casanohu
Cựu quản lý
- Tham gia
- 8/1/2010
- Bài viết
- 474
GIỚI THIỆU INTERNET
Mạng của các trường đại học và viện nghiên cứu là những thành viên lâu đời của Internet. Sự bùng nổ Internet trong vòng hai năm trở lại đây cũng giống như khi TV xuất hiện vào đầu những năm 50. Số người dùng gia nhập Internet tăng với tốc độ rất nhanh. Theo ước tính, con số này sẽ là 16 triệu vào cuối năm nay.
Có thể làm được gì với Net?
Về thực chất, Internet là công nghệ thông tin liên lạc mới, nó tác động sâu sắc vào xã hội, cuộc sống của chúng ta, là một phương tiện cần thiết như điện thoại hay TV, nhưng ở một mức độ bao quát hơn nhiều. Chẳng hạn, điện thoại chỉ cho phép bạn trao đổi thông tin qua âm thanh, giọng nói. Với TV thì thông tin bạn nhận được sẽ trực quan hơn. Còn Internet lại hơi khác. Nó đưa bạn vào một thế giới có tầm nhìn rộng hơn và bạn có thể làm mọi thứ: viết thư, đọc báo, xem bản tin, giải trí, tra cứu và thậm chí còn có thể thực hiện những phi vụ làm ăn.
Ngày nay, khi nói về Internet, mọi người thường đề cập đến việc họ có thể làm gì và đã gặp ai. Khả năng của Internet rất lớn, và chỉ có thể tóm lược một số điểm chính sau đây.
Thư điện tử (E-mail)
Đây là dịch vụ của Internet được sử dụng nhiều nhất. Bạn có thể trao đổi thư (e-mail) với hàng triệu người khắp thế giới. Người ta sử dụng e-mail vào bất cứ việc gì mà họ có thể làm với giấy hay điện thoại: bàn công việc, tán gẫu, hỏi thăm, tỏ tình... và cả những chuyện phi pháp nữa. Danh sách thư điện tử (mailing list) cho phép bạn gia nhập vào những cuộc bàn luận theo nhóm người có cùng mối quan tâm và gặp gỡ thông qua mạng. Dịch vụ thư tín (Mail Servers) giúp bạn truy cập những thông tin cần thiết.
World Wide Web
Đây là khái niệm mà người dùng Internet quan tâm nhiều nhất hiện nay. Người ta viết tắt là WWW hay gọi ngắn gọn là Web. Web là một công cụ, hay đúng hơn là dịch vụ của Internet. Khác với các dịch vụ trước đây của Net, Web chứa thông tin bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh và thậm chí cả video được kết hợp với nhau. Web cho phép bạn có thể chui vào mọi ngõ ngách trên Net, là những điểm chứa CSDL gọi là Web site. Nhờ có Web, nên dù không phải là một chuyên gia, bạn vẫn có thể sử dụng Internet. Phần mềm sử dụng để định hướng Web gọi là bộ duyệt (browser). Hiện nay, bộ duyệt thông dụng nhất là Navigator của Netscape, tiếp đó là Internet Explorer của Microsoft (kèm theo HĐH Windows 95).
Truy xuất dữ liệu
Nhiều máy tính (server) trên Internet chứa các tập tin mà bạn có thể truy xuất tự do. Đây là những thư viện catalog, sách, tạp chí, hình ảnh số hoá và vô số phần mềm máy tính, từ trò chơi đến HĐH. Nói chung, Internet là cả một kho thông tin khổng lồ mà chỉ cần ngồi một chỗ, bạn có thể với tới.
Nhưng cần lưu ý một điều: thông tin trên Net bạn có thể lấy thoải mái không mất tiền, nhưng chắc chắn khi nhận được phiếu thanh toán cước điện thoại sau đó, bạn sẽ rút ra được một điều là ít khi người ta cho không cái gì! Không tin? bạn hãy tiếp tục đọc những phần tiếp theo.
Nguồn gốc của Internet
Nếu không thích chuyện của quá khứ, bạn hãy bỏ qua mục này.
Tiền thân của Internet là ARPANET, mạng máy tính được xây dựng bởi Bộ Quốc Phòng Mỹ (DOD) vào năm 1969 vừa để thử nghiệm độ tin cậy của mạng và vừa nhằm kết nối những cơ sở nghiên cứu với mục đích quân sự, bao gồm một số lượng lớn các trường đại học, viện nghiên cứu. ARPANET khởi đầu với quy mô nhỏ, nhưng đã nhanh chóng bành trướng ra khắp nước Mỹ.
Một phần của độ tin cậy mạng thuộc về vấn đề định hướng động (dynamic routing). Nếu một trong số nhiều liên kết của mạng bị gián đoạn do tấn công từ bên ngoài, lưu thông trên đoạn đó phải được tự động chuyển sang liên kết khác. Thật may mắn, chưa có sự tấn công nào xảy ra cả ....
Thành công của ARPANET được nhân lên gấp bội, tất cả các trường đại học đều đăng ký gia nhập. Tuy nhiên, quy mô lớn của mạng đã gây khó khăn trong vấn đề quản lý. Từ đó, ARPANET được chia làm hai phần: MILNET là hệ thống mạng dành cho quân sự và ARPANET mới nhỏ hơn, không thuộc DOD. Tuy nhiên hai mạng vẫn liên kết với nhau nhờ giải pháp kỹ thuật gọi là IP (Internet Protocol), cho phép thông tin truyền từ mạng này sang mạng khác khi cần thiết. Tất cả các mạng được nối vào Internet đều sử dụng IP.
Tuy chỉ có hai mạng lúc bấy giờ nhưng IP được thiết kế cho hàng chục nghìn mạng. Một điều khác thường trong thiết kế của IP là bất kỳ một máy nào trong IP đều có thể liên lạc được với một máy khác bất kỳ. Điều này có vẻ như là hiển nhiên nhưng bạn nên biết rằng vào thời điểm đó, trong phần lớn những mạng máy tính, máy đầu cuối (terminal) chỉ có thể kết nối với máy trung tâm, mà không thể với máy đầu cuối khác.
World Wide Web xuất hiện bởi nhu cầu của các viện và trường đại học và mặc dù các cơ sở khoa học này vẫn đóng vai trò chủ đạo nhưng Web đã biến thành nơi chứa thông tin multimedia, giải trí và liên lạc. Tốc độ phát triển của Web nhanh hơn bất kỳ phương tiện nào có từ trước tới nay.
Internet có thể chống lại sự tấn công
Trong cuộc chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, quân đội Mỹ đã không thành công trong việc phá hủy hệ thống chỉ huy của quân đội Iraq. Sau đó, mới vỡ lẽ ra là Iraq đã sử dụng các bộ định hướng (router) mạng có trên thị trường với công nghệ khôi phục và định hướng chuẩn của Internet. Điều này cho thấy định hướng động thực sự có tác dụng.
· World Wide Web xuất hiện bởi nhu cầu của các viện và trường đại học và mặc dù các cơ sở khoa học này vẫn đóng vai trò chủ đạo nhưng Web đã biến thành nơi chứa thông tin multimedia, giải trí và liên lạc. Tốc độ phát triển của Web nhanh hơn bất cứ phương tiện nào có từ trước tới nay.
· Với người dùng Internet, Web có sức hấp dẫn bởi vài lý do. Trước hết, nó cho phép hiển thị thông tin bạn truy tìm theo chế độ đồ hoạ, hơn hẳn những dòng text buồn tẻ của Internet "trước đây".
· Web cũng là chỗ của nơi buôn bán. Tiếp thị vẫn còn là từ không mấy dễ chịu trong một số nơi trên Net, nhưng nó lại là động lực chủ đạo của Web. Người ta mua bán đủ thứ trên Web, từ phần mềm cho đến cà phê, đồ chơi trẻ em.
· World Wide Web được coi như một xa lộ thông tin tốt nhất. Với những công nghệ tiên tiến đang được triển khai, chúng ta sẽ có được âm thanh, hình ảnh chất lượng cao từ Web.
· Tuy nhiên, điều đáng nói nhất khi đề cập về Web là khả năng bao trùm rộng lớn của nó. Chẳng hạn nếu điều kiện tài chính hạn hẹp không cho phép bạn thực hiện một ấn phẩm mang tính toàn cầu, ví dụ như tạp chí Time, thì Web là giải pháp tốt nhất cho bạn. Trên Web, thông tin của bạn có thể đến với tất cả mọi người.
· Web server là máy chủ trong đó có chứa thông tin dưới dạng trang Web. Các Web server được nối với nhau trên Internet, mỗi server có địa chỉ riêng, bắt đầu bằng:
· https://...
Web server còn có tên gọi là Web site - vị trí Web.
· Nào, còn điều gì bạn muốn nói? bạn có thể cho cả thế giới biết.
INTERNET CÓ TỪ ĐÂU VÀ KHI NÀO...?
Thập niên 1950
1957
* Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên Sputnik. Hoa Kỳ đáp lại bằng cách thành lập Cơ quan Dự án Nghiên cứu Cao cấp (Advanced Research Projects Agency - ARPA) thuộc Bộ quốc phòng Mỹ (DOD) nhằm đưa khoa học và kỹ thuật vào quân đội.
Thập niên 1960
1962
* Paul Baran, RAND: "Mạng truyền thông phân tán" - Mạng chuyển mạch gói (Packet-switching - PS); không còn một điểm dừng duy nhất nữa.
1965
* ARPA tài trợ nghiên cứu về mạng cộng tác gồm các máy tính chia sẻ theo thời gian. - TX-2 của MIT Lincoln Lab và Q-32 của hãng System Development Corporation (Santa Monica, California) được nối trực tiếp với nhau (không dùng chuyển mạch gói).
1967
* Hội nghị ACM về những Nguyên lý Hoạt động - Kế hoạch giới thiệu mạng chuyển mạch gói. - Tài liệu đầu tiên về ARPANET do Lawrence G. Roberts xuất bản.
* Phòng thí nghiệm Vật lý Quốc gia (NPL) ở Midlesex, Anh phát triển mạng dữ liệu NPL Data Network do D. W. Davies phụ trách.
1968
* Mạng PS được giới thiệu cho ARPA.
1969
* DOD ủy nhiệm ARPANET nghiên cứu lĩnh vực mạng.
- Nút đầu tiên tại UCLA [Network Measurements Center - SDS SIGMA 7:s.ex] và không lâu sau đó tại [legend = function - system:os]
Viện nghiên cứu Stanford Research Institute (SRI) [NIC-SDS940/Genie]
UCSB [Culler-Fried Interactive Mathematics - IBM 360/75S/MVT]
U của Utah [Graphics-DEC PDP-10:Tenex]
-Dùng bộ xử lý thông điệp thông tin (Information Message Processors - IMP) [minicomputer Honeywell 516 với bộ nhớ 12K) do công ty Bolt Beranek và Newman (BBN) phát triển.
* Request for Comment (RFC) đầu tiên: "Host Software" của Steve Crocker
Thập niên 1970
1970
* Mạng Store-and-Forward
· Dùng công nghệ thư điện tử và mở rộng nó vào hội nghị
· ALOHAnet do Norman Abrahamson, U of Hawaii (:sk2 phát triển
· Kết nối với ARPANET vào năm 1972
* Các máy chủ ARPANET bắt đầu dùng giao thức Network Control Protocol (NCP)
1971
* 15 nút (23 máy chủ): UCLA, SRI, UCSB, U of Utah, BBN, MIT, RAND, SDC, Harvard, Lincoln Lab, Stanford, UIU (C), CWRU, CMU, NASA/Ames
1972
* Hội nghị quốc tế về Truyền thông máy tính với sự trình diễn của mạng ARPANET giữa 40 máy và Terminal Interface Processor (TIP) do Bob Kahn tổ chức.
* InterNetworking Working Group (INWG) ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu thiết lập giao thức bắt tay (agreed-upon). Chủ tịch: Vinton Cerf.
* Ray Tomlinson của BBN phát minh chương trình e-mail để gửi thông điệp trên mạng phân tán (:amk Chi tiết kỹ thuật Telnet (RFC 318)
1973
* Kết nối quốc tế đầu tiên vào ARPANET: University College of London (Anh) và Royal Radar Establishment (Na Uy).
* Luận văn tiến sĩ đại học Harvard của Bob Metcalfe phác họa ý tưởng cho Ethernet (:amk
* Bob Kahn đưa ra vấn đề Internet, khởi đầu chương trình nghiên cứu liên mạng tại ARPA. Vào tháng 3, Vinton Cerf phác thảo cấu trúc gateway trên mặt sau phong bì tại phòng chờ của một khách sạn ở San Francisco (:vgc.
* Cerf và Kahn trình bày những ý tưởng cơ bản của Internet tại INWG vào tháng 9 ở U of Sussex, Brighton, Vương Quốc Anh (:vgc.
* Chi tiết kỹ thuật File Transfer (RFC 454).
1974
* Vint Cerf và Bob Kahn xuất bản quyển A Protocol for Packet Network Intercommunication, trình bày thiết kế chi tiết Transmission Control Program (TCP) [IEEE Trans Comm] (:amk.
*BBN mở dịch vụ truyền dữ liệu Telenet đầu tiên (phiên bản thương mại của ARPANET) (:sk2.
1975
* Điều hành hoạt động Internet được chuyển cho DCA (hiện nay là DISA)
* Phiên bản "Jargon File" đầu tiên của Raphael Finkel tại SAIL
1976
* Nữ hoàng Anh Elizabeth đệ nhất gửi thông điệp bằng e-mail (các mạng khác có e-mail từ 1971 đến 1978, nhưng e-mail 1976 là trịnh trọng nhất và được in ra).
* UUCP (Unix-to-Unix-CoPy) phát triển tại AT&T Bell Labs và được phát hành cùng với UNIX một năm sau.
1977
* Larry Landweber cho ra đời mạng THEORYNET tại U - Wisconsin cung cấp dịch vụ thư điện tử cho hơn 100 nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học máy tính (dùng hệ thống thư điện tử cục bộ và TELENET để truy xuất đến server)
* Chi tiết kỹ thuật về Mail (RFC 733)
* Tymshare đưa ra mạng Tymnet
* 7/1977, lần đầu tiên trình diễn về ARPANET/Packet Radio Net/SATNET trên hoạt động của các giao thức Internet với những gateway do BBN cung cấp (:vgc
1979
* Họp mặt giữa U - Wiscosin, DARPA, NSF và các nhà khoa học máy tính của nhiều trường đại học khác để thành lập khoa Khoa học Máy tính (Computer Science Department) chuyên nghiên cứu mạng máy tính (do Larry Landweber tổ chức).
* Mạng USENET do Tom Truscott và Steve Bellovin thành lập dùng giao thức uucp giữa Duke và U của đại học Bắc California.
* Richard Bartle và Roy Trubshaw ở U - Essex thành lập MUD và MUD1 đầu tiên.
* ARPA thành lập Ban Điều khiển Cấu hình Internet (Internet Configuration Control Board - ICCB)
* Bắt đầu thử nghiệm mạng Packet Radio Network (PRNET) nhờ ngân sách của DARPA.
* ARPANET nối qua SRI
Thập niên 1980
1981
* Mạng BITNET (Because It's Time Network)
- Được khởi đầu như một mạng cộng tác tại đại học City University ở New York, kết nối đầu tiên với đại học Yale. (:feg
- Nếu thay từ Time trong tên BITNET bằng từ There thì đó là tên giao thức NJE miễn phí của IBM.
- Cung cấp dịch vụ thư điện tử và máy chủ cho phép phân phối thông tin cũng như truyền file.
* Mạng CSNET (Computer Science NETwork) do nhiều nhà khoa học máy tính phối hợp với các trường đại học University of Delaware, Purdue, University of Wisconsin, công ty RAND và BBN lập nên nhờ tài trợ của NSF. CSNET cung cấp các dịch vụ về mạng cho các khoa học gia ở trường đại học mà không cần truy xuất vào mạng ARPANET. CSNET sau này được xem như mạng phục vụ cho khoa học và máy tính (Computer and Science Network) (:amk,lhl
1982* Giao thức TCP (Transmission Control Protocol) và IP (Internet Protocol) được DAC và ARPA xây dựng cho ARPANET, gọi chung là bộ giao thức TCP/IP (:vgc
- Điều này dẫn đến một trong những định nghĩa đầu tiên về Internet như là một tập hợp các mạng nối với nhau, và đặc biệt là các mạng này đều dùng giao thức TCP/IP. Như vậy, Internet được xem như hình thành từ những mạng dùng giao thức TCP/IP kết nối với nhau.
- DOD tuyên bố bộ TCP/IP là giao thức chuẩn cho DOD (:vgc.
* Mạng EUnet (European UNIX Network) do EUUG thiết lập nhằm cung cấp dịch vụ thư điện tử và các dịch vụ USENET khác. (:glg
- Nối kết trực tiếp giữa các nước Hà Lan, Đan Mạch, Thụỵ Điển và Anh quốc
* Chi tiết kỹ thuật cho giao thức gateway mở rộng (External Gateway Protocol - EGP). EGP được dùng cho các gateway giữa các mạng.
1983* Server Name được phát triển tại trường đại học Wisconsin, không cần người dùng phải nhớ chính xác các đường dẫn đến những hệ thống khác .
* Mạng FidoNet do Tom Jennings xây dựng.
* Chuyển từ giao thức NCP sang giao thức TCP/IP.
* Gateway CSNET/ARPANET được cài đặt .
* ARPANET được tách ra thành ARPANET và MILNET. MILNET tích hợp cùng với Mạng dữ liệu quốc phòng (Defense Data Network) .
* Ban hoạt động Internet (Internet Activities Board - IAB) ra đời thay thế cho ICCB.
* Các phiên bản Berkeley 4.2BSD kết hợp với giao thức TCP/IP.
* EARN (European Academic and Research Network) được thành lập, Rất giống cách vận hành của BITNET với một gateway do IBM tài trợ.
1984* Giới thiệu Domain Name Server (DNS) . Số lượng máy chủ vượt qua con số 1000 l Thiết lập mạng JUNET (Japan Unix Network) dùng UUCP .
* Thiết lập mạng JANET (Joint Academic Network) tại Anh dùng giao thức Coloured Book .
* William Gibson xuất bản quyển Neuromancer.
1985* Bắt đầu kết nối Whole Earth'Lectronic Link (WELL) .
1986* Thiết lập mạng NSFNET (tốc độ của backbone là 56 Kbps).
- NSF thành lập 5 trung tâm siêu tính toán cung cấp những khả năng tính toán cao cấp cho các nơi: JVNC@Princeton ...
- Bùng nổ kết nối, đặc biệc là ở trường đại học.
* Mạng Freenet đầu tiên (tại Cleveland) ra mắt vào ngày 16 tháng 7 dưới sự bảo trợ của công ty SoPAC (Society for Public Access Computing). Vào năm 1989, chương trình quản lý Freenet được National Public Telecomputing Network (NPTN) đảm nhận (:sk2,rab.
* Thiết kế giao thức Network News Transfer Protocol (NNTP) nhằm mở rộng khả năng khai thác thông tin trên Usenet thông qua giao thức TCP/IP.
* Mail Exchanger (MX) do Craig Partridge phát triển, cho phép những chủ không dùng giao thức IP có địa chỉ khu vực (domain address).
* Xây dựng mạng BARRNET (Bay Area Regional Research Network) với những kết nối tốc độ cao.
1987
* Số lượng máy chủ vượt quá 10.000
* Số lượng máy chủ BITNET vượt quá 1.000 .
1988* 1 tháng 11, virus Internet "đào bới" làm ảnh hưởng gần 6.000 trong số 60.000 máy chủ của Internet
* CERT (Computer Emergency Response Team) được DARPA thành lập đáp lại sự xuất hiện của virus làm ảnh hưởng đến mạng.
* DOD chấp nhận OSI, xem việc sử dụng giao thức TCP/IP như là một thời kỳ quá độ .
* Mạng CERFnet (California Education and Research Federation network) được Susan Estrada sáng lập.
* Một số vùng ở Canada nối vào NSFNET đầu tiên: Onet qua Cornell, RISQ qua Princeton, BCnet qua trường đại học ở Washington .
* FidoNet nối với Net, cho phép trao đổi thư điện tử và tin tức.
* Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Na Uy, Thụy Điển nối vào NSFNET.
1989* Số lượng máy chủ vượt quá 100.000 l RIPE (Réseaux IP Européens) ra đời, đảm bảo sự hợp tác kỹ thuật và quản trị cần thiết cho hoạt động của mạng toàn châu Âu
* Những truyền tải đầu tiên giữa e-mail thương mại và Internet: MCI Mail và CompuServer
* CREN (Corporation for Research and Education Networking) được thành lập do phối hợp của CSNET vào BITNET.
* úc, Đức, Israel, ý, Nhật, Mexico, Hà Lan, New Zealand, Puerto Rico, U. K. nối vào NSFNET.
Thập niên 1990
1990
* Máy tính hoạt động từ xa đầu tiên: Internet Toaster được nối thành công vào Internet
* ARPANET ngừng hoạt động
* Tổ chức EFF (Electronic Frontier Foundation) do Mitch Karop sáng lập.
* Archie được đưa ra
* Hytelnet ra đời
* World - nhà cung cấp dịch vụ truy cập Internet qua điện thoại đầu tiên
* CA*net do 10 mạng khu vực khác nhau hình thành, có vai trò như một backbone quốc gia của Canada, nối trực tiếp vào NSFNET.
* Argentina, áo, Bỉ, Brazil, Chi Lê, ấn Độ, Ireland, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ nối vào NSFNET.
1991
* Thinking Machines Corporation công bố Wide Area Information Servers (WAIS) do Brewster Kahle phát minh.
* Paul Lindner và Mark P. McCahill ở đại học Minnesota đưa ra Gopher
* World Wide Web (WWW) ra đời, được CERN công bố, do Tim Berners-Lee phát triển.
* NSFNET backbone được nâng cấp, đạt tốc độ 44736 Mbps
* NSFNET truyền 1 tỷ tỷ byte/tháng và 10 tỷ gói tin/tháng
* Croatia, CH Séc, Hồng Kông, Hungary, Bồ Đào Nha, Singapore, Nam Phi, Đài Loan, Tunisia nối vào NSFNET.
1992
* Internet Society bước vào hoạt động Số lượng máy chủ vượt quá con số một triệu
* IAB tiếp tục vai trò Internet Architecture Board và trở thành một phần của Internet Society.
* Cameroon, Cyprus, Ecuador, Estonia, Kuwait, Latvia, Luxembourg, Malaysia, Slovakia, Slovenia, Thailand, Venezuela nối vào NSFNET
1993
* NSF cho ra đời InterNIC, cung cấp các dịch vụ Internet như:
- Dịch vụ về cơ sở dữ liệu và thư mục (AT&T).
- Dịch vụ đăng ký (Network Solution Inc.).
- Dịch vụ thông tin (General Atomics/CERFnet).
* Liên hiệp quốc trực tuyến (UN) l Bungari, Costa Rica, v.v. nối vào mạng NSFNET.
1994
* Kỷ niệm sinh nhật thứ 25 ARPANET/Internet.
* NIST (The National Institute for Standards and Technology) đề nghị thống nhất TCP/IP và giảm bớt yêu cầu chỉ dùng chuẩn OSI.
* NSFNET chuyển tải 10 tỷ tỷ byte hàng tháng.
* WWW trở thành dịch vụ phổ biến thứ nhì sau dịch vụ FTP, căn cứ trên phần trăm số gói dữ liệu và byte truyền trên mạng NSFNET.
* TERENA (Trans-European Research and Education Network Association) thành lập bằng việc sát nhập hai tổ chức RARE và EARN, đại diện cho 38 quốc gia cũng như cho cả CERN và ECMWF. Mục đích của TERENA là "thúc đẩy và tham gia vào việc phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông và thông tin quốc tế chất lượng cao phục vụ cho lợi ích của nghiên cứu và giáo dục"
1995
* NSFNET thu lại thành một mạng nghiên cứu
* Trong tháng 3, WWW vượt trội hơn FTP trở thành một dịch vụ có sự lưu thông lớn nhất căn cứ trên số lượng gói tin truyền, và trong tháng 4 căn cứ trên số byte truyền.
* Các hệ thống quay số trực tuyến truyền thống như CompuServe, American Online, Prodigy bắt đầu cung cấp khả năng tiếp cận Internet.
* Việc đăng ký tên khu vực không còn miễn phí nữa. Bắt đầu từ ngày 14 tháng 9, lệ phí hằng năm là 50 USD, trước đây được bao cấp bởi NSF. NSF vẫn tiếp tục trả chi phí cho những đăng ký thuộc lĩnh vực giáo dục.
* Kỹ thuật trong năm: WWW, các công cụ tìm kiếm
* Những kỹ thuật nổi bật: mobile code (Java, Javascript), virtual environments (VRML), những công cụ cộng tác
1996
* Triển lãm Internet 1996 World Exposition là triển lãm thế giới đầu tiên trên Internet .
Nguồn tin từ PCworld
INTERNET - CHẲNG CÓ GÌ LÀ CAO SIÊU
Với chuyên mục này, chúng tôi sẽ làm cho những vấn đề như Internet, Browser, Windows, Object... trong CNTT trở thành "dễ cầm" như cái cuốc, "dễ bật" như cái công tắc điện...
Nếu có hai máy tính được nối với nhau để có thể trao đổi thông tin cho nhau thì đó là mạng máy tính. Mạng máy tính là nhiều máy tính (không hạn chế số lượng) được kết nối với nhau, tương tự mạng có nhiều điện thoại liên lạc với nhau. Mục đích của việc kết nối là trao đổi thông tin giữa các máy, chia sẻ tài nguyên (đĩa cứng, máy in) của các máy trong mạng với nhau, và hơn nữa là quản lý được toàn bộ hoạt động của các máy được kết nối.
Có thể nối hai hoặc nhiều mạng máy tính thành một mạng lớn hơn. Một máy tính trong mạng nhỏ này có thể gửi thông tin đến cho một máy tính khác nằm trong mạng nhỏ thứ hai nếu hai mạng nhỏ trên được nối với nhau.
Có thể đặt ra câu hỏi: "các máy tính được nối với nhau như thế nào, bằng phương tiện gì?". Câu trả lời là các máy tính nối với nhau có thể là hữu tuyến, và cũng có thể là vô tuyến. Kết nối hữu tuyến là kết nối bằng các loại dây cáp, kể cả dây điện thoại, cáp quang. Còn kết nối vô tuyến thông qua sóng vô tuyến, hồng ngoại...
Từ đây, bắt đầu xuất hiện khái niệm Internet. Internet là mạng máy tính bao gồm nhiều mạng của các tổ chức, quốc gia trên toàn thế giới. Internet là mạng máy tính lớn nhất thế giới, hay hiểu đơn giản Internet là mạng của các mạng.
Như trên đã nói, khi đã được nối với Internet, từ bất kỳ một máy tính nào cũng có thể gửi thông tin đến một địa chỉ xác định. Ví dụ, bạn cần gửi thư điện tử (e-mail) cho một người đang ở Mỹ. Đầu tiên, bức thư từ máy tính của bạn được chuyển đến nơi bạn đăng ký dịch vụ thư điện tử - thường gọi là nhà cung cấp dịch vụ Internet (tiếng Anh là ISP, các ISP tại Việt Nam hiện nay là VDC, FPT, Sài Gòn Postel, Viện Khoa Học Công Nghệ) thường là theo đường điện thoại. Tiếp theo đó, ISP này thông qua một tổ chức khác gọi là IAP, tức là nơi quản lý cổng vào Internet (hiện nay chỉ có VDC - thuộc Tổng Công Ty Bưu Chính Viễn Thông VN - đảm trách công việc này) để gửi bức thư của bạn lên Internet. Sau khi đã lên Internet, thư của bạn sẽ đi đến địa chỉ mà bạn đã chỉ ra khi gửi - thường là một server thư tín của ISP đang cung cấp dịch vụ cho người mà bạn gửi thư. Bức thư được lưu vào
hộp thư riêng của người nhận nằm trên máy chủ của ISP. Người nhận thư sau đó sẽ truy cập vào hộp thư của mình (tất nhiên cũng bằng máy tính) để lấy bức thư đó. Toàn bộ quá trình trên được thực hiện tự động và chỉ xảy ra trong thời gian vài phút, tùy thuộc vào lưu lượng giao dịch trên Internet (xem hình minh họa).
Qua ví dụ trên, ta thấy Internet đóng vai trò của một đường truyền tải thông tin khổng lồ, trong đó IAP, ISP như là các trạm trung chuyển để kết nối và cung cấp dịch vụ. Như vậy, có thể hình dung Internet như một con đường cao tốc kết nối các quốc gia, các tổ chức lại với nhau. Bởi vậy khái niệm xa lộ thông tin cũng là một khía cạnh của Internet.
Internet tồn tại như là sự kết nối của rất nhiều mạng thông qua các phương tiện viễn thông trên toàn thế giới như vệ tinh viễn thông, cáp quang, đường điện thoại... Khả năng truyền tải của những phương tiện này rất lớn, có thể chứa được nhiều loại thông tin như dữ liệu, hình ảnh, tiếng nói, hình ảnh động...
Ta hay nói lấy tin từ Internet. Những thông tin mà ta gọi là lấy từ Internet là do các nhà cung cấp thông tin lên Internet mà ra. Ví dụ, công ty A muốn giới thiệu trên Internet các loại sản phẩm mới của mình. Trước tiên công ty A tổ chức và đưa thông tin sản phẩm lên một máy chủ. Máy chủ này phải nối với một ISP nào đó và có địa chỉ được đặt theo nguyên tắc xác định chung. ISP thông qua IAP để kết nối với Internet. Người dùng Internet có thể truy cập trực tiếp vào máy chủ của công ty A để xem thông tin (xem hình minh họa). Số máy chủ chứa dữ liệu như trên được nối với Internet lên tới hàng triệu. Từ đó có thể thấy lượng thông tin có trên Internet nhiều tới mức nào.
Đứng từ góc độ người dùng, Internet không có gì là cao siêu, khó hiểu. Tại nhiều nước phát triển, người dân bình thường có máy tính trong gia đình đã sử dụng Internet như một phương tiện truyền thông hữu ích. Vấn đề mà chúng ta quan tâm hiện nay là sử dụng và quản lý Internet như thế nào để việc "nối mạch" diễn ra trôi chảy và giá cước ngày càng rẻ. Để đạt được sự "trôi chảy" khi nối mạng điện thoại quốc tế ta cũng phải mất nhiều năm. Còn giá cước hợp lý thì nhiều năm nay vẫn chưa đạt được.
*Chi phí bao nhiêu để có thể sử dụng Internet
Muốn trở thành người dùng Internet, điều trước tiên là bạn phải có máy tính với cấu hình tối thiểu:
o Bộ xử lý 486 DX2-66MHz
o 8MB RAM
o 20 MB đĩa cứng trống
o Hệ điều hành Windows 3.1, hay Windows 95
o Và cho rằng bạn đã lắp đặt điện thoại.
Tiếp theo đây là những chi phí bổ sung để sử dụng Internet
o Modem tốc độ 14,4 kbps (loại lắp trong) 450.000 ĐVN
o Đăng ký truy nhập Internet với ISP (lắp đặt thuê bao) 450.000 ĐVN
o Cước sử dụng 400 ĐVN/phút
Như vậy, chi phí ban đầu để sử dụng Internet là 900.000 ĐVN
Với mức sử dụng Internet 1 tiếng/ngày, bạn sẽ phải trả 60 x 400 = 24.000 ĐVN mỗi ngày, và 26 x 24.000 = 624.000 ĐVN mỗi tháng.
*Intranet - một Internet thu nhỏ
Nói đến Internet, tức là ta đã nói đến một mạng máy tính rất lớn với quy mô toàn cầu, trong đó các máy tính được nối với nhau và truyền thông tin cho nhau, tuân theo những quy cách chung để đảm bảo sự nhất quán trong toàn hệ thống.
Hãy hình dung, nếu ta thu nhỏ mô hình mạng máy tính kiểu Internet vào trong một cơ quan, xí nghiệp có nhiều mạng nhỏ nằm ở những vị trí khác nhau, và cũng sử dụng những cách thức, phương tiện kỹ thuật như trong Internet để trao đổi thông tin, thì đó chính là mạng intranet.
Trong intranet, bạn cũng dùng bộ duyệt Web để xem thông tin được lưu trữ trên các máy chủ (còn gọi là Web server) trong phạm vi cơ quan, xí nghiệp của mình.
Mạng intranet có thể nối với Internet. Và để bảo vệ intranet khỏi sự truy cập không hợp pháp từ bên ngoài, người ta phải sử dụng những phương tiện kiểm soát luồng thông tin ra vào intranet, gọi là bức tường lửa.
WORLD WIDE WEB, LINH HỒN CỦA INTERNET, LẠI CÀNG ĐƠN GIẢN
Không giống với những dịch vụ khác của Internet, Web cung cấp thông
tin rất đa dạng, bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh, video, nghĩa là những gì chúng ta có thể cảm nhận được. Thông tin được biểu diễn bằng trang Web theo đúng nghĩa của một trang mà chúng ta có thể nhìn thấy trên màn hình máy tính. Mọi
thông tin đều có thể biểu thị trên trang Web đó, kể cả âm thanh, hình ảnh động.
Nhưng nếu chỉ có như vậy thì cũng chẳng có gì phải bàn nhiều về Web.
Vấn đề lý thú nhất của Web nằm ở khía cạnh khác.
Trang Web bạn nhìn thấy trên màn hình máy tính có khả năng liên kết với những trang Web khác, dẫn ta đến những nguồn thông tin khác. Chẳng hạn trên một trang thông tin bạn đọc thấy câu thơ của Tố Hữu:
Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
...
Người thiết lập trang Web có thể cho phép bạn khi đó "nhấn chuột" vào chữ tuyết tan và lập tức bạn được xem một đoạn phim về tuyết tan được lưu trữ ở một máy chủ nằm đâu đó tận Moscow hay Warzava.
Khả năng này của Web có được nhờ thông qua các siêu liên kết (hyperlink). Siêu liên kết dẫn ta từ trang Web (có đoạn thơ Tố Hữu) ở Việt Nam tới trang Web khác (phim về tuyết tan) ở tận Nga. Như vậy, siêu liên kết về bản chất là địa chỉ trỏ tới nguồn thông tin (trang Web) nằm đâu đó trên Internet. Bằng những siêu liên kết này, các trang Web có thể liên kết với nhau thành một mạng chằng chịt (bản thân Web theo tiếng Anh là mạng nhện), trang này chỉ tới trang khác, cho phép ta chu du trên biển cả thông tin (người ta vẫn hay gọi là lướt trên Web là vậy).
Để có thể xem được trang Web, người ta phải sử dụng những chương trình đặc biệt gọi là Web Browser. Hiện tại có hai Web browser thông dụng nhất là Navigator của Netscape và Internet Explorer của Microsoft.
Nguồn tin từ PCworld
Intranet: Internet thu nhỏ trong cộng đồng
Là một người dùng Internet, và theo thói quen cố hữu của người làm toán, tôi thử tìm một số định nghĩa cho Intranet và thấy rằng các tài liệu có cách viết khác nhau nhưng chung quy là Intranet "na ná" như Internet thật, nhất là với trình độ tiếng Anh "miền núi" như tôi thì nghe người Mỹ họ phát âm hai từ ấy cũng chẳng thấy khác nhau. Intranet cũng dùng thủ tục truyền TCP/IP như Internet và công nghệ duyệt tin World Wide Web. Internet không có chủ sử hữu, chỉ có những trang WEB là có chủ, nhưng mạng Intranet thì luôn có người chủ thực sự của mình. Intranet thực chất là sự kết hợp công nghệ Internet và WEB trong nội bộ một công ty, một cơ quan hay một quốc gia - ta tạm gọi là một cộng đồng - với một bức tường lửa (firewall) giúp cho người dùng được đăng ký trong mạng có thể truy nhập thông tin trong Intranet và ra ngoài Internet thoải mái. Người dùng Internet có thể truy nhập vào Intranet để lấy được những thông tin lọc bởi bức tường lửa.
Intranet: Giải pháp mới cho vấn đề cũ
Ta cứ thử tưởng tượng một công ty đa quốc gia với khoảng chục ngàn nhân viên, có hàng trăm văn phòng, trụ sở trên khắp thế giới nếu muốn thiết lập một mạng toàn cầu riêng sẽ tốn kém biết bao nhiêu. Họ cần lưu trữ một số lượng lớn thông tin về văn phòng, nguồn nhân lực, vật lực, giá cả hàng hóa hay danh bạ điện thoại... Theo ông Dennis Tsu, giám đốc tiếp thị về các sản phẩm phần mềm Internet của công ty Sun Microsystems thì hàng năm, chi phí cho in ấn, phân phát tài liệu cho một nhân viên công ty từ 50 đến 100 USD. Giả sử công ty có độ 200 nhân viên thì chi phí trên trong một năm có thể mua được nửa tá Web server và mỗi phân ban chỉ cần chịu trách nhiệm cập nhật thông tin thường xuyên trên máy chủ thay vì in ấn và phân phát thì rất có thể sau 12 tháng, vốn đầu tư hàng năm cho từng nhân viên trên sẽ trở về két bạc của công ty.
Ngoài ra, các công ty đa quốc gia có thể được thành lập từ những công ty con khác nhau thuộc nhiều quốc gia nên một điều dễ xảy ra là họ có các hệ thống máy tính khác nhau về kiến trúc. Đó có thể là IBM PC, Macintosh, máy tính mini hay siêu máy tính và chạy trên hệ điều hành Unix, DOS, Windows... Chỉ có TCP/IP là ngôn ngữ giúp các máy tính khác biệt về kiến trúc "nói chuyện" được với nhau, trong khi công nghệ Web giúp người sử dụng không biết nhiều về máy tính có thể xem từ tài liệu trên siêu máy tính Cray đến văn bản Word, Excel trên PC hay Macintosh một cách dễ dàng. Chính điều này có thể giúp họ nhanh chóng hòa mạng trong nội bộ công ty và tiếp cận với thế giới Internet bên ngoài.
Công nghệ Web từ khi ra đời đã tỏ ra rất hiệu quả vì khả năng thiết lập nhanh với giá thành rẻ. Cấu hình cơ bản chỉ cần một Web server và phần mềm đi kèm. Vì mạng Internet đã có sẵn chỉ cần nối Web server vào một gateway gần nhất và trả tiền thuê bao trên đoạn đường truyền đó là có thể nối mạng với bất kỳ điểm nào trên thế giới. Trên mỗi máy lẻ của người dùng đầu cuối chỉ cần cài một phần mềm duyệt tin (browser) và nếu dùng sản phẩm của Microsoft thì có thể sao chép miễn phí bộ duyệt Internet Explorer trên Internet. Tính hiệu quả kinh tế có lẽ không cần bàn cãi ở đây.
Một nhân tố quan trọng nữa thúc đẩy sự phát triển rất nhanh của Intranet trên thế giới là công nghệ Web rất trực quan và dễ đọc, không cần đầu tư lớn cho huấn luyện và đào tạo. Sự liên kết siêu văn bản giúp người sử dụng đầu cuối đi từ văn bản này đến văn bản khác cho dù đó là bài phát biểu được ghi âm, một băng video hay đoạn phim, thậm chí có thể là các bức ảnh hay đồ thị minh họa. Tất cả các loại siêu văn bản đó được tổ chức dễ dàng trong một trang gốc (home page) đặt trên một máy chủ. Một họa sĩ với đôi chút hiểu biết về Web sẽ thiết kế các trang Web đẹp và trang nhã dễ hơn là họ vẽ trên vải. Các công ty thường tốn nhiều tiền để in ấn các hướng dẫn, giới thiệu về công ty, các báo cáo hàng năm, danh sách giá các loại mặt hàng... nhưng khi đến tay người dùng thì thông tin đã lỗi thời. Nếu được cập nhật bằng Web thì thông tin sẽ là mới nhất. Giá thành đưa sản phẩm tới thị trường sẽ thấp đi rất nhiều và thời gian cũng sẽ giảm đi tối thiểu. Intranet giúp công ty nâng cấp phần mềm, hướng dẫn tiếp thị và bán hàng. Các tài liệu về huấn luyện và đào tạo, trợ giúp trực tuyến trên Web giúp cho các nhân viên dù xa nhau về khoảng cách địa lý vẫn liên lạc với nhau nhanh chóng và hiệu quả.
Điều tiện lợi cuối cùng, Intranet sẽ giúp những người lãnh đạo cao cấp nắm được thông tin thông suốt từ trên xuống. Họ sẽ không còn sợ con "ngoáo ộp" vi tính đe dọa nữa vì giờ đây dùng máy vi tính cũng tựa ta dùng tivi trong gia đình vậy. Họ chỉ cần biết di chuột trên màn hình và nhấn vào tiêu đề của văn bản cần xem mà không cần biết thế nào là hệ điều hành DOS, thế nào là tập tin hay phải sao chép trên đĩa ra sao. Intranet đã lựa chọn những ưu điểm của Internet để sử dụng hiệu quả trong một cộng đồng.
Intranet: Sự lựa chọn cho thành công
Nếu cho rằng năm 1995 là năm Internet thì 1996 thuộc về Intranet. Chỉ riêng năm 1995, số lượng Web server dùng cho Intranet đã chiếm 55% so với 45% của Internet. Theo dự đoán của IDC thì tới năm 2000, tỷ số này sẽ là 10:1 nghiêng về Intranet. Riêng trong năm 1996, theo thống kê của Forrester sau khi phỏng vấn 50 trong số 500 công ty thành đạt nhất thế giới thì hiện có 16% đang dùng Intranet, 26% sẽ cài đặt, 24% đang xem xét, còn 34% trả lời là chưa có kế hoạch cụ thể.
Nói đến sự thành công huyền thoại trên Intranet phải kể đến công ty FedEx, chuyên vận chuyển hàng trên khắp thế giới. Mỗi ngày công ty vận chuyển khoảng 2,4 triệu kiện hàng đi khắp năm châu. Họ đã lắp đặt Web server từ tháng 11 năm 1994 và hàng ngày cho phép khoảng 12.000 khách hàng có thể theo dõi trực tiếp từng giờ xem kiện hàng của mình được luân chuyển như thế nào tới địa chỉ của người nhận thông qua vài thao thác trên máy vi tính. Người gửi và nhận không phải mất thời gian và tiền bạc để hỏi qua điện thoại hay fax xem kiện hàng đã tới nơi chưa. FedEx đã tiết kiệm 2 triệu USD mỗi năm vì có mạng Intranet. Công ty FedEx có khoảng 60 trang gốc với hàng trăm ngàn trang Web nhằm cung cấp thông tin cho khoảng 30.000 nhân viên trên toàn thế giới.
Hãng ô tô Ford dùng Intranet để nối các trung tâm thiết kế từ châu á sang châu Mỹ và châu Âu. Từ hãng AT&T đến hãng quần jean Levi Strauss đều đặt cược cho Intranet để kinh doanh. Silicon Graphics với 7200 nhân viên tạo ra 114.000 trang Web được lưu trên 800 trang Web gốc dùng trong nội bộ công ty. Họ có Intranet từ thuở Mosaic và WWW mới được sinh ra. Ngân hàng Thế giới (The World Bank) cũng trang bị một Intranet cho khoảng 10.000 nhân viên, giúp họ trao đổi thông tin và đó chính là một trong những yếu tố tạo cho hoạt động của Ngân hàng Thế giới trẻ nên hiệu quả hơn. Ngồi tại văn phòng ở Hà Nội hay Washington có thể xem chi tiết tình hình giải ngân của từng dự án đang thực hiện tại Việt Nam hay bất kỳ.
Năm 1996, tổng giá trị các phần mềm Intranet được bán ra trên thế giới khoảng 467 triệu USD. Theo dự đoán có thể lên tới 4 tỷ trong năm 1997 và đạt 8 tỷ trong năm 1998, gấp 4 lần so với Internet. Đó là chưa kể đến các ứng dụng, công cụ lập trình cho Intranet. Đây là dịp làm ăn lớn của các công ty chuyên sản xuất phần mềm cho Intranet như Netcape, Sun, Microsoft, IBM, Oracle, Computer Associates... Cuộc chiến thực sự giữa các công ty khổng lồ đã bắt đầu nhằm chiếm lĩnh thị trường Intranet. Họ đưa ra các chuẩn khác nhau, kể cả phần cứng và phần mềm nhằm thu hút khách hàng đi theo công nghệ của mình. Nhưng như người ta thường nói: "Hãy để cho trăm hoa đua nở, ta sẽ ngắt những bông nào đẹp nhất".
Intranet: Những thách thức và giải pháp
Khi tôi viết những dòng trên và đọc lại thấy Intranet quả là dễ "ăn". Chỉ cần mua server và phần mềm về cài đặt thế là xong. Nhưng sự đời đâu có dễ như ta tưởng. Nếu anh dễ dàng truy nhập tin thì chắc tôi cũng khá nhanh tìm được bí mật của công ty anh trên mạng. Vì vậy, độ an toàn của thông tin trên mạng Intranet được đặt ra hàng dầu khi các nhà quản lý đồng ý chi tiền cho Intranet. Những bí mật tế nhị như tiền lương, lý lịch từng người, doanh số bán ra, thu nhập của công ty, xa hơn nữa là bí mật quốc gia... không thể cung cấp cho mọi người cùng biết. Intranet phải đảm bảo người sử dụng truy nhập vào thông tin mà họ cần và điều quan trọng là quyền truy nhập của họ đến đâu.
Giải pháp firewall sẽ giúp người quản lý mạng thiết lập các quyền truy nhập của người sử dụng một cách dễ dàng. Những dữ liệu truyền trên mạng xuyên quốc gia, hay lục địa phải được mã hóa sao cho trên đường đi không thể có ai có khả năng đọc được những dữ liệu đó. Hệ thống bảo mật thông tin ngày nay đã phát triển tới mức mà muốn giải mã một đoạn tin được mã hóa bằng phương pháp hiện đại người ta phải mất hàng nghìn năm mới có cơ may tìm ra.
Ngay tại Việt Nam, bạn đọc có thể tìm tới nhóm phát triển phần mềm "Bảo mật thông tin" dười sự hướng dẫn của Giáo sư Phan Đình Diệu tại Hà Nội để xem một hệ thống bảo mật thông tin an toàn tuyệt đối và Giáo sư có thể chứng minh bằng phương pháp toán học chặt chẽ. Sự bí mật của công ty cũng cần được đặt ra nghiêm chỉnh khi cài Intranet. Nếu không thì mọi thư từ bí mật của cá nhân, của cơ quan bị người khác nhòm trộm không thương tiếc và đó là nguy cơ phá sản. Và điều thách thức cuối cùng là tính hiện thời của trang Web. Nếu các thông tin không được cập nhật thường xuyên thì những trang Web trở nên vô ích vì thông tin quá lỗi thời. Nhưng với một vài người luôn lo nội dung của các trang Web thì việc cập nhật định kỳ không phải là vấn đề khó.
Đôi lời kết
Năm 1945, ông Vannevar Bush, cố vấn khoa học của Tổng thống Mỹ Frank Roosevelt trong Thế chiến thứ hai đã tưởng tượng ra một thế giới mới cho các nhà khoa học cần chinh phục. Một trong những ý tưởng đó là ông tưởng tượng ra một thiết bị có tên là Mermex (nguồn gốc từ tiếng Anh Memory Mimic nghĩa là bắt chước cách suy nghĩ của bộ não người) giúp người ta có thể truy nhập thông tin như cách người ta thường tư duy: đi từ thông tin này sang thông tin khác như là đi từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác một cách thoải mái và thông tin lại được lưu trữ lại như ý tưởng được lưu trong bộ não người để sau này có thể lục lại dễ dàng. Memex giúp người ta liên kết các văn bản lại với nhau. Thời đó, người ta cho Memex là điều không tưởng và điên rồ. Nhưng đến hôm nay, đã trải qua nửa thế kỷ, cái Web "rối rắm" của ông V.Bush tưởng tượng đã thành hiện thực. Công nghệ Internet và Web đã sinh ra Intranet và giúp con người trong một cộng đồng liên kết với nhau, cùng chia sẻ thông tin và lao động có hiệu quả. Intranet sẽ là chìa khóa của sự thành công cho các cộng đồng trong việc ứng dụng công nghệ thông tin.
Khi bài viết tới tay bạn đọc thì có thể đất nước đã sang xuân 1997 - chỉ còn ba năm nữa sẽ tới thế kỷ 21. Hy vọng những chuyên gia hàng đầu về mạng từ các công ty tin học trẻ và năng động như ONE, hùng mạnh như FPT, 3C hay thâm trầm như Lạc Việt... sẽ thiết lập và đưa vào ứng dụng thành công mạng Intranet tại Việt Nam giúp nền công nghệ thông tin tiên tiến thêm một bước mới.
Intranet: Những công ty nên tìm đến
Dưới đây là danh sách một số công ty cung cấp các dịch vụ kể cả phần cứng và mềm cho Intranet mà tôi sưu tầm được theo quan điểm của tạp chí Fortune.
Dưới đây là danh sách một số công ty cung cấp các dịch vụ kể cả phần cứng và mềm cho Intranet mà tôi sưu tầm được theo quan điểm của tạp chí Fortune.
- Internet/Intranet/Web Software:
- Adobe Systems, Attachmate, Clarify, Hyperion, Software, Lotus, Microsoft, Servlets, Software.com, Vantine.
- Network Operating Software: Novell, Sun Microsystems
- Security: Information Resource Engineering
- Database: Informix
- Fast LAN Technologies: Cabletron
- Internetworking: Cascade Communications, Cisco Systems, U.S. Robotics
- Servers: Apple Computer
- Content Providers: DataTimes
Nguồn tin từ PCworld
INTERNET THẾ HỆ MỚI
Internet ngày nay, tuy tốc độ nhanh hơn trước đây và đang tăng trưởng hàng tháng, vẫn còn quá chậm và không đáp ứng nhu cầu người sử dụng. Chính vì vậy mà đang có cả "đoàn quân" chuyên gia dồn hết tâm sức xây dựng mạng Internet thế hệ mới.
Mặc dù những đường trục chính (backbone) có băng thông rộng trong khoảng OC-12 (622 Mbps), thông lượng giữa các đầu cuối trên mạng Internet công cộng được đo giữa các trạm làm việc của mạng LAN và chỉ cỡ 40 Kbps – tương đương với tốc độ liên lạc giữa hai modem và hơi chậm hơn của mạng ARPANET gốc, trục chính tiền-Internet chạy ở tốc độ 56 Kbps.
Đối với những nhà nghiên cứu, băng thông này và khả năng bất ổn của nó không đủ để hỗ trợ nhiều ứng dụng mới mà họ muốn và cần. Trong nhiều trường hợp, nếu không có được hệ thống mạng thích hợp, họ buộc phải mua các thiết bị đắt tiền, thay vì có thể dùng chung (chẳng hạn như kính hiển vi điện tử). Hoặc họ phải đi xa để xem trình diễn trực tiếp dữ liệu cần thiết từ các dự án liên quan.
Vấn đề không chỉ đơn giản là yêu cầu "làm ơn cho thêm băng thông". Internet ngày nay không hỗ trợ nhiều tính năng khác, những tính năng quan trọng đối với thế hệ phần mềm ứng dụng sắp tới cần có tốc độ cao hơn.
Internet hiện thời cung cấp cái được gọi là "dịch vụ cố gắng nhất". Phiên bản 4 của TCP/IP, đang chạy trên Internet hôm nay, không dự phòng được khả năng xác định hay bảo đảm yêu cầu chất lượng dịch vụ (quality-of-service – QoS) và các mức độ khả dĩ của những yêu cầu này. IPv4 cũng không thể dự phòng băng thông, không bảo đảm hiệu năng mạng tối đa, không cung cấp đủ tính năng an toàn cần thiết.
Các trường đại học và các viện nghiên cứu hiện nay đang cần đến những tính năng này. Còn giới các công ty và người dùng thông thường cũng bắt đầu cần đến và nhận thức được giá trị của các tính năng đó trong Internet thương mại.
Để đạt đến Internet thế hệ tiếp theo cần có phần cứng (ví dụ như các bộ chuyển mạch, bộ dẫn đường) và các dịch vụ truyền tải, viễn thông thế hệ mới. Nó còn đòi hỏi những giao thức mới, những công cụ điều hành mạng mới, và sự hiểu biết sâu sắc hơn về nhu cầu mạng đối với các ứng dụng tốc độ cao. Cũng cần có kế hoạch quản lý dự án và chương trình trọng yếu để có thể triển khai và điều phối những thay đổi này mà không làm hỏng dịch vụ Internet đang tồn tại. Cần có cách thức làm cho những tính năng này trở nên khả dụng đối với người dùng và các ứng dụng của họ, theo dạng đơn giản, dễ-đặc-tả-và-dễ-sử-dụng – cộng với việc giáo dục và đào tạo các nhà phát triển và người dùng.
Một điều dễ làm nản chí là quy mô của nó vượt khỏi tầm của bất kỳ một nhà sản xuất, một trường đại học, hay tổ chức chính quyền nào. Nhưng nó lại nằm trong khả năng của nhiều đơn vị này kết hợp thành đội ngũ cùng làm việc - đó là điều đang diễn ra hiện nay.
Bước dọn đường
Các cộng đồng giáo dục Hoa Kỳ đã hợp tác hơn một thập niên để xác định được nhu cầu mạng của họ. Một số khởi xướng có liên quan với nhau đang được thực hiện và dọn đường cho những bước phát triển Internet thế hệ mới; đó là:
· Sáng kiến Internet thế hệ mới (Next-Generation Internet - NGI) của Nhà Trắng.
· Dịch vụ mạng băng thông cực cao (VBNS) của National Science Foundation.
· Internet2, một cố gắng của nhóm các trường đại học đang làm việc với các công ty và đối tác nhà nước.
· IPng, giao thức Internet thế hệ mới – IPv6.
Những sáng kiến này đang thúc đẩy tạo ra những giao thức mới, phần cứng, phần mềm mới, kiến thức mới, và các mẫu thử nghiệm mạng mới trình diễn những ứng dụng thể hiện tính năng mới.
NGI
NGI là sáng kiến tập thể của Nhà Trắng, công bố từ tháng 10/1996. Được phát triển từ sáng kiến tính toán và truyền thông tốc độ cao, hiện giờ NGI trở thành một phần của dự án tính toán mạng qui mô lớn (Large-Scale Networking) của chính quyền Hoa Kỳ. Mùa thu năm trước, các nhà nghiên cứu đã trình diễn năm "ứng dụng tiền thân" cho Internet thế hệ mới. NGI nghiên cứu các giao thức, phát triển và khai thác các mẫu thử nghiệm đầu cuối, cộng thêm các ứng dụng minh họa. Một số mục đích tương tự cũng được đưa ra trong Internet2 và VBNS.
Trong tất cả các sáng kiến thì NGI là cấp tiến nhất, đặc biệt là loại mạng Class 1 của nó, ở đó các công nghệ mạng được kiểm nghiệm thích đáng. Một số trong những mạng này không liên quan gì đến TCP/IP. Chúng bao gồm:
· Collaborative Advanced Interagency Research Network (CAIRN) cung cấp bộ Ascend Gigarouters cho các nhà nghiên cứu trong phạm vi toàn quốc để thí nghiệm với RSVP, multicast (kỹ thuật cho phép gửi lên mạng chỉ một bản, khi cần thiết sẽ tự động nhân bản để gửi đến nơi yêu cầu), và các giao thức IPv6 khác.
· National Transparent Optical Network Consortium (NTONC) có kế hoạch xây dựng mạng mẫu trị giá 40 triệu USD ở California để làm mô hình thử nghiệm và đánh giá hiệu năng của các thành phần truyền thông quang học cao cấp. Người ta hy vọng rằng những tiến bộ kỹ thuật này giúp xây dựng được mạng có khả năng truyền dữ liệu 10-100 Tbps - dung lượng vượt xa những gì đang dự định hiện giờ.
· Mạng Multiwavelength Optical Network (MONET), trải từ Washington D.C. đến New Jersey, giúp định hình được cách xây dựng mạng quang học quốc gia hỗ trợ nhiều độ dài sóng.
· Advanced Technology Demonstration Network (ATDNet) khởi đầu là mạng ở vùng Washington D.C. có băng thông cỡ OC-48 (2,4 Gbps). Nó được tạo ra để giúp các cơ quan liên bang triển khai việc sát nhập các công nghệ chế độ truyền dẫn không đồng bộ (ATM) và mạng quang học đồng bộ (Synchronous Optical Network - SONET).
· Advanced Communi-cations Technology Satellite ATM Internetwork liên kết một vài trung tâm tính toán tốc độ cao (một phần được biết dưới mô hình thử nghiệm có tên gọi Defence Research and Engineering Network [DREN]) và các mô hình thử nghiệm Multi-dimensional Applications Gigabit Internetworking Consortium (MAGIC) và ATDNet tốc độ cỡ gigabit. Những đề tài nghiên cứu bao gồm kỹ thuật tín hiệu trên mạng, quản lý vấn đề tắc nghẽn, ATM và IP multicast, và cổng (gateway) cho các mạng LAN phi ATM.
Mục đích chủ yếu của NGI là phát triển và trình diễn hai mô hình thử nghiệm nhanh hơn 100 và 1000 lần so với Internet ngày nay nếu tính về hiệu năng liên lạc giữa các đầu cuối (end-to-end) – tức là khoảng 100 Mbps và 1 Gbps. Những dịch vụ mạng mà NGI sẽ làm việc bao gồm những lĩnh vực như an toàn tác vụ và quản trị mạng. Đang có nhiều cố gắng làm cho NGI dễ sử dụng đối với những công ty làm việc với nó. Mùa thu năm ngoái có hơn 150 công ty ở Silicon Valley đã tham gia với vai trò đối tác.
VBNS
Trước NGI, trước Internet2, NSF đã hoạt động để cung cấp những dịch vụ mà Internet thương mại chưa làm được. NSF bắt đầu bằng mạng chuyên dùng VBNS với mục đích cung cấp dịch vụ mạng thế hệ mới cho các nhà nghiên cứu cao cấp và người dùng trong giới khoa học.
Vào mùa xuân 1995, NSF ký kết hợp đồng hợp tác 5-năm thực hiện VBNS trị giá 50 triệu USD với hãng MCI. Mạng này, hoạt động từ tháng 4/1995, nối 5 trung tâm máy siêu tính của NSF, ở những nơi như Cornell Theory Center và National Center for Supercomputing Applications (NCSA). Mạng này sẽ mở rộng đến khoảng 100 viện nghiên cứu.
Đến mùa thu năm trước, "VBNS có khoảng 23.500 Km liên kết OC-12, và chúng tôi cũng cung cấp các kênh ảo chuyển mạch (switched virtual circuits – SVC)", Charles Lee, Giám đốc Chương trình VBNS của MCI Telecommunications, phát biểu. "Hai trạm có thể gửi tín hiệu trực tiếp đến các bộ chuyển mạch ATM của MCI và đi xuyên qua mạng MCI bằng tầng Layer 2 từ đầu này đến đầu kia mà không cần đến bất kỳ bộ dẫn đường (router) nào".
"Đó là lồng ấp dành cho việc phát triển những ứng dụng thế hệ mới", Lee nói. "Bạn cần phải phá vỡ nghịch lý trứng-và-gà - không ai phát triển các ứng dụng cho một mạng không tồn tại, và ngược lại. VBNS là bàn đạp tiến đến công nghệ thế hệ mới".
MCI đang cố gắng mang IPv6 vào VBNS trong tháng Ba này, nhưng điều này có thể bị kéo dài do vấn đề phần mềm hỗ trợ IPv6.
Đến tháng sáu, MCI hy vọng sẽ đưa ra được những dịch vụ hỗ trợ băng thông dự phòng (reserved-bandwidth services). "Dịch vụ khởi đầu của chúng tôi sẽ bổ sung dịch vụ băng thông dự phòng cho kỹ thuật chuyển tiếp IP-datagram truyền thống", Lee nói. "Tính năng này dành cho những ứng dụng cần băng thông cao để bảo đảm độ trễ và mất mát rất thấp. Nó thiết lập, trên cơ sở từng ứng dụng, một đường dẫn đặc biệt qua Internet bằng cách gởi tín hiệu từ hệ thống đầu cuối sử dụng RSVP, và một trong nhưng bộ dẫn đường của chúng tôi sẽ chuyển nó thành kênh ảo ATM".
Băng thông dự phòng rất quan trọng, Lee nhấn mạnh, "những khi mà các dịch vụ thương mại không thể hỗ trợ nó cho các trạm cuối". Tương tự, việc sử dụng kỹ thuật Protocol-Independent Multicast (PIM) hiện đang cho phép thực hiện một số hoạt động mà trước đây không thể làm được, chẳng hạn như kết nối đến mạng CAnet – một mạng nghiên cứu lớn của Canada, để cung cấp tính năng IP-multicasting.
Mặc dù bạn có thể sử dụng Multicast Backbone (Mbone) cho tiếng nói và video, "nói chung là được thực hiện bằng cách dùng các bộ dẫn đường hay các trạm làm việc đặc biệt để làm các IP đường ngầm", Lee nói.
Đến cuối năm này, MCI có kế hoạch tiếp tục nâng cấp cho VBNS thêm kỹ thuật dẫn đường theo nguồn, với hơn 100 đường liên lạc quốc nội và khoảng 20 đường liên lạc quốc tế. Đến năm 2000, tốc độ đường trục chính sẽ đạt đến OC-48.
"Chúng ta có thể thực hiện kỹ thuật dồn kênh phân sóng (wave division multiplexing – WDM) tốc độ rất cao và nhận được băng thông rất rộng", Rick Wilder – Giám đốc Công nghệ Internet ở MCI – phát biểu. "Chúng tôi có một số chặng 40-Gbps, và ở phòng thí nghiệm Reston, Virgina, của chúng tôi có các bộ dẫn đường Cisco 12,000 được thiết lập phù hợp với OC-48. Nhưng bạn cần có khả năng cắm nó vào chỗ nào đó, và hiện tại OC-12 là thứ mới nhất mà bạn có thể mua trong các bộ dẫn đường địa chỉ IP hay các bộ chuyển mạch ATM đáng tin cậy."
(WDM kéo theo việc đóng gói nhiều chuỗi truyền dẫn quang học vào trong một sợi quang bằng cách gửi mỗi chuỗi trên một kênh màu khác nhau.)
Trong khi đó, hoạt động liên quan VBNS đã đơm hoa kết quả. MCI đã phát triển, và đang dùng chung thông tin trên đó, khả năng quan sát cho phép họ theo dõi thông lượng IP bên trong các chuỗi tế bào khi chúng truyền qua với tốc độ cao. Đây là chuyển giao công nghệ đầu tiên mà MCI có thể đưa ra từ những cố gắng thực hiện dự án VBNS.
VBNS cũng sẽ là một phần của dự án NGI, nó cung cấp chỗ để thử nghiệm những ứng dụng mới và triển khai các công nghệ mạng tiên tiến nhất.
Internet2: Bến đỗ tiếp theo của Academia
Sau khi VBNS cất cánh, các trường đại học thỏa thuận đưa tài nguyên của mình lên một mức nối liên mạng mới. Kết quả là một dự án "mù mờ" ra đời, Internet2. Dự án này lầm lẫn theo nghĩa là mặc dù vẫn theo đuổi công nghệ Internet thế hệ mới, nó lại không có ý định thay thế Internet đang có, cũng không xây dựng một mạng mới cho người dùng tổng quát.
UCAID (University Corporation for Advanced Internet Development) được thành lập vào tháng 9/1997 để quản lý Internet2 và trợ giúp các liên đoàn khác, chẳng hạn như một Gigabit Point of Presence (GigaPOP) của North Carolina. Các GigaPOP sẽ giúp đỡ kết hợp thông lượng từ các trường đại học, tránh nhiều vấn đề nảy sinh do kiến trúc của các Network Access Point (NAP) của Internet hiện nay.
Chín công ty thành viên của UCAID – Advanced Network and Service, Bay Networks, Cisco System, Fore Systems, IBM, Newbridge Networks, Nortel, Starburst Communi-cations, và 3Com – đã liên kết ở cấp độ đối tác. Điều đó có nghĩa là họ đã cam kết mỗi bên đóng góp hơn 1 triệu USD cho Internet2 trong 3 đến 5 năm tới.
Internet2, VBNS, và NGI cũng có quan hệ tương hỗ,dù rằng Internet2 và VBNS tự thân chúng cũng có sứ mạng riêng, độc lập với NGI và độc lập với nhau. Hiện tại, VBNS cung cấp dịch vụ mạng trục chính cho Internet2. Internet2 và UCAID cũng có tham gia phần nào trong dự án NGI thông qua khối đào tạo cao cấp. Thật vậy, Internet dường như đã đạt được mục đích đầu tiên của chương trình NGI khi nó nối kết 100 trường đại học hàng đầu và phát triển những chương trình ứng dụng trên mạng thế hệ mới.
Các kế hoạch của Internet2 dự định sẽ tiến hành thử nghiệm hoạt động vào mùa thu năm nay, dù rằng khi sử dụng VBNS một số ứng dụng đã được trình diễn, trong đó có một số ứng dụng trình diễn ở các buổi hội thảo ở Washington D.C. vào mùa thu trước. Các ứng dụng Internet2 bao gồm nhiều ngành nghiên cứu, giáo dục khác nhau. Một số sẽ là môi trường cộng tác, một số khác sẽ là các thư viện số. Một số sẽ hỗ trợ nghiên cứu, và một số khác sẽ cho phép dạy học từ xa.
Internet2 cũng là nơi thử nghiệm nhiều vấn đề mang tính chính sách, chẳng hạn như làm thế nào để định giá và tính phí đối với kỹ thuật dự phòng băng thông. Nó cũng là chỗ để thí nghiệm các biện pháp thúc đẩy các GigaPOP, chẳng hạn với cache cục bộ và các server nhân bản, và với các đường liên lạc vệ tinh lên và xuống để cải tiến hiệu quả mạng.
Bên cạnh những công cụ từ xa được nhắc đến ở trên, các môi trường cộng tác sẽ cho phép các cuộc hội đàm dùng audio, video, text, và "bảng trắng" thực hiện được theo thời gian thực. Các ứng dụng khác hỗ trợ những hình thức cộng tác mới thông qua kỹ thuật trình diễn ảo 3 chiều. Cuối cùng, telemedicine, bao gồm chẩn đoán và theo dõi từ xa, sẽ được đẩy mạnh nhờ Internet2.
Loại ứng dụng sử dụng tối đa khả năng đồ họa/multimedia cũng là những ứng cử viên chính đối với NGI nhằm phục vụ cho cho khả năng trực quan hóa các kết quả khoa học, thực tại ảo (Virtual Reality – VR) cộng tác, môi trường 3-chiều, chẳng hạn như môi trường ảo hỗ trợ bởi máy tính (CAVE – computer-assisted virtual environment); mạng nghiên cứu CAVE (CAVERN);ImmersaDesk; Narrative, Immersive, Contructivist/Collaborative Environment (NICE); và Tele-Immersion (tổ hợp VR và video nối mạng).
Mặc dù những nhà tổ chức Internet2 ban đầu nghĩ rằng có ít hơn hai nhóm trường học có thể cần phần nào đó của mạng mới này, khi sự việc lan rộng ra đã có đến 114 viện đại học Hoa Kỳ muốn tham gia. Để tham gia, mỗi trường đại học phải cam kết bỏ ra nửa triệu USD để nâng cấp mạng WAN của chính họ, để trả chi phí điều phối hàng năm 25,000 USD cho nhóm trung tâm, và để tạo ra ít nhất là một ứng dụng.
Tốc độ cỡ Terabits đã là hiện thực
Không có gì ngạc nhiên khi cộng đồng nghiên cứu tiếp tục tìm kiếm những mạng nhanh hơn nữa để đưa vào sử dụng. Ông Roberts của Educom nói rằng đã có những cuộc thảo luận về mạng OC-192 (gần 10 Gbps) dành cho các nhà nghiên cứu cao cấp (khoảng từ 50 đến 100 người).
"Những nhà triển khai ứng dụng tiên tiến nhất đang sẵn sàng cung cấp 40-60 Gbps trong một sợi quang … và giới hạn lý thuyết của một sợi quang là 100 Tbps", Craig Partridge của BBN/GTE nói – 2000 lần lớn hơn khả năng phân phối hiện thời và hơn 100 lần so với giới hạn của phòng thí nghiệm.
"Điều đó có thể cần đến một thập niên nữa tùy thuộc vào mọi chuyện như thế nào … và tất nhiên, chúng ta cũng sẽ đặt nhiều sợi quang hơn", Partridge nói.
Những công nghệ cần thiết cho Internet thế hệ mới
Internet ngày nay đang muốn vỡ tung từ những chỗ chắp vá. Thiết kế ban đầu không ngờ được kích thước và tính phổ dụng như hiện nay. Xét theo nhiều tiêu chuẩn, nó hoàn toàn không đáp ứng được nhu cầu liên mạng hiện đại. Các kiến trúc sư mạng Internet chưa bao giờ ngờ đến những yêu cầu an toàn dữ liệu và quy mô phát triển quá nhanh.
Quy mô Mạng: Khả năng đánh địa chỉ 128-bit cho mạng mở rộng
Thay đổi hiển nhiên nhất đối với các giao thức Internet sẽ là tăng cường khả năng đánh địa chỉ rộng hơn nhiều so với hiện nay đang hỗ trợ. IPv6 sẽ sử dụng 128 bit - đủ để gán 665 triệu tỉ tỉ (665x1024) địa chỉ trên một mét vuông diện tích bề mặt trái đất.
Khả năng này cung cấp thừa rất nhiều chỗ so với nhu cầu trong tương lai gần. Trong thực tế, với 128 bit này người ta chỉ dành cho vài trăm triệu địa chỉ trên một mét vuông, phần không gian còn lại sẽ được dùng cho kỹ thuật dẫn đường và cho các mục đích quản lý khác. Dù sao đi nữa thì sự mở rộng không gian này vượt quá nhu cầu thực sự của chúng ta.
Kỹ thuật Multicasting: Làm cho việc truyền thông tin đến nhiều người nhận hiệu quả hơn
Thay đổi tiếp theo cho các giao thức sẽ là việc hỗ trợ kỹ thuật data-multicasting. Đây là phương tiện cho phép người sản sinh thông tin chỉ cần gửi một bản sao lên mạng, bất kể có bao nhiêu người nhận. Mạng sẽ tự động sao lại bản này khi cần thiết, dẫn nó đến những máy chủ yêu cầu nó.
Kỹ thuật Multicasting hiện đang được thực hiện trên Internet thông qua phân mạng ảo (virtual subnet) – Multicast Backbone (Mbone). Tuy nhiên, trong khuôn khổ IPv4 và tốc độ tương đối hạn chế của Internet, nó chỉ đóng vai trò "gợi ý" là có thể và sẽ làm được gì với kỹ thuật multicasting trong môi trường Internet thế hệ mới.
An toàn: Định danh nguồn gốc thông điệp và che chắn nội dung
An toàn mạng và dữ liệu là những vấn đề tối quan trọng của Internet thế hệ mới. Chúng ta đã và đang chứng kiến những khe hở trong kỹ thuật an toàn bị lợi dụng trong thực tế sử dụng, chẳng hạn như việc dùng giả địa chỉ IP và lạm dụng e-mail cũng như Usenet. Các giao thức IPng sẽ có hai tính năng được thiết kế nhằm cung cấp an toàn liên lạc ở mức cao hơn: một đầu tin chứng thực (authentication header) và một đầu tin bao bọc an toàn (encapsulating security header). Đầu tin chứng thực sẽ bảo đảm rằng thông điệp có nguồn gốc rõ ràng, xác thực, và một khi đang ở trên mạng, bạn có thể lần theo thông điệp này để truy ngược đến nguồn gốc gửi nó. Nói cách khác, đầu tin chứng thực sẽ định danh được cả nguồn gửi thông điệp lẫn sự kiện rằng nguồn này là đã biết và xác thực. Đặc tính này chỉ biết về nguồn gửi chứ không biết gì về nội dung.
Đầu tin bao bọc an toàn cung cấp công cụ bảo đảm cho các thông điệp được truyền đi nguyên vẹn một cách kín đáo, tránh được ánh mắt tò mò của những kẻ phá hoại. Định nghĩa của đầu tin này hỗ trợ nhiều dạng thức và thuật toán khả dĩ. Đây có thể là một công cụ linh động bảo đảm tính an toàn và thống nhất, sao cho khi có các biện pháp an toàn mới bạn có thể dễ dàng sát nhập chúng vào hệ thống hiện hành.
Chất lượng Dịch vụ: ở phần lõi và cả bên ngoài
Cho đến gần đây, Internet chưa bao giờ cho phép chọn lựa các mức độ, điều kiện về Chất lượng Dịch vụ (Quality of Service – QoS) có thể có được từ các nhà cung cấp, người dùng cũng không thể yêu cầu, và trả tiền tương ứng, sử dụng dịch vụ theo từng ứng dụng, từng phiên làm việc, theo thời gian, hay từng phần. Ví dụ, trên màn hình chưa bao giờ thấy biểu tượng với hàng chữ "Cho tôi dịch vụ tốt hơn, và cứ tính thêm phí", cũng như chưa bao giờ thấy "Hãy bảo đảm chất lượng cho các dịch vụ cuộc gọi video từ người cố vấn đề tài cho tôi, nhưng chỉ cần chất lượng thấp và rẻ đối với các cuộc gọi từ bạn bè nếu như họ không tự thanh toán phí". Các ISP riêng lẻ như Uunet và BBN/GTE bắt đầu cung cấp một số loại hình dịch vụ bảo đảm, nhưng vẫn còn hàng lô dịch vụ chưa thực hiện được trong khuôn khổ các giao thức hiện nay.
Nhiều loại ứng dụng khác nhau và nhiều tình huống khác nhau có độ ưu tiên khác nhau theo cấp độ QoS. Lấy ví dụ, tiếng nói thời gian thực có thể chấp nhận mất tín hiệu chứ không được trễ, trong khi dữ liệu thời gian thực có thể chịu độ trễ ở mức độ nào đó và thường cần độ chính xác 100%.
Khi các gói thông tin truyền đến đích, một số đặc tính cần được bảo đảm và được kiểm soát, chẳng hạn như:
- Dung lượng – Nếu ứng dụng yêu cầu 10Mbps giữa các điểm liên lạc, nó cần có khả năng khai thác dự trữ mạng nhằm hỗ trợ nhu cầu của nó.
- Quản lý mất mát gói thông tin – nếu sự mất mát gói thông tin là không thể tránh khỏi thì mức độ mất chừng nào là chấp nhận được?
- Thời điểm truyền, nhận gói thông tin – Vào thời điểm nào gói thông tin cần cho ứng dụng? Hạn chế về chính xác thời điểm đến chừng nào là chấp nhận được?
- Tương tự, khi các gói thông tin đạt đến đích, những đặc tính nào cần được kiểm soát?
- Kiểm soát điểm vào – Những gói thông tin nào được phép vào chỗ nhận? Đối với những tầng nào thì đây là vấn đề cần xét.
- Phân biệt các gói thông tin – Có những gói thông tin nào quan trọng hơn các gói khác? Chúng ta có thể dẫn các gói thông tin đến nơi nhận dựa trên nội dung của chúng hay không?
- Kế toán và thanh toán – Ai sẽ phải trả phí cho việc truyền gói thông tin, và chúng ta sẽ theo dõi việc thanh toán bằng cách nào?
Giao thức Internet thế hệ mới - IPng
Tổ chức Internet Engineering Task Force (IETF) đang phát triển giao thức IPng. IETF là một liên minh các nhà nghiên cứu máy tính và những thành phần quan tâm khác, và là nguồn tạo ra tất cả các chuẩn Internet chính thức. Nó sẽ triển khai IPng,ở dạng này hay dạng khác, vào lúc nào đó sau năm 1999. Những vấn đề mà tổ chức này đặt ra không phải là nhỏ.
Mẫu thử nghiệm lớn nhất cho các giao thức IPng là mạng các trạm nghiên cứu và thương mại trong 29 nước, gọi là 6-Bone. Trong phạm vi nước Mỹ, IPng cũng đang chạy VBNS.
Nguồn tin từ PCworld
GIAO THỨC INTERNET PHIÊN BẢN 6 (IPV6)
Tranh luận về sự khẩn thiết của việc nâng cấp IP
Khi đường xương sống của Internet chuyển sang chuẩn mới có tên là IP Version 6 (IPv6), các mạng cộng tác cũng sẽ phải chuyển đổi để có thể bắt kịp trào lưu. Tuy nhiên, theo ý kiến thống nhất của giới quan sát viên thì đây là quá trình lâu dài và gian khó.
Nguyên nhân của việc chuyển đổi từ IPv4 sang IPv6 một phần là do sự thiếu hụt số lượng địa chỉ IP. Số lượng địa chỉ này trở nên bị hạn chế khi có quá nhiều máy tính và thiết bị khác nối vào Internet. Những ưu điểm của giao thức mới về sự đơn giản trong việc triển khai các thiết bị IP cũng như khả năng bảo mật được tăng cường sẽ trợ giúp cho người dùng cộng tác.
Những công ty lớn nhất cần phải bắt đầu quá trình chuyển đổi này sớm nhất. Theo khuyến cáo của một công ty nghiên cứu, công ty nào có trên 1000 địa chỉ IP thì phải có kế hoạch ngay từ bây giờ. Quá trình chuyển đổi này cũng đặc biệt quan trọng đối với những khách hàng phụ thuộc vào Internet để hoạch định tài nguyên xí nghiệp, trao đổi dữ liệu điện tử và thương mại điện tử. Những ứng dụng này thường là loại đòi hỏi nhiều băng thông cho xử lý giao dịch, môi trường tương tác hay các ứng dụng "phát tin" và tiếng nói qua IP.
Bây giờ hay tương lai?
Vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất là nên làm gì và vào thời điểm nào. Một số người cho rằng giao thức này sẽ có mặt trước khi các mạng diện rộng cần được chuyển đổi từ 3-5 năm nhưng một số khác thì lại nói sự chuyển đổi này cần được chú ý sớm hơn và đòi hỏi của nó là không nhỏ. Phần cứng, phần mềm và các ứng dụng mạng cần được nâng cấp để làm việc với những trường địa chỉ mới, dài hơn. Các cơ sở IP lớn phải có sẵn Network Address Translation (NAT) và Dynamic Host Control Protocol (DHCP) để giải quyết những vấn đề khi gán địa chỉ mới và gia tăng tính năng của việc định danh địa chỉ này. Hiện thời, trong vòng hai năm tới, những nhà quản trị mạng vẫn còn nhiều vấn đề lớn hơn cần giải quyết là năm 2000 và chuyển sang cộng đồng chung châu Âu.
Ban chuyên trách công nghệ Internet (IETF) chịu trách nhiệm thúc đẩy và hiện thực IPv6; tổ chức này cũng đã có kế hoạch hiện thực và môi trường thử nghiệm gọi là 6bone, đặt tại úc và hiện liên kết những thiết bị IPv6 trên 32 quốc gia.
Thách thức mà IETF phải giải quyết là hoàn tất việc chuyển đổi sang IPv6 trước khi IPv4 đổ vỡ; họ cũng đã có kế hoạch thực hiện từng bước quá trình chuyển đổi này. Sẽ có giai đoạn mà cả hai giao thức cùng tồn tại trên Internet công cộng. Các chuyên gia ước tính quá trình chuyển đổi này mất khoảng từ 4-10 năm.
Tính năng tăng cường trong IPv6 so với IPv4
Mở rộng địa chỉ và tính năng dẫn đường: kích thước địa chỉ IP lên đến 128 bảo đảm rằng IPv6 sẽ là giao thức Internet lâu dài. Khả năng mở rộng của việc định tuyến một-nhiều được cải tiến để truyền một cách hiệu quả các ứng dụng băng thông cao như video và audio.
Tốc độ mạng: những thay đổi thực hiện trong định dạng địa chỉ giúp giảm yêu cầu về băng thông và cho phép tăng tính hiệu quả và linh hoạt của việc định tuyến và phát tiếp thông tin.
Khả năng bảo mật thiết kế sẵn: những mở rộng để hỗ trợ khả năng kiểm tra tính hợp lệ, tích hợp và bảo mật dữ liệu là một phần của IPv6.
Khả năng để gán các mức ưu tiên cho các gói thông tin: các gói thông tin có thể được gắn nhãn để được thao tác đặc biệt, chẳng hạn "độ ưu tiên". Gói thông tin về hội đàm video có thể có độ ưu tiên cao hơn gói về mail thông thường.
Từ vựng về IPv6
6bone: nền thử nghiệm IPv6 dựa trên giao thức IPv4; dùng cơ chế đường ống và chồng kép.
Anycast: một loại gói thông tin IPv6, cho phép cập nhật hiệu quả nhất bảng dẫn đường cho một trong các nhóm máy chủ.
Dual stacking: cơ chế truyền IPv6 "Transition Mechanics for IPv6 Hosts and Routers"; đặc tả cơ chế chồng kép như một phương pháp chuyển đổi từ IPv4 sang IPv6 và hỗ trợ cho cả IPv4 cũng như IPv6 trong các máy chủ và bộ dẫn đường.
Dynamic Host Control Protocol (DHCP): chiến lược để giảm những vấn đề thường gặp do thiếu địa chỉ IP; cho phép định vị địa chỉ IP một cách tự động.
Internet Engineering Task Force (IETF): chịu sự giám sát của Ban Kiến Trúc Internet (IAB) thuộc Hiệp Hội Internet (IA); chịu trách nhiệm phát triển và triển khai các giao thức Internet.
Địa chỉ IP (địa chỉ Internet): xác định thông tin người gửi và người nhận trên các gói thông tin. Để có mặt trên Internet, một tổ chức cần có địa chỉ mạng. Địa chỉ trong phiên bản IPv4 là 32 bit; trong phiên bản IPv6 là 128 bit, gia tăng theo cấp số mũ số địa chỉ có thể có.
Multicast: cho phép truyền thông giữa một người gửi và nhiều người nhận. Trong IPv6, cho phép nhận dữ liệu băng thông cao như video và âm thanh.
Network Address Translation (NAT): chiến lược để giảm những vấn đề thường đi kèm với thiếu địa chỉ IP; cho phép truy cập đến những địa chỉ IP riêng, không đăng ký.
Mở rộng địa chỉ và tính năng dẫn đường: kích thước địa chỉ IP lên đến 128 bảo đảm rằng IPv6 sẽ là giao thức Internet lâu dài. Khả năng mở rộng của việc định tuyến một-nhiều được cải tiến để truyền một cách hiệu quả các ứng dụng băng thông cao như video và audio.
Tốc độ mạng: những thay đổi thực hiện trong định dạng địa chỉ giúp giảm yêu cầu về băng thông và cho phép tăng tính hiệu quả và linh hoạt của việc định tuyến và phát tiếp thông tin.
Khả năng bảo mật thiết kế sẵn: những mở rộng để hỗ trợ khả năng kiểm tra tính hợp lệ, tích hợp và bảo mật dữ liệu là một phần của IPv6.
Khả năng để gán các mức ưu tiên cho các gói thông tin: các gói thông tin có thể được gắn nhãn để được thao tác đặc biệt, chẳng hạn "độ ưu tiên". Gói thông tin về hội đàm video có thể có độ ưu tiên cao hơn gói về mail thông thường.
Từ vựng về IPv6
6bone: nền thử nghiệm IPv6 dựa trên giao thức IPv4; dùng cơ chế đường ống và chồng kép.
Anycast: một loại gói thông tin IPv6, cho phép cập nhật hiệu quả nhất bảng dẫn đường cho một trong các nhóm máy chủ.
Dual stacking: cơ chế truyền IPv6 "Transition Mechanics for IPv6 Hosts and Routers"; đặc tả cơ chế chồng kép như một phương pháp chuyển đổi từ IPv4 sang IPv6 và hỗ trợ cho cả IPv4 cũng như IPv6 trong các máy chủ và bộ dẫn đường.
Dynamic Host Control Protocol (DHCP): chiến lược để giảm những vấn đề thường gặp do thiếu địa chỉ IP; cho phép định vị địa chỉ IP một cách tự động.
Internet Engineering Task Force (IETF): chịu sự giám sát của Ban Kiến Trúc Internet (IAB) thuộc Hiệp Hội Internet (IA); chịu trách nhiệm phát triển và triển khai các giao thức Internet.
Địa chỉ IP (địa chỉ Internet): xác định thông tin người gửi và người nhận trên các gói thông tin. Để có mặt trên Internet, một tổ chức cần có địa chỉ mạng. Địa chỉ trong phiên bản IPv4 là 32 bit; trong phiên bản IPv6 là 128 bit, gia tăng theo cấp số mũ số địa chỉ có thể có.
Multicast: cho phép truyền thông giữa một người gửi và nhiều người nhận. Trong IPv6, cho phép nhận dữ liệu băng thông cao như video và âm thanh.
Network Address Translation (NAT): chiến lược để giảm những vấn đề thường đi kèm với thiếu địa chỉ IP; cho phép truy cập đến những địa chỉ IP riêng, không đăng ký.
Nguồn tin từ PCworld
NHỮNG ĐIỀU TRÔNG ĐỢI Ở INTERNET
Các nhà quản lý hệ thống thông tin có thể thực hiện một số bước để đảm bảo chất lượng truy cập Internet cho người sử dụng trong nội bộ, cũng như hiệu quả tốc độ cho các Web server được truy cập bởi người sử dụng bên ngoài. Song vấn đề là Internet đã không được thiết kế để hỗ trợ cho số lượng người sử dụng cũng như các kiểu ứng dụng và dữ liệu hiện đang lưu thông trong Internet mà người sử dụng kỳ vọng có thể đáp ứng lập tức như ở các CD-ROM hoặc các ứng dụng trên máy tính để bàn của mình.
Ngày càng nhiều đoàn thể và cá nhân tham gia vào Internet thì hố sâu ngăn cách giữa những điều trông mong của họ và thực tại giới hạn của Internet cũng ngày càng rộng lớn thêm. Một số người sử dụng nói rằng Internet chậm và không đáng tin cậy. Nhưng khi bạn hỏi những người đã xây dựng Internet họ sẽ cho bạn con số phát triển lên trong suốt hai năm qua, và bạn phải sửng sốt về khả năng của nó.
Internet sẽ phải đáp ứng như thế nào? Cho dù có cải tiến tốc độ truyền và phần cứng đến đâu đi nữa, cho dù có bao nhiêu nghi thức linh hoạt cho 'net được đưa ra, thì chất lượng phục vụ sẽ vẫn là dưới mức kỳ vọng của người sử dụng. Còn có một nhu cầu cấp thiết đối với một phương thức phân phối dữ liệu mới (tương tự như vấn đề của Usenet) có thể đưa ra những nội dung gần với người dùng trước khi yêu cầu.
Khi các công ty và cá nhân bắt đầu đặt niềm tin vào Internet và Web thì họ đều mong chờ ở nó một dịch vụ có chất lượng cao.
Mọi người trông đợi rằng nó phải luôn luôn hiệu quả, bất kể họ đang làm gì, đang cố gắng chuyển e-mail cho ai, hay họ đang xem xét trang Web nào! Netscape FTP đã chuyển tải hàng triệu bản sao chép một giờ và thường là quá tải. Như vậy nó hoạt động có hiệu quả hay không thì cũng đã rõ.
Chờ đợi kết nối
Câu chuyện về sự thoái vị sắp tới của Internet là một chủ đề mà nhiều người đã nói bóng gió trong vài năm nay. Trong mục thư tín "Com-priv" trên Internet, người ta đặt câu hỏi rằng có phải Internet không phân phối được một cách thỏa đáng, và nếu vậy phải làm gì đây? (Mục thư tín Com-priv là nơi các nhà phát triển Internet, các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISPs= Internet service providers) và những người quan tâm khác thảo luận các vấn đề liên quan đến Internet thương mại)
Đối với người sử dụng cá nhân, việc dùng Internet thường mất thời gian chờ đợi để được kết nối tới một địa chỉ hay thực hiện truy tìm vì nó chậm chạp và luôn bận rộn.
Đó thực sự không phải là lỗi của Internet. Các chủ sở hữu cơ sở Web đã không cung cấp đủ năng lực theo đòi hỏi của người dùng. Họ có thể quyết định tăng sức mạnh cho server, nhưng đó là điều không chắc xảy ra trong phút chốc. Các nhà cung cấp địa chỉ Web chủ yếu như BBN Planet Corp., Digital Express Group Inc., và The Internet Co. theo dõi mức độ máy server một cách thận trọng, và nếu như một server không thể đáp ứng được đòi hỏi của người dùng, các công ty này sẽ khuyến cáo chủ nhân của nó nên mua máy mạnh hơn.
Vấn đề đối với phương án tiếp cận này là có lẽ nó đáp ứng không kịp thời. Nếu một khách hàng đến với bạn và phải bỏ đi, hoặc buộc phải chờ đợi quá lâu, họ có thể sẽ không bao giờ quay trở lại.
Khi các ISP và các nhà quản lý địa chỉ (site administrator) đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng thì nhiều người sẽ phải kinh ngạc về khả năng của Internet - một ngành công nghiệp phát triển qua 7 - 8 năm, từ chỗ không có gì lên đến 2.000 công ty cung cấp dịch vụ, và phải chăng nó vẫn đang hoạt động tốt? Đó là một điều kỳ diệu về sự lớn mạnh của Internet.
Cơ sở hạ tầng và các dịch vụ cơ bản cũng quan trọng như đường truyền và các máy Web server trong việc hình thành nhận thức của người sử dụng về chất lượng phục vụ.
Tuỳ vào vùng lãnh thổ và thời điểm trong ngày, những người sử dụng phải chờ một phút hoặc hơn để DNS (Domaine Name System = hệ thống tên vùng) tìm kiếm khi nhập URL (Uniform Resource Locator - địa chỉ Web) trong trình duyệt xét.
DNS lấy tên vùng, chẳng hạn như
Mã:
www.infoworld.com
Điều đó có nghĩa là việc tìm kiếm DNS đã trở thành cửa xoay thực tế để vào các địa điểm Web, mà chất lượng dịch vụ của nó thì người chủ Web không thể thấy hay đảm bảo được.
Dĩ nhiên, nếu như cơ sở Web không thể đầu tư để cải tiến dịch vụ, dù từ quảng cáo, tiền đăng ký hay kinh phí nội bộ... thì sự tắc nghẽn khó có thể khắc phục. Nếu cộng đồng Internet quan tâm đến thông tin này thì có thể tìm thấy khoảng trống trên các máy chủ khác nhằm chia sẻ gánh nặng.
Trong chừng mực nào đó, điều mà người ta thường nói "đông đến nỗi không còn ai qua đó nữa" có thể xảy ra trên Internet. Nhưng với các doanh nghiệp đang cố gắng cung cấp truy cập không hạn chế tới các dịch vụ của họ trên Internet thì không phấn khởi chút nào.
Đáng tiếc là chẳng có cách gì cho những người sử dụng cá nhân cải thiện dịch vụ của riêng họ ngay tức thời thông qua một biểu tượng kiểu "Hãy lấy thêm 50 xu nữa và cho tôi dịch vụ tốt hơn". Chuyển sang nhà cung cấp dịch vụ có chất lượng cải thiện hơn có thể cũng chẳng giúp ích được gì.
Các giả thiết đánh giá
Một phần của vấn đề là ở các ứng dụng, một số không được coi là tốt theo khái niệm chất lượng dịch vụ. SMTP (nghi thức truyền thư đơn giản) biểu hiện là tốt, còn HTTP (nghi thức truyền siêu văn bản) thì không được như vậy.
Vấn đề khác nữa là những người dùng Internet đang thử chạy các ứng dụng cao cấp dùng dịch vụ mạng hiện không hỗ trợ họ.
Hầu hết những cải tiến trong Internet hiện nay đều ở mức độ hệ thống mạng, chúng ta đang khai thác Internet thế hệ thứ ba nhưng với các ứng dụng thế hệ thứ nhất. Các ứng dụng cần tốc độ truyền lớn như vậy sẽ mở ra và chấp nhận một mô hình phân bố: dữ liệu lặp và phân tán, đó là Usenet. Chuyển dữ liệu hàng ngàn dặm tạo ra nhu cầu tốc độ truyền và hiện chẳng có gì khác nhau khi người sử dụng lựa chọn các địa chỉ Web khác nhau.
Những người xây dựng Internet cũng phải kiểm tra lại các giả định mang ý nghĩa nào đó khi mà lúc đầu Internet chỉ là công cụ nghiên cứu và phòng thủ chứ không ứng dụng rộng rãi như ngày nay.
Giả định đầu tiên là bạn có thể xây dựng nên một hệ thống mạng và cho phép người sử dụng xem nó là nguồn tài nguyên chung. Theo thông tin từ các nhà phân phối dịch vụ Internet, hiện nay Cầu đã cao hơn Cung rất nhiều, đến nỗi những gì xây dựng xong là gần như lập tức bão hoà, không có khả năng làm thỏa mãn đầy đủ những đòi hỏi không ngừng của người sử dụng.
Giả định khác là do hệ thống mạng là một nguồn tài nguyên chia sẻ và đã được xây dựng quá nhiều, nên sự phân chia hiệu quả nhất có thể chấp nhận được, thực tế, là mô hình dịch vụ. Chúng ta ngày nay đi đến một hiện thực rằng không chỉ phân phát hiệu quả nhất là mô hình dịch vụ duy nhất. Chẳng hạn, các nhà nghiên cứu mà hoạt động của họ đòi hỏi hiệu suất cao, thì các hệ thống mạng tiềm năng thấp không thể đạt những khả năng như vậy từ Internet tương lai, nhất là nếu các thế hệ tiếp theo của hệ thống mạng được xây dựng từ các nhà cung cấp dịch vụ Internet chỉ nghĩ đến số lượng khách hàng.
Khi thiết kế các thế hệ tiếp theo của hệ thống mạng, chúng ta cũng phải tính đến những trường hợp như khi một nhà thiên văn cần một vài megabits mỗi giây để điều khiển kính viễn vọng, hay các nhà nghiên cứu trong một khu rừng mưa với máy tính xách tay muốn giao tiếp với các cộng sự...
Các nghi thức, kế hoạch được hoàn thiện
Còn nhiều việc phải thực hiện để Internet làm việc tốt hơn cho hôm nay và ngày mai.
Cách thức mà HTTP của Web hiện đang hoạt động gây ra những vấn đề về tốc độ do một số đặc trưng của TCP/IP không thể thực hiện đúng lúc.
Internet không xử lý tốt các nghi thức (protocol) ở mức sử dụng cao. Các protocol không được thiết kế để hỗ trợ cho các mức độ này. Một cách giải quyết là phải hoàn thiện các protocol. HTTP phiên bản 1.1 và 1.2, các phiên bản tới của protocol truyền thông của Web sẽ phải đi một con đường dài để khắc phục các vấn đề hiện tại.
Đối với người sử dụng server, các nhà phân phối dịch vụ Internet sẽ không cần địa chỉ IP cho mỗi tên vùng. Chúng ta sẽ có các kết nối bền bỉ, bạn có thể chuyển cả loạt biểu tượng hoặc các tập tin nhỏ một lúc chứ không cần từng kết nối tách biệt cho mỗi file.
Caching (truy nhập nhanh) cũng được cải tiến trong HTTP phiên bản 1.1, và một đặc tính cho phép tường trình các xung đột trong vùng truy nhập nhanh sẽ có trong HTTP 1.2.
Sử dụng HTTP 1.1 sẽ hầu như khắc phục được hiện tượng thất lạc khoảng 20% bó được truyền hiện tại. Vì thế mọi người nên chuyển sang các phiên bản mới của HTTP trong server và trình duyệt xét càng sớm càng tốt.
Còn có gánh nặng khác đè lên các nhà phân phối dịch vụ Internet và các công ty viễn thông đang hỗ trợ hoặc sẽ phân phối dịch vụ Internet.
Các nhà cung cấp Internet tự họ cần phải thực hiện thận trọng và tuần tự trước hết. Với giao dịch qua đại dương tăng 100% một năm, các hệ thống cáp ngầm dưới biển sẽ ngày càng gặp nhiều khó khăn. Dự đoán một số nhà phân phối dịch vụ Internet sẽ kết hợp với nhau mua hệ thống cáp riêng.
Tổ hợp các sự nâng cấp liên tiếp đối với router và backbone về lý thuyết thì dường như đạt được một điều gì đó, song trong thực tế thì chỉ tạo điều kiện phát triển và bão hòa. Các công nghệ mới, các cải tiến protocol, và việc thiết kế lại chuyển động dữ liệu có lẽ mang nhiều ý nghĩa thiết thực hơn. Tuy nhiên, tất cả đều là dự kiến của các nhà phân phối dịch vụ Internet và các công ty viễn thông, chưa có gì an ủi được người sử dụng trong thời gian ngắn.
Và TCP cũng sẽ cần phải hoạt động.
Trong một thời gian ngắn nữa TCP/IP sẽ hoạt động tốt. Nhưng về lâu dài, một số cải tiến, bao gồm IPv6, sẽ cải thiện chất lượng dịch vụ của IP backbone.
Dịch vụ bảo đảm
Hầu hết các chuyên gia Internet đều đồng ý rằng bản chất truyền thống chia sẻ-nhưng-không bảo đảm của dịch vụ Internet là không đáp ứng được nhiều nhu cầu sắp tới. Thêm vào đó, đa số khách hàng cần sự bảo đảm trong dịch vụ về các mức độ sẵn sàng, tốc độ, tiềm năng...
Khi Internet hoàn hảo, chúng ta sẽ thấy bước chuyển từ các mức độ dịch vụ "mặc định" sang tình trạng quan hệ hợp đồng của các nhà phân phối dịch vụ Internet nhằm tạo các mức độ dịch vụ bảo đảm cho truyền thông giữa các nhà phân phối.
Nhiều nhà phân phối dịch vụ Internet đang xem xét một số kiểu tính giá trên mức độ sử dụng: khách hàng trả tiền dựa trên mức độ sử dụng bình thường hàng tháng, trả tiền theo bó, hoặc một cách khác là dựa trên mức độ tải được xác nhận.
Để đưa ra các loại dịch vụ khác nhau, các ISP cần công nghệ cơ bản thích hợp. MIT (Viện Công Nghệ Massachusette) đang thử nghiệm mô hình nhận biết khả năng được phân phối.
Bạn có thể có hai TCP thông qua mạng và thiết lập tốc độ truyền tải mà mỗi TCP cần đạt, chẳng hạn 10 megabit/giây cho TCP thứ nhất, và 1/2 megabit/giây cho TCP thứ hai. Và bạn có thể xác định khả năng của mỗi TCP làm cơ sở để tính giá chênh lệch.
Còn một nhu cầu cấp thiết nữa là cách kiến trúc dữ liệu khác để phân phối thông tin, nếu không thì dù có thêm tốc độ truyền bao nhiêu cũng không đủ. Chúng ta sẽ có một kiểu kiến trúc dữ liệu Web thành công khi 80% giao thông được đáp ứng.
Các nỗ lực nhằm cải thiện tốc độ và độ tin cậy sẽ giúp giải quyết được nhiều vấn đề cốt lõi của Internet ngày nay. Nhưng Internet vẫn tiếp tục hoạt động tốt ở nơi này và không tốt lắm ở nơi kia bởi vì người ta đòi hỏi ở nó các dịch vụ mà nó không được xây dựng để thực hiện và những sản phẩm mà nó không hỗ trợ. Ngay cả các nhà cung cấp dịch vụ Internet lớn cũng không đáp ứng được đầy đủ. Netcom On-Line Communications Services Inc., một nhà cung cấp tầm cỡ quốc gia (Mỹ), mới đây vừa bị trục trặc làm 400.000 người dùng của họ không truy cập được Internet trong hơn 12 tiếng đồng hồ vào một ngày giữa tháng 6.
Điều cần thiết bây giờ có lẽ là việc đưa ra nhiều mức độ dịch vụ và giá cả - hoặc là, cuối cùng thì cũng phải tạo ra một kế thừa cho Internet hiện tại, có khả năng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về xa lộ dữ liệu cho người dùng kết hợp và cho người tiêu dùng trong thập kỷ tới.
Lịch sử ghi nhận về Internet
Chúng ta không còn ở thời kỳ mà một đường truyền chủ yếu bị đứt làm tất cả những người dùng từ bờ Đông không liên lạc được đến bờ Tây đại dương.
Theo các nhà cung cấp dịch vụ Internet hàng đầu, các nhà phát triển protocol và các chuyên gia Internet khác thì hiện Internet đang mở rộng quy mô lưu thông, trung bình từ 5 đến 10 phần trăm mỗi tuần.
Các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP - Internet Service Provider) tiếp tục nâng cấp backbone (đường mạch chính) của họ lên tốc độ T3 (45 Megabit/giây) và OC3 (155 Megabit/giây). Còn những nhà cung cấp không nâng cấp backbone hay các kết nối với các ISP khác thì thường trở nên yếu kém. Điều này cũng xảy ra với các hub cũ như NAPs (National Attachment Points), MAEs (Metropolitan Area Exchanges), FIXes (Federal Internet Exchanges) hoặc CIXes (Commercial Internet Exchange). Còn các nguồn đắt tiền và hạn chế khác như đường thông tin liên đại dương cũng đã trở nên quá tải.
Tuy nhiên, theo các nhà quan sát thì công nghệ đường truyền và các dịch vụ chuyển tải cần có khả năng phát triển gấp hàng chục lần về mức độ giao thông. Dĩ nhiên các ISP và những người phối hợp mạng (network "meet point") phải tiếp tục nâng cấp thiết bị của mình.
Một số protocol của Internet, như TCP/IP và SMTP được đánh giá tốt, còn những cái khác như HTTP thì không. Các phiên bản mới hơn và protocol mới có thể xử lý tốt hơn các lưu thông mức độ cao.
Tuy vậy, hầu hết mọi người đều tin rằng, cách thức cung cấp dịch vụ của Internet hiện tại, như phân phối hết khả năng (best-effort delivery) sử dụng nguồn tài nguyên chung, không thể cung cấp lưu lượng và tiềm năng bảo đảm cho nhu cầu của các ứng dụng mới đòi hỏi tốc độ cao như điện thoại Internet hay videoconferencing. Những gì cần thiết là cung cấp dịch vụ Internet bổ sung, bảo đảm tốc độ truyền nhanh hơn, và dĩ nhiên, sẽ phải chịu một giá cao hơn.
Tắc nghẽn nhưng vẫn hoạt động
Nếu như Internet thực sự bị bít kín hay tắc nghẽn nhưng vẫn đòi hỏi nó thực hiện một điều gì đó thì ta thực sự sửng sốt khi nó vẫn hoàn thành được.
Dĩ nhiên Internet bị bít kín và tắt nghẽn ... và nó đã luôn luôn như vậy. Điều đó phụ thuộc vào việc bạn đang so sánh nó với cái gì. Việc sử dụng dĩ nhiên thay đổi theo thời gian trong ngày.
Nhiều người cảm thấy Internet vận hành rất tốt, tùy theo tình huống.
Trong tất cả các cuộc thảo luận về sự sụp đổ đang lơ lửng trên đầu và các kết nối chậm chạp, một số người vẫn nói rằng đã nhận được dịch vụ tốt hơn trong những năm gần đây. Điều đó không chứng minh rằng mọi sự đang tốt hơn, nhưng cũng không ủng hộ cho những dự đoán về một sự kết thúc sẽ xảy ra.
Cũng khó đưa ra những kết luận chung, bởi vì Internet không phải là một thực thể đơn độc. Backbone của Internet không thể suy sụp bởi vì không chỉ có một Internet backbone duy nhất mà mỗi nhà phân phối có backbone riêng của họ. Digital Express, chẳng hạn, vừa hoàn tất việc phát triển vòng cung tốc độ DS3 (45 Megabit mỗi giây) xuyên suốt hầu khắp Hoa Kỳ.
Hỗ trợ cho một backbone mạnh
Không phải tất cả các vấn đề về tốc độ đều chồng chất lên backbone của nhà cung cấp. Có nhiều lý do sinh ra sự tắc nghẽn. Hệ thống chủ (host) quá tải; các tuyến truy cập hệ thống chủ bị quá tải hoặc khả năng quá thấp đối với nhu cầu đặt lên nó.
Có các trường hợp tắc nghẽn, như NAPs chẳng hạn, và không phải tất cả các mạng backbone trong hơn 100.000 mạng của Internet được mở rộng cùng tốc độ. MCI đã triển khai một backbone OC3 (155 Megabit/giây), các ISP khác cũng đang tiếp bước, và tất cả đang hướng tới OC12 với tốc độ chừng gigabit.
Internet có những vùng hoạt động tốt và những vùng yếu. Có những nơi bạn sẽ thấy đến 30% bó thông tin bị thất lạc và bạn chẳng thể lấy được gì hoàn thiện. ở các chỗ khác (có kiến trúc dữ liệu tốt) mọi việc rất trôi chảy. Điều này thường phản ánh qua chi phí bạn phải trả cho kết nối mạng. Nhà phân phối A chỉ lấy 300 USD mỗi tháng cho 56Kbps frame relay, trong khi nhà phân phối B là 500 USD. Sự khác biệt có lẽ sẽ là tốc độ và độ tin cậy. Bạn sẽ nhận được tương xứng với số tiền bạn bỏ ra.
Các đường truyền (router) quản lý NAP và các điểm kết nối khác rất khó khăn trong việc theo được tốc độ (với các nâng cấp backbone của các nhà phân phối) để cho các nâng cấp này không nhất thiết phải hỗ trợ cho tốc độ tổng thể của Internet. Một số yếu tố khác cũng gây áp lực cho NAP như sự gia tăng nhanh chóng về lưu lượng âm thanh và hình ảnh trên Internet, tăng lưu lượng từ châu á, châu Phi và châu Âu. Hiện tại cũng không ít trường hợp 20% bó thông tin bị thất lạc tại các điểm trao đổi, làm cho người dùng cuối thấy rằng Internet chậm chạp hơn.
Phương thuốc hiện đại
Các chuyên gia Internet kỳ cựu khác xem xét những vấn đề tồn tại của Internet và nói rằng họ mong nó tốt được như những ngày xưa. Họ muốn nói đến những ngày ban đầu của Internet. Ngày đó các vấn đề trục trặc chỉ ảnh hưởng đến một nhóm nhỏ người sử dụng. Chúng ta không còn ở thời kỳ mà một đường truyền chủ yếu bị đứt làm tất cả những người dùng từ bờ Đông không liên lạc được đến bờ Tây đại dương.
TCP đã làm việc kém đến nỗi Internet thực sự tắc nghẽn. Chưa bao giờ có hiện tượng như vậy với công nghệ truyền. Công nghệ vẫn luôn vận hành tốt, nó không phải là nguyên nhân của trục trặc. Mọi sự tắc nghẽn là do nguyên nhân khác, chẳng hạn không đủ tài nguyên.
Giới trí thức Internet giáo điều chứ không hiện thực
Niềm tin của giới trí thức Internet đang tụt hậu so với thời đại và những lệch lạc với thực tại ngày càng tăng. Vấn đề là chúng ta cần biết thực tế về Internet trong khi giới này lại không quan tâm đến chúng.
Đã có một số sự kiện về sự sụp đổ sắp xảy ra của Internet, nhưng giới trí thức cho là: "Internet chưa bao giờ sụp đổ. Chúng ta đang đâm thọc vào các tín điều, vào cái đã phụng sự chúng ta hàng chục năm qua. Hãy xem kết cục vào lúc 11 giờ đêm".
Điều gì đã làm chúng ta nghĩ về sự sụp đổ không nhằm mục đích khác hơn là làm mất uy tín của giới trí thức này và niềm tin của họ. Tiếp theo đó ta có thể cám ơn họ đã xây dựng nên Internet và nó đã thành công xa hơn những giấc mơ hoang tưởng, rồi chúng ta lại nói tiếp: "Hãy về nhà và phát minh ra một thứ gì đó khác kỳ diệu bằng một nửa Internet thôi!"
Internet ngày nay thiếu sự an toàn, các hệ thống quản lý, cơ cấu lập hoá đơn thích hợp, và các bảo đảm về chất lượng phục vụ. Chúng ta thường xuyên nghe giới trí thức nói rằng muốn giải quyết các thiếu hụt này có nghĩa là ta không "có nó".
Không ai ở những nơi cỡ như MIT (Viện Công Nghệ Massachussete) hoặc Harvard dám can đảm thú nhận một sự thật đơn giản là Internet bị què quặt theo những chiều hướng đó, bởi vì các nhà nghiên cứu đã xây dựng Internet trong một thời gian dài, và đã từng thấy rằng sự an toàn, quản lý và lập hoá đơn là rất đơn điệu. Còn chất lượng dịch vụ, chúng ta đã làm tất cả những gì để Internet chuyển tải e-mail dạng ASCII, chưa kể đến tiếng nói và hình ảnh tương tác hai chiều.
Hiện nay Internet đã vươn lên lớn mạnh, thành công, quan trọng, và là một Internet có sức mạnh công nghiệp, vững chắc, quản lý bằng các sự kiện, và trả tiền theo mức sử dụng, với chất lượng dịch vụ ngày càng tăng chứ không giảm. Vì thế hãy cứ tiếp tục với nó trước khi có thảm họa sụp đổ.
Trong hầu hết các báo cáo mới đây, giới trí thức Internet vẫn tiếp tục phủ nhận mọi mối đe dọa sắp xảy đến sẽ làm sụp đổ backbone của Internet. Họ nói rằng Internet vẫn còn tốt, thậm chí Internet cũng chẳng có backbone. Tốc độ và độ tin cậy của Internet thì từ xưa đến giờ cũng vẫn thấp như vậy. Rồi họ nói rằng sự xuống dốc của tốc độ là tại các server bị bận rộn.
Việc Internet hoàn thành nhiệm vụ tốt hay không còn tùy vào nơi bạn nhận dịch vụ này. Rồi họ lại nói rằng TCP/IP đang làm việc tốt, còn HTTP thì chưa được như vậy. Sau đó họ lại cho rằng những cố gắng của TCP/IP là không đủ.
Họ nói: "Đừng lo, các đường truyền (router) của Internet có thể xử lý hệ số 10 khác trong lưu thông". Điều gì sẽ xảy ra khi các router của Internet không thể vận hành các lưu thông trên Internet nữa, và điều này sẽ xảy ra với nhịp độ lưu thông này cứ tăng từ 5 đến 10% một tuần, trong vòng từ sáu tháng đến một năm tới.
Nhưng chúng ta đã từng nghe trong suốt một thời gian dài là Internet trưởng thành rất nhanh, thế thì tại sao sự lớn mạnh mau lẹ này lại làm các nhà trí thức sửng sốt?
Nhóm Routing Arbiter xác nhận sự thật mà hầu hết người sử dụng đều biết: Internet đang ngày một tồi hơn. Tỉ lệ bó tin bị thất lạc giữa các nhà cung cấp dịch vụ lớn ngày càng tăng, đầu tiên hồi tháng 12/95 là 10%, rồi bây giờ là 20%, 30%, 40% và còn cao hơn nữa.
Các sự kiện này là sai chăng? Hay chưa được thích đáng? Liệu giới trí thức có chịu ngưng cái ngón giáo điều ngớ ngẩn để bắt đầu đối mặt với các sự kiện chăng?
Nếu như Internet thực sự đang có hàng chục triệu người sử dụng, như các nhà trí thức nói, thì liệu mỗi ngày có bao nhiêu lần một người này hay người khác trong số họ nói mơ hồ rằng server mà họ đang cố gắng truy xuất đến là không tồn tại, không phản ứng hoặc từ chối yêu cầu bằng một thông báo như: "Xin hãy kiểm tra lại các yêu cầu và cố gắng thử lại vào một lúc khác!". Và bao nhiêu lần một ngày họ phải chờ đợi trong hư không cho đến khi Internet tải đầy đủ? Liệu chúng ta có thể có các protocol và công cụ để làm cho các thông báo lỗi ngày càng tăng của Internet trở nên dễ hiểu hơn?
Hàng triệu người trong chúng ta đang chờ xem hồi kết cuộc lúc 11 giờ đêm!
Nguồn tin từ PCworld
ĐIỆN ĐÀM QUA INTERNET
Cụm từ "Internet telephony" thường gợi lên hình ảnh những tay ham mê máy tính cắm bo mạch âm thanh vào PC của họ để có thể trò chuyện "miễn phí" với các đồng minh trên toàn thế giới vào những giờ rảnh rỗi. Hay như những kẻ vụ lợi tranh thủ các cuộc gọi điện thoại quốc tế rẻ tiền được thực hiện mỹ mãn qua Internet. Hãy loại bỏ những ý tưởng đó ra khỏi đầu bạn vì chúng đã cổ xưa rồi.
Điện thoại Internet đang nổi lên như một công cụ truyền tải tiếng nói và fax trên thế giới với cước phí rẻ. Và không chỉ có thế, các hãng còn nhìn thấy nhiều lợi ích khác từ những ứng dụng kết hợp tiếng nói và dữ liệu truyền qua các mạng dùng giao thức Internet (IP - Internet Protocol), cho phép họ hỗ trợ các trung tâm điện đàm dùng Web, và tổ chức hội đàm trao đổi cả tiếng nói lẫn dữ liệu trên bảng động (live whiteboard).
Nhiều nhà sản xuất, từ Lucent Technologies Inc., Micom Communications Corp., cho đến Array Telecom Inc. đang hướng đến các cổng điện thoại Internet và phần mềm cho môi trường truyền thông và cộng tác, đưa điện thoại và fax đến gần với Internet. Một số hãng truyền thông và các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP - Internet Service Provider) nhỏ đang tận dụng những đặc tính của các sản phẩm này để cung ứng các dịch vụ fax và điện đàm qua Internet.
Các hãng truyền thông và ISP lớn còn lừng khừng với lời than phiền về một số vấn đề trong việc tích hợp và thiếu thiết bị truyền thông tầm cỡ. Nhưng bạn có thể trông chờ sự đổi ý của họ khi các hãng nhỏ trong ngành thúc ép và khi có nhiều thiết bị được đưa ra ứng dụng hơn.
Ngành điện thoại Internet
Tính kinh tế của điện thoại Internet rất hấp dẫn. Nó cho phép tăng hơn từ 5 đến 10 lần các cuộc điện thoại qua cùng một dải tần so với điện thoại chuyển mạch thông thường, và thậm chí còn nhiều hơn đối với truyền fax. Điều này khiến cho cước phí các cuộc gọi đường dài có thể giảm đi một nửa hoặc hai phần ba. Bạn còn tiết kiệm được hơn nữa đối với các cuộc gọi quốc tế, và đặc biệt là các dịch vụ truyền fax hoặc thông điệp, nhờ chúng không đòi hỏi đáp ứng thời gian thực (real- time) như các cuộc điện thoại.
Những công ty phải chi 10.000 USD hàng tháng cho điện thoại và fax giữa các địa điểm có thể thu hồi vốn đầu tư cho máy chủ điện thoại Internet ở mỗi địa điểm trong vòng không quá một năm nếu họ chỉ sử dụng các cuộc gọi đường dài, khoảng chừng 3 tháng nếu phải gọi cho một hay nhiều nơi ngoài nước. Họ sẽ tiết kiệm được chừng 30-40% đối với các cuộc gọi quốc nội, và khoảng 50% cho các cuộc gọi quốc tế.
Điện thoại Internet đang trở thành thực tế. Theo một nhà tư vấn hàng đầu trong ngành điện thoại Internet, đến cuối năm 1997 sẽ có ít nhất là 50 trong số 500 công ty lớn sử dụng các sản phẩm điện thoại Internet. "Fax qua Internet" sẽ là một trong những ứng dụng quan trọng nở rộ đầu tiên nhờ không gặp vấn đề thời gian thực như của điện đàm, và do nó chiếm tỉ lệ trung bình khá lớn (khoảng 40%) trong chi phí điện thoại (tính trên 1,000 công ty hàng đầu nước Mỹ). Và người ta dự báo rằng điện đàm - công nghệ đòi hỏi thời gian thực - sẽ là bước ứng dụng tiếp theo.
Những chướng ngại
Cần phải thừa nhận rằng có một số trở ngại trong việc triển khai và ứng dụng điện thoại Internet. Thứ nhất, tiếng nói có thể không có được chất lượng thực (toll quality), đặc biệt nếu như dải tần bị hạn chế hoặc nếu khả năng của mạng không đủ mạnh gây mất mát các gói thông tin trên đường truyền tải. Hiệu ứng trễ (latency) - sự chậm trễ do mất thêm thời gian cho việc số hóa, nén và "đóng gói" thông tin, và do truyền các gói thông tin này qua mạng và các bộ dẫn đường (router) - chắc chắn sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng âm thanh.
Tuy nhiên, người dùng cũng có thể chấp nhận các cuộc gọi chất lượng không cao, như đã xảy ra đối với trường hợp điện thoại di động (cellular). Hơn nữa, chất lượng điện đàm Internet đang trở nên tốt hơn, đến tháng 6/1997 nó đạt khoảng 85% chất lượng thực, tăng 65% so với đầu năm.
Chất lượng đang tiếp tục được cải tiến. Việc sử dụng các sản phẩm ở mức máy chủ thay vì dùng các card âm thanh thông thường trên máy PC đã cung cấp sức xử lý cần thiết để giảm thiểu hiệu ứng trễ và cho âm thanh chất lượng cao.
Công nghệ điện thoại Internet sử dụng trong các mạng và ứng dụng cộng tác cũng cần có các tính năng điện thoại truyền thống, chẳng hạn như hội thảo, chuyển cuộc gọi, v.v..., kể cả các hệ thống kế toán và gởi trước phiếu thanh toán. Các dịch vụ này sẽ phải tích hợp với các PBX và các nhà phân phối cuộc gọi tự động (ACD - Automatic Call Distributor). Họ đang phân phối các sản phẩm đáp ứng một số vấn đề này, tuy rằng việc tích hợp với các PBX và ACD chỉ có thể là việc trong tương lai.
Hơn nữa, các ISP và các hãng truyền thông sẽ cần các thiết bị có quy mô như các hệ thống chuyển mạch điện thoại hiện nay - có khả năng hỗ trợ không chỉ hàng chục hay hàng trăm cuộc gọi đồng thời, mà là hàng chục ngàn cuộc gọi. Điều này còn chưa hiện thực, nhưng người ta hy vọng sắp có những hệ thống chuyển mạch điện thoại Internet lớn của các nhà sản xuất tầm cỡ như Alcatel Telecom, Lucent, Northern Telecom Inc., và Vienna Systems. Một phát ngôn viên của MCI Communications Corp. cho rằng các hệ thống chuyển mạch như thế sẽ xuất hiện đầu tiên vào quý I năm 1998.
Vấn đề khác, như thông thường, là các hệ thống tiêu chuẩn. Về phía máy khách, chuẩn H.323 đã được chấp nhận, và hầu hết các nhà sản xuất đều tuân thủ chuẩn này. Các chuẩn cho cổng liên mạng (nối các mạng dùng giao thức Internet với các mạng điện thoại thông thường) sẽ ra đời trễ hơn.
Máy chủ điện thoại Internet
Hiện giờ bạn đã có thể trang bị cho mạng của mình các cổng liên mạng từ nhà cung cấp để áp dụng kỹ thuật điện thoại Internet trong nội bộ công ty. Phần mềm và phần cứng cần thiết đều có thể mua được từ hàng lô nhà cung cấp, trong đó có những hãng được liệt kê ở bảng kèm theo.
Các sản phẩm kiểu card hay kiểu máy chủ không chỉ để xây dựng các hệ thống điện thoại Internet, mà còn cho phép tích hợp chúng với các mạng PBX, LAN, và ACD hiện có. Nói chung, các sản phẩm này hỗ trợ kỹ thuật xử lý tín hiệu số, số hóa và nén/giải nén tín hiệu tiếng nói (loại tương tự), và các cổng nối mạng dùng giao thức IP với mạng điện thoại công cộng (xem hình vẽ). Một số máy chủ và cổng liên mạng cũng có các tính năng kế toán.
Chúng ta hãy thử tham khảo một số ý kiến thực tế. Dave Pearson, trưởng phòng công nghệ mới của The Boston Globe, rất quan tâm đến sản phẩm này. Ông muốn dùng điện thoại Internet để giảm chi phí và cải tiến dịch vụ khách hàng ở hai trung tâm điện thoại của Globe chuyên giải quyết việc đăng ký sử dụng và đăng quảng cáo của khách hàng. Ông cũng muốn dùng nó hỗ trợ cho việc liên lạc điện thoại giữa 40 cơ sở của Globe ở Massachusetts.
Khi khách hàng vào Web site của Globe để đăng quảng cáo, Pearson muốn cho người khách chỉ cần nhấp chuột trên biểu tượng thích hợp là có thể liên lạc điện thoại được với đại diện bán hàng. "Tôi muốn một mạng duy nhất", ông nói. "Chúng tôi sử dụng công nghệ trả lời bằng tiếng nói theo kiểu tương tác để giảm chi phí và nâng cao chất lượng dịch vụ. Tôi xem Internet như là một phương tiện khác, chứ không hoàn toàn thay thế phương tiện cũ, để đến với khách hàng."
Tất nhiên, tiền bạc cũng là một động cơ. "Chúng tôi sử dụng Centrex. Phí cài đặt cho một đường Centrex ISDN (mạng dịch vụ tích hợp dùng kỹ thuật số) khoảng 800 USD, và thêm vài trăm USD nữa cho chiếc điện thoại có màn hình. Thật là hấp dẫn, nếu như giảm được chi phí", theo lời Pearson, "nhưng còn quá sớm để khẳng định rằng điện thoại Internet sẽ giúp tiết kiệm chi phí, hay chỉ giúp tạo ra dịch vụ khách hàng tốt."
ý kiến từ những người đã sớm thiết lập các hệ thống này cho thấy ít nhất là chúng cũng giúp tiết kiệm chi phí.
Ví dụ, hãng Lucent cho biết một công ty ở Đức, khách hàng dùng cổng liên mạng điện thoại Internet của họ, trước đó gặp rắc rối về vấn đề thuê nhân viên quản lý dịch vụ khách hàng ngoài giờ hành chính. Giờ đây công ty này thuê nhân viên ở Florida và dùng các hệ thống điện thoại Internet của Lucent để xử lý liên lạc điện thoại và máy tính giữa Florida và Đức, làm giảm đáng kể chi phí liên lạc đường dài.
Jablon của IBM cho biết nhóm của ông đã xem xét các cổng điện thoại Internet của một số công ty trước khi quyết định cài cổng liên mạng của VocalTec Ltd. ở 4 văn phòng, với 4 đường dây trực tuyến bắt đầu hoạt động vào mùa hè này. Trong nỗ lực tìm hiểu xem các khách hàng của IBM sẽ sử dụng công nghệ này như thế nào và những cơ hội kinh doanh nào có thể có, nhân viên của họ ở các văn phòng đang sử dụng thiết bị điện thoại Internet để hỗ trợ cho các cuộc đàm thoại.
"Mọi người đã ngạc nhiên về chất lượng các cuộc gọi - sự ngạc nhiên thú vị, nó tốt hơn điện thoại di động", Jablon nói. Ông cho rằng công nghệ này cũng cần thiết cho môi trường viện và trường học, nó hỗ trợ liên lạc tiếng nói và dữ liệu qua một đường dây duy nhất cho hàng nghìn người dùng, có thể nằm phân tán".
Các hãng truyền thông
Có một số dịch vụ hạn chế do các ISP lớn cung cấp, đặc biệt là PSINet Inc., kết hợp với NetCentric Corp. để cung cấp dịch vụ chuyển fax với cước phí thấp nhờ sử dụng kỹ thuật truyền fax số hóa ở dạng các gói thông tin TCP/IP qua mạng dữ liệu của PSINet.
Nhưng hầu hết những bước triển khai nhiều hứa hẹn nhất lại do các hãng nhỏ thực hiện. Ví dụ GXC đang xây dựng mạng "xương sống" (backbone) điện thoại Internet dựa trên cổng của Vienna Systems - nhà sản xuất máy chủ thực hiện chức năng cổng liên mạng và xử lý các cuộc gọi điện thoại Internet kiểu PBX. Hãng sẽ bán lại dịch vụ này cho các hãng truyền thông khác để họ cung cấp dịch vụ điện thoại và fax giá hạ cho người dùng cuối.
Mạng đầu tiên sẽ có 8 cổng ở các nước khác nhau, bao gồm Mỹ, Đức, Israel, Nhật, Hàn Quốc, New Zealand và Anh, và sau đó số cổng sẽ nhanh chóng tăng lên.
Lĩnh vực kinh doanh này có vẻ đang bùng nổ. Dịch vụ của GXC bắt đầu vào tháng 6/1996 - họ là hãng đầu tiên thực hiện và thu tiền điện thoại Internet - và giờ đây đang quản lý khoảng 200.000 phút sử dụng một ngày, mà chỉ dùng 15% công suất của GXC, với tốc độ tăng trưởng gấp đôi hàng tháng. Hoạt động của GXC phần nào cho thấy sự phát triển nhanh chóng của ngành điện thoại Internet.
Rimnet Corp. ở Tokyo là một khách hàng khác của Vienna Systems. Công ty này đã triển khai các cổng IP tại 6 thành phố lớn nhất của Nhật Bản, với 600 đường liên lạc nối từ những cổng này vào mạng điện thoại chuyển mạch công cộng (PSTN) của nước này - đủ để phục vụ khoảng 9000 người dùng. Các cuộc gọi qua mạng của Rimnet có cước phí khoảng 60 Yen cho 3 phút, cỡ một nửa cước phí tối đa cho cuộc gọi đường dài trong những vùng này.
Theo chủ tịch Rimnet, người dùng cho biết chất lượng cuộc gọi đạt khoảng 70-90% chất lượng điện thoại thông thường, và có 85% người dùng cho rằng chất lượng tốt hơn điện thoại di động. Tại Mỹ, các ISP và hãng truyền thông có tên tuổi không vội vàng vào cuộc mặc dù họ không phủ nhận điện thoại Internet. PSINet có cung cấp dịch vụ fax Internet, nhưng không hứa hẹn gì về điện thoại Internet trong tương lai gần. Họ cho rằng không có trở ngại ở công nghệ nền tảng, mà có vấn đề lớn trong việc tích hợp các mạng điện thoại Internet với hệ thống tính cước. Quy mô hệ thống cũng là vấn đề còn ngỏ.
Các hãng truyền thông như AT&T, MCI, và Sprint Corp. thì có để mắt đến và thử nghiệm điện thoại Internet, nhưng họ không thể đưa ra khai thác dịch vụ này chừng nào chưa có các bộ chuyển mạch cỡ lớn. MCI chẳng hạn, hiện đang dùng Wintel-card của DiaLogics Corp. "Nó làm việc tốt, nhưng bị hạn chế về dung lượng giống như đường T-1", ông Robert Hagens - Giám đốc Công nghệ Internet của MCI phát biểu. "Bạn không thể cung cấp dịch vụ cho 100,000 khách hàng với thiết bị như thế được."
Ông Hagens nói MCI đang chờ các nhà cung cấp cỡ như Nortel đưa ra các bộ chuyển mạch dành cho truyền thông. Một phát ngôn viên của MCI cũng nói rằng người sử dụng có thể thấy các đợt thử nghiệm vào Quý III năm 1998.
Trong khi đó, Sprint cho rằng việc thiếu các bộ chuyển mạch cho hãng truyền tải gây khó khăn cho sự phát triển kinh doanh điện thoại Internet. Họ nói các chi phí cho việc kinh doanh này còn chưa rõ ràng: do cổng liên mạng dành cho các ISP lớn vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm beta nên họ không đủ thông tin để thiết lập mô hình chi phí nhằm xác định kỹ thuật nào kinh tế hơn.
AT&T đi trước một bước so với các đối thủ của mình. Hãng truyền thông này đang xem xét 4 hạng dịch vụ: "Hạng A" - liên lạc đường dài chất lượng thực của mạng PSTN, cho đến "Hạng D" - nối các cổng liên mạng từ/đến mạng Internet. "Chúng tôi cho rằng điện thoại Internet là một cơ hội có tiềm năng lớn", phát ngôn viên AT&T nói, mặc dù ông cũng nói thêm rằng AT&T chỉ mới có những ý tưởng "sơ khai" về hình thức hoạt động của dịch vụ này.
Những người lạc quan nhìn thấy ở điện thoại Internet khả năng kết hợp tiếng nói và dữ liệu, vấn đề mà người ta đã bàn luận quá nhiều mà vẫn chưa kết thúc. Khi công nghệ này được ứng dụng rộng rãi, sẽ xuất hiện lớp ứng dụng mới hòa trộn tốt nhất dữ liệu và tiếng nói, chẳng hạn những trung tâm điện thoại và chia sẻ dữ liệu bằng công nghệ WEB. Người ta cũng sẽ sử dụng điện thoại Internet để hội đàm, kết hợp với thuyết trình bằng hình ảnh và trao đổi dữ liệu.
Những công dụng khác có thể dành cho các bộ phận, nhân viên làm việc ở xa văn phòng chính, chẳng hạn như đại diện bán hàng ở nước ngoài, liên lạc điện thoại về văn phòng chính qua Internet thay vì chỉ trao đổi các thông điệp và dữ liệu như trước đây.
Đã đến lúc người dùng có thể bắt đầu thử nghiệm. Bạn hãy xem xét lưu lượng thông tin liên lạc của bạn, đặc biệt là truyền fax và điện thoại quốc tế, để tìm ra chỗ nào có thể ứng dụng điện thoại Internet.
Điểm hay của điện thoại Internet là các công ty có thể thiết lập dần dần, từ văn phòng này qua văn phòng khác, chứ không nhất thiết phải làm đồng loạt.
Một điều rất rõ ràng: nếu cước phí fax và điện thoại quốc tế hàng tháng của bạn khá lớn, hãy xem xét ngay vấn đề sử dụng điện thoại Internet. Nếu cước phí bạn đang phải trả không đáng cho bạn sử dụng các máy chủ riêng, hãy thăm dò nhà cung cấp dịch vụ Internet bạn đã biết, nên để ý đến những nhà cung cấp mới và các hãng truyền thông nhỏ - họ có thể cung cấp dịch vụ này trong những vùng bạn cần.
Mô hình làm việc của Điện thoại Internet
(1) Người dùng 1 quay số điện thoại thông thường cho Người dùng 2. PBX sẽ dẫn cuộc gọi này đến ITS 1, xem nó một nút PBX.
(2) ITS 1 truyền cuộc gọi qua Internet đến ITS 2.
(3) ITS 2 nối cuộc gọi này thông qua PBX liên quan với nó. Cuộc gọi này tiếp tục được thực hiện như là đang gọi qua mạng điện thoại bình thường. Các cuộc chuyển fax cũng được xử lý như vậy.
Nguồn tin từ PCworld
HỆ ĐIỀU HÀNH VÀ INTERNET
Từ nay, một hệ điều hành mới phải cho phép truy cập Internet một cách liền mạch và người dùng có thể mở tập tin của mạng toàn cầu này như mở tập tin trong đĩa cứng cục bộ của mình, chưa nói đến khả năng của máy tính cầm tay (laptop) nối với các mạng LAN của công ty ở mọi nơi, mọi chổ. Bức tranh đó đang trở thành hiện thực nhờ cố gắng của các hãng lớn như Miceosoft, IBM, Novell,... Trước hết phải tìm cách kết hợp Internet browser với giao diện GUI của deskop để tạo ra một môi trường cho phép người dùng tìm kiếm và mở tập tin cho dù nằm ở bất cứ vị trí địa lý nào. Bước tiếp theo phải làm sao để người dùng cuối (end-user) không phải biết gì về nơi lưu giữ tập tin và Internet trở thành một phần của ổ đĩa phân tán lớn toàn cầu.
"Chúng ta đang phấn đấu theo hướng đó, một hướng mũi nhọn cần quan tâm", Dan Kuznetsky, một phân tích viên của International Data Corp. (IDC) ở Franingham, Mass nói. "Một số công nghệ đã và sẽ có trong tương lai gần. Các hệ điều hành mới chắc chắn phải có những tính năng như vậy".
Giữa tháng 3, tại hội nghị của các nhà phát triển Internet chuyên nghiệp tổ chức ở San Francisco, Microsoft giới thiệu bản Beta của Internet Add-on cho phép nối trực tiếp Exploner 3.0 browser với trình đơn (menu) Explorer của Windows 95. Nổ lực mới nhất này chỉ là một phần nhỏ của những gì sẽ đạt được trong thời gian tới, bởi vì nhiều vấn đề về công nghệ đã được giải quyết xong. Trong môi trường mới, các nhà quản trị IS đang gấp rút xây dựng mạng nội bộ dựa vào giao thức TCP/IP trên cơ sở các mạng ảo (Virtual network) và người dùng có thể với tới mọi nơi trên thế giới.
Tuy vậy, quản lý các môi trường như vậy là công việc hết sức khó khăn bởi vì Domain Naming System (DNS-hệ thống định danh phân vùng) của Internet Protocol rất phức tạp, đặc biệt khi phải làm việc với các môi trường cộng tác luôn biến động.
"Nếu tất cả đều tĩnh thì IP chẳng có gì đáng nói. Thế nhưng, với DNS buộc phải tự ấn định tất cả các địa chỉ IP cho mổi máy khi nối mạng", một chuyên gia kỹ thuật yêu cầu giấu tên, của Comdisco Inc. ở Rosemont, ILL., nói.
Mơ ước
Những khó khăn trong việc định hình và bảo trì hệ thống định danh phân vùng của IP làm cho việc sử dụng Internet để chia sẻ dữ liệu bị hạn chế, và giải quyết vấn đề này đang trở thành ưu tiên hàng đầu để có thể tiếp cận được các ứng dụng Client/Server phân tán.
"Các khung ứng dụng hiện đại phải đảm bảo cơ chế liên lạc. Nếu cơ chế này dùng TCP/IP như một giao thức truyền tải cơ sở thì mọi ứng dụng có thể bắt tay được với ứng dụng khác ở mọi chổ trên Internet", Steve Jobs, tổng giám đốc điều hành và chủ tịch của Next Software Inc nói. Điều này nghĩa là trong tương lại mổi Server sẽ kèm theo các dịch vụ cơ bản của Internet. Theo Kuznetsky của IDC, trong số đó ít nhất sẽ có: TCP/IP, cổng nối IPX với IP để nối các mạng Novell NetWare với Internet, server File Transfer Protocol, Simple Mail Transfer Protocol E-Mail Server, server World Wibe Web, một cơ chế quản lý CSDL và một bộ tìm kiếm Gopher. Internet Information Server của Microsoft có phần lớn các tính năng kể trên và sẽ phát hành cùng với Windows NT 4.0 Server vào tháng 6 tới.
Thế nhưng, quan trọng hơn cả là các hãng lớn như Microsoft, IBM SCO và Sun Microsystems đang quấy quá với DNS để cho phép các địa chỉ IP trở nên "động", nghĩa là được tìm thấy và được sử dụng một cách tự động mổi khi máy tính nối với mạng.
Những nổ lực này đảm bảo người dùng có khả năng tìm kiếm được mọi tài nguyên trên Internet.
"Trước kia, nếu bạn muốn tìm một tập tin nào đó trên máy cụ thể, bạn không thể tìm được máy đó nếu người quản trị không cho biết địa chỉ", Enzo Schiano, quản trị sản phẩm Windows NT Server của Microsoft nói.
Microsoft sẽ cung cấp Domain Name Service/Windows Naming Service (DNS/WINS) tích hợp với Windows NT 4.0.
Cơ chế
Khi một Client của Windows NT dùng giao thức NetBIOS-to-IP để yêu cầu được nối với tập tin cụ thể nào đó trong vùng định danh, ví dụ microsoft.com, DNS/WINS sẽ tự động cập nhật cơ sở dữ liệu NETBIOS, trong đó có địa chỉ IP của tập tin đó trong microsoft.com. "DNS động thực sự hữu ích đối với các hãng lớn, khi mà người dùng vẫn có thể sử dụng Internet để nối mạng, mặc dù nhân viên và máy tính luôn thay đổi vị trí", Jonathan Handler, một nhà quản trị IS của Blue Cross/Blue Shield cho ý kiến nhận xét.
Tuy quảng cáo rùm beng, chàng khổng lồ ở Redmond (ám chỉ Microsft) vẫn không đưa ra được DNS động thực sự: Sản phẩm này của Microsoft chỉ làm việc được với các hệ dùng NetBIOS. Hãng không cho biết thời gian đưa ra hổ trợ các chủ IP khác; trong khi đó, các hãng khác đã có những bước dài trong việc nhúng DNS như một dịch vụ trực tiếp vào các hệ điều hành của họ.
Tháng 2, OS/2 Warp Server của IBM đã được phát hành cùng với Dynamic Host Configuration Protocol/Dynamic Domain Naming System (DHCP/DDNS) cho phép mọi máy tính tự định hình mổi khi cắm vào mạng IP. Tất cả các địa chỉ DNS đều được cập nhật, không chỉ có tập con của các địa chỉ NetBIOS.
Sun cũng bắt đầu đưa ra DHCP cho Sun Solaris SCO, có kèm DNS động thực sự trong phiên bản đầu tiên của Atlas Unix Server vào tháng 4. Trong khi đó, Novell Inc. đưa ra DHCP nối với các chủ của DNS.
Từ phía người dùng, những thay đổi công nghệ như vậy là một cuộc cách mạng trên desktop.
Internet Add-on của Microsoft, cho phép hòa trộn hai giao diện của File Explorer (Windows 95) và Explorer 3.0 (Internet) để tạo ra Shell tùy biến được mà người dùng có khả năng mở các địa điểm phân vùng của IP, kể cả các địa chỉ Web, từ mọi nút trên cây thư mục. Microsoft không là hãng duy nhất nhìn thấy xu thế phát triển. Apple Computer Inc. sẽ tích hợp giao diện Cyberdog Internet với hệ điều hành Copland ra vào cuối năm.
Người dùng Copland có thể xem Internet từ mọi ứng dụng OpenDoc, trong đó có bộ quản lý tập tin của MacOS, có thể kéo và thả các liên kết vào ứng dụng.
Tại hội nghị hàng năm của Phoenix OS/2 Society vào tháng 2, tổng quản trị của Personal Systems Products (IBM) hứa rằng Big Blue sẽ tích hợp Web browser của OS/2 Warp với Merlin (Phiên bản kế tiếp của Warp) vào quý 2.
Thách thức
Các nhà sản xuất hệ điều hành đang vội vã. "Rõ như ban ngày là Microsoft và các hãng OS đang tranh cướp để nuốt gọn Internet", Edwand Wedd, một phân tích viên của Barclays de Zoet Wedd (Hồng Kông) nói. Hệ điều hành với tính năng Internet là câu trả lời trực tiếp cho những thách thức của các hãng như Netscape Comminications Corp., Sun và Oracle Corp... những hãng này đang đánh cuộc trên ý tưởng rằng Internet là công nghệ hoàn toàn khác biệt, yêu cầu các giải pháp đặc biệt mà các hãng OS truyền thống không có khả năng cung cấp.
Các công ty đó thu phần lớn lợi nhuận từ các ứng dụng Server, muốn người dùng quên đi Client OS và chỉ nghĩ về Browser cũng như các ứng dụng Java. Họ cho rằng Server với đặc tính Internet là cửa khẩu được ưa chuộng hơn cả. Thế nhưng, trong thế giới mà Internet đang trở thành một phần mở rộng của OS, cho phép các server tìm và mở mọi tập tin dựa trên IP mà không thấy sự khác biệt rõ rệt giữa Internet và ổ đĩa cục bộ, các đối thủ đó sẽ nhanh chóng nhận thức rằng các công ty sản xuất OS truyền thống đã thừa hưởng vũ khí của họ.
"Nếu tôi ở vị trí của Netscape hoặc là một trong các chàng trai này, tôi lo lắng thực sự. Có nhiều lý do để người ta vẫn trung thành với các hãng quen thuộc của mình", Rob Enderle, một nhà phân tích của Giga Information Group ở Santa Clara, Calif. nói.
Các hãng lớn dự kiến sẽ hỗ trợ Domain naming system động
Hệ điều hành
Thời gian
Microsoft Corp
Windows NT 4.0
Tháng 6
IBM
OS/2 Warp Server
đã có
Sun Microsystem Inc.
Solaris
đã có
The Santa Canz Openration Inc (SCO)
Atlas
Tháng 4
Caldera Inc
Caldera Network Desktop
Trong năm nay
NT 4.0 chỉ hỗ trợ động cho các Client chạy NetBIOS
Nguồn tin từ PCworld
INTERNET - KINH NGHIỆM SINGAPORE
Hiện ở Singapore có 3 con đường vào Internet:
-Một là qua Technet, mạng giáo dục, nghiên cứu triển khai được tổ chức sớm nhất tại Singapore.
-Hai là Singnet do Singapore Telecom thiết lập, và
-Ba là TeleView là một mạng Videotext cũng của Singapore Telecom.
Một lĩnh vực sôi động trong phát triển Internet ở Singapore là World Wide Web. Tại Singapore đã thiết lập được rất nhiều các Web. Mỗi Web là một mạng hoàn chỉnh (có thể bao gồm các nút đơn hoặc nút lại là các mạng hoàn chỉnh). Các Web đó có rất nhiều tại các tổ chức khác nhau, các đại học, các cơ quan chính phủ v.v...
Một số nút đặc sắc nữa của hoạt động Internet ở Singapore là các dịch vụ MBONE, Multicast Backbone, CuSeeMe cho phép giao tiếp rộng rãi các thông tin hình ảnh giữa những người sử dụng Internet, hoặc dịch vụ INTV do Tổ hợp Truyền hình Singapore tổ chức cho phép người dùng Internet lấy được nhiều loại thông tin về tài chính, thương mại và về Singapore nói chung.
Trước khi trình bày chi tiết thêm về sự phát triển Internet của Singapore, chúng tôi muốn bạn đọc hiểu thêm về một bản chất vô cùng quan trọng của vấn đề Internet. Thường chúng ta chỉ hiểu rằng nối vào Internet để mà lấy hoặc nhận thông tin nào đó từ ngoài nước, gửi thông tin nào đó ra ngoài nước hoặc cho phép người ngoài lấy thông tin nào đó của mình. Nói cách khác thường chúng ta hiểu rằng sự giao tiếp thông tin trên Internet chủ yếu diễn ra giữa trong nước và ngoài nước.
Quan niệm như vậy không sai nhưng hoàn toàn không đầy đủ. Như trên vừa nói về tình hình Singapore và ở các phần sau ta thấy rõ rằng, cái rất quan trọng là Internet trở thành môi trường giao tiếp cho rất nhiều các Web của họ, trong đó có cả các Web dịch vụ thông tin công cộng như INTV v.v...
Như vậy Internet là môi trường hòa mạng. Các Thông Tin Khoa Học - Công Nghệ "IDNET", mạng Thông Tin Thương Mại "VINANET" v.v... có thể coi là các Web đơn sơ nhất. Một mặt tự thân chúng cần được phát triển hoàn thiện thành các mạng thật sự nghiêm túc và rồi chúng phải hòa với nhau. Môi trường hòa sẽ phải là Internet. Nói rõ hơn là các chuẩn Internet, các nghi thức giao tiếp Internet sẽ giúp chúng ta hòa các mạng rất riêng rẽ trong chính nước ta.
Technet
Technet được khởi đầu dưới dạng một dự án được Bộ Khoa Học và Công Nghệ Quốc Gia (National Science and Technology Board) quản lý. Mục tiêu là xây dựng Cổng (Gateway) Internet tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Singapore nối với Mỹ. Cổng này được thực hiện hồi tháng 3/1991 nối bởi đường thuê riêng (leased line) qua vệ tinh với mạng JVN net tại Đại học Princeton Bang New Jesey. Máy chủ do hãng DEC tặng và Cổng Internet này trở thành cổng nối mạng NUSnet (mạng của Đại Học Tổng Hợp Quốc Gia Singapore) với thế giới Internet.
Tháng 2/1992 Technet chính thức bắt đầu hoạt động phục vụ các cơ quan nghiên cứu phát triển nối với NUSnet Gateway bằng Leasedline hoặc điện thoại. Sau khoảng 1 năm thì tất cả các mạng của các tổ chức nghiên cứu - phát triển lớn bao gồm 94 mạng nhỏ và 6 mạng lớn đã kết vào Technet. Tháng 11/1992 Singapore International Foundation đã đưa vào mạng Technet một năng lực đáng kể đầu tiên phục vụ như một Server dưới hình thức dịch vụ GPHER (một loại hình dịch vụ thông tin của Internet) đó là Server SIFlash. Kho thông tin này cung cấp rất nhiều tin tức về Singapore.
Tháng 6/1994, mạng của Bộ Giáo dục cũng đã nối vào Technet. Việc kết nối mạng này được thực hiện như một dự án với tên là STW, theo đó đầu tiên là nối mạng cầu 6 trường trung học vào Technet và tiếp theo sẽ nối tất cả các trường trung học khác vào Technet trong vòng 2 năm qua.
Hiện Technet có 490 Web với trung bình là 100 máy trong mỗi mạng đó. Chúng được nối với nhau bởi giao thức SLIP/PPP thông qua các leased line. Trong số các Web này thì lớn nhất là Đại Học Tổng Hợp Quốc Gia với 17.000 máy. Đại học Công nghệ Quốc Gia với 12.000 máy, ba trường kỹ thuật với mỗi trường khoảng 2.000 máy kết nối vào Technet. Ngoài ra Technet còn có khoảng 12.000 máy lẻ kết vào Technet Gateway qua thủ tục DIAL-UP (đường điện thoại bình thường). Nhóm kết nối vào Technet lớn nữa như đã nói trên là các trường phổ thông trung học với hàng ngàn máy ở mỗi trường, tiếp đến là hơn 30 cơ quan nghiên cứu phát triển với khoảng 2.000 máy kết nối vào Technet.
Hiện Technet đang trong quá trình nâng cấp đường trục và sẽ dùng Cisco 7000 để quản lý các đường truyền của hàng trăm ngàn người dùng trong tương lai rất gần. Nói về Technet ta cần hiểu một chút về mạng Đại học Tổng hợp Quốc gia Singapore vì nó là khởi thủy của Technet. Mạng NUSnet này đã bắt đầu sử dụng giao thức FDDI (fibre Digital Data Interface) với tốc độ 100 Mbit/s từ 1990, kết nối trên 17.000 máy. Đây là mạng cục bộ lớn nhất Singapore. Máy quản lý mạng ở đây rất mạnh, họ sử dụng DEC 7000 như một máy chủ, có thể quản lý cùng một lúc 300 người. Ngoài ra hàng loạt máy DEC 5000, DEC 5500 và Sun SparStation còn được dùng làm các máy trợ lực. Ngoài các máy trên chạy với UNIX, mạng còn sử dụng máy cực lớn Cray J916.
Tháng 1 năm nay Đại học Tổng Hợp Quốc Gia bắt đầu sự nâng cấp rất đáng kể NUSnet lên thành NUSnet II như một bước chuyển NUSnet theo kế hoạch Quốc Gia về Công Nghệ Thông Tin tới năm 2000.
Những yếu tố nâng cấp cơ bản bao gồm:
* Chuyển tuyến đường trục thực sự thành 100 Mbit/s theo chuẩn FDDI.
* Đưa vào sử dụng 3 thiết bị hub SynOptics 5000 cho phép đưa NUSnet II thành mạng ATM.
* Mở thêm nhiều kho thông tin với các dịch vụ rất phong phú về tin tức hàng ngày, về thị trường chứng khoán, về các chuyến bay hàng không v.v...
Singnet
Tháng 6/1994 Singapore Telecom bắt đầu cho Singnet hoạt động. Trong 9 tháng (tới tháng 3/1995) đã có trên 3.000 máy và mạng nối vào Singnet, chủ yếu là các công ty thương mại, nhà sản xuất... Singnet cũng sử dụng DEC 7000 làm máy chủ.
Ngoài việc nối với một Internet Gateway ở Mỹ như Technet thì Technet và Singnet cũng đã nối trực tiếp với nhau. Như vậy Technet và Singnet vừa liên thông trực tiếp vừa liên thông gián tiếp qua Internet ngoài Singapore.
TeleView
TeleView là một mạng phục vụ 30.000 khách hàng và mới đây được nâng cấp để có thể phục vụ tới 100.000 khách hàng. Tháng 12 năm ngoái TeleView cho phép người sử dụng trên mạng này bắt đầu sử dụng trên mạng này bắt đầu sử dụng các dịch vụ Internet. Bản thân TeleView không tổ chức Gateway ra ngoài Singapore mà nó được nối vào cộng đồng Internet qua Singnet. Hiện có khoảng 5.000 khách hàng của TeleView đã sử dụng các dịch vụ Internet. WEB ở Singapore Rất nhiều dịch vụ Web được bắt đầu ở Singapore kể từ 9/1993 khi trạm Web đầu tiên được tổ chức ở Đại học Tổng hợp Quốc gia Singapore. Hè năm ngoái đã thống kê được hàng tháng có tới trên 60.000 yêu cầu tin hỏi tới Web Server tại ĐHTHQG. Việc tổ chức dịch vụ Web với mật độ tìm tin cao như vậy đòi hỏi giải quyết vấn đề đường truyền tải. ở Mỹ người ta dùng tới đường truyền 45 Mbit/s cho các Web trả lời tin khi mà đường truyền của các Web ở Singapore mới khoảng từ 64 Kbit/s tới 1.5 Mbit/s thì rõ ràng tốc độ bị hạn chế nhiều. Chẳng hạn hiện nay đường nối Internet của Technet thực sự mới chỉ là 768 Kbit/s, việc truy cập các nguồn lực Web sẽ khá chậm. Ngoài ĐHTHQG và Technet, nhiều kho thông tin lớn tham gia dịch vụ Web như:
* Sun MicroSystem với Sunsite Singapore
* Accel Infortech với Singapore Online
* Singapore InfoWeb v.v...
Nhiều cơ quan nhà nước Singapore cũng tổ chức các CSDL tham gia Web như Bộ Giáo Dục, cơ quan thông tin Singapore, phần lớn các đại học trung tâm nghiên cứu sinh học, Viện Khoa học Hệ thống, Viện Công Nghệ Thông Tin, Trung tâm Digital Media của ủy Ban Máy Tính Quốc Gia....
Technet đã tổ chức thông tin thị trường chứng khoán trên Web. Technet cũng tổ chức trên Web mạng SellaNet chứa đựng rất nhiều thông tin thương mại. Những kho dữ liệu thực hiện theo chuẩn Web này phục vụ rất nhiều nhu cầu khu vực kinh tế tư nhân sử dụng Internet.
Singapore SunSITE Web
Đây là một mạng dịch vụ Web cung cấp rất nhiều thông tin về các công nghệ của SUN, các phần mềm SUN. Hãng Sun có 6 trung tâm thông tin như vậy tại Brazil, London, Moscow, North Carolina (Mỹ), South Africa và Singapore.
Web này không phải chỉ bao gồm các thông tin về hãng Sun mà là mạng chứa thông tin của nhiều tổ chức lớn của Singapore như Port Authority of Singapore, Asian Mass Communication Research, Singapore Press Holdings v.v...
Singapore IntoMap Web
Đây là một mạng dịch vụ Internet Web mới tổ chức 2 năm nay bởi Bộ Thông Tin và Nghệ thuật. Hệ thống thông tin này cung cấp thông tin về các sự kiện diễn ra tại Singapore.
Giá cả dịch vụ Internet tại Singapore
Dù rằng dã có hàng trăm ngàn máy đang sử dụng các dịch vụ Internet tại Singapore, đây vẫn là lĩnh vực còn mới mẻ và giá sử dụng còn chưa định rõ. Có thể tạm coi là có 2 loại phục vụ chính:
- Theo kiểu trợ giá
- Theo kiểu thương mại
Technet được hổ trợ nhiều mặt khi tổ chức xây dạng và do đó những người dùng Internet qua Technet thực chất là không phải chịu mọi chi phí của hệ thống. Nghĩa là Technet phục vụ theo kiểu có trợ giá, do đó rẻ hơn so với Singnet là mạng thương mại. Thực ra bản thân Singnet cũng đang xây dựng để trở thành một dịch vụ Internet tự trang trải. Do đó cấu trúc giá cả dịch vụ của họ phải tính toán khá phức tạp để quản lý và thu phí hợp lý của người dùng.
Hiện nay giá của Singapore là 16,7 cent (S) cho 1 phút làm việc từ 8 giờ sáng tới 18 giờ và phân nửa (8,3 cents) vào các giờ còn lại. Singnet còn phải tính phí đăng ký vào mạng, phí không gian lưu trữ v.v...
Hiện Technet đang có khả năng sẽ tư nhân hóa và khi đó Technet và Singnet sẽ là các thực thể cạnh tranh.
Nguồn tin từ PCworld
KHÔNG CÒN GÌ RIÊNG TƯ TRÊN INTERNET
Lần đây, Christopher Kantzes mới nhận ra rằng Internet giữ bí mật rất kém.
Vào khoảng một năm nay, người kỹ sư này thỉnh thoảng vẫn lân la vào các nhóm thảo luận ít tranh cãi - như bàn về giải trí, thức ăn, đồ uống, bia, ... - và đã đóng góp ý kiến với hàng chục người khác. Cho đến khi tạp chí Minneapolis Star-Tribune ngẫu nhiên chọn ông để thử nghiệm việc chắp nối một tiểu sử sơ lược dựa trên những đóng góp trực tuyến của ông lâu nay, thì câu chuyện mới vỡ lở.
Bằng cách sử dụng DejaNews, một Web site cho phép tìm kiếm các nhóm tin Internet thông qua tên riêng, tạp chí này đã tạo được hồ sơ hoàn chỉnh về Kantzes một cách khách quan và ngay thật. Ông ta sinh ở Salisbury, Maryland; học ở các trường University of Delaware và Syracuse University; đã làm việc tại Magnavox thuộc Fort Wagne, bang Indiana, trước khi tìm được chỗ làm hiện tại; ông dự định sẽ đóng kịch tại nhà hát Theatre de la Jeune Lune ở Minneapolis, là người yêu thích Garrison Keillor, bia lên men, các nhà hàng ăn ngon, và máy tính Macintosh; ông không ưa Bill Gates, và đã đi nghỉ ở Paris và Rome vào năm 1995.
Ngay sau khi Star-Tribune cho đăng bài báo của họ, Kantzes đã chuyển đi nơi khác. Nhưng chỉ trong vòng vài tuần, trên các trang trắng điện tử của Internet đã có một bảng liệt kê địa chỉ và số điện thoại của ông ta. "Đây là một bài học mà không bao giờ tôi muốn tin - rằng, tôi không thể nào yên thân, ngay cả khi đang ngồi một mình trước máy tính", Kantzes phát biểu một cách chua chát.
Mặc dầu bài báo của Star-Tribune đã được công bố với sự cho phép của Kantzes, nhưng đó cũng là một ví dụ gây ớn lạnh về câu hỏi có bao nhiêu dữ liệu cá nhân đã bị sưu tập trộm trên Internet. Không những ai cũng có thể dễ dàng tập họp từng từ mà bạn đã ghi trên các nhóm tin và tìm ra Web site bạn hay đến, mà mọi điều, từ thư điện tử cho đến mua sắm và gửi tiền ngân hàng bằng trực tuyến, đều có thể bị rình mò.
"Điều nguy hiểm của Internet là gây ảo tưởng có thể giấu tên", lời phát biểu của Janlori Goldman, một luật sư của Centre for Democracy and Technology ở Washington, DC. Mặc dù mọi người đều tưởng rằng mình là một trực tuyến tàng ẩn, nhưng thực tế có thể nhìn thấy họ rất rõ.
Nguyên nhân mất riêng tư là do bản chất bỏ ngỏ của Internet. Không có nguyên tắc quy định loại thông tin nào trên Internet là thuộc cá nhân, và cũng không có một hạn chế nào đối với thành phần thứ ba trong việc sử dụng những thông tin này. Rất nhiều dữ liệu về bạn có thể sẵn sàng cho lấy ra. Và cũng có rất nhiều người muốn lấy. Internet đã "cưu mang" cho các hãng chuyên tiến hành theo dõi việc sử dụng Web - họ chọn lọc dữ liệu từ tiểu sử cá nhân được lập nên khi bạn đến thăm Web site, rồi gửi cho các nhân viên tiếp thị.
Dễ dàng xem trộm
Tệ hại hơn nữa, World Wide Web cực kỳ thiếu an toàn và bọn tội phạm máy tính dễ dàng xem trộm đến mức hầu như không cần thủ đoạn. Internet cũng đang trở thành thiên đường cho những người lấy thông tin bằng phương pháp điện tử. ít nhất có đến nửa tá site cung cấp hàng triệu số điện thoại và địa chỉ ở Mỹ; còn số khác thì cung cấp cả dữ liệu về các bằng lái xe. Thông điệp thư điện tử và giao dịch tài chính trên các mạng công cộng cũng đều không an toàn vì những cặp mắt xoi mói này.
Tóm lại, dù trực tuyến để kinh doanh hay giải trí, bạn đều dễ bị "lộ" đối với những ai muốn thu thập dữ liệu về bản thân bạn mà bạn không hề hay biết. Rất may, bằng cách sử dụng những biện pháp như mã hóa (encryption) hoặc hòm thư dấu tên (anonymous remailers) - và bằng cách chọn site để đến thăm cũng như chọn thông tin mà bạn sẽ cung cấp - bạn có thể giảm đến mức tối thiểu, nếu chưa loại được hẳn, khả năng bị xâm phạm "đời tư".
Ai đọc e-mail của bạn?
Hầu hết thư điện tử trên Internet đều mang nội dung riêng tư như bưu thiếp vậy. Sau khi rời khỏi máy tính của người gửi, thông điệp đó đi từ server mạng này đến server mạng khác, trên đường tới người nhận. Như vậy, bọn tội phạm rất dễ "chặn" thông điệp giữa đường - và không thể biết có ai đã đọc những thư từ được giả thiết là riêng tư này hay chưa, trước khi chúng đến đích.
Bọn tội phạm máy tính dùng nhiều thủ đoạn để "cướp" e-mail khi nó đang đi giữa các server. Ngay cả khi server được bảo vệ bằng firewall - phần mềm ngăn chặn sự thâm nhập vào hệ thống mà không được phép - thì cũng không bảo đảm an toàn tuyệt đối. Bọn tội phạm có thể cho chạy một chương trình để hoán vị các mật khẩu đơn giản qua mọi vị trí, cho đến khi đúng vào nơi có thể mở khóa vào mạng đó. Hoặc chúng cũng có thể tấn công vào server World Wide Web của một công ty - server này thường đặt ngoài firewall vì được xem như là một site ngoài - rồi lẻn vào trong mạng của công ty dưới danh nghĩa là người dùng nội bộ.
Thư điện tử có tính hấp dẫn khó cưỡng nổi việc đọc trộm vì nó thường chứa đầy thông tin lý thú, từ chiến lược hợp tác bí mật cho đến số thẻ tín dụng. Một số thư còn có cả tiêu đề chứa mật khẩu và mã đăng nhập, để cho bọn tội phạm có thể sử dụng và được thâm nhập toàn bộ, ngay cả những khu vực nghiêm ngặt nhất.
Chỉ có một cách duy nhất bảo vệ e-mail chống bọn đọc trộm là mã hóa nó - xáo trộn lẫn lộn nội dung của thông điệp sao cho chỉ có người nhận đã xác định là có thể đọc được. Bức thư này lại được bỏ vào một "phong bì" số hóa an toàn mà bọn tội phạm không thể thâm nhập. Cách mã hóa bất nghi thức tốt nhất trên Internet là dùng một chương trình có tên gọi Pretty Good Privacy, viết tắt PGP, do chuyên gia về bảo mật máy tính là Phil Zimmermann phát triển (
Mã:
https://www.pgp.com
Mã:
https://www
Cả PGP lẫn RSA đều phù hợp với cách hoạt động gọi là public key/private key (khóa chung/khóa riêng). Phương pháp này dùng một thuật toán phức tạp để mã hóa riêng cho từng e-mail bằng một công cụ gọi là public key. Khóa đó bao gồm những dữ liệu mô tả tỉ mỉ về người nhận. Chỉ có private key tương ứng mới có thể giải mã để mở khóa cho thông điệp đó.
Để hoạt động theo cách này, người gửi và người nhận phải dùng phần mềm tương hợp nhau. Mặc dù PGP và RSA là các phần mềm tương hợp, nhưng những phương pháp mã hóa khác thì không.
Trong trường hợp không mã hóa được thì phải luôn nhớ rằng e-mail của bạn không còn là của riêng nữa và phải hạn chế người nhận. Không nên gửi thông tin bằng e-mail thay cho bưu thiếp. Và nếu cần trao đổi những thông tin bí mật thì gửi bằng đĩa hay fax là an toàn hơn cả.
Hãy xem kỹ trước khi duyệt
Chỗ thiếu sót của việc bảo vệ và sự riêng tư trên Internet nằm trong bản thân browser. Cả Netscape Navigator lẫn Internet Explorer của Microsoft đều có những công cụ cho phép các Web site thâm nhập vào đĩa cứng trên PC của bạn và chạy các chương trình. Các applet này - nổi tiếng nhất là Java và ActiveX - đều có thể tuỳ biến những truy cập vào một Web site dựa trên các thông số mà bạn đã nhập trước.
Applet đó sẽ thu thập chi tiết về các hoạt động của bạn rồi ở lại trên đĩa cứng cho đến khi bạn quay về site này - khi bạn làm việc, nó sẽ chạy các chương trình nhằm tránh cho bạn khỏi phải nhập lại tên, những điều quan tâm, và các thông tin khác. Tuy nhiên, để nhận được hiệu quả này, bạn phải trả giá khá đắt. Vì applet lưu trú trong PC của bạn nên nó cũng có thể ăn trộm một cách kín đáo dữ liệu hoặc những chương trình trên đĩa cứng. Thêm vào đó, bọn tội phạm máy tính sẽ có điều kiện ẩn náu trong applet để thâm nhập vào PC của bạn, hoặc thậm chí có thể rong chơi trên mạng để lấy ra dữ liệu hợp tác hoặc gieo rắc virus cho các máy PC khác.
Microsoft và Netscape đều đã cấy sẵn các lớp bảo vệ vào trong applet browser của mình nhằm đề phòng bị lợi dụng. Tuy nhiên đội ngũ làm máy tính ở trường đại học Princeton University đã phát hiện ra hàng chục khiếm khuyết về an toàn trong Java và ActiveX. Cả Netscape lẫn Microsoft đều có những phiên bản cập nhật để lấp kín các lỗ hổng này, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn còn lo lắng về vấn đề an toàn khi bọn tội phạm tiếp tục tạo ra các applet thù
nghịch.
Mặc dù hầu hết các Web site đều sử dụng applet một cách hoàn toàn hợp pháp, nhưng thường thì không thể phân biệt được các Web site an toàn với Web site nguy hiểm. Và bạn không làm được gì nhiều để đề phòng applet ác tâm, ngoại trừ tránh xa các Web site có nghi vấn, hoặc tắt khả năng Java và ActiveX, tức là từ chối hiệu quả và tốc độ mà chúng mang lại. Java và ActiveX đều có thể bị vô hiệu hóa thông qua các tùy chọn của trình đơn trong Navigator và Explorer.
Các cookie và e-mail rác rưởi
Applet ẩn chứa nhiều nguy cơ mất an toàn trầm trọng, nhưng thường chúng không thể được tải xuống nếu bạn không biết rõ chúng, đồng thời bạn có thể xóa các tập tin này khỏi ổ đĩa cứng của mình (nếu biết chúng đang ở đâu). Các cơ chế sưu tập dữ liệu khác thì khó đối phó hơn.
Một cơ chế như vậy được gọi là cookie (chiếc bánh quy). Các "trang bìa" cá nhân hoá này được tự động tạo thành khi bạn đăng ký tại một số Web site, và thường bạn không biết. Những người quản trị site sẽ nhận ra bạn khi bạn đến thăm lại, đồng thời chào đón bạn bằng các màn hình và dịch vụ tuỳ biến. Giống như applet, cookie
nằm trên PC.
Cookie trước hết là một công cụ tiếp thị. Nó cho phép người sở hữu Web site có thể kiểm tra xem bạn đến thăm site có thường xuyên không và bạn đã làm gì ở đó. Người quản trị site có thể tổng hợp dữ liệu này với những thông tin bạn đã đóng góp khi đăng ký, rồi tạo ra một cơ sở dữ liệu nhân khẩu học về những người dùng để bán cho nhân viên tiếp thị.
Ví dụ, các cuộc thăm viếng site World Wide Web ngày càng được theo dõi chặt chẽ bởi các tổ chức làm dịch vụ kiểm tra như Web Track và Doubleclick, họ đo lường ý thích của bạn theo những gì mà bạn đã làm tại các địa điểm này, các quảng cáo mà bạn đã đọc và đáp ứng. Người kiểm tra lập ra cơ sở dữ liệu người dùng theo phương pháp thống kê dựa vào nhân khẩu học và thị hiếu từng người rồi bán lại cho chủ nhân của Web site đó. Chủ site lại dùng dữ liệu này để thay đổi những nội dung cho bạn xem trong lần đến thăm sau.
Mặc dù rất khó tránh được các cookie, nhưng không phải là không thể làm được: bạn có thể loại bỏ các tập tin cookie bằng cách xóa tập tin cookies.txt của Netscape hoặc thư mục cookies của Explorer. Nhưng bạn sẽ phải đăng ký lại tại một số site và có thể bị mất các tính năng đã được đặt hàng.
Một phương pháp tương đương khác là sử dụng Anonymizer Web site (https://
Mã:
www.anonymizer.com);
Song song với việc tránh các cookie, bạn cũng có thể hạn chế một số e-mail "rác rưởi" mà bạn phải nhận. Đơn giản nhất là than phiền với những người quản lý Web site, với nhà cung cấp dịch vụ Internet, hoặc dịch vụ trực tuyến của bạn.
Vì hầu hết thông tin trực tuyến đều được cung cấp bởi chính người dùng cho nên lời khuyên tốt nhất đối với việc tránh các quảng cáo không mong muốn là: đừng khai báo gì với nhân viên tiếp thị. Nếu việc ẩn danh để tự bảo vệ là cần thiết thì chớ đưa ra tiểu sử cá nhân và điền các kết quả điều tra; nếu site có hỏi về các dữ liệu cá nhân khi đăng ký, bạn hãy sử dụng các thông tin giả.
Tán chuyện riêng tư cũng không còn riêng tư nữa
Có một thực tế đơn giản, nhưng hầu hết mọi người đều khó tiếp thu, là: không có ai là ẩn danh, và không có gì là bí mật trong "phòng" tán gẫu cũng như các nhóm tin. Mọi thông điệp mà bạn gửi đi không chỉ đến với các thành viên trong nhóm để đọc ngay lúc đó, mà còn đến với bất kỳ ai cố ý lục tìm trong kho lưu trữ nhiều tháng hoặc nhiều năm sau này.
Như Kantzes đã phát hiện, các site tìm kiếm như DegaNews và AltaVista đã cho phép những kẻ chuyên đi trinh thám có thể tìm kiếm theo tên đối với tất cả các tác phẩm trực tuyến mà bạn đã viết. Chỉ cần lộ ra đủ dữ liệu trong các thông điệp gửi đi là bạn sẽ cung cấp nội dung cho một hồ sơ thực sự hoàn chỉnh về chỗ ở, lý lịch, các mối quan hệ, và các ý nghĩ của bạn ở một nơi khác.
Do nhiều nguyên nhân chính đáng, những người tuy tôn trọng luật pháp nhưng vẫn tìm kiếm tên tuổi và những chuyện riêng tư trên Internet. Nếu bạn làm việc cho một xí nghiệp lớn, bạn lo lắng và muốn nói về khiếm khuyết của một sản phẩm mới mà xí nghiệp này lại cố ý che giấu, thì làm sao đây? Chắc bạn cũng không muốn ông chủ cho rằng bạn là kẻ "lẻo mép".
Ngay cả trường hợp muốn tránh nhận loại e-mail vớ vẩn của dân tiếp thị thì bạn cũng phải khôn ngoan tìm mọi cách giấu kín định danh trực tuyến của mình.
May mắn là bạn có thể giấu mình khi đang hoạt động trong những nhóm tin trực tuyến bằng cách dùng anonymous remailer - một chương trình giúp ngụy trang các tiêu đề thông điệp điện tử, sao cho tên và địa chỉ của người gửi trở nên không thể giải đoán nổi. Bất kỳ ai muốn trả lời cho địa chỉ mã hóa này đều phải gửi cho anonymous remailer, ở đây sẽ phát tất cả các thư trả lời trực tiếp cho bạn. Có đến hàng chục anonymous remailer đang sẵn sàng phục vụ miễn phí trên Internet.
Dĩ nhiên, anonymous remailer chỉ an toàn và bí mật với những ai dùng các dịch vụ này, vì chúng chỉ có thể giữ bí mật định danh của những người gửi thông điệp theo cách này. Cho nên phải thật thận trọng khi dùng remailer.
Vậy thì có cái gì hoàn toàn bí mật trên Internet? Rất tiếc là chưa! Hiếm gặp trường hợp báo chí địa phương công bố về đời tư của bạn dựa trên thông tin nhặt nhạnh trong số e-mail mà bạn đã gửi, nhưng những điều riêng tư của bạn thì vẫn luôn bị rủi ro.
Nếu không chú ý đúng mức thì bất cứ lúc nào gửi e-mail, thâm nhập vào một Web site, gửi thông điệp cho nhóm tin, hoặc dùng Internet để gửi tiền ngân hàng hay mua sắm, bạn đều mất khả năng chống lại âm mưu ăn cắp thông tin. Janlori Goldman, một chuyên viên của Centre for Democracy and Technology, đã nói: "Nhiều người cho là mình an toàn và không ai có thể nhìn thấy khi bước vào trực tuyến; nhưng thực tế, họ lại thể hiện rõ mồn một".
Vì việc sử dụng Internet ngày càng phát triển nên lượng dữ liệu cá nhân mà nó chuyển tải cũng ngày càng lớn. Và như Christopher Kantzes đã nhận ra: những thông tin riêng tư rất dễ trở nên công cộng.
Các Web site báo cho bạn biết những gì?
Nếu bạn quan tâm muốn biết có bao nhiêu thông tin sẽ thu gom được khi duyệt bằng browser, hãy tìm xem trang privacy demonstration, do Centre for Democracy and Technology (
Mã:
https://www.cdt.org
Chỉ cần gõ địa chỉ (
Mã:
https://www.13x.com/cgi-bin/cdt/snoop.pl
Các site khác thì có thể chỉ ra bạn bị sơ hở như thế nào, và nơi có thể giúp bạn tự bảo vệ là Home Page của Stalker (
Mã:
https://pages.ripco.com:8080/~glr/stalk.html
Mã:
https://www
Thư điện tử ẩn danh
Các remailer ẩn danh, phương pháp dùng để che dấu định danh trực tuyến của bạn, có thể bảo vệ bạn tránh bọn chuyên nhòm ngó vào các nhóm tin, cũng như các hãng tiếp thị đang đói thông tin về nhân khẩu. Dưới đây là một số site sẽ giúp bạn gửi đi bài viết của mình trong sự bí mật.
· The Replay Remailer (
Mã:
https://www.replay.com/remailer
· The Shinobi Remailer (
Mã:
https://www.ee.sine.edu/~avankla/mix.help.html
· MixMaster (
Mã:
https://www.obscura.com/~loki
· Raph Leviens’s Remailer list (https: //www.cs.berkeley. edu/~ raph/remailer-list.html)
Những điều nên và không nên làm đối với sự riêng tư trực tuyến
Mật mã hóa e-mail
Đừng gửi đi những bức thư điện tử quan trọng trừ phi đã được mật mã hóa. Để mã hóa những thông điệp, bạn dùng PGP hoặc bất kỳ chương trình nào có khả năng mã hóa public-key/private-key. Hãy chắc chắn là người nhận cũng sử dụng cùng chương trình mã hóa như bạn, hoặc một chương trình tương thích với nó.
Giấu kín định danh
Để che giấu định danh khi trao đổi thư tín với một nhóm tin, bạn hãy dùng một anonymous remailer. Chương trình này giúp ngụy trang tiêu đề của thông điệp e-mail, làm cho tên và địa chỉ của người gửi trở nên không thể giải đoán được.
Không nên chuyện trò với người lạ
Khi sử dụng dịch vụ trực tuyến hoặc đến thăm một Web site, bạn đừng đưa số điện thoại hoặc mật khẩu của mình cho bất kỳ ai đang tìm bạn - ngay cả khi họ tự giới thiệu là cộng tác viên của hãng cung cấp.
Đứng ngoài các danh sách
Để tránh bị quấy rầy bởi các hãng tiếp thị, bạn hãy yêu cầu dịch vụ trực tuyến của mình hoặc người quản lý Web site không được bán tên bạn cho các hãng cung cấp danh sách địa chỉ thư, hay đưa thông tin về bạn vào trong các danh sách gửi thư. Chớ nên để lộ thông tin riêng tư và những điều quan tâm cá nhân trên các home page hay dịch vụ trực tuyến.
Nguồn tin từ PCworld
AN TOÀN TRÊN INTERNET
An toàn trên Internet được coi là một thuật ngữ chứa đầy mâu thuẫn. Nguy cơ xâm phạm đến từ nhiều phía: những tay chuyên bẻ khóa chương trình, những nhân viên thích "xoáy" đồ của công ty hay các tên trộm không gian. Những nguy cơ này có thể gây nên hỏng hóc trong quá trình kết nối vào Internet của các doanh nghiệp bất cứ lúc nào, nhưng có lẽ sự tồi tệ cũng chỉ đến đó mà thôi. Tiến bộ về công nghệ hiện nay đang đưa ra các công cụ để có thể biến Internet thành một nơi làm việc an toàn hơn (tất nhiên là không thể đạt tới mức tuyệt đối).
Những công cụ này chiếm lĩnh thị trường với tốc độ khá nhanh; và sẽ không dễ dàng chút nào nếu bạn muốn điểm mặt từng công cụ để chọn ra cho mình một sản phẩm tốt nhất. Theo các chuyên gia, sự an toàn của Internet có thể giúp định hướng cho những đầu tư của một doanh nghiệp.
Bức tường lửa: Hàng rào chắn đầu tiên
Bức tường lửa (Firewall)* là hàng rào chắn đầu tiên của một công ty chống lại những kẻ chuyên rình mò trên Internet. Kế hoạch xây dựng một firewall nghiêm chỉnh phải là một phần trong chiến lược bảo toàn của một doanh nghiệp. Trong khi việc định nghĩa chính xác firewall là gì vẫn còn phải tranh cãi thì đa số các sản phẩm trong lĩnh vực này vẫn đảm bảo một trong hai tiêu chuẩn chính là gateway (thiết bị điều khiển giao dịch giữa các mạng dựa trên địa chỉ mạng) và bộ lọc các gói thông tin (packet filter). Một số sản phẩm lại phối hợp cả 2 tiêu chuẩn trên.
Gateway, bản thân nó đã có rất nhiều hình thức khác nhau. Cổng ứng dụng, thông thường, hạn chế người dùng truy cập vào một ứng dụng cụ thể nào đó. Theo cách này, người dùng buộc phải đăng nhập theo một thủ tục riêng để đến được cơ sở dữ liệu hay ứng dụng do gateway bảo vệ. Hai kỹ thuật gateway phổ biến khác nữa là circular gateway và proxy server cũng có tác dụng giữ không cho những người dùng không hợp pháp xâm nhập vào vùng cần được bảo vệ. Mặc dù gateway đảm bảo tính an toàn cao nhưng nó lại làm cho các nhà quản trị mạng khó định được cấu hình, còn người dùng cuối thì khó mà kiểm soát được. Ngoài ra, sự cần thiết phải dẫn toàn bộ lưu thông cả trong và ngoài luồng qua một điểm duy nhất sẽ làm tăng nguy cơ tạo các tắc nghẽn dữ liệu nghiêm trọng. Cuối cùng, các nhà sản xuất gateway trộn lẫn kỹ thuật này với bộ lọc gói thông tin, mặc dù tính an toàn của giải pháp này kém hiệu quả hơn. Bộ lọc gói thông tin gửi đi những gói giao thức Internet Protocol (IP) theo địa chỉ khởi đầu của một gói thông tin. Một gói chỉ được chấp nhận khi nó gửi đi từ 1 điểm đã được đăng ký. Điều đó đảm bảo rằng các gói thông tin từ những người dùng hợp pháp sẽ có thể đi vào mạng được, còn từ các nguồn khác thì không.
Tuy nhiên, do có cấu trúc không phức tạp, ví dụ như loại chuẩn với nhiều kiểu router khác nhau, nên bộ lọc các gói thông tin có thể bị những tay hacker chuyên nghiệp làm vô hiệu hóa. Một địa chỉ IP có thể dễ dàng bị thay đổi để trở thành như một gói thông tin đến từ một hệ thống hợp pháp.
Một cách tiếp cận an toàn hơn đòi hỏi phải có bộ lọc gói thông tin kiểm tra tính hợp pháp của gói thông tin đó và cũng để đọc dữ liệu chứa trong nó. Kỹ thuật này cho phép firewall thực hiện những động tác đặc biệt trên cơ sở thông tin nó đọc được (ví dụ như ngắt kết nối FTP khi giao dịch hoàn tất). Nhiều bộ lọc gói thông tin còn phân tích được đến từng packet riêng để đảm bảo rằng nguyên bản về mặt vật lý phù hợp với địa chỉ IP của nó.
Trong hai lựa chọn về firewall trên, bộ lọc gói thông tin có vẻ ưu thế hơn, nhất là những sản phẩm có cài đặt sẵn "trí tuệ". Bộ lọc gói thông tin hiện nay đang trở thành một tiêu chuẩn trong lĩnh vực an toàn trên Internet.
Bên cạnh việc giúp chống lại những tên trộm chương trình và người dùng bất hợp pháp, firewall còn có tác dụng trong việc ngăn chặn virus tin học và các mã lạ, mặc dù việc sử dụng khía cạnh công nghệ này còn chưa được phổ biến. Các công cụ có thể quét được các loại virus khi dữ liệu đến firewall hiện đang bắt đầu có trên thị trường. Frend Micro Inc. chẳng hạn đưa ra InterScan VirusWall. Sản phẩm này chạy trên các hệ thống của Sun Solaris và có thể quét được một số virus trên e-mail và FTP, gồm cả unencode, base64, binhex và PKZIP đối với các loại virus có thể. Người ta có thể làm cho nó có khả năng thông báo đến cho nhiều người về một nguy cơ có thể xảy ra, lưu file đe dọa bị hỏng vào vùng an toàn hay xóa hẳn nó đi. Giá khởi điểm là 20 USD cho 50 người sử dụng và tất nhiên cho nhiều người dùng thì giá còn rẻ hơn nữa.
Ngoài ra, firewall còn giúp chống các loại virus bằng cách hạn chế truy cập tới người dùng hợp pháp.
Tuy nhiên, có người lại phản đối việc sử dụng firewall như một công cụ phòng chống virus, bởi đối với một tên trộm chương trình chuyên nghiệp, việc "trèo qua" firewall bằng những thủ thuật dấu hoặc nén mã quả là quá dễ dàng. Kiểm tra file bằng các chương trình quét virus thông thường là một giải pháp dễ chấp nhận hơn, thậm chí trong cả trường hợp nó đòi hỏi nhiều hơn thế nữa.
Công nghệ tunnell
Trong khi các loại firewall đang đảm đương nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho Internet thì nhiều tổ chức vẫn tiếp tục tìm kiếm một công nghệ khác tốt hơn và hiện nay tunneling - khái niệm về việc sử dụng gói IP được mã hóa để tạo nên một mạng riêng biệt ảo, đang bắt đầu được chấp nhận.
Hy vọng chi phí thấp cho mạng là lý do chính yếu của những ai đang quan tâm đến tunnel, đặc biệt là những công ty cần kết nối nhiều mạng hoặc nhiều nhân viên làm việc ở xa mạng. Hay cụ thể hơn nữa là những công ty cần kết nối hai mạng LAN riêng biệt đặt xa nhau bằng một đường dây riêng và tạo thành một mạng WAN. Với tunnel, các mạng được nối với nhau qua Internet, từ firewall này đến firewall kia, và dữ liệu được gửi qua những gói IP được mã hóa. Về bản chất chính đây là sự chuyển từ việc sử dụng đường thuê bao (leased-line) đắt tiền sang một Internet rẻ tiền hơn.
Công nghệ tunnel còn có thể được sử dụng để bảo vệ cho những mạng riêng biệt trong một công ty. Ví dụ, firewall có thể ngăn chặn những nhân viên không hợp pháp thuộc phòng kế toán của công ty muốn truy cập file trên mạng của phòng quản lý nhân sự.
Thông tin gửi qua các tunnel Internet được đảm bảo an toàn đến từng bit như phương pháp truyền bằng đường thuê bao.
Việc kết nối từ một PC đến mạng khi một nhân viên ở xa văn phòng muốn thực hiện cũng dễ như kết nối giữa 2 mạng với nhau.
Tuy nhiên tunnel cũng thể hiện một vài yếu điểm, đặc biệt là về khả năng tương thích. Thực tế là các công nghệ tunnel hiện nay do nhiều nhà sản xuất khác nhau cung cấp, điều đó có nghĩa là tất cả các điểm cuối của một mạng (cả về phiá mạng và người dùng từ xa) phải được xem xét và phối hợp với nhau chặt chẽ.
Một nhược điểm khác là những người ủng hộ cho tunnel lại bị hạn chế tính "tuyệt đối", điều mà họ nghiễm nhiên có được khi sử dụng các đường thuê bao. Nhưng theo kinh nghiệm của Digital thì tunnel có tốc độ cao hơn một đường thuê bao 56Kbps.
Những hạn chế về mặt an toàn
Mặc cho firewall và tunnel phô trương sức mạnh của mình, người ta vẫn khuyên là chỉ nên coi chúng như những chiếc hòm có khóa chứ không phải hầm cất tiền kiên cố của nhà băng. Và đặc biệt là firewall không thể đảm bảo cho toàn bộ nhu cầu an toàn đối với đường nối vào Internet của một công ty. Điều này giống như bạn phải xây một bức tường bao xung quanh thành phố chỉ vì không muốn mỗi gia đình trong thành phố đó phải khóa cửa nhà họ.
Để đạt được hiệu quả tối đa, firewall phải được thiết kế một cách sáng tạo và thông minh mới đáp ứng được nhu cầu của người sở hữu nó. Điều đó có thể là cất những file không thể sử dụng công khai vào một server riêng được bảo vệ kỹ càng hay hạn chế bớt một vài tính năng của server.
Nhưng firewall hay tunnel gì thì cũng chỉ tốt như kế hoạch an toàn mà nó hỗ trợ. Firewall thường không được sử dụng một cách đúng đắn. Có thể có rất nhiều lỗ hổng trên firewall nếu đó là công cụ bảo toàn duy nhất. Điều đó cũng giống như việc xây một cổng khổng lồ bằng đá ở giữa sa mạc.
Những nhân viên trung thực nhưng không được hướng dẫn đầy đủ có thể gây hại cho tính an toàn của Internet bất cứ lúc nào. Giá modem bây giờ rất rẻ, vì thế người ta có thể cài đặt chúng trực tiếp lên máy tính của họ và quay số vào buổi tối để tránh những bất tiện do firewall gây ra.
Ngoài ra, còn một số không nhỏ các nhân viên đã để cho password, địa chỉ IP và khóa mã hóa của họ rơi vào tay người lạ. Công nghệ là một thứ công cụ tuyệt vời nhưng nó không thể thay thế những nguyên tắc bảo mật truyền thống như việc thay đổi thường xuyên các password, giải thích cho các nhân viên hiểu rõ về những đe dọa an ninh có thể xảy ra. Thậm chí với công nghệ tunnel, việc quản lý an ninh luộm thuộm có thể gây ra những rắc rối đau đầu.
Các công ty cũng cần phải xem xét tính an toàn trên Internet từ bên ngoài, Việc giảm bớt những gì đi ra từ Internet cũng quan trọng như hạn chế những gì đi vào đó.
Việc quản lý an ninh
Người ta đã nhận thấy rằng việc thực hiện, định cấu hình hay quản lý firewall hoặc tunnell là công việc rất phức tạp và khó khăn đối với nhiều công ty. Từ khi các firewall điển hình hay phối hợp firewall-tunnel được cấu thành bởi nhiều công cụ, thường là từ những nhà sản xuất khác nhau, việc đưa công nghệ vào thực hiện những gì có thể là rất đơn giản. Mặc dù hầu hết các sản phẩm đều đưa ra giao diện sử dụng đồ họa (GUI), còn những tính năng khác được thiết kế theo hướng dễ sử dụng thì thách thức vẫn còn đó.
Công nghệ tunnel có thể trở nên đặc biệt rối rắm. Đây không phải là loại công nghệ mà một ai đó có thể đọc bảng hướng dẫn rồi có thể mua nó ngay.
Các công ty và nhà quản lý cũng nên phải theo sát thị trường để có thể chọn ra các giải pháp an ninh cho Internet. Nếu chỉ có một sản phẩm duy nhất được tung ra thị trường, tất cả mọi người sẽ dùng nó. Sự lựa chọn phải được dựa trên cơ sở môi trường và giá cả cuối cùng đối với công ty của bạn nếu những thông tin quan trọng lại đi lạc địa chỉ.
* Bức tường lửa: là sự kết hợp phần cứng - phần mềm, có tác dụng như một tấm ngăn cách giữa nguồn thông tin Internet của một công ty với thế giới bên ngoài.
Nguồn tin từ PCworld
MẠNG MÁY TÍNH TOÀN CẦU INTERNET: CƠ HỘI VÀ THỬ THÁCH
Khi gia nhập mạng Internet sẽ có một lợi thế rất lớn đó là quyền truy nhập vào tất cả các kho dữ liệu điện tử cài đặt trên máy chủ ở các quốc gia khác nhau. Tài liệu về chính trị, luật pháp, nghiên cứu khoa học, tin tức, hội họa, nghệ thuật, các loại sách mới xuất bản, tin tức về thị trường chứng khoán, giá cả thị trường, giới thiệu các mặt hàng... được cập nhật liên tục trên mạng. Các hãng thông tấn lớn trên thế giới đều dùng Internet để đưa tin. Ngồi tại Tokyo truy cập qua mạng có thể biết được giờ tàu ở Paris, chàng sinh viên ở New York có thể dự lớp tiếng Việt ở Hà Nội.
Trong một "cộng đồng ảo" (virtual communit), người ta có thể dùng thư tín điện tử để cùng bàn một vấn đề hết sức nhanh chóng và hiệu quả trong khi vẫn ở rất xa nhau trên trái đất. Nhiều công ty lớn đã bắt đầu giao dịch bán hàng trên Internet. Người Việt sống xa tổ quốc sẽ rất cảm động nếu được nhìn thấy tin tức nóng hổi từ báo chí Việt Nam xuất bản hàng ngày trên những trang WEB. Nhiều công ty đã lưu trữ các tài liệu kỹ thuật trên Internet nhằm giúp người sử dụng xa hàng ngàn dặm có thể truy nhập nhanh chóng và tìm ra giải đáp. Các hãng bán máy tính, ô tô, máy móc đều có công bố giá trên mạng nếu khách hàng quan tâm. Hãng Toyota có trang WEB giới thiệu những mẫu ô tô mới nhất cùng đơn đặt hàng đã viết sẵn, người dùng chỉ việc điền họ, tên và tất nhiên là số tiền gửi theo. Chỉ vài ngày, thậm chí trong ngày là có thể mua được chiếc ô tô họ muốn. Với một máy tính xách tay nếu được nối mạng, trên đường đi công tác, ta có thể tìm hiểu khá chi tiết về nơi sẽ đến, mặt mạnh hay yếu của công ty đối tác thậm chí cả lý lịch của người sẽ đối thoại.
Với các công ty đa quốc gia, cơ quan, chính phủ, các bộ, ngành thì việc có một hay nhiều trang WEB trên Internet là điều không thể thiếu trong thời đại thông tin. Các nguyên tắc bảo mật đang được phát triển để việc sao chép các giao dịch trên mạng được an toàn và bí mật. Ngày nay, trên danh thiếp của các doanh nhân, các nhà khoa học hay chuyên viên, ngoài địa chỉ, số phone, fax còn có cả địa chỉ trên Internet. Hòa mạng Internet sẽ giúp quốc gia tiến nhanh tới xã hội được tin học hóa. Theo Bill Gates - chủ tịch hãng Microsoft - nếu ai đặt cược cho Internet rất có thể là người chiến thắng, còn ai chống lại Internet chắc chắn sẽ thua cuộc.
Nhưng Internet cũng có mặt trái. Vì là hệ thống mở nên ai cũng có thể truy nhập và tạo ra những trang WEB riêng cho mình (tất nhiên là phải bỏ ra ít tiền để đăng ký tài khoản với một máy chủ nào đó). Những quốc gia đối địch thì dùng Internet như một phương tiện để tuyên truyền kích động. Những kẻ rời bỏ tổ quốc ra đi vì hận thù thì Internet là công cụ tuyệt vời để "chuyển lửa về quê". Nhiều thông tin về quốc gia, cơ quan nhà nước và các công ty bị lộ bí mật. Có những ngân hàng bị thất thoát hàng triệu đô la chỉ vì các dịch vụ chuyển tiền trên mạng không an toàn. Các sản phẩm trí tuệ bị đánh cắp một cách không thương tiếc. Tạp chí về t.ình d.ục, sách kích động tội ác thậm chí cả t.ình d.ục trẻ em cũng đầy rẫy trên Internet. Điều nguy hại là trẻ em, thanh thiếu niên mới lớn rất tò mò trên mạng và gặp phải những trò tiêu khiển độc hại trong khi Internet lại không phân biệt người dùng là ai miễn anh có đăng ký là có thể hòa mạng. Có chăng hệ thống cũng chỉ đưa ra câu nhắc nhở ngớ ngẩn đại loại: "Nếu anh dưới 18 tuổi hãy ra khỏi trang WEB này" hay "Đây là vấn đề dành cho người lớn". Một đứa bé lớp ba hoàn toàn có thể trả lời "Vâng, tôi là người lớn đây!" và vào được trang WEB bậy bạ này để thỏa trí tò mò trong khi bố mẹ chúng đi vắng suốt ngày.
Có hai thái cực về cách nhìn nhận Internet. Một số cho rằng hoàn toàn mở và ai muốn làm gì thì làm, không cần có luật pháp, là cái ao làng ai rửa chân cũng được. Những vấn đề như sở hữu trí tuệ, bí mật quốc gia, t.ình d.ục rẻ tiền có thể tự do đưa lên Internet. Thái độ này hoàn toàn sai vì Internet cũng là một phần của cuộc sống và như thế, nó phải dựa trên nền tảng pháp luật và hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội chúng ta đang sống. Một số khác thì cho rằng phải kiểm tra thật gắt gao. Thái độ này lại làm cho Internet mất hết ý nghĩa quan trọng trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay và sẽ kìm h.ãm sự phát triển của công nghệ.
Giải pháp dung hòa là cần thiết với mỗi quốc gia. Chính phủ nào trên thế giới cũng đều đau đầu vì Internet. Quốc hội Mỹ có hẳn đạo luật cấm đưa hình ảnh khiêu dâm trẻ em lên Internet. Tại Anh, vấn đề nhạy cảm là đời tư và bí mật quốc gia được pháp luật luôn để mắt tới trên từng trang WEB. Người Trung Quốc thì lo về an ninh chính trị vì muốn có sự ổn định để đi lên nên người dùng Internet phải đăng ký với nhà nước. Họ đã cấm khoảng 100 địa chỉ trên mạng. Nếu người dùng cố truy nhập vào đó thì chỉ nhận được những trang trắng. Người Pháp luôn tự hào về tự do báo chí cũng đang ầm ĩ về vụ xuất bản cuốn sách đời tư của cố tổng thống Mitterand trên Internet. Người Đức lại sợ bọn tuyên truyền cho chủ nghĩa phát xít mà dùng những trang WEB thì sẽ rất nguy hại.
Mỗi quốc gia đều có biên giới của mình và họ muốn rằng những gì đi qua biên giới phải được kiểm soát. Họ có hàng rào biên phòng, hải quan để bảo vệ đất nước. Chỉ có điều, kiểm soát những gì đi qua cổng Interent phải có những phương pháp hiện đại, người lính biên phòng bấy giờ phải là điện tử, phần mềm máy tính, người quản lý các cổng đó phải là những chuyên gia tin học, truyền thông, mạng máy tính và tất nhiên có phẩm chất chính trị tốt. Mỗi trang WEB đều có một địa chỉ vật lý tại một máy chủ đặt ở đâu đó trên thế giới. Nhóm quản lý cổng Internet chỉ cần thấy nội dung trang WEB đó không phù hợp với yêu cầu thì có thể đưa địa chỉ đó vào hệ thống phần mềm gọi là "bức tường lửa" (firewall) ngăn không cho thông tin từ trang WEB đi qua cổng. Bức tường lửa thực chất là đội biên phòng điện tử. Có thể tạo ra một danh sách các địa chỉ "cấm" và cung cấp cho firewall. Đây là công việc rất khó vì có hàng triệu trang WEB cần phải duyệt và số lượng tăng lên hàng ngày. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là không thể làm được.
Hiện nay, để đảm bảo bí mật cho công ty hay quốc gia, người ta tạo ra một kiểu mạng nội bộ diện rộng Intranet. Nguyên tắc kết nối giống như mạng Internet nhưng có một bức tường lửa canh gác sao cho người trong Intranet có thể truy nhập thoải mái nhưng người ngoài thì chỉ nhận được những gì mà bức tường lửa cho qua. Có rất nhiều công ty đang phát triển các phần mềm firewall. Giải pháp firewall không thể gọi là hoàn hảo, sẽ có một số thông tin không có lợi vượt tuyến nhưng ta cũng phải nhìn vào thực tế là biên giới nước nào chả có buôn lậu, người vượt biên trái phép nhưng vì lợi ích lớn hơn của đất nước, không chính phủ nào lại đi đóng cửa biên giới cả! Một thực tế nữa khó ngăn ngừa được là người ta có thể dùng một máy tính có gắn modem gọi tới một địa chỉ Internet ở nước ngoài giống như ta gọi điện thoại quốc tế để lấy tin. Với cách này thì không bức tường lửa nào có thể kiểm soát nổi, cũng may là cước phí đàm thoại quốc tế quá cao nên chắc ít người đủ tiền để dùng Internet kiểu này.
Hiện nay tại Việt Nam, chúng ta cũng đang nói rất nhiều về Internet. Sớm muộn gì thì chúng ta cũng sẽ hòa mạng Internet. ở Hà Nội có nhiều cơ quan, công ty có thể cung cấp dịch vụ Internet vì thực ra tạo ra một mạng để cung cấp các dịch vụ Internet không phải là vấn đề quá khó hiện nay. Tôi cũng để ý thấy là một vài cơ quan, công ty có dịch vụ trao đổi thư điện tử với Internet - một dịch vụ khá đơn giản và dễ thực hiện - nhờ tạm vào cổng ở nước ngoài mà lại luôn tuyên truyền là chính họ mới có quyền và đủ kỹ thuật để cung cấp dịch vụ Internet. Thực chất, nhà nước chỉ cần cho phép mở hai cổng tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh và quản lý thật tốt hai cổng này. Các công ty và cơ quan khác có thể tự do khai thác dịch vụ do hai cổng này cung cấp. Tương lai không xa chúng ta sẽ bước vào "Xa lộ thông tin" của thế giới một cách thoải mái mà không phải lo sợ khi mở cửa thì "rác rưởi sẽ vào theo". Hy vọng rằng các nhà hoạch định chính sách thông tin đừng vì sợ một số "rác rưởi" mà đánh mất đi phần lớn rất tốt đẹp của Internet. Và tôi tin rằng sự nghiệp công nghệp hóa, hiện đại hóa chắc chắn sẽ thành công một phần nhờ có Internet - sự diệu kỳ của nhân loại vào cuối thế kỷ 20.
Nguồn tin từ PCworld