt họ đi xuống qua từng rãnh. “Từ trên xuống dưới chúng ta có: Những kẻ lừa gạt bị quỷ sứ đánh đập… những kẻ nịnh bợ ngoi ngóp trong phân người… bọn trục lợi trong giới tăng lữ bị chôn ngược nửa người, chân thò lên không… đám phù thù thủy bị vặn ngược đầu ra sau… các chính trị gia tham nhũng trong bể hắc ín sôi sùng sục… bọn đạo đức giả phải mặc áo choàng bằng chì nặng nề… những tên trộm cắp bị rắn cắn… các vị chưởng lý dối trá bị lửa thiêu… những kẻ gieo rắc xích mích bị quỷ sứ phanh thây… và cuối cùng là những kẻ dối trá, bị các chứng bệnh ngoài sức tưởng tượng.” Langdon quay lại phía cử tọa. “Chắc chắn Dante dành rãnh cuối cùng này cho những kẻ dối trá vì đã có rất nhiều điều dối trá được nói ra liên quan đến ông, khiến ông bị trục xuất khỏi quê hương Florence yêu dấu của mình.”
“Anh Robert?”, giọng Sienna vang lên.
Langdon giật mình trở về với hiện tại.
Sienna đang đăm đăm nhìn anh có chút ngạc nhiên. “Chuyện gì thế?”
“Bản Vực Địa ngục của chúng ta”, anh nói đầy phấn khích. “Tác phẩm đã bị thay đổi!” Anh moi máy chiếu từ túi áo khoác và lắc thật mạnh hết mức trong không gian chật hẹp. Viên bi trộn kêu xè xè rất to, nhưng những tiếng còi hú đã át tất cả. “Người nào tạo ra hình ảnh này đã sắp xếp lại trật tự các tầng ở Malebolge!”
Khi máy chiếu bắt đầu sáng lên, Langdon chĩa nó về bề mặt bằng phẳng trước mặt họ. Vực địa ngục xuất hiện, sáng rõ trong quầng sáng lờ mờ.
Botticelli hiện trên một cái buồng vệ sinh hóa chất, Langdon thầm nghĩ, cảm thấy xấu hổ. Đây chắc chắn là nơi kinh tởm nhất mà một tác phẩm của Botticelli từng được trình diễn. Langdon đưa mắt xuống dưới, qua hết mười rãnh và bắt đầu gật gù đầy phấn khích.
“Đúng rồi!”, anh kêu lên, “Bản này sai! Rãnh cuối cùng ở Malebolge lẽ ra phải toàn những người bệnh tật, chứ không phải những người bị chôn ngược đầu. Tầng thứ mười dành cho những kẻ dối trá, không phải cho bọn trục lợi trong giới tăng lữ!”
Trông Sienna đầy tò mò. “Nhưng… tại sao ai đó lại thay đổi chi tiết ấy chứ?”
“Catrovacer”, Langdon thì thào, mắt nhìn những chữ cái nhỏ xíu đã được thêm vào mỗi tầng. “Tôi không nghĩ đó là những gì từ này thật sự muốn ám chỉ.”
Bất chấp vết thương đã xóa sạch trí nhớ của Langdon về hai ngày qua, giờ đây anh vẫn cảm thấy đầu óc mình làm việc rất tốt. Anh nhắm mắt lại và hình dung ra cả hai bản Vực Địa ngục trong đầu để phân tích những điểm khác biệt. Các thay đổi ở Malebolge không nhiều như Langdon tưởng… và anh cảm thấy như có một tấm rèm bất ngờ được vén lên.
Đột nhiên, mọi thứ sáng rõ như pha lê.
Hãy tìm kiếm và anh sẽ tìm thấy.
“Thế nào?”, Sienna háo hức.
Miệng Langdon khô khốc. “Tôi biết tại sao mình lại ở Florence rồi.”
“Thật chứ?”
“Phải, và tôi biết lẽ ra tôi phải đến chỗ nào.”
Sienna nắm lấy cánh tay anh. “Chỗ nào?!”
Langdon cảm thấy như thể bàn chân anh vừa chạm xuống một nền đất rắn chắc lần đầu tiên kể từ lúc anh tỉnh lại trong bệnh viện. “Mười chữ cái này”, anh thì thào. “Thực tế chúng chỉ tới một vị trí chính xác trong thành cổ này. Đây là nơi tìm ra câu trả lời.”
“Chỗ nào trong thành cổ?”, Sienna giục. “Anh đã nghĩ ra được gì rồi?”
Có những tiếng cười vang lên từ mé bên kia buồng vệ sinh. Một nhóm sinh viên nghệ thuật nữa đang đi ngang qua, cười đùa và huyên thuyên bằng đủ thứ ngôn ngữ. Langdon thận trọng nhìn qua buồng vệ sinh, dõi theo bước họ đi. Rồi anh quan sát đám cảnh sát. “Chúng ta phải tiếp tục di chuyển. Tôi sẽ giải thích ở trên đường.”
“Trên đường ư?”, Sienna lắc đầu. “Chúng ta sẽ chẳng bao giờ lọt qua được Porta Romana.”
“Cứ ở yên đây trong ba mươi giây”, anh bảo cô, “sau đó theo tôi”.
Nói xong, Langdon lách ra ngoài, bỏ mặc người bạn mới ngơ ngác ở lại một mình.
 


Chương 21


“Xin lỗi!”, Robert Langdon đuổi theo nhóm sinh viên. “Xin thứ lỗi!”
Tất cả bọn họ quay lại và Langdon giả bộ như nhìn xung quan một lượt như một du khách bị lạc đường.
“Học viện Nghệ thuật Quốc gia ở đâu nhỉ?”, Langdon hỏi bằng thứ tiếng Ý nhát gừng.
Một cậu chàng xăm trổ thản nhiên rít một điếu thuốc và đáp lại vẻ không mấy thân thiện, “Chúng tôi không nói tiếng Ý”. Giọng điệu cậu ta mang ngữ điệu Pháp.
Một cô gái trách móc cậu bạn xăm trổ và lịch sự chỉ tay dọc theo bức tường dài về phía Porta Romana. “Quá về phía kia, cứ đi thẳng về phía trước.”
“Cứ đi thẳng về phía trước”, Langdon dịch lại. “Rất cảm ơn!”
Đúng lúc đó, Sienna xuất hiện mà không để ai nhìn thấy từ phía sau buồng vệ sinh và tiến lại. cô gái ba mươi hai tuổi yểu điệu bước đến gần nhóm sinh viên, Langdon đặt một bàn tay lên vai cô. “Đây là em gái tôi, Sienna. Cô ấy là giáo viên nghệ thuật.”
Cậu trai xăm trổ lầm bẩm “T-I-L-F [15]”, và đám bạn trai của cậu ta cười phá lên.
Langdon mặc kệ bọn họ. “Chúng tôi đến Florence để nghiên cứu những địa điểm khả dĩ, chuẩn bị cho một năm giảng dạy ở nước ngoài. Chúng tôi đi cùng các bạn có được không?”
“Được thôi ạ”, cô gái người Ý mỉm cười nói.
Khi cả nhóm tiến về phía cảnh sát ở Porta Romana, Sienna đã say sưa trò chuyện cùng đám sinh viên còn Langdon lẩn vào giữa nhóm, cúi thấp xuống, cố gắng không để lọt vào tầm nhìn.
Hãy tìm kiếm và anh sẽ thấy, Langdon nghĩ thầm, mạch đập của anh rộn lên vì cảm giác phấn khích khi hình dung ra mười rãnh ở Malebolge.
Catrovacer. Mười chữ cái này, Langdon nhận ra, đặt ở lõi một trong những bí mật khó hiểu nhất trong thế giới nghệ thuật, một câu đó trải qua hàng thế kỷ nhưng vẫn chưa có lời giải. Năm 1563, mười chữ cái này được dùng để đánh vần một thông điệp cao tít trên bức tường bên trong Cung điện Vecchio nổi danh của Florence, được viết cách mặt đất khoảng mười hai mét, khó lòng nhìn thấy được nếu không có ống nhòm. Nó vẫn giấu mình ở đó cho tới những năm 1970, khi một thầy thuốc chẩn bệnh giờ đây đã nổi danh phát hiện ra, và ông đã mất nhiều thập kỷ cố gắng khám phá ý nghĩa của nó. Mặc dù có nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng cho tới ngày nay ý nghĩa của thông điệp vẫn là một bí ẩn.
Với Langdon, bức mật mã giống như một sân chơi quen thuộc - một bến cảng an toàn để tránh khỏi vùng biển xa lạ đang nổi sóng này. Rốt cuộc, lịch sử nghệ thuật và những bí ẩn cổ xưa mới là lãnh địa thật sự của Langdon chứ không phải các ống nghiệm chất độc sinh học và súng ống.
Phía trước, lại có thêm xe cảnh sát bắt đầu đổ về Porta Romana.
“Chúa ơi”, cậu trai xăm trổ nói. “Người họ đang săn tìm chắc phải làm việc gì đó rất kinh khủng.”
Cả nhóm đi tới cổng chính của Học viện Nghệ thuật bên tay phải, nơi một đám đông sinh viên đã tụ tập để xem sự việc diễn ra ở Porta Romana. Nhân viên bảo vệ hưởng mức lương tối thiểu của nhà trường liếc nhìn thẻ sinh viên một cách qua loa chiếu lệ lúc đám sinh viên ồ ạt tràn vào trong, nhưng rõ ràng anh ta chú ý đến những gì đang diễn ra cùng với đám cảnh sát hơn.
Có tiếng phanh xe rít lên, vang khắp quảng trường khi một xe thùng màu đen đã quá quen thuộc đỗ xịch tại Porta Romana.
Langdon không cần nhìn lần thứ hai.
Không nói một lời, anh và Sienna chớp lấy cơ hội, lẻn qua cổng cùng với những người bạn mới của họ.
Con đường đi vào Học viện Nghệ thuật Quốc gia đẹp đến ngỡ ngàng, gần như vương giả. Những cây sồi sum suê cành lá, tạo thành một vòm lá khuôn lấy tòa nhà ở phía xa - một cấu trúc đồ sộ sơn vàng đã ngả màu, với một vòm cổng ba lối vào và một bãi cỏ hình bầu dục trải rộng.
Langdon biết rõ tòa nhà này được đặt mua, giống như rất nhiều tòa nhà khác trong thành phố, bởi một triều đại nổi tiếng không kém từng thống trị chính giới Florence trong ban thế kỷ XV, XVI và XVII.
Gia tộc Medici.
Chỉ riêng tên gọi đó đã trở thành một biểu tượng của Florence. Suốt giai đoạn trị vì kéo dài ba thế kỷ, gia tộc Medici đã tích lũy được số tài sản và có tầm ảnh hưởng không sao hình dung nổi, đồng thời sản sinh ra bốn giáo hoàng, hai hoàng hậu của nước Pháp, và cơ sở tài chính lớn nhất châu Âu. Cho tới ngày này, những ngân hàng hiện đại vẫn sử dụng phương pháp kế toán do gia tộc Medici nghĩ ra - hệ thống bút toán kép gồm cả bên có và bên nợ.
Tuy nhiên, di sản vĩ đại nhất của nhà Medici lại không phải về tài chính hay chính trị, mà về nghệ thuật. Có lẽ là những nhà bảo trợ hào phóng nhất mà thế giới nghệ thuật từng biết, gia tộc Medici chi các khoản hào phóng giúp tiếp sức cho trào lưu Phục Hưng. Danh sách các nhân vật được bảo trợ của nhà Medici gồm da Vinci, Galileo và Botticelli - người có bức vẽ nổi tiếng nhất, bức Thần Vệ nữ chào đời, chính là kết quả của một khoản tiền thưởng từ Lorenzo de’ Medici. Người này đã yêu cầu một bức vẻ gợi dục để treo phía trên gi.ường ngủ của vợ chồng người em họ như một món quà cưới.
Lorenzo de’ Medici - sinh thời được biết đến với biệt danh Lorenzo Cao thượng bởi tính cách hào phóng - cũng chính là một nghệ sĩ kiêm thi sĩ kỳ tài được mệnh danh có một con mắt siêu việt. Năm 1489, Lorenzo say mê tác phẩm của một nhà điêu khắc Florence trẻ tuổi và đã mời anh ta chuyển tới sống tại lâu đài của gia đình Medici, nơi anh có thể hành nghề trong môi trường mỹ thuật, thi ca và văn hóa đỉnh cao. Dưới sự giám hộ của nhà Medici, chàng thiếu niên trưởng thành và cuối cùng đã tạc lên hai bức điêu khắc lừng danh nhất trong lịch sử - Pietà và David. Ngày nay, chúng ta biết đến người đó với tên gọi Michelangelo - một tài năng sáng tạo, đôi khi được xem như món quà lớn nhất mà gia tộc Medici tặng cho nhân loại.
Nghĩ đến niềm đam mê nghệ thuật của nhà Medici, Langdon tưởng tượng rằng gia tộc này sẽ rất hài lòng khi biết rằng tòa nhà trước mặt anh - ban đầu được xây dựng làm chuồng ngựa chính của gia tộc Medici - đã được cải tạo thành Học viện Nghệ thuật. Địa điểm thanh bình truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ trẻ này lại từng được chọn làm chuồng ngựa riêng của nhà Medici chỉ vì nó ở gần một trong những khu vực cưỡi ngựa đẹp nhất Florence. Vườn Boboli.
Langdon liếc nhìn sang trái, nơi có thể nhìn rõ cả rừng toàn những ngọn cây phía bên kia một bức tường cao ngất. Không gian rộng lớn của vườn Boboli giờ đây là một địa điểm du lịch quen thuộc. Langdon tin chắc rằng nếu có thể vào được khu vườn này, anh và Sienna sẽ lẩn qua đó và đi vòng tránh khỏi Porta Romana mà không bị phát giác. Xét cho cùng, khu vườn rất rộng và không thiếu chỗ để ẩn náu - những khu rừng, mê cung, hang động. Quan trọng hơn, băng ngang qua vườn Boboli sẽ dẫn họ tới Cung điện Pitti, tòa thành bằng đá từng là nơi ngự chính của đại công tước nhà Medici, và nơi có một trăm bốn mươi gian phòng này vẫn là một trong những điểm du lịch thường xuyên nhất ở Florence.
Nếu chúng ta có thể tới được Cung điện Pitti, Langdon nghĩ thầm, thì cây cầu dẫn đến thành cổ chỉ cách đó một tầm ném đá.
Langdon hết sức bình thản chỉ về phía bức tường cao bao quanh khu vườn. “Làm thế bào vào được trong vườn?”, anh hỏi. “Tôi rất muốn cho em gái mình thăm vườn trước khi chúng tôi đi dạo quanh học viện.”
Cậu trai xăm trổ lắc đầu. “Anh chị không thể vào được vườn từ đây đâu. Lối vào chỗ Cung Pitti cơ. Anh chị phải lái xe qua Porta Romana và đi vòng.”
“Vớ vẩn”, Sienna buột miệng.
Tất cả mọi người ngoảnh lại và đăm đăm nhìn cô, kể cả Langdon.
“Thôi đi”, cô cười bẽn lẽn với đám sinh viên trong lúc vấn lại túm tóc đuôi ngựa vàng óng của mình. “Có phải các cậu đang bảo tôi rằng các cậu không hề lẻn vào vườn để hút cần sa và giết thời gian phải không?”
Đám trẻ đưa mắt nhìn nhau rồi phá lên cười.
Anh chàng xăm trổ tỏ ra vô cùng hối lỗi. “Chị ơi, chị nên về đây dạy học thôi.” Cậu ta dẫn Sienna tới bên hông tòa nhà và đi vòng qua góc tới một bãi đỗ xe phía sau. “Chị nhìn thấy nhà xưởng bên trái không? Có một bục cũ phía sau đó. Cứ trèo lên nóc là chị có thể nhảy xuống bên kia tường.”
Sienna thực hành ngay. Cô liếc lại nhìn Langdon kèm theo một nụ cười kẻ cả. “Đi nào, anh trai Bob. Trừ phi anh già quá nên không trèo rào được nữa”
 


Chương 22


Người phụ nữ tóc bạc trên xe thùng dựa đầu vào ô cửa sổ chống đạn và nhắm mắt lại. Bà cảm thấy thế giới quay cuồng dưới chân. Những viên thuốc người ta cho bà uống khiến bà cảm thấy mệt rũ.
Mình cần chăm sóc y tế, bà nghĩ.
Mặc dù vậy, gã vệ sĩ có vũ trang bên cạnh bà đã nhận được mệnh lệnh nghiêm ngặt: Không quan tâm đến các nhu cầu của bà cho đến khi nhiệm vụ của họ kết thúc thành công. Căn cứ vào những âm thanh hồn loạn xung quanh thì rõ ràng sắp đến lúc đó rồi.
Giờ thì cảm giác chóng mặt càng tăng lên, và bà cảm thấy rất khó thở. Trong lúc cố nén một con buồn nôn mới đang cồn lên, bà tự hỏi sao cuộc đời lại xô đẩy mình đến giao lộ kỳ quái này. Câu trả lời quá phức tạp nên không thể giải đáp được khi bà đang ở trạng thái mê man như lúc này, nhưng bà biết rõ nó bắt đầu từ đâu.
New York.
Hai năm trước.
Bà bay tới Manhattan từ Geneva, nơi bà giữ cương vị giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, một vị trí uy tín và được nhiều người thèm khát. Bà đã đảm nhận công việc này suốt gần một thập kỷ. Là một chuyên gia về bệnh lây truyền và dịch tễ học, bà được mời tới Liên Hiệp Quốc để trình bày về hiểm họa của bệnh dịch tại các nước thuộc thế giới thứ ba. Bà nói chuyện rất lạc quan và khiến người khác vững dạ, phác họa ra một vài hệ thống phát hiện sớm bệnh tật rất mới mẻ cùng các kế hoạch điều trị mà WHO và những tổ chức khác vạch ra. Bà đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ.
Ngay sau bài diễn thuyết, trong khi bà đang trò chuyện cùng một số học giả còn nán lại trong sảnh thì một nhân viên Liên Hiệp Quốc đeo phù hiệu ngoại giao cấp cao sải bước tiến lại, xen vào giữa cuộc trò chuyện.
“Thưa tiến sĩ Sinskey, Hội đồng Quan hệ Đối ngoại vừa liên hệ với chúng tôi. Có người ở đó muốn nói chuyện với bà. Đã có xe đợi sẵn bên ngoài.”
Bối rối và có phần lo lắng, tiến sĩ Elizabeth Sinskey cáo lui và chuẩn bị hành lý đi công tác qua đêm. Khi chiếc limousine lao vào Đại lộ Một, bà bắt đầu có cảm giác lo lắng kỳ lạ.
Hội đồng Quan hệ Đối ngoại ư?
Elizabeth Sinskey, như hầu hết mọi người, đã nghe nhiều lời đồn đại.
Thành lập vào những năm 1920 với tư cách nhóm chuyên gia cố vấn bí mật, trong số thành viên của Hội đồng có mặt gần như tất cả các ngoại trưởng, gần chục vị Tổng thống, đa số các đời giám đốc CIA, các thượng nghị sĩ, thẩm phán cùng những tên tuổi huyền thoại như Morgan, Rothschild, và Rockefeller. Tập hợp trí tuệ, ảnh hưởng chính trị và tài sản ít tai bì kịp của các thành viên giúp cho Hội đồng Quan hệ Đối ngoại nổi tiếng là “Câu lạc bộ bí mật quyền lực nhất trên trái đất.”
Là giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, Elizabeth không xa lạ gì việc tiếp xúc gần gũi với các nhân vật tai to mặt lớn. Thời gian công tác rất lâu ở WHO, kết hợp với bản tính thẳng thắn, đã giúp bà được một tờ tạp chí tin tức lớn gần đây xếp vào tốp hai mươi nhân vật có ảnh hưởng nhất thế giới. Gương mặt đại diện cho sức khỏe của thế giới, họ đã viết như vậy bên dưới ảnh của bà, chi tiết mà Elizabeth cảm thấy rất hài hước bởi vì bà từng là một đứa trẻ ốm yếu.
Bà mắc bệnh hen suyễn nặng năm lên sáu tuổi và được điều trị bằng một loại tân dược liều cao đầy hứa hẹn - loại glucocorticoid hay steroid hormone đầu tiên trên thế giới - giúp chữa khỏi các triệu chứng suyễn một cách thần kỳ. Nhưng thật không may, tác dụng phụ khôn lường của thuốc không xuất hiện ngay, mà mãi nhiều năm sau này khi Sinskey đến tuổi dậy th.ì nhưng không thấy xuất hiện chu kỳ kinh nguyệt. Bà không bao giờ quên được thời khắc đen tối tại phòng mạch của bác sĩ, năm bà mười chín tuổi, khi biết rằng hệ sinh sản của mình đã bị tổn thương vĩnh viễn.
Elizabeth Sinskey sẽ chẳng bao giờ có con.
Thời gian sẽ chữa lành nỗi đau, bác sĩ của bà an ủi, nhưng nỗi buồn và cơn giận dữ vẫn trào dâng trong lòng bà. Thật ác nghiệt, loại thuốc đã cướp đi của bà khả năng thụ thai lại không thể lấy đi của bà những bản năng rất xác thịt muốn được làm việc ấy. Suốt nhiều thập kỷ, bà đã phải vật lộn với khát khao thỏa mãn cái ước vọng không thể thành hiện thực này. Thậm chí cho đến bây giờ, ở tuổi sáu mươi mốt, bà vẫn cảm thấy nhói đau với nỗi trống rỗng mỗi lần nhìn thấy một người mẹ và đứa con thơ.
“Ngay phía trước rồi, tiến sĩ Sinskey”, người lái limousine nói.
Elizabeth nhanh tay vuốt những lọn tóc màu bạc dài và nhìn lại gương mặt mình trong gương. Bà chưa kịp định hình thì xe đã dừng lại, và người lái xe giúp bà bước lên vỉa hè một khu dân cư giàu có của Manhattan.
“Tôi sẽ đợi bà ở đây”, người lái xe nói. “Chúng ta có thể đi luôn ra sân bay khi bà sẵn sàng.”
Tổng hành dinh của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại tại New York là một tòa nhà kiểu tân cổ điển không mấy gây chú ý nằm ở góc phố Park và Đại lộ Sáu tám, vốn từng là trụ sở của tập đoàn Standard Oil. Bề ngoài của tòa nhà hòa hợp với cảnh quan trang nhã xung quanh, nên không hề gợi ra dấu hiệu gì về mục đích đặc biệt của nó.
“Tiến sĩ Sinskey”, cô nhân viên lễ tân có vóc người đẫy đà chào bà. “Xin đi theo lối này! Ông ấy đang đợi bà.”
Được rồi, nhưng ông ấy là ai nhỉ? Bà theo chân nhân viên lễ tân đi dọc hành lang sang trọng tới một cánh cửa đóng kín. Cô gái gõ nhanh rồi mở cửa và ra hiệu cho Elizabeth bước vào.
Bà đi vào, khép cánh cửa lại phía sau lưng.
Phòng họp nhỏ hẹp và tối chỉ được chiếu sáng nhờ quầng sáng của một màn hình video. Ngay phía trước màn hình, một bóng người mảnh khảnh và cao lêu nghêu đối diện với bà. Mặc dù không sao nhìn rõ gương mặt ấy, nhưng bà cảm nhận được quyền lực ở đây.
“Tiến sĩ Sinskey”, giọng nói sắc lạnh của người đàn ông vang lên. “Cảm ơn bà đã tới gặp tôi.” Chất giọng không lẫn vào đâu được của người đàn ông cho thấy ông ta là người cùng quê hương Thụy Sĩ với Elizabeth, hoặc có lẽ là Đức.
“Mời bà ngồi”, ông ta nói, ra hiệu về phía chiếc ghế đặt gần mé trước căn phòng.
Không giới thiệu gì sao? Elizabeth ngồi xuống. Hình ảnh kỳ quái đang được trình chiếu trên màn hình video làm bà thấy bất an. Có lẽ nào?
“Sáng nay tôi có mặt tại buổi trình bày của bà”, bóng người kia nói. “Tôi đã đi cả quãng đường dài để nghe bà nói chuyện. Một buổi diễn thuyết rất ấn tượng.”
“Cảm ơn ông”, bà đáp.
“Cũng cho phép tôi được nói rằng bà đẹp hơn tôi tưởng tượng rất nhiều… bất kể tuổi tác và quan điểm thiển cận của bà về y tế thế giới.”
Elizabeth sửng sốt. Lời nhận xét hết sức khó chịu. “Sao cơ?”, bà gặng hỏi, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng tối. “Ông là ai? Và tại sao lại mời tôi đến đây?”
“Xin thứ lỗi cho câu đùa vô duyên của tôi”, bóng đen cao kều đáp lại. “Hình ảnh trên màn hình sẽ giải thích lý do tại sao bà lại ở đây.”
Sinskey nhìn hình ảnh hãi hùng - một bức vẽ mô tả một biển người, những toán người bệnh tật, tất cả giẫm đạp lên nhau trong đống lúc nhúc các xác người trần truồng.
“Nghệ sĩ vĩ đại Doré”, người đàn ông nói. “Cách diễn đạt đặc biệt dữ dội của ông về hình ảnh địa ngục của Dante Alighieri. Tôi hy vọng bà vẫn thấy nó dễ chịu… bởi vì đó là nơi chúng ta sẽ đến.” Ông ta ngừng lại, từ từ lướt về phía bà. “Và cho phép tôi nói với bà lý do tại sao.”
Ông ta vẫn tiếp tục tiến về phía bà, dường như càng lúc càng cao hơn sau mỗi bước chân. “Nếu tôi cầm mảnh giấy này và xé làm đôi…” Ông ta dừng lại bên bàn, nhặt một tờ giấy lên và xé toạc làm đôi. “Và sau đó nếu tôi đặt hai nửa chồng lên nhau…” Ông ta chồng hai nửa tờ giấy. “Và rồi nếu tôi lặp lại thao tác…” Ông ta lại xe giấy, xếp chồng lên nhau. “Tôi tạo ra một tập giấy lúc này dày gấp bốn lần tờ giấy ban đầu, phải không?” Dường như đôi mắt ông ta lóe lên vẻ căm hờn trong bóng tối căn phòng.
Elizabeth không sao đánh giá được ông ta qua ngữ điệu hung hăng. Bà không nói gì cả.
“Nói một cách giả thuyết”, ông ta tiếp tục, nhích lại gần hơn, “nếu tờ giấy ban đầu chỉ dày một phần mười milimet và tôi cứ lặp lại thao tác này - giả sử năm mươi lần… liệu bà có biết tập giấy sẽ cao chừng nào không?”.
Elizabeth nổi cáu. “Tôi biết”, bà đáp với thái độ hằn học hơn cả dự tính. “Nó sẽ là một phần mười milimet nhân hai lũy thừa năm mươi. Như thế gọi là cấp số nhân. Cho phép tôi hỏi tôi sẽ làm gì ở đây?”
Người đàn ông cười khẩy và gật đầu cảm kích. “Đúng, và bà có đoán được giá trị thực tế sẽ như thế nào không? Một phần mười milimet nhân hai lũy thừa năm mươi chăng? Bà có biết tập giấy của chúng ta sẽ cao chừng nào không?” Ông ta chỉ dừng lại một lát. “Tập giấy của chúng ta, chỉ sau năm mươi lần nhân đôi, giờ đã gần như đủ kín đường tới… mặt trời.”
Elizabeth không lấy làm ngạc nhiên. Sức mạnh đáng kinh ngạc của tăng trưởng theo cấp số nhân là điều bà liên tục gặp phải trong công việc của mình. Những vòng tuần hoàn của quá trình nhiễm bệnh… quá trình tái tạo của các tế bào nhiễm bệnh… con số ước tính tỉ lệ tử vong. “Tôi xin lỗi nếu tôi có phần ngây ngô”, bà nói, chẳng buồn che giấu thái đọ bực dọc của mình. “Nhưng tôi không hiểu ý ông.”
“Ý tôi ư?” Ông ta cười khàn. “Ý tôi là lịch sử tăng trưởng dân số nhân loại của chúng ta thậm chí còn ấn tượng hơn nữa. Dân số trái đất, giống như tập giấy của chúng ta, lúc mới đầu có là bao… nhưng tiềm năng thì ghê gớm.”
Ông ta lại bước tới. “Hãy nghĩ tới chuyện này. Dân số trái đất mất hàng nghìn năm – từ buổi bình minh sơ khai của loài người tới đầu những năm 1800 - để đạt một tỉ người. Thế rồi, thật kinh ngạc, chỉ mất khoảng một trăm năm để dân số tăng gấp đôi lên hai tỉ vào những năm 1920. Sau đó, mới chỉ năm mươi năm, dân số lại tăng gấp đôi thành bốn tỉ vào những năm 1970. Như bà có thể hình dung, chúng ta đang trên đường đạt tới tám tỉ rất nhanh. Ngay hôm nay, loài người đã bổ sung thêm một phần tư triệu người cho hành tinh. Một phần tư triệu. Và điều này diễn ra hằng ngày - dù nắng hay mưa. Hiện tại, mỗi năm, chúng ta bổ sung thêm một con số tương đương toàn bộ nước Đức.”
Người đàn ông cao lêu nghêu dừng phắt lại, bóng ông ta đè lên Elizabeth. “Bà bao nhiêu tuổi rồi?”
Lại một câu hỏi khiếm nhã nữa, mặc dù là người đứng đầu WHO, bà đã quen gặp phải thái độ đối nghịch với phép ngoại giao. “Sáu mươi mốt.”
“Bà có biết rằng nếu bà sống thêm mười chín năm, lúc đến tuổi tám mươi, bà sẽ chứng kiến dân số tăng lên gấp ba lần trong đời bà không. Một đời - gấp ba lần. Hãy nghĩ đến mọi hàm ẩn. Bà biết đấy, Tổ chức Y tế Thế giới của bà lại nâng mức dự đoán, tiên liệu rằng sẽ có khoảng chín tỉ người trên trái đất trước nửa đầu thế kỷ này. Các loài động vật đang bị tuyệt chủng với tốc độ tăng chóng mặt. Nhu cầu đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng eo hẹp tăng vọt. Nước sạch ngày càng khan hiếm. Theo bất kỳ tiêu chuẩn đánh giá sinh học nào thì các giống loài của chúng ta đều đã vượt quá con số bền vững. Và khi đối mặt thảm họa này, Tổ chức Y tế Thế giới - người gác cổng cho vấn đề sức khỏe của hành tinh - lại đang đầu tư cho những thứ như cứu chữa bệnh tiểu đường, làm đầy các ngân hàng máu, chống lại bệnh ung thư.” Ông ta ngừng lại, nhìn xoáy thẳng vào bà. “Và vì thế mà tôi mời bà tới đây để hỏi thẳng bà tại sao Tổ chức Y tế Thế giới lại không quyết tâm giải quyết vấn đề này trước nhất?”
Giờ thì Elizabeth giận sôi lên. “Cho dù ông là ai thì ông cũng biết rất rõ WHO nhìn nhận tình trạng quá tải dân số rất nghiêm túc. Gần đây, chúng tôi đã chi hàng triệu đô-la để cử các bác sĩ tới châu Phi nhằm phát bao cao su miễn phí và giáo dục người dân về kiểm soát sinh đẻ.”
“Và, đúng!”, người đàn ông lêu nghêu chế giễu. “Và cả một đội quân giáo sĩ Công giáo còn đông hơn nữa đã theo chân bà tiến vào và bảo người dân châu Phi rằng nếu họ sử dụng bao cao su, tất cả bọn họ sẽ xuống địa ngục. Châu Phi hiện có một vấn đề môi trường rất mới - những bãi rác ngập tràn bao cao su chưa sử dụng.”
Elizabeth phải rất cố gắng kiềm chế mới không nói gì. Về điểm này thì ông ta đúng, và các tín đồ Công giáo hiện đại đang đấu tranh lại cách can thiệp của Vatican về vấn đề sinh sản. Đáng chú ý nhất, bản thân Melinda Gates, một tín đồ Công giáo sùng đạo, cũng can đảm đối diện với thái độ giận dữ của nhà thờ khi cam kết dành năm trăm sáu mươi triệu đô la giúp cải thiện quyền tiếp cận phương pháp hạn chế sinh đẻ trên toàn thế giới. Elizabeth Sinskey đã nhiều lần công khai nói rằng Bill và Melinda Gates xứng đáng được phong thánh vì những gì họ đã làm bằng quỹ cá nhân nhằm cải thiện tình hình sức khỏe thế giới. Buồn thay, tổ chức duy nhất có thể phong thánh lại không hề nhận ra bản chất Thiên Chúa giáo trong những nỗ lực của họ.
“Tiến sĩ Sinskey”, bóng người tiếp tục nói. “Tổ chức Y tế Thế giới không nhận ra rằng chỉ có một vấn đề y tế mang tính toàn cầu duy nhất.” Ông ta lại chỉ vào hình ảnh kinh khủng trên màn hình - cái biển người lúc nhúc. “Và nó đây!”, ông ta ngừng lại. “Tôi biết bà là một nhà khoa học, và vì thế có lẽ không phải là một sinh viên nghiên cứu mỹ thuật hay nghệ thuật kinh điển, nên cho phép tôi cung cấp một hình ảnh nữa có thể nói với bà bằng thứ ngôn ngữ bà hiểu rõ hơn.”
Căn phòng sầm tối một lúc, rồi màn hình sáng trở lại.
Hình ảnh nới là hình ảnh Elizabeth đã nhìn thấy nhiều lần… và nó luôn đem lại một cảm giác rất khó tả về sự tất yếu.
Căn phòng chìm trong im ắng nặng nề.
“Phải”, cuối cùng người đàn ông lêu nghêu nói. “Tâm lý sợ hãi ngấm ngầm là phản ứng hoàn toàn thích đáng khi xem biểu đồ này. Nhìn nó có phần giống như trợn trừng mắt nhìn thẳng vào đèn pha một đầu tàu đang lao tới.” Người đàn ông chậm rãi quay lại phía Elizabeth và nở một nụ cười nhún nhường, khó khăn. “Bà có hỏi gì không, tiến sĩ Sinskey?”
“Chỉ có một câu thôi”, bà đáp trả. “Ông đưa tôi tới đây để rao giảng hay sỉ nhục tôi?”
“Không hề!” Giọng ông ta trở nên phỉnh phờ lạ lùng. “Tôi mời bà tới đây để hợp tác. Tôi tin chắc bà hiểu tình trạng quá tải dân số là một vấn đề y tế. Nhưng điều tôi sợ bà không hiểu là nó ảnh hưởng đến linh hồn con người. Dưới sức ép của quá tải dân số, những người chưa từng nghĩ đến việc trộm cắp sẽ trở thành trộm cắp để nuôi sống gia đình mình. Những người chưa từng nghĩ đến việc giết người sẽ giết người để nuôi con cái. Tất cả những tội lỗi đáng chết mà Dante đề cập – tham lam, tham ăn, dối trá, giết người và những tội khác - sẽ bắt đầu lan tràn… trở nên thịnh hành trong xã hội loài người, và càng tăng mạnh do những thứ tiện nghi phù phiếm của chúng ta. Chúng ta đang đối mặt với một trận chiến để bảo vệ linh hồn con người.”
“Tôi là một chuyên gia sinh học. Tôi cứu những mạng sống… không phải linh hồn.”
“Vâng, tôi có thể cam đoan với bà việc cứu những mạng sống sẽ ngày càng khó khăn trong những năm tới. Tình trạng quá tải dân số phát triển nhanh hơn sự bất mãn về tinh thần rất nhiều. Có một thông điệp trong… Machiavelli.”
“Đúng”, bà ngắt lời, nhắc lại nguyên văn câu trích dẫn mà bà nhớ nằm lòng. “‘Khi mọi nơi trên thế giới kín đặc dân cư đến mức họ không thể sống nổi ở quê hương cũng không biết chuyển đi đâu nữa… thế giới sẽ tự thanh lọc’.” Bà đăm đăm nhìn ông ta. “Tất cả chúng tôi ở WHO đều rất quen với câu trích đó.”
“Tốt lắm, vậy chắc bà biết rằng Machiavalli còn nói về các dịch bệnh như là cách tự thanh lọc rất tự nhiên của thế giới?”
“Đúng, và như tôi đã đề cập trong bài thuyết trình của mình, chúng tôi đều nhận thức rất rõ mối quan hệ tương liên trực tiếp giữa mật độ dân số và khả năng xảy ra các đại dịch quy mô lớn, nhưng chúng tôi liên tục nghĩ ra các phương pháp phát hiện và điều trị mới. WHO vẫn tự tin rằng chúng tôi có thể ngăn chặn được các dịch bệnh trong tương lai.”
“Thật đáng tiếc!”
Elizabeth trố mắt nhìn vẻ không tin nổi. “Xin lỗi, tôi không hiểu!”
“Tiến sĩ Sinskey”, người đàn ông nói kèm theo một tiếng cười lạ lùng, “bà nói về việc kiểm soát dịch bệnh cứ như thể đó là một việc hay ho vậy!”.
Bà há hốc miệng nhìn người đàn ông, sửng sốt không nói lên lời.
“Bà hiểu ra rồi đấy!”, người đàn ông lêu nghêu nói, giọng như một luật sư đang kết luận vụ án của mình. “Tôi đứng đây cùng với giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới - nhân vật cừ nhất mà WHO có. Một suy nghĩ kinh khủng, nếu bà nghĩ kỹ. Tôi cho bà xem hình ảnh về nỗi khốn khổ sắp xảy ra này!”
Ông ta thay đổi màn hình, trở lại hình ảnh những xác người. “Tôi đã nhắc bà nhớ về sức mạnh đáng sợ của tình trạng gia tăng dân số không được kiểm soát.” Ông ta chỉ tập giấy nhỏ của mình. “Tôi đã khai sáng cho bà về thực tế rằng chúng ta đang đứng trên bờ vực của sự suy sụp về mặt tinh thần.” Ông ta ngừng lại và hướng thẳng về phía bà. “Và phản ứng của bà? Bao cao su miễn phí ở châu Phi.”
Người đàn ông nhếch mép cười giễu cợt. “Việc này có khác gì vung vỉ ruồi để chặn một tiểu hành tinh đang lao vào. Trái bom hẹn giờ không còn nhích từng giây nữa. Nó đã nổ tung rồi, và nếu không có những giải pháp quyết liệt, con số theo cấp số mũ sẽ thành Chúa trời mới của bà… và ‘Ngài’ sẽ là một vị Chúa báo thù rửa hận. Ngài sẽ mang tới cho bà hình ảnh địa ngục của Dante ngay ngoài kia, trên Đại lộ Park… Những đám người lúc nhúc ngoi ngóp trong đống phân của chính mình. Một sự sàng lọc toàn cầu do chính Tự nhiên sắp đặt.”
“Vậy ư?”, Elizabeth gắt. “Vậy hãy cho tôi biết, trong hình ảnh của ông về một tương lai bền vững, thế nào là dân số lý tưởng của trái đất? Con số kỳ diệu mà nhân loại có thể hy vọng duy trì chình mình một cách ổn định… và tương đối thoải mái là gì?”
Người đàn ông cao ngồng mỉm cười, rõ ràng đánh giá cao câu hỏi. “Bất kỳ nhà sinh học môi trường hay chuyên gia thống kê nào cũng sẽ cho bà biết rằng cơ hội tốt nhất để nhân loại tồn tại lâu dài đều đi kèm với mức dân số toàn cầu khoảng bốn tỉ.”
“Bốn tỉ ư?”, Elizabeth vặc lại. “Dân số bây giờ đã là bảy tỉ, cho nên muộn mất rồi!”
Đôi mắt xanh lục của người đàn ông cao ngồng lóe lên ánh lửa. “Vậy ư?”
 


Chương 23


Robert Langdon đáp huỵch xuống nền đất xốp cây cối um tùm phía bên trong bức tường bao quanh khu vực phía nam của vườn Boboli. Sienna đáp xuống bên cạnh anh và đứng lên, phủi bụi rồi quan sát xung quanh một lượt.
Họ đang đứng trên một tràng rêu và dương xỉ ở rìa một vạt rừng nhỏ. Từ đây Cung điện Pitti hoàn toàn bị chắn tầm nhìn, và Langdon cảm thấy họ ở xa cung điện cũng ngang với khoảng cách người ta có thể đi vào vườn. Ít nhất, không có nhân viên hay du khách tìm tới chỗ xa xôi này vào thời điểm sáng tinh mơ như bây giờ.
Langdon chăm chú nhìn một lối đi rải sỏi duyên dáng uốn lượn chạy sâu vào rừng trước mắt họ. Ở vị trí con đường khuất hẳn sau những rặng cây là một bức tượng cẩm thạch được đặt ở vị trí đắc địa để thu hút mọi ánh mắt. Langdon không lấy làm ngạc nhiên. Vườn Boboli được ưu ái đón nhận tài năng thiết kế xuất sắc của Niccolò Tribolo, Giorgio Vasari, và Bernardo Buontalenti - một nhóm những nhân tài về thẩm mỹ đã sáng tạo nên một kiệt tác có thể đi bách bộ được trên tấm toan rộng hơn bốn mươi héc ta này.
“Nếu đi về phía đông bắc, chúng ta sẽ đến được cung điện”, Langdon nói, chỉ tay theo lối đi. “Chúng ta có thể lẩn vào du khách ở đó và thoát ra ngoài mà không bị phát hiện. Tôi đoán nó mở cửa lúc 9 giờ.”
Langdon liếc mắt kiểm tra lại thời gian nhưng chỉ thấy cổ tay mình, nơi vẫn có chiếc đồng hồ Mickey, hoàn toàn trống trơn. Anh thẫn thờ tự hỏi liệu nó còn nằm ở bệnh viện cùng với số quần áo còn lại của anh và anh có thể lấy lại được nó không.
Sienna bước đi đầy kiên quyết. “Robert, trước khi đi tiếp, tôi muốn biết chúng ta định đi đâu? Lúc nãy anh đã nghĩ ra điều gì? Rãnh quỷ Malebolge à? Anh nói nó không đúng trật tự?”
Langdon ra hiệu về phía một khu vực có cây cối ngay trước mặt. “Chúng ta hãy tránh khỏi tầm nhìn trước đã.” Anh dẫn cô men theo lối đi lượn vòng vào một hốc kín - một “gian phòng”, theo cách nói của giới kiến trúc cảnh quan - nơi có mấy băng ghế giả gỗ và một đài phun nước nhỏ. Không khí phía dưới những tán cây lạnh hơn hẳn.
Langdon lấy máy chiếu ra khỏi túi và bắt đầu lắc mạnh. “Sienna, người tạo ra hình ảnh số này không chỉ cho thêm các chữ cái vào những kẻ tội đồ ở Malebolge mà còn thay đổi trật tự các dạng tội lỗi.” Anh nhảy lên đứng trên ghế, cao hơn hẳn Sienna, và chĩa máy chiếu xuống chân mình. Bức Vực Địa ngục của Botticelli hiện lên mờ mờ trên mặt ghế bằng phẳng bên cạnh Sienna.
Langdon chỉ vào khu vực phân tầng ở dưới đáy vực hình phễu. “Cô có nhìn thấy những chữ cái ở mười rãnh Malebolge không?”
Sienna tìm mấy chữ đó trên hình chiếu và đọc từ trên xuống dưới, “Catrovacer.”
“Đúng rồi, chẳng có nghĩa gì cả!”
“Nhưng khi đó anh nhận ra mười cái rãnh đã bị xáo trộn phải không?”
“Thực tế còn dễ hơn thế. Nếu những tầng rãnh này là một cỗ mười lá bài thì cỗ bài đó chẳng xáo trộn gì nhiều nếu xén bớt đi một lớp. Sau khi xén đi, các lá bài vẫn giữ nguyên trật tự, nhưng lại bắt đầu bằng một lá bài khác.” Langdon chỉ tay xuống mười rãnh Malebolge. “Theo văn bản của Dante, tầng trên cùng của chúng ta lẽ ra là những kẻ lừa gạt bị quỷ sứ đánh đập. Thế nhưng, trong bản này, những kẻ lừa gạt xuất hiện… tít dưới rãnh thứ bảy.”
Sienna nhìn kỹ hình ảnh lúc này đang mờ dần bên cạnh mình, và gật đầu. “Đúng, tôi thấy rồi. Rãnh đầu tiên giờ lại là thứ bảy.”
Langdon bỏ máy chiếu vào túi rồi nhảy xuống đường. Anh nhặt lấy một que nhỏ và vạch các chữ cái ra một khoảnh đất ngay bên đường. “Đây là các chữ cái theo thứ tự xuất hiện trong bản địa ngục đã bị chỉnh sửa của chúng ta.”
C
A
T
R
O
V
A
C
E
R
“Catrovacer”, Sienna đọc
“Đúng. Và đây là chỗ ‘cỗ bài’ bị xén mất!” Langdon vẽ một vạch bên dưới chữ cái thứ bảy và đợi Sienna nghiên cứu bản vẽ đó
C
S
T
R
O
V
A
_
C
E
R
“À”, cô nói nhanh, “Catrova, Cer.”
“Đúng, và sắp xếp lại các lá bài theo đúng trật tự, đơn giản là chúng ta không xén cỗ bài và đặt phần dưới lên trên. Hai nửa hoán đổi vị trí cho nhau.”
Sienna nhìn các chữ cái. “Cer. Catrova.” Cô nhún vai, trông không có biểu cảm gì. “Vẫn chẳng có nghĩa gì…”
“Cer catrova”, Langdon lặp lại. Một lát sau, anh nói lại mấy từ này này lần nưa, đọc liền mạch với nhau. “Cercatrova.” Cuối cùng, anh đọc lên cùng với một quãng ngừng xen vào giữa. “Cerca… Trova.”
Sienna thở rõ mạnh và ngước mắt lên nhìn Langdon.
“Đúng vậy”, Langdon mỉm cười nói. “Cerca trova.”
Hai từ tiếng Ý cerca và trova có nghĩa đen là “tìm kiếm” và “tìm thấy”. Khi kết hợp thành một cụm từ cerca trova, chúng đồng nghĩa với câu cách ngôn trong Kinh Thánh “Hãy tìm và ngươi sẽ thấy”.
“Những ảo giác của anh!”, Sienna thốt lên, gần như không thở nổi. “Người phụ nữ che mạng! bà ấy liên tục bảo anh tìm kiếm và sẽ thấy!” Cô nhảy cẫng lên. “Robert, anh có nhận ra điều này có nghĩa là gì không? Nó có nghĩa là mấy cụm từ cerca trova đã nằm sẵn trong tiềm thức của anh! Anh không thấy vậy ư? Chắc chắn anh đã giải mã cụm từ này từ trước khi anh đến bệnh viện! Có lẽ anh đã nhìn thấy hình ảnh trong máy chiếu này… Nhưng quên rồi!”
Cô ấy nói đúng, anh nhận ra như vậy, bởi vì anh đã quá quen với mật mã này đến mức không nhận ra mình đã từng trải qua toàn bộ việc này rồi.
“Robert, anh từng nói rằng bức Vực Địa ngục chỉ đến một địa điểm cụ thể trong thành cổ. Nhưng tôi vẫn không hiểu đó là nơi nào.”
“Mấy từ cerca trova không gợi lên điều gì cho cô sao?”
Cô nhún vai.
Langdon cười thầm. Rốt cuộc cũng có thứ Sienna không biết. “Hóa ra cụm từ này chỉ cụ thể tới một bức tranh tường nổi tiếng tại Cung điện Vecchio - Trận Marciano của Glorgio Vasari trong Sảnh Năm trăm. Gần trên đỉnh bức tranh, rất khó nhìn thấy, Vasari có viết cụm từ cerca trova bằng cỡ chữ rất bé. Người ta đưa ra nhiều giả thuyết để lý giải tại sao ông lại làm như vậy, nhưng chưa tìm được bằng chứng kết luận nào.”
Bỗng nhiên có tiếng rít chói tai của một chiếc máy bay nhỏ vang lên phía trên đầu, nó xuất hiện hoàn toàn bất ngờ và lướt qua tán rừng. Âm thanh nghe rất gần, Langdon và Sienna như hóa đá khi nó vụt qua.
Khi chiếc máy bay đi khỏi, Langdon dõi mắt nhìn theo qua những tán cây. “Một cái trực thăng đồ chơi”, anh nói, thở phào trong lúc nhìn theo chiếc trực thăng dài hơn một mét, điều khiển bằng song vô tuyến đang chao nghiêng ở phía xa. Tiếng của nó nghe như một co muỗi khổng lồ đang nổi khủng.
Tuy nhiên, Sienna trông vẫn hết sức cảnh giác. “Cúi thấp xuống!”
Chắc chắn như vậy, chiếc trực thăng nhỏ xíu đảo một vòng và lúc này đang quay trở lại chỗ họ, lướt sát những ngọn cây, vọt qua họ lần nữa, nhưng lần này chếch sang trái họ, ở phía trên một trảng rừng khác.
“Nó không phải đồ chơi đâu!”, cô thì thào. “Nó là một máy bay trinh thám không người lái. Có lẽ màng cả máy quay video để gửi hình ảnh trực tiếp về… cho ai đó.”
Quai hàm Langdon cứng đờ khi anh nhìn thấy chiếc trực thăng bay nhanh theo hướng nó xuất hiện lúc nãy - Porta Romana và Học viện Nghệ thuật.
“Tôi không biết anh đã làm gì”, Sienna nói, “nhưng rõ ràng một vài người rất có thế lực đang sốt sắng tìm anh”.
Chiếc trực thăng lại chao nghiêng lần nữa và bắt đầu bay chầm chậm dọc theo bức tường bao mà họ vừa nhảy qua.
“Chắc ai đó ở Học viện Nghệ thuật đã nhìn thấy chúng ta và nói gì đó”, Sienna nói, chân bước theo con đường. “Chúng ta phải ra khỏi đây. Ngay bây giờ!”
Khi chiếc máy bay không người lái vè vè bay về phía đầu kia của khu vườn, Langdon dùng chân xóa những chữ cái mà anh đã vạch trên lối đi và vội bước theo Sienna. Đầu óc anh quay cuồng với những ý nghĩ về cerca trova, bức bích họa của Giorgio Vasari, cũng như phát hiện của Sienna rằng anh đã từng giải mã thông điệp trong máy chiếu. Hãy tìm và sẽ thấy.
Đột nhiên, ngay khi họ bước vào trảng rừng thứ hai, Langdon có một ý nghĩ khá bất ngờ. Anh đã đứng sững lại trên lối đi đầy cây cối, vẻ mặt đầy sửng sốt.
Sienna cũng dừng lại. “Robert? Có chuyện gì thế?!”
“Tôi vô tội”, anh tuyên bố.
“Anh đang nói chuyện gì thế?”
“Những người đang ăn lùng tôi… Tôi từng nghĩ đó là vì tôi đã làm điều gì đó kinh khủng.”
“Đúng, ở bệnh viện anh cứ nhắc đi nhắc lại ‘rất xin lỗi’.”
“Tôi biết. Nhưng khi ấy tôi nghĩ tôi đã nói tiếng Anh.”
Sienna ngạc nhiên nhìn anh. “Anh đã nói tiếng Anh!”
Lúc này cặp mắt xanh biếc của Langdon đầy phấn khích. “Sienna, lúc tôi cứ nhắc đi nhắc lại ‘rất xin lỗi’ không phải là tôi xin lỗi đâu. Là tôi đang lẩm nhẩm về thông điệp bí mật trong bức bích họa ở Cung điện Vecchio!” Anh vẫn như nghe rõ giọng nói mê sảng của chính mình. Rấ… xin lỗi! Rấ… xin lỗi!
Sienna như mê đi.
“Cô không hiểu sao?”, Langdon cười toe toét. “Tôi không hề nói ‘rất xin lỗi, rất xin lỗi’!. Tôi đang đọc tên của họa sĩ - Va… sari, Vasari!” [16]
 


Chương 24


Vayentha đạp mạnh phanh.
Đuôi chiếc xe phân khối lớn của ả lảo đảo, rít to và để lại một vệt dài trên Đại lộ Viale del Poggio Imperiale, sau đó đột ngột dừng phía sau cả dòng xe cộ. Viale del Poggio đang trong giờ tắc nghẽn.
Ta không có thời gian cho việc này.
Vayentha nghển cổ nhìn qua những chiếc xe hơi, cố gắng xem chuyện gì gây ra tình trạng tắc nghẽn này. Ả đã buộc phải phóng xe theo một vòng tròn rất rộng để tránh đội SRS và toàn bộ tình trạng hỗn độn ở tòa chung cư, và lúc này ả cần lọt vào thành cổ để dọn ra khỏi phòng khách sạn nơi ả đã trú ngụ mấy ngày qua vì nhiệm vụ này.
Ta đã bị từ chối – ta cần biến ngay khỏi thành phố!
Thế nhưng, chuỗi đen đủi của ả dường như vẫn tiếp tục. Tuyến đường ả chọn để vào thành cổ có vẻ như đã bị chặn. Không lòng dạ nào chờ đợi, Vayentha lách xe sang một bên và chạy dọc theo làn hẹp dành riêng cho xe gặp sự cố cho tới khi nhìn thấy một giao lộ xe cộ ùn lại. Phía trước là một vòng xuyến tắc nghẽn, nơi có sáu trục đường lớn gặp nhau. Đây chính là Porta Romana - một trong những giao lộ đông đúc nhất của Florence - cánh cổng đi vào thành cổ.
Có chuyện quái gì ở đây không biết?!
Giờ thì Vayentha nhìn thấy toàn bộ khu vực này dày đặc cảnh sát - chặn đường hay đặt chốt kiểm tra gì đó. Một lát sau, ả nhận ra một thứ ở trung tâm hiện trường, thứ khiến cho ả chịu thất bại - chiếc xe thùng màu đen quen thuộc với vài đặc vụ mặc đồ đen đang lớn tiếng ra lệnh cho nhân viên công lực địa phương.
Trừ phi…
Rõ ràng, những người này là thành viên nhóm SRS, nhưng Vayentha không đoán nổi họ đang làm gì ở đây.
Vayentha nuốt khan, không dám hình dung ra tình huống đó. Langdon đã thoát khỏi Brüder chăng? Điều đó thật khó tưởng tượng khi mọi cơ hội trốn thoát gần như bằng không. Lại nữa, Langdon không hành động một mình, và Vayentha đã tận mắt chứng kiến tài nghệ xoay sở của người phụ nữ tóc vàng đi cùng anh.
Gần đó, một sĩ quan cảnh sát xuất hiện, đang đi từ xe này sang xe khác, chìa ra tấm hình chụp một người đàn ông điển trai với mái tóc nâu dày dặn. Vayentha ngay lập tức nhận ra ảnh chụp trên báo của Robert Langdon. Tim ả như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Brüder cũng để anh ta thoát…
Langdon vẫn đang trong cuộc chơi!
Là một chiến lược gia lão luyện, Vayentha lập tức bắt tay vào việc đánh giá xem thực tế này có thể làm thay đổi tình thế của ả như thế nào.
Lựa chọn một – rút lui như yêu cầu.
Vayentha đã khiến Thị Trưởng rơi vào một tình thế rất tồi tệ và vì việc này mà ả bị từ chối. Nếu may mắn, ả sẽ phải đối mặt với một buổi thẩm vấn chính thức và có lẽ chấm dứt sự nghiệp. Tuy nhiên, nếu ả không may đánh giá nhầm mức độ nghiêm trọng của tình thế đó thì có lẽ cả quãng đời còn lại, ả sẽ luôn phải đề phòng và tự hỏi không biết Consortium đang lẩn mặt ở đâu.
Còn một lựa chọn thứ hai.
Hoàn thành nhiệm vụ của mày.
Tiếp tục nhiệm vụ là chuyện hoàn toàn đối nghịch với quy trình từ chối vừa áp dụng với ả, nhưng vì Langdon vẫn đang lẩn trốn, nên lúc này Vayentha lại có cơ hội tiếp tục thực hiện chỉ thị ban đầu của mình.
Nếu như Brüder không tóm được Langdon, ả nghĩ bụng, mạch đập rộn lên. Và nếu ta thành công…
Vayentha biết đây là chuyện một mất một còn, nhưng nếu Langdon tìm cách thoát khỏi vòng vây của Brüder, còn Vayentha vẫn có thể nhập cuộc và kết thúc công việc thì ả sẽ đơn thương độc mã cứu vãn tình hình cho Consortium, khi đó Thị Trưởng sẽ không còn lựa chọn nào ngoài việc tha bổng cho ả.
Ta sẽ tiếp tục công việc của mình, ả nghĩ. Có khi còn được thăng tiến.
Trong nháy mắt, Vayentha nhận ra giờ đây toàn bộ tương lai của ả đều phụ thuộc vào công việc then chốt duy nhất. Ta phải tìm ra Langdon… trước Brüder.
Việc đó thật không dễ. Brüder có trong tay nhân lực hùng hậu tùy ý sử dụng cũng như vô số công nghệ giám sát tiên tiến. Còn Vayentha chỉ làm việc một mình. Tuy nhiên, ả đã nắm được một thông tin mà Brüder, Thị Trưởng và cảnh sát đều không có.
Ta đã nghĩ ra Langdon sẽ mò tới chỗ nào.
Ả rồ ga chiếc BMW, xoay một trăm tám mươi độ và quay ngược lại lối vừa nãy. Ponte alle Grazie, ả nghĩ, trong đầu hình dung ra cây cầu dẫn lên phía bắc. Đâu phải chỉ có một lối đi vào thành cổ.
 


Chương 25


Không phải là lời xin lỗi, Langdon trầm ngâm. Tên của một họa sĩ.
“Vasari”, Sienna lắp bắp, mọi suy nghĩ như lùi lại hẳn một bước dài. “Họa sĩ đã giấu cùm từ cerca trova trong bức bích họa của mình.”
Langdon chỉ biết mỉm cười. Vasari. Vasari. Không chỉ thắp lên một tia sáng trong tình thế khó khăn kỳ lạ mà phát hiện này cũng giúp Langdon phải băn khoăn xem mình đã làm việc gì kinh khủng khiến anh cứ luôn miệng nói xin lỗi.
“Robert, rõ ràng anh đã nhìn thấy bức Botticelli này trên máy chiếu trước khi bị thương, và biết nó chứa đựng một mật mã chỉ dẫn tới bức họa của Vasari. Đó là lý do vì sao anh tỉnh lại và cứ liên tục gọi tên Vasari!”
Langdon cố suy đoán xem tất cả việc này có ý nghĩa gì. Giorgio Vasari - một họa sĩ, kiến trúc sư kiêm nhà văn thế kỷ XVI - là người Langdon thường nhắc đến như “sử gia nghệ thuật đầu tiên của thế giới.” Mặc dù Vasari đã sáng tạo hàng trăm bức vẽ, và thiết kế hàng chục công trình, nhưng di sản lâu dài nhất của ông chính là cuốn sách có ảnh hưởng mạnh mẽ, Cuộc đời của các họa sĩ, điêu khắc gia và kiến trúc sư xuất sắc nhất, một tập hợp tiểu sử của các nghệ sĩ Ý, đến giờ vẫn là tài liệu bắt buộc cho những sinh viên học lịch sử nghệ thuật.
Cụm từ cerca trova đưa Vasari trở lại mối quan tâm chính thống khoảng ba mươi năm trước, khi “thông điệp bí mật” của ông được phát hiện trên bức bích họa đồ sộ tại Sảnh Năm trăm trong Cung điện Vecchio. Những con chữ bé xíu xuất hiện trên lá cờ trận màu xanh lục, gần như không thể nhìn thấy trong cảnh chiến tranh hỗn loạn. Mặc dù vẫn chưa có sự thống nhất về lý do tại sao Vasari lại cho thêm thông điệp kỳ lạ này vào bức bích họa của mình, nhưng giả thuyết hàng đầu cho rằng đó là manh mối cho thế hệ tương lai biết tới sự tồn tại của một bức bích họa đã thất lạc của Leonardo da Vinci, được giấu trong khoảng trống ba phân phía sau bức tường đó.
Sienna lo lắng ngước nhìn qua các tán cây. “Vẫn có một điều tôi không hiểu. Nếu anh không nói ‘rất xin lỗi, rất xin lỗi’… thì tại sao người ta lại tìm cách giết anh?”
Langdon cũng đang thắc mắc điều này.
Tiếng động cơ xa xa của chiếc máy bay trinh sát không người lái to dần, và Langdon biết đến lúc phải quyết định. Dù không hiểu được bức Trận Marciano của Vasari có liên hệ như thế nào tới Hỏa Ngục của Dante, hoặc nguyện nhân của vết thương do đạn bắn vào đêm trước, nhưng cuối cùng anh đã nhìn thấy một con đường hữu hình trước mắt.
Cerca trova.
Hãy tìm và sẽ thấy.
Langdon lại nhìn thấy người phụ nữ tóc bạc gọi anh từ phía bên kia sông. Thời gian đang cạn dần! Nếu có câu trả lời, Langdon có cảm giác chúng phải nằm ở Cung điện Vecchio.
Lúc này anh chợt nhớ đến câu ngạn ngữ cổ của những người thợ lặn tự do Grecia ngày xưa, những người chuyên săn tôm hùm trong các hang san hô ở quần đảo Aegea. Khi bơi vào một đường hầm tối tăm, sẽ có lúc anh không thể trở về nếu không còn đủ dưỡng khí. Lựa chọn duy nhất của anh là bơi thẳng vào chỗ chưa biết… và cầu mong có một lối thoát.
Langdon tự hỏi liệu họ đã đến lúc đó chưa.
Anh dõi mắt nhìn vườn mê cung lối đi ngay trước mắt. Nếu anh và Sienna có thể tới Cung điện Pitti và ra khỏi vườn thì thành cổ chỉ còn cách một quãng ngắn. Họ chỉ phải đi bộ qua phía bên cây cầu nổi tiếng nhất thế giới - Ponte Vecchio. Nơi đó luôn đông đúc và sẽ là một chỗ ẩn náu rất tốt. Từ đó, Cung điện Vecchio chỉ còn cách có vài dãy phố.
Tiếng chiếc máy bay không người lại gần hơn, Langdon chợt cảm thấy kiệt sức. Việc anh nhận ra rằng mình không hề nói “rất xin lỗi” khiến anh cảm thấy mâu thuẫn với chuyện anh phải chạy trốn cảnh sát.
“Rốt cuộc họ cũng sẽ bắt được tôi, Sienna ạ!”, Langdon nói. “Có lẽ tốt hơn là tôi đừng chạy nữa.”
Sienna nhìn hoảng hốt. “Robert, mỗi lần anh dừng lại là có người nhắm bắn anh! Anh cần tìm hiểu kỹ xem anh đã dính vào chuyện gì. Anh cần xem xét bức bích họa đó của Vasari và hy vọng nó thức tỉnh trí nhớ của anh. Có lẽ nó sẽ giúp anh biết được cái máy chiếu từ đâu ra và tại sao anh lại mang theo nó.”
Langdon nhớ lại người phụ nữ đầu đinh lạnh lùng hạ sát bác sĩ Marconi… những người lính nã đạn vào họ… quân cảnh Ý vây lấy Porta Romana… Và giờ đây một máy bay thám sát không người lái đang lùng tìm họ khắp vườn Boboli. Anh im lặng, dụi đôi mắt mỏi mệt trong lúc cân nhắc mọi lựa chọn của mình.
“Robert!”, giọng Sienna vang lên. “Còn một chuyện nữa… một chuyện có vẻ không mấy quan trọng, nhưng giờ đây dường như lại rất quan trọng.”
Langdon ngước mắt lên, đáp lại giọng nói nghiêm nghị của cô.
“Tôi đã định nói với anh ở căn hộ”, cô nói, “nhưng…”.
“Chuyện gì nào?”
Sienna mím môi, trông không được thoải mái. “Lúc anh đến bệnh viện, anh bị hôn mê và cố tìm cách giao tiếp.”
“Đúng”, Langdon nói, “cứ lẩm bẩm ‘Vasari, Vasari’”.
“Vâng, nhưng trước đó… trước khi chúng tôi kịp lấy máy ghi âm, vào những khắc đầu tiên sau khi anh đến, tôi vẫn nhớ anh nói một điều khác. Anh chỉ nói đúng một lần, nhưng tôi tin là mình đã hiểu.”
“Tôi đã nói gì?”
Sienna ngước nhìn về phía chiếc máy bay và sau đó quay lại Langdon. “Anh nói, ‘Tôi nắm giữ chìa khóa tìm ra nó… nếu tôi thất bại, khi đó tất cả sẽ chết’”.
Langdon chỉ biết tròn mắt.
Sienna nói tiếp. “Tôi nghĩ anh nhắc đến vật trong túi áo khoác của mình, nhưng giờ thì tôi không dám chắc.”
Nếu tôi thất bại, khi đó tất cả sẽ chết? Mấy từ này tác động đến Langdon rất mạnh. Những hình ảnh chết chóc đầy hăm dọa lóe lên trước mắt anh… Hỏa ngục của Dante, biểu tượng hiểm họa sinh học, vị bác sĩ dịch hạch. Lại một lần nữa, gương mặt của người phụ nữ tóc bạc xinh đẹp hiện ra, cầu xin anh từ phía dòng sông máu Hãy tìm và sẽ thấy! Thời gian đang cạn dần!
Giọng Sienna kéo anh trở lại. “Rốt cuộc, dù cái máy chiếu này dẫn tới đâu… hay anh đang phải tìm thứ gì, đó nhất định là thứ cực kỳ nguy hiểm. Sự thực là có người đang tìm cách giết chúng ta…” Giọng cô hơi run run, và phải mất một lúc để định thần. “Hãy nghĩ về điều đó. Họ vừa bắn anh ngay giữa thanh thiên bạch nhật… bắt cả tôi – người ngoài cuộc vô tội. Dường như không ai tìm cách thương thuyết. Chính phủ của anh thù địch với anh… Anh gọi cho họ cầu cứu nhưng họ lại cử người tới giết anh.”
Langdon nhìn mông lung xuống đất. Việc tòa Lãnh sự Hoa Kỳ tiết lộ vị trí của Langdon cho kẻ sát nhân hay chính tòa lãnh sự cử sát thủ tới cũng không đáng quan tâm. Bởi vì kết quả cuối cùng vẫn như nhau. Chính phủ của mình không đứng về phía mình.
Langdon nhìn sâu vào đôi mắt màu nâu của Sienna và thấy sự can trường. Mình khiến cô ấy dính vào vì cái gì? “Ước gì tôi biết được thứ chúng ta đang tìm. Điều đó sẽ giúp tất cả việc này trở lại đâu vào đấy.”
Sienna gật đầu. “Cho dù là gì, tôi nghĩ chúng ta cần phải tìm ra nó. Ít nhất nó sẽ cho chúng ta động lực.”
Lập luận của cô ấy thật khó phản bác. Nhưng Langdon vẫn cảm thấy điều gì đó khúc mắc. Nếu tôi thất bại, khi đó tất cả sẽ chết. Suốt buổi sáng anh đã phải đánh vật với những biểu tượng kinh khủng của hiểm họa sinh học, dịch bệnh và địa ngục của Dante. Phải thừa nhận, anh không có bằng chứng rõ ràng xem mình đang tìm kiếm thứ gì, nhưng anh không ngốc đến mức không cân nhắc tới khả năng tình huống này có liên quan đến một thứ dịch bệnh chết người hoặc một hiểm họa sinh học quy mô lớn. Nhưng nếu đúng như vậy thì tại sao chính phủ lại tìm cách loại trừ anh.
Phải chăng bằng cách nào đó mình có liên can tới một vụ tấn công tiềm năng?
Điều đó cũng hết sức phi lý. Vẫn còn gì đó khác đang diễn ra ở đây.
Langdon lại nghĩ tới người phụ nữ tóc bạc. “Trong ảo giác của tôi còn có người phụ nữ. Tôi cảm thấy mình cần tìm bà ấy.”
“Vậy thì hãy tin vào cảm giác của anh”, Sienna nói. “Trong điều kiện của anh, kim chỉ nam tốt nhất anh có chính là tiềm thức. Đây là tâm ký thông thường – nếu lòng anh bảo hãy tin tưởng người phụ nữ đó, tôi nghĩ anh nên làm đúng những gì bà ấy muốn.”
“Hãy tìm và sẽ thấy”, họ đồng thanh nói.
Langdon thở phào, biết rằng con đường của mình đã sáng tỏ.
Tất cả những gì mình có thể làm là tiếp tục bơi xuống đường hầm này.
Khi đã quyết tâm trở lại, anh xoay người và bắt đầu để ý xung quanh, cố gắng nắm bắt tình thế. Đường nào ra khỏi khu vườn này nhỉ?
Họ đang đứng dưới những tán cây ở rìa một quảng trường rộng nơi có vài lối đi cắt nhau. Cách một quãng bên trái, Langdon chú ý tới một đầm nước hình bầu dục với hòn đảo nhỏ được tô điểm bằng cây chanh và một bức tượng. Isolotto, anh thầm nghĩ, nhận ra ngay tác phẩm điêu khắc nổi tiếng mô tả anh hùng Perseus cưỡi một con ngựa chìm nửa người đang vọt lên khỏi mặt nước.
“Cung điện Pitti ở lối này”, Langdon nói, chỉ về phía đông, rời xa khỏi tượng Isolotto, tới lối đi chính của khu vườn - Viottolone, chạy theo hướng đông tây dọc toàn bộ chiều dài của khu vườn. Viottolone rộng bằng một con đường hai làn xe với hai hàng cây bách mảnh mai bốn trăm năm tuổi.
“Không có chỗ trú ẩn”, Sienna nói, đưa mắt nhìn con đường không được ngụy trang và ra hiệu về phía chiếc máy bay đang lượn vòng tròn.
“Cô nói đúng”, Langdon nói kèm một nụ cười méo xệch. “Đó là lý do chúng ta phải chọn đường hầm bên cạnh.”
Lần này anh lại chỉ tay về phía một hàng rào rậm rạp kế bên lối vào Viottolone. Bức tường cây cối dày đặc có một cổng vòm nhỏ trổ vào trong. Qua cổng vào, có một lối đi hẹp chạy tít ra xa -một đường hầm nằm song song với Viottolone. Nó được khép kín một đầu bằng một khoảnh những cây sồi xanh được xén tia và chăm chút cẩn thận từ những năm 1600, hướng cành vào mé trong, trùm lên lối đi, đan lấy nhau phía trên đầu tạo thành một mái che bằng tán lá. Tên gọi của lối đi, La Cerchiata - theo nghĩa đen là “hình tròn” hoặc “đánh đai” - xuất phát từ vòm lá của những hàng cây được uốn cong trông giống như những đai thùng, hay cerchi, tức là “vòng tròn”.
Sienna nhanh chóng bước tới lối vào và chăm chú quan sát bên trong đường hầm râm mát. Sau đó cô quay trở lại chỗ anh và mỉm cười. “Tốt hơn hẳn!”
Không bỏ phí thời gian, cô luồn qua lối vào và khuất trong những hàng cây.
Langdon luôn coi La Cerchiata là một trong những địa điểm thanh bình nhất Florence. Tuy nhiên, hôm nay, khi anh nhìn Sienna biến mất trong lối đi tối tăm, anh lại nghĩ đến những người thợ lặn tự do Grecia đang bơi vào đường hầm san hô và cầu mong tới được lối ra.
Langdon nhanh chóng cầu nguyện rồi vội vã đi theo cô.
o O o
Cách họ nửa dặm phía sau, bên ngoài Học viện Nghệ thuật, đặc vụ Brüder sải bước qua đám đông cảnh sát và sinh viên, ánh mắt lạnh băng của anh ta rẽ đám đông trước mặt. Anh ta đi thẳng tới sở chỉ huy dã chiến, vừa được chuyên gia theo dõi của anh ta thiết lập trên mui xe thùng màu đen.
“Từ máy bay trinh sát không người lái”, tay chuyên gia nói, trao cho Brüder một màn hình máy tính bảng. “Chụp được vài phút trước.”
Brüder kiểm tra các ảnh tĩnh video, dừng lại trước bản phóng to hơi nhòe hai gương mặt – một người đàn ông tóc sẫm màu và một cô gái tóc vàng để đuôi ngựa – cả hai nép trong bóng râm và đang nhìn lên bầu trời qua các tán cây.
Robert Langdon.
Sienna brooks.
Không nghi ngờ gì nữa!
Brüder quay sang tờ bản đồ vườn Boboli trải rộng trên mui xe. Lựa chọn của họ rất tệ, anh ta nghĩ, mắt nhìn sơ đồ khu vườn. Mặc dù lộn xộn, rối rắm, và có rất nhiều chỗ ẩn nấp, nhưng khu vườn cũng bị những bức tường cao vây kín ở mọi phía. Vườn Boboli là thứ gần gũi với một tuyệt lộ tự nhiên nhất mà Brüder từng nhìn thấy trên thực địa.
Họ sẽ không bao giờ thoát ra được.
“Giới chức địa phương đã phong tỏa mọi lối ra”, tay chuyên gia nói. “Và đang bắt đầu rà quét.”
“Giữ liên lạc với tôi”, Brüder nói.
Anh ta chậm rãi nhướng mắt về phía ô cửa sổ polycarbonate dày cộp của xe, và nhìn thấy người phụ nữ tóc bạc ngồi ở ghế sau.
Thứ thuốc họ đưa rõ ràng đã làm tê liệt mọi giác quan của bà ấy - mạnh hơn Brüder hình dung. Tuy nhiên, anh ta có thể khẳng định rằng bà ấy biết rõ những gì đang xảy ra, căn cứ vào vẻ hãi hùng trong mắt bà ấy.
Trông bà ấy không vui, Brüder nghĩ. Mà tại sao bà ấy lại như vậy?
 


Chương 26


Một tia nước bắn vọt lên không chừng sáu mét.
Langdon nhìn tia nước nhẹ nhàng rơi trở lại mặt đất và biết rằng họ đang đến gần. Họ đã tới phía cuối đường hầm tạo thành từ vòm lá La Cerchiata và chạy băng qua một bãi cỏ trống để luồn vào khoảnh rừng toàn cây bẩn. Lúc này họ đang nhìn ra đài phun nước nổi tiếng nhất của Boboli - bức tượng của Stoldo Lorenzi mô tả thần biển Neptune tay cầm cây đinh ba. Được người địa phương gọi nôm na là “Đài phun nước cái dĩa”, công trình này được coi là điểm trung tâm của khu vườn.
Sienna dừng lại ở rìa lùm cây và ngước mắt nhìn qua các tán lá. “Tôi không thấy cái máy bay đâu!”
Langdon cũng không còn nghe thấy tiếng nó nữa, vì tiếng của đài phun nước khá ồn ã.
“Chắc nó đang được tiếp nhiên liệu”, Sienna nói. “Đây là cơ hội của chúng ta, đường nào đây?”
Langdon dẫn cô đi về bên trái, và họ bắt đầu lần xuống một đoạn dốc cao. Khi ra khỏi lùm cây, họ đã nhìn thấy ngay Cung điện Pitti.
“Tòa nhà nhỏ nhắn xinh xắn”, Sienna thì thào.
“Cách nói khiêm tốn đặc trưng nhà Medici”, anh đáp lại vẻ bông đùa,
Vẫn còn cách xa họ gần một phần tư dặm, song mặt chính bằng đá của Cung điện Pitti như thống trị toàn bộ khung cảnh, trải rộng sang hai bên. Ngoại thất bằng đá trát vữa nhám phồng lên đem lại cho công trình một thần thái uy quyền cương nghị, thần thái ấy càng mạnh mẽ hơn nhờ thiết kế lặp đi lặp lại của những ô cửa chớp cùng các ô hở lấy sáng hình vòm. Theo truyền thống, các cung điện trang trọng đều tọa lạc trên những khu đất cao để bất kỳ ai trong khu vườn cũng phải ngước nhìn. Tuy nhiên, Cung điện Pitti lại nằm ở thung lũng thấp gần sông Aron, nghĩa là những người ở trong vườn Boboli đều phải nhìn xuống mới thấy nó.
Tác dụng này càng gây ấn tượng hơn. Một kiến trúc sư đã mô tả rằng cung điện dường như do chính tự nhiên tạo ra, như thể những khối đá đồ sộ trong một vụ sạt lở đất đã trôi xuống cả đoạn dốc dài và dồn lại thành một đống gọn gàng dưới chân dốc. Mặc dù có vị thế phòng thủ kém vì ở trên khu đất thấp, kết cấu đá vững vàng của Cung điện Pitti vẫn ấn tượng đến mức Napoleon từng sử dụng nó như một căn cứ quyền lực trong thời gian ông lưu trú tại Florence.
“Nhìn kìa”, Sienna nói, chỉ tay về những cánh cửa gần nhất của cung điện. “Có tin tốt lành rồi.”
Langdon cũng nhìn theo. Vào cái buổi sáng lạ lùng này thì hình ảnh được mong chờ nhất không phải là tòa cung điện mà là từng đoàn du khách ùn ùn kéo ra khỏi tòa nhà, tràn vào những khu vườn mé dưới. Cung điện đã mở cửa, nghĩa là Langdon và Sienna có thể lẻn vào trong rồi băng qua tòa nhà để thoát ra ngoài dễ dàng hơn. Một khi đã ra khỏi cung điện, Langdon biết họ sẽ thấy sông Arno bên phải, và sau khi vượt qua đó, họ sẽ tới được những ngọn tháp của thành cổ.
Anh và Sienna vẫn di chuyển dần xuống đường dốc. Trên đường xuống, họ đi ngang qua Đài vòng Boboli - địa điểm tổ chức những màn trình diễn opera đầu tiên trong lịch sử - nằm nép mình như cái móng ngựa bên sườn đồi. Hết quãng đường dốc, họ băng qua cột tháp Ramses II và tác phẩm “nghệ thuật” kém may mắn được đặt ở đế tháp. Các sách hướng dẫn du lịch nhắc đến tác phẩm này như là “phần đế bằng đá đồ sộ từ Nhà tắm Caracalla ở Rome”, nhưng Langdon luôn nhìn nhận nó theo đúng ý nghĩa thật – cái bồn tắm lớn nhất thế giới. Người ta thật sự cần đặt thứ này ở nơi khác.
Cuối cùng, họ cũng tới được khu phía sau của cung điện và đi bộ từ tốn, kín đáo lẩn vào đoàn du khách đầu tiên trong ngày. Họ di chuyển ngược chiều dòng người, đi xuống một đoạn đường hầm hẹp để vào giếng trời, một khoảnh sân trong nhà nơi có những vị khách đang ngồi thưởng thức ly cà phê buổi sáng trong quán cà phê tiện lợi của cung điện. Không khí tràn ngập mùi cà phê mới, Langdon bỗng nhiên thèm được ngồi xuống và tận hưởng một bữa sáng lịch sự. Hôm nay không phải lúc rồi, anh nghĩ khi hai người băng qua đó, lọt vào một hành lang rộng dẫn về phía cửa chính của cung điện.
Lúc tới gần cửa, Langdon và Sienna vấp phải đám du khách dồn ứ lại ngày càng đông ở cổng để quan sát gì đó bên ngoài. Langdon cố nhìn qua đám đông ra khu vực phía trước cung điện.
Theo như anh còn nhớ thì lối vào rộng rãi của Cung Pitti nhìn không mấy dễ chịu. Thay vì bãi cỏ và cảnh quan được cắt tỉa chăm chút, sân phía trước là một khoảng trống lát đá trải rộng toàn bộ sườn đồi, lan cả xuống Đại lộ Via dei Guicciardini như một dốc trượt băng lát đá hoành tráng.
Langdon đã nhìn thấy thứ khiến đám đông tò mò ở dưới chân đồi.
Phía dưới Quảng trường Pitti, có đến nửa tá xe cảnh sát đang đổ dồn đến từ mọi hướng. Một nhóm nhỏ sĩ quan đang tiến lên đồi, tay mang vũ khí và tỏa ra để chặn toàn bộ phía trước cung điện.
 


Chương 27


Khi cảnh sát tiến vào Cung điện Pitti thì Sienna và Langdon đã đi rồi. Họ men theo đúng lối cũ bên trong cung điện và tránh xa lực lượng cảnh sát đang tiến vào. Họ lẩn nhanh qua giếng trời và quán cà phê, nơi những tiếng xì xầm đang loang ra, đám du khách nháo nhác nhìn ngó, cố tìm xem đâu là nguyên nhân của tình trạng hỗn loạn này.
Sienna ngạc nhiên khi giới chức tìm thấy họ nhanh như vậy. Cái máy bay không người lái biến mất vì họ đã phát hiện ra bọn mình.
Cô và Langdon tìm lại được đường hầm hẹp lúc họ từ vườn đi xuống, và không do dự lẩn ngay vào đó để leo ngược lên những bậc thang. Đầu cầu thang chếch sang trái về phía một bức tường chắn khá cao. Khi chạy men theo tường, họ thấy bức tường bên cạnh mình càng lúc càng thấp xuống, cho tới khi họ có thể nhìn vượt qua tường sang phía vườn Boboli.
Langdon lập tức nắm lấy tay Sienna và kéo cô lùi lại, khuất khỏi tầm nhìn phía sau bức tường chắn. Sienna cũng đã nhìn thấy.
Cách đó ba trăm thước, trên đầu dốc phía trên khán đài vòng, một toán cảnh sát đang đi xuống, lùng sục trong các lùm cây, hỏi han du khách, và liên lạc với nhau bằng bộ đàm.
Chúng ta mắc kẹt rồi!
Lần đầu tiên gặp Robert Langdon, Sienna không thể tưởng tượng nổi mọi việc lại trở nên phức tạp như bây giờ. Như thế này còn hơn cả mình dự tính. Lúc rời khỏi bệnh viện cùng với Langdon, cô cứ nghĩ họ đang chạy trốn một ả đầu đinh có súng. Giờ thì họ đang trốn chạy cả một đội quân và giới chức Ý. Cô nhận ra cơ hội trốn thoát của họ lúc này gần như bằng không.
“Còn lối nào thoát ra không?”, Sienna thở hổn hển hỏi.
“Tôi không nghĩ là còn”, Langdon nói. “Khu vườn này là một thành phố có tường bao, giống như…” Anh đột ngột dừng lại, ngoảnh nhìn về phía đông. “Giống như… Vatican vậy.” Một tia hy vọng kỳ lạ chợt hiện trên gương mặt anh.
Sienna không rõ Vantican có liên quan gì đến tình thế mắc kẹt của họ lúc này, nhưng Langdon bỗng gật đầu, mắt đăm đăm nhìn về phía đông tới khu vực phía sau cung điện.
“Chỉ một quãng ngắn”, anh nói, hối hả kéo cô theo anh. “Nhưng có thể có một lối khác ra khỏi đây.”
Hai bóng người đột nhiên hiện ra trước mặt họ, vừa ngoặt gấp chỗ góc bức tường chắn, gần như đâm sầm vào Sienna và Langdon. Cả hai nhân vật này đều mặc đồ đen, và trong lúc hoảng hốt, Sienna nghĩ đó là những người lính cô đã chạm trán ở tòa chung cư. Nhưng khi họ đi qua, cô nhận ra họ chỉ là những du khách - người Ý, cô đoán vậy, căn cứ vào trang phục đồ da đen thời trang của họ.
Sienna chợt nảy ra một ý, cô níu lấy cánh tay một du khách và cố gắng mỉm cười với ông ấy hòa nhã hết mức. “Làm ơn chỉ cho chúng tôi lối tham quan Galleria del costme?”, cô hỏi bằng tiếng Ý trôi chảy lối tới phòng trưng bày trang phục nổi tiếng của cung điện. “Tôi và anh trai bị muộn giờ một tour riêng.”
“Rất sẵn lòng!” Vị khách cười tươi với cả hai, vẻ sẵn lòng giúp đỡ họ. “Cứ đi thẳng theo lối này!” Ông ấy quay đi và chỉ về phía tây, men theo bức tường chắn, ngược hẳn hướng Langdon đang quan sát.
“Cảm ơn rất nhiều!”, Sienna lại mỉm cười khi hai người đàn ông bỏ đi.
Langdon gật đầu vẻ ấn tượng với Sienna, rõ ràng hiểu hết ý định của cô. Nếu cảnh sát tiến hành hỏi han du khách, có thể họ sẽ tưởng rằng Langdon và Sienna đã đi tới phòng trưng bày trang phục mà theo tấm bản đồ ở trên bức tường trước mặt họ, nơi này nằm ở đầu phía tây của cung điện… xa hết mức so với hướng của họ lúc này.
“Chúng ta cần phải tới được lối đi đằng kia”, Langdon nói, ra hiệu qua khoảng sân trống trải về phía lối đi chạy xuống một quả đồi khác cách xa cung điện. Lối đi rải sỏi vụn nằm nép trên sườn đồi, bên những hàng rào cây sum suê, đủ chỗ ẩn mình trước những nhân viên công quyền lúc này đang tiến xuống đồi, chỉ còn cách khoảng một trăm thước.
Sienna cho rằng cơ hội họ băng được qua khu trống trải để tới lối đi kín đáo kia là rất nhỏ. Mọi du khách đều tập trung ở đây, nhìn đám cảnh sát với ánh mắt tò mò. Tiếng kêu loáng thoáng của chiếc máy bay không người lái nghe rõ dần, đang tiến lại từ phía xa.
“Làm ngay hoặc hết cơ hội”, Langdon nói, nắm lấy tay Sienna và kéo cô lao ra khoảng sân trống, luồn qua đám đông du khách đang dồn lại. Sienna phải cố kìm lòng không chạy, nhưng Langdon giữ chặt tay cô, đi nhanh nhưng hết sức bình tĩnh qua đám người.
Cuối cùng, khi đến được đầu đường, Sienna liếc nhìn lại phía sau để xem liệu họ có bị phát giác không. Những sĩ quan cảnh sát duy nhất lọt vào tầm nhìn đều đang ngoảnh sang hướng khác, ánh mắt họ đều dõi lên bầu trời về phía tiếng động cơ của chiếc máy bay đang bay lại gần.
Cô cúi xuống và bước vội theo Langdon.
Trước mặt họ lúc này, đường chân trời của thành cổ Florence cổ kính hiện lên phía trên những tán cây, nhìn rõ mồn một phía trước. Cô thấy phần mái vòm ngói đỏ của Vương cung Thánh đường Duomo cùng ngọn tháp chuông Giotto xanh, đỏ, trắng. Phía xa, cô nhận ra lỗ châu mai của cung điện Vecchio - cái đích dường như không thể đặt chân tới của họ, nhưng khi họ đi xuống, những tường bao rất cao che kín tầm nhìn đã giúp họ trốn thoát.
Khi xuống đến chân đồi, Sienna thở không ra hơi và thắc mắc liệu Langdon có ý tưởng gì về nơi họ đang đến không. Con đường dẫn thẳng vào một khu vườn mê cung, nhưng Langdon rất tự tin rẽ trái, đi vào một khoảnh sân rộng rãi rải sỏi, men theo mép sân, lẩn sau hàng rào bên dưới những bóng cây vươn cao. Khoảnh sân vắng tanh, giống bãi đỗ xe của nhân viên hơn một khu du lịch.
“Chúng ta đang đi đâu đây?”, rốt cuộc Sienna cũng phải lên tiếng, thở hổn hển.
“Gần đến rồi.”
Gần đến đâu? Toàn bộ khoảnh sân được bao kín trong những bức tường cao tới ba tầng nhà. Lối ra duy nhất Sienna nhìn thấy là một cánh cổng cho xe ở bên trái, lúc này đóng kín trong khung cửa bằng sắt rèn đồ sộ trông như xuất hiện nguyên vẹn cùng với tòa cung điện từ thời của những đội quân cướp bóc. Phía ngoài chướng ngại này, cô thấy rất nhiều cảnh sát tụ tập tại Quảng trường Pitti.
Langdon vẫn bám sát hàng rào cây cối bao quanh, tiến về phía trước, đến chỗ bức tường trước mặt họ. Sienna đưa mắt nhìn mặt tiền để xem có ô cửa nào ngỏ không, nhưng tất cả những gì cô nhìn thấy chỉ là một hốc tường, đặt những bức tượng gớm ghiếc nhất cô từng biết.
Lạy Chúa lòng thành, nhà Medici có đủ tiền chi cho bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào trên trái đất, nhưng họ lại chọn thứ này sao?
Bức tượng trước mặt họ mô tả một gã lùn trần truồng, béo ị cưỡi trên con rùa khổng lồ. b.ìu của gã ép chặt vào mai rùa, còn miệng con rùa nhễu nước ròng ròng, như thể đang bị ốm.
“Tôi biết”, Langdon nói, vẫn không ngừng sải bước. “Đó là tượng Braccio di Bartolo - một gã lùn phục vụ cung đình nổi tiếng. Nếu cô muốn biết nhận xét của tôi thì tôi cho rằng lẽ ra người ta nên tống gã vào một cái bồn tắm thật lớn.”
Langdon quay ngoắt sang phải, đi xuống một dãy bậc mãi đến lúc này Sienna mới nhìn thấy.
Một lối thoát ư?!
Tia hy vọng sớm tàn.
Khi rẽ vào và đi xuống bậc thang theo sau Langdon, cô nhận ra họ đang lao vào một ngõ cụt - một đường đi không lối thoát với những bức tường cao gấp đôi lúc trước.
Hơn nữa, giờ đây Sienna cảm thấy chuyến đi đằng đẵng của họ sắp kết thúc ở một cái miệng hang há hốc khoét sâu vào bức tường hậu. Đây không thể là nơi anh ấy đưa cả hai tới được!
Phía trong lối vào hang toang hoác, toàn những nhũ đá sắc như dao găm đầy hăm dọa. Trong lòng hang, những yếu tố địa chất vẫn đang hình thành, quyện với nhau và chảy dọc vách hang như thể lớp đá đang tan chảy… biến thành những hình dạng kỳ dị. Với tâm trạng hoảng hốt của Sienna thì trông chúng chẳng khác gì những hình người bị chôn một nửa và trồi ra khỏi vách hang như thể đang bị đá ăn thịt. Toàn bộ cảnh tượng này gợi cho Sienna nhớ điều gì đó trong bức Vực Địa ngục của Botticelli.
Còn Langdon, chẳng hiểu sao không hề bối rối mà cứ tiếp tục chạy thẳng vào miệng hang. Trước đó anh đã nhắc đến thành phố Vatican, nhưng Sienna chắc chắn không hề có lòng hang quái đản nào bên trong những bức tường của Tòa thánh.
Khi họ đến gần hơn, Sienna đưa mắt nhìn phần phía trên lối vào - một cấu trúc ma quái gồm những nhũ đá và khối đá u ám trồi ra trông như đang nhấn chìm hai người phụ nữ ngồi dựa vào đó, bên sườn có một tấm khiến mang sáu quả đạn, hay palle, chính là hình gia huy nổi tiếng của gia tộc Medici.
Langdon đột nhiên ngoặt sang trái, rời khỏi lối vào và tiến tới một nơi mà lúc trước Sienna không để ý - một cánh cửa màu xám nhỏ ở bên trái hang. Làm bằng gỗ và đá cũ, cánh cửa có vẻ chẳng mấy quan trọng, giống như một cửa nhà kho nhỏ hay phòng chứa dụng cụ tôn tạo cảnh quan.
Langdon chạy nhanh tới cánh cửa, rõ ràng hy vọng có thể mở được, nhưng nó không hề có tay nắm - chỉ có một lỗ khóa bằng đồng - và đương nhiên là chỉ có thể mở từ bên trong.
“Khốn kiếp!” Giờ đây mắt Langdon đầy vẻ lo lắng, mọi hy vọng lúc trước của anh tan biến. “Tôi cứ hy vọng…”
Bất ngờ, tiếng động cơ rì rì của chiếc máy bay không người lái vang lên rất to phía ngoài những bức tường cao bao quanh họ. Sienna ngoảnh lại, nhìn thấy chiếc máy bay đang lượn lên phía trên cung điện và bay về phía họ.
Rõ ràng, Langdon cũng đã nhìn thấy nó, anh nắm lấy tay Sienna và chạy vội về phía hang. Họ vừa kịp biến mất bên dưới những nhũ đá của hang chỉ trong tích tắc.
Một kết cục hợp lý, cô nghĩ thầm. Đâm đầu lao qua những cánh cổng địa ngục.
 


Chương 28


Khoảng bốn trăm mét về phía đông, Vayentha đỗ xe máy lại. Ả đã băng ngang thành cổ qua lối Ponte alle Grazie và sau đó đi vòng tới Ponte Vecchio - cây cầu bộ hành nổi tiếng nối Cung điện Pitti với thành cổ. Sau khi gài mũ bảo hiểm vào xe, ả sải bước lên cầu thang và hòa vào dòng du khách buổi sớm.
Một làn gió nhé tháng Ba mát mẻ thổi ngược lên từ sông, làm mái tóc kiểu đầu đinh cũn cỡn của Vayentha càng dựng lên, nhắc ả nhớ rằng Langdon biết ả trông như thế nào. Ả dừng lại một trong nhiều quầy hàng rong trên cầu và mua chiếc mũ bóng chày hiệu AMO FIRENZE, kéo mũ sụp xuống che bớt mặt.
Ả chỉnh lại bộ đồ da để không lộ chỗ phồng lên do khẩu súng và chiếm một vị trí gần giữa cầu, hững hờ dựa vào một cây cộc và ngoảnh mặt về phía Cung điện Pitti. Từ đây, ả có thể quan sát tất cả khách bộ hành đang vượt sông Arno để đi vào trung tâm Florence.
Langdon đi bộ, ả tự nhủ. Nếu anh ta tìm cách vòng qua Porta Romana thì cây cầu này là lối hợp lý nhất để vào thành cổ.
Phía tây, theo hướng Cung điện Pitti, ả nghe rõ những tiếng còi và tự hỏi không biết thế này là tin vui hay tin buồn. Họ vẫn đang tìm anh ta chăng? Hay họ đã tóm được anh ta rồi. Trong lúc Vayentha dỏng tai tìm kiếm manh mối về những câu chuyện đang xảy ra thì một âm thanh đột ngột vang lên - tiếng rồ rồ rất to ở đâu đó trên đầu. Ả nhìn lên trời và nhận ra thứ đó ngay lập tức - một chiếc trực thăng nhỏ điều khiển từ xa đang vọt lên rất nhanh phía trên cung điện rồi sà xuống trên những ngọn cây về góc đông bắc của vườn Boboli.
Một máy bay trinh thám không người lái, Vayentha nghĩ, thoáng thấy chút hy vọng. Nếu nó bay trên trời thế kia thì Brüder vẫn chưa tìm thấy Langdon rồi.
Chiếc máy bay bay rất nhanh. Rõ ràng nó đang sục sạo góc đông bắc của khu vườn, nơi gần Ponte Vecchio và vị trí của Vayentha nhất, điều đó càng khiến ả nhen nhóm thêm hy vọng.
Nếu Langdon thoát khỏi Brüder, chắc chắn anh ta sẽ di chuyển theo hướng này.
Tuy nhiên, Vayentha đang quan sát thì chiếc máy bay đột nhiên bổ nhào mất hút phía sau bức tường đá cao. Ả vẫn nghe thấy tiếng nó lượn lờ ở đâu đó phía dưới hàng cây… Rõ ràng đã tìm ra thứ gì đó đáng để quan tâm.
 


Chương 29


Hãy tìm kiếm và anh sẽ thấy, Langdon nghĩ trong lúc cùng Sienna nép người trong hang tối lờ mờ. Chúng ta đã tìm kiếm một lối thoát… và tìm thấy một ngõ cụt.
Đài phun nước có hình dạng phức tạp ở chính giữa hang là một vật chắn tốt, nhưng khi Langdon nhìn ra ngoài từ phía sau nó, anh cảm thấy mọi việc đã quá muộn.
Chiếc máy bay không người lái vừa bổ nhào xuống lối cụt có tường cao, đột ngột dừng ngay phía ngoài hang rồi bay đứng lơ lửng một chỗ, chỉ cách mặt đất khoảng ba mét, hướng về phía hang, phát ra tiếng kêu ro ro giống hệt một giống côn trùng bị chọc tức đang đợi con mồi.
Langdon lùi lại và thì thào cho Sienna biết tin không hay. “Tôi nghĩ nó biết chúng ta ở đây.”
Tiếng rền rĩ rất to của chiếc máy bay dội lại từ các vách đá, gần như khiến người trong hang điếc tai. Langdon thấy thật khó tin là họ lại bị giữ làm con tin bởi một máy bay trực thăng thu nhỏ, nhưng anh biết rằng việc cố chạy thoát sẽ chẳng có kết quả. Giờ chúng ta làm gì đây? Chỉ đợi thôi ư? Kế hoạch lọt vào phía sau cánh cửa xám ban đầu vốn hợp lý, trừ việc anh không nhận ra cánh cửa đó chỉ có thể mở được từ bên trong.
Khi mắt đã quen với lòng hang tối tăm, Langdon bắt đầu quan sát xung quanh họ, tự hỏi liệu còn lối thoát nào không. Anh chẳng nhìn thấy gì khả dĩ. Trong lòng hang toàn những hình khắc người và động vật, tất cả đều đang dần bị ăn mòn trên những bức tường thấm nước. Chán nản, Langdon nhướng mắt nhìn lên trần hang, toàn những nhũ đá chĩa xuống đầy hăm dọa.
Một nơi rất tốt để chết.
Động Buotalenti - được đặt theo tên người kiến tạo ra nói là Bernardo Buotalenti - được nhiều người cho là nơi kỳ dị nhất ở Florence. Ban đầu được dự kiến là một dạng nhà cười cho du các du khách trẻ tới thăm quan Cung điện Pitti, hệ thống hang ba lòng này được bài trí pha trộn giữa phong cách tưởng tượng theo chủ nghĩa tự nhiên và kiến trúc Gothic. Kiểu bài trí này gồm những chi tiết giống như các khối kết thành giọt và đá bọt nhễu chảy, nhìn như đang nuốt lấy hoặc thổ ra vô số những hình thù được tạo tác. Dưới thời gia tộc Medici, hang này có nước chảy xuống những bức tường bên trong, vừa có tác dụng làm mát trong những ngày hè nóng nực đồng thời tạo hiệu ứng của một cái hang thực sự.
Langdon và Sienna ẩn mình trong lòng hang đầu tiên và cũng là lớn nhất phía sau đài phun nước không rõ hình dạng ở trung tâm. Xung quanh họ là những hình thù sặc sỡ gồm người chăn cừu, nông dân, nhạc công, động vật, và thậm chí cả bản sao bốn tù nhân của Michelangelo, tất cả đều như đang cố gắng thoát ra khỏi lớp đá đang ngoạm lấy họ. Tít phía trên cao, ánh sáng buổi sớm rọi xuống qua ô sáng trên trần, nơi từng có quả cầu thủy tinh rất lớn chứa đầy nước đựng những con cá chép đỏ rực bơi lội trong ánh nắng.
Langdon tự hỏi các vị khách thời Phục Hưng sẽ phản ứng như thế nào trước sự săm soi của một chiếc trực thăng thật - một giấc mơ huyễn tưởng của chính nghệ sĩ người Ý Leonardo da Vinci - bay lơ lửng bên ngoài hang.
Đúng lúc đó, tiếng động cơ đinh ta nhức óc của chiếc máy bay tắt ngấm. Nó không hề nhỏ dần mà chỉ là… đột ngột tắt phụt.
Ngơ ngác, Langdon nhìn ra từ phía sau đài phun nước và thấy rõ chiếc máy bay đã đáp xuống. Lúc này, nó đậu yên ở khoảng sân rải sỏi, trông không còn đáng ngại, đặc biệt là khi ống kính máy quay như cái vòi châm nọc độc phía trước chếch khỏi họ, lệch sang một bên, hướng về phía cánh cửa nhỏ màu xám.
Cảm giác nhẹ nhõm của Langdon chỉ vụt qua. Phía sau chiếc máy bay một trăm thước, gần bức tượng gã lùn và con rùa, ba người lính mang vũ khí đang sải bước xuống thang, tiến thẳng về phía hang.
Nhóm lính mặc đồng phục màu đen quen thuộc với phù hiệu xanh lá cây trên vai. Người đàn ông vạm vỡ đi đầu có cặp mắt vô hồn gợi cho Langdon nhớ tới chiếc mặt nạ dịch hạch trong ảo giác của mình.
Ta là cái chết.
Langdon không hề nhìn thấy chiếc xe thùng của họ cũng như người phụ nữ tóc bạc bí ẩn ở đâu cả.
Ta là sự sống.
Khi những người lính tiến vào, một trong số họ dừng lại ở chân cầu thang và xoay người về phía sau, rõ ràng muốn ngăn những người khác xuống khu vực này. Hai người còn lại tiếp tục tiến về phía hàng.
Langdon và Sienna lại di chuyển mặc dù chỉ là để trì hoãn điều tất yếu sẽ xảy ra. Họ bò lùi dần về phía sau để luồn vào lòng hang thứ hai nhỏ hơn, sâu và tối hơn. Nơi này cũng có một tác phẩm nghệ thuật ở chính giữa - bức tượng cặp tình nhân quấn lấy nhau - giờ là chỗ trú ẩn mới cho Langdon và Sienna.
Langdon nấp kín trong bóng tối, thận trọng nhìn qua đế bức tượng và quan sát những kẻ đột kích đang tiến vào. Khi hai người lính tới chỗ chiếc máy bay, một người dừng lại và cúi xuống nhấc nó lên để kiểm tra máy quay.
Không biết cái máy bay đã phát hiện ra bọn mình chưa? Langdon tự hỏi, cảm thấy e ngại vì mình đã biết câu trả lời.
Người lính thứ ba và cũng là người cuối cùng, nhân vật vạm vỡ có đôi mắt lạnh lẽo, vẫn lạnh lùng tiến thẳng về phía Langdon. Anh ta tiến tới gần cửa hang. Hắn sẽ vào. Đúng lúc Langdon chuẩn bị lùi lại sau bức tượng và nói với Sienna thế là hết rồi, thì anh chứng kiến một chuyện bất ngờ.
Người lính kia, thay vì bước vào hang, bỗng nhiên ngoặt sang trái và biến mất.
Hắn đi đâu nhỉ? Hắn không biết bọn mình ở đây à?
Một lát sau, Langdon nghe thấy tiếng đập - tiếng nắm tay nện trên gỗ.
Cánh cửa nhỏ màu xám, Langdon nghĩ thầm. Chắc chắn hắn biết nó dẫn đi đâu.
o O o
Nhân viên an ninh Cung điện Pitti tên Ernesto Russo lúc nào cũng muốn chơi bóng đá kiểu châu Âu, nhưng ở cái tuổi hai mươi chín và quá béo, cuối cùng anh đành phải chấp nhận rằng giấc mơ thời niên thiếu sẽ chẳng bao giờ trở thành hiện thực. Suốt ba năm qua, Ernesto làm chân bảo vệ tại Cung điện Pitti, luôn ngồi trong cái buồng bé bằng bao diêm, và đảm nhận công việc tẻ nhạt này.
Ernesto không lạ gì những du khách tò mò cứ gõ vào cánh cửa nhỏ màu xám bên ngoài văn phòng nơi anh vẫn ngồi, và anh thường mặc kệ cho tới khi họ chán. Nhưng hôm nay tiếng gõ rất mạnh và liên tục.
Bực bội, anh cố tập trung vào cái ti vi của mình, lúc này đang phát lại trận bóng ồn ã - đội Fiorentina gặp Juventus. Tiếng gõ càng to hơn. Cuối cùng, vừa nguyền rủa đám du khách, Ernesto vừa chui ra khỏi buồng trực rồi theo hành lang hẹp đi về phía tiếng gõ. Được nửa đường, anh dừng lại trước cánh cửa chấn song thép đồ sộ vẫn luôn chặn kín lối đi này, ngoại trừ vào một vài giờ đặc biệt.
Anh nhập chuỗi số bên ổ khóa và mở cửa, kéo nó sang bên. Sau khi bước qua cửa, anh làm theo đúng thủ tục và đóng cánh cửa thép phía sau mình. Rồi anh bước lại cánh cửa gỗ màu xám.
“Cửa đóng!”, anh quát to qua cửa, hy vọng người bên ngoài sẽ nghe thấy. “Các vị không được vào đây!”
Tiếng đập cửa vẫn tiếp tục.
Ernesto nghiến răng. Lại dân New York đây mà, anh phán đoán. Lúc nào cũng muốn cho bằng được. Lý do duy nhất đọi bóng Red Bulls của họ có được thành công trên vũ đài thế giới là vì họ “chôm chỉa” được một trong những huấn luyện viên giỏi nhất châu Âu.
Tiếng đập cửa vẫn tiếp tục, Ernesto miễn cưỡng mở cửa và đẩy hé ra vài phân. “Cửa đóng mà!”
“Có chuyện gì vậy?”, Ernesto hỏi, vẻ cảnh giác.
Phía sau gã lính kia, một gã thứ hai đang cúi xuống, chỉnh sửa thứ gì đó có vẻ như là một chiếc trực thăng đồ chơi. Cách xa hơn một chút, một gã nữa đứng canh cầu thang, Ernesto nghe rõ tiếng còi cảnh sát gần đó.
“Anh nói được tiếng Anh không?” Giọng gã lính rõ ràng không phải dân New York. Vùng nào của châu Âu nhỉ?
Ernesto gật đầu. “Một chút thôi!”
“Có ai đi qua cánh cửa này sáng nay không?”
“Không, thưa ngài! Không có ai cả.”
“Tốt lắm. Khóa chặt cửa nhé. Không cho phép ai ra vào. Rõ chưa?”
Ernesto nhún vai. Dù sao đó cũng là công việc của anh. “Rõ, tôi hiểu mà. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.”
“Cho tôi biết, cánh cửa này là lối vào duy nhất phải không?”
Ernesto ngẫm nghĩ. Về mặt kỹ thuật, cánh cửa này hiện được xem là một lối ra, đó là lý do nó không có tay nắm ở bên ngoài, nhưng anh hiểu những gì người kia hỏi. “Phải, tiếp cận vào đây chỉ có duy nhất cánh cửa này. Không còn lối nào khác.” Lối vào cũ bên trong cung điện đã bị bịt kín nhiều năm rồi.
“Thế còn lối thoát bí mật nào khác từ vườn Boboli không? Ngoài những cổng thông thường?”
“Không, thưa ngài. Chỗ nào cũng có tường cao. Đây là lối thoát bí mật duy nhất.”
Gã lính gật đầu. “Cảm ơn anh đã giúp đỡ!” Gã ra hiệu cho Ernesto đóng và khóa cửa lại.
Ernesto làm theo vẻ khó hiểu. Rồi anh quay trở lại hành lang, mở khóa cánh cửa chấn song thép, đi qua đó, khóa lại như cũ rồi quay lại với trận đấu bóng của mình.
 


Chương 30


Langdon và Sienna đã chớp được một cơ hội.
Trong khi gã lính vạm vỡ đang đập cửa, họ đã bò sâu hơn vào trong hang và lúc này đang ẩn trong lòng hang cuối cùng. Không gian chật cội này được trang trí bằng những hình gốm khảm và tượng thần rừng đẽo gọt xù xì. Ở chính giữa là bức điêu khắc to bằng kích thước người thật mô tả Thần Vệ nữ tắm. Trùng hợp là trong tình cảnh này, bức tượng như đang lo lắng ngoảnh nhìn qua vai.
Langdon và Sienna thu mình ở phần khuất của bệ tượng hẹp, chờ đợi, chăm chú nhìn cây măng đá hình cầu nhô lên phía vách hang sâu nhất.
“Mọi lối ra đều kín mít!”, một gã lính nói lớn đâu đó bên ngoài. Gã nói thứ tiếng Anh không rõ giọng nên Langdon không thể nhận diện được. “Cho máy bay hoạt động trở lại đi. Tao sẽ kiểm tra cái hang ở đây.”
Langdon cảm thấy Sienna cứng người ngay bên cạnh anh.
Mấy giây sau, những tiếng giày ủng nặng nề tiến vào trong hang. Tiếng bước chân nhanh qua lòng hang thứ nhất, nghe to dần khi gã lính tiến vào lòng hang thứ hai, thẳng về phía họ.
Langdon và Sienna nép vào nhau sát hơn.
“Này!”, một giọng nói khác vang lên phía xa, “Tóm được chúng rồi!”
Tiếng bước chân dừng lại.
Giờ thì Langdon có thể nghe rõ ai đó chạy vội trên lối đi trải sỏi về phía hang. “Có người nhận diện!”, giọng nói thở hổn hển xác nhận. “Chúng tôi vừa nói chuyện với mấy khách du lịch. Vài phút trước, người đàn ông và người phụ nữ đó hỏi họ hướng đi tới phòng trưng bày trang phục… nằm ở phía chái tây của cung điện.”
Langdon liếc nhìn Sienna. Dường như cô thoáng mỉm cười.
Gã lính lấy lại nhịp thở, tiếp tục nói. “Các lối ra phía tây là những lối đầu tiên bị chặn… và khả năng cao là chúng ta dồn họ mắc kẹt trong vườn rồi.”
“Thực thi nhiệm vụ của mày đi!”, gã lính gần hơn đáp. “Và gọi cho tao ngay khi mày xong việc.”
Có tiếng bước chân hối hả chạy đi lạo xạo trên sỏi, tiếng chiếc máy bay không người lái cất cánh trở lại, và sau đó, thật may… Tất cả chìm vào im lặng hoàn toàn.
Langdon định xoay sang bên để ngó qua bệ tượng nhưng Sienna nắm lấy tay anh chặn lại. Cô đưa một ngón tay lên môi và hất đầu về phía bóng người mờ mờ in trên vách hang phía sau. Gã lính chỉ huy vẫn đứng im lặng ở cửa hang.
Hắn đợi cái gì nhỉ?
“Brüder đây”, gã đột ngột lên tiếng. “Chúng tôi dồn được họ rồi. Tôi sẽ xác nhận lại ngay!”
Gã đang gọi điện thoại, và giọng gã nghe rất gần, như thể đang đứng ngay bên cạnh họ. Cái hang lúc này như một chiếc micro hình parabol, thu hết âm thanh về phía sau.
“Còn nữa”, Brüder nói. “Tôi vừa nhận được tin cập nhật từ bên tòa án. Căn hộ của cô gái kia có vẻ là cho thuê lại. Đồ đạc không có nhiều. Rõ ràng là chỉ ở ngắn hạn. Chúng tôi đã tìm thấy ống nghiệm, nhưng không thấy nhiều máy chiếu. Tôi nhắc lại, không thấy máy chiếu. Chúng tôi cho rằng nó vẫn đang nằm trong tay Langdon.”
Langdon cảm thấy lạnh toát khi nghe gã lính nói ra tên mình.
Tiếng bước chân to hơn, và Langdon nhận ra rằng gã lính đang tiến sâu vào hang. Dáng gã trông không còn vẻ hùng dũng mấy phút trước và lúc này nghe như thể đi dạo, khám phá trong hang trong khi nói chuyện điện thoại.
“Đúng”, gã lính nói. “Bên tòa án cũng xác nhận một cuộc gọi ra ngoài duy nhất ngay trước khi chúng tôi ập vào căn hộ.”
Lãnh sự quán Hoa Kỳ, Langdon nghĩ thầm, nhớ lại chuyện điện thoại của anh và việc ả sát thủ đầu đinh đến rất nhanh. Dường như ả đó đã biến mất, và bị thay thế bằng cả đội lính chuyên nghiệp này.
Bọn mình không thể chạy trốn chúng được mãi.
Tiếng giầy của gã lính trên nền đá giờ chỉ còn khoảng sáu mét và đang tiến lại gần. Gã đã bước vào lòng hang thứ hai và nếu tiếp tục đi đến cuối chắc chắn gã sẽ phát hiện bọn họ nép sau phần đế hẹp của bức Thần Vệ nữ.
“Sienna Brooks”, gã lính đột ngột xác nhận, mấy từ đó nghe rất rành rọt.
Sienna giật thót người bên cạnh Langdon, cô ngước mắt lên, cứ nghĩ gã lính sẽ chòng chọc nhìn xuống cô. Nhưng chẳng có ai ở đó cả.
“Giờ sẽ kiểm tra máy tính xách tay của cô ta”, giọng nói tiếp tục, cách khoảng ba mét. “Tôi chưa có báo cáo, nhưng chắc chắn là cùng cái máy tính chúng tôi dò tìm khi Langdon truy cập vào tài khoản email Harvard của anh ta.”
Nghe được tin này, Sienna ngoảnh sang Langdon vẻ không tin nổi, miệng há hộc nhìn anh với nét mặt sửng sốt… và tiếp đến là cảm giác bị phản bội.
Langdon cũng đờ đẫn không kém. Ra chúng lần được bọn mình bằng cách đó ư?! Thận chí đến lúc đó anh cũng không nghĩ ra được. Mình chỉ cần thông tin thôi mà! Langdon chưa kịp nói lời xin lỗi thì Sienna đã ngoảnh đi, nét mặt cô không biểu lộ gì.
“Đúng vây”, gã lính nói tiếp, tiến đến lối vào lòng hang thứ ba, chỉ cách Langdon và Sienna gần hai mét. Thêm hai bước chân nữa, chắc chắn gã sẽ nhìn thấy họ.
“Chính xác”, gã nói, bước thêm một bước nữa. Đột nhiên, gã dừng lại. “Chờ chút!”
Langdon cứng đờ, sẵn sàng với tình huống bị phát hiện.
“Chờ chút, tôi mất tín hiệu”, gã lính nói, và sau đó lùi lại vài bước về phía lòng hang thứ hai. “Tín hiệu kém. Được rồi…” Gã lắng nghe một lúc, sau đó đáp. “Được, tôi đồng ý, nhưng ít nhất chúng tôi biết đang đối đầu với ai.”
Nói xong, bước chân gã rút nhẹ dần ra khỏi hang, di chuyển trên bề mặt trải sỏi rồi sau đó biến mất.
Vai Langdon chùng xuống, anh quay sang Sienna, lúc này vẫn còn nguyên vẻ sợ hãi và giận dữ trong ánh mắt.
“Anh đã dùng máy tính của tôi?”, cô hỏi. “Để kiểm tra email của anh à?”
“Tôi xin lỗi… tôi nghĩ cô hiểu. Tôi cần tìm ra…”
“Vì thế bọn chúng tìm ra chúng ta! Và giờ chúng biết tên tôi!”
“Tôi xin lỗi, Sienna. Tôi không nhận ra…”. Langdon ấp úng vẻ hối lỗi.
Sienna quay đi, đăm đăm nhìn vô hồn về phía măng đá hình củ hành trên vách hang phía sau. Họ không nói gì suốt gần một phút. Langdon tự hỏi liệu Sienna có nhớ đến những đồ vật riêng tư đặt trên bàn của cô - chương trình biểu diễn vở Giấc mộng đêm hè và bài báo nói về cuộc đời cô khi còn là một cô bé phi thường. Cô ấy có nghi ngờ mình đã thấy chúng không nhỉ? Dẫu có thì cô cũng không hỏi, và Langdon thấy mình đã gây cho cô đủ phiền toái rồi nên anh không định nhắc đến nữa.
“Họ biết tôi là ai”, Sienna nhắc lại, giọng cô nhẹ đến mức Langdon gần như không nghe thấy. Mười giây tiếp theo, Sienna hít thở chậm rãi vài lần, như thể đang cố chấp nhận thực tế mới mẻ này. Trong lúc cô làm như vậy, Langdon cảm thấy vẻ cương nghị của cô đang từ từ trở lại.
Rất đột ngột, Sienna đứng thẳng lên. “Chúng ta phải đi”, cô nói. “Bọn chúng sẽ không mất nhiều thời gian để nhận ra chúng ta không hề ở trong khu trưng bày trang phục.”
Langdon đứng lên theo cô. “Đúng, nhưng đi… đâu đây?”
“Tòa thánh?”
“Sao cơ?”
“Cuối cùng tôi cũng hiểu ra ý anh nói lúc trước… điểm chung giữa Tòa thánh và vườn Boboli.” Cô ra hiệu về phía cánh cửa nhỏ màu xám. “Đó là lối vào, phải không?”
Langdon miễn cưỡng gật đầu. “Thực tế, đó là lối ra, nhưng tôi đoán nó là một lối tắt. Tiếc là chúng ta không thể đi qua.” Langdon đã nghe cuộc trò chuyện giữa anh chàng bảo vệ và gã lính nên biết rõ cánh cửa này không phải là một lựa chọn.
“Nhưng nếu chúng ta có thể đi qua”, Sienna nói, vẻ ranh mãnh thoáng trở lại trong giọng nói của cô, “anh có biết thế nghĩa là sao không?”. Một nụ cười nụ cười thoáng hiện trên môi cô. “Thế nghĩa là trong ngày hôm nay, anh và tôi đã hai lần được nghệ sĩ Phục Hưng này giúp đỡ đấy!”
Langdon bật cười vì mấy phút trước anh đã có ý nghĩ đúng như vậy. “Vasari. Vasari.”
Sienna cười thoải mái hơn, và Langdon cảm thấy cô đã tha thứ cho anh, ít nhất là lúc này. “Tôi nghĩ đó là ý trời”, cô nói, nghe có phần nghiêm trọng. “Chúng ta nên đi qua cánh cửa đó.”
“Được… và chúng ta sẽ qua mặt anh chàng bảo vệ à?”
Sienna bẻ đốt ngón tay và bước ra khỏi hang. “Không, tôi sẽ nói chuyện với anh ta.” Cô liếc về phía Langdon, vẻ quyết tâm trở lại trong mắt cô. “Tin tôi đi, ngài giáo sư, tôi có thể thuyết phục được người khác khi tôi phải làm vậy.”
o O o
Lại có tiếng đập vào cánh cửa màu xám.
Chắc nịch và kiên quyết.
Nhân viên bảo vệ Ernesto Russo càu nhàu đầy bực dọc. Gã lính lạ mặt có cặp mắt lạnh lẽo rõ ràng đã quay lại, nhưng thời điểm xuất hiện thì không thể tệ hơn được nữa. Trận bóng đá trên truyền hình đang vào phút bù giờ trong khi đội Fiorentina thiếu một cầu thủ và số phận như chỉ mành treo chuông.
Tiếng đập vẫn tiếp tục.
Ernesto không phải thằng ngốc. Anh biết sáng nay ngoài kia đang có chuyện gì đó rắc rối - toàn nghe tiếng còi và binh lính - nhưng anh không phải hạng người tự dây dưa vào những chuyện không ảnh hưởng trực tiếp đến mình.
Chỉ có điên mới chõ mũi vào việc của người khác.
Thêm nữa, gã lính kia rõ ràng là nhân vật rất quan trọng, cho nên phớt lờ gã có thể không khôn ngoan chút nào. Công ăn việc làm ở Ý giai đoạn này không dễ kiếm, kể cả những việc nhàm chán. Ernesto liếc nhìn trận đấu lần cuối rồi đi về phía tiếng đập cửa.
Anh vẫn không thể tin được rằng mình được trả công để ngồi trong buồng bé tí suốt ngày và xem ti vi. Có lẽ hai lần mỗi ngày, lại có một tour VIP ở bên ngoài, sau khi đã đi hết quãng đường từ bảo tàng Uffizi. Ernesto sẽ đón họ, mở khóa cánh cửa chấn song thép, để cả nhóm đi qua cánh cửa xám, để tour của họ kết thúc trong vườn Boboli.
Lúc này, tiếng đập cửa nghe càng gấp gáp hơn, Ernesto mở cánh cửa chấn song thép, đi qua đó, và khóa lại phía sau mình.
“Ai đấy?”, anh quát át cả tiếng đập cửa trong lúc tiến vội đến cánh cửa xám.
Không có tiếng trả lời. Tiếng đập vẫn tiếp tục.
Khùng thật! Cuối cùng anh mở cửa và kéo sang bên, cứ ngỡ sẽ nhìn thấy ánh mắt vô hồn lúc trước.
Nhưng khuôn mặt này hấp dẫn hơn rất nhiều.
“Chào anh”, một phụ nữ xinh xắn tóc vàng óng cất tiếng và mỉm cười trìu mên với anh. Cô chìa một tờ giấy gấp gọn, khiến anh thò ngay tay ra nhận lấy một cách đầy bản năng. Ngay khi anh vừa cầm lấy tờ giấy và nhận ra nó chỉ là thứ vứt đi nhặt từ dưới đất, người phụ nữ đã dùng hai bàn tay nhỏ nhắn nắm chặt cổ tay anh và bấm ngón tay cái vào vùng xương ngay bên dưới lòng bàn tay anh.
Ernesto cảm thấy như một lưỡi dao vừa chọc qua cổ tay. Tiếp theo cú chọc nhói buốt là trạng thái tê rần như điện giật. Người phụ nữ bước về phía anh, và ấn ngày càng mạnh thêm, khiến cơn đau cứ thế lặp lại. Anh lảo đảo lùi lại, cố gắng giật tay ra, nhưng hai chân cũng đờ ra và nhũn xuống, khiến anh khuỵu gối.
Những việc tiếp theo xảy ra trong chớp mắt.
Một người đàn ông cao ráo trong bộ cánh sẫm màu xuất hiện ở ngưỡng cửa, lách vào trong và nhanh chóng đóng cánh cửa màu xám lại. Ernesto với tay lấy bộ đàm, nhưng bị một bàn tay mềm mại từ phía sau gáy Sienna siết chặt lại, và các cơ cứng đờ, khiến anh phải há miệng để thở. Người phụ nữ lấy bộ đàm trong khi người đàn ông tiến lại, trông có vẻ hoảng hốt trước những hành động của cô không kém gì Ernesto.
“Choáng nhẹ thôi”, người phụ nữ tóc vàng nói nhanh với người đàn ông. “Điểm huyệt kiểu Trung Hoa thôi mà. Không phải vô cớ thuật này có mặt khắp nơi suốt ba nghìn năm qua.”
Người đàn ông trố mắt đầy ngạc nhiên.
“Chúng tôi không muốn làm anh đau đâu”, người phụ nữ thì thào với Ernesto bằng tiếng Ý, nới lỏng áp lực ở cổ.
Ngay khi lực bấm giảm bớt, Ernesto cố gắng vùng vẫy thoát ra, nhưng lực bấm lập tức trở lại, và các cơ của anh lại cứng đờ. Anh há hốc miệng vì đau, khó khăn lắm mới thở được.
“Chúng tôi cần đi qua đây”, cô nói bằng tiếng Ý. Cô ra hiệu về cánh cửa chấn song thép, thật may là Ernesto đã khóa lại phía sau mình. “Chìa khóa đâu?”
“Tôi không có chìa khóa”, anh cố nói.
Người đàn ông cao ráo vượt qua họ tới cửa thép và kiểm tra kết cấu. “Là loại khóa mã số”, anh ta nói vọng lại chỗ người phụ nữ, giọng rõ là người Mỹ.
Người phụ nữ khom xuống bên cạnh Ernesto, đôi mắt màu hạt dẻ của cô lạnh như băng. “Mã số là gì?”, cô hỏi.
“Tôi không thể!”, anh ta trả lời. “Tôi không được phép…”
Có gì đó ở đầu cột sống anh, và Ernesto cảm thấy cả cơ thể cứng đờ. Một khắc sau, anh ngất đi.
o O o
Khi tỉnh lại, Ernesto cảm thấy như đang nửa tỉnh nửa mê mất vài phút. Anh nhớ lại một phần cuộc trò chuyện… cảm giác đau buốt… có lẽ bị đâm chăng? Tất cả rất nhạt nhòa.
Khi mớ bùng nhùng đã tan đi, anh nhìn thấy một cảnh tượng lạ lùng – đôi giày của anh nằm trên nền đất gần đó nhưng dây giày đã bị gỡ mất. Đến khi đó anh mới nhận ra mình không sao cựa quậy được. Anh đang nằm nghiêng với hai tay và chân bị bẻ quặt ra phía sau, rõ ràng đã bị chặt bằng dây giày. Anh cố gắng hét to, nhưng không nghe thấy tiếng gì vọng lại. Miệng anh bị nhét tất. Cảm giác sợ hãi thật sự ập đến chỉ trong nháy mắt, khi anh ngước nhìn lên và thấy ti vi vẫn đang chiếu trận đấu bóng. Mình đang ở trong buồng của mình… BÊN TRONG cánh cửa chấn song thép.
Cách đó một quãng, Ernesto nghe thấy tiếng bước chân đang chạy xa dần dọc theo hành lang… rồi im lặng. Không thể như vậy được! Bằng cách nào đó, người phụ nữ tóc vàng đã thuyết phục được Ernesto làm một việc anh được thuê để đừng bào giờ làm – tiết lộ mật mã mở khóa lối vào Hành lang Vasari nổi tiếng.
 


Chương 31


Tiến sĩ Elizabeth Sinskey cảm thấy lúc này những cơn buồn nôn và chóng mặt đang đến nhanh hơn. Bà ngồi rũ người trên băng ghế sau chiếc xe thùng đỗ trước Cung điện Pitti. Người lính ngồi bên cạnh bà đang quan sát bà với vẻ càng lúc càng lo lắng.
Trước đó một lúc, bộ đàm của người lính này kêu sột soạt - chuyện gì đó liên quan đến một phòng trưng bày trang phục - khiến cho Elizabeth bừng tỉnh khỏi trạng thái đầu óc tối tăm. Bà mơ thấy con quái vật có cặp mắt xanh lè.
Bà như quay trở lại căn phòng tối om tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại ở New York, lắng nghe những lời say sưa điên rồ của kẻ lạ mặt bí ẩn mời bà tới đó. Người đàn ông nhìn không rõ ấy đi đi lại lại phía trước căn phòng - một cái bóng cao lêu nghêu in bóng lên hình chiếu rùng rợn lúc nhúc những con người trần truồng đang hấp hối, lấy cảm từ Hỏa ngục của Dante.
“Cần ai đó đảm nhận cuộc chiến này”, nhân vật ấy kết luận, “hoặc đây chính là tương lai của chúng ta. Toán học khẳng định điều này. Loài người giờ đang trôi nổi trong cõi luyện ngục của thái độ lần khần, thiếu quyết đoán và lòng tham cá nhân… nhưng những tầng địa ngục đang chờ đợi, ngay dưới chân chúng ta, đợi để nuốt lấy tất cả chúng ta”.
Elizabeth vẫn quay cuồng trước những ý tưởng kinh khủng mà người đàn ông này vừa nói ra trước mặt bà. Bà không thể chịu đựng được thêm và đứng bật dậy. “Những gì ông gợi ý là…”
“Lựa chọn còn lại duy nhất của chúng ta”, người đàn ông ngắt lời.
“Thực tế”, bà đáp, “tôi sẽ phải nói rằng, đó là ‘phạm tội’!”
Người đàn ông nhún vai. “Đường tới thiên đàng phải đi qua địa ngục. Dante đã dạy chúng ta như vậy.”
“Ông điên rồi!”
“Điên ư?”, người đàn ông lặp lại, nghe như bị tổn thương. “Tôi ư? Tôi không nghĩ vậy. Điên rồ là KẺ [17] đăm đăm nhìn xuống vực thẳm và không chịu tin rằng nó đang tồn tại ở đó. Điên rồ là một con đà điều rúc đầu vào trong bao cát trong khi cả bầy linh cẩu đang tiến gần xung quanh.”
Trước khi Elizabeth kịp bênh vực tổ chức của mình thì người đàn ông đã đổi hình ảnh trên màn hình.
“Và nói đến linh cẩu”, ông ta nói, chỉ vào hình ảnh mới. “Đây chính là bầy linh cẩu hiện đang bao vây loài người… và chúng đang tiến lại gần rất nhanh.”
Elizabeth kinh ngạc nhìn hình ảnh quen thuộc trước mắt bà. Đó là một biểu đồ do WHO công bố trong năm trước, mô tả vấn đề môi trường chính yếu mà WHO cho rằng có tác động lớn nhất đến ý tế toàn cầu.
Danh sách này gồm:
Nhu cầu về nước sạch, nhiệt độ bề mặt toàn cầu, suy thoái tầng ozone, tiêu thụ các nguồn tài nguyên đại dương, tuyệt chủng giống loài, nồng độ CO2, nạn phá rừng, và mực nước biển toàn cầu.
Tất cả những chỉ số tiêu cực này đều tăng trong thế kỷ qua. Nhưng giờ đây, tất cả đều đang tăng vọt với tốc độ đáng kinh ngạc.
Elizabeth luôn có những phản ứng tương tự mỗi lần bà nhìn thấy biểu đồ này – một cảm giác bất lực. Bà là nhà khoa học, tin vào sự hữu ích của các số liệu thống kê, và biểu đồ này đã vẽ lên bức tranh đáng sợ không phải về tương lai xa vời… mà là một tương lai rất gần.
Đã nhiều lần trong cuộc đời mình, Elizabeth Sinskey bị ám ảnh vì không còn khả năng có con. Nhưng, khi nhìn thấy biểu đồ, bà gần như cảm thấy nhẹ nhõm vì đã không sinh ra một đứa trẻ trên cõi đời này.
Đây là tương lai cho con của ta ư?
“Trong năm mươi năm qua”, người đàn ông cao kều nói, “tội lỗi của chúng ta chống lại Mẹ Thiên nhiên tăng lên kinh khủng”. Ông ta ngừng lại. “Tôi lo sợ cho linh hồn loài người. Khi WHO công bố biểu đồ này, các chính trị gia, những kẻ quyền lực, và các nhà hoạt động môi trường của thế giới vội triệu tập những hội nghị khẩn, tất cả đều cố gắng đánh giá xem vấn đề trong số này nghiêm trọng nhất và thực tế chúng ta có thể hy vọng giải quyết được những gì. Kết quả? Ở phương diện kín đáo, họ vò đầu bứt tai và khóc lóc. Ở phương diện công khai, họ trấn an chúng ta rằng họ đang tìm kiếm các giải pháp nhưng đây vốn là những vấn đề phức tạp.”
“Những vấn đề này vốn phức tạp!”
“Với vẩn!”, người đàn ông ngắt lời. “Bà thừa biết rằng biểu đồ này mô tả mối quan hệ đơn giản nhất - một hàm số dựa trên một biến số duy nhất! Mọi đường trên biểu đồ này đều tăng lên trong mối tương quan trực tiếp chỉ với một giá trị - cái giá trị tất cả mọi người đều sợ phải thảo luận. Dân số toàn cầu!”
“Trên thực tế, tôi nghĩ điều đó hơi…”
“Hơi phức tạp hơn phải không? Thực tế, không hề! Chẳng có gì đơn giản. Nếu bà muốn có thêm nước sạch bình quân đầu người, bà cần có số người ít hơn trên trái đất. Nếu bà muốn giảm lượng khí thải xe cộ, bà cần lái ít xe hơn. Nếu bà muốn các đại dương lại đầy ắp cá, bà cần ít người ăn cá hơn!”
Ông ta nhìn bà chòng chọc, giọng điệu trở nên sôi nổi hơn. “Hãy mở to mắt ra đi! Chúng ta đang trên bờ vực diệt vong của nhân loại, và các nhà lãnh đạo thế giới đang ngồi trong phòng họp để mất thời gian với những nghiên cứu về điện mặt trời, tái chế, và xe hơi hybrid đúng không? Lẽ nào bà - một phụ nữ có trình độ khoa học - lại không nhìn ra điều đó? Suy thoái tầng ozone, thiếu nước, và ô nhiễm không phải là dịch bệnh - chúng chỉ là những triệu chứng. Căn bệnh là tình trạng quá tải dân số thế giới, chúng ta sẽ chẳng làm được gì hơn là dán một miếng băng gạc lên khối u ác tính đang phát triển trên rất nhanh.”
“Ông xem loài người như một căn bệnh ung thư ư?”, Elizabeth vặn hỏi.
“Ung thư đơn giản là một tế bào mạnh khỏe tái tạo vượt ngoài tầm kiểm soát. Tôi cho rằng bà thấy ý tưởng của tôi là khó chịu, nhưng tôi có thể cam đoan bà sẽ thấy những phương án khác còn kém mỹ miều hơn rất nhiều khi điều đó xảy ra. Nếu chúng ta không hành động dũng cảm thì…”
“Dũng cảm ư?”, bà lắp bắp. “Dũng cảm không phải là từ ông đang tìm kiếm. Phải là điên rồ!”
“Tiến sĩ Sinskey”, người đàn ông nói, giọng bình tĩnh đến kỳ lạ. “Tôi mời riêng bà đến đây bởi vì tôi hy vọng rằng bà - một tiếng nói khôn ngoan của Tổ chức Y tế Thế giới - có thể sẵn lòng hợp tác với tôi và triển khai một giải pháp khả thi.”
Elizabeth trợn mắt nhìn không sao tin nổi. “Ông nghĩ Tổ chức Y tế Thế giới sẽ hợp tác với ông… triển khai một ý tưởng như thế này sao?”
“Nói thật là đúng thế?”, ông ta nói. “Tổ chức của bà gồm những bác sĩ, và khi các bác sĩ có bệnh nhân bị hoại tử, họ không do dự cắt bỏ chân của người đó để cứu mạng anh ta. Đôi khi, quy trình hành động duy nhất là giải pháp ít tàn nhẫn hơn.”
“Chuyện này hoàn toàn khác!”
“Không. Chuyện này cũng giống hệt. Sự khác biệt duy nhất là quy mô.”
Elizabeth cảm thấy nghe đến đây đã quá đủ. Bà đứng phắt dậy. “Tôi phải đi để kịp máy bay.”
Người đàn ông cao kều tiến một bước đầy hăm dọa về phía bà, chặn lối ra. “Xin nói thẳng. Dù có sự hợp tác của bà hay không, tôi cũng có thể tự mình triển khai ý tưởng này rất dễ dàng.”
“Xin nói thẳng”, bà đáp trả. “Tôi coi như việc này là một lời đe dọa khủng bố và sẽ giải quyết nó theo cách như thế.” Bà rút điện thoại ra.
Người đàn ông cười phá lên. “Bà sẽ báo rằng tôi nói những điều chỉ mang tính giả thuyết thôi ư? Thật tiếc, bà sẽ phải đợi mới thực hiện được cuộc gọi. Căn phòng này được che chắn bằng điện tử. Điện thoại của bà sẽ không có tín hiệu đâu.”
Ta không cần tín hiệu, kẻ điên rồ ạ. Elizabeth giơ điện thoại lên, và khi người đàn ông chưa kịp nhận ra chuyện gì xảy ra thì bà đã chụp ảnh gương mặt ông ta. Ánh đèn flash phản chiếu đôi mắt xanh lè của ông ta, trong khoảnh khắc, bà nghĩ ông ta trông rất quen.
“Dù ông là ai”, bà nói, “ông cũng đã phạm một sai lầm khi gọi tôi tới đây. Ngay khi tôi tới sân bay, tôi sẽ biết ông là ai, và ông sẽ có tên trong danh sách theo dõi tại WHO, CDC và ECDC với tư cách một cách một kẻ khủng bố sinh học tiềm năng. Chúng tôi sẽ cho người theo sát ông ngày đêm. Nếu ông tìm cách mua chất liệu, chúng tôi sẽ biết. Nếu ông xây dựng một phòng thí nghiệm, chúng tôi sẽ biết. Không có chỗ nào cho ông ẩn nấp cả”.
Người đàn ông đứng im phăng phắc một lúc, như thể ông ta định nhào tới tới chiếc điện thoại của bà. Cuối cùng, ông ta chùng xuống và bước sang bên cùng với nụ cười nham hiểm kỳ quái. “Vậy có vẻ như màn khiêu vũ của chúng ta đã bắt đầu.”
 


Chương 32


Il Corridoio Vasariano - hành lang Vasari - được Giorgio Vasari thiết kế năm 1564 theo lệnh của người đứng đầu gia tộc Medici, Đại Công tước Cosimo I, để tạo thành một lối đi an toàn từ tư dinh của ngài tại Cung điện Pitti tới trụ sở hành chính nằm ở Cung điện Vecchio bên kia sông Arno.
Tương tự như đường hầm Passetto nổi tiếng của tòa thánh Vantican, Hành lang Vasari là một lối đi bí mật hoàn hảo. Nó kéo dài gần một ki-lô-mét từ góc phía đông của vườn Boboli tới trung tâm của cung điện cũ, chạy ngang qua cầu Ponte Vecchio và uốn lượn qua Bảo tàng Uffizi.
Ngày nay Hành lang Vasari vẫn là một nơi trú ẩn an toàn, mặc dù không phải cho các quý tộc nhà Medici mà là cho các tác phẩm nghệ thuật. Với dãy tường bảo vệ dường như vô tận, hành lang chính là chỗ cất giữ vô vàn bức tranh hiếm hoi đổ về từ Bảo tàng Uffizi nổi tiếng thế giới, nơi hành lang này chạy ngang qua.
Langdon đã đi vào đó vài năm trước trong một chuyến du lịch riêng. Chiều hôm ấy, anh đã dừng lại để chiêm ngưỡng kho tranh đẹp lạ thường trong hành lang, bao gồm cả bộ sưu tập chân dung tự họa đồ sộ nhất thế giới. Anh cũng dừng lại vài lần để ngó qua những ô cửa quan sát của hành lang, nơi mọi khách bộ hành có thể phán đoán được lộ trình của mình dọc theo lối đi nằm ở trên cao này.
Tuy nhiên, sáng hôm nay, Langdon và Sienna di chuyển qua hành lang bằng cách chạy, mong chóng thoát khỏi những kẻ đang truy đuổi họ ở đầu bên kia càng xa càng tốt. Langdon tự hỏi sẽ mất bao lâu để người ta phát hiện ra anh chàng bảo vệ bị trói. Đường hầm trải dài hun hút trước mắt, Langdon cảm thấy mỗi bước đi lại dẫn họ tới gần thứ họ đang tìm kiếm.
Cerca trova… cặp mắt chết chóc… và một câu trả lời xem kẻ nào đang truy đuổi mình.
Tiếng động cơ của chiếc trực thăng không người lái lúc này nghe xa tít phía sau họ. Càng đi sâu vào đường hầm, Langdon càng nhớ ra lối đi này quả thật là một công trình kiến trúc đầy tham vọng. Nằm cao hơn thành phố gần hết chiều dài của nó, Hành lang Vasari giống như một con rắn lớn, uốn mình qua những tòa nhà, suốt từ Cung điện Pitti, vượt qua sông Arno, chạy vào trung tâm thành cổ Florence. Lối đi hẹp, quét vôi trắng dường như trải dài vô tận, thỉnh thoảng mới hơi rẽ sang trái hoặc phải để tránh vật cản, nhưng luôn luôn tiến về phía đông… qua sông Arno.
Bất ngờ có những tiếng âm vang phía trước họ, ngay trong hành lang, và Sienna dừng phắt lại. Langdon cũng đứng lại, bình thản đặt một bàn tay lên vai cô, ra hiệu về phía ô cửa quan sát gần đó.
Khách du lịch ngay bên dưới.
Langdon và Sienna tiến lại phía ô cửa và nhìn ra, lúc này họ đang ở phía trên Ponte Vecchio - cây cầu đá thời Trung cổ có chức năng như lối đi cho khách bộ hành tiến vào thành cổ. Bên dưới họ, những vị khách du lịch đầu tiên trong ngày đang thích thú tận hưởng phiên chợ họp ngay trên cầu, mở ra kể từ những năm 1400. Ngày hôm nay, những người bán hàng chủ yêu là thợ kim hoàn và người làm đồ trang sức, nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Ban đầu, cây cầu là nơi họp chợ bán thịt ngoài trời rất lớn của Florence, nhưng năm 1593 những người bán thịt bị xua đuổi vì mùi thịt ôi lọt vào Hành lang Vasari khiến khứu giác tinh tế của Đại Công tước vô cùng khó chịu.
Đâu đó trên cây cầu phía dưới, Langdon nhớ lại, chính là nơi một trong những tội ác khét tiếng nhất của Florence từng xảy ra. Năm 1216, một quý tộc trẻ tuổi tên Buondelmonte đã vì tình yêu đích thực mà từ chối cuộc hôn nhân do gia đình sắp đặt, và vì quyết định đó, chàng đã bị giết một cách tàn bạo ngay trên cây cầu này.
Cái chết của chàng, từ lâu vẫn được coi là “vụ án mạng đẫm máu nhất Florence”, vì nó tạo ra mối bất hòa giữa hai phe chính trị đầy quyền thế - gia tộc Guelph và gia tộc Ghibelline. Ngay sau đó, họ đã phát động chiến tranh huynh đệ tương tàn suốt nhiều thế kỷ. Vì mối cừu thù chính trị này mà Dante phải rời khỏi Florence. Nhà thi hào đã đau đớn đưa vào sự kiện đó vào Thần khúc: Ôi Buondelmonte, theo lời khuyên của kẻ khác, chàng thoái thác lời hứa hôn của mình, và dẫn tới tội ác như vậy!
Ngày đó, có thể tìm thấy ba tấm bảng riêng biệt gần vị trí vụ án mạng - mỗi tấm trích một dòng khác nhau từ Khổ XVI trong Thiên đường của Dante. Một trong số đó nằm ở đầu cầu Ponte Vecchio và đầy tính chất điềm báo thế này:
NHƯNG TRONG THỜI KỲ THÁI BÌNH
CUỐI CÙNG, ĐỊNH MỆNH ĐÃ MANG TỚI CHO VỊ THẦN
GIÁM HỘ BẰNG ĐÁ BỊ THƯƠNG [18] TRÊN CÂY CẦU
CỦA THÀNH PHỐ FLORENCE… MỘT NẠN NHÂN.
Langdon rời mắt khỏi cây cầu, nhìn xuống nước sông xám xịt. Ở phía đông, ngọn tháp lẻ loi của Cung điện Vecchio nổi bật hẳn lên.
Mặc dù Langdon và Sienna mới chỉ qua được nửa sông Arno, nhưng anh thấy rõ rằng họ đã vượt qua giới hạn quay lại từ lâu.

o O o

Cách gần mười mét phía dưới, trên nền đá cuội của cầu Ponte Vecchio, Vayentha sốt ruột quan sát đám đông qua lại mà không thể ngờ được rằng cơ hội lập công chuộc tội duy nhất của ả, chỉ vài phút trước đã đi qua ngay trên đầu.
 


Chương 33


Sâu trong khoang con tàu The Mendacium đã buông neo, điều phối viên Knowlton ngồi một mình trong buồng của mình, cố tập trung vào công việc nhưng không được. Đầy lo lắng, anh ta xem lại đoạn video và suốt một giờ qua vẫn đang phân tích đoạn độc thoại dài chín phút nửa thiên tài nửa điên cuồng.
Knowlton tua lại từ đầu, tìm kiếm bất kỳ manh mối nào anh ta có thể bỏ sót. Anh ta bỏ qua tấm biển chìm dưới nước… bỏ qua cái túi treo lơ lửng đựng đầy thứ chất lỏng màu nâu vàng đùng đục… và tìm tới khoảnh khắc cái bóng có mũi chim xuất hiện – một cái bóng dị dạng in lên vách hang đang nhỏ nước… được thắp một quầng sáng đỏ yếu ớt.
Knowlton lắng nghe giọng nói đã bị bóp méo, cố giải mã thứ ngôn ngữ phức tạp. Đoạn độc thoại trôi qua khoảng một nửa, cái bóng trên tường đột nhiên phình to hơn và âm thanh giọng nói tăng hẳn.
“Địa ngục của Dante không phải hư cấu… nó là lời tiên tri!
Nỗi thống khổ cùng cực. Những bất hạnh giày vò. Đây là viễn cảnh của ngày mai.
Nhân loại, nếu không được kìm h.ãm, sẽ giống như một đại dịch, một thứ ung thư… Dân số đang tăng lên qua mỗi thế hệ kế tiếp nhau cho tới khi những tiện nghi trần tục từng nuôi dưỡng đức hạnh và tình huynh đệ của chúng ta mai một thành hư không… khơi gợi những con quái vật ngay trong chúng ta… tranh đấu sống mái để nuôi sống con cháu chúng ta.
Đây chính là địa ngục chín tầng của Dante.
Đây là những gì đang chờ đợi.
Khi tương lai lao thẳng vào chúng ta, được tiếp sức bằng phép toán học kinh khủng của Malthus, chính là lúc chúng ta chao đảo bên trên tầng địa ngục thứ nhất… chuẩn bị rơi xuống nhanh hơn chúng ta hình dung.”
Knowlton cho dừng đoạn video. Toán học của Malthus ư? Tìm kiếm nhanh trên Internet cung cấp cho anh ta thông tin về một nhà toán học kiêm nhân khẩu học nổi bật người Anh ở thế kỷ XIX có tên Thomas Robert Malthus, người đã dự đoán sự sụp đổ tất yếu trên toàn cầu do tình trạng quá tải dân số.
Knowlton lo sợ khi thấy tiểu sử Malthus còn có cả một đoạn trích bi quan từ cuốn sách Luận về nguyên tắc dân số của ông.
“Sức mạnh của dân số vượt xa sức mạnh tạo ra sinh kế cho con người trên trái đất, đến mức tình trạng chết yểu sẽ viếng thăm loài người dưới một hình thức nào đó. Những thói xấu của loài người chính là tác nhân tích cực cho việc giảm dân số. Nhiều nhan nhản, chúng là điềm báo trước cho sự hủy diệt, và thường tự chúng sẽ hoàn tất công việc kinh khủng ấy. Nhưng nếu chúng thất bại trong cuộc chiến tiêu diệt này, mùa đau ốm, các căn bệnh, trận dịch, và dịch hạch sẽ tràn tới mạnh mẽ và quét một lúc hàng nghìn hàng vạn người. Nếu thành công vẫn chưa trọn vẹn, nạn đói không thể tránh khỏi sẽ lén theo sau, và bằng một đòn khủng khiếp sẽ đưa dân số về tương ứng với lương thực của thế giới.”
Tim đập thình thịch, Knowlton nhìn lại hình ảnh đang tạm dừng của bóng đen có mũi hình mỏ chim.
Nhân loại, nếu không được kìm h.ãm, sẽ giống như một thứ ung thư.
Nếu không được kìm h.ãm. Knowlton không thích cách nói đó lắm.
Ngón tay đầy do dự, anh ta cho đoạn video chạy tiếp.
Giọng nói bị bóp méo tiếp tục vang lên.
“Không làm gì tức là đón chào địa ngục của Dante… chật chội và đói khát, đắm đuối trong Tội lỗi.
Và ta mạnh dạn hành động.
Một số kẻ sẽ co rúm lại vì sợ hãi, nhưng sự cứu rỗi nào cũng có giá của nó.
Sẽ có ngày thế giới hiểu rõ sự hy sinh cao cả của ta.
Vì ta là Cứu rỗi.
Ta là Vong linh.
Ta là cánh cửa đi vào kỷ nguyên Hậu loại người.”
 


Chương 34


Cung điện Vecchio giống hệt một quân cờ khổng lồ. Với phần mặt tiền hình tứ giác vững chãi và những bức tường có lỗ châu mai vuông vức, tòa cung điện hình quân xe đồ sộ này tọa lạc ở vị trí rất phù hợp, trấn giữ góc đông nam của Quảng trường Signoria.
Tòa tháp duy nhất rất lạ thường của cung điện, vươn lên ở trung tâm pháo đài vuông vức này, như một mặt cắt rất đặc trưng in trên đường chân trời và trở thành một biểu tượng độc nhất vô nhị của Florence.
Là trung tâm quyền lực của chính quyền Ý, tòa cung điện khiến cho những vị khách tới đây có ấn tượng đặc biệt về vô số tượng nam giới. Tượng thần biển Neptune vạm vỡ của Ammannati đứng khỏa thân trên lưng bốn con hải mã – biểu tượng cho địa vị thống trị của Florence trên biển. Một bản sao tượng David của Michelangelo – nhân vật nam giới khỏa thân được chiêm ngưỡng nhiều nhất trên thế giới – đứng kiêu hãnh ngay lối vào cung điện. Cùng nhập hội với David là Hercules và Cacus – hai nhân vật nam khỏa thân khổng lồ khác – phối hợp cùng những dâm thần của Neptune, chào đón các vị khách tới cung điện bằng cách phô ra hơn một tá d.ương v.ật.
Thông thường, những lần tới tham quan Cung điện Vecchio của Langdon đều bắt đầu từ Quảng trường Signoria - một trong những quảng trường anh ưa thích nhất ở châu Âu, mặc dù nó có quá nhiều tượng nam giới khỏa thân. Sẽ không thể coi là đã tới thăm quảng trường nếu chưa nhâm nhi một tách cà phê espresso tại quán Caffè Rivoire, rồi chiêm ngưỡng những chú sư tử nhà Medici tại Loggia dei Lanzi – khu trưng bày tượng điêu khắc ngoài trời của quảng trường.
Những hôm nay, Langdon và người bạn đồng hành dự định tiến vào cung điện Vecchio qua Hành lang Vasari, giống như các công tước nhà Medici vẫn thường làm lúc sinh thời – đi qua Bảo tàng Uffizi nổi tiếng và bám theo hành lang uốn lượn phía trên những cây cầu, đường sá và qua những tòa nhà, tiến thẳng vào trung tâm của cung điện cũ. Cho đến lúc này, họ chưa hề nghe thấy tiếng bước chân bám theo phía sau, nhưng Langdon vẫn rất sốt ruột mong thoát ra khỏi hành lang.
Giờ thì chúng mình đến nơi rồi, Langdon nhận ra như vậy, mắt hướng về cánh cửa gỗ nặng nề trước mặt. Lối vào cung điện cũ.
Cánh cửa đó, mặc dù có kết cấu khóa chắc chắn, vẫn được gia cố thêm một then ngang, hình thành một lối thoát khẩn cấp đồng thời ngăn bất kỳ kẻ nào ở phía bên kia xâm nhập vào Hành lang Vasari mà không có thẻ từ.
Tiếng ổ khóa nảy lên.
Ô cửa gỗ hé ra vài phân, Langdon ghé mắt nhìn ra bên ngoài. Một hốc phòng nhỏ. Vắng vẻ. Im ắng.
Khẽ thở phào, Langdon bước qua cửa và ra hiệu cho Sienna theo sau.
Chúng ta đã vào trong.
Đứng bên trong một hốc phòng đâu đó trong Cung điện Vecchio, Langdon đợi một lát và cố gắng trấn tĩnh lại. Trước mặt họ là một hành lang dài chạy vuông góc với hốc phòng. Bên trái họ, cách một quãng, có những tiếng nói vọng lên hành lang, bình tĩnh và vui vẻ. Cung điện Vecchio, giống như Điện Capitol ở Hoa Kỳ, vừa là điểm du lịch vừa là trụ sở làm việc của chính phủ. Vào giờ này, những giọng nói họ đang nghe thấy chắc chắn là của các viên chức đang hối hả ra vào văn phòng, sẵn sàng cho một ngày làm việc mới.
Langdon và Sienna nhích dần trong hành lang và ngó qua góc tường. Đúng như dự đoán, phía cuối hành lang là một tiền sảnh có hơn chục viên chức chính quyền đứng nhâm nhi cà phê espresso buổi sáng và chuyện phiếm với đồng nghiệp trước giờ làm việc
“Bích họa Vasari”, Sienna thì thào, “anh nói nó ở trong Sảnh Năm trăm phải không?”
Langdon gật đầu và chỉ qua tiền sảnh đông đúc về phía một khuôn cửa trổ thẳng vào một hành lang đá. “Rất tiếc, lại phải đi qua tiền sảnh đó.”
“Anh chắc chứ?”
Langdon gật đầu. “Chúng ta sẽ không có cách nào vượt qua đó mà không bị phát hiện.”
“Họ đều là nhân viên chính phủ. Họ sẽ không quan tấm đến chúng ta đâu. Cứ việc đi tới như thể anh là người ở đây.”
Sienna tiến lại, nhẹ nhàng vuốt phẳng chiếc áo vét hiệu Brioni của Langdon và chỉnh lại cổ áo. “Trông anh bảnh rồi đấy, Robert.” Cô e thẹn mỉm cười nhìn anh, chỉnh lại áo len của mình, và bước ra.
Langdon vội vã bám theo cô, cả hai đường hoàng sải bước về phía tiền sảnh. Khi họ bước vào, Sienna bắt đầu nói với anh rất nhanh bằng tiếng Ý – chuyện gì đó liên quan đến bảo hộ nông trại – say sưa khoa chân múa tay trong lúc nói. Họ tiến thẳng tới bức tường ngoài cùng, giữ một khoảng cách với những người khác. Langdon vô cùng ngạc nhiên vì đúng là không hề có một nhân viên nào để ý đến họ.
Khi đã đi qua tiền sảnh, họ nhanh chóng tiếp cận hành lang. Langdon nhớ lại chương trình biểu diễn kịch Shakespeare. Yêu nữ láu cá. “Cô đúng là một diễn viên”, anh thì thào.
“Tôi buộc phải làm thế”, cô đáp lời, giọng có phần xa cách kỳ lạ.
Lại một lần nữa, Langdon cảm thấy có điều gì đó trong quá khứ của người phụ nữ trẻ này còn đau đớn hơn cả những gì anh biết, và càng lúc càng hối hận vì đã lôi cô vào tình huống rắc rối nguy hiểm cùng mình. Anh tự nhủ rằng lúc này chưa có gì xong xuôi cả, ngoại trừ nhìn nhận cho thấu đáo.
Cứ tiếp tục bơi qua đường hầm… và cầu mong nhìn thấy ánh sáng.
Khi tới gần khuôn cửa, Langdon thở phào nhận thấy trí nhớ của mình vẫn rất tốt. Một tấm biển nhỏ có mũi tên chỉ qua góc tường vào hành lang cùng lời ghi: IL SALONE DEI CINQUECENTO. Sảnh Năm trăm, Langdon nghĩ, tự hỏi không biết những câu trả lời nào đang đợi họ bên trong. Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc. Điều này có nghĩa là gì nhỉ?
“Có thể phòng vẫn khóa”, Langdon lưu ý khi họ đến gần góc tường. Mặc dù Sảnh Năm trăm là một điểm du lịch quen thuộc nhưng sáng nay lại chưa mở cửa.
“Anh có nghe thấy tiếng đó không?”, Sienna hỏi, và dừng phắt lại
Langdon đã nghe thấy. Có tiếng ầm ì rất to tiến lại gần ngay chỗ góc tường. Xin hãy nói với tôi rằng đó không phải là một chiếc máy bay không người lái trong nhà. Rất thận trọng, Langdon ngó qua góc ô cửa. Cách đó ba mươi thước là một cánh cửa gỗ đơn giản kỳ lạ mở vào Sảnh Năm trăm. Rất tiếc, chính giữa cửa lại là một nhân viên bảo vệ to béo đang đẩy cỗ máy đánh bóng sàn chạy điện theo vòng tròn.
Nhân viên gác cửa.
Langdon chú ý đến ba biểu tượng trên một tấm biển nhựa bên ngoài cửa. Ngay cả những nhà biểu tượng học ít kinh nghiệm nhất cũng nhận ra các biểu tượng quen thuộc này: Một máy quay có dấu X, một cốc uống nước có dấu X, và hai hình người, một nam và một nữ.
Langdon hành động ngay, sải bước nhanh về phía nhân viên bảo vệ, hơi chậm bước khi lại gần người đó hơn. Sienna rảo bước sát theo sau anh.
Nhân viên bảo vệ ngước lên, có vẻ hơi giật mình. “Xin lỗi!” Ông ta giơ tay chặn Langdon và Sienna lại.
Langdon mỉm cười khổ sở, đúng hơn là nhăn nhó với ông ta và ra hiệu về phía mấy biểu tượng gần cửa. “Nhà vệ sinh”, anh nói, giọng anh cuống quýt. Đó không phải là một câu hỏi.
Ông bảo vệ lưỡng lự một chút, vẻ sẵn sàng từ chối yêu cầu của họ, nhưng cuối cùng nhìn thấy dáng đi không lấy gì làm thoải mái của Langdon, ông ta gật đầu vẻ thông cảm và vẫy tay cho họ qua.
Khi tới cửa, Langdon nháy mắt nhanh với Sienna. “Lòng trắc ẩn là một ngôn ngữ phổ thông.”
 


Chương 35


Đã có thời, Sảnh Năm trăm là gian phòng rộng nhất thế giới. Nó được xây dựng năm 1494 để làm nơi hội họp cho toàn thể Consiglio Maggiore – Đại hội đồng gồm đúng năm trăm ủy viên của nền Cộng hòa – vì thế thành tên của sảnh. Vài năm sau, theo lệnh của Cosimo I, phòng được cải tạo và mở rộng đáng kể. Cosimo I, nhân vật quyền thế nhất nước Ý, đã chọn Giorgio Vasari làm giám công kiêm kiến trúc sư của dự án.
Để hoàn thành công trình đặc biệt này, Vasari đã cho nâng phần mái cũ và cho ánh sáng tự nhiên tràn vào qua các cửa sổ con rất cao ở cả bốn mặt gian phòng, tạo thành một không gian trang nhã trưng bày những bức tranh, tác phẩm điêu khắc và kiến trúc đẹp nhất của Florence.
Sàn của gian phòng này luôn thu hút ánh mắt của Langdon trước tiên, vì nó như tuyên bố rằng đây không phải là một không gian bình thường. Phần sàn bằng đá son cùng hệ thống đường kẻ ô màu đen tạo cho không gian rộng một nghìn một trăm mười lăm mét vuông này vẻ vững chải, sâu và cân bằng.
Langdon từ từ nhướng mắt nhìn về đầu kia của gian phòng, nơi sáu bức điêu khắc - Những kỳ công của Hercules – xếp hàng dọc theo tường như một toán binh sĩ. Langdon cố ý bỏ qua tác phẩm Hercules và Diomedes vẫn thường xuyên bị chê bai, mô tả những thân hình trần truồng mắc cứng trong một trận đấu vật trông rất quyết liệt, với động tác “bóp d.ương v.ật” đầy tính sáng tạo vẫn luôn khiến Langdon phát hãi.
Dễ bắt mắt hơn là tác phẩm Thần Chiến thắng đẹp mê hồn của Michelangelo đứng ở bên trái, choán hết hốc chính giữa của bức tường phía nam. Cao gần ba mét, tác phẩm điêu khắc này dự định dành cho phần mộ của vị giáo hoàng gây nhiều tranh cãi Julius II – được mệnh danh là Đức Thánh Cha Đáng sợ - một nhiệm vụ Langdon luôn thấy rất châm biếm, nếu xét đến quan điểm về t.ình d.ục đồng giới của Vatican. Bức tượng mô tả Tommaso dei Cavalieri, chàng thanh niên mà Michelangelo yêu say đắm và cũng là người ông viết tặng hơn ba trăm bài thơ.
“Tôi không thể tin là mình lại chưa bao giờ đến đây!”, Sienna thì thào bên cạnh anh, giọng cô đột nhiên nhẹ nhàng và đầy thành kính. “Nơi này… đẹp quá!”
Langdon gật đầu, nhớ lại lần đầu anh tới thăm khu vực này, nhân một buổi hòa nhạc cổ điển đặc biệt của nghệ sĩ piano lừng danh thế giới Mariele Keymel. Mặc dù đại sảnh này là nơi hội hợp chính trị và thiết triều của ngài Đại Công tước, nhưng giờ đây nó được dành cho các nhạc sĩ, nhà diễn thuyết và những buổi dạ tiệc – từ sử gia nghệ thuật Maurizio Seracini đến dạ tiệc khai trương chỉ có hai màu đen-trắng của Bảo tàng Gucci. Nhiều lúc Langdon tự hỏi Cosimo I sẽ cảm thấy thế nào về chuyện phải chia sẻ đại sảnh riêng vốn rất chân phương của mình với các vị CEO và người mẫu thời trang.
Langdon hướng ánh mắt sang những bức bích họa đồ sộ tô điểm cho các bức tường. Lịch sử kỳ lạ của chúng còn bao gồm kỹ thuật vẽ thử nghiệm bất thành của Leonardo da Vinci, với kết quả là một “kiệt tác tan chảy”. Cũng đã từng có một “cuộc thi tài” nghệ thuật do Piero Soderini và Machiavelli dẫn dắt, sử dụng hai người khổng lồ của thời Phục Hưng – Michelangelo và Leonardo – đấu với nhau, bằng cách ra lệnh cho họ sáng tạo ra những bích họa ở các bức tường đối diện nhau trong cùng một căn phòng.
Tuy nhiên, hôm nay, Langdon quan tâm đến một trong những điểm kỳ quặc mang tính lịch sử khác của căn phòng này.
Cerca trova.
“Cái nào là của Vasari?”, Sienna hỏi, đưa mắt nhìn các bích họa.
“Gần như tất cả”, Langdon đáp, biết rõ việc để cải tạo căn phòng, Vasari cùng các phụ tá đã phải vẽ lại gần như mọi thứ bên trong, từ những bức bích họa nguyên gốc tới ba mươi chín ô trang trí phần trần “treo” nổi tiếng của gian phòng.
“Nhưng bích họa kia”, Langdon nói, chỉ bức bích họa ở bên phải họ, “mới là bức chúng ta muốn xem – Trận Marciano của Vasari”.
Bức tranh mô tả cảnh đối đầu quân sự quả là đồ sộ - dài một trăm sáu mươi lăm mét và cao hơn ba tầng nhà. Nó được khắc họa bằng các gam màu nâu đỏ và xanh lục – một đại cảnh dữ dội với lính, ngựa, giáo mác cùng những lá cờ va đụng nhau trên một sườn đồi ở vùng quê.
“Vasari, Vasari”, Sienna thì thào. “Và thông điệp bí mật của ông ấy được giấu đâu đó trong bức tranh ấy ư?”
Langdon gật đầu trong lúc nheo mắt nhìn lên đỉnh bức bích họa khổng lồ, cố gắng định vị lá cờ trận màu lục đặc biệt, Vasari đã vẽ lên đó thông điệp bí ẩn của ông - CERCA TROVA. “Gần như không thể nhìn thấy từ dưới này mà không dùng ống nhòm”, Langdon nói, chỉ tay lên bức tranh, “nhưng ở khoang giữa trên cùng, ngay phía dưới hai ngôi nhà nông trại trên sườn đồi, có một lá cờ màu xanh lục hơi nghiêng nhỏ xíu và…”
“Tôi nhìn thấy rồi”, Sienna nói, tay chỉ lên góc trên bên phải, rất đúng vị trí.
Langdon ao ước có được cặp mắt tinh tường hơn.
Hai người bước lại gần bức bích họa cao ngất, Langdon ngước nhìn vẻ tráng lệ của nó. Cuối cùng, họ đã ở đây. Vấn đề duy nhất lúc này là Langdon không biết chắc tại sao họ lại đến đây. Anh đứng im lặng rất lâu, đăm đăm nhìn những chi tiết trong kiệt tác của Vasari.
Nếu ta thất bại… khi đó tất cả sẽ chết.
Một cánh cửa hé mở phía sau họ, và ông bảo vệ cùng cái máy lau sàn ngó vào, vẻ ngập ngừng. Sienna vẫy tay chào đầy thân thiện. Ông bảo vệ nhìn họ một lát rồi khép cửa lại.
“Chúng ta không có nhiều thời gian đâu, Robert”, Sienna giục. “Anh cần nghĩ xem. Bức tranh có gợi cho anh điều gì không? Bất kỳ ký ức gì không?”
Langdon chăm chú nhìn cảnh chiến trận hỗn loạn phía trên họ.
Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc.
Langdon từng nghĩ có lẽ trong bức bích họa có một xác chết với ánh mắt vô hồn nhìn về phía một manh mối nào đó trong bức tranh… hoặc thậm chí là một vị trí nào đó trong gian phòng. Tiếc thay, lúc này Langdon thấy rằng có đến hàng chục xác chết trong bức bích họa, và không cái xác nào đáng chú ý cũng như không có cặp mắt người chết nào hướng tới bất kỳ nơi nào đặc biệt.
Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc ư?
Anh cố gắng mường tượng các đường kết nối từ xác chết này tới xác chết khác, băn khoăn không biết có thể tạo ra hình thù gì không nhưng chẳng thấy gì cả.
Đầu Langdon lại căng rần rật trong lúc cố lục tung những tầng sâu trí nhớ của mình. Đâu đó, giọng của người phụ nữ tóc bạc vẫn thì thầm: Hãy tìm kiếm và sẽ thấy.
“Tìm cái gì chứ?”, Langdon muốn hét to lên.
Anh cố nhắm mắt lại và từ từ thở ra. Anh xoay vai vài lần và cố gắng giải phóng mình khỏi tất cả những suy nghĩ có ý thức, hy vọng chạm đến bản năng sâu thẳm.
Rất xin lỗi.
Vasari.
Cerca trova.
Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc.
Bản năng mách bảo, chắc chắn anh đã tìm đúng chỗ. Và dù lúc này không hiểu nổi tại sao, anh vẫn có cảm nhận rõ rệt rằng chẳng mấy chốc mình sẽ thông suốt mọi chuyện.
Đặc vụ Brüder hững hờ nhìn đống quần áo chẽn nhung màu đỏ trong tủ trưng bày trước mắt mình và rủa thầm. Đội SRS của anh ta đã lục soát khắp khu trưng bày phục trang, nhưng không tìm thấy Langdon và Sienna Brooks ở đâu cả.
Giám sát và hỗ trợ phản ứng, anh ta giận dữ nghĩ. Kể từ lúc nào một thằng cha giáo sư đại học lại thoát khỏi tay SRS chứ? Bọn họ biến đi chỗ quái nào rồi!
“Mọi lối ra đều đã phong tỏa”, một người của anh ta khẳng định. “Khả năng duy nhất là bọn họ vẫn còn trong khu vườn.”
Điều này dường như khá hợp lý nhưng Brüder lại có cảm giác rằng Langdon và Sienna Brooks đã tìm được một lối thoát nào đó.
“Cho máy bay bay lại đi”, Brüder quát. “Và lệnh cho giới chức địa phương mở rộng phạm vi tìm kiếm bên ngoài các bức tường.” Mẹ kiếp!
Trong khi người của mình tỏa đi, Brüder vớ lấy điện thoại và gọi cho người có trách nhiệm. “Brüder đây”, anh ta nói. “Tôi e là chúng ta đang gặp phải vấn đề rất nghiêm trọng. Thực tế là rất nhiều vấn đề.”
 
Quay lại
Top Bottom