Eragon - Cậu Bé Cưỡi Rồng

11. KHÔNG NGƠI NGHỈ
Hai người lùn, hai người đàn ông và hai Urgal – thành viên đội cận vệ của Nasuada, Chim Ưng Đêm, - đứng canh ngoài phòng trong lâu đài được Nasuada trưng dụng làm trụ sở họp mặt.
Họ nhìn Roran không biểu cảm. Anh cũng giữ khuôn mặt tương tự khi nhìn lại họ.
Họ đã từng chơi trò này rồi.
Dù đội Chim Ưng Đêm ít khi biểu lộ cảm xúc nhưng Roran biết họ đang tính xem cách nào giết chết anh nhanh nhất và hiệu quả nhất. Anh biết vì anh cũng làm điều tương tự.
Mình sẽ luồn ra sau lưng họ nhanh nhất có thể...làm họ tản ra một chút, anh quyết định. Con người sẽ phản ứng đầu tiên; họ nhanh hơn người lùn, và họ sẽ cản bước Urgal đằng sau...Phải tước được cây kích từ tay họ. Có thể khó nhưng mình nghĩ mình có thể làm được – ít nhất là tước vũ khí của một người. Có thể sẽ phải ném cây búa của mình đi. Một khi nắm kích trong tay, mình sẽ khiến họ cách xa mình một khoảng. Người lùn sẽ không dám liều nhưng Urgal khó chơi hơn. Lũ súc vật xấu xí đó... Nếu ẩn sau cái cột này, mình có thể...”
Cánh cửa viền sắt cọt kẹt mở. Một tiểu đồng mặc bộ đồ sáng mà khoảng mười hoặc mười hai tuổi bước ra tuyên bố, “Tiểu thư Nasuada cho triệu kiến ngài!”
Vài người cận vệ giật mình xao lãng và ánh mắt hơi xao động trong một giây. Roran cười lướt qua họ bước vào căn phòng đằng sau. Anh biết sơ hở đó của họ sẽ tạo cơ hội cho anh giết chết ít nhất hai người trước khi họ kịp trở tay. Cho tới lần sau, anh nghĩ bụng.
Căn phòng rộng, hình chữ nhật và được trang trí khá đơn sơ: một chiếc thảm quá nhỏ nhắn so với căn phòng, một bức tranh thêu hẹp bị mối ăn treo trên bức tường bên trái; trên tường bên phái chỉ có duy nhất một cửa sổ vòm. Ngoài ra, trong phòng không có thêm một vật trang trí nào. Ở một góc phòng có đặt một chiếc bàn gỗ dài chất đầy sách, cuộn giấy da và giấy tờ. Một vài chiếc ghế để lộn xộn quanh bàn, nhưng Nasuada và những người quanh cô không ai sử dụng chúng. Jörmundur không ở đây nhưng Roran lại nhận ra vài người khác: những người là chỉ huy của anh, vài người là chiến hữu trong trận chiến và cũng có vài người anh đã được nghe danh.
“...và tôi không quan tâm xem chuyện đó có khiến hắn bị ‘bướu cổ’ không!” Cô hét hên, và đập tay xuống bàn đánh rầm. “Nếu chúng ta không có móng ngựa, và hơn nữa, nếu chúng ta phải ăn thịt cả ngựa chiến thì chúng cũng sẵn sàng làm thế với chúng ta. Các người hiểu chưa?”
Họ đồng thanh quả quyết trả lời cô. Họ như thể bị dọa dẫm nhưng trong đó còn có cả sự bối rối. Roran vừa lạ vừa ấn tượng vì Nasuada chỉ là một người phụ nữ lại có thể được các chiến binh của mình và kể cả anh, tôn trọng tới vậy. Cô là một trong những người thông minh và kiên định nhất anh từng biết. Lắm khi anh cứ nghĩ dù cô sống trong thời đại nào cô cũng sẽ thành công.
“Giờ đi đi,” Nasuada nói và tám người đàn ông đi khuất, cô ra hiệu cho Roran tiến ra chỗ bàn làm việc. Anh kiên nhẫn đợi cô viết vài dòng lên cuộn giấy da nhỏ rồi đưa nó cho một tiểu rồng và nói. “Đưa cho người lùn Narheim. Và lần này, em đợi cho ông ấy trả lời luôn, nếu không chị sẽ cho em tới chỗ Urgal phục vụ thức ăn và lau dọn đấy.”
“Vâng, thưa Tiểu thư!” cậu bé nói và chạy biến đi, có chút sợ hãi.
Nasuada bắt đầu đọc lướt qua đống giấy tờ trước mặt. Cô nói với Roran mà không ngửng đầu lên, “Anh lấy lại sức rồi chứ Roran?”
Anh phân vân không hiểu cô nói chuyện không có tý hứng thú nào. “Cũng chưa hẳn.”
“Thế thì không may rồi. Anh thức trắng đêm qua à?”
“Gần hết đêm thôi. Cô Elain, vợ của chú thợ rèn làng tôi, tối qua sinh em bé, nhưng...”
“Ừm, tôi được thông báo rồi. Tôi đoán là anh không thể thức nổi cả đêm đợi Eragon chữa lành cho đứa nhỏ?”
“Không, tôi quá mệt rồi.”
“Ít nhất anh còn cảm thấy mệt.” Cô vươn tay qua bàn với lấy một tệp giấy nữa và nhìn chăm chú trước khi đặt lên đống công văn trước mặt. Cô vẫn dùng giọng như cũ nói với Roran, “Tôi có một việc cần tới anh, Cây búa Dũng Mãnh. Quân đội ở Aroughs gặp sự chống trả quyết liệt – hơn chúng ta dự tính Tướng Brigman không thể giải quyết nổi tình hình và chúng ta cần họ quay về. Vì thế, tôi gửi anh tới Aroughs thay cho Brigman. Tôi đã chuẩn bị sẵn cho anh một con ngựa ở cổng nam. Anh phải phi hết tốc lực tới Feinster, rồi từ Feinster tới Aroughs. Cứ mười dặm từ đây về Feinster anh sẽ thay ngựa một lần. Sau đó anh phải tự mình xoay xở. Tôi mong là anh sẽ tới Aroughs trong vòng bốn ngày tới. Một khi đã tới nơi, anh sẽ có... ba ngày để kết thúc trận chiến.” Cô ngước lên nhìn anh. “Sau một tuần nữa, tôi muốn nhìn thấy cờ hiệu của quân ta bay trên bầu trời Aroughs. Nếu anh không thể, tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài đưa Eragon và Saphira tới Aroughs. Làm như vậy chúng ta sẽ không thể nào chống lại Murtagh và Galbatorix.”
Và như thế Katrina sẽ gặp nguy hiểm, Roran nghĩ. Bụng dạ Roran cảm thấy không yên. Đi tới Aroughs trong bốn ngày đã là không tưởng rồi, đặc biệt khi cơ thể anh đang đau đớn và bầm dập. Chiếm thành phố trong một khoảng thời gian quá ngắn lại càng điên rồ. Nhiệm vụ này như kiểu bắt anh thi vật với gấu trong khi trói hai tay ra sau.
Anh gãi gãi má xồm xoàm rôi ria. “Tôi không có kinh nghiệm vây thành,” anh nói. “Ít nhất là không phải theo cách đó. Phải có ai đó trong Varden phù hợp với nhiệm vụ này hơn tôi chứ. Ông Martland Râu Đỏ thì sao?”
Nasuada hiện một nét khinh thường trên mặt. “Ông ấy không thể dùng một tay mà phi nước đại được. Anh phải tự tin hơn với bản thân chứ Cây Búa Dũng Mãnh. Nhiều người trong Varden biết về binh pháp, tôi công nhận – đó là những người có thời gian chiến đấu lâu hơn anh, những người được chỉ dạy từ những chiến binh giỏi nhất thời cha tôi – nhưng khi nhập trận, không phải kinh nghiệm hay kiến thức binh pháp là cái quan trọng nhất, mà là anh biết cách nào để chiến thắng đối phương, kể cả anh dùng bất cứ thủ đoạn gì. Và quan trọng hơn, đó là anh may mắn.”
Cô đặt công văn xuống và chống tay lên bàn. “Anh đã chứng minh cho chúng tôi thấy khả năng chiến đấu của anh. Anh đã chứng minh anh là người biết tuân theo quân luật... khi cần thiết.” Anh bỗng nhớ lại cảm giác đau, bỏng giẫy khi roi quất vào lưng anh hồi anh chống lại lệnh của Tướng Edric. “Anh đã chứng tỏ anh có thể dẫn dắt mọi người. Vì thế, Roran Cây Búa Dũng Mãnh, anh hãy thể hiện cho chúng tôi xem anh còn những khả năng gì, được không?”
Anh nuốt nước bọt. “Được, thưa Tiểu Thư.”
“Tốt. Tôi sẽ đề xuất anh làm tướng tạm thời. Nếu anh thành công ở Aroughs, anh sẽ có thể giữ danh hiệu này, ít nhất tới khi anh thể hiện rằng anh đáng được vinh danh nhiều hơn hay ít hơn.” Cô lại nhìn xuống bàn và đọc qua những cuộn giấy da, rõ ràng là đang tìm kiếm một thông tin gì đó.
“Cám ơn.”
Nasuada đáp lại bằng một âm thanh nhỏ, không biểu lộ cảm xúc.
“Tôi sẽ chỉ huy bao nhiêu người ở Aroughs?” anh hỏi.
“Tôi đã gửi cho tướng Brigman một nghìn lính để chiếm thành phố. Nhưng giờ chỉ còn lại không đến tám trăm người vẫn có khả năng chiến đấu.”
Roran suýt nữa bật ra tiếng chửi thề. Quá ít.
Như thể nghe được, Nasuada khô khốc nói, “Chúng ta đã tưởng rằng hàng phòng thủ của Aroughs yếu hơn.”
“Tôi hiểu. Tôi có thể mang theo hai ba người từ Carvahall đi cùng không. Tiểu thư từng nói rằng cô cho phép chúng tôi đồng hành nếu chúng tôi...”
“Được, được,” cô vẫy tay – “tôi biết tôi nói gì.” Cô cắn môi, cân nhắc. “Được, anh cứ mang theo bất kỳ ai anh muốn, miễn là anh đi trong vòng một tiếng nữa. Anh hãy cho tôi biết anh muốn bao nhiêu người đi cùng để tôi sắp xếp ngựa trên đường.”
“Tôi đưa Carn đi được không?” anh hỏi, nói ra tên pháp sư anh từng có dịp chiến đấu cùng.
Cô ngừng lại và nhìn lên tường một lúc, ánh mắt lung lạc. Sau đó, cô gật đầu và lại tiếp tục đào bới đống công văn. “À, đây rồi.” Cô lôi ra một ống tròn được buộc lại bằng một sợi dây da. “BẢn đồ Aroughs cũng như là bản đồ chi tiết của tỉnh Fenmark. Tôi nghĩ anh nên nghiên cứu kỹ cả hai bản đồ này.”
Cô đưa cho anh ống giấy và anh đặt nó vào trong áo. “Và đây,” cô nói và đưa cho anh một lá thư niêm phong dấu đỏ. “là nhiệm vụ của anh, và” – một lá thư thứ hai, dày hơn lá đầu tiên – “đây là thư cho Brigman. Đưa cho ông ấy đọc thôi, nhưng đừng đưa cho ông ta giữ. Nếu tôi nhớ không nhầm, anh không biết đọc, đúng không?”
Anh nhún vai. “Đọc làm gì chứ? Tôi có thể tính toán cộng trừ như nhiều người khác. Cha tôi nói dạy chúng tôi học chẳng hơn gì dạy cho đi trên chân sau: thú vị, nhưng không đáng.”
“Tôi sẽ đồng ý với cha anh, nếu như anh chỉ là một người nông dân. Nhưng trong địa vị hiện giờ của anh, tôi không thể đồng ý.” Cô chỉ về mấy lá thư anh đang cầm. “Anh chỉ biết một trong hai bức thư này có thông báo bổ nhiệm của anh. Vì anh không biết đọc nên tôi khó trọng dụng anh. Tôi không thể gửi thư cho anh mà không có người khác đọc thư cho anh, anh không còn lựa chọn nào khác ngoài tin rằng người kia thực sự đọc đúng cho anh nghe. Anh sẽ dễ bị thao túng. Tôi không thể tín nhiệm anh. Nếu anh hy vọng thăng tiến hơn ở Varden, anh cần tìm một người dạy anh học. Giờ đi đi, tôi còn nhiều việc khác phải làm.”
Cô bật ngón tay và một tiểu đồng chạy tới cạnh. Cô đặt tay lên vai thằng bé, cúi xuống và nói, “Tôi muốn em đưa Jörmundur tới đây. Em sẽ tìm thấy ông ấy ở chợ, chỗ ba cái nhà...” Đang nói dở, cô dừng lại nhướn mày khi thấy Roran chưa đi. “Còn gì nữa không, Cây Búa Dũng Mãnh?” cô hỏi.
“Có, trước khi tôi đi, tôi muốn gặp Eragon.”
“Vì sao?”
“Kết giới cậu ấy phủ lên người tôi trước trận chiến đã không còn.”
Nasuada nhíu mày rồi nói với tiểu đồng, “Trong chợ, chỗ ba cái nhà cháy. Em biết chỗ đó chứ. Rồi, giờ đi đi.” Cô vỗ lưng thằng nhỏ và đứng thẳng dậy khi thằng bé chạy ra khỏi phòng. “Tốt hơn là anh đừng gặp.”
Roran thấy khó hiểu nhưng anh vẫn im lặng, chờ đợi lời giải thích từ cô. Cô nói vòng vo, “Anh có thấy Eragon đã mệt thế nào trong buổi gặp mặt của tôi với mèo ma chưa?”
“Gần như không đứng vững.”
“Chính xác. Càng ngày cậu ấy càng gầy, Roran. Cậu ấy không thể bảo vệ anh, tôi, Saphira, Arya và ai mà biết cậu ấy còn muốn bảo vệ ai mà vẫn phải làm những gì cậu ta phải làm. Cậu ta phải tích trữ năng lượng cho lần đụng độ sắp tới với Murtagh và Galbatorix. Và chúng ta càng tới gần Urȗ’baen, chuyện cậu ấy sẵn sàng đụng độ với chúng càng quan trọng. Chúng ta không thể để những lo lắng và phiền phức khiến cậu ta suy yếu. Việc cậu ây chữa hở hàm ếch cho đứa nhỏ mang tới cho cậu ấy sự tín nhiệm, nhưng việc làm đó có thể khiến chúng ta thua trận!
“Anh đã chiến đấu chống lại Za’rac trên rặng Spine mà không cần tới kết giới bảo vệ. Nếu ha quan tâm tới em họ anh, nếu anh muốn đánh bại Galbatorix, anh phải học cách chiến đấu không cần tới chúng.”
Khi cô nói xong, Roran cúi đầu. Cô nói đúng. “Tôi sẽ đi ngay.”
“Tôi đánh giá cao điều này.”
“Tạm biệt...”
Rora quay lại, sải bước đi về phía cửa. Khi anh vừa bước qua bậc thềm, Nasuada gọi lớn, “Và, Cây Búa Dũng Mãnh này?”
Anh tò mò nhìn lại.
“Cố đừng thiêu rụi Aroughs nha? Phục hồi vất vả lắm.”
 
12. KHIÊU VŨ CÙNG GƯƠM KIẾM
Eragon gõ gót giày lên hai bên tảng đá nó đang ngồi lên vì thấy chán và mất kiên nhẫn.
Nó, Saphira và Arya – cùng Blödhgarm và những thần tiên khác – đang thơ thẩn bên vệ đường chạy dọc khu bờ đông thành phố Belatona: chạy qua những cánh đồng xanh mượt; qua cây cầu đá lớn cong cong bắc qua sông Jiet; vòng quanh bờ nam hồ Leona. Tới đây con đường phân nhánh, một tới Cánh Đồng Cháy và Surda, một đi về phía bắc, tới Dras – Leona và Urȗ’baen.
Hàng ngàn binh lính, người lùn và Urgal đi lang thang trước cửa thành phía Đông Belatona cũng như trong thành phố, cãi cọ và la hét trong khi quân Varden đang sắp xếp họ vào từng đội. Ngoài ra còn có đoàn kỵ binh của vua Orrin – không thể kể hết số ngựa đang hí, đang nhảy dựng lên. Đằng sau quân tiền tuyến là quân đội hậucần: một đoàn dài xe do thú có sừng của Varden mang tới từ Surda và của nông dân trong vùng kéo. Từ đó phát lên tiếng lừa la kêu be be, tiếng bò rồng, tiếng ngỗng kêu, tiếng ngựa và tiếng ngựa hí.
Thế là quá đủ để Eragon muốn bít lỗ tai lại.
Em sẽ nghĩ là chúng ta sẽ chịu đựng giỏi hơn sau bao nhiêu lần chứ nhỉ, nó nói với Saphira khi nó nhảy xuống khỏi tảng đá.
Cô nàng khịt mũi. Đáng ra họ nên để em lo việc này; em có thể dọa cho bọn chúng về đúng vị trí chỉ trong một tiếng đồng hồ và sau đó chúng ta sẽ không phải mất thì giờ chờ đợi.
Ý nghĩ đó khiến cậu hứng thú. Đúng, anh chắc chắn là em có thể...Nhưng cẩn thận với những gì em nói, hoặc không Nasuada sẽ bắt em làm thật đấy.
Sau đó Eragon nghĩ tới Roran, nó đã không gặp anh từ sau đêm nó trị bệnh cho đứa nhỏ nhà Horst và Elain, và nó phân vân không biết anh nó đang làm gì và lo lắng vì anh ở quá xa nó.
“Ngốc thế không biết,” Eragon lầm bầm khi nhớ lại chuyện Roran đã đi mà không để cậu tạo kết giới mới.
Anh ấy là một thợ săn có kinh nghiệm, Saphira nói. Anh ấy sẽ không ngu ngốc tới nỗi để con mồi làm mình bị thương đâu.
Anh biết, nhưng đôi khi nghĩ thế cũng không thể giúp anh an tâm... Anh ấy cần phải cực kỳ cẩn trọng. Anh không muốn anh ấy bị què, hay tệ hơn, bị phủ khăn trắng.
Một cảm giác buồn bã dâng lên trong Eragon, sau đó nó cố quên đi và nhún nhảy trên chân, muốn thư giãn gân cốt trước khi dành vài giờ tiếp theo ngồi trên lưng Saphira. Nó thích được bay cùng cô em nhưng nó không thích phải ngồi cứng đờ trong mười hai dặm hoặc hơn trong cả ngày, là là liệng như chim kền kền. Nếu chỉ có nó và Saphira, tụi nó chỉ chiều muộn là tới Dras – Leona.
Nó bước từ đường cái sang trảng cỏ. Đứng đó, không quan tâm tới cái nhìn của Arya và những tiên nhân khác, nó rút thanh Brisingr ra và luyện lại vài đường kiếm ông Brom đã dạy nó rất lâu trước đây. Nó đi kiếm từ từ và cảm nhận mặt đất mịn dưới chân.
Nó đưa thanh kiếm lên cao quá đầu, chém xuống với một nhát chém có thể chẻ một người làm đôi, dù đó là người, tiên hay Urgal, dù họ mặc áo giáp gì. Nó dừng kiếm khi cách mặt đất chừng vài centimet. Lưỡi kiếm truyền rung động lên cổ tay nó. Trên màn xanh của cỏ, màu xanh lơ của kim loại trở nên chói mắt, hầu như không thật.
Eragon hít một hơi nữa và nhảy về phía trước, đâm vào không khí như thể trước mặt nó là một kẻ thù không đội trời chung. Nó luyện tập từng đường kiếm cơ bản, không chú trọng vào tốc độ hay sức lực mà vào độ chính xác.
Khi nó đã ấm người, nó nhìn quanh những người hộ vệ đang đứng thành một vòng bán nguyệt cách nó một đoạn. “Có ai luyện tập với tôi một vài phút không?” nó lớn tiếng hỏi.
Những tiên nhân nhìn nhau, không biểu lộ cảm xúc. Sau đó, tiên nhân Wydren tiến lên phía trước, “Để tôi, thưa KHắc tinh của Tà Thần, nếu ngài đồng ý. Tuy nhiên, tôi đề nghị ngài nên đội mũ trụ lên.”
“Đồng ý.”
Eragon tra thanh Brisingr vào bao rồi chạy tới chỗ Saphira và trèo lên một bên mình cô nàng, thò tay vào phía trong vảy. Nó mặc áo giáp, quấn xà cạp, bao tay nhưng lại cất mũ trụ trong túi yên để nó không rơi khỏi Saphira hay lẫn trong cỏ.
Khi đã lấy được mũ, nó nhìn thấy cái tráp đựng trái tim của Glaedr được bọc trong một mảnh vải và đặt ở đáy túi. Nó với tay xuống và chạm vào cái tráp thầm cầu nguyện cho con rồng vàng, rồi đóng túi lại và nhảy khỏi lưng Saphira.
Eragon vừa đội mũ vừa bước lại trảng cỏ. Nó cắn chảy máu đầu ngón tay cái, sau đó đeo găng tay và hy vọng máu không chảy ra nhiều quá. Wydren và nó sử dụng vài câu thần chú tương tự đặt ra một kết giới mỏng – không thể nhìn thấy, trừ việc họ làm cho không gian xung quanh vặn vẹo – xung quanh thanh kiếm để họ không bị làm người kia bị thương. Họ cũng hạ vòng bảo vệ xuống.
Sau đó nó và Wydren đứng đối diện nhau, cúi đầu và nâng cao thanh kiếm. Eragon nhìn vào đôi mắt đen, không chớp của tiên nhân và Wydren cũng vậy. Eragon nhìn đối thủ và tính tấn công bên trái tiên nhân vì nếu tấn công phía bên kia chính nó cũng khó tự vệ.
Vị tiên nhân chậm rãi quay người, cỏ dưới gót giày anh ta bị nghiền nát khi anh tiến về phía Eragon. Sau khi bước vài bước,Eragon dừng lại. Wydren là một chiến binh cảnh giác và lão luyện khiến Eragon phải dè chừng; có thể nó không bao giờ có thể ngang cơ với tiên nhân kia. Tất nhiên, trừ khi mình lừa được anh ta.
Nhưng trước khi nó quyết định bước tiếp theo nên làm gì, Wydren giả vờ tấn công chân phải Eragon như thể định chém vào mắt cá chân nó, rồi đổi hướng, vặn cổ tay và chém ngang ngực và cổ Eragon.
Dù Wydren rất nhanh nhưng Eragon còn nhanh hơn. Khi nhận ra Wydren chuyển hướng tấn công, Eragon lùi lại nửa bước, gập khuỷu tay và đưa kiếm lên trước mặt.
“Ha!” Eragon hét vang khi nó dùng thanh Brisingr chặn lưỡi kiếm của Wydren. Hai thanh va vào nhau kêu “keng”.
Eragon dùng lực đẩy Wydren lạ rồi chuồn ra sau anh ta, chém liên tiếp.
Họ đấu kiếm trên bãi cỏ trong vài phút. Eragon là người ra đòn đầu tiên – một đường rạch nông trên hông Wydren – và chém cú thứ hai, nhưng sau đó, họ trở nên cân sức hơn, vì vị tiên nhân đã hiểu được cách đánh của nó và bắt đầu lựa theo đó mà tấn công và phản công. Eragon ít có cơ hội được chiến đấu với một người giỏi và mạnh như Wydren để tự lượng sức mình. Vì vậy, nó thích thú đấu kiếm với vị thần tiên này.
Tuy nhiên, bao nhiêu hứng thú của nó đều tiêu tan khi Wydren chém liên tiếp bốn nhát vào nó: một nhát vào vai phải, hai nhát trên lồng ngực, và một đường kiếm hiểm trên bụng. Những cú đánh khiến nó đâu nhưng lòng tự trọng của nó còn bị tổn thương nhiều hơn. Nó lo rằng rằng tiên nhân dễ dàng vượt qua được thế phòng thủ của nó. Nếu họ đối đầu ngoài chiến trường kia, Eragon biết nó có thể đánh bại anh ta sau vài cú giao đấu nhưng ý nghĩ đó không khiến nó dễ chịu hơn là mấy.
Anh không nên để anh ta có nhiều cơ hội thế chứ, Saphira nhận xét.
Ừ, anh biết, nó gào lên.
Anh có muốn em giúp hạ gục anh ta không?
Không... không phải hôm nay.
Nó tức tối hạ kiếm và cám ơn Wydren. Tiên nhân cúi đầu và nói, “Không có gì, thưa Khắc tinh của Tà thần,” rồi trở về chỗ các tiên nhân khác.
Eragon cắm thanh Brisingr xuống khoảng đất giữa hai chân – điều nó không thể nào làm với những thanh kiếm làm từ thép bình thường – và đặt tay lên chuôi kiếm khi quan sát những người đàn ông và lũ gia súc chen lấn trong con đường đẫn tới thành phố rộng lớn. Sự hỗn loạn đã giảm bớt và nó đoán chẳng bao lâu nữa tiếng kèn sẽ vang lên báo hiệu cho quân Varden lên đường.
Trong lúc đó, nó cũng chẳng nghi ngơi gì.
Nó nhìn Arya đang đứng cạnh Saphira và nụ cười từ từ giãn ra trên mặt nó. Nó vác thanh Brisingr lên vai và thong thả tiến tới chỉ về phía thanh kiếm của nàng. “Arya, nàng thì sao? Chúng ta chỉ mới giao đấu có một lần hồi ở Farthen Dȗr.” Nó cười ngoác miệng và vuốt lưỡi kiếm Brisingr. “Từ hồi đó tới giờ tôi cũng khá hơn chút chút rồi.”
“Ừ.”
“Vậy nàng tính sao đây?”
Cô nhìn về phía quân Varden và nhún vai. “sao lại không nhỉ?”
Thế là họ bước tới bãi cỏ. Nó nói. “Lần này nàng không thể hạ ta dễ dang như lần trước đâu.”
“Chắc là thế.”
Arya xem xét thanh kiếm sau đó họ đối diện nhau, cách nhau khoảng ba mươi foot. Eragon cảm thấy tự tin và nhanh chóng tấn công trước vì nó biết nó nên tấn công vào đâu: vai trái của nàng.
Arya đứng nguyên vị trí và không hề có ý tránh né. Khi nó còn cách nàng độ bốn mét, cô nở một nụ cười ấm áp, rạng rỡ với nó khiến nó hết cả ý chí chiến đấu.
Một ánh thép lóe về phía nó.
Nó đưa thanh Brisingr lên chậm một nhịp. Tay nó tê rần vì mũi kiếm sượt qua một thứ gì đó cứng – nó không chắc là chuôi kiếm, lưỡi kiếm hoặc d.a thịt, nhưng dù là gì đi nữa nó cũng biết nó đã tính toán sai khoảng cách và phản ứng của nó đã khiến nó lĩnh đòn.
Trước khi nó có thể h.ãm đà lao tới, một lực tác động khiến lưỡi kiếm của nó nghiêng sang một bên; sau đó là một cú đau nhói giữa người khi Arya áp sát, đánh ngã nó.
Eragon rên lên khi lưng hạ cánh xuống đất. Nó cố hít một ngụm không khí nhưng bụng nó căng cứng như đá và nó không thể nào hít khí vào lồng ngực. Sao nhảy múa trước mắt nó, sau vài giây không dễ chịu đầu tiên nó nghĩ nó sẽ ngất. Nhưng rồi các bắp thịt của nó dãn ra và cuối cùng nó cũng hít thở được.
Khi đầu óc đã trở lại bình thường, nó từ từ chống thanh Brisingr để đứng dậy. Nó dựa vào thanh kiếm như thể một ông già đợi cơn đau bụng qua đi.
“Nàng chơi xấu,” nó nghiến răng nói.
“Không, tôi chỉ khai thác điểm yếu của đối phương thôi. Đấy là điểm khác biệt.”
“Nàng nghĩ... đó là...điểm yếu?”
“Khi chúng ta chiến đấu thì đúng. Chàng muốn tiếp tục không?”
Nó trả lời bằng cách rút thanh Brisingr ra khỏi mặt đất và bước về chỗ nó vừa đứng và giơ kiếm lên.
“Tốt,” Arya nói. Cô đứng cùng tư thế với nó.
Lần này Eragon đã thận trọng hơn khi nó áp sát nàng và Arya cũng không đứng nguyên tại chỗ. Nàng cẩn trọng tiến lên và đôi mắt xanh trong của nàng không bao giờ rời nó.
Nàng co tay khiên Eragon giật mình.
Nó nhận ra nó đang nín thở và buộc mình phải thư giãn.
Nó tiến thêm bước nữa và lao về phía trước hết tốc lực.
Cô chặn đường kiếm của nó nhắm vào lồng ngực và trả lại bằng một đâm vào phần nách. Mặt kiếm của nàng chạy dọc mặt trong cánh tay kia của nó, chém lên áo giáp khi nó gạt kiếm đi. Trong lúc đó, thân nàng lộ sơ hở nhưng vì họ quá gần nhau nên Eragon không thể ra đòn hiệu quả.
Thay vào đó nó nhào về phía trước, dùng chuôi kiếm đập vào xương quai xanh của nàng hòng đánh gục nàng như nàng đã làm với nó.
Nàng vặn mình và chuôi kiếm đánh vào khoảng không.
Eragon chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra và đứng như trời trồng khi một cách tay của Arya vòng qua cổ nó và lưỡi kiếm được bọc phép bảo vệ gí sát quai hàm nó.
Từ đằng sau, Arya thì thầm vào tai nó, “Tôi có thể cắt đầu chàng dễ như hái táo trên cây vậy.”
Sau đó nàng thả tay và đẩy nó đi. Nó tức giận, quay người lại và thấy nàng đã đợi sẵn nó, kiếm đã sẵn sàng và biểu hiện quyết liệt.
Nó quên đi nỗi tức giận và lao về phía trước.
Hó đánh qua đánh lại bốn đường kiếm, đòn sau mạnh hơn đòn trước. Arya chém được đối phương đầu tiên bằng một nhát trên chân Eragon. Nó cũng rạch một đường dài trên eo nàng nhưng nàng đã kịp lùi ra khỏi vùng nguy hiểm của thanh Brisingr. Nó không cho nàng một cơ hội trân tĩnh, nó tiến lên định chém xuống tay nàng nhưng nàng dễ dàng chặn đứng. Sau đó nàng tiến lên và với một cú chạm nhẹ nhưng cánh chim ruồi, để lại một đường kiếm ngang bụng nó.
Arya giữ nguyên tư thể sau cú đánh, mặt chỉ cách nó vài cm. Trán cô lấp lánh mồ hôi và má ửng đỏ.
Eragon kéo thẳng áo trấn thủ rồi bước tới gần Arya. Sự tức giận trong trận đánh đã biến đâu mất và khiến nó tập trung trở lại.
“Tôi không hiểu,” nó bình tĩnh nói.
“Chàng đã quen dần với việc chiến đấu với binh lính của Galbatorix. Họ không thể nào ngang cơ với chàng, vì vậy chàng có thể chiến thắng họ. Những đòn tấn công của chàng quá lộ liễu – chàng không nên chỉ dựa vào lợi thế về sức mạnh – và chàng phòng thủ không chặt.”
“Nàng giúp tôi chứ?” nó hỏi. “Nếu có thời gian nàng đấu kiếm với tôi nhé?”
Nàng gật đầu. “Tất nhiên. Nhưng nếu tôi không thể chàng nên tìm Blödhgarm; anh ấy cũng có kinh nghiệm chiến đấu như tôi vậy. Chàng phải thực chiến nhiều, đó là bạn đồng hành tốt nhất của chàng.”
Eragon định cảm ơn nàng thì nó cảm thấy xúc cảm của một ai đó không phải Saphira đang đè lên đầu óc nó, sợ hãi và buồn rầu: nỗi buồn rất lớn, cổ họng Eragon cứng lại và thế giới dường như không còn màu sắc. Và một giọng nói trầm trầm của rồng vàng Glaedr vang lên:
Trò phải học...phải thấy được cái mình đang nhìn.
Sau đó sự hiện diện đó biến mất, chỉ để lại sự trống rỗng mênh mang.
Eragon nhìn Arya. Nàng cũng đang đứng như trời trồng; nàng đã nghe thấy tiếng nói của Glaedr. Đằng sau nàng, Blödhgarm và các tiên nhân khác đang xì xào bàn tán trong khi ở phía kia con đường, Saphira ngoái đầu lại cố nhìn vào túi yên cương trên lưng.
Eragon nhận ra rằng tất cả bọn họ đều nghe thấy.
Nó và Arya cùng nhau đứng dậy và tiến tới chỗ Saphira đang nói,Ông ấy không trả lời em; dù ông ấy ở đâu, ông ấy cũng đã trở lại, nhưng ông ấy không nghe thấy cái gì ngoài chính nỗi buồn của mình. Đây, nhìn đi...
Eragon liên kết tư tưởng với cô rồng và với Arya. Cả ba người phóng tư tưởng tới trái tim Glaedr đang nằm trong túi yên cương. Phần còn lại của con rồng đã có sức sống hơn nhưng tư tưởng của ông rồng vẫn đóng kín, những suy nghĩ hỗn loạn như từ hồi Galbatorix giết chết Kỵ sĩ của ông, Oromis.
Eragon, Saphira và Arya cố gắng đánh thức con rồng vàng. Nhưng Glaedr vẫn phớt lờ họ, ông rồng như một con gấu ngủ đông chẳng để ý gì tới lũ ruồi nhặng vo ve quanh đầu.
Eragon không thể nào không nghĩ Glaedr không hề tỉnh.
Cuối cùng ba người phải đành chấp nhận thất bại và để tư tưởng trở về cơ thể. Khi Eragon khôi phục được ý thức, Arya nói, “Có lẽ nếu chúng ta chạm vào Eldunari của ông ấy thì...”
Eragon cho thanh Brisingr vào bao, trèo lên chân phải trước của Saphira và nhảy lên yên. Nó cúi xuống và bắt đầu lục lọi túi yên.
Đúng lúc đó tiếng kèn đồng của quân Varden vang lên báo hiệu xuất phát. Hàng dài người và gia súc chen lấn về phía trước, lúc đầu hơi chậm chạp, nhưng dần uyển chuyển và tự tin hơn.
Eragon liếc nhìn xuống Arya không biết nên làm gì. Cô vẫy tay và nói, “Tối nay chúng ta sẽ nói chuyện với ông ấy. Đi đi! Bay theo những cơn gió đi!”
Nó nhanh chóng đóng túi lại, rồi chỉnh lại yên cương vì nó không muốn ngã khỏi lưng Saphira khi đang bay.
Sau đó Saphira cúi mình và cùng một tiếng gầm vui sướng, nó bay lên khỏi mặt đất. Những người đàn ông đứng dưới cô nàng lùi lại vì hoảng sợ, lũ ngựa lồng lên khi cô nàng mở rộng đôi cánh to lớn, tung mình lên khỏi mặt đất cứng, không phải môi trường yêu thích của cô nàng lên trên khoảng không rộng lớn êm ái.
Eragon nhắm mắt ngửa mặt lên trời, vui mừng vì cuối cùng cũng rời khỏi Belatona. Sau cả một tuần ru rú trong thành phổ chỉ ăn rồi ngủ - vì Nasuada bắt buộc – nó hạnh phúc được tới Urȗ’baen.
Khi Saphira bay cách những ngọn tháp hàng trăm foot, nó nói, Em nghĩ ông Glaedr có phục hồi được không?
Ông ấy sẽ không bao giờ như trước nữa.
Không, nhưng anh hy vọng ông ấy sẽ có thể vượt qua nỗi đau. Anh cần sự giúp đỡ của ông ấy mà, Saphira. Có rất nhiều điều anh không biết. Không có ông ấy, anh không biết hỏi ai.
Cô nàng im lặng trong chốc lát. Trong không gian chỉ vang lên tiếng đập cánh đều đều. Chúng ta không thể vội, cô nàng nói. Ông ấy bị tổn thương nặng nề nhất theo cách mà một Rồng hay một Kỵ sĩ phải chịu. Trước khi ông ấy có thể giúp anh, em, hay bất cứ ai khác, ông ấy phải quyết định ông ấy có muốn sống nữa không. Cho tới lúc đó, chúng ta không thể nói gì với ông ấy đâu.
 
13. KHÔNG VINH QUANG, KHÔNG DANH DỰ, CHỈ CÓ NHỮNG TIẾNG QUÁT THÁO TẠI VÙNG ĐẤT XUI XẺO
Tiếng chuông đeo cổ của lũ chó săn sau họ vang lên càng lúc càng lớn, và chúng đang tru lên vì khát máu.
Roran nắm chặt dây cương và cúi rạp người trên con ngựa đang phi nước đại khiến bụng xóc lên từng hồi.
Anh và năm người đàn ông khác – Carn, Mandel, Baldor, Delwin và Hamund – đã trộm những con ngựa tốt từ chuồng ngựa một trang viên cách đây nửa dặm. Những người giữ ngựa nào có thể tử tế với trộm. Họ có thể dùng vài nhát kiếm để cướp ngựa nhưng những người giữ ngựa đã báo với những người gác cửa ngay khi Roran và những người bạn đồng hành trốn khỏi. Thế là mười tên gác cửa đuổi theo họ cùng với bầy chó săn.
“Đây rồi!” anh hét lên và chỉ vào một rặng cây phong chạy chạy dọc hai ngọn đồi gần đó, dẫn tới con suối.
Những người đàn ông thúc ngựa ra khỏi con đường đẹp và hướng về phía những rặng cây. Con đường dù có gồ ghề nhưng chỉ khiến họ châm lại chút đỉnh. Họ không thèm quan tâm tới nguy cơ lũ ngựa có thể bước vào các hố và gẫy chân hoặc họ bị ngã ngựa. Nguy hiểm chính là lũ chó săn đang đuổi sát sườn họ.
Roran thúc chân vào hai bên sườn ngựa và hét “Ya!”. Con ngựa lồng lên phía trước và từng bước đuổi kịp Carn.
Roran biết rằng sức lực của con ngựa sắp tới giới hạn, sau đó dù anh quất roi hay thúc ngựa thế nào nó cũng không đi nổi nữa. Anh ghét phải là người ngược đãi súc vật, anh không muốn bắt con vật chạy tới chết nhưng nếu không anh sẽ không hoàn thành nổi nhiệm vụ.
Khi đi song song với Carn, Roran hét lên, “Anh dùng phép thuật che giấu vết được không?”
“Tôi không biết cách!” Carn đáp, giọng nói bị tiếng gió rít và tiếng ngựa phi át mất. “Câu thần chú đó quá phức tạp!”
Roran chửi thề và liếc nhìn ra sau. Những con chó săn đã quặt ở khúc cua cuối cùng. Chúng chạy như bay với tốc độ quỷ khốc thần sầu. Thậm chí từ khoảng cách này, Roran có thể nhìn thấy màu lưỡi đỏ và những chiếc răng nanh trắng ởn của chúng.
Khi họ tới được rặng cây, Roran quay lại và đi ngược lên đồi, đi gần những cây phong nhất có thể. Những người còn lại làm tương tự, họ ngựa lại khi chúng chạy lên dốc.
Bên phải Roran, Mandel đang phi tới, trên mặt biểu hiện nét cau có. Chàng thanh niên này gây ấn tượng với Roran bởi sức chịu đựng và sự kiên cường trong ba ngày qua. Kể từ khi cha Katrina, lão Sloan phản bội dân làng, giết chết cha Mandel, ông Byrd, Mandel đã cực kỳ nỗ lực chưng minh cho mọi người thấy cậu ngang hàng với bất cứ thanh niên nào trong làng: cậu đã chứng minh được sự dũng cảm của mình trong hai trận giao tranh giữa quân Varden và quân Triều đình.
Một cành cây to vụt qua đầu Roran. Anh lùi lại, nghe ngón và cảm thấy những cành cây con va quệt trên mũ trụ. Một chiếc lá khô rơi xuống che mắt phải anh trong giây lát; sau đó cơn gió thổi nó đi mất.
Tiếng thở của con ngựa càng lúc càng nặng nề khi họ đi sâu hơn vào ngọn đồi. Roran che mắt nhìn thấy đàn chó săn chỉ còn cách bọn họ chưa đầy một phần tư dặm. Chắc chắn chỉ vài phút nữa chúng sẽ đuổi kịp bọn họ.
Quỷ tha ma bắt, anh nghĩ thầm. Anh đảo mắt nhìn những rặng cây rậm rạp bên trái và ngọn đồi mọc đầy cỏ dại bên phải như tìm kiếm một cái gì – bất kỳ thứ gì – có thể giúp họ cắt đuôi những kẻ đang bám đuôi.
Đầu óc anh ong ong vì kiệt sức khiến anh suýt bỏ qua nó.
Trước anh hai mươi mét và một con đường nai đi thành lối chạy xuống một bên sườn đồi, cắt ngang con đường họ đang đi sau đó biến mất trong rừng cây.
“Họ!...Họ!...” Roran hét, thúc ngựa và kéo dây cương. Con ngựa dừng lại đi nước kiệu, dù nó có phì phò phản đối và hơi lắc đầu, cố gắng cắn sợi dây cương trong miệng. “Ôi, đừng làm thế,” Roran gầm lên và giật mạnh dây cương hơn.
“Nhanh lên!” anh nói với những người còn lại và quay ngựa tiến vào khu rừng rậm. Không khí bên dưới những rặng cây mát mẻ, có khi lành lạnh khiến bọn họ nhẹ nhõm, bớt đi cơn nóng vì mệt nhọc. Nhưng khoảnh khắc tận hưởng cảm giác khoan khoái chỉ kéo dài trong chốc lát trước khi con ngựa lồng lên và trượt xuống con suối bên dưới. Những chiếc lá khô kêu xào xác dưới móng ngựa. Để không ngã ngựa, Roran gần như cúi rạp trên lưng nó, chân duỗi thẳng về phía trước.
Khi anh trượt xuống hẻm núi, con ngựa gõ móng lên lạch sông sỏi đá, làm nước bắn lên đầu gối Roran. Roran dừng ngựa quan sát xem có ai còn theo anh không. Có, và họ đang nối đuôi nhau trượt xuống khỏi rặng cây.
Phía trêm họ, đầu khu rừng rậm, anh có thể nghe thấy tiếng chó sủa ăng ẳng.
Chúng ta sẽ phải quay lại và đánh nhau thôi, anh nhận ra.
Anh chửi thề và thúc ngựa leo lên khỏi con suối, lên bờ suối mềm, đầy rêu, đi theo con đường anh mòn mờ mờ dấu chân người ngựa.
Không xa dòng suối mấy là bức tường dương xỉ và xa xa là một thung lũng lòng chảo. Roran để ý tới một thân cây đổ có thể làm một vật cản đường nếu anh kéo nó vào đúng vị trí.
Hy vọng họ không có cung, anh nghĩ.
Anh vẫy mấy người bạn, “Ở đây!”
Anh giật cương, buộc con ngựa vượt qua bãi dương xỉ và phi vào thung lũng. Anh trượt khỏi yên ngựa nhưng vẫn bám chắc tay vào đó. Khi chân chạm mặt đất, anh nhăn mặt và ấn trán lên vai ngựa, thở hổn hển đợi cho chân hết run.
NHững người còn lại cho ngựa chạy quanh anh. Không khí ngập tràn mùi mồ hôi và tiếng yên cương kêu lọc cọc. Những con ngựa run rẩy, ngực phập phồng và sùi bọt mép.
“Giúp tôi với,” anh nói với Baldor và chỉ về phía thân cây đổ. Họ đặt tay dưới hai đầu thân gỗ dày và lăn nó xuống đất. Roran nghiến răng vì đau hông và lưng. Phi ngựa hết tốc lực trong ba ngày – cùng với việc ngủ chưa tới ba tiếng sau mười hai tiếng ngồi trên lưng ngựa – đã khiến anh suy kiệt.
Đằng nào thì vào trận chiến mình cũng ốm đau rồi bị đánh thừa sống thiếu chết thôi mà, Roran nghĩ vậy khi thả thân gỗ xuống. Ý nghĩ đó dù sao cũng làm anh bớt căng thẳng.
Sáu người đứng trước bầy ngựa, đối diện với bức tường phủ bức tường dương xỉ và rút vũ khí. Bên ngoài thung lũng, những con chó săn tru lên càng lúc càng lớn, những chiếc sủa giận dữ kích động của chúng vang lên hỗn loạn.
Roran căng người và giơ cây búa cao hơn. Sau đó trong tiếng chó sủa anh nghe thấy một giai điệu kỳ lạ, du dương bằng ngôn ngữ cổ xưa từ Carn và khiến anh dựng tóc gáy. Thầy pháp lẩm nhẩm vài từ ngắn, nhanh khiến từ ngữ quện vào nhau. Ngay khi anh ta đọcx ong, anh ra hiệu với Roran và những người khác, căng thẳng nói nhỏ, “Nằm xuống!”
Không hỏi thêm, Roran nằm sạp xuống. Đây không phải lần đầu tiên anh nguyền rủa bản thân không biết dùng phép thuật. Giờ đây tất cả những kỹ năng của một chiến binh đều vô dụng; không có nó buộc anh phải trông cậy vào những người có thể định hình lại thế giới bằng ý trí và vài từ.
Bức tường dương xỉ trước mặt họ rung lên; rồi một con chó thọc cái mõm đen của nó qua tán lá đánh hơi. Delwin rít lên và giơ cao thanh kiếm như thể chặt đầu con chó nhưng Carn húng hắng cảnh cáo và xua tay cho tới khi anh hạ thanh kiếm xuống.
Con chó nhăn trán bối rối. Nó đánh hơi thêm lần nữa rồi dùng cái lưỡi tím, dày bự liếm mép và đi mất.
Khi tán lá về đúng vị trí cũ, Roran từ từ thở hắt ra. Anh nhìn Carn nhướn mày hy vọng một lời giải thích nhưng Carn chỉ lắc đầu và đặt ngón tay lên môi.
Vài giây sau, thêm hai con chó nữa chúi mõm xuống đánh hơi thung lũng, rồi, cũng như con đầu tiên, chúng quay đi. Một lúc sau, đàn chó bắt đầu sủa ăng ẳng, chạy vào rặng cây tìm kiếm con mồi.
Khi ngồi chờ, Roran để ý thấy trên chân có vài vết tím chạy dọc lên hông. Anh chạm vào vùng bầm tím đó và ngón tay anh dính máu. Ở mỗi vết thâm đều có một chỗ rộp da. Anh không chỉ bị thâm ở đó, còn ở tay – nơi anh siết chặt cương đặt biệt là giữa ngón cái và ngón trỏ - và ở gót chân và một số chỗ không thoải mái hơn.
Anh chán ghét chùi những ngón tay xuống đất. Anh nhìn những người bạn đồng hành, nhìn cách họ đang ngồi và quỳ, nhìn thấy vẻ khó chịu trên nét mặt mỗi khi di chuyển và thấy họ đang nắm chắc vũ khí. Sức khỏe của họ đâu có hơn gì anh.
Roran quyết đinh lần tới khi dừng lại nghỉ ngơi anh sẽ nhờ Carn trị thương hộ. Nếu nhưng pháp sư đã quá mệt, Roran sẽ ráng nhịn đau; anh thà chịu đau còn hơn để Carn cạn kiệt sức lực trước khi tới Aroughs, vì Roran đoán khả năng của Carn sẽ rất hữu dụng trong lần vây thành này.
Nghĩ tới Aroughs, trận chiến và làm cách nào để chiến thắng khiến Roran đặt tay lên ngực kiểm tra xem những phong thư mà anh không thể đọc có còn không. Chúng vẫn ở đó.
Sau vài phút dài đằng đẵng căng thẳng, một trong những con chó săn bắt đầu sủa nhặng xị ở trong rặng cây phía trên bờ suối. Những con chó khác phóng nhanh về hướng đó và tiếng tru rú ầm ý đã có nghĩa là chúng đã đuổi rất sát con mồi.
Khi bầy chó đã bỏ đi hết, Roran từ từ đứng dậy và nhìn qua kẽ lá, “Chúng đi hết ròi,” anh nói bằng giọng khe khẽ.
Khi những người khác đứng lên, Hamund – một người đàn ông cao, tóc bóng dầu và có vết nhăn hằn sâu trên khóe miệng dù anh chỉ hơn Roran có một tuổi – quay lại phía Carn, rủa xả, “Sao anh không làm thế từ trước, thay vì để cho chúng tôi chạy như điên như dại qua khu nông thông và suýt gẫy chổ khi trượt xuống đồi hả?” Anh chỉ về phía rạch sông.
Carn đáp lại bằng giọng cáu giận tương tự, “Vì lúc trước tôi không nghĩ ra. Đáng ra anh nên biết ơn vì tôi đã cứu anh không bị đục lỗ đó.”
“Thế sao? Vậy tôi nghĩ anh nên dành nhiều thời gian nghiên cứu phép phiếc trước khi chúng ta bị đuổi chạy tới nơi khỉ ho cò gáy nào đó và...”
Sợ cuộc cãi vã của họ sẽ nghiêm trọng hơn, Roran đứng vào giữa hai người, “Đủ rồi,” anh nói, sau đó hỏi Carn, “Anh dựng lá chắn che giấu chúng ta được không?”
Carn lắc đầu. “Lũ người thông minh hơn lũ chó kia.” Anh nhìn Hamund vẻ xem thường. “Ít nhất là hầu hết. Tôi có thể giấu chúng ta nhưng không dấu được vết tích trên đường.” Và anh chỉ về phía trảng dương xỉ bị dẫm nát cũng như vết móng ngựa để lại trên mặt đất ẩm ướt. “Họ sẽ biết chúng ta ở đây. Nếu chúng ta đi trước khi họ tìm ra dấu vết, lũ chó sẽ chạy về phía họ và chúng ta sẽ...”
“Lên ngựa!” Roran ra lệnh.
Thêm vài tiếng chửi thề và rên rẩm nữa rồi những người đàn ông lên lên lưng ngựa. Roran nhìn về thung lũng lần cuối để đảm bảo họ không bỏ quên cái gì rồi dẫn đoàn người đi.
Họ cùng nhau phi nước đại dưới bóng cây và đi khỏi khe núi tiếp tục cuộc hành trình tưởng như không có điểm dừng tới Aroughs. Nhưng một khi đặt chân tới thành phố, Roran chưa biết họ sẽ phải làm gì.
 
14. THỰC NGUYỆT NHÂN
Eragon xoay vai khi đi trong trại của quân Varden, cố gắng chữa chứng ngoẹo cổ vì đấu kiếm với Arya và Blödhgarm đầu chiều.
Khi nó bước lên đỉnh một ngọn đồi nhỏ trông như một hòn đảo cô đơn giữa một rừng lều bạt, nó chống tay lên hông và quan sát cảnh vật. Trước mắt nó là mặt nước hồ Leona đen lấp loáng trong ánh chạng vạng và ánh đuốc vàng chiếu ra từ khu lều. Varden đã hành quân trên con đường giữa khu lều và bờ sông: theo như Jeod bảo nó, con đường đá cuội đó có trước khi Galbatorix giết chết các Kỵ sĩ. Cách đây một phần tư dặm về phía bắc là một ngôi làng chài nhỏ ngay sát bờ sông. Eragon thừa biết dân làng chẳng vui vẻ gì khi quân đội tới đóng quân ngay trên cửa ngõ ra vào của họ.
Trò phải học... nhìn những gì trò thấy.
Từ khi rời khỏi Belatona, Eragon dành hàng giờ nghiền ngẫm lời khuyên của Glaedr. Nó không biết ông rồng định nói gì, vì Glaedr không chịu nói thêm gì sau đó. Và thế là Eragon đành tự mình suy diễn câu nói đó theo nghĩa đen. Nó đang thực sự nhìn những gì trước mắt nó, dù cho thứ đó nhỏ và không đáng chú ý tới đâu, và cố gắng hiểu xem câu nói của ông rồng có ngụ ý gì.
Dù nó cố gắng lắm nhưng chỉ chuốc lấy thất bại. Dù nhìn thấy gì, thấy bao nhiêu nó vẫn không nhìn ra thứ nó cần thấy. Tệ hơn, giờ nó còn chẳng hiểu gì, ví dụ như vì sao khói lại bốc lên từ ba ống khói trong khu làng chài.
Dù nó cảm thấy chưa hiểu gì nhưng những nỗ lực của nó ít nhất cũng thu về một thành quả: Arya không còn có thể đánh bại nó trong mỗi lần giao chiến. Nó quan sát nàng cẩn trọng gấp đôi, quan sát nàng như thể nàng là một con nai còn nó là kẻ săn mồi – về cuối cùng, nó cũng thắng được vài hiệp. Nhưng, nó vẫn chưa ngang cơ với nàng, vẫn kém nàng quá nhiều. Nó chưa biết nó cần học gì – hay ai có thể dạy nó – để trở thành tay kiếm lão luyện như nàng.
Có lẽ Arya nói đúng, kinh nghiệm là thầy dạy tốt nhất cho mình lúc này, Eragon nghĩ. Cần có thời gian để đúc rút kinh nghiệm, nhưng mình lại đâu có nhiều thời gian. Mình sắp tới Dras-Leona và rồi tớ Urȗ’baen. Nhiều nhất là vài tháng nữa mình và mọi người sẽ phải đối mặt với Galbatorix và Shruikan.
Nó thở dài và xoa mặt, cố nghĩ tới chuyện gì nhẹ nhàng hơn. Nhưng cuối cùng bao giờ nó cũng quay lại nghĩ tới những chuyện nó khúc mắc trong lòng, lo lắng về những chuyện đó nhưu một con chó nghĩ tới khúc xương, càng lúc càng căng thẳng.
Không nghĩ thêm được gì, nó đi xuống đồi. Nó lang thang trong những căn lều dưới ánh chiều chạng vạng, đi về phía lều của nó nhưng chẳng để ý gì tới đường đi. Đi bộ lúc nào cũng giúp nó bình tĩnh. Những người đàn ông luôn luôn tránh đường cho nó đi và đặt nắm tay lên ngực cùng một tiếng chào nho nhỏ, “Chào Khắc tinh của tà thần,” còn Eragon lịch sự gật đầu đáp lễ.
Nó đi bộ khoảng mười lăm phút, dừng lại và bắt đầu nghĩ ngợi thì nghe thấy một tiếng phụ nữ la chói lói đầy hứng khởi. Nó tò mò đi về phía âm thanh phát ra cho tới khi thấy một căn lều năm xa cách khu trại, gần gốc liễu khẳng khiu, cái cây duy nhất gần hồ mà quân đội không đốn hạ làm củi đun.
Ở đó, dưới những tán cây là một cảnh tượng kỳ lạ nhất nó từng thấy.
Mười hai Urgal bao gồm cả thủ lĩnh của bọn họ, Nar Garzhvog, ngồi thành hình bán nguyệt quanh đám lửa đang bập bùng cháy. Vẻ sợ hãi nhảy nhót trên gương mặt họ, khắc họa rõ nét hàng lông mày rậm, xương gò má rộng và quai hàm lớn cũng như những chóp sừng trên trán và cong xuống hai bên đầu. Urgal để trần tay và ngực, trừ một bao da quanh cổ tay và một dải vải da đeo chéo vai xuống eo. Trừ Garzhvog còn có ba Kull nữa hiện diện. Kích thước khổng lồ của họ khiến cho những Urgal còn lại – không ai dưới mét tám – trở nên nhỏ như một đứa bé.
Lẫn trong đám Urgal, là vài tá mèo ma ở lốt thú. Rất nhiều con mèo ngồi thẳng trước đống lửa, im lìm, không quật đuôi, tai dựng đứng. Những con khác nằm bò trên mặt đất, trong lòng Urgal hoặc nằm trên tay họ. Eragon kinh ngạc khi thấy một con mèo ma – một con mèo trắng cái gầy nhẳng – nằm cuộn tròn trên đầu một Kull, chân trước của nó đặt lên một bên sương xọ hắn và móng bấu chặt vào lông mày. Dù mèo ma nhỏ bé hơn Urgal nhưng chúng cũng dữ đằn tương tự và Eragon biết nó cần dè chừng tộc nào hơn; nó hiểu Urgal nhưng mèo ma thì... thật khó đoán.
Đối diện với chúng, ở bên kia đống lửa, phía trước khu lều là bà lang Angela. Bà ngồi khoanh chân trên một chiếc chăn và quay sợi. Cả mèo ma và Urgal đều chăm chú nhìn bà, không dời mắt nghe bà nói: “...nhưng hắn quá chậm và con thỏ mắt đỏ giận dữ đã xé toạc cổ họng Hord, giết chết hắn ngay lập tức. Sau đó con thỏ chạy tọt vào rừng, không ai còn biết tới nó nữa. Nhưng” – nói tới đây Angela hạ thấp giọng – “nếu các người đi qua khu rừng đó, như tôi từng có dịp... thi thoảng, thậm chí trong ngày hôm nay, các người sẽ thấy một con nai vừa mới bị giết hoặc một Feldȗnost trông như thể bị nhấm nháp ăn dần, như một cây củ cải. Và quanh nó, các người sẽ thấy những dấu chân thỏ lớn khác thường. Thi thoảng một chiến binh của Kvôth sẽ mất tích, khi người ta tìm thấy thì hắn ta đã chết với cổ họng bị xé toạc... luôn luôn trong tình trạng cổ họng bị xé toạc.
Bà chỉnh lại tư thế ban đầu. “Terrin rất buồn vì mất bạn và cậu ta muốn bắt được con thỏ nhưng những người lùn vẫn cần sự giúp đỡ từ cậu. Vì thế cậu ta trở lại thành lũy và vì thành đã bị vây h.ãm trong ba ngày ba đêm, nguồn lương thực cạn kiệt và binh lính đều bị thương.
“Cuối cùng, vào buổi sáng ngày thứ tư, khi tưởng như đã hết hy vọng, những đám mây tản ra và từ xa, Terrin ngạc nhiên nhìn thấy Mimring bay tới thành dẫn đầu một trận sấm rồng. Cảnh tượng về những con rồng khiến những kẻ công thành vô cùng hoảng sợ và họ ném vũ khí bỏ chạy vào rừng sâu.” Bà Angela cong môi. “Đó, như các người có thể tưởng tượng ra những người lùn của Kvôth vui mừng như thế nào.
“Khi Mimring đậu xuống, Terrin ngạc nhiên nhìn thấy những vẩy trên người nó sáng như kim cương vì Mimring bay quá gần mặt trời – để dẫn đường cho những con rồng khác, nó phải lượn qua lượn lại trên đỉnh núi Beor, cao hơn bất cứ con rồng nào trước và sau đó. Từ đó trở đi, Terrin trở thành anh hùng trong Trận chiến Kvôth, và con rồng của cậu mang tên Mimring Rực rỡ vì lớp vảy trên người và họ sống hạnh phúc mãi mãi. Nhưng, đúng ra mà nói, Terrin luôn luôn bị ám ảnh bởi lũ thỏ cho tới lúc già. Và đó là chuyện thực sự xảy ra với Kvôth.”
Sau đó bà im lặng, bầy mèo ma rên rừ rừ và Urgal gầm gừ vài tiếng tán thưởng.
“Bà kể rất hay, thưa Uluthrek,” Garzhvog nói, giọng nói của ông ta như thể đá lăn từ núi xuống.
“Cám ơn.”
“Nhưng đó không phải câu chuyện tôi từng được nghe,” Eragon nhận xét khi bước về phía đống lửa.
Biểu hiện trên khuôn mặt Angela sáng lên. “Ừ, cậu đừng mong những người lùn thừa nhận họ được con thỏ tha mạng chứ. Cậu trốn trong bóng tôi nghe lỏm toàn bộ à?”
“Không, chỉ vài phút thôi,” nó thú nhận.
“Vậy thì cậu đã bỏ qua phần hay nhất rồi, và tối nay tôi sẽ không kể lại đâu. Cổ họng tôi khô rát rồi.”
Eragon cảm thấy mặt đất rung lên khi Kull và các Urgal khác đứng dậy khiến lũ mèo ma nằm trong lòng họ không vui, vài con còn gào lên phản kháng khi rơi xuống đất.
Khi nó nhìn những khuôn mặt có sừng xấu xí tập trung quanh đống lửa, nó phải kìm lắm mới không rút kiếm. Kể cả sau một thời gian chiến đấu, hành quân và đi săn cùng Urgal thậm chí trao đổi tư tưởng cùng vài kẻ trong số họ, sự hiện diện của họ vẫn khiến nó ngỡ ngàng. Nó hiểu họ là quân đồng minh, nhưng xương cốt và cơ bắp vẫn không thể nào quên đi sự kinh hoàng thấm sâu trong người nó khi chiến đâu với đồng bọn của họ trong những trận chiến.
Garzhvog bỏ cái gì đó ra từ cái túi da nhỏ đeo trên thắt lưng. Ông ta đưa bàn tay dày cui qua đổng lửa, đưa vật đó cho Angela lúc đó đang hạ con suốt xuống và nhận lấy vật đó. Đó là một pha len màu xanh nước biển thô ráp trông rống như bông tuyết bị đông cứng sáng lấp lánh. Bà bỏ nó vào ống tay áo rồi cầm con suốt lên.
Garzhvog nói, “Thi thoảng bà phải tới lều của chúng tôi đó Uluthrek và chúng tôi sẽ kể cho bà nghe rất nhiều câu chuyện của chúng tôi. Chúng tôi có người kể chuyện. Anh ta rất khá; khi bà nghe anh ta ngâm câu chuyện về chiến thắng của Nar Tulkhqua tại Stavarosk, máu bà sẽ sôi lên và bà sẽ thấy như mình đang tru lên dưới ánh trăng và đấu sừng với những kẻ thù mạnh nhất.”
“Điều này còn tùy thuộc anh có sừng để đấu không chứ,” Angela nói. “Tôi rất vinh hạnh được ngồi nghe chuyện với anh. Có lẽ tối mai đi?”
Kull khổng lồ đồng ý; sau đó Eragon hỏi. “Stavarosk ở đâu? Tôi chưa bao giờ nghe.”
Urgal rì rầm không vui và Garzhvog hạ đầu khụt khịt như một con bò đực. “Anh đùa gì thế, Hỏa kiếm?” ông ta hỏi. “Anh muốn thách thức chúng tôi sao?” Ông ta đóng mở nắm tay thể hiện rõ ý đe dọa.
Eragon đề phòng nói, “Tôi không có ý xúc phạm, thưa Nar Garzhvog. Tôi thành thực có ý hỏi vậy; tôi chưa bao giờ nghe tới cái tên Stavarosk.”
Những tiếng rầm rì ngạc nhiên vang lên giữa các Urgal. “Sao lại có thể?” Garzhvog nói “Không phải con người nào cũng biết về Stavarosk sao? Không phải những con người ở phía bắc rặng Beor luôn nói về chiến thắng lớn nhất của chúng tôi sao? Nếu các nơi khác không biết thì quân Varden chắc chắn biết.”
Angela thở dài và không thèm nhìn lên nói. “Tốt nhất anh phải bảo bọn họ kể thôi.”
Eragon cảm thấy Saphira đang quan sát và nó biết cô sắp sửa bay tới nếu cuộc ẩu đả là không thể tránh.
Nó cẩn trọng lựa chọn từ ngữ và nói, “Không ai kể cho tôi nghe, nhưng vì tôi không ở cùng Varden lâu nên...”
“Drajl!” Garzhvog chửi thề. “Kẻ phản bội không có sừng thậm chí không có đủ dũng khí thừa nhận thất bại. Hắn là kẻ hèn nhát và dối trá!”
“Ai? Galbatorix à?” Eragon cẩn trọng hỏi.
Những con mèo rít lên khi nghe nhắc tới tên bạo chúa.
Garzhvog gật đầu. “Đúng. Khi hắn lên nắm quyền, hắn đã đuổi cùng giết tận loài chúng tôi. Hắn đã gửi một đội quân lớn tới núi Spine. Binh lính của hắn đã xông vào làng của chúng tôi, đốt xương chúng tôi và để lại mắt đất đen sì và nỗi cay đắng ở lại sau. Chúng tôi đã đánh trả - lúc đầu vì vui, sau là trong tuyệt vọng, nhưng vẫn chống trả. Đó là điều duy nhất chúng tôi có thể làm. Chúng tôi không có chốn dung thân, không có chỗ trốn. Ai sẽ bảo vệ Urgalgra khi các Kỵ sĩ đã ngã xuống?
“Chúng tôi may mắn. Chúng tôi có một thủ lĩnh tài ba, Nar Tulkha. Ông ấy từng bị loài người bắt giữ, từng dành nhiều năm chiến đấu với họ nên hiểu cách nghĩ của họ. Vì thế, ông có thể tập hợp rất nhiều bộ tộc lại. Sau đó ông lừa quân đội của Galbatorix vào trong một khe núi hẹp và chúng tôi từ trên ném gỗ xuống. Đó là một trận chiến đẫm máu đó Hỏa kiếm. Máu chảy lênh láng, người chất thành đống cao hơn đầu tôi. Cho tới ngày hôm nay, nếu anh tới Stavarosk, anh vẫn cảm thấy xương kêu răng rắc dưới chân và có thể tìm thấy những đồng tiền, kiếm và những mảnh áo giáp dưới lớp rong rêu.
“Hóa ra là các người!” Eragon reo lên. “Cả đời tôi từng nghe nói Galbatorix đã từng mất một nửa số quân lính trong rặng Spine nhưng không ai nói cho tôi biết vì sao hay thế nào.”
“Hơn một nửa số lính đấy Hỏa kiếm.” Garzhavog xoay vai và gầm gừ trong họng. “Và giờ tôi thấy chúng ta cần lan truyền câu chuyện đó để mọi người đều biết về chiến thắng của chúng tôi. Chúng tôi sẽ tìm những người kể chuyện, những thi sĩ loài người, dạy họ bài hát về Nar Tulkhqua và đảm bảo họ nhớ rằng phải hát thường xuyên và hát lớn.” Ông gật đầu như thể đã quyết ý rồi nói, “Tạm biệt, Hỏa kiếm. Tạm biệt, Uluthrek.” Sau đó ông ta và những chiến binh biến mất trong bóng tối.
Angela tặc lưỡi khiến Eragon giật mình.
“Gì thế?” nó hỏi và quay lại nhìn bà.
Bà mỉm cười. “Tôi đang tưởng tượng ra cảnh mấy tay thổi sáo tội nghiệp sẽ thế nào trong vài phút nữa khi về lều, thấy mười hai Urgal, bốn Kull đứng ngoài, vui vẻ dạy anh ta về văn hóa của Urgal. Tôi sẽ ấn tượng nếu chúng ta không nghe tiếng hét đó.” Bà lại tặc lưỡi.
Eragon cũng hứng thú tượng tự. Nó ngồi xuống dùng một cành cây gẩy đống than củi. Nó cảm nhận một vật nặng nề ấm áp trong lòng, khi nhìn xuống nó thấy con mèo ma trắng cuộn tròn trên chân. Nó đưa tay vuốt lông nó rồi nghĩ ngợi gì đó lên tiếng hỏi. “Có được không?”
Con mèo trắng vẫy đuôi phớt lờ nó.
Hy vọng mình không làm gì sai, Eragon cẩn trong gãi gãi cổ sinh vật. Một lát sau, một tiếng rừ rừ to vang lên.
“Cô ấy thích cậu,” Angela nhận xét.
Không hiểu vì sao Eragon lại thấy cực kỳ phấn chấn. “Cô ấy là ai thế ạ? Ý tôi là, cô tên gì? Tên cô là gì?” Nó liếc nhìn con mèo ma lo lắng mình khiến cô mèo phật ý.
Angela cười. “Tên cô ấy là Thợ săn đêm. Hay đúng hơn, đó là nghĩa tên cô ấy dịch ra từ ngôn ngữ mèo ma. Đúng hơn, cô ấy là.” Nói tới đây, bà lang húng hắng ho, âm thanh đó khiến Eragon dựng tóc gáy. “Thợ săn đêm là vợ Grimrr Nửa vuốt, có người nói cô ấy từng là nữ hoàng của loài mèo ma.”
Tiếng rừ rừ cáng lúc càng lớn.
“Tôi hiểu.” Eragon nhìn quanh những con mèo ma khác. “Solembum đâu?”
“Đang bận đuổi theo một con mèo vằn bằng nửa số tuổi của cu cậu. Cậu ta hành động như thể mèo con ấy... nhưng dù sao trong đời ai chẳng có một lần ngốc nghếch.” Bà lang giữ quay xa bằng tay trái, dừng nó lại và đưa một sợi bông mới vào đĩa sợi. Sau đó và tiếp tục xe sợi. “Có vẻ cậu có nhiều câu hỏi đó, Khắc tinh của tà thần.”
“Mỗi khi tôi gặp bà, tôi luôn luôn cảm thấy càng lúc càng mông lung.”
“Luôn luôn? Cậu chuyên chế nhỉ. Được rồi, tôi sẽ cố trả lời xem. Hỏi đi.”
Thấy bà ta cởi mở, Eragon cân nhắc nên hỏi gì trước. Cuối cùng nó hỏi, “Một cơn sấm rồng? Ý bà là…”
“Đấy là cụm từ đúng để chỉ một đàn rồng. Nếu cậu có cơ hội nghe tiếng chúng vỗ cánh, cậu sẽ hiểu. Khi mười, mười hai hoặc nhiều hơn bay trên đầu cậu, cậu sẽ thấy không khí rền rĩ xung quanh cậu như thể cậu đang ngồi trong một cái trống cỡ cực đại. Không thì cậu gọi một đàn rồng là gì? Cậu goi là một bầy quả, một đội đại bàng, một đàn ngỗng trời, một lũ vịt, một đàn chim giẻ cùi, một bầy cú, v.v... nhưng còn rồng thì sao? Một sự đói khát chắc? Không được. Không thể gọi chúng là mộtngọn lửa hay nỗi sợ, dù ta thích từ nỗi sợ, Nhưng không, một đàn rồng gọi là một cơn sấm. Cậu sẽ biết nếu như cậu có thời gian đầu tư vào sách vở hơn là mua kiếm và vài từ bằng ngôn ngữ cổ.”
“Chắc chắn là bà đúng,” nó nói. Qua mối liên kết luôn hiện hữu giữa nó và Saphira, nó biết cô nàng đồng ý với cụm “một cơn sấm rồng.” Nó cũng nghĩ như vậy vì so sánh như thế rất hợp lý.
Nó cân nhắc một lúc lâu hơn rồi hỏi, “Sao Garzhvog lại gọi bà là Uluthrek?”
“Đó là danh xưng Urgal đã đặt cho ta từ rất lâu, từ hồi ta sống cùng họ.”
“Nghĩa là gì?”
“Thực nguyệt nhân.”
“Thực nguyệt nhân? Tên lạ nhỉ? Sao bà lại có tên đó?”
“Ta ăn mặt trăng chứ còn làm sao nữa?”
Eragon nhíu mày và quan tâm vào việc vuốt ve con mèo ma trong chốc lát. “Sao Garzhvog lại đưa bà viên đá?”
“Vì ta kể chuyện cho hắn. Rõ ràng thế còn gì.”
“Nhưng viên đá đó là gì?”
“Một mẩu đá. Cậu không thấy sao?” Bà kêu khục khục vẻ không tán đồng. “Cậu thật sự nên để ý tới những gì xung quanh hơn. Nếu không sẽ có ngày có người cầm dao đâm cậu khi cậu không để ý. Nếu cậu chết tôi sẽ nói những điều bí ẩn của tôi cho ai?” Bà hất tóc. “Tiếp đi. Tôi rất thích chơi trò này.”
Cậu nhướn lông mày và dù biết câu hỏi vô nghĩa, nhưng vẫn hỏi, “Chiếp chiếp?”
Bà lang cười váng lên và vài con mèo ma mở miệng nở một nụ cười đầy răng. Nhưng Thợ săn đêm có vẻ không hài lòng vì cô ta cắm móng lên chân Eragon khiến nó nhăn mặt.
“Ờm,” Angela vừa cười vừa nói, “nếu cậu phải có câu trả lời thì tôi sẽ kể cho cậu nghe một câu chuyện hay ho. Xem nào... Vài năm trước khi ta đi lang thang dọc biên giới phía tây Du Weldenvarden, cách xa các thành phố, làng mạc, thị trấn. Ta tình cờ gặp Grimrr. Lúc đó cậu ta chỉ là một thủ lĩnh một bộ tộc nhỏ và còn đủ móng vuốt. Lúc đó tôi gặp cậu ta đang đua với một con sáo non rơi từ tổ xuống. Tôi sẽ không để ý nếu cậu ta giết và ăn nó – mèo nào chẳng làm thế - nhưng cậu ta hành hạ con vật tội nghiệp: giang cánh nó ra, cắn đuôi nó, làm què chân nó rồi đè ngửa nó ra. Angela nhăn mũi khó chịu. “Tôi nói rằng cậu ta phải ngừng lại nhưng cậu ta gào trả và lờ tôi đi.” Bà nhìn Eragon bằng ánh mắt lạnh lùng. “Tôi không thích mọi người lờ tôi. Vì thế tôi lấy con chim và chỉ tay niệm thần chú. Thế là trong một tuần, cứ hễ cậu ta mở mồm ra là lại kêu như chim.”
“Ông ấy kêu chiếp chiếp á?”
Angela gật đầu. “Tôi chưa bao giờ cười đau ruột tới vậy. Không một con mèo ma nào dám lại gần cậu ta trong một tuần.”
“THể nào ông ấy ghét bà.”
“Thế đã sao? Nếu cậu không có kẻ thù, cậu là kẻ hèn nhát – có khi còn tệ hơn. Nhưng nhìn thấy phản ứng của cậu ta cũng đáng. Ôi, cậu ta đã rất tức giận!’
Thợ săn đêm gừ nhẹ cảnh cáo và co vuốt lại lần nữa.
Đau, Eragon nói. “Có lẽ tốt hơn chúng ta nên chuyển đề tài.”
“Ừm.”
Trước khi nó nghĩ ra một câu hỏi mới, một tiếng thét lớn vang lên từ trong khu trại. Tiếng thét vang lên ba lần trước khi tất cả rơi vào im lặng.
Eragon nhìn Angela và bà nhìn nó rồi cả hai bật cười.
 
15. NGHE NGÓNG VÀ VIẾT LÁCH


Eragon đang trên đường về lều thì nghe giọng Saphira, Muộn rồi đấy.Cô nàng đang nằm cuộn tròn trước lều nó, dưới ánh đuối mờ mờ trông nó như một núi than xanh. Cô nàng nhìn nó bằng một mắt lờ đà lờ đờ.
Nó xoa đầu và cụng đầu cô rồng trông một lát. Ừ, cuối cùng nó nói.Và em cũng nghỉ ngơi sau chuyến bay cả ngày nay. Ngủ đi, mai gặp lại em.
Cô rồng chớp mắt ra vẻ hiểu.
Eragon vào trong lều, thắp một ngọn nến duy nhất. Sau đó nó cởi giày và ngồi lên võng chân khoanh lại. Nó từ từ hít thở và để đầu óc mở rộng, vươn ra chạm vào tất cả những sự sống xung quanh, từ sâu bọ bên dưới chỗ Saphira nằm tới những chiến binh Varden và thậm chí cả vài cây còn lại xung quanh khu vực. Năng lượng phát ra từ cây cối mờ nhạt và khó nhìn nếu so sánh với nguồn sáng rực rỡ phát ra từ những sinh vật nhỏ bé nhất.
Nó ngồi đó một lúc lâu, để cho đầu óc trống rỗng. Nó biết tới hàng ngàn những cảm xúc khác nhau, dù rõ nét hay mờ nhạt. Nó không tập trung vào thứ gì ngoại trừ hít thở đều đặn.
Từ đằng xa, nó nghe tiếng những người đàn ông nói chuyện phiếm quanh đống lửa. Không khí ban đêm mang tiếng nói của họ đi xa hơn ý định, đủ xa để khiến những đôi tai thính nghe rõ từng từ. Nó có thể cảm nhận trí óc họ, đọc được ý nghĩ nếu nó muốn, nhưng nó chọn tôn trọng quyền riêng tư và chỉ nghe họ nói chuyện.
Người đàn ông giọng trầm nói, “...cái cách họ nhìn mày ấy, như thể mày là đáy của đáy xã hội rồi. Họ hầu như có thèm nói chuyện với mày khi mày hỏi họ đâu. Họ chỉ quay người bước đi mất thôi.”
“Ừ,” người kia nói. “Và phụ nữ của họ - xinh đẹp như tượng và quyến rũ.”
“Đó là lý do vì sao mày là một thằng khốn xấu xí đúng nghĩa đó, Svern. Đấy là lý do đấy.”
“Chuyện bố tao đi tới đâu là tán gái tới đó không phải lỗi của tao. Hơn nữa, mày làm gì có quyền đứng đó mà nhận xét này nọ; mặt mũi mày đủ khiến lũ trẻ gặp ác mộng rồi.”
Chiến binh giọng trầm càu nhàu; sau đó một ai đó ho húng hắng và Eragon nghe tiếng xì xì như khi củi cháy gặp chỗ ẩm.
Người thứ ba bước vào cuộc nói chuyện: “Tao không thích tụi tiên hơn gì bọn mày, nhưng chúng ta cần có họ mới thắng được.”
“Nhưng nếu sau đó họ quay lưng với chúng ta thì sao?” người giọng trầm hỏi.
“Nghe đi,” Svern nói thêm. “Nhìn chuyện gì đã xảy ra ở Ceunon và Gil’ead. Với toàn bộ quân đội và quyền năng mà Galbatorix cũng không thể chặn nổi họ vượt qua thành lũy.”
“Có thể vì lão ta không thử,” người thứ ba đưa ra giả thiết.
Một hồi im lặng kéo dài.
Sau đó người giọng trầm cất tiếng, “Giờ tôi chỉ có duy một suy nghĩ không vui... Dù lão có hay không thử, tôi không nghĩ chúng ta có thể làm gì họ nếu họ muốn đòi quyền sở hữu vũng đất củ của mình. Họ nhanh hơn và mạnh hơn chúng ta, và không giống như chúng ta, tất cả đều biết dùng phép.”
“Nhưng chúng ta có Eragon,” Svern phản đối. “Ngài ấy có thể đẩy họ về rừng nếu muốn.”
“Ngài ấy á? Ngài ấy giống tiên hơn loài người. Tao không tin vào lòng trung thành của ngài ấy hơn lũ Urgal.”
Người thứ ba lại nói: “Bọn mày có để ý không, ngài ấy lúc nào cũng mày râu nhẵn nhụi dù chúng ta nhổ trại sớm thế nào.”
“Chắc ngài ấy dùng phép thuật để cạo râu.”
“Đi ngược lại quy luật của tự nhiên. Giờ phép thuật cứ xẹt qua xẹt lại suốt ngày. Các pháp sư đâu cần chúng ta mà vẫn giết được kẻ thù cơ mà.”
“Nhưng mày đâu có kêu ca gì khi thầy thuốc dùng phép thuật trị thương thay vì dùng kẹp nhổ mũi tên ra khỏi vai mày nhỉ.”
“Có thể, nhưng nếu không có Galbatorix tao đâu có dính tên vào vai. Chính lão và phép thuật của lão là căn nguyên cho tất cả mớ hổ lốn sau này.”
Ai đó khịt mũi. “Đúng, nhưng tao thề, dù có Galbatorix hay không, đời mày kiểu gì chẳng lãnh tên một lần. Mày không làm được gì ngoài đánh nhau đâu.”
“Mày biết là Eragon đã cứu mạng tao hồi ở Feinster,” Svern nói.
“Đúng, và nếu mày còn lải nhải chuyện đó lần nữa, tao sẽ cho mày cọ nồi cả tuần.”
“Ờ, ngài ấy đã....”
Lại một hồi im lặng nữa. Nó chỉ bị phá vỡ sau tiếng thở dài của người chiến binh giọng trầm. “Chúng ta cần tìm cách tự bảo vệ mình. Đây là vấn đề. Chúng ta được thần tiên, pháp sư – của ta và của họ - che chở và sống nhờ các sinh vật khác trên mảnh đất này thương tình mới sống nổi. Những người như Eragon luôn sống ổn nhưng chúng ta không máy mắn như ngài ấy. Cái chúng ta cần là ...”
“Cái chúng ta cần,” Svern nói, “là các Kỵ sĩ rồng. Họ đưa thế giới về đúng trật tự.”
“Xì. Với con rồng nào? Mày không thể trở thành kỵ sĩ mà không có rồng. Hơn nữa, chúng ta vẫn không thể tự bảo vệ mình và điều đó khiến tao lo. Tao không còn là đứa bé trốn dưới váy mẹ, nhưng nếu Tà thần xuất hiện trong đêm, chúng ta chẳng thể làm gì ngoài đưa đầu cho hắn chém.”
“Nói mới nhớ, mày có nghe gì về Lãnh chúa Barst không?” người thứ ba hỏi.
Svern lẩm bẩm đồng ý. “Tao nghe nói về sau ông ấy ăn tim mình.”
“Cái gì nữa đây?” chiến binh giọng trầm nói.
“Barst...”
“Barst?”
“Mày biết đó, bá tước vùng Gil’ead.”
“Không phải là người phi ngựa tới Rảm chỉ để chọc giận...”
“Đúng người đó đó. Lão ta đã vào ngôi làng này và yêu cầu trai tráng nhập ngũ cho Galbatorix. Chỉ có điều, họ không đồng ý và tấn công lại Barst và binh sĩ của lão.”
“Dũng cảm,” người giọng trầm nói. “Ngu nhưng dũng cảm.”
“Ờm, Barst lại quá thông minh so với họ; lão cho cung thủ bao quanh làng trước khi tiến vào. Những binh sĩ đã giết một nửa trai tráng và những người còn lại cũng hấp hối. Không có gì bất ngờ. Sau đó Barst bắt sống trưởng làng, người khởi nguồn cuộc đấu tranh rồi dùng tay bẻ cổ ông ấy và vặt đầu ông ấy.”
“Không.”
“Như vặt đầu gà. Tệ hơn, lão ra lệnh thiêu sống người thân của ông ấy.”
“Barst phải khỏe ngang Urgal,” Svern nói.
“Có thể lão có mánh khóe gì đó.”
“Hay là dùng pháp thuật?” người giọng trầm nói.
“Nhưng theo những gì chúng ta biết, lão có sức mạnh – và cáo già nữa. Người ta kể, khi còn trẻ hắn chỉ một đòn đấm giết chết bò rồi.”
“Tao nghe vẫn thấy có hơi hướm phép thuật quanh đây.”
“Đó là vì lúc nào mày cũng thấy pháp sư xấu ẩn nấp trong bóng tối thôi.”
Người giọng trầm làu nhàu nhưng không nói gì.

Sau đó, những người chiến binh tản ra để vào ca gác nên Eragon không nghe được thêm gì. Trong lúc khác, cuộc nói chuyện của họ sẽ khiến nó không vui, nhưng vì đang suy tưởng nên nó vẫn bình tĩnh. Nhưng mặt khác nó cố nhớ những gì họ nói để sau này có dịp suy ngẫm.
Sau khi suy nghĩ đã đi đúng trật tự, nó cảm thây bình tĩnh và thư thái. Eragon đóng đầu óc lại, mở mắt và duỗi chân cho khỏi tê.
Nó nhìn chằm chằm ánh lửa chập chờn trong một phút, bị mê hoặc bởi ánh lửa nhảy nhót.
Sau đó nó tới chỗ đặt túi yên cương và lấy bút lông ngỗng, lọ mực, giấy da dê nó xin Jeod vài ngày trước, cùng bản sao cuốn Domia abr Wyrda mà một học giả già đưa cho nó.
Eragon trở lại võng, đẩy cuốn sách nặng sang bên để không vẩy mực lên đó. Nó đặt khiên dưới đầu gốc như đặt một cái khay và trải tờ giấy da dê trên bề mặt cong võng. Nó ngửi thấy mùi ta nanh thơm sắc khi mở nắp lọ mực và nhúng bút lông ngỗng vào.
Nó gạt đầu bút lông vào miệng lo để tránh mực tràn rồi cẩn thận đặt nét bút đầu tiên. Tiếng bút lạo xạo trên giấy khi nó viết những con chứ bằng ngôn ngữ loài người. Khi nó viết xong, nó so sánh bản này và bản hôm qua để xem liệu chữ viết của nó có tiến bộ - chỉ một chút – và so sánh với chữ trong cuốn Domia abr Wyrda nó dùng làm sách mẫu.
Nó nhìn bảng chữ cái thêm ba lần nữa, đặc biệt để ý tới những con chứ khó viết nhất. Sau đó nó bắt đầu viết những suy nghĩ và những quan sát trong ngày. Bài tập này không chỉ hữu ích vì giúp nó luyện chữ mà còn hiểu những thứ nó nhìn và làm trong ngày tường tận hơn.
Nó cần cù viết vì nó thấy được sự hứng thú từ thử thách tính kiên nhẫn này. Luyện chữ khiến nó nhớ tới ông Brom, về cách người kể chuyện già dạy nó ý nghĩa từng con chữ, giúp nó cảm nhận sự gần gũi của người cha đã xa cách nó.
Sau khi viết mọi thứ nó muốn, nó rửa sạch bút lông ngỗng và chuyển sang bút lông và chọn một tờ giấy một nửa đã chi chít những con chữ tượng hình của ngôn ngữ cổ xưa.
Bắt khó bắt chước kiểu chữ Liduen Kvaedhí của thần tiên khó hơn là viết chữ của loài người do chữ tượng hình tượng trưng cho các hình dạng trong đời sống. Nhưng nó vẫn học viết vì hai lý do: nó cần biết mặt chữ. Và nếu như nó viết cái gì bằng ngôn ngữ cổ, nó nghĩ mình nên viết lại bằng kiểu chữ hầu hết loài người không đọc được.
TRí nhớ của Eragon rất tốt, nhưng dù thế đi chăng nữa, nó đã bắt đâu quên những câu thần chú ông Brom và thầy Oromis đã từng dạy nó. Vì thế nó quyết định tạo ra một cuốn từ điển tất cả những từ nó biết bằng ngôn ngữ cổ. Lúc đầu nó cũng không thấy được tầm quan trọng của bản tóm tắt này cho tới gần đây.
Nó viết từ điển trong vài tiếng nữa sau đó bỏ bút mực vào túi yên cương và lấy ra hộp đựng trái tim ông rồng Glaedr. Nó cố gắng đánh thức ông rồng già như đã làm nhiều lần trước đó nhưng kết quả vẫn như cũ. Eragon không chịu từ bỏ. Nó ngồi cạnh chiếc hộp đã mở, đọc to cho Glaedr nghe về những nghi thức, lễ hội của người lùn viết trong cuốnDomia abr Wyrda – Eragon biết một vài – cho tới lúc đêm đã lạnh nhất và tối nhất.
Sau đó, Eragon đặt cuốn sách sang một bên, thổi tắt nến và nằm xuống võng ngủ. Nó lơ mở ngủ một lúc. Ngay khi ánh sáng đầu tiên xuất hiện ở đằng đông, nó ngồi thẳng dậy bắt đầu một ngày mới.
 
16. AROUGHS
Gần trưa đội của Roran tới khu lều cạnh đường. Những căn lều trông xám xịt và khó phân biệt vì lúc này sự mệt mỏi của Roran đã giăng mây che tầm nhìn cuae anh. Cách đó 1 dặm về phía nam là thành phố Aroughs nhưng anh chỉ nhận ra những đặc trưng cơ bản nhất của một thành phố: tường trắng như bang, cổng thành rộng lớn đóng im ỉm và những tòa tháp xây bằng đá vuông.
Anh nhảy khỏi ngựa khi đoàn người tới trại. Những con ngựa gần như ngã quỵ. Một thanh niên gầy nhẳng chạy tới chỗ anh và nắm lấy cương kéo cho tới khi con vật dừng hẳn.
Roran cúi xuống nhìn cậu nhóc và chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Một lúc lâu sau anh mới nói được một câu gọn lỏn, “Đưa tôi tới gặp Brigman.”
Thằng nhóc không nói tới một lời thằng nhỏ xoay người bước đi, để lại lớp bụi bay mù dưới gót chân trần.
Roran cảm thấy như anh phải ngồi đợi hơn một tiếng đồng hồ. Con ngựa thở hổn hển đứt đoạn còn anh chảy máu tai. Khi anh nhìn xuống đất, dường như máu vẫn tiếp tục chảy thành dòng. Từ đâu đó vang lên tiếng thúc ngựa.Tầm mười hai chiến binh tụ tập gần đó, chống lên giáo và khiên, vẻ mặt thể hiện nét tò mò.
Từ đằng xa một người đàn ông vai rộng mặc áo trấn thủ xanh lơ đi khập khiễng về phía Roran, sử dụng một cây giáo gẫy thay cho gậy chống. Ông để râu xồm xoàm dù ria cạo sạch và lấm tấm mồ hôi – Roran không biết vì ông đang thấy đau hay do nóng.
“Anh là Cây Búa Dũng Mãnh?” ông hỏi.
Roran ừm nhẹ một tiếng xác nhận. Anh thả tay đang cầm cương, cho vào trong áo và đưa cho Brigman một phong thư da dê có lệnh của Nasuada.
Brigman bóc niêm phong. Ông đọc một hồi rồi hạ lá thư xuống và nhìn Roran không biểu cảm.
“Chúng tôi đang đợi anh,” ông nói. “Một trong những thầy bùa thân cận của Nasuada đã liên lạc với tôi từ bốn ngày trước và nói anh đã đi, nhưng tôi không nghĩ anh sẽ tới sớm thế này.”
“Không dễ dàng gì,” Roran nói.
Môi trên của Brigman cong lên. “Tôi chắc chắn vậy thưa...ngài.” Ông đưa tấm da dê lại cho Roran. “Binh sĩ ở đây sẽ nghe lệnh ngài thưa Cây Búa Dũng Mãnh. Chúng tôi chuẩn bị tấn công cổng tây. Có thể ngài muốn chỉ huy chăng?” Câu hỏi sắc nhọn như một mũi dao.
Thế giới xung quanh Roran dường như nghiêng nghả và anh cầm chắc cương hơn. Anh quá mệt không thể tán dóc với ai nữa rồi.
“Ra lệnh cho họ nghỉ một ngày,” anh nói.
“Ngài có còn minh mẫn không? Ngài làm thế nào để chiếm thành vậy? Chúng tôi phải mất cả buổi sáng để chuẩn bị tấn công và tôi sẽ không ăn không ngồi rồi chờ ngài ngủ đâu. Nasuada mong chúng tôi chiếm thành trong vài ngày và, vì Angvard, tôi sẽ làm được điều đó!”
Roran gầm nhẹ chỉ mình Brigman nghe thấy, “Ra lệnh cho binh sĩ rút lui, không tôi sẽ đánh ông què cẳng vì bất tuân quân lệnh. Tôi sẽ không cho phép bất kỳ cuộc tấn công nào diễn ra cho tới khi tôi nghỉ ngơi và quan sát tình hình.”
“Ngài thật là ngu ngốc. Điều này có thể...”
“Nếu ông không câm miệng và làm nhiệm vụ của mình đi, tôi sẽ tự tay đập ông một trận – ngay đây và ngay lúc này.”
Cánh mũi Brigman phập phồng. “Trong tình trạng này sao? Ngài không có cơ hội đâu.”
“Sai rồi,” Roran nói. Và anh nói thật. Anh không chắc mình sẽ đánh bại Brigman bằng cách nào nhưng anh biết anh có thể.
Brigman có vẻ đang đấu tranh tư tưởng ghê gớm. “Vâng,” ông quát lên. “Tốt hơn hết là không nên để cho quân sĩ thấy nội bộ tướng lĩnh lục đục. Chúng tôi sẽ ở nguyên vị trí nếu đó là điều ngài muốn, nhưng tôi không chịu trách nhiệm vì bỏ lỡ thời cơ. Đó là trách nhiệm của ngài.”
“Tất nhiên rồi,” Roran nói, cổ họng bỏng rát vì đau. “Cũng như ông phải chịu trách nhiệm vì những tổn thất ông đã gây cho cuộc vây thành lần này.”
Mắt Brigman tối lại và Roran có thể thấy ông tướng đã chuyển từ không thích anh sang thù ghét. Anh ước gì anh đã phản ứng nhã nhặn hơn.
“Lều của ngài ở đằng này.”
Sáng hôm sau Roran tỉnh giấc.
Ánh sáng mờ mờ chiếu vào lều khiến anh lên tinh thần. Trong một lúc, anh nghĩ anh chỉ ngủ có vài phút. Nhưng rồi anh nhận ra đầu óc anh đã sáng suốt và tỉnh táo hơn nhiều.
Anh tự rủa thầm, tức giận vì để lỡ cả ngày.
Anh đắp một tấm chăn mỏng, thực sự không cần thiết cho thời tiết phương nam dễ chịu, đặc biệt là khi anh vẫn đeo giầy và mặc quần áo. Anh bỏ chăn sang bên rồi ngồi thẳng dậy.
Anh rên lên một tiếng vì toàn bộ cơ thể anh như căng cứng và gẫy vụn. Anh nằm xuống thở hổn hển. Cú choáng ban đầu nhanh chóng tan đi chỉ để lại những cơn đau ê ẩm.
Anh mất vài phút mới tập trung toàn bộ sức lực lăn sang một bên và bỏ chân xuống võng. Anh dừng lại thở trước khi cố sức đứng lên.
Khi đã đứng được lên anh cười chua sót. Hôm nay sẽ là một ngày thú vị đây.
Khi anh ra khỏi lều những người khác đã dậy và đang đứng đợi anh. Trông họ tơi tả và thảm hại: họ cử động cà nhắc như anh. Sau khi chào hỏi, Roran chỉ về tấm vải băng cánh tay Delwin, băng vết thương một người chủ quán rượu chém vào. “Đỡ đau chưa?”
Delwin nhún vai. “Không tệ lắm. Nếu cần tôi vẫn đấm đá được.”
“Tốt.”
“Anh định làm gì tiếp theo đây?” Carn hỏi.
Roran nhìn mặt trời đang mọc, tính toán còn bao lâu sẽ tới trưa. “Đi bộ chút đã,” anh nói.
Roran dẫn những người bạn đồng hành đi từ trung tâm khu trại dọc ngang các dãy lều, xem xét tình hình quân binh cũng như quân dụng. Thi thoảng, anh dừng lại hỏi han một binh sĩ trước khi đi tiếp. Hầu như các chiến binh đều mệt mỏi và nản lòng, dù anh để ý thấy tinh thần có có phấn chấn đôi chút khi nhìn thấy anh.
Cuộc đi dạo của Roran kết thúc ở góc phía nam trại như anh đã dự định từ đầu. Anh và những người khác dừng lại nhìn về thành phố Aroughs.
Thành phố được chia thành hai khu. Khu thứ nhất thấp và trải dài gồm những tòa nhà quan trọng trong khi khu thứ hai, nhỏ hơn chủ yếu là những khu nhà cao, thiết kế trang nhã. Bức tường thành bao quanh cả hai khu. Từ ngoài nhìn vào có thể thấy rõ năm cổng thành: hai cổng lớn dẫn đường vào thành phố: một phía bắc và một phía đông – ba cổng còn lại nằm cạnh con kênh chảy từ phía nam vào thành phố. Ở bên kia Aroughs là con sống sóng vỗ rầm rì, nơi con kênh chảy ra.
Ít nhất họ không có tường hào, anh nghĩ.
Những vết thủng lỗ chỗ trên cổng bắc là vết tích của chiến tranh. Trên mặt đất cũng hằn những dấu vết của trận chiến. Anh nhận ra ba vết đạn từ máy bắn ta và bốn vết từ cẩu đá nhờ hồi thuộc đội Cánh Rồng, hai tòa tháp xiêu vẹo ở đằng sau tường thành. Vài binh sĩ đang ngồi chổm hỗm bên cạnh các cỗ máy chiến tranh hút thuốc hoặc chơi xúc xắc trên vài tấm da. Những cỗ máy có vẻ trông nhỏ bé tới tội nghiệp so với thành phố rộng lớn này.
Thành phố Aroughs thấp, bằng phẳng đổ thoai thoải ra biển. Hàng trăm trang trại điểm xuyết trên đồng bằng xanh rì, được đánh dấu bằng những hàng rào gỗ và ít nhất một túp lều lợp rạ. Những dinh thự xa hoa nằm đây đó: những trang viên xây bằng đá được bảo vệ bởi những bức tường cao và những người bảo vệ. Chắc chắn chúng là tài sản của giới quý tộc Aroughs và có thể là của những thương nhân làm ăn phát đạt.
“Anh nghĩ gì?” anh hỏi Carn.
Pháp sư lắc đầu, đôi mắt cụp của anh trông buồn hơn bình thường. “Chúng ta sẽ mất rất nhiều binh lính mới chiếm nổi thôi.”
“Chắc rồi,” Brigman nhận xét khi tiến tới chỗ họ.
Roran không nói ra những nhận xét của minhfl anh không muốn những người khác biết anh đang nản lòng vô cùng. Nasuada bị điên nếu tin rằng chúng ta có thể chiếm Aroughs chỉ với tám trăm binh lính. Nếu mình có tám ngàn quân cùng sự hỗ trợ của Eragon và Saphira thì còn có nhẽ. Nhưng đằng này...”
Nhưng anh biết anh phải tìm ra cách, vì tương lai của Katrina.
Roran không nhìn Brigman và nói. “Nói cho tôi nghe về Aroghs.”
Brigman xoay ngọn giáo vài lần, thân giáo xoay vài lỗ trên mặt đất, rồi nói. “Galbatorix đã tính toán từ trước; hắn đã cho dữ trữ lương thực đầy đủ trong thành phố trước khi chúng ta cắt đường chi viện từ đây với Triều đình. Ngài có thể thấy rằng họ không thiếu nguồn nước. Nếu chúng ta ngăn sông, họ còn có vài con suối và giếng trong thành phố. Họ có thể giữ thành cho tới mùa, thậm chí còn lâu hơn, dù tôi nghi họ không thể nào không ốm lên vì ăn củ cải suốt. Ngoài ra, Galbatorix còn điều số lượng lớn binh sĩ tới đây – gấp đôi số lượng quân của chúng ta – bổ sung cho binh sĩ trong thành.”
“Sao ông biết?”
“Nội gián. Nhưng cậu ta không biết về binh pháp nên đã cung cấp quá nhiều đánh giá chủ quan về những điểm yếu của Aroughs.”
“Ờ.”
“Cậu ta cũng đã khẳng định rằng cậu ta sẽ giúp đưa một lượng nhỏ quân chúng ta vào trong thành nhân lúc đêm tối.”
“Rồi?”
“Chúng tôi đã đợi nhưng cậu ta không xuất hiện và chúng tôi thấy cậu ta bị bêu đầu vào sáng hôm sau. Giờ vẫn còn treo ở cổng đông đó.”
“Thì ra là vậy. Ngoài năm cổng này ra còn cổng nào không?”
“Có ba cổng nữa. Ở gần bến cảng có một cổng dẫn nước lớn đủ cho ba dòng chảy đi vào cùng lúc và gần đó là một cổng trên đất liền cho người và ngựa. Ngoài ra còn một cổng trên đất liền ở đầu kia” – ông ta chỉ về phía tây thành phố - “giống những cổng khác.”
“Có thể bắn phá được cổng nào không.”
“Không nhanh được. Bờ biển quá hẹp khiến chúng tôi không thể bày bố quân hoặc tránh tên và đá của quân đội trong thành. Vì thế chúng tôi không thể tấn công các cổng gần biển cũng như là cổng tây. Vùng đất xung quanh thành bị chia cắt vì sông suối quá nhiều cho nên cũng khá nhỏ hẹp, vì vậy tôi đã quyết định tập trung mũi tấn công vào cổng gần nhất.”
“Cổng làm bằng gì?”
“Sắt và gỗ sồi. Chúng còn trụ vững hàng trăm năm nữa nếu không bị phá dỡ.”
“Chúng có được bảo vệ bởi phép thuật không?”
“Tôi không rõ vì tiểu thư Nasuada không gửi pháp sư cho chúng tôi. Halstead có...”
“Halstead?”
“Lãnh chúa Halstead của thành Aroughs. Chắc ngài từng nghe thấy rồi chứ.”
“Chưa.”
Một quãng im lặng ngắn khiến Roran có thể cảm nhận sự khinh miệt của Brigman dành cho anh đang lớn dần. Sau đó người đàn ông đó nói tiếp, “Halstead có riêng một pháp sư phục tùng: một kẻ xấu tính, da vàng vọt chúng tôi đã có dịp nhìn thấy trên tường thành cố hất ngã chúng tôi xuống bằng phép thuật. Hắn có vẻ không giỏi gì cho cam, trừ chuyện hắn đã thiêu cháy hai người tôi bố trí dùng gỗ phá cổng thành.”
Roran liếc mắt nhìn Carn – pháp sư tỏ ra lo lắng hơn trước – nhưng anh quyết định sẽ thảo luận vấn đề này với nhau sau.
“Công thành qua đường kênh có dễ hơn không?” anh hỏi.
“THế chúng ta sẽ đứng ở đâu? Thành phố kề sát kênh cơ mà. Hơn nữa đi qua lối đó khác nào đưa đầu có chúng giết, chúng có thể đổ dầu nóng, ném đá, hoặc bắn hỏa tiễn vào bất cứ tên ngu nào đi qua lối đó.”
“Cánh cổng không thể nào bịt kín được, phải có lối cho nước lưu thông chứ.”
“Đúng. Bên đưới có hàng lưới mắt cáo bằng gỗ và sắt để dòng chảy không quá mạnh.”
“Hiểu. Vậy là hầu hết thời gian, kể cả khi không bị tấn công, Aroughs đều hạ thấp cổng đúng không?”
“Đêm thì chắc, nhưng tôi tin ban ngày cổng đó sẽ mở.
“Ừm. Các bức tường xây từ gì?”
“Đá hoa cương, bề mặt cực kỳ trơn nhẵn và khít không thể lách nổi một lưỡi dao. Tôi đoán đây là tác phẩm của người lùn trước thời kỳ thoái trào của Kỵ sĩ Rồng. Tôi đoán lớp bên trong tường được trộn đá cuôi. Nhưng tôi không dám khẳng định vì chúng ta chưa làm xây sất nổi lớp vỏ ngoài. Chân tường sâu tới hơn 12 mét nên chúng ta sẽ không thể đào hầm để làm yếu móng tường hoặc đánh sập tường.”
Brigman bước thêm một bước và chỉ về những thái ấp ở phía nam và phía tây. “Hầu hết giới quý tộc đều lui vào Aroughs để lại tùy tùng bảo vệ tài sản. Họ gây rắc rối cho chúng ta, tấn công quân trinh sát, trộm ngựa...Chúng ta đã chiếm được hai thái ấp...” – ông ta chỉ hai kho thóc lớn đang cháy cách đó vài dăm – “nhưng giữ lại chúng còn phiền hơn vì thế chúng tôi đã đốt bỏ. Không may, chúng tôi không có đủ người để bảo vệ phần còn lại.”
Baldor nói. “Vì sao các kênh lại chạy vào Aroughs nhỉ? Hình như họ không dùng nó làm hệ thống mương tưới tiêu thì phải.”
“Ở vùng này không cần tưới nước như người miền bắc không cần xe trượt tuyết trong mùa đông vậy.”
“Thế mục đích là gì?” Roran thắc mắc. “Nguồn nước bắt đầu từ đâu? Ông đừng mong tôi tin nhưng con kênh này rẽ nhánh từ sông Jiet nhé, quá xa.”
“Không,” Brigman chế giễu. “Có một số hồ nước ở mạn bắc. Nước lợ và bẩn nhưng dân ở đây quen rồi. Một con sông bắt nguồn từ đó, chia làm ba nhánh sông nhỏ chảy tới đây vào các đập tạo năng lượng giúp xay bột cung ứng cho thành phố. Nông dân chở lúa mỳ tới các khu xay sát vào vụ mùa rồi chất các thúng bột lên sà lan chở vào thành phố. Dân cư ở đây cùng lợi dụng đường sông để chuyên chở hàng hóa như gỗ xẻ và rượu từ các trang ấp vào thành phố.”
Roran gãi gãi cổ khi tiếp tục quan sát Aroughs. Những gì Brigman vừa nói đã khiến anh nảy ra một ý nhưng chưa rõ nó có khả thi không. “Còn điểm gì đặc biệt ở khu ngoại vi không?”
“Đi dọc bờ biển về phương nam có một mỏ đá phiến.”
Anh gầm gừ trong khi suy ngẫm. “Tôi muốn tới xem khu xay sát,” anh nói. “Nhưng trước hết tôi muốn nghe toàn bộ tình hình từ ông.”
“Mời đi theo tôi thưa Cây búa Dũng mãnh.”

Trong cả một tiếng đồng hồ sau đó Roran thảo luận với Roran và hai phó tướng, nghe và hỏi về những lần công thành hay biết mỗi binh lính còn bao nhiêu lương thực.
Ít ra chúng ta không thiếu vũ khí, Roran nghĩ khi biết số tử sĩ. Kể cả nếu Nasuada không giới hạn thời gian nhiệm vụ cho anh thì người và ngựa cũng không có đủ lương thực mà sống trong hơn một tuần nữa.
Rất nhiều sự kiện và con số Brigman và các phó tướng đề cập tới được viết trên giấy. Roran không nói ra chuyện mình không thể đọc nổi những con chữ đen đen loằng ngoằng nên buộc những người kia đọc lên cho nghe. Dù vậy anh cũng tức vì phụ thuộc vào người khác. Nasuada nói đúng, mình phải học đọc vì nếu không mình không thể biết người kia có nói dối mình không khi đọc gì đó cho mình... Có lẽ khi về Varden Carn có thể dạy mình.
Roran càng biết nhiều về Aroughs, anh càng thấy thông cảm cho những khó khăn của Brigman; vô phương chiếm thành. Dù anh không thích người đàn ông này nhưng anh nghĩ vị tướng đã làm hết sức có thể. Roran tin ông ấy thất bại không phải vì không đủ năng lực mà vì ông ấy thiếu hai yếu tố hết lần này tới lần khác mang lại thắng lợi cho Roran: sự liều lĩnh và óc tưởng tượng.
Sau khi xem xét tình hình xong, Roran và năm người đồng hành cùng Brigman đi quan sát tường thành Aroughs ở khoảng cách gần hơn nhưng đủ xa để giữ an toàn. Lên lưng ngựa lần nữa lại khiến Roran đau nhưng anh không hề kêu lấy một tiếng.
Khi móng ngựa nện lên con đường rải đá đi tới thành phố ở gần khu trại, Roran để ý thi thoảng móng ngựa tạo ra những âm thanh khác thường. Anh nhớ đã nghe thấy âm thanh quen thuộc này trong ngày cuối chuyến đi.
Anh nhìn xuống và thấy những phiến đá phẳng hình như có màu bạc mờ, những mạch đá hình thành nên họa tiết hình mạng nhện khác thường.
Roran gọi lớn hỏi Brigman nhưng Brigman chỉ bảo “Vữa chất lượng kém nên họ dùng chì để trát đá.”
Lúc đầu Roran không tin nhưng Brigman rất nghiêm túc. Anh thấy ngạc nhiên vì người ở đây lại coi kim loại bình thường tới mức dùng để làm đường.
Họ cẩn trọng quan sát hàng phòng thủ của Aroughs nhưng chẳng phát hiện ra điều gì mới và càng khiến Roran tin vào chuyện không thể chiếm nổi thành phố.
Anh đi ngựa tới gần Carn. Pháp sư đang nhìn Aroughs vẻ thẫn thờ, môi chuyển động không thành tiếng như thể nói chuyện một mình. Roran đợi tới khi anh dừng lại mới hỏi, “Cổng thành có phủ phép thuật không?”
“Tôi nghĩ là có,” Carn trả lời. “nhưng tôi không chắc có bao nhiêu câu thần chú trên đó và dụng ý của từng cái là gì. Tôi cần thêm thời gian mới biết được.”
“Sao lại khó thế?”
“Không hẳn. Hầu hết các câu thần chú đều dễ phát hiện, trừ khi có ai cố giấu chúng. Nhưng kể cả thế, pháp thuật thường để lại những dấu vết nếu anh biết cách nhìn. Tôi chỉ sợ họ dùng thần chú này để khởi động thần chú khác, và nếu tôi tiếp cận chúng thì ai biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi có thể biến thành một vũng nước ngay trước mắt anh. Nếu có thể tôi sẽ tránh cái đinh mệnh đó.”
“Anh có muốn ở lại khi chúng tôi đi tiếp không?”
Carn lắc đầu. “Tôi không nghĩ nên để các anh đi mà không có sự bảo vệ. Tôi sẽ trở lạ sau khi mặt trời lặn và xem tôi có thể làm gì. Ngoài ra ở gần cổng thành sẽ giúp tôi hiểu mấy câu thần chú đó, nhưng giờ tôi không dám tới gần cổng thành khi mấy tay lính canh nhìn thấy tôi rõ rành rành thế này.”
“Được thôi.”
Khi Roran hài lòng rằng họ đã biết mọi thứ về thành phố, anh để Brigman dẫn tới khu xay sát gần nhất.
Khá giống những gì Brigman miêu tả. Nước từ kênh được dẫn tới những đập cao 20m. Ở chân đập có một guồng nước có gắn mấy cái thùng. Nước chảy vào thùng làm guồng quay tròn. Các guồng nước được nối vào ba tòa nhà giống y hệt nhau. Trong các tòa nhà là các cối đá cỡ lớn dùng để xay bột cung cấp đủ cho dân cư Aroughs.
Anh xuống ngựa ngay khi tới khu xay sát ở vị trí thấp nhất và đi men theo con đường giữa các tòa nhà, mắt nhìn kênh dẫn nước làm nhiệm vụ kiểm soát lượng nước lưu thông vào các con đập. Cửa kênh mở nhưng mực nước trong đập vẫn thấp hơn ba guồng nước đã từ từ chuyển động.
Anh dừng ở giữa đoạn đường thoai thoải, chôn chân trên bờ kênh ẩm ướt đầy cỏ, khoanh hai tay lại và cúi đầu chạm ngực khi suy tính cách chiếm thành. Anh tin mình sẽ có cách hoặc chiến thuật gì đó để lẻn vào thành, nhưng cách nào thì anh chưa rõ.
Nghĩ mãi tới mệt, anh dừng lại lắng nghe tiếng trục xoay cọt kẹt và tiếng thác nước đổ ầm ầm.
Những âm thanh đó êm ả nhưng lại gợi lên cho anh vết thương lòng. Anh nhớ tới xưởng xay bột của chú Dempton ở Therinsford nơi anh đã tới làm vào ngày tụi Ra’zac đốt nhà và tra tấn cha anh tới chết.
Roran cố quên ký ức không vui đó đi nhưng nó vẫn ở đó, vẫn làm anh đau quặn từng cơn.
Giá mình đi muộn vài giờ, mình đã có thể cứu cha rồi. Ngay lúc đó, phần thực tế trong con người Roran trả lời, Đúng, và Ra’zac có thể giết mình trước khi mình kịp giơ tay. Không có Eragon bảo vệ, mình chỉ như một đứa nhỏ sơ sinh, không hơn.
Baldor lặng lẽ bước tới gần anh. “Những người còn lại đang muốn biết anh đã có kế gì chưa?” anh ta hỏi.
“Tôi có vài ý tưởng nhưng chưa có kế hoạch. Anh sao?”
Baldor cũng khoanh tay lại. “Chúng ta có thể đợi Nasuada cho Eragon và Saphira tới giúp.”
“Xì.”
Trong một lúc lâu họ lẳng lặng nhìn dòng nước chảy lững lờ bên dươi. Sau đó Baldor nói, “Nếu anh yêu cầu chúng đầu hàng thì sao? Có thể chúng sẽ sợ hãi khi nghe tên anh, chúng sẽ tử mình mở cổng, quỳ dưới chân anh và xin anh tha chết.”
Roran tặc tặc lưỡi. “Tôi không nghĩ tên tuổi tôi có thể lan tới tận Aroughs này. Nhưng,” Anh gãi gãi râu. “Có lẽ cũng nên thử, để cho chúng hoang mang chút thôi.”
“Kể cả khi chúng ta mở được cổng thành thì sao chiến thắng được với số quân ít ỏi thế này?”
“Có thể thắng có thể thua.”
Họ lặng yên rồi Baldor lên tiếng, “Chúng ta đã đi một quãng đường rất dài.”
“Đúng.”
Lại một lần nữa không gian chỉ vang lên tiếng nước chảy và tiếng guồng quay. Cuối cùng vẫn là Baldor mở lời, “Chắc hẳn ở đây tuyết rơi không nhiều. Vì thế lượng nước do băng tan không lớn như ở quê hương chúng ta. Nếu không, vào lúc lập xuân, guồng sẽ ngập một nửa mất.”
Roran lắc đầu. “Chuyện lượng mưa hay lượng tuyết rơi nhiều hay ít không quan trọng. Cửa đập sẽ khống chế lượng nước chảy vào các guồng quay để đảm bảo tốc độ cho chúng.”
“Nhưng nếu nước dâng lên ngang cửa thì sao?”
“Hy vọng là không có ngày đó. Nếu không, anh buộc phải kéo xích mở cửa đập và thế là....” Roran nghĩ tới một loạt những hình ảnh, người anh thấy nóng lên như thể anh vừa nốc một hơi hết cả vại rượu mật ong.
Được không? Anh nghĩ. Liệu có thành công không... hay... Không sao, chúng ta phải thử. Chúng ta còn làm được gì nữa?”
Anh bước đi trên con đường hẹp trước cái đập ở giữa, kéo những thanh gỗ nhỏ chèn lên trục điều khiển cửa đập. Thanh điều khiển khá khó di chuyển dù anh chèn vai đẩy bằng hết sức.
“Giúp tôi đi,” Anh nói với Baldor đang đứng trên bờ kênh quan sát với vẻ hứng thú pha chút bối rối.
Baldor cẩn thận đi tới chỗ Roran đứng. Họ cùng nhau đóng cửa đập lại. Sau đó, Roran không chịu trả lời câu hỏi nào mà tiếp tục đóng nốt hai cửa đập còn lại.
Sau khi đã đóng chặt cả ba, Roran đi lại chỗ Carn, Brigman và những người khác rồi ra hiệu cho họ xuống ngựa ra chỗ anh. Anh vỗ lên đầu búa trong khi chờ đợi, đột nhiên cảm thấy mất kiên nhẫn.
“Sao?” Brigman hỏi sau khi họ đã tới nơi.
Roran nhìn từng người một để đảm bảo họ hoàn toàn chú ý tới anh rồi nói. “Phải rồi, đây là điều chúng ta sẽ làm...” – sau đó anh bắt đầu nói, nhanh và căng thẳng trong suốt nửa tiếng đồng hồ, giải thích từng điều anh nghĩ tới trong khoảng khắc thoáng qua đó. Khi anh nói, mọi người nghiêm túc hơn, nhưng Mandel đã bắt đầu nhoẻn cười, Baldor, Delwin và Hamund cũng có vẻ hứng thú với kế hoach táo bạo của anh.
Phản ứng của họ khiến Roran hài lòng. Anh đã làm nhiều chuyện để có được sự tín nhiệm từ họ và anh vui vì anh vẫn có thể tin tưởng họ. Trong đời, anh sợ nhất là mất Katrina, sau là làm những người chiến hữu thất vọng.
Nhưng có vẻ Carn còn hoài nghi. Điều này thì Roran đã đoán được nhưng anh chỉ không ngờ nỗi nghi ngờ này có khi ngang bằng với Brigman.
“Anh điên rồi,” ông ta hét lên khi Roran vừa nói xong. “Không thể nào thành công được.”
“Ông rút lại lời nói đó đi!” Mandel nói và nhảy lên phía trước, tay nắm thành quyền. “Vì sao à, Roran đã thắng nhiều trận chiến hơn ông, và anh ấy đâu cần nhiều quân lính như ông!”
Brigman rít lên, môi trên cong lên như một con rắn. “Đồ mất dạy! Tao sẽ dạy cho mày một bài học không thể nào quên!”
Roran đẩy Mandel lùi lại trước khi cậu trai trẻ tấn công Brigman. “Thôi nào!” Roran gầm lên. “Hai người xem lại cách hành xử đi!” Mandel cáu kỉnh ngừng lại nhưng vẫn nhìn Brigman trừng trừng. Brigman cũng hành động tương tự.
“Chắc chắn đây là một kế hoạch lạ lùng,” Delwin nói. “Nhưng những kế hoach kỳ lạ của anh đã giúp chúng ta chiến thắng trong quá khứ.” Những người làng Carvahall khác lên tiếng đồng tình.
Carn gật đầu nói. “Kế hoach có thể thành công có thể không. Tôi không chắc. Nhưng chắc chắn nó sẽ khiến kẻ thù của chúng ta ngạc nhiên và tôi phải thừa nhận rằng tôi tò mò muốn thấy chuyện gì sẽ xảy ra. Đây là việc vô tiền khoáng hậu.”
Roran cười rạng rỡ. Anh nhìn Brigman và nói, “Giờ chúng ta cần phải điện. Chúng ta chỉ có hai ngày rưỡi để chiếm Aroughs. Những biện pháp thông thường không có hiệu quả vậy chúng ta phải mạo hiểm bằng những kế hoạch bất bình thường.”
“Có thể thế,” Brigman nói nhỏ. “Nhưng đây là một kế hoạch liều lĩnh khiến chúng ta tổn thất binh sĩ và tôi không thể nào đồng tình.”
Nụ cười của Roran rộng hơn khi anh tiến tới chỉ cách Brigman vài centimet. “Ông không cần phải đồng ý với tôi; ông chỉ cần làm theo lệnh thôi. Giờ ông có nghe theo lệnh của tôi hay không?”
Không khí giữa họ nóng lên do hơi thở và nhiệt độ từ d.a thịt họ. Brigman nghiến răng và xoắn cây giáo mạnh hơn trước, nhưng ánh mắt dao động và ông ta lùi lại. “Quỷ tha ma bắt anh đi,” ông ta nói. “Tôi sẽ làm chó cho anh trong lúc này, Cây búa dũng mãnh ạ, nhưng anh cứ xem đi,anh sẽ phải trả giá cho quyết định của anh sớm thôi.”
Miễn là chúng ta chiếm được Aroughs, Rora nghĩ, tôi chẳng cần quan tâm. “Lên ngựa!” anh ra lệnh. “Chúng ta có việc cần làm và còn quá ít thời gian! Nhanh lên! Nhanh lên! Nhanh lên!”
 
17. DRAS- LEONA
Khi Eragon từ trên lưng Saphira nhìn thấy núi Helgrind ở chân trời phía bắc thì mặt trời đã lặn. Nó cảm thấy ghê tởm khi chiêm ngưỡng ngọn núi đã phóng vút lên từ mặt đất như một chiếc răng nhọn. Hầu hết các ký ức không vui của nó đều gắn liên với núi Helgrind. Nó ước có thể san bằng ngọn núi. Saphira có vẻ bàng quan với ngọn núi đen thẫm này hơn nhưng nó biết cô em nó cũng chẳng thích thú lởn vởn gần tý nào.
Khi đêm xuống, Helgrind đã khuất sau lưng chúng, trong khi Dras – Leona đã xuất hiện trước mặt, bên cạnh hồ Leona với hàng tá tàu thuyền cập bến. Thành phố rộng lớn vẫn san sát nhà cửa và không hiếu khách như trong trí nhớ của Eragon. Những con đường vẫn nhỏ hẹp, những căn nhà dơ dáy vẫn nằm sát những bức tường đắp bằng đất sét vàng bao quanh thành phố và đằng sau bức tường, nhà thờ lớn của Dras- Leona vươn lên den kịt. Đó là nơi những tu sĩ Helgrind tiến hành những nghi lễ man rợ.
Một dòng người tị nạn kéo nhau đi trên con đường phía bắc – họ chạy trốn khỏi thành phố sắp bị chiếm đóng tới Teirm hoặc Urû’baen, nơi ít nhất họ tạm thời tránh được sự xâm lăng của quân Varden.
Ngay từ lần đầu đặt chân tới Dras – Leona, Eragon đã cảm thấy sự xấu xa hiện diện trong thành phố, không như ở Feinster hay Belatona. Nó muốn dùng lửa và kiếm thiêu trụi phá hủy tất cả những nguồn năng lượng đen tối, bất thường nơi đây, muốn hưởng thú chuyện chém giết về để lại sau lưng không gì ngoài khỏi bụi và máu. Nó có chút đồng cảm với những người nghèo khổ, tàn tật và nô lệ bị giam h.ãm trong Dras – Leona. Nhưng nó hoàn toàn tin rằng thành phố cần hủy diệt và xây dựng lại nó không dính dáng gì tới giáo phái Helgrind mới là điều tốt nhất cho dân cư nơi đây.

Khi tưởng tượng ra cảnh nó cùng Saphira phá sập nhà thờ, nó bỗng phân vân không hiểu tôn giáo với những thầy tu tự hành xác này có một cái tên không. Tìm hiểu ngôn ngữ cổ đã dạy cho nó phải tôn trọng tầm quan trọng của những cái tên – tên ẩn chứa sức mạnh, tri thức – nếu nó không thực sự biết tên của tôn giáo Helgrind, nó sẽ không hoàn toàn hủy diệt nổi nó.

Trong ánh sáng vàng vọt, quân Varden cắm trại trên những cánh đồng đã canh tác ở bình nguyên phía đông nam Dras – Leona. Với vị thế này họ sẽ dễ dàng biết khi quân địch tấn công. NHững binh lính đã mệt mỏi sau cuộc hành trình dài nhưng Nasuada buộc họ phải tiếp tục cắm trại cũng như lắp ráp những công cụ phục vụ chiến tranh mà họ đang mang theo trong suốt hành trình từ Surda.

Eragon vui vẻ làm việc. Lúc đầu nó cùng một nhóm người đi san phẳng cánh đồng lúa mỳ và lúa mạch bằng những tấm ván ghép với nhau nhờ những dây thòng lọng dài. Cắt lúa bằng liềm hay pháp thuật có thể nhanh hơn nhưng những gốc rạ để lại sẽ gây nguy hiểm và khó chịu cho việc đi lại và đặc biệt là chuyện nghỉ ngơi. Vì vậy, những tấm ván ghép sẽ tạo nên một mặt phẳng mềm, đàn hồi như nệm và dù dù sao thà nằm trên ván ghép còn sướng hơn vạn lần nằm trên đất.

Eragon cùng làm việc với những binh sĩ khác trong khoảng một tiếng thì dọn đủ không gian cắm trại cho quân Varden.

Sau đó nó đi giúp mọi người dựng chòi canh. Sức mạnh phi thường của nó giúp nó di chuyển những xà rầm mà thường phải vài người mới làm nổi; như vậy tiến độ được đẩy nhanh hơn. Vài người lùn trong Varden đứng giám sát vì họ chính là tác giả thiết kế tháp canh.

Saphira cũng giúp. Cô nàng dùng răng và móng vuốt đào hào trong lòng đất và chất đất thành từng đống quanh khu trại chỉ trong vài phút trong khi cả trăm người phải lao động cả ngày. Và nhờ lửa và đuôi cô nàng đốn cây, dọn gọn các hàng rào, tường bao, nhà cửa và mọi thứ chung quanh khu trại Varden có thể bị kẻ thù lợi dụng. Làm bất cứ việc gì cô nàng cũng thể hiện bản thân là một tạo vật có sức hủy diệt ghê gớm đủ làm những con người dũng cảm nhất phải khiếp sợ.

Đến tôi muộn khi quân Varden mới dọn dẹp xong, Nasuada ra lệnh cho binh sĩ, người lùn và Urgal đi nghỉ.

Eragon chui vào lều ngồi thiền cho tới khi đầu óc thảnh thơi. Đó đã trở thành một thói quen với nó. Sau đó thay vì luyện thư pháp, nó dùng vài tiếng ôn lại những câu thần chú có thể cần trong những ngày tiếp theo cũng như tạo ra những câu chú mới khiến Dras – Leona thất điên bát đảo.

Khi nó cảm thấy đã sẵn sàng của trận chiến, nó lên gi.ường đi ngủ, mơ những giấc mơ kỳ lạ và hưng phấn hơn thường lệ, vì dù đã thiền nhưng trận chiến sắp tới khiến máu nó sôi oleen và không cho phép nó nghỉ ngơi. Như tường lệ, đối với nó chuyện chờ đợi trong mòn mỏi luôn là phần khó khăn nhất. Nó ước gì mình đang ở giữa tiền tuyến nơi nó không có thời gian lo xem chuyện gì sẽ xảy ra.

Saphira cũng không nghỉ nổi. Eragon đọc được những giấc mơ toàn là cắn xé của cô nàng. Thế là nó hiểu cô em nó mong tới trận chiến thế nào. Cảm xúc của cô rồng có ảnh hưởng nhất định tới nó, nhưng nó không thể nào hoàn toàn quên được nỗi sợ trong lòng.

Bình minh ngày mới tới rất nhanh và quân Varden đã dàn quân trước Dras – Leona. Cảnh tưởng vô cùng hùng vĩ nhưng sự ngưỡng mộ của Eragon bị giảm đi khi nó nhìn thấy những lưỡi kiếm cùn, mũ trụ móp và khiên mẻ của binh lính cũng như những áo trấn thủ và áo giáp chỉ sửa lại sơ sài. Nếu họ thành công chiếm Dras – Leona, họ sẽ có thể thay một số đồ đạc – như từng làm ở Belatona và Feinster – làm sao bổ sung thêm lực lượng được.

TRận chiến ở đây càng kéo dài, nó nói với Saphira, Galbatorix càng dễ đánh bại chúng ta khi chúng ta tới được Urû’baen.

Vậy chúng ta không được phép chậm trễ, cô nàng trả lời.

Eragon ngồi trên lưng Saphira, cạnh Nasuada lúc này đã mặc áo giáp và yên vị trên con ngựa đen – Thần sấm. Bảo vệ cho Eragon là mười hai tiên nhân còn theo sát Nasuada là mười hai người trong đội cận vệ Chim Ưng Đen – con số này đã tăng thêm sáu trong thời gian tham chiến. Những tiên nhân đứng – vì họ không đồng ý cưỡi lên những con ngựa không phải tự tay họ huấn luyện – trong khi tất cả các Chim Ưng Đen đều ngồi trên ngựa, kể cả Urgal. Cách đó mười mét về bên phải là vua Orrin và những binh lính do ông đích thân lựa chọn. Narheim, chỉ huy người lùn và Garzhvog đều đứng đúng vị trí cánh quân mình chỉ huy.

Sau khi gật đầu với nhau, Nasuada và Vua Orrin thúc ngựa tiến lên phía trước, vượt khỏi toàn binh Varden. Eragon dùng tay trái nắm chặt lấy ngọn giáo trước mặt khi Saphira đi theo hai người.

Nasuada và vua Orrin dừng lại trước khi vượt qua những tòa nhà xiêu vẹo. Họ thấy hai người đưa tin – một mặc đồ của Varden, một của Surda – đang trên con đường hẹp qua mê cung những căn nhà ổ chuột dẫn tới cổng nam Dras – Leona.

Eragon nhíu mày khi quan sát hai người. Thành phố dường như trống trải và im lặng một cách bất thường. Trong Dras – Leona không có lấy một bóng người, kể cả trên tường thành nơi đáng ra hàng trăm lính của Galbatorix phải đứng gác.

Không khí có mùi không hay, Saphira nói và gầm nho nhỏ thu hút sự chú ý của Nasuada.

Ở chân tường, người đưa tin của quân Varden nói lớn đến mức Eragon và Saphira từ đằng xa còn nghe rõ, “Này! Nhân danh tiểu thư Nasuada của Varden và Vua Orrin của Surda cũng như tất cả những con người tự do của Alagaësia, chúng tôi yêu cầu các người mở cửa để đưa tin tới cho các lãnh chúa và chủ nhân của các người, ngài Marcus Tábor. Như vậy, ông ấy sẽ cứu sống rất nhiều, rất nhiều đàn ông, phụ nữ và trẻ nhỏ trong Dras – Leona.

Từ đằng sau tường thành, một người không lộ mặt đáp lại: “Chúng tôi không mở. Đứng đó chuyển lời đi.”

“Anh đại diện cho lãnh chúa Tábor?”

“Đúng.”

“Vậy chúng tôi nên nhắc anh nhớ rằng những cuộc thảo luận của các chính khách nên diễn ra trong một căn phòng riêng tư hơn là nói ở nơi ai cũng có thể nghe được.”

“Tôi không phải nghe lệnh ngươi, đồ đầy tớ! Truyền thông điệp – nhanh! Không tôi mà mất kiên nhẫn thì ngươi sẽ thành nhím đó.”

Eragon bị ấn tượng: người đưa tin không hề hoang mang hay sợ hãi vì lời đe dọa. Anh ta vẫn tiếp tục không hề chần chừ: “Được thôi. Chỉ huy của chúng tôi mong nói chuyện với Lãnh chúa Tábor và tất cả dân thành Dras - Leona trong hòa bình và thân ái. Chúng tôi không có thù oán gì với các người, chỉ có Galbatorix và nếu được lựa chọn chúng tôi sẽ không đụng binh đao với các người. Không phải chúng ta đều là đồng bào ư? Rất người trong chúng tôi từng sống trong Đế chế, và chúng tôi rời đi chỉ vì ách thống trị hà khắc của Galbatorix. Chúng ta là đồng bào với nhau. Hãy gia nhập cùng chúng tôi và chúng ta sẽ cùng nhau giải phóng bản thân khỏi tên bạo chúa đang tại vị tại Urû’baen.

Nếu các người đồng ý, chúng tôi sẽ đảm bảo sự an toàn cho Lãnh chúa Tábor và gia đình ông ta cũng như những ai còn đang phục vụ Đế chế, mặc dù những ai đã thề lời hứa không thể phá vỡ với Galbatorix không thể giữ vị trí như cũ. Và nếu như vì lời thề mà các người không thể giúp chúng ta, ít nhất đừng cản trở chúng tôi. Mở cổng, hạ vũ khí và chúng tôi thề các người sẽ không bị tổn hại. Nhưng nếu cố ngăn chặn chúng tôi, chúng tôi giết các người chẳng khác gì cỏ dại, vì không ai có thể chịu nổi sự tấn công của quân đội chúng tôi, hay Khắc tinh tà thần Eragon và rồng Saphira.”

Khi nghe thấy tên mình, Saphira ngửng đầu gầm lớn.

Từ trên cổng thành, Eragon thấy một người cao lớn, mặc áo choàng bước lên thành, đứng giữa hai đoạn thành lũy chìa ra, ánh mắt liếc qua những người đưa tin và nhắm thẳng tới Saphira. Eragon nhíu mắt nhưng không thể nhìn ra khuôn mặt người kia. Bốn người mặc áo choàng đen khác bước tới và Eragon nhận ra họ là thầy tu Helgrind vì hình dáng dị dạng của chúng: một tên mất một cánh tay, hai tên mất một chân và tên cuối cùng mất cả một tay một chân và phải nhờ đồng đạo trợ giúp.

Người mặc áo choàng ngửa mặt len và cười man dại. Bên dưới hắn, người đưa tin cố lắm mới kiểm soát nổi ngựa khi chúng cứ cố lùi lại.

Bụng Eragon chùng xuống và nó nắm lấy cán thanh Brisingr chuẩn bị rút kiếm khi có biến.

“Không ai có thể sống khi vó ngựa các ngươi đi qua?” gã nói giọng vang đập vào các tòa nhà. “Tôi nghĩ các người đang đánh giá bản thân quá cao rồi đó.” Từ đằng sau, con rồng đỏ Thorn bay lên từ dưới một mái nhà, làm vỡ toang mái nhà gỗ bằng móng vuốt của nó. Con rồng xòe rộng đôi cánh khổng lồ, có móng vuốt ở đầu cánh, há mồm đỏ thẫm và khè ra lửa.

Murtagh – Eragon nhận ra hắn chín là Murtagh – nói bằng giọng chế giễu, “Cứ thử trèo lên thành xem; các người sẽ không bao giờ chiếm được Dras – Leona miễn là Thorn và ta còn ở đây. Hãy gửi tới những chiến binh và pháp sư giỏi nhất, và họ sẽ chết, từng người, từng người một. Ta thề đó. Không ai trong số các người giỏi hơn ta. Kể cả ngươi...Em trai. Hãy trốn đi trước khi quá muộn và cầu nguyện rằng Galbatorix sẽ không tự ra tay với ngươi. Nếu không, phần thưởng của ngươi chỉ có thể là cái chết và sự đau đớn mà thôi.
 
18. TUNG XƯƠNG
“Thưa ngài! Cổng mở rồi ạ!”

Roran ngẩng đầu lên từ tấm bản đồ anh đang nghiên cứu, nhìn người người lính gác chạy vào lều, mặt đỏ ửng và đồ mồ hôi.

“Cổng nào?” Roran hỏi với sự bình tĩnh chết người. “Nói rõ đi.” Anh đặt thước dây sang bên cạnh.

“Cổng gần nhất, thưa ngài... trên đường, không phải trên kênh.”

Roran rút búa ra khỏi thắt lưng, rời khỏi trại và chạy về phía nam khu trại. Anh đứng đó quan sát Aroughs. Anh nản lòng nhìn hàng trăm kỵ binh ùa ra từ trong thành phố, cờ hiệu tung bay trong gió trước khi cánh cổng đen xì khép lại.

Họ sẽ chém chúng ta thành từng mảnh mất, Roran tuyệt vọng nghĩ. Chỉ có một trăm năm mươi người còn trong trại, trong đó rất nhiều người bị thương không có khả năng chiến đấu. Phần còn lại vẫn còn ở khu xay sát anh tới thăm ngày hôm trước hoặc ở mỏ khai thác đá dọc bờ biển, hoặc trên bờ sông chính tây tìm những xà lan mà họ cần nếu muốn kế hoạch thành công. Giờ anh không kịp gọi viện binh về chống trả những kỵ binh này.

Khi ra lệnh cho binh lính làm nhiệm vụ, Roran đã hiểu anh đang khiến khu trại yếu ớt trước sức tấn công trực diện của kẻ thù. Nhưng, anh đã hy vọng dân cư trong thành vẫn còn hoang mang vì những cuộc tập kích gần đây nên không dám làm gì mạo hiểm – và những những chiến binh anh giữ lại có thể khiến những kẻ quan sát từ xa nghĩ lực lượng chính vẫn còn trong trại.

Giả thuyết đầu tiên dường như đã sai. Dù những binh lính trong Aroughs có nghe tới tên anh không, nhưng anh nghĩ cho một số lượng kị binh ít ỏi dàn quân trước thành phố chỉ là một đòn thăm dò. Nếu quân đội hoặc tướng sĩ của họ đã từng nếm mùi lợi hại của đội quân Roran chỉ huy, anh nghĩ họ sẽ cho một đội quân động gấp đôi ra. Nhưng giờ, anh phải nghĩ ra cách chống trả đòn tấn công và cứu binh lính khỏi cuộc tàn sát.

Baldor, Carn và Brigman chạy tới với vũ khí trong tay. Carn vội vàng mặc áo giáp thì Baldor nói, “Chúng ta sẽ làm gì?”

“Chúng ta không thể làm gì,” Brigman nói. “Chúng ta xong đời chỉ vì sự ngu ngốc của anh đó, Cây Búa Dũng Mãnh. Chúng ta phải tẩu tán – ngay bây giờ - trước khi những tên kị binh đáng nguyền rủa kia dày xéo lên chúng ta.”

Roran vỗ mặt đất. “Rút lui ư? CHúng ta sẽ không rút lui. Binh lính của chúng ta không thể chạy trốn nổi, và cứ cho là có thể đi, tôi cũng không bỏ lại những người bị thương.”

“Anh không hiểu sao? Chúng ta thua rồi. Nếu chúng ta ở lại, chúng ta sẽ bị giết – hoặc tệ hơn, bắt làm tù binh!”

“Thôi nào, Brigman! Tôi không định quay đuôi bỏ chạy đâu!”

“Sao lại không? Vậy là anh không chịu thừa nhận thất bại? VÌ anh mong sẽ vớt vat danh dự từ trận chiến vô vọng cuối cùng hả? Có phải không? Anh không thể anh đang gây cho Varden tổn thất nghiêm trọng hơn à?”

Những kỵ binh giơ cao thanh kiếm và giáo lên quá đầu và – với một tràng gào rú, la thét có thể nghe rõ từ khoảng cách rất xa – họ thúc ngựa và bắt đầu lao tới như sấm rung chớp giật về phía khu đóng trại của Varden.

Brigman tiếp tục bài đả kích, “Tôi không để anh lãng phí mạng sống của chúng tôi để giành lấy lòng tự trọng cho anh. THích thì anh cứ việc ở lại, nhưng ...”

“Im!” Roran gầm lên. “Im mồm nếu không tôi khâu mồm ông lại đó! Baldor, trông chừng ông ta. Nếu ông ta làm bất cứ việc gì anh không thích, anh tự do chém giết.” Brigman căng người vì tức giận nhưng ông ta không dám nói gì vì Baldor đang giơ thanh kiếm nhắm vào ngực ông ta.

Roran đoán anh có chừng năm phút để quyết định hành động ra sao. Năm phút quá ngắn ngủi.

Anh cố tưởng tượng cảnh họ sẽ biết hoặc cầm chân kỵ binh thế nào, nhưng anh nghĩ thấy chuyện đó không có khả năng. Anh không tìm ra chỗ nào để đặt bẫy đoàn quân này. Mảnh đất quá bằng phẳng, trống trải cho bất cứ kế hoạch nào tương tự.

Chúng ta không thể thắng nếu chiến đấu, vậy – Vậy nếu chúng ta dọa được chúng thì sao? Nhưng bằng cách nào? Hỏa công? Hỏa công có thể là con dao hai lưỡi. Hơn nữa, cỏ còn ẩm ướt chỉ khiến lửa cháy âm ỉ. Khói? Không ăn thua.

Anh liếc nhìn Carn. “Anh có thể tạo ra hình Saphira gầm thét ra lửa như thể cô bé ở đây không?”

Đôi má gầy gò của pháp sư không còn màu sắc. Anh ta lắc đầu, biểu tình hỗn loạn. “Có thể, tôi không chắc, tôi chưa từng thử. Tôi sẽ tạo ra một hình ảnh của cô rồng từ trí nhớ của tôi. Nhưng có thể trông sẽ không giống một sinh vật sống.” Anh hất hàm về người kỵ sĩ đang phi nước đại tới. “Họ sẽ nhận ra có gì không đúng.”

Roran ấn móng tay vào lòng bàn tay. Chỉ còn bốn phút.

“Nhưng cũng đáng để thử,” anh ta nói khẽ. “Chúng ta chỉ cần làm cho họ sao nhãng, bối rối...” Anh liếc nhìn bầu trời, hy vọng thấy những đám mây mang mưa tới, nhưng lạy chúa, trên trời chỉ có hai đám mây đang bay bay. Bối rối, không chắc chắn, nghi ngờ....Con người sợ cái gì? Họ sợ những thứ họ không biết, không hiểu.

Ngay lập tức, Roran nghĩ tới hàng tá kế hoạch có thể làm nản lòng quân thù, kế hoạc sau càng kỳ lạ hơn kế hoạch trước, cuối cùng anh nghĩ ra một ý tưởng rất đơn giản và liều lĩnh tới mức hoàn hảo. Hơn nữa, không giống những ý tưởng khác, cái này đúng với con người anh hơn, nhưng cần có sự hợp tác của một người khác: Carn.

“Ra lệnh cho mọi người trốn trong lều!” anh hét và chuẩn bị bước đi. “Nói họ im lặng; tôi không muốn nghe một tiếng động dù là khẽ nhất trừ khi chúng ta bị tấn công!”

Anh bước tới cái lều trống gần nhất, nhét búa vào thắt lưng và cầm một tấm chăn len cáu bẩn từ đất lên. Sau đó anh chạy tới khu nấu ăn và cầm lấy một đoạn gỗ to bản mà các chiến binh thường dùng làm ghế ngồi.

Một tay cầm khúc gỗ, một tay cầm chăn, Roran quay trở lại lều tiến tới một ụ đất cao khoảng trăm mét ngay phía trước khu trại. “ai đó lấy cho tôi mấy khúc xương và một chai bia mật ong lại đây!” anh hét. “Và mang tới bàn có tấm bản đồ nữa. Ngay lập tức, quỷ tha ma bắt, nhanh lên!”

Đằng sau, anh nghe có tiếng bước chân hỗn loạn và tiếng binh khí va vào nhau loảng xoảng khi những binh sĩ rút vào lều. Một sự im lặng kỳ quái bao trùm khu trại trong vài giây sau, trừ có âm thanh do những người anh sai đi mang đồ gây ra.

Roran không thèm nhìn lại. Ở chân dốc ụ đất, anh dựng đứng khúc gỗ và kiểm tra vài lần cho chắc nó không đung đưa sau lưng anh. Khi đã hài lòng, anh ngồi xuống nhìn cánh đồng dốc trước mắt những tên kị binh.

Chúng sẽ tới đây trong ba phút nữa. Anh cảm nhận được mặt đất rung lên qua thanh gỗ bên dưới – càng lúc cảm giác đó càng mạnh.

“Xương với rượu mật ong đâu rồi?!: anh hét lên, mắt vẫn dán chặt vào đội quân đang lao tới.

Anh xoa râu và cho tay vào trong áo trấn thủ. Nỗi sợ làm anh ước gì mình mặc áo giáp nhưng phần lạnh lẽo, tàn nhẫn hơn trong con người anh nói anh sẽ khiến kẻ thù khiếp sợ hơn khi ngồi đó không áo giáp như thể anh đang sống thư thái nhàn tản. Phần đó cũng bảo anh để nguyên cây búa trên thắt lưng để khiến anh thấy an toàn.

“Xin lỗi,” Carn nói không ra hơi khi chạy tới chỗ Roran cùng với người đang mang chiếc bàn nhỏ từ trong lều của Roran. Họ đặt bàn trước mặt anh và đặt chăn lên đó, Carn đặt lên trên rượu cũng như một cái cốc da đựng năm khúc xương.

“Thôi, đi đi,” anh nói. Carn quay người định đi nhưng Roran giữ tay anh lại. “Anh có thể làm không khí xung quanh tôi mờ ảo như ở lửa cháy trong những ngày đông không?

Carn nheo mắt. “Có thể, nhưng để...”

“Cứ làm đi. Giờ đi trốn đi.”

Khi người pháp sư cao lêu nghêu chạy về phía lều trại, Roran lắc những chiếc xương trong cốc rồi đổ nó lên bàn và bắt đầu chơi một mình, ném xương lên không khí – đầu tiên là một cái, rồi hai, ba và bốn – rồi bắt lấy chúng. Cha anh, ông Garrow thường khiến anh thích thú khi chơi trò này trong lúc hút thuốc và ngồi trên chiếc ghế đã lung lay trong nhà suốt những tối mùa hefcuar Thung lũng Palancar. Thi thoảng Roran chơi cùng ông, nhưng thường anh là người thua thường ông Garrow thích chơi một mình.

Dù tim anh đập nhanh mạnh, còn bàn tay ướt đẫm mồ hôi,anh vẫn tỏ ra bình tĩnh. Nếu anh muốn có cơ hội thắng dù là nhỏ nhất, anh phải tỏ ra bình tĩnh dù thực tâm anh cảm thấy ra sao.

Anh cứ nhìn đống xương và không chịu nhìn lên khi những kỵ binh đang tới càng lúc càng gần. Tiếng những con ngựa phi nước đại càng lúc càng lớn cho tới khi anh nghĩ chúng sắp nhảy bổ lên người anh.

Cách chết kỳ lạ, anh nghĩ và cười dứt khoát. Sau đó anh nghĩ tới Katrina và đứa con chưa chào đời của họ và anh thấy được an ủi vì nếu anh chết, huyết mạch nhà anh vẫn còn. Không phải theo kiểu bất tử như Eragon nhưng cũng là một dạng bất tử.

Vào giây phút cuối, khi dội quân chỉ còn cách bàn vài mét, có ai đó hét lên, “Dừng! Dừng lại! Kìm cương lại! Tôi nói, kìm cương lại!” Và, với tiếng xiết dây, những con vật bất đắc dĩ chạy chậm lại rồi dừng hẳn.

Roran vẫn nhìn xuống.

Anh nhấp một hớp rượu và ném mấy cục xương lên lần nữa và dùng mui bàn tay đỡ hai khúc xương.

Roran ngửi thấy mùi đất ẩm bốc lên thoang thoảng, ấm áp và dễ chịu, cùng với đó là cái mùi đặc trưng không dễ chịu bằng của mồ hôi ngựa.

“Chào đằng đó!” người vừa hô dừng ngựa nói. “Chào đằng đó! Anh là ai mà lại ngồi ở đây trong buổi sáng trong lành, uống rượu và chơi trò mả rủi thế? Chúng tôi không xứng được so kiếm cùng anh sao? Anh là ai vậy?”

Từ từ như thể không để ý tới sự hiện diện chủa những binh lính và cho rằng việc này không quan trọng, Roran nhìn lên người đàn ông để râu quai nón nhỏ thó đội một chiếc mũ trụ khoa trương ngồi trước mặt anh trên con hắc mã to lớn đang thở khò khè.

“Tôi không phải đằng đó của ai, và tất nhiên không phải của anh,”Roran nói, không cần cố che giấu vẻ không thích thú người kia. “Tôi có thể hỏi anh là ai mà đi can thiệp vào trò chơi của tôi?”

Chiếc lông chim dài gắn trên mũ trụ của người đàn ông lắc lư khi hắn nhìn Roran, như thể anh là một sinh vật lạ lùng hắn săn được. “Tôi là Tharos Tốc độ, Đội trưởng đội cảnh vệ. Tôi nói cho biết, với sự khinh thường người khác như thế, tôi có thể chém bay đầu anh mà không cần biết anh là ai.” Như để nhấn mạnh lời nói của mình, Tharos hạ thấp ngọn giáo chỉ thẳng vào Roran.

Ba hàng kị binh tụ họp sau lưng Tharos. Trong đám người đó, Roran để ý có một người đàn ông gầy, mũi khoằm mặt và tay xương xâu – vai trần – mà Roran và các pháp sư của Varden có từng nói qua. Đột nhiên, anh thấy hy vọng Carn đã thành công tạo ra không khí lung linh mờ ảo quanh anh. Nhưng anh không dám quay đầu lại nhìn.

“Tên tôi là Cây Búa Dũng Mãnh,” anh nói. Anh khéo léo thu mấy khúc xương lại, ném lên trời và đón lấy ba khúc. “Roran Cây Búa Dũng Mãnh, và Eragon Khắc tinh của Tà Thần là em họ tôi. Nếu chưa nghe tới tôi thì chắc cũng phải nghe tới cậu ấy chứ nhỉ.”

Những tiếng thì thầm lo lắng vang lên trong hàng kị binh, Roran nghĩ mình đã thấy đồng tử Tharos mở rộng trong thoáng chốc. “Một tuyên bố ấn tượng nhưng làm sao tôi biết anh có nói thật không? Tất cả mọi người đều có thể nói mình là người khác vì mục đích của bản thân.”

Roran rút cây búa và đặt lên mặt bàn đánh cái rầm. Rồi, không để ý tới những người lính, anh chơi tiếp. Anh lẩm bẩm ra vẻ tức tối khi hai khúc xương rơi xuống khỏi mu bàn tay mình.

“À,” Tharos húng hắng nói. “Anh rất nổi tiếng đó Cây Búa Dũng Mãnh, dù nhiều người nói rằng những lời đồn chỉ toàn phóng đại sự thật. Ví dụ, có đúng là tại làng Deldarad của Surda anh một mình hạ gục ba trăm binh sĩ?”

“Tôi không biết chỗ đó tên gì, nhưng nếu tên nó là Deldarad thì đúng, tôi đã hạ gục rất nhiều binh sĩ ở đó. Nhưng thực ra chỉ có một trăm chín ba tên tôi và tôi được yểm trở bởi vài người bạn đồng hành nữa.”

“Chỉ có một trăm chín mươi ba?” Tharos nói bằng giọng không tin. “Anh khiêm tốn quá, Cây Búa Dũng Mãnh. Một chiến thắng như vậy cũng đủ mang lại sự truyền tụng tới muôn đời rồi.”

Roran nhún vai và đưa vại rượu lên uống một ngụm cho xong vì anh không chịu nổi việc đầu óc lâng lâng vì rượu của người lùn. “Tôi chiến đấu để chiến thắng chứ không phải để thất bại. Để tôi mời anh một chén, như một người lính với một người lính,” anh nói và đưa vại rượu cho Tharos.

Người chiến binh thấp lùn ngần ngừ, mặt đảo nhìn pháp sư đằng sau lưng trong một giây. Sau đó hắn ta liếm môi và nói. “Có lẽ tôi sẽ uống.” Hắn ta xuống ngựa, đưa giáo cho một người lính khác, cởi găng tay và đi tới chỗ cái bàn, cẩn trọng nhận rượu từ tay Roran.

Tharos ngửi mùi rượu sau đó uống một ngụm lớn. Lông vũ trên vũ trụ phất phơ.

“Anh không thích rượu này à?” Roran tò mò hỏi.

“Tôi thừa nhận, loại rượu nấu trên núi này cay quá,” Tharos nói và đưa vại rượu về cho Roran. “Tôi thích uống rượu nấu trên quê mình hơn, ấm, ngọt và khó say.”

“Đối với tôi loại rượu này ngọt như sữa mẹ ấy,” Roran nói dối. “Tôi uống nó mỗi sáng, trưa và tối.”

Tharos đeo găng tay lại và quay lại leo lên lưng ngựa, cầm lại giáo. Hắn một lần nữa đưa mắt nhìn tên pháp sư mũi khoằm đằng sau, người mà Roran để ý nước da đã tái đi như da người chết trong khoảnh khắc ngắn ngủi Tharos đặt chân xuống ngựa. Có lẽ Tharos cũng nhận ra sự thay đổi đó nên biểu tình trở nên căng thẳng.

“Cám ơn sự hiếu khách của anh, Cây Búa Dũng Mãnh,” hắn nói to hơn để tất cả cùng nghe rõ. “Có lẽ tôi sẽ sớm có cơ hội được hàn huyên trò chuyện với anh trong thành Aroughs. Nếu có dịp, tôi hứa sẽ phục vụ anh loại rượu ngon nhất trong trang viên nhà tôi, và có lẽ tôi sẽ giúp anh cai loại sữa kinh khủng này. Tôi nghĩ anh sẽ thấy rượu ở đây rất đáng để thưởng thức. Chúng tôi ủ nó bên trong những thùng gỗ sồi hàng tháng thậm chí là hàng năm. Thật đáng tiếc nếu tất cả những công trình đó bị phí phạm và những thùng rượu mở ra chảy lênh láng trên đường, nhuộm đường phố đỏ màu nho.”

“Thế thì quả là đáng tiếc,” Roran trả lời. “nhưng thi thoảng anh không thể tránh chuyện đổ rượu khi dọn bàn đâu.” Anh cầm vại và đổ rượu xuống lớp cỏ dưới chân.

Tharos không nói gì trong một lúc – kể cả lông vũ trên mũ trụ hắn cũng không động đậy – rồi, gầm lên một tiếng giận dữ, hắn hét với những người lính xung quanh. “Dàn trận lại! Dàn trận lại, Ta nói... Yah!” Và với tiếng hét cuối cùng hắn thúc ngựa chạy mất, những người lính còn lại theo sau chạy về Aroughs.

Roran vẫn tỏ vẻ bàng quan không lo lắng tới khi những tên lính đã đi hết. Sau đó anh từ từ thở hắt ra và chống khuỷu tay lên đầu gối. Tay anh hơi run run.

Thành công, anh vui mừng nghĩ thầm.

Anh nghe thấy tiếng chân người chạy tới từ phía khu trại và liếc mắt thấy Baldor, Carn đang tiến tới, cùng với ít nhất năm mươi chiến binh vừa trốn trong lều.

“Thành công rồi!” Baldor hét lớn khi họ tới gần. “Anh làm được rồi! Tôi không thể nào tin nổi!” Anh ta cười và vỗ vai Roran mạnh tới nỗi khiến Roran đập tay xuống bàn.

Những người còn lại bao quanh anh, cười lớn cũng như ca tụng anh, nói rằng dưới sự chỉ huy của anh, họ sẽ chiếm được Aroughs không mất một binh một tố và họ hạ thấp lòng dũng cảm và tính cách con người thành phố này. Ai đó ấn túi da đựng rượu còn ấm, đầy một nửa vào tay anh khiến anh nhìn nó với vẻ chán ghét. Sau đó anh nhìn người đàn ông đứng bên trai anh.

“Anh có phù phép không?” anh hỏi Carn, lời anh nói hầu như không nghe rõ dưới sự ồn ào của đám đông.

“Cái gì?” Carn nhoài lại gần hơn. Roran nhắc lại câu hỏi và lần này pháp sư cười và gật đầu. “Có. Tôi đã khiến không khí mờ ảo đúng như anh mong muốn.”

“Anh có tấn công pháp sư bên kia không? Khi chúng bỏ đi, tôi thấy hắn như sắp ngất ấy.”

Nụ cười của Carn rộng hơn. “Đấy là do hắn tự chuốc lấy. Hắn cố phá ảo ảnh hắn nghĩ là do tôi tạo ra – cố chọc thủng lớp không khí mờ ảo để thấy cái gì đằng sau – nhưng làm gì có cái gì để phá, để chọc thủng vì thế hắn đã tốn sức không đâu.”

Sau đó Roran cười thầm, sau đó tiếng cười nho nhỏ biến thành trận cười rung người vang tới tận Aroughs.

Trong vài phút anh để mình tận hưởng những lời tán dương tới khi anh nghe tiếng thét cảnh báo lớn vang lên từ trạm gác ở một góc trại.

“TRánh ra! Để tôi xem!” Roran nói và đứng bật dậy. NHững chiến binh tuân lệnh và anh nhìn người đàn ông duy nhất đứng ở phía tây – là một trong những người anh gửi đi xem xét bờ kênh – đang khó nhọc phi ngựa trên cánh đồng, nhắm hướng trại mà phi tới. “Đưa anh ta tới đây,” Roran ra lệnh và một người kiếm sĩ tóc đỏ gầy nhẳng chạy tới đón người kị sĩ.

TROng khi đợi người kia tới, Roran cầm mấy khúc xương lên rồi đặt xuống, từng cái một, vào cốc. NHững khúc xương kêu lanh canh khi rơi xuống.

Ngay khi nhìn thấy người lính kia, Roran gọi lớn, “Này anh! Thế nào? Mọi người bị tấn công à?”

Người đàn ông kia vẫn giữ im lặng mãi tới khi chỉ còn cách vài mét. Anh ta xuống ngựa và đứng trước Roran, cử động cứng nhắc như một cây thông thiếu năng, và lớn giọng báo cáo, “Có mặt, thưa ngài!” Khi quan sát gần hơn, Roran nhận thấy cậu ta chỉ là một thiếu niên – đúng hơn, cậu ta chính là cậu thiếu niên đã nắm dây cương cho anh hồi anh mới tới trại. Nhưng điều này không khiến Roran tò mò.

“THế nào? Tôi không có thì giờ mà dông dài.”

“Báo cáo! Hamund gửi tôi tới nói rằng chúng tôi đã tìm thấy tất cả những xà lan chúng ta cần và rằng ngài ấy đang cho dựng xe trượt mang nó tới một con kênh khác.”

Roran gật đầu. “Tốt. Anh ấy có cần thêm trợ giúp không”

“Báo cáo! Không ạ!”

“Có thế thôi à?”

“Vâng, thưa ngài!”

“Đừng luôn miệng thưa ngài thế. Một lần là đủ rồi. Hiểu không?”

“Vâng, thưa ngài – à, vâng th...à, ý tôi là vâng, tất nhiên rồi.”

Roran mỉm cười. “Cậu làm tốt lắm. Kiếm gì ăn đi rồi đi tới khu mỏ rồi báo cáo lại cho tôi. Tôi muốn biết họ làm tới đâu rồi.”

“Vâng, thưa...Xin lỗi ngài – Tôi không... Tôi sẽ làm ngay lập tức, thưa Chỉ huy.” Má cậu thanh niên hồng lên vì nói lắp. Cậu ta cúi đầu chào nhanh rồi nhanh chóng lên ngựa và đi về lều.

Roran càng nghiêm túc hơn vì anh biết, họ đang may mắn khi tránh được lần đụng độ này. Họ còn nhiều việc cần làm và nếu không làm tốt cuộc chiến của họ cũng thua chắc.

Anh nói với tất cả những người lính. “Về trại! Tôi muốn có hai hào quân sự xung quanh lều vào tối này; mấy gã lính da vàng bụng bự đó có thể sẽ đổi ý và quay lại tấn công và tôi muốn có sự chuẩn bị.” Vài người càm ràm vì phải đào hào nhưng phần đông có vẻ vui vẻ đồng ý.

Carn hạ giọng nói, “Anh không muốn họ kiệt sức vào sáng mai chứ?”

“Tôi biết,” Roran trả lời bằng giọng nhẹ nhàng tương tự. “Nhưng chúng ta cần củng cổ khu đóng quan và chúng ta cần làm điều này để tránh bị đánh úp. Hơn nữa, dù sáng mai họ mệt thế nào thì trận chiến cũng sẽ tiếp thêm sức lực cho họ. Luôn luôn như thế.”

Đối với Roran một ngày trôi qua rất nhanh khi anh tập trung vào những vấn đề thiết yếu và cố gắng tăng cường thể lực. Những binh lính làm việc hăng say – khi cứu họ, anh đã có được lòng trung thành và tận tụy từ họ - nhưng anh đã thấy rõ ràng hơn rằng, dù họ cố gắng thế nào cũng không thể hoàn thành chuẩn bị trong thời gian quá ngắn.

Suốt sáng, chiều và đầu buổi tối, Roran càng lúc càng cảm thấy hết hy vọng và anh tự nguyền rủa mình vì đã đưa ra một kế hoạch tham vọng và phức tạp tới vậy.

Từ đầu mình phải hiểu rằng chúng ta không có thời gian chứ, anh nghĩ. Nhưng giờ đã quá muộn để thử một kế hoạch mới. Lựa chọn duy nhất là cố gắng hết sức và hy vọng, những nỗ lực đó sẽ đủ để giành lấy chiến thắng.

Trời nhá nhem tối, những tia sáng lạc quan đã tới với anh, vì đột nhiên tất cả những sự chuẩn bị đều hoàn thành với tốc độ nhanh không ngờ. Chỉ vài giờ sau, khi trời tối đen và sao chiếu lấp lánh trên đầu, anh thấy mình đứng ở khu xay sát cùng với gần bảy trăm người, mọi sự chuẩn bị đã hoàn thành cho việc chiếm Aroughs vào cuối ngày hôm sau.

Roran cười vì nhẹ nhõm, tự hào và có chút ngờ vực vì công trình của họ.

Anh chúc mừng những người lính xung quanh và cùng họ về lều. “NGhỉ ngơi đi nếu có thể. Chúng ta sẽ tấn công vào lúc bình mình!”

Những người lính reo vui, dù họ mệt mỏi thấy rõ.
 
19. BẠN VÀ THÙ
Tối hôm đó, Roran ngủ không được sâu giấc. Anh không thể nào nghỉ ngơi hoàn toàn dù biết tầm quan trọng của trận chiến săp tới và rằng anh có thể bị thương đầy mình trong trận chiến như trước kia. Hai ý nghĩ đó khiến anh căng thẳng, tỉnh dậy khỏi giấc mộng đen tối, kỳ lạ.

Thế là, anh tỉnh giấc dễ dàng khi một âm thanh uỵch nho nhỏ vang lên ngoài lều

Anh mở mắt và nhìn lên nóc lều. Trong lều tối om chỉ trừ tia sáng yếu ớt hắt vào từ ngọn đuốc qua cửa vào. Không khí lạnh lẽo và chết chóc như thể anh đang bị chôn trong lòng đất. Anh không biết đã mấy giờ nhưng anh biết đã rất, rất khuya. Kể cả những sinh vật của ban đêm cũng đã trở lại ổ và đi ngủ. Không ai nên thức, trừ những lính canh mà quanh lều anh đâu có người lính nào.

Roran cố thở từ từ và hít thật sâu khi nghe ngóng. Âm thanh lớn nhất anh nghe được là tiếng đập của con tim, càng lúc càng lớn hơn, nhanh hơn vì anh cảm thấy căng cứng như dây đàn.

Một phút trôi qua.

Lại một phút nữa

Rồi ngay khi anh nghĩ không có gì phải lo lắng và nhịp tim dần ổn định thì một bóng đen vút qua cửa lều, che đi ánh sáng bên ngoài.

Nhịp tim của Roran đập nhanh gấp ba lần như khi anh chạy lên đỉnh núi vậy. Nhưng mục đích của người kia không thể là gọi anh dậy chuẩn bị chiếm Aroughs hay hiến kế cho anh vì nếu có, họ sẽ không ngần ngại mà gọi tên anh.

Một bàn tay đeo găng đen – đen hơn cả màn đêm – thò vào qua cửa lều.

Roran định mở miệng tri hô nhưng lại thôi. Không nên ngu ngốc đánh mất lợi thế ngạc nhiên. Hơn nữa, nếu kẻ đột nhập biết hắn đã bị phát hiện, hắn sẽ hoảng loạn và hoảng loạn sẽ khiến hắn nguy hiểm hơn.

Roran cẩn thận dùng tay phải nắm lấy con dao đặt dưới áo choàng anh đang gấp gọn thành gối và giấu vũ khí dưới chăn. Cùng lúc đó, anh dùng tay trái nắm chặt cạnh chăn.

Ánh sáng vàng khắc họa đường nét tên đột nhập. Roran thấy hắn mặt một áo da chần bông nhưng không mang áo giáp. Sau đó, cửa lều đóng lại và bóng tôi một lần nữa bao chùm lấy họ.

Người lạ mắt rón rén tới nơi Roran nằm.

Roran cảm thấy như anh sắp ngất vì thiếu không khí nếu cứ cố nín thở để tên kia không biết anh đã thức.

Khi kẻ đột nhập bước được nửa đường tới võng, Roran kéo chăn ra ném lên người gã và, với một tiếng hét kinh hoàng, anh lao lên người hắn, nắm lấy con dao định moi ruột hắn.

“Đừng!” người đàn ông hét lên. Roran ngạc nhiên ngừng tay và cả hai ngã nhào xuống đất. “BẠn mà! Tôi là bạn!”

Nửa giây sau, Roran thở hắt ra vì hai cú đấm vào bụng. Cơn đáu gần như hạ gục anh nhưng anh cố lăn ra tránh hắn và cố đẩy xa khoảng cách giữa hai người.

Roran gượng đứng dậy, rồi một lần nữa lao tới tên đột nhập đang lăn lộn trong đống chăn.

“Đợi đã, tôi là bạn anh!” người đàn ông hét lên nhưng Roran không định tin hắn thêm lần nữa. May mà anh không tin hắn, vì khi anh chém hắn, hắn qua lớp chăn tóm lấy tay phải và con dao của Roran sau đó dùng một con dao hắn lấy ra từ áo da chém vào Roran. Roran cảm thấy đau nhói nhưng cơn đau quá nhẹ nên Roran không để ý nhiều.

Roran rống lên và kéo mạnh chăn, kéo gã đàn ông đứng dậy và dộng hắn vào lều khiến lều đổ sập, nhốt họ bên trong. Roran vứt chăn sang một bên rồi lần mò tìm gã kia.

Tay trái Roran sờ thấy một đế giày cứng và đầu ngón tay anh lạnh cứng.

Anh lao lên, nắm lấy cổ chân hắn khi hắn cố quay lại. Gã quẫy đạp như một con thỏ khiến Roran tuột tay, nhưng anh nào bỏ cuộc. Roran nắm chặt cổ chân hắn và bóp vào gân chân hắn cho tới khi hắn kêu oai oái.

Trước khi hắn kịp trấn tĩnh, Roran leo lên người hắn và ấn bàn tay cầm dao của hắn xuống đất. Roran cố đâm hắn nhưng anh quá chậm; kẻ thù của anh nắm được cổ tay anh và dùng bàn tay như gọng kìm bóp chặt tay anh.

“Ngươi là ai?” Roran lồng lên.

“Bạn anh,” người đàn ông nói phả hơi thở vô mặt anh. Nó có mùi rượu táo hỏng. Sau đó hắn lên gối Roran ba phát liên tục.

Roran đập trán vào mũi hắn, khiến nó kêu đánh rắc. Gã rên rỉ và quẫy đạp bên dươi nhưng Roran không chịu thả hắn ra.

“Ngươi... không phải bạn ta,” Roran gầm trong họng khi cúi xuống và từ từ hạ con dao xuống người hắn. Khi cả hai đang căng người lên thì Roran nghe thấy có tiếng người la hét bên ngoài cái lều sập.

Cuối cùng anh khóa được tay hắn và đâm xuyên qua lớp áo và d.a thịt. Hắn co giật. Anh đâm nhanh thêm mấy nhát sau đó cắm nguyên con dao trên ngực hắn.

Qua cán dao, Roran cảm nhận được trái tim rung lên lần cuối khi bị cắt thành từng mảnh. Gã co giật hai lần nữa sau đó nắm đó, thở hắt ra.

Roran tiếp tục giữ hắn cho tới khi sự sống rời bỏ hắn. Họ ôm nhau thân mật như một cặp tình nhân. Dù gã kia định giết anh nhưng Roran không biết gì về hắn và anh không thể nào không thấy sợ hãi. Đây là một con người – một mạng sống, một sinh vật biết suy nghĩ – đã ra đi vì hành động của anh.

“Ngươi là ai?” anh nói thầm. “Ai gửi ngươi tới?”

“Ta đã... suýt giết được ngươi,” gã cất tiếng nói, nghe có vẻ hài lòng. Sau đó hắn thở hắt ra, cơ thể mềm oặt. Hắn chết.

Roran gục đầu lên ngực hắn và hít thở, người anh run lên vì bị tấn công.

Mọi người bắt đầu lôi lớp vải bố phủ lên người anh ra. “Kéo nó ra!” Roran hét, không thể chịu nổi sức nặng kinh khủng đang đè lên cũng như không gian đen thẳm, tù túng và không khí ngột ngạt.

Một kẽ hở xuất hiện vì ai đó đã cắt thủng lớp vải. Ánh đuốc ấm áp nhảy múa lan tỏa qua lỗ hổng.

Anh điên cuồng muốn thoát khỏi phòng giam. Anh đứng lên, nắm lấy lỗ hổng mà chui ra. Anh loạng choạng đi về phía có ánh sáng, trên người không mặc gì ngoài khố và nhìn xung quanh với vẻ bối rối.

Balodr đang đứng đó cùng Carn, Delwin, Mandel và mười người lính khác. Tất cả cầm vũ khí sẵn sàng chiến đấu. Không ai mặc quân trang đầy đủ, trừ hai người mà Roran nhận ra là lính gác đêm nay.

“Chúa ơi,” ai đó hét lên và Roran quay lại nhìn người lính đang hé mắt nhìn qua căn lều thấy xác kẻ đột nhập.

Gã nhỏ thó, tóc dài bóng dầu buộc thành đuôi ngựa và đeo bịt mắt trái. Mũi hắn gẫy và tím đỏ - hậu qua từ những cú đấm của Roran – và máu be bét trên nửa dưới khuôn mặt hắn. Máu tràn ra trên ngực hắn và trên mặt đất xung quanh. Quá nhiều máu đối với một con người.

“Roran,” Baldor lên tiếng. Roran tiếp tục nhìn kẻ ám sát không thể rời mắt. “Roran,” Baldor lại nói nhưng lớn hơn. “Roran, nghe tôi nói này? Anh có bị thương không? Chuyện gì xảy ra?... Roran?”

Cuối cùng Roran cũng nghe thấy. “Cái gì?” anh hỏi.

“Roran, anh có bị thương không?”

Sao anh ấy lại nghĩ thế nhỉ? Roran bối rối nhìn xuống. Lông ngực anh bê bết máu khô, những vệt máu dính trên tay anh và trên khố.

“Ổn,” anh nói dù khó lòng mở miệng. “Có ai bị tấn công nữa không?”

Đáp lại, Delwin và Hamund bước sang một bên để lộ một thân hình không còn sự sống. Đó chính là cậu thiếu niên đã chạy truyền tin cho anh.

“Ôi!” Roran rên rỉ, nỗi buồn dâng lên trong anh. “Sao lại thế này?”

Một trong những chiến binh bước lên phía trước. “Tôi ở cùng lều với cậu ấy, thưa Chỉ huy. Cậu ấy luôn ra ngoài đi dạo mỗi tối, vì cậu ấy đã uống nhiều nước chè. Mẹ cậu ấy bảo làm thế để phòng ốm đau... Cậu ấy tốt tính lăm thưa Chỉ huy. Cậu ấy không nên bị vài tên hèn hạ chỉ biết đánh len chém thành nhiều mảnh thế này.”

“Không,” Roran thì thầm. Nếu cậu ta không ở ngoài đó thì người chết phải là mình. Anh chỉ tên thích khách. “Trong trại còn tìm thấy tên sát thủ nào không?”

Những người đàn ông thì thào nói chuyện; sau đó, Baldor cất giọng, “Tôi không nghĩ có.”

“Kiểm tra chưa?”

“Chưa.”
“Vậy thì đi kiểm tra đi! Nhưng đừng đánh thức những người khác. Họ cần ngủ. Từ lúc này hãy cho lính gác ở lều của các tướng lĩnh. Đáng nhẽ mình phải nghĩ tới chuyện này.

Roran đứng nguyên tại chỗ, cảm thấy mình thật ngu ngốc và đần độn khi Baldor ra lệnh. Mọi người, trừ Carn, Delwin và Hamund đều tản đi. Bốn người lính cáng xác cậu nhỏ đi chôn, trong khi những người còn lại đi kiểm tra khu đóng quân.

Hamund tiến tới nhìn tên thích khách, và dùng mũi giày đẩy con dao của hắn. “Chắc sáng nay anh đã khiến mấy tên lính sợ hơn chúng ta tưởng.”

“Chắc rồi.”

Roran run lên. Anh thấy lạnh toàn thân đặc biệt ở tay và chân như dính đá. Carn nhận ra và mang cho anh cái chăn. “Đây,” Carn nói và choàng lên vai Roran. “Ra ngồi cạnh đống lửa kìa. Tôi sẽ mang cho anh ít nước nóng mà tắm rửa. Thế nhé?”

Roran gật đầu vì không nghĩ mình còn nói được.

Carn định đi, nhưng được vài mét, anh dừng lại khiến Roran cũng phải ngừng bước. “Delwin, Halmund, lấy cho tôi cái võng, cái gì để ngồi cũng được, một vại rươu mật ong và ít vải băng bó tới đây. Nhanh nhé.”

Hai người kia giật mình bỏ đi.

“Sao?” Roran bối rối hỏi. “Sao thế?”

Nét mặt anh nghiêm trọng và chỉ lên ngực Roran. “Nếu anh không bị thương thì gì đây?”

Roran nhìn xuống và thấy bên dưới lớp lông ngực và lớp máu khô là một vết cắt dài và sâu chạy ngang xương ức và kết thúc ở đầu ngực. Chỗ hở rộng nhất khoảng 0,6cm và trông giống một nụ cười quỷ quái không có môi. Vết cắt không hề chảy máu. Roran có thể thấy lớp mỡ vàng dưới da và dưới đó và dưới đó là mô cơ ngực đỏ sậm sống màu thịt nai sống.

Anh đã quá quen với những vết thương do giáo mác, gươm kiếm và những vũ khí khác đem đến nên không lấy gì làm lo lắng. Anh đã bị thương không biết bao nhiêu lần trong cuộc đấu tranh chống lại Triều đình – vết thương khiến anh tự hào nhất là vết cắn của Ra’zac trên vai phải khi chúng bắt Katrina tại Carvahall – nhưng chưa bao giờ anh lãnh một vết thương lớn hoặc không bình thường thế này.

“Đau không?” Carn hỏi.

Roran lắc đầu. “Không.” Cổ họng anh cứng lại và tim anh – vẫn đang đập thình thịch vì trận đánh lộn – đập nhanh gấp đôi. Dao có độc chăng? Anh phân vân.

“Rora, anh phải thả lỏng người,” Carn nói. “Tôi nghĩ tôi có thể chữa trị cho anh, nhưng anh sẽ làm cho mọi chuyện khó khăn hơn nếu ngất đi.” Anh ta đỡ lấy vai Roran, dẫn anh tới cái võng Hamund mang ra từ lều và Roran ngoan ngoãn ngồi xuống,

“Nghỉ ngơi thế nào?” anh hỏi kèm một tiếng cười giòn ngắn ngủi.

“Hít sâu và tưởng tượng anh đang chìm sâu trong lòng đất khi thở ra. Tin tôi đi, anh sẽ thấy thoải mái.”

Roran nghe theo nhưng khi anh thở ra lần thứ ba, vết thương mở rộng, máy chảy ra từ vết thương, bắn lên mặt Carn. Pháp sư lùi lại và nguyền rủa. Máu nóng chảy xuống bụng Roran.

“Giờ thì đau rồi,” Roran nghiến răng nói.

“Này!” Carn hét và vẫy Delwin đang chạy lại chỗ họ, tay cầm đầy băng gạc và những vật dụng khác. Khi anh ta đặt chúng xuống một đầu võng, Carn cầm một ít vải lên ấn vào vết thương của Roran để cầm máu. “Nằm xuống,” anh ra lệnh.

Roran nghe theo và Hamund đưa cho Carn một cái ghế đẩu. Carn ngồi xuống trong khi vẫn bịt chặt miệng vết thương. Anh mở tay phải và nói, “Mở chai rượu ra và đưa cho tôi.”

Delwin đưa chai rượu cho Carn. Anh nhìn thẳng vào Roran và nói. “Tôi sẽ phải sát trùng vết thương trước khi dùng phép thuật làm khép miệng nó. Hiểu không?”

Roran gật. “Đưa cho tôi thứ gì để cắn nào.”

Anh nghe có tiếng cởi thắt lưng và một trong hai người, Delwin hoặc Hamund đưa thắt lưng vô miệng anh, anh anh dùng hết sức cắn. “Làm đi!” anh nói rõ ràng nhất có thể.

Trước khi Roran có thời gian phản ứng lại, Carn bỏ vải ra và rưới rượu lên vết thương, lên lớp lông ngực và máu khô cùng những vết bẩn khác dính trên đó. Roran rên rỉ và cong người lên, cào lên võng.

“Rồi, xong rồi,” Carn nói và đặt chai rượu sang một bên.

Roran nhìn những vì sao, những cơ bắp trên người anh run rẩy. Anh cố quên đi cơn đau khi Carn đặt tay lên vết thương và bắt đầu lầm rầm nói bằng ngôn ngữ cổ.

Sau vài giây, dù đối với Roran nó phải kéo dài tới vài phút, anh thấy không thể chịu nổi cơn ngứa bên trong lồng ngực khi Carn chữa trị vết thương do con dao của tên thích khách gây ra. Cơn ngứa lên cao dần, tới lớp da và cơn đau biến mất. Nhưng, anh vẫn thấy khó chịu muốn gãi rách da rách thịt.

Khi làm xong, Carn thở dài và cúi xuống, dùng tay đỡ đầu.

Roran buộc những cơ bắp cứng đầu làm việc theo ý mình, quăng chân sang một bên và ngồi thẳng dậy. Anh đưa tay lên sờ ngực. Ngoại trừ lớp lông, da anh mềm mại tới hoàn hảo. Bình thường. Không một vết sẹo. Y như cũ.

Pháp thuật.

Delwin và Hamund vẫn đứng nhìn. Họ mở to mắt hơn một chút dù anh nghĩ ai trong hoàn cảnh đó cũng sẽ thế thôi.

“Đi nghỉ đi,” anh nói và vẫy tay. “Chúng ta chỉ còn vài giờ, và tôi muốn hai người tỉnh táo.”

“Anh chắc chắn mình ổn rồi chứ?” Delwin hỏi.

“Ừ, ừ,” anh nói dối. “Cám ơn sự giúp đỡ của các anh, nhưng giờ đi đi. Làm sao tôi ngủ nôi khi hai anh cứ cục ta cục tác như gà mẹ được chứ?”

Sau khi họ rời đi, Roran xoa mặt và ngồi nhìn bàn tay run rẩy, dính đầy máu của mình. Anh thấy khó chịu. Trống rỗng. Như thể anh đã làm việc công việc cả tuần trong vòng vài phút.

“Anh còn chiến đấu nổi không?” Anh hỏi Carn.

Pháp sư nhún vai. “Không tốt bằng trước...đó là cái giá phải trả. Nhưng chúng ta không thể vào trận mà không có anh.”

Roran không muốn cãi. “Anh cũng nên đi nghỉ thôi. Sắp bình minh rồi.”

“Anh thì sao?”

“Tôi sẽ đi tắm, tìm áo mặc và cùng Baldor xem xét xem có phát hiện sát thủ nào của Galbatorix không?”

“Anh không định nghỉ ngơi à?”

“Không.” Anh vô thức gãi ngực. Anh dừng lại khi nhận ra mình vừa làm gì. “Lúc trước tôi cũng không ngủ được, và giờ...”

“Tôi hiểu.” Carn từ từ đứng dậy. “Tôi sẽ ở trong lều nếu anh cần tôi.”

Roran nhìn anh ta nặng nề bước vào bóng tối. Khi không còn thấy anh ta nữa, Roran nhắm mắt và nghĩ tới Katrina để bình tĩnh lại. Anh dùng hết sức mạnh ít ỏi còn lại, đi vào căn lều sập, tìm quần áo, vũ khí, giáp và khăn. Trong một lúc lâu anh tránh nhìn xác tên thích khách dù đôi khi thoáng thấy trong lúc bới tìm đô dùng.

Cuối cùng, Roran quỳ xuống, ngoảnh đầu, rút con dao khỏi xác chết. Anh vẩy con dao và nghe tiếng máu nhỏ giọt xuống sàn.

Trong cái im lặng lạnh lẽo của ban đêm, Roran từ từ chuẩn bị tinh thần cho trận chiến. Sau đó, anh đi tìm Baldor – người đã khẳng định với anh rằng không có thêm tên thích khách nào lọt qua tầm mắt của lính gác – và đi quanh trại, nghĩ ngợi về kế hoạch tấn công Aroughs. Sau đó, anh thấy nửa con gà nướng đã nguội ngắt từ bữa tối. Anh ngồi xuống ăn và ngắm nhìn các vì sao.

Nhưng, cho dù anh làm gì, anh vẫn nghĩ tới cậu nhỏ nằm chết ngoài lều anh. Ai là người có quyền quyết định ai được sống và ai phải chết? Mạng sống của mình đâu có đáng giá hơn cậu ấy nhưng cậu ấy là người nằm sâu dưới ba tấc đất trong khi mình còn ít nhất vài giờ tận hưởng cuộc sống dương thế. Đó là cơ hội, là định mệnh hay tội ác, hay đây là do một thế lực trên kia sắp xếp?
 
20. BỘT LỬA“Cảm giác có em thích chứ?” Roran hỏi Baldor khi họ sánh bước đi tới khu xay sát gần nhất trong ánh hừng đông.

“Không phải thích hay không thích. Ý tôi là, em tôi đâu có lớn gì. Trông như con mèo con ấy.” Baldor kìm cương khi con ngựa của cậu ta định xông ra đám cỏ ven đường. “Tôi thấy chuyện có em – dù là trai hay gái – sau một thời gian quá dài cứ nhột nhạt thế nào ấy.”

Roran gật đầu. Anh dịch mông trên lưng ngựa, nhìn lại sau đảm bảo sáu trăm năm mươi lính đang giữ đúng khoảng cách với anh. Khi tới khu xay sat, Roran xuống ngựa và buộc ngựa trước điểm thấp nhất của ba căn nhà. Một người lính đứng sau dắt lũ ngựa về trại.

Roran đi tới lạch sông và bước xuống cầu kênh. Sau đó anh đặt chân lên xà lan gần bờ nhất trong bốn cái đang nổi dập dềnh.

Những xà lan trong giống mấy mảng bè đơn sơ hơn là một con thuyền độc mộc được những dân làng dùng làm phương tiện chuyên chở từ Narda tới Teirm. Roran rất thích điểm này vì bè đồng nghĩa với không có mũi tàu nhọn. Nhờ vậy, họ buộc, đóng cọc chúng được vào với nhau thành một mảng bè duy nhất dài tới 45m.

Roran đã chỉ đạo đem toàn bộ số đá phiến họ có từ mỏ khai thác chất lên xe bò chở tới đây, chất lên đầu chiếc xà lan thứ nhất và dọc xà lan thứ hai và ba. Trên đống đá phiến, họ chất những bao bột – tìm thấy trong nhà máy xay – tới khi tạo thành một bức tường cao ngang hông.Ở tảng đá cuối cùng trên xà lan thứ hai, bức tường tiếp tục chỉ với các bao bột.

Sức nặng của các phiến đá cùng đống bột kèm theo sức nặng của bản thân xà lan đã biến những chiếc thuyền nổi thành khúc gỗ công thành theo đường thủy khổng lồ. Roran mong sao nó có thể chọc thủng cánh cổng ở cuối con lạch. Kể cả khi cánh cổng được yểm bùa – mặc dù Carn không cho là thế - Roran cũng không nghĩ có bất cứ pháp sư nào, trừ Galbatorix có thể vô hiệu hóa lực tấn công của những chiếc xà lan này một khi chúng trôi xuống từ thượng nguồn.

Ngoài ra, đống đá và bột kia là một lá chắn phòng thủ chống giáo, tên và những vũ khí sát thương khác bay tới.

Roran cẩn trọng đi lại giữa những mảng thuyền dập dềnh tới đầu xà lan. Anh chèn giáo khiên của mình vào một chồng đá phiến rồi quay người quan sát các chiến binh tập hợp giữa các bức tường.

Mỗi lúc xà lan càng lún xuống sâu hơn xuống nước do sức nặng của các chiến binh. Cuối cùng nó chỉ còn nổi trên mặt nước có vài centimet.

Carn, Baldor, Hamund, Delwin và Mandel đứng cạnh Roran. Họ tự mình chọn vị trí nguy hiểm nhất. Nếu muốn có Aroughs, họ cần có sự đồng hành của kinh nghiệm cũng như sự may mắn. Họ không thể trao trách nhiệm nặng nề cho ai.

Ở rìa xà lan, Roran thấy Brigman đứng cùng với những người lính ông từng chỉ huy. Sau hành động bất tuân quân lệnh gần đây của Brigman, Roran đã giáng chức và giam ông ta trong lều. Nhưng, Brigman xin được tham gia trận chiến cuối cùng ở Aroughs, và Roran miễn cưỡng đồng ý; Brigman giỏi dùng đao kiếm và chỉ cần một thanh kiếm cũng tạo nên sự khác biệt trong trận chiến sắp tới.

Roran vẫn băn khoăn liệu anh có quyết định đúng không. Anh khá tự tin giờ các binh lính trung thành với anh chứ không phải với Brigman, nhưng Brigman đã là chỉ huy của họ trong nhiều tháng. Mối liên kết đó không thể quên trong một sớm một chiều. Kể cả trong trận chiến này Brigman không gây chuyện nhưng ai mà biết ông ta có chịu nghe lời hay lờ quân lệnh đi, ít nhất là khi Roran là người ra lệnh.

Nếu ông ta khiến mình không tin, mình sẽ chém chết ngay tại chỗ,Roran nghĩ. Nhưng giải pháp này rất phù phiếm. Nếu Brigman thật sự phản bội thì Roran sẽ không nhận ra cho tới khi quá muộn.

Khi chỉ còn lại sáu người lính đứng trên bờ, Roran cúp tay trước miệng hô lớn. “Mở cửa đập!”

Hai người đang đứng trên con đê ở đỉnh đồi – con đê có nhiệm vụ làm chậm dòng chảy của sông từ thượng nguồn về phía bắc. Dưới đó 6m có guồng nước đầu tiên và một hồ nước bên dưới. Phía trước cái hồ là con đê thứ hai, tại đó có thêm hai người lính. Dưới đó thêm 6m là một guồng nước nữa và một hồ nước sâu yên ả. Cuối hồ là con đê thứ ba và là con đê cuối cùng cùng hai người lính nữa. Ở chân dê cuối cùng là guồng nước cuối cùng. Từ đó, dòng chảy uốn lượn êm đềm chảy tới Aroughs.

Trên các con đê là ba cổng đập Roran bắt đóng lại trong lần đầu tới thăm khu xay sát. Qua hai ngày, đội binh lính đã lặn dưới dòng nước đang ngày một dâng cao nạo vét lòng hồ. Sau đó họ cắm những xà gỗ dài, chắc khỏe xuống hai bên cửa đập.

Những người đứng ở giữa và trên đầu đang nắm lấy những xà gỗ - chúng thò ra khỏi đê vài mét – và bắt đầu kéo đẩy chúng theo một nhịp điệu nhất định. Theo như kế hoạch, hai người đứng cuối sẽ đợi một lúc trước khi họ cũng làm theo.

Roran nắm chặt một bao bột trong lúc quan sát. Nếu họ chỉ tính lệch thời gian vài giây, chắc chắn một thảm họa sẽ xảy đến.

Gần một phút trôi qua, không có gì xảy ra.

Rồi, với một tiếng ầm lớn, cửa đập đầu tiên mở ra. Đê phình lên, đất nứt toác và nước phù sa chảy ầm ầm xuống guồng nước bên dưới khiến nó quay nhanh hơn bao giờ hết.

Đập sập, những người đứng trên đó nhảy lên bờ cách đó vài centimet.

Dòng nước từ độ cao hơn 9m đổ ầm xuống hồ nước đen êm ả bên dưới guồng nước. Một cơn sóng cao vài mét lao xuống đập bên dưới.

Thấy chuyện sắp xảy tới, hai chiên binh ở giữa rời vị trí, lao xuống khu đất an toàn.

May mà họ đã kịp. Khi cơn sóng đập tới đã phá vỡ cửa đập thứ hai như thể một con rồng đá tan nó và cuốn trôi đi những tàn tích của con đập.

Dòng lũ điên cuồng đâm vào guồng nước thứ hai với lực mạnh hơn trước. Gỗ kêu cọt kẹt và lần đầu tiên, Roran nghĩ tới khả năng một hoặc nhiều hơn một guồng nước sẽ bị cuốn trôi. Nếu chuyện đó thực sự xảy ra, những chiến binh và kể cả các xà lan sẽ bị nguy khốn; có thể cuộc tấn công Aroughs sẽ kết thúc từ trong trứng nước.

“Cắt dây neo!” anh hô.

Một trong những người lính cắt dây neo trong khi những người khác cúi xuống kéo một sợi dây dài độ 3 mét giữ xà lan đứng yên bằng tốc độ nhanh nhất.

Chiếc xà lan nặng nề lao lên phía trước, tốc độ chậm hơn mong muốn của Roran quá nhiều.

Mặc kệ cho dòng thác đang đổ ào ào về phía hai người lính, họ vẫn tiếp tục đứng ở đê thấp nhất để đẩy xà gỗ. Chỉ chưa đến một giây trước khi cơn lũ ào lên họ, những người lính mới rời bỏ vị trí.

Dòng nước đục một lỗ lớn trên đập đất dễ như thể nó là bánh mũ và cuồn cuộn lao tới guồng nước cuối cùng. Gỗ kêu kẹt ket – âm thanh lớn và sắc như đập đá – guồng nước nghiêng đi vài độ nhưng vẫn đứng vững. Sau đó, với một tiếng gầm to như tiếng sấm, dòng nước lao xuống chân đồi, nước bắn lên như sương mù.

Từng cơn gió lạnh vuốt lên mặt Roran đứng cách đó hai trăm mét.

“Nhanh nữa lên!” anh tri hộ với những người đang cắt dây neo khi cơn lũ giận dữ tràn xuống con kênh.

Lũ tiến tới với một tốc độ khó tin. Khi nó đập vào đuôi bốn chiếc thuyền, cả đoàn thuyền nhào về phía trước khiến Roran và các chiến binh nhào khỏi đuôi tàu và làm một số người ngã dúi dụi. Vài bao bột rơi xuống sông hoặc rơi ngược về phía những người lính.

Dòng nước tràn dâng nâng xà lan gần rìa nhất cao lên vài mét, đoàn thuyền dài gần 50 mét bắt đầu xoay tròn. Roran biết, nếu quá trình này tiếp tục, đoàn thuyền sẽ bị xé tan.

“Giữ thẳng thuyền!” anh rống lên, nhảy bật dậy khỏi bao bột anh vừa ngã đè lên. “Đừng cho thuyền xoay!”

Nghe thấy tiếng anh, các chiến binh lục tục chống thuyền trôi khỏi dòng nước xoáy và đi về giữa sông. Roran đứng trên đống đá phiến chỉ huy và cùng nhau điều khiển những chiếc xà lan trôi xuống.

“Chúng ta làm được rồi!” Baldor hét lên, trên mặt hiện một nụ cười ngu ngốc.

“Đừng mừng vội,” Roran cảnh cáo. “Chúng ta còn cả một đoạn đường dài.”

Bầu trời phía đông chuyển màu vàng chanh khi họ chỉ cách Aroughs một dặm. Với tốc độ di chuyển hiện tại, họ sẽ tới thành phố trước khi mặt trời ló rạng và màu trời xám xịt sẽ giúp họ tránh được những tên lính canh trên tường thành và chòi gác phát hiện.

Mặc cho những ghềnh đá trên đường đi, chiếc thuyền vẫn gia tốc băng băng tiến tới thành phố bên dưới khu xay sát và không còn một ghềnh thác nào cản bước họ.

“Nghe này,” Roran chụm tay trước miệng và nói lớn để mọi người cùng nghe. “Chúng ta có thể rơi xuống nước khi đâm vào cổng ngoài, vì thế chuẩn bị tinh thần bơi đi. Tới khi chúng ta vào đất liền, chúng ta sẽ là những mục tiêu dễ tấn công. Một khi lên bờ, chúng ta chỉ có một mục đích duy nhất: leo lên bức tường trong trước khi họ nghĩ tới chuyện đóng cổng, vì nếu họ làm vậy, chúng ta sẽ không bao giờ có được Aroughs. Nếu chúng ta có thể vượt qua bức tường thứ hai, chúng ta sẽ dễ dàng tìm thấy Lãnh chúa Halstead và buộc ông ta đầu hàng. Nếu ông ta không chịu, chúng ta sẽ chiếm trung tâm thành phố, sau đó tản vào các con đường cho tới khi toàn bộ Aroughs thuộc về chúng ta.

“Nhớ, chúng ta có thể sẽ phải một chọi hai hoặc ba, vì vậy hãy ở gần nhau bảo vệ và che chắn cho nhau. Đừng một mình đơn độc, đừng tách mình ra khỏi nhóm. BỌn lính trong thành hiểu rõ địa bàn hownc húng ta, và họ có thể tấn công chúng ta vào lúc chúng ta không ngờ nhất. Nếu anh một mình, hãy chạy tới trung tâm thành phố, vì chúng tôi sẽ ở đó.

“Hôm nay chúng ta sẽ cống hiến hết mình vì Varden. Hôm nay chúng ta sẽ giành lấy vinh quang và danh dự tất cả đàn ông đều mơ ước. Hôm nay... hôm nay chúng ta sẽ đánh dấu tên tuổi chúng ta lên lịch sử. Những gì chúng ta làm trong vài giờ nữa sẽ truyền tụng cả trăm năm sau. Hãy nghĩ tới bạn bè, gia đinh, bố mẹ, vợ con các anh. Hãy chiến đấu hết mình vì chúng ta chiến đấu vì họ. Chúng ta chiến đấu vì tự do!”

Những người lính hô to hưởng ứng.

Roran để họ say men chiến đấu; sau đó anh giơ tay và nó. “Giơ khiên!” Và, mọi người như một giơ khiên lên, che chở cho họ và cho chiến hữu khiến cho khu giữa gỗ công thành như một con vật khổng lồ có vảy.

Roran hài lòng nhảy xuống nhìn Carn, Baldor và bốn người bạn đồng hành với anh trên quãng đường từ Belatona. Người trẻ nhất, mandel có vẻ sợ hãi nhưng Roran biết cậu ta biết cách kiềm chế nó.

“sẵn sàng chưa?” anh hỏi và họ gật đầu đồng lòng.

Sau đó Roran cười, khi Baldor hỏi lý do, anh nói, “Giá mà cha tôi nhìn thấy tôi lúc này!”

Sau đó cả Baldor cũng cười.

Roran nhìn chằm chằm dòng nước. Một khi tiến vào thành phố, các chiến binh sẽ nhận ra có gì không bình thường và sẽ ra hiệu báo nguy. Anh muốn họ báo nguy hiểm, nhưng không phải vì lý do này. Vì thế, khi dòng lũ chỉ cách Aroughs 5 phút, anh bảo Carn, “Gửi tín hiệu.”

Pháp sư gật đầu và môi di chuyển kiểu kỳ lạ nói ngôn ngữ cổ xưa. Sau vài phút, anh đứng thẳng và nói. “Xong rồi.”

Roran nhìn đằng tây. Ở đó, trên cánh đồng phía trước Aroughs là máy bắn đá, máy phóng tên và tháp chiến đấu của Varden. Tháp chiến đấu vẫn không có động tĩnh nhưng những máy móc khác đã chuẩn bị để hành động, bắn tên và đá theo đường vòng cung lên những bức tường trắng của thành phố. Anh biết rằng năm mươi người lính ở đầu kia thành phố đã thổi kèn, la hét, bắn hỏa tiễn, làm mọi thứ để thu hút sự chú ý của những tên lính trong thành và giả bộ như một đội quân lớn hơn sắp sửa tấn công thành phố từ đằng đó.

Roran cảm thấy bình tĩnh lạ thường.

Anh sắp tham chiến.

NHững binh lính của anh sắp chết.

Anh có thể là một trong số đó.

Anh hiểu và anh thấy thông suốt, anh không còn thấy kiệt sức hay run rẩy nữa. Không gì có thể tiếp sức lực cho con người nhiều như chiến tranh – không phải thức ăn, tiếng cười hay lao động chân tay, cả cả tình yêu cũng không phải – và dù ghét chiến tranh nhưng anh không thể chống lại sức quyến rũ của nó. Anh chưa bao giờ muốn làm một chiến binh nhưng anh đã trở thành một chiến binh và anh sẽ làm điều tốt nhất,

Roran che mắt nhìn qua đống đá phiến về cánh cổng đang nhanh chóng tiến tới. Trên mặt nước, cổng làm bằng sồi cứng, đen lại vì dùng lâu và ăn mòn. Bên dưới mặt nước, anh biết là lưới đan bằng sắt thép và gỗ cho dòng nước dễ dàng lưu thông. Phần bên trên là phần khó bẻ gẫy nhất, nhưng anh đoán thời gian sử dụng lâu đã khiến phần dưới yếu đi. Khi phần bên dưới bị đâm thủng, phần bên trên cũng dễ dàng đi tong thôi. Vì thế, anh đã ra lệnh cho đặ hai khúc gỗ gắn chặt bên dưới chiếc xà lan đầu tiên. Chúng sẽ tổng thẳng vào nửa dưới của cổng khi phần gỗ sẽ tổng vào phần trên.

Đây là một kế hoạch thông minh nhưng anh không biết có thành công không.

“Đững vững nha,” anh nói với mình anh hơn là nói với mọi người khi cánh cổng ngày càng gần.

Vài chiến binh bên rìa xa f lan tiếp tục điều khiển dùng gậy điều khiển xà lan, nhưng phần còn lại vẫn trốn bên dưới lớp khiên.

Cánh cổng gần hơn bao giờ hết, đường vòng cung dẫn tới cổng lớn lên trước mắt họ, trông nó như lối vào động. Khi đầu xà lan trôi vào trong đường vòm tối om, Roran nhìn thấy khuôn mặt một người lính, tròn và trắng như trăng rằm xuất hiện trên bức tường, cao hơn họ độ chín mét nhìn xuống cảnh cổng với sự kinh ngạc tới kinh hoàng.

Những chiếc xà lan di chuyển quá nhanh, Roran chỉ có thể thời lẩm bẩm một câu chửi duy nhất trước khi dòng nước đẩy họ đi vào con đường tôi om, anh không còn nhìn thấy tên lính kia nữa.

Xà lan đâm vào cổng.

Lực tác động khiến Roran nhào vào bức tường đá phiến đằng sau. Đầu anh đập vào đá và dù anh đội mũ trụ và mũ bảo vệ bên trong, tai anh vẫn ong lên. Xà lan rung lên và dù anh đang ù tai anh vẫn nghe thấy tiếng gỗ gẫy và tiếng kim loại bị cong vênh.

Một trong những tảng đá phiến trượt ra phía sau rơi trúng anh khiến anh thâm tím tay và vai. Anh dùng hết sức đẩy nó ra khỏi thuyền.

Trong ánh sáng nhờ nhờ, anh không thể nhìn thấy rõ chuyện gì xảy ra; tất cả chỉ có những cử động không rõ ràng và những âm thanh vọng lại. Nước tràn lên chân anh, anh nhận ra xà lan bị dò nhưng liệu có bị chìm không thì anh không chắc.

“Đưa rìu cho tôi!” anh hét và giơ tay ra sa, “Rìu, đưa tôi rìu!”

Anh loạng choạng vì chiếc xà lan vọt lên trước độ nửa mét. Cánh cổng bị lung lay nhưng không nhiều. Lực nước vẫn đẩy thuyền vô cổng nhưng anh không thể chờ đợi nổi nữa.

Ai đó đặt rìu vô lòng bàn tay anh. Anh nhìn thấy sáu ô trên trần hầm phát sáng vì những cung thủ đã tháo gạch giơ cung nhắm bắn.

Có người kêu thét lên.

“Carn!” Roran hét. “LÀm gì đi!”

Kệ cho pháp sư với nhiệm vụ của mình, Roran bắt đầu trèo lên đầu thuyền. Xà lan hơi lún về phía trước một chút. Một tiếng gào chói tai khác vang lên từ giữa cánh cổng và ánh sáng rọi qua những vết nứt trên cảnh cổng gỗ sồi.

Một mũi tên nữa bắn trúng đống đá phiến bên tay phải anh, để lại một vệt kim loại khắc lên tảng đá.

Anh cần nhanh gấp đôi.

Khi tới mũi thuyền, một âm thanh chói lói vang lên khiến anh bịt tai lùi lại.

Một cơn sóng lớn chùm lên người anh, che khuất tầm nhìn của anhh trong giây lát. Anh chớp mắt nhìn cho rõ và thấy một phần canahs cổng đã sập; giờ đoàn xà lan có thể tiến vào thành phố rồi. Nhưng, bên trên đoàn thuyền, những mảnh gỗ vụn đâm tua tủa từ phần còn lại của cánh cổng cao ngang với ngực, cổ và đầu người.

Roran không chần chừ lăn lùi lại và nằm xuống. “Cúi đầu xuống!” anh hét và dùng khiên che người.

Xà lan lao về phía trước, vượt qua những tên cung thủ đang nhắm bắn và lao vào căn phòng đá lớn với đuốc thắp sáng trên tường.

Ở đầu kiam nước từ con sông chảy vào một canh cổng thấp khác, từ đầu đến cuối đều là khung lưới. Qua những ô vuông, Roran có thể nhìn rõ những tòa nhà bên trong.

Hai bên căn phòng là những bậc thang đá cho người ta chất và dỡ hàng. Ròng rọc, dây kép và những cái lưới không treo trên tường và những cần trục đặt trên một mặt đá phẳng. Phía đầu căn phòng và đằng cuối, những cầu thang và lối đi dẫn người ta đi qua con sông mà không dính nước. Những lối đi gần rìa tiến được tới phòng bảo vệ bên trên đường hầm họ đã đi qua và Roran đoán và dẫn tới những khu phòng thủ lớn hơn khác của thành phố, như tới bức tường phòng thủ mà anh đã nhìn thấy tên lính.

Anh thất vọng khi nhìn cánh cổng thấp kia. Anh hy vọng sẽ tiến thẳng vào trong thành phố và tránh khỏi bị những tên lính tấn công khi họ đang trên thuyền.

Được, vậy là giờ không dùng cách này được nữa rồi, anh nghĩ.

Đằng sau anh, những tên lính mặt đỏ tía tai chạy ra từ phòng bảo vệ, quỳ xuống và bắt đầu giương cung nhắm bắn.

“Đằng đó!” Roran hét và chỉ về phía cầu cảng phía tay trái. Những chiến binh nắm lấy xào một lần nữa và đẩy xà lan về cuối con kênh. Hàng tá hàng ta mũi tên cắm vào khiên khiến chiếc thuyền có hình con nhím

Khi xà lan gần các bến cảng, hai mươi tên lính rút kiếm và chạy xuống cầu thang đón đầu quân Varden trước khi họ bước xuống.

“Nhanh!” anh hét.

Một mũi tên căm lên khiến của anh và đầu mũi tên hình kim cương chỉ còn cách tay anhh có 0.5cm. Anh suýt ngã và anh biết anh chỉ có vài giây nữa trước khi có nhiều tên khác muốn bắn vào anh.

Roran nhảy lên cầu cảng, giang rộng tay giữ thăng bằng. Anh hạ cánh nặng nề , một bên đầu gối đập xuống sàn nhà và chỉ có đủ thời gian lôi cây búa trước khi những tên lính tới gần.

Anh cảm thấy nhẹ nhóm và vui thú khi nhìn thấy họ. Anh ốm về hoạch định vẽ vời kế hoạch. Giờ anh được đối mặt với kẻ thù thực sự. Không phải những tên thích khác kinh tởm – mà an có thể đánh giết.

Vụ đụng dộ diễn ra ngắn ngủi nhưng dữ dội và đẫm máu. Roran giết hoặc làm bị thương ba tên linh ngay từ những giây đầu tiên. Sau đó, Baldor, Delwin, Halmund, Mandel và những người khác cùng anh khiến những tên lính tránh xa dòng sông.

Roran không phải một kiếm sĩ, vì thế anh không cố đấu kiếm với kẻ thù. Thay vào đó, anh để chúng đánh trúng khiên nếu muốn trong khi dùng búa đập gẫy xương chúng. Đôi lúc, anh phải đỡ kiếm nhưng anh cố không giao đấu nhiều hơn vài đường với một người vì anh biết sự thiếu kinh nghiệm của anh sẽ để anh lộ ra những sơ hở chết người. Anh đã phát hiện ra ngón nghề hay nhất trong đánh nhau không phải là những pha xoay kiếm tuyệt vời hay những động tác giả phức tạp do nhiều năm rèn luyện mà là chiếm thế chủ động và làm những gì kẻ thù ít ngờ tới nhất.

Thoát khỏi cuộc vây đánh, Roran lao lên cầu thang dẫn tới lối đi bộ có các cung thủ đang nắm bắn binh lính trên thuyền.

Roran nhảy lên ba bậc thang một và vung búa đập thẳng vào mặt tên cung thủ thứ nhất. Tên thứ hai đã bắn tên vì thế hắn đành hạ cùng xuống, vươn tay tìm đoản kiếm.

Nhưng hắn chỉ rút được nửa con dao khỏi vỏ thì Roran đã đánh mạnh vào ngực hắn,, khiến hắn gẫy xương sườn.

Một trong những điều Roran thích khi dùng búa là anh không phải quan tâm nhiều tới loại giáp đối thủ dùng. Một cây búa, giống như bất cứ loại vũ khí tù đầu khác, gây ra vết thương bởi lực tác động chứ không phải vì những vết chém cắt lên d.a thịt. Anh thích sự đơn giản đó.

Tên lính thứ ba trên đường định bắn anh trước khi anh bước thêm một bước. Lần này, mũi tên chọc qua khiên tới nửa và suýt xuyên vào ngực anh. Anh giữ mũi nhọn chết người đó tránh xa, anh tấn công vào vai hắn. Hắn sử dụng cung để đỡ vì thế Roran dùng mặt khiên đánh ngã hắn, hiến hắn la thét khi ngã dập người vào lan can đường đi bộ.

Kế hoach của Roran biến anh thành một mục tiêu dễ công kích. Khi anh chú ý tới năm tên còn lại thì ba tên đã nhắm thẳng vào ngực anh.

Những tên lính bắn cung.

Trước khi những mũi tên xuyên qua anh, chúng vặn vẹo và lệch sang phải, bay chéo qua những bức tường tối đen như những con ong vò vẽ khổng lồ đang giận dữ.

Roran biết Carn đã cứu anh, và anh sẽ tìm cách cám ơn pháp sư ngay khi họ không còn trong cơn nguy hiểm chết người này nữa.

Anh lao về phía những tên lính còn lại và hạ gục chúng bằng những cú đánh mạnh mẽ như thể chúng chỉ là những cái đinh cong anh cần đóng xuống. Sau đó anh bẻ gẫy mũi tên cắm trên khiên vf quay lại quan sát trận chiến.

Lúc đó tên lính cuối cùng đã đổ gục trên mặt đất bê bết máu, đầu hắn đứt lìa, rơi xuống sông.

Hai phần ba số quân Varden đã lên bờ, xếp hàng bên bờ sông.

Roran mở miệng định ra lệnh cho họ tản khỏi dòng sông – để những người còn trên thuyền có chỗ mà lên – thì cánh cửa bên trái mở toang và một đội lính xông vào.

Chết tiệt! Chúng tới từ đâu vậy! Có bao nhiêu tên đây?

Ngay khi Roran định bước lên cầu thang giúp đồng đội chống đỡ những kẻ mới, Carn – từ này giờ vẫn đứng đầu thuyền – giơ tay chỉ vào những tên lính và niệm chú bằng ngôn ngữ cổ.

Như anh ta muốn, hai túi bột và một tảng đá phiến bay lên khỏi thuyền và bay về phía những tên lính, hạ gục 12 tên. Sau ba bốn lần va chạm, túi bột bung ra, thứ bột trắng ngà phủ lên người chúng, khiến chùng mù mắt và khó thở.

Một giây sau, một ngọn lửa xuất hiện đằng sau chúng – một quả cầu lửa lớn màu vàng cam chạy qua đám mây bột, tham tàn nuốt chúng và tạo ra âm thanh như hàng trăm lá cờ bay phấp phới trong gió.

Roran che khiến và cảm nhận được sức nóng trên chân và lớp da trần ở ngực khi quả cầu thiêu cháy chỉ cách đó vài mét biến những hạt bột thành bụi rơi xuống: một cơn mưa đen, chết chóc chỉ hợp cho một đám tang.

Khi thứ ánh sáng chết chóc đó yếu đi, Roran cẩn trong ngẩng đầu. Khói có mùi hôi thối, nóng nực xộc vào mũi anh, làm cay mắt anh và anh nhận ra râu bị cháy. Anh nguyền rủa và hạ búa xuống dập lửa.

“Này!” anh hét gọi Carn. “Anh đốt râu tôi rồi! Cẩn thận hơn đi, không tôi phi giáo vào đầu anh đấy!”

Hầu hết những tên lính đang nằm lăn lộn dưới đất tay che khuôn mặt bị bỏng. Những tên khác dập lửa cháy quần áo, trên giáp trong khi cố chống những đòn tấn công khác của Varden. Những binh sĩ của Roran có vẻ chỉ bị vài vết bỏng nhỏ - hầu hết đều tránh xa tầm ảnh hưởng của quả cầu lửa – dù trận hỏa hoạn bất ngờ đó khiến họ bối rối đôi chút.

“Đừng đừng nhìn như mấy gã ngốc nữa mà hãy tóm lấy mấy thằng nhãi mù dở trước khi chúng phục hồi đi!” anh ra lệnh và gõ búa lên lan can để họ chú ý.

Varden đông hơn số lính và khi Roran xuống thang, họ đã giết chết ba phần tư số linh gác.

Roran đi về phía cánh cửa đôi lớn dẫn ra khỏi con kênh – cánh cửa lớn đủ cho hai xe ngựa đi song song qua. Anh đi qua Carn, đang ngồi trên đường, ăn đồ ăn từ túi da anh luôn mang theo. Roran biết trong túi đó là hỗn hợp của mỡ lợn, mật ong, gan bò giã nhỏ, tim cừu và quả việt quất. Có một lần Carn cho anh một miếng, anh nhổ ra – nhưng chỉ một miếng thôi đã đủ giúp một người duy trì thể lực sau cả ngày làm việc cực nhọc.

Pháp sư trông kiệt sức. “Anh tiếp tục nổi không?” Roran hỏi.

Carn gật đầu. “Tôi chỉ cần nghỉ một lát... Mấy mũi tên trong đường hầm rồi túi bột và đá...” Anh cắn thêm một miếng nữa. “Hơi quá sức chút.”

Roran thấy yên tâm định bỏ đi thì carn nắm lấy tay anh. “Tôi không làm,” anh nói và mắt hấp hay vui vẻ. “Đốt râu anh ấy. Đấy là do mấy ngọn duốc.”

Roran càu nahuf và tiếp tục đi về cửa. “Tập hớp!’ anh hét và dùng búa đập lên khiên. “Baldor, Delwin cùng tôi đứng hàng tiên phong. Những người còn lại đi sau. Chuẩn bị sẵn sàng. Có thể Halstead chưa biết chúng ta đã vào thành phố nhưng đừng để ai trốn thoát báo tin... Sẵn sàng chưa? Vậy thì đi với tôi!”

Anh cùng Baldor – má và mũi đỏ lựng vì vụ cháy – mở toang cửa bước vào Aroughs.
 
21. KHÓI BỤI
Hàng tá những tòa nhà tường vôi san sát nhau chung quanh bức tường ngoài, nơi con kênh dãn vào Aroughs. Tất cả các căn nhà – lạnh lẽo và kín mít vì những cửa sổ đen đóng kín – hình như đều là nhà kho. Tất cả đều chất đầy tới nóc, nghĩa là, không ai biết Varden đã vượt qua hàng phòng thủ.

Roran không có ý định đứng đó tìm hiểu.

Những tia sáng đầu tiên đã chiếu vào thành phố, mạ vàng những nóc tháp, tường thành, những mái vòm, những mái nhà nghiêng nghiêng. Đường phố và những con hẻm khoác lên mình màu bạc xỉn đục và nước chảy trong kênh có màu tối, ảm đạm và váng máu. Trên trời chỉ còn duy nhất một ngôi sao, tỏa ánh sáng xanh xao ảo não vì ánh dương sắp lên làm lu mờ những bảo vật của màn đêm.

Varden tiến lên, gót giày da của họ nện lên con đường rải đá cuội.

Từ đằng xa vọng lại tiếng gà gáy.

Roran dẫn đoàn quân đi qua những dãy nhà tới bức tường thành bên trong thành phố nhưng không phải luôn đi theo con đường to thẳng nhất để tránh chạm trán ai đó trên đường. Họ đi theo những con đường nhỏ và u ám tới mức đôi khi không nhìn thấy mặt đất.

Những máng nước cáu bẩn. Mùi hôi thối khiến anh lợm giọng. Anh ước gì mình đang đứng trên cánh đồng bao la ở quê nhà.

Sao người ta có thể sống thế này nổi nhỉ? Anh phân vân. Kể cả lợn cũng không đầm mình trong đống bẩn thỉu của nó.

Đi xa những bức tường ngoài họ thấy nhiều nhà ở và cửa hàng hơn: chúng cao ráo, vuông vắn với những bức tường sơn trắng và cửa trang trí hoa văn bằng thép. Đằng sau những cánh cửa sổ đóng kín, thi thoảng Roran nghe có tiếng nói hay tiếng bát đĩa loảng xoảng hoặc tiếng ghế kéo lên trên sàn gỗ.

Chúng ta không còn nhiều thời gian, anh nghĩ. Vài phút nữa thôi là những con đường sẽ nhung nhúc người.

Đúng như dự đoán của anh, hai người đàn ông bước ra khỏi con hẻm trước mặt họ. Họ gánh trên vai hai thùng sữa.

Họ ngạc nhiên khựng lại khi thấy Varden, sữa đổ khỏi thùng. Họ mở to mắt và há miệng định tri hô.

Roran và đoàn quân đứng lại. “Nếu các người hét lên một tiếng thôi, tôi sẽ giết chết ngay,” anh nói bằng giọng nhẹ nhàng, thân thiện.

Hai gã rùng mình thối lui.

Roran bước lên. “Nếu các người chạy, các người sẽ chết.” Anh nhìn chằm chằm họ và gọi tên Carn. Khi người pháp sư tới bên cạnh, anh nói. “Anh có thể làm cho họ ngủ được không.”

Pháp sư nhanh chong ngâm một cụm từ bằng ngôn ngử cổ, âm kết thúc đối với Roran giống như slytha. Hai gã đổ vật xuống đường, hai thùng sữa nảy lên khi đập xuống nền đá cuội. Sữa đổ tràn ra đường tạo nên một mạng lưới tinh tế những đường tơ trắng chạy theo các rãnh đá.

“Kéo họ sang một bên,” Roran nói, “chỗ nào người ta không thấy ấy.”

Sau khi các chiến binh của anh kéo hai gã bất tỉnh khỏi đường, anh ra lệnh cho quân Varden tiếp tục tiến lên. Họ cần nhanh chóng tới được nội thành.

Nhưng chưa đi được trăm mét, tại một góc quặt họ đụng độ với một nhóm bốn tên lính.

Lần này Roran không nhân nhượng. Anh lao về phía họ, xé lẻ họ và, trong khi chúng chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, anh đập búa vào cổ tên lính dẫn đầu. Cùng lúc đó, Baldor chém rơi đầu tên lính khác với sức mạnh bằng vài người đàn ông. Đó là sức mạnh anh có được sau nhiều năm làm việc trong xưởng rèn của bố.

Hai gã còn lại quang quác báo động. Chúng quay người, bỏ chạy.

Một mũi tay bay vút qua vai Roran trúng lưng một tên lính, khiến hắn đổ ụp xuống đường. Một lát sau, Carn quát, “Jierda!” Cổ tên lính cuối cùng gẫy đánh rắc, và hắn nằm bất động giữa đường.

Tên lính dính tên trên lưng bắt đầu hét: “Quân Varden! Quân Varden! Báo động, quâ...”

Roran rút dao găm, chạy tới cắt cổ hắn. Anh lau máu vào áo hắn rồi đứng dậy nó, “Chạy nhanh lên!”

Mọi người như một chạy rầm rập trên con đường dẫn tới nội thành Aroughs.

Khi họ chạy được trăm mét, Roran dừng lại tại một con hẻm đằng sau một căn nhà, giơ tay bảo những người lứng chờ. Sau đó anh đi rón rén, lén nhìn qua khung lưới sắt trên bức tường đá hoa cương trắng.

Cổng thành đóng.

Nhưng ở bên trái có một lỗ hổng lớn. Khi anh quan sát, một tên lính đi qua đó và nhắm thẳng về phía tây thành phố mà chạy.

Roran tự chửi rủa mình. Anh không định bỏ cuộc, đặc biệt khi họ đã đi được tới đây, nhưng họ đang càng ngày càng gặp nguy hiểm. Anh biết chỉ vài phút nữa thôi, lệnh giới nghiêm chấm dứt và anh cùng đội quân sẽ bị phát hiện.

Anh lùi lại sau bức tường và cúi đầu suy nghĩ.

“Mandel,” anh nói và búng tay. “Delwin, Carn và ba anh nữa.” Anh chỉ vào nhóm ba người lính trông có vẻ bặm trợn – anh nghĩ là có thâm niên chiến đấu. “Đi cùng tôi. Baldo, anh chỉ huy những người còn lại. Nếu chúng tôi không trở lại, hãy tự nghĩ cách giữ mạng. Đây là lệnh.”

Baldor ủ rũ gật đầu.

Cùng với sáu người anh lựa chọn, Roran rẽ vào con đường lớn dẫn tới cánh cổng cho tới khi tới chân tường đầy rác có lẽ cách lỗ hổng độ 15m.

Hai tên lính đang đứng gác ở hai thòa tháp trên cổng nhưng trong lúc này, chúng không thể nhìn thấy họ trừ khi thò cổ xuống.

Roran thì thầm nói, “Một khi qua được cánh cửa, anh, anh, và anh nữa” – Roran chỉ Carn, Delwin và một trong ba người lính kia – “sẽ tới chòi gác nhanh nhất có thể. Chúng tôi sẽ tới chòi gần đó. Làm gì cũng được nhưng nhớ là phải mở cửa. Có thể chúng ta chỉ phải quay một guồng xích duy nhất hoặc phải phối hợp mở cửa, vì thế đừng nghĩ các anh có thể chết để lại mọi việc cho tôi. Sẵn sàng chưa?... Nào!”

Roran chạy nhẹ nhàng nhất có thể, dọc theo bước tường rồi rẽ quặt vào lỗ hổng.

Phía trước anh là một căn phòng dẫn tới một quảng trường rộng có bốn đài phun nước xếp thành hàng ở chính giữa. Những người đàn ông ăn mặc đẹp đẽ đang vội vã đi lại trong quàng trường, rất nhiều người đang cầm những cuộn giấy trong tay.

Roran không để ý tới họ mà rẽ vào một cánh cửa đóng im ỉm. Anh dùng tay khóa, cố kìm h.am m.uốn đá tung cửa ra. Sau cánh cửa là một phòng bốt gác với cầu thang xoắn ốc xây sát một bên tường.

Anh chạy lên cầu thang, sau một lần vòng duy nhất, anh đã ở trong một căn phòng trần thấp có năm tên lính đang hút thuốc và chơi xúc xắc trên bàn cạnh một trục quay khổng lồ có dây xích dày bằng cổ tay.

“Xin chào!” Roran nói bằng giọng trầm và đầy uy lực. “Tôi có một lá thư vô cùng quan trọng cho các người.”

Những tên lính ngần ngừ rồi đứng bật dậy, kéo lùi ghế lại. Chân ghế kêu kén két trên sàn nhà.

Họ quá muộn. Chỉ trong một tích tắc thiếu quyết đoán đó, Roran đã rút gọn khoảng cách trước khi chúng kịp rút vũ khí.

Roran rống lên khi lao vào giữa đám lính, cùng cây búa tả hữu xung đột và đẩy lùi năm tên lính vào một góc tường. Sau đó Mandel và hai người lính khác đến cạnh anh, lưỡi kiếm lóe lên loang loáng. Họ cùng nhau tiêu diệt những tên lính gác.

Khi đứng trước xác tên lính cuối cùng, Roran vỗ xuống đất và nói, “Đừng tin người lạ.”

Cuộc ẩu đả khiến căn phòng hỗn tạp nhiều thứ mùi kinh khủng giống như phủ lên người Roran cái chăn dầy nặng làm bằng loại chất liệu khiến anh khó chịu nhất. Anh hầu như không thở nổi, vì thế anh dùng tay áo che mũi và miệng lại.

Bốn người họ đi tới trục quay, cẩn thận không giẫm lên vũng máu và đứng nghiên cứu xem nó hoạt động ra sao.

Roran nhìn quanh, giơ búa lên khi nghe có tiếng kim loại lách cách rồi một tiếng cửa sập được kéo lên, theo sau là tiếng bước chân hỗn loạn khi một tên lính bước xuống từ tòa tháp canh bên trên.

“Taurin, chuyện chó gì đang...” Giọng nói của hắn tắc lại trong họng và hắn đứng khựng giữa cầu thang khi thấy Roran và những người bạn cùng những xác chết trong góc phòng.

Chiến binh bên phải Roran phi giáo về phía hắn nhưng hắn lùi lại và mũi giáo vọt đâm vào bức tường bên trên. Tên lính chửi rủa và chạy ngược lên cầu thang, biến mất trong khúc ngoặt cong cong.

Chỉ một lát sau, cảnh cửa sập đóng lại với một tiếng bùm, và họ nghe có tiếng kèn và tiếng hô báo nguy cho những người trên quảng trường.

Roran chửi rủa và quay về chỗ trục quay. “Thả xích,” anh nói và nhét búa vào thắt lưng. Anh nắm lấy bánh xe dùng để hạ và nâng lưới sắt lên và đẩy thật lực. NHững người khác tiếp sức và từ từ, rất từ từ, bánh xe bắt đầu chuyển động và tiếng xích vang lớn.

Vài giây sau công việc trở nên dễ dàng hơn có lẽ nhờ vào những người anh đã bảo tới bốt canh bên kia.

Họ không định nâng cả lưới sắt lên; sau nửa phút toát mồ hôi, tiếng hò hét của quân Varden vang lên bên tai họ vì những người lính bên ngoài thành đã lao vào quảng trường.

Roran thả tay, rút búa ra và cùng những người khác lao lên tầng.

Bên ngoài bốt canh, anh nhìn thấy Carn và Delwin vừa mới bước lên từ phía bên kia. Không ai bị thương nhưng Roran không thấy người lính già bên đó.

Trong khi đợi nhóm Roran tới, Baldor và những Varden còn lại sắp xếp thành một đội quân ở góc quảng trường. Họ đứng thành năm hàng, kề vai sát cánh với khiên che cao.

Khi Roran chạy tới, anh thấy một lực lượng lính tới đổ ra từ các tòa nhà trong quảng trường. Chúng hình thành một hang phòng thủ, chĩa giáo về phía trước trông gối cắm kim của thợ may. Anh ước chừng có khoảng một trăm năm mươi tên – quân đội của anh dễ dàng đánh bại nhưng sẽ tốn thời gian và hao tổn nhân lực.

Khi tên pháp sư mũi khoằm anh nhìn thấy ngày hôm trước bước ra khỏi hang lính và giơ tay lên đầu, trên tay hắn xuất hiện những ánh chớp đen lách tách thì tâm trạng của Roran càng xấu hơn. Roran đã học đủ những kiến thức về phép thuật từ Roran để biết ánh chớp có thể chỉ để phô diễn tài nghệ mà thôi, nhưng dù sao anh cũng biết chắc tên thầy pháp của quân địch là một mối đe dọa to lớn.

Carn tiến lên đứng trước mọi người chỉ sau Roran vài giây. Họ và Baldor lừ mắt nhìn tên pháp sư và hàng lính phòng thủ bên đối diện.

“Anh giết nổi hắn không?” Roran hỏi nho9r để những người lính đằng sau không nghe thấy.

“Tôi phải thử mới biết được chứ?” Carn trả lời. Anh ta dùng mu bàn tay chùi mép. Trên mặt anh lấm tấm mồ hôi.

“Nếu anh muốn chúng tôi có thể tập trung vào hắn. HẮn không thể nào giết hết chúng ta trước khi chúng ta làm lá chắn của hắn suy yếu và đâm xuyên tim hắn.”

“Anh không hiểu đâu... Không, đây là trách nhiệm của tôi và tôi phải tự mình đương đầu với hắn.”

“Chúng tôi giúp được gì không?”

Carn bật cười lo lắng. “Anh có thể bắn tên về phía hắn. Vừa chặn tên vừa làm phép sẽ khiến hắn suy yếu và lộ sơ hở. Nhưng dù làm gì cũng đừng xen vào giữa chúng tôi... Không an toàn cho cả anh và tôi.”

Roran chuyển búa sang tay trái rồi đặt tay phải lên vai Carn. “Anh sẽ ổn thôi. NHớ rằng hắn không quá thông minh. Anh đã lừa hắn một lần và có thể chơi hắn lần nữa.”

“Tôi biết.”

“Chúc may mắn.” Roran nói.

Carn gật đầu một cái rồi bước tới đài phun nước ở giữa quảng trường. Ánh sáng mặt trời nhảy nhót trên mặt nước, phản chiếu như hàng ngàn viên kim cương trong không khí.

Tên pháp sư mũi khoằm cũng bước tới đài phun nước cho tới khi họ chỉ cách nhau độ 6m.

Từ chỗ Roran đứng, Carn và đối thủ như đang nói chuyện với nhau nhưng anh không thể nghe họ nói gì. Sau đó cả hai pháp sư đều đứng cứng ngắc như thể có ai dùng dao găm đâm họ.

Đó là điều Roran đã biết trước: một dấu hiệu cho thấy họ đang đấu trí, không quan tâm gì tới mọi thứ xung quanh.

“Cung thủ!” anh hô. “Ra kia và đằng kia nữa,” anh chỉ về hai phía quảng trường. Bắn càng nhiều mũi tên vào tên chó phản bội kia càng tốt nhưng đừng bắn nhầm Carn không tôi sẽ cho các anh làm mồi cho Saphira.”

NHững người lính khó khăn rời ra để hai nhóm cung thủ tiến về quảng trường nhưng không một đội quân nào của Galbatorix tiến tới chặn Varden.

Chắc hẳn họ phải tự tin vào con rắn độc kia lắn, Roran lo lắng nghĩ.

Hàng ta những mũi tên đuôi lông ngỗng màu nâu bay vun vút về phía tên pháp sư phe địch và trong chốc lát, Roran hy vọng họ có thể giết chết hắn. Nhưng khi những mũi tên cách hắn khoảng mét rưỡi, chúng gẫy đôi, rơi xuống đất như vừa đâm vào một bức tường đá.

Roran nhảy lên vì quá căng thẳng. Anh ghét phải chờ đợi, không làm gì trong khi bạn bè đang gặp nguy. Hơn nữa mỗi giây trôi qua Lãnh chúa Halstead lại có thêm cơ hội hiểu chuyện gì đang diễn ra và tìm phương án thích hợp để ứng phó. Nếu những chiến binh của Roran muốn không bị gót giày của đội quân đông hơn gấp vạn của Triều đình dẫm bẹp, họ phải có được ưu thế về sự bất ngờ.

“Sẵn sàng nào!” anh nói với những chiến binh. “Chúng ta hãy xem có thể làm gì trong khi Carn đang chiến đấu bảo vệ chúng ta. Chúng ta sẽ tấn công toán linh kia. Một nửa đi theo tôi, một nửa theo Delwin. Chúng không thể chặn mọi ngả đường, vì vậy, Delwin, anh và cánh quân của anh hãy tìm đường vượt qua chúng rồi quay lại tấn công chúng từ phía sau. Chúng tôi sẽ khiêu khích trước mặt chúng để chúng không kịp trở tay. Nếu có tên nào định chạy, mặc kệ chúng. Đằng nào chúng ta cũng sẽ mất rất nhiều thời gian để giết tất cả rồi. Hiểu chưa.... Đi thôi!”

Mọi người nhanh chóng tản thành hai nhóm. Roran dẫn đầu nhóm của anh chạy về phía bên phải quảng trường trong khi Delwin chạy về bên trái.

Khi cả hai tiến tới đài phun nước, Roran lấy tên pháp sư phe địch leiecs nhìn anh. Chỉ trong thoáng chốc nhưng sự xao lãng đó đã đủ ảnh hưởng tới trận chiến giữa hắn và Carn. Khi tên mũi khoằm nhìn lại Carn, vẻ hằm hè trên mặt hắn xoắn lại thành một nỗi đâu và các đường gân bắt đầu nổi lên trên lông mày nhíu chặt và toàn bộ mặt hắn biến sắc, chuyển thành đỏ sậm vì giận dữ như thể bị úng máu.

“Không!” hắn lồng lộn hét lên, sau đó nói một cái gì đó bằng ngôn ngữ cổ mà Roran không hiểu.

Một tích tắc sau Carn cũng hét lên gì đó. GIọng họ chồng chéo lên nhau mang theo sự tức giận, thù ghét, buồn rầu khiến Roran biết rằng trận chiến giữa họ đã đi lệch hướng.

Carn biến mất trong ánh sáng xanh. Sau đó một vỏ sò cong cong hình mái vòm màu trắng xuất hiện nơi anh đứng và tỏa rộng ra cả quảng trường trong thời gian chẳng đủ cho Roran chớp mắt.

Thế giới chìm trong màn đen. Roran cảm thấy một luồng nhiệt nóng không chịu nổi, mọi thứ xoay vần xoắn vặn chung quanh anh như anh đang rơi vào một khoảng không vô định.

Cây búa rơi khỏi tay anh và đầu gối phải anh nhói đau. Sau đó một vật gì đó đập vào mồm anh khiến mồm anh toàn máu là máu.
 
Tới khi định hình nổi, anh thấy mình vẫn ở nguôn chỗ cũ, nằm sấp và người cứng ngắc. Các giác quan từ từ quay lại giúp anh thấy bề mặt đá xanh xám trơn nhẵn dưới mũi anh, ngửi thấy mùi vữa chì trên đá, cảm nhận được cơn đau ê ẩm chạy dọc cơ thể. Âm thanh duy nhất anh nghe được là tiếng đập của con tim.

Anh thổ huyết khi hít thở trở lại. Anh thèm khát không khí, anh ho hắng và ngồi thẳng dậy, nhổ đờm đen ra. Một chiếc răng cửa của anh hạ cánh xuống đất cùng máu. Anh nhặt nó lên xem xét, răng bị mẻ nhưng chân răng còn nguyên vẹn, thế là anh lau sạch nó và ấn lại vào nướu, nhăn mặt vì chạm vào chỗ đau. (cái này mà được à? Không tin!)

Anh loạng choạng đứng thẳng dậy. Anh đã bị thổi bay đập vào bậc tam cấp một ngôi nhà ở rìa quảng trường. Những người lính ngổn ngang xung quanh, tay chân xiêu vẹo, mất mũ trụ, gươm kiếm bay đâu mất.

Một lần nữa Roran mừng vì mình cầm búa vì trong cơn hỗn loạn nhiều Varden đã đâm cả vào nhau.

Búa? Búa của mình đâu? Anh trì trệ nghĩ. Anh nhìn xung quanh tới khi thấy cán búa nằm dưới chân một chiến binh gần đó. Anh lôi nó ra và nhìn quảng trường.

Những tên lính và Varden bị quăng liểng xiểng. Đài phun nước không còn gì ngoài đống gạch vụn đang phun nước từng chập. Bên cạnh đó nơi Carn từng đứng là một xác chết héo quắt, đen sì đang bốc khói trông như xác nhện chết, toàn bộ th.ân thể đã cháy thành than khiến người ta không nhận ra nói sinh vật đó từng sống chứ không nói chi là người. Lạ lùng thay, tên pháp sư mũi khoằm vẫn đứng tại chỗ dù vụ nổ làm bay hết quần áo ngoài chỉ còn mặc độc cái khố.

Cơn giận dữ không kiểm soát nổi sôi lên trong Roran. Anh không nghĩ tới tính mạng bản thân khập khiễng đi vào trung tâm quảng trường, cố sống cố chết giết tên pháp sư đó.

Tên pháp sư ngực trần đứng nguyên tại chỗ khi Roran đến gần. Roran giơ búa hét lớn nhưng bản thân anh không hề nghe nổi tiếng mình.

Nhưng hắn vẫn không mảy may nhúc nhích.

Roran nhận ra hắn không hề di chuyển lấy một centimet từ vụ nổ. Như thể hắn là một bức tượng mà thôi.

Vẻ bình thản của tên thầy pháp với sự xuất hiện của Roran chỉ khiến anh muốn lờ hành vi thiếu bình thường của hắn – hay đúng hơn là chẳng có hành động gì – và đập mạnh vào đầu hắn cho xong. Nhưng sự thận trọng của Roran đã giúp anh giảm bớt ý muốn báo thù và khiến anh đi chậm lại và dừng hẳn khi còn cách tên pháp sư độ mét rưỡi.

Anh mừng là anh đã dừng lại.

Từ đằng xa trong tên pháp sư vẫn bình thường nhưng khi lại gần, Roran thấy da hắn nhẽo và có nếp nhăn như một ông già. Da hắn xạm màu và càng lúc càng xạm hơn như thể hắn bị hóa đá.

NGực hắn phập phồng và tròng mắt đảo liên tục nhưng trắng dã. Ngoài ra hắn không thể cử động.

Trong lúc đó, tay, cổ và ngực hắn co lại, xương hắn như lộ ra – từ xương ức cho tới xương bánh chè, bung hắn tóp vào như một chai nước rỗng. Môi hắn co lại và vén cao lộ những chiếc răng vàng khè, tròng mắt thụt và d.a thịt héo lại.

Sau đó hơi thở của hắn – khò khè, rít lên từng chập – cũng yếu dần nhưng không hoàn toàn mất hẳn.

Roran hoảng sợ lùi lại. Anh càng thấy có gì đó trơn trượt dưới giày. Khi nhìn xuống anh thấy anh đang đứng trên một vũng nước. Lúc đầu anh nghĩ chỉ là nước từ đài phun nước nhưng sau anh biết đó là nước chảy ra từ người gã pháp sư đang cứng đờ.

Roran chửi rủa, khiếp sợ và nhảy ra chỗ đất khô. Nhìn thấy dòng nước là Roran hiểu Carn làm gì và sợ lại càng sợ thêm. Dường như Carn đã niệm một câu thần chú rút từng giọt nước khỏi người tên pháp sư.

Chỉ thêm vài giây, gã chẳng khác nào một bộ xương da đen cứng. Hẳn trở thành một xác ướp nằm phơi nắng trong cát sa mạc Hadarac cả trăm năm. Dù hắn sắp chết nhưng câu thần chú của Carn buộc hắn đứng đó: như một bóng ma kinh hồn táng đởm, một trong những thứ đáng sợ nhất Roran từng thấy trong những cơn ác mộng hay trong chiến trận.

Sau đó lớp da hắn phân hủy thành bụi xám, cuộn tròn, bay lên rồi rơi xuống trôi trên vũng nước bên dưới như tàn lửa. Tiếp theo đó là cơ và xương, rồi lục phủ ngũ tạng cũng chẳng còn. Tất cả chỉ để lại một đống bột trên vũng nước từng trong cơ thể người.

Roran nhìn xác Carn rồi vội quay mặt đi vì không chịu đựng nỏi. Ít nhất anh cũng báo thù được cho mình. Sau đó anh không nghĩ tới người bạn đã ra đi mà tập trung tới vấn đề trước mắt: những tên lính ở phía nam quảng trường đang từ từ đứng dậy.

Roran thấy quân Varden cũng đang hành động tương tự. “Này!” anh hô. “Đi với tôi! Chúng ta không thể bỏ lỡ cơ hội này.” Anh chỉ vào vài người lính bị thương nặng. “Giúp họ đứng dậy và để họ vào giữa hàng quân. Không được bỏ ai lại. Không một ai!” Môi và miệng anh sưng lên khi nói, đầu anhh đau như thể uống rượu cả đêm.

Quân Varden tập hợp lại dưới mệnh lệnh của anh và nhanh chóng đi theo anh. Với một toán người sau lưng, Roran sánh bước cùng Baldor và Delwin, cả hai đều bầm dập vì vụ nổ.

“Carn chết rồi à?” Baldor hỏi.

Roran gật đầu và nâng khiên lên như những người khác, hình thành một bức tường người thống nhất.

“Vậy chúng ta nên hy vọng Halstead không có thêm một pháp sư nào.” Delwin lầm bầm.

Khi quân Varden đã vào vị trí, Roran hét. “TIến lên!” và các chiến binh xông vào những tên lính còn lại trên quảng trường.

Có thể vì tướng chỉ huy của chúng kém hiệu quả hơn Varden hay vì vụ nổ vừa rồi đã khiến chúng tổn thất nghiêm trọng, binh lính của triều đình không thể phục hồi kịp khi Varden tấn công.

Roran rên rẩm và loạng choạng lùi lại một bước khi một ngọn giáo xuyên qua khiên và khiến tay anh tê rần. Anh dùng búa đập lên mặt khiên. Cán giáo nảy lên nhưng không chịu rời ra.

Một tên lính trước mặt anh, có lẽ là tên đã phóng giáo nhân cơ hội chạy tới và chém vào cổ Roran. Roran định giơ khiên cùng thanh giáo cắm trên đó nhưng nó quá nặng và cồng kềnh nên anh quyết định dùng búa đánh rơi thanh kiếm.

Nhưng thanh kiếm chém đúng điểm mù trong tầm nhìn của anh khiến anh đỡ trượt. Có lẽ vào phút đó anh đã chết nếu đốt ngón tay anh không đập trúng phần mặt kiếm khiến nó trật đi vài centimet.

Mũi tên lửa vút qua vai phải của Roran. Những mũi tên bắn vun vút xung quanh anh, mắt anh chỉ thấy màu vàng sáng. Đầu gối phải anh khuỵu xuống. Anh ngã.

Đá bên dưới anh. Xung quanh anh là những bàn chân và cẳng chân khiến anh không thể lăn người giữ an toàn. Toàn bộ cơ thể anh uể oải như thể anh rơi vào bẫy bằng mật vậy.

Quá chậm, quá chậm, anh nghĩ khi cố tháo khiên và đứng dậy. Nếu anh nằm dưới đất có thể anh bị dẫm bẹp quá. Quá chậm!

Rồi anh thấy một tên lính đổ ập xuống trước mặt, nắm lấy áo anh và một giây sau, có một ai đó nắm cổ áo giáp giúp Roran đứng dậy. Đó là Baldor.

Roran vặn cổ nhìn tên lính vừa đánh mình. Năm mắt xích trên giáp anh bị chặt tung nhưng dù sao áo giáp vẫn còn. Dù máu chảy ra từ phần mềm, đau cổ và tay nhưng anh không nghĩ mình dính vết thương chí mạng hay cần nghỉ ngơi xem xét. Tay phải anh vẫn lành lặn – ít nhất là đủ tiếp tục chiến đấu – và đó là tất cả những gì anh quan tâm trong giây phút này.

Ai đó đưa cho anh cái khiên mới. Anh đeo nó vào và cùng những người lính của mình đẩy lùi những tên lính vào những con đường rộng tỏa ra từ quảng trường.

Những tên lính nhanh chóng bị đánh bại trước sức mạnh vượt trội của quân Varden. Chúng chạy vào vô số những con đường và hẻm nhỏ tỏa ra khắp thành phố.

Roran ngừng lại cho năm mươi người lính quay lại đóng cửa thành và canh gác đề phòng có kẻ nào phát hiện họ đã ở trong lòng Aroughs. Hầu hết những tên lính trong thành phố đều canh gác ngoại thành để chống lại mũi quân bên ngoài và Roran không hứng đối mặt với họ lúc này. Làm thế khác nào tự sát.

Quân Varden chỉ gặp lại sự chống cự yếu ớt trên đường đi từ nội thành tới lâu đài nguy nga của lãnh chúa Halstead.

Trước lâu đài là một khoảng sân rộng với một hồ nhân tạo – với những con ngỗng trời và thiên nga trắng đang bơi lội. Lâu đài cao hơn phần còn lại của Aroughs. Lâu đài đẹp, tráng lệ với những mái vòm thoáng đãng, những dãy cột và ban công rộng dùng cho những bữa tiệc hay khiêu vũ. Không giống những lâu đài ở Belatona, nó được thiết kế cho việc vui chơi nghỉ ngơi đầu óc chứ không phải là phòng tuyến phòng thủ.

Chắc họ nghĩ không ai có thể vượt qua những bức tường, Roran nghĩ.

Vài bảo vệ và lính gác ở sân xông về phía Varden khi thấy họ, hò hét ầm trời.

“Giữ nguyên đội hình!” Roran ra lệnh khi những tên lính lao tới.

Trong một hai phút trong sân vang lên tiếng kim loại va chạm. NGỗng và thiên ngã kêu lên sợ hãi và đập cánh trên mặt nước nhưng không còn nào dám bay lên.

Varden không mất nhiều thời gian xử lý xong tụi lính gác. Sau đó họ lao tới cổng lâu đài, vốn được trang trí công phu với những hình vẽ trên tường và trần – cũng như những thanh gỗ trang trí, những đồ nội thất được điêu khắc cầu kỳ hay sàn nhà trang trí hoa văn – mà Roran thấy họ không thể vào một lượt. Lượng tài sản đổ vào xây dựng và bảo trì một dinh thự thế này quá lớn. Cái trang trại anh lớn lên không giá trị bằng một chiếc ghế trong sảnh lớn.

Qua cánh cổng, anh nhìn thấy ba nữ tì đang chạy dọc theo một hành lang dài khác.

“Đừng để họ trốn được!” anh hô to.

Năm kiếm sĩ tách khỏi đội ngũ Varden và lao về phía những người phụ nữ, bắt họ trước khi họ kịp rẽ vào một hành lang khác. NHững người phụ nữ thét lên và cố cào cấu mong thoát thân khi những người đàn ông lôi họ tới trước mặt Roran.

“Đủ rồi!” Roran hét vang khi họ đứng trước mặt anh và những người phụ nữ dừng chống cự dù vẫn tiếp tục kêu khóc. Người già nhất, một phụ nữ đứng tuổi gầy gò với mái tóc bạc búi rối đeo một chùm chìa khóa ở thắt lưng có vẻ là người biết điều nhất, vì thế Roran hỏi bà ta, “Lãnh chúa Halstead ở đâu?”

Người phụ nữ cứng đầu hất cằm. “Làm gì cũng được nhưng tôi không phản bội chủ nhân của mình.”

Roran tiến lên tới khi chỉ còn cách bà ta một bước. “Nghe và nghe kỹ này,” anh gầm lên. “Aroughs sẽ thất thủ và bà cũng những người khác sẽ chịu sự định đoạt của tôi. Bà không thể thay đổi điều đó. Nói cho tôi biết Halstead ở đâu và tôi sẽ để bà và những người kia đi. Bà không thể cứu lão ta nhưng có thể cứu mạng mình.” Đôi môi rách của anh sưng lên khiến chính anh cũng khó lòng hiểu rõ những từ phát ra từ miệng mình.

“Mạng sống của tôi chẳng là gì, thưa ngài,” người phụ nữ nói, nét mặt quả quyết như của một chiến binh.

Roran chửi rủa và đập búa vào khiên tạo ra một tiếng vang chát chúa trong hành lang rộng lớn. “Bà điên rồi sao? Halstead đáng để bà hy sinh mạng sống sao? Hay là Triều đình? Hay là Galbatorix?”

“Tôi không biết triều đình hay Galbatorix nhưng ngài Halstead luôn đối xử tốt với chúng tôi và tôi chưa từng thấy ông ấy cư xử tệ như ngài. Ngài bẩn thỉu và là thứ hạ đẳng không biết điều.”

“Thế sao?” Anh nhìn chằm chằm bà ta. “Bà nghĩ bà sẽ giữ miệng được bao lâu nếu tôi quyết định để lính của tôi lấy sự thật từ bà ra?”

“Không bao giờ,: bà ta tuyên bố và anh tin bà ta nói thật.

“Thế còn họ thì sao?” Anh hất hàm về những người phụ nữ còn lại, người trẻ nhất còn chưa tới mười bảy. “Bà có dám để họ bị tùng xẻo chỉ vì mạng sống của chủ nhân bà không?”

Người phụ nữ khinh miệt khịt mũi rồi nói. “Ngài Halstead ở phía đông lâu đài. Đi theo hành lang kia, Qua Hoàng Phòng và hoa viên của Tiểu thư Galiana rồi chắc chắn sẽ thấy ngài ấy.”

Roran nghi ngờ lắng nghe. Sự đầu hàng của bà ta quá nhanh và dễ dàng so với sự cứng đầu lúc trước. Ngoài ra khi bà ta nói anh thấy hai người phụ nữ kia lộ vẻ ngạc nhiên và một cảm xúc gì đó anh không thể gọi tên. Bối rối? Anh tự hỏi. Nếu người phụ nữ tóc bạc kia vừa đưa chủ nhân của mình vào tay kẻ thù thì họ sẽ không thể nào phản ứng như thế. HỌ quá âm trầm, quá nhẫn nhin như thể đang che giấu điều gì.

Trong hai người, cô gái trẻ khó che giấu cảm xúc hơn vì thế Roran quay lại nhìn cô ta. “Cô, bà ta nói dối, đúng không? Halstead ở đâu?Nói!”

Cô gái mở miệng lắc đầu không nói. Cô cố lùi lại nhưng một trong những chiến binh đã giữ chặt cô ta.

Roran lao tới, ấn khiên vào ngực cô ta, ép toàn bộ không khí ra và ép cô ta kẹt cứng giữa mình và người đằng sau. Roran giơ búa chạm vào má cô ta. “Cô khá xinh đẹp, nhưng cô sẽ chỉ lấy được mấy lão già làm chồng nếu tôi đánh gẫy răng cô. Hôm nay tôi đã gẫy mất một chiếc răng và đã tự mình đặt nó vào chỗ cũ. Thấy không?” Anh nhe răng cười độc địa với cô ta. “Tôi sẽ giữ răng cô lại nhưng cô sẽ không thể làm điều tương tự đâu. Chúng là một món chiến lợi phẩm hay cho tôi đó chứ, nhỉ?” Rồi anh dọa dẫm cô bằng chiếc búa.

Cô gái khúm núm khóc. “Đừng! Làm ơn đi ngài, tôi không biết. Làm ơn! Ngài ấy ở trong phòng, đang họp bàn với các tướng lĩnh nhưng sau đó cùng Phu nhân Galiana tới kênh đào, và...”

“Đồ ngốc, Thara!” bà mệnh phụ thét.

“Ở đó có một con tàu nhưng giờ tôi không biết họ ở đâu, nhưng đừng đánh tôi, tôi không biết gì nữa, và...”

“Phòng của hắn ở đâu?” Roran hỏi cụt lủn.

Cô gái sụt sịt nói.

“Để họ đi,”” anh nói khi cô ta nói xong và ba người phụ nữ bỏ chạy, gót giày họ nện lên nền nhà bóng loáng.

Roran dẫn quân Varden qua tòa nhà rộng lớn theo sự chỉ dẫn của cô gái nhỏ. Vài người đàn ông cởi trần và phụ nữ đi ngang qua nhưng không ai có ý định chống trả. Trong lâu đài vang lên tiếng hét khiến anh chỉ muốn bịt chặt tai lại.

Họ đi qua một bức tượng rồng den lớn ngoài cửa. Roran phân vân liệu đây có phải con rồng của Galbatorix. Shruikan không. Khi đi qua bức tượng Roran nghe có tiếng tưng và có gì đó đâm vào lưng anh.

Anh ngã nhùi vào chiếc ghế đá cạnh đường.

Đau

Cơn đau bòn xương rút thịt mà anh chưa từng trải qua. Cơn đau quá lớn khiến anh sẵn sàng chặt tay miễn là nó ngừng lại. Anh cảm giác như ai đó giúi giùi khắc nung vào lưng anh.

Anh không cử động nổi...

Anh không thở nổi...

Kể cả một di chuyển nhỏ nhất cũng khiến anh đau đớn kinh hồn.

Anh tối tăm mặt mũi và nghe thấy tiếng Baldor và Delwin hét vang rồi tới Brigman và tất cả những người con lại. Nhưng anh không biết họ nói gì.

Cơn đau đột nhiên gia tăng, ai gào lên nhưng chỉ khiến đau thêm, Với một nỗ lực phi thường, anh cố nằm im. Nước mắt chảy xuống từ hai hốc mắt.

Rồi Brigman nói với anh. “Roran, anh trúng tên sau lưng. Chúng tôi cố bắt tên cung thủ nhưng hắn thoát được.”

“Đau...” Roran thở hổn hển.

“Đó là vì mũi tên trúng vào xương sườn. Lẽ ra nó có thể xuyên thủng người anh rồi. Anh may mắn vì nếu mũi tên nhích lên hoặc dịch xuống một centimet là anh đã chết rồi.”

“Rút tên ra,” anh nghiến răng nói.

“Không thể, mũi tên có ngạnh. Và chúng tôi không thể đẩy ra nó ra. PHải cắt thôi. Tôi có chút kinh nghiệm, Roran. Nếu anh tin tôi tôi sẽ làm ngay. Hoặc không, anh có thể đợi tới khi chúng ta tìm được thầy lang. Chắc phải có một hai người trong lâu đài này.”

Dù anh không muốn đặt mạng mình vào tay Brigman nhưng Roran không thể chịu đau hơn nữa, vì thế anh nói. “Làm ngay đi...Baldor...”

“Gì hả Roran?”

“Đưa năm mươi người đi tìm Halstead. Dù thế nào cũng không được để hắn trốn thoát. Delwin... ở lại với tôi.”

Baldor, Delwin và Brigman trao đổi vài câu nhưng Roran chỉ nghe được vài từ ngắt quãng. Sau đó phần lớn quân Varden rời đi khiến không gian im ắng hơn.

Theo lệnh của Brigman, một đội chiến binh mang vài chiếc ghế từ phòng gần đó tới, chẻ nó ra và nhóm lửa cạnh bức tượng. Trên ngọn lửa là mũi dao mà Roran biết Brigman sẽ dùng để đốt khử trùng vết thương trên lưng trước khi lấy mũi tên.

Khi nằm trên ghế thở dốc và run rẩy, Roran cố gắn kiểm soát nhịp thở, cố gắng thở từ từ và thật sâu để giảm bớt cơn đau. Anh cố không nghĩ những điều khác. Chuyện gì xảy ra và sẽ xảy ra cũng được, giờ anh chỉ biết thở nhịp nhàng.

Anh gần như ngất đi khi bốn người lính nâng anh lên khỏi ghế băng và đặt anh nằm sấp xuống đất. Ai đó nhét găng tay da vào miệng anh khiến môi anh đau hơn, cùng lúc đó những bàn tay thô ráp nắm chặt lấy chân và tay anh, giang rộng nó ra hết mức có thể.

Roran liếc nhìn Brigman đang quỳ bên cạnh, tay cầm một con dao cong. Con dao bắt đầu hạ xuống, Roran nhắm mắt và cắn chặt chiếc găng tay.

Anh hít vào.

Thở ra,

Lúc đó thời gian và ký ức rời bỏ anh.
 
22. CHUYỂN GIAO QUYỀN LỰC
Roran ngồi gập mình trên cạnh bàn, mắt nhìn vẩn vơ vào cái ly khảm đá quý trên tay.

Đêm đã xuống, ánh sáng duy nhất trong phòng ngủ xa hoa này là từ hai ngọn nên trên bàn và lò sưởi cạnh gi.ường. Không gian im lặng chỉ trừ có đôi khi có tiếng củi lách tách cháy.

Một cơn gió thoang thoảng mùi nước biển thổi qua cửa sổ làm tấm rèm trắng khẽ lay động. Anh quay mặt đón gió, cảm nhận sự mát lành lên làn da hâm hấp sốt.

Anh có thể nhìn thấy Aroughs trải dài qua khung cửa sổ. Những đốm lửa tháp canh điểm xuyết đâu đó trên những con đường nhưng hầu như thành phố yên tĩnh chìm trong đêm tối – không bình thường vì mọi người đều đang trốn trong nhà.

Khi không còn gió, anh uống thêm một ngụm rượu, trực tiếp đổ thẳng xuống họng. Một giọt rượu chảy xuống môi dưới và anh căn người hít thở trong khi đợi cơn đau nguôi dần.

Anh đặt ly rượu lên bàn, cạnh đĩa bánh mỳ và thịt cừu và chai rượu cạn nửa, sau đó liếc nhìn gương đặt ngay trên hai ngọn nến. Trên đó phản chiếu gương mặt hốc hác, thâm tím, dính đầy máu me và bộ râu cháy xém góc bên phải.

Anh nhìn đi. Cô ấy sẽ liên lạc với anh khi cần. Trong lúc đó anh phải đợi. Anh chỉ có thể làm thế; cơn đau quá lớn khiến anh không thể nào ngủ nổi.

Anh cầm ly rượu lên và xoay trong bàn tay.

Thời gian từ từ trôi
***



Đêm hôm đó, mặt gương tỏa ra ánh sáng mờ áo như một mặt hồ bạc gợn sóng khiến Roran chớp mắt nhìn bằng đôi mắt sưng phù.

Sau đó khuôn mặt trái xoan của Nasuada xuất hiện, vẻ mặt nghiêm trọng hơn bao giờ hết. “Roran,” cô chào hỏi, giọng rõ ràng và mạnh mẽ.

“Thưa tiểu thư Nasuada.” Anh ngồi thẳng trên bàn chỉ cách đó vài centimet.

“Anh bị bắt à?”

“Không.”

“Vậy thì Carn hoặc chết hoặc bị thương.”

“Anh ấy hy sinh trong khí chiến đấu với một pháp sư khác.”

“Tôi rất tiếc... anh ấy là một người lịch sự và chúng ta không thể nào chịu đựng sự tổn thất khi một pháp sư nữa ra đi.” Cô ngừng lại. “Aroughs sao rồi.”

“Giờ Aroughs là của chúng ta.”

Nasuada nhướn mày. “Thât không? Tôi ấn tượng đó. Nói xem trận chiến diễn ra thế nào? Mọi chuyện theo đúng kế hoạch không?”

Anh há miệng một chút để nói chuyện không làm anh quá khó chịu và thuật lại chuyện xảy ra trong vài ngày qua, từ khi anh tới Aroughs, chuyện gã một mắt tấn công anh trong doanh trại, chuyện phá đập ở khu xay sát để Varden đâm thủng hàng phòng thủ vào Aroughs, hành trình tiến vào lâu đài của Lãnh chúa Halstead và kể cả vụ đối đâu giữa Carn và tên pháp sư địch.

Sau đó Roran tóm tắt vụ anh bị bắn vào lưng và việc Brigman cắt mũi tên cho anh. “May là ông ấy ở đó không tôi sẽ nằm vô dụng cho tới khi tìm ra một thầy thuốc.” Anh co rúm người và tỏng một giây, những ký ức về cơn đau hiện về rõ ràng hơn trong tâm tưởng anh, một lần nữa anh cảm nhận được sức nóng của kim loại trên d.a thịt mình.

“Tôi hy vọng anh đã tìm được một thầy thuốc.”

“Vâng, sau đó nhưng ông ta không phải pháp sư.”

Nasuada ngả người trên ghế và nhìn anh trong một lúc. “Tôi ngạc nhiên vì anh còn khả năng nói chuyện. Quả thật con người Carvahall được nung luyện trong sắt thép.”

“Sau đó chúng tôi chiếm lâu đài cũng như phần còn lại của Aroughs dù còn nhiều nơi chúng tôi chưa hoàn toàn kiểm soát được tình hình. Chuyện thuyết phục binh lính đầu hàng khá dễ dàng một khi họ biết chúng tôi đã vượt qua phòng tuyến của họ và nắm giữ được khu trung tâm.”

“Lãnh chúa Halstead thì sao? Các anh có bắt được ông ta không?”

“Hắn định trốn khỏi lâu đài khi một vài người của chúng tôi bắt gặp. Halstead chỉ mang theo một lượng nhỏ quân lính không đủ để cầm cự với quân ta vì thế hắn và bọn tùy tùng đã chạy vào một hầm rượu và cố thủ trong đó...” Roran xoa ngón cái lên cái ly trước mặt. “Họ không chịu đầu hàng, và tôi không dám xông vài; có thể cái giá phải trả sẽ rất đắt... Vì thế... tôi ra lệnh cho binh sĩ lấy thùng dầu trong bếp đốt và ném vào cửa hầm.”

“ Anh định hun họ?” Nasuada hỏi.

Anh từ tốn gật đầu. “Vài tên lính chạy ra khi cánh cửa bị đốt cháy nhưng Halstead rất cứng đầu. Khi chúng tôi vào thì lão đã chết ngạt.”

“Thật không may.”

“Và còn có con gái hắn, Tiểu thư Galiana.” Anh vẫn còn nhớ rõ mồn một khuôn mặt cô gái đó: nhỏ nhắn, xinh xắn mặc bộ váy màu hoa oải hương với những đường đăng ten và nơ.

Nasuada nhíu mày. “Ai sẽ kế tục Halstead làm bá tước vùng Fenmark?”

“Tharos Tốc Độ.”

“Là người đã dẫn binh tấn công anh ngày hôm qua đó hả?”

“Người đó đó.”

Vào tầm giữa chiều binh lính giải Tharos tới trước mặt anh. Người đàn ông nhỏ thó râu ria xồm xoàm bị choáng váng nhưng không có thương tích gì và hắn ta không đội chiếc mũ trụ khoa trương lần trước. Roran đang nằm sấp trên ghế vì vết thương trên lưng nói với hắn “ Tôi tin rằng anh nợ tôi một bình rượu.”

“Sao anh có thể làm được chuyện này?” Tharos thắc mắc, sự tuyệt vọng khiến giọng nói hắn run run. “Thành phố này bất khả xâm phạm. Trừ rồng ra không một sinh vật nào có thể bẻ gẫy hàng phòng thủ của chúng tôi. Hơn nữa nhìn anh xem. Trông anh cũng chỉ như những con người bình thường hơn là...” Sau đó hắn im lặng không nói gì nữa.

“Hắn phản ứng sao trước cái chết của bố và chị gái?” Nasuada hỏi.

Roran gục đầu vào tay. Lông mày anh rịn mồ hôi và anh dùng tay áo quệt nó đi. Anh đang run. Dù đang túa mồ hôi nhưng anh lạnh toàn thân, đặc biệt ở tay và chân. “Hắn có vẻ không quan tâm tới cha hắn lắm. Nhưng đối với chị gái thì...” Roran nhăn mặt khi nhớ lại vẻ đau khổ của Tharos khi biết Galiana đã chết.

“Nếu có cơ hội tôi nhất định sẽ báo thù,” Tharos đã nói. “Tôi thề.”

“Vậy thì làm nhanh đi,” Roran đáp lại. “Một người khác đã đòi lấy mạng tôi và nếu có ai định giết tôi thì đó sẽ là cô ta.”

“...Roran?... Roran?”

Anh ngạc nhiên khi nghe Nasuada gọi tên mình. Anh nhìn cô lần nữa, hình ảnh cô trong gương trông như một bức chân dung. Anh cố cất tiếng. “Tharos không hẳn là bá tước vùng Fenmark. Anh ta là người trẻ nhất trong số bảy người con trai của Halstead nhưng những người kia đều đã chạy trốn. Vì thế trong thời gian gấp rút, Tharos là người duy nhất phù hợp với danh hiệu này. Anh ấy đã làm tốt vai trò công sứ trong lần nói chuyện này của chúng ta với các nguyên lão của thành phố. Nhưng vì không có Carn nên tôi không thể biết ai đã thề trung thành với Galbatorix và ai không. Tôi đoán là hầu hết các lãnh chúa và phu nhân, tất nhiên là cả binh lính nữa nhưng tôi chưa biết ai vào ai.”

Nasuada cắn môi. “Tôi hiểu... Thành phố Dauth là gần với anh nhất. Tôi sẽ nhờ tiểu thư Alarice – tôi tin là anh đã có dịp gặp mặt – cho người nào biết đọc tư tưởng tới Aroughs. Hầu hết các quý tộc đều có một người như vậy vì thế chắc chắn Alarice có thể giúp chúng ta. Nhưng khi chúng ta tới Cánh Đồng Cháy, Vua Orrin đã mang theo tất cả những pháp sư của Surda vì thế dù Alarice gửi ai tới thì người đó cũng chỉ có khả năng đọc suy nghĩ thôi. Và không có những câu thần chú thích hợp thì chúng ta không thể nào tránh được chuyện những kẻ trung thành với Galbatorix đâm sau lưng.”

Trong khi nghe cô nói, Roran nhìn khắp bàn. Không biết Tharos có bỏ thuốc độc không? Nhưng ý nghĩ đó không khiến anh lo lắng.

Sau đó Nasuada nói tiếp. “... hy vọng rằng anh sẽ biết cách quản lý binh lính và không để họ chạy lung tung trong Aroughs, đốt phá hay hại người.”

Roran úa mệt đến mức không muốn đáp lại nhưng cuối cùng anh cũng cất tiếng, “Chúng tôi có quá ít người. Họ cũng như tôi đều rõ rằng những binh lính ngoài kia có thể đoạt lại thành phố nếu chúng tôi cho họ một cơ hội cực nhỏ.”

“Tôi nghĩ họ cần có rất nhiều may mắn... “Có bao nhiêu người chết?”

“Bốn mươi hai.”

Trong một chốc sự im lặng kéo dài. Sau đó Nasuada nói. “Carn có gia đình không?”

Roran nhún vai. “Tôi không biết.Anh ấy tới từ miền nam nhưng chúng tôi không nói chuyện về cuộc sống riêng tư... trước khi anh ấy hy sinh... ĐỐi với chúng tôi chưa bao giờ chuyện gia đình nhà cửa của nhau là mối quan tâm cả.”

Roran đột nhiên thấy ngứa cổ khiến anh ho húng hắng mãi. Anh co người lại tới khi trán đập vào bàn, người đau lên vì vết thương trên vai, lưng và miệng. Cơn đau quá kinh khủng, anh run người khiến rượu đổ ra tay anh.

Sau đó khi phục hồi được anh nghe Nasuada nói. “Roran, anh cần tìm thầy thuốc. Anh không khỏe và anh nên đi nghỉ đi.”

“Không.” Anh lau nước bọt trên mép vài nhìn cô.. “Họ đã làm mọi điều có thể và tôi không phải một đứa bé không thể chịu đau.”

Nasuada chần chừ và cúi đầu. “Thôi tùy anh vậy.”

“Giờ thì sao?” anh hỏi. “Tôi xong việc ở đây chưa?”

“Tôi định cho anh trở lại ngay khi chúng ta chiếm được Aroughs –giờ tình hình rất phức tạp – nhưng với tình trạng này anh không thể đi nổi tới Dras – Leona. Anh phải đợi tới khi...”

“Tôi sẽ không đợi,” Roran hét lên. Anh nắm gương và lôi về phía mình tới khi nó chỉ cách mặt anh vài centimet. “Đừng đùa tôi, Nasuada. Tôi đi được và tôi sẽ đi nhanh. Lý do duy nhất tôi tới đây là vì Aroughs là mối nguy với Varden. Giờ nguy hiểm đã không còn, tôi sẽ không ở lại dù có bị thương hay không, trong khi vợ và con tôi chỉ cách Murtagh và con rồng của hắn có vài dặm!”

Lúc đó giọng Nasuada trở nên nghiêm khắc. “Anh tới Aroughs vì tôicử anh tới.” Sau đó bằng giọng nhẹ nhàng hơn, cô nói. “Nhưng anh đã làm xong nhiệm vụ. Anh có thể về ngay lập tức nếu có thể. Giờ anh không phải đi ngựa cả ngày lẫn đêm nữa. Hãy nghĩ kỹ đi. Tôi không muốn phải giải thích với Katrina rằng anh giết chết mình trên đường trở về... Anh nghĩ sẽ để ai thay anh chỉ huy khi anh rời Aroughs?”

“Tướng Brigman.”

“Brigman? Vì sao? Không phải anh và ông ta có xung đột à?”

“Ông ta đã giúp tôi chỉ huy binh lính khi tôi bị thương. LÚc đó đầu óc tôi không minh mẫn...”

“Tôi hiểu.”

“...và ông ấy đã giúp quân lính không lo lắng hay hoảng loạn. Vả lại lúc này ông ấy đang thay tôi chỉ huy quân lính trong khi tôi kẹt trỏng cái hộp nhạc kinh khủng này. Ông ấy là người duy nhất có kinh nghiệm. Không có ông ta chúng tôi không thể nào kiểm soát toàn bộ Aroughs. Binh lính quý mến ông ta và ông ta có tài quảng lý và sắp xếp. Ông ấy sẽ làm tốt việc ở thành phố này thôi.”

“Được rồi, vậy thì là Brigman.” Nasuada nhìn ra khỏi gương và nói gì đó với một người anh không thấy mặt. Cô quay lại nói, “Tôi phải thừa nhận rằng tôi chưa bao giờ nghĩ anh có khả năng chiếm Aroughs. Dường như không ai có thể phá vỡ hàng phòng thủ trong thời gian ngắn tới vậy, với quân lực quá ít ỏi lại không có sự trợ giúp của Kỵ sĩ và rồng.”

“Vậy sao cô cử tôi tới?”

“Vì tôi phải thử làm gì đó trước khi để Eragon và Saphira bay tới đó và vì anh luôn tạo ra được bất ngờ và làm được những việc khiến người khác đầu hàng hoặc bỏ cuộc. Cho dù gặp hoàn cảnh bất khả thi anh vẫn có thể xoay chuyện nó, và quả thật vậy.”

Roran khụt khịt mũi. Liệu mình sẽ được phỉnh mũi bao lâu trước khi chết như Carn?

“Cứ chế nhạo đi nhưng anh không thể từ chối thắng lợi của bản thân. Anh đã giành một chiến thắng vĩ đại cho chúng ta, Cây Búa Dũng Mãnh. Đúng hơn là Tướng quân Cây Búa Dũng Mãnh. Anh quá xứng với danh hiệu này. Tôi vô cùng biết ơn những gì anh đã làm. Với việc chiếm Aroughs anh đã giúp chúng tôi giảm bớt nỗi lo phải chiến đấu ở hai chiến trường, đồng nghĩa với ngày tàn của chúng ta. Tất cả Varden nợ anh, và tôi hứa với anh, chúng tôi sẽ không bao giờ quên những hy sinh của anh và những binh lính kia.”

Roran định nói gì đó nhưng không cất lời nổi. Anh thử lại và phải mất thêm lần nữa mới nói nổi: “Tôi...tôi sẽ truyền tải lời nói của cô cho mọi người. Nó rất có ý nghĩa với họ.”

“Vâng xin làm ơn. Và giờ tôi phải tạm biệt anh thôi. Muộn rồi, anh lại đang ốm và tôi đã bắt anh nói chuyện lâu thế này.”

“Đợi đã...” Anh vươn tay ra và chạm đầu ngón tay vào gương. “Đợi đã. Cô chưa nói với tôi: TÌnh hình chiến trường Dras – Leona ra sao?”

Cô nhìn anh không biểu hiện gì. “Tệ lắm. Không có dấu hiệu tiến triển. Chúng tôi sẽ có đất cho anh dụng võ ở đây, Cây Búa Dũng MÃnh. Nếu chúng tôi không tìm được cánh kết thúc trận chiến nhanh, chúng ta sẽ mất tất cả.”
 
23. THARDSVERGÛNDNZMAL
Em vẫn khỏe,” Eragon điên tiết nói. “Đừng lo lắng. Em không làm được gì thêm đâu.”

Saphira rống lên và tiếp tục nhìn bóng mình trong hồ. Cô nàng lắc đầu rồi nặng nề thở ra một cuộn khói trắng bay vẩn vơ trên mặt hồ như một đám mây dông lạc lõng.

“Anh chắc không?” cô nàng hỏi và nhìn về phía nó. Nếu nó không mọc lại thì sao?

“Rồng lúc nào chẳng mọc vẩy mới. Em biết mà.”

Vâng nhưng em chưa bao giờ mất cái vẩy nào.

Nó không thèm giấu nụ cười; nó biết cô em nó cảm nhận được sự vui vẻ của mình. “Em không nên buồn thế. Có gì to tát đâu.” Nó vươn tay sờ vào lỗ hổng hình kim cương treencanhs mũi bên phải cô nàng. Lỗ hổng đó không lớn hơn đầu ngón tay cái nó là mấy và sâu khoảng 2cm. Qua lổ hổng nó có thể nhìn thấy rõ làn da màu xanh lơ của cô em.

Nó tò mò sờ lên làn da cô rồng bằng đầu ngón trở. Da ấm và trơn nhẵn như bụng bê.

Saphira thở phì phò và quay đầu đi. Dừng lại. Buồn lắm.

Nó ngồi xuống dùng chân té nước và cảm nhận làn nước bằng chân trần.

Có thể không lớn, cô nàng nói, nhưng ai cũng nhìn thấy. Sao họ không thể thấy cơ chứ? Trông nó như một vùng đất trống trên ngọn núi phủ trắng tuyết vậy.

Eragon cười lớn và té nước vào người cô nàng. Sau đó để xoa dịu lòng tự trọng bị tổn thương, nó nói. “không ai để ý đâu Saphira. Tin anh đi. Hơn nữa nếu họ có để ý đi chăng nữa, họ sẽ nghĩ đó là một vết thương do đánh nhau và có khi còn nghĩ em đáng sợ hơn.”

Anh nghĩ thế? Cô bé quay lại ngắm mình thêm lần nữa. Nước và vảy trên người cô rồng phản chiếu lẫn nhau trong sắc cầu vồng. NẾu như một tên lính đâm vào chỗ đó thì sao? Lưỡi kiếm sẽ xuyên qua em mất. Có lẽ em nên nhờ người lùn làm cho em một cái đĩa kim loại để cho chỗ đó lại cho tới khi mọc vẩy mới.

“Trông kỳ lắm.”

THế à?

Ừm” Nó gật đầu và cười tiếp.

Cô nàng hừ mũi. Đừng có cười em. Nếu anh mất một mảng tóc trên đầu hay mất mấy cái bướu nhỏ ngu ngốc anh gọi là răng, anh sẽ thấy sao hả? Lúc đó sẽ đến lượt em cười anh thôi.

“Chắc chắn rồi,” nó dễ dàng đồng ý. “Nhưng mà, răng không mọc lại.” Nó đẩy mình đứng dậy và bước tới bờ sông chỗ nó để giày. Nó cẩn trọng đi trên đá. Saphira đi theo khiến mặt đất rung thình thình.

Anh có thể phù phép bảo vệ chỗ đó, cô em nó cất tiếng khi nó đi giày vào.

“Anh làm được. Em muốn không?”

Có chứ.

Họ lẩm nhẩm thần chú trong đầu trong khi buộc dây giày và đặt tay phải lên vào cánh mũi cô em và đọc vài từ cần thiết. Một màu xanh da trời bàng bạc sán lên dưới tay nó khi nó tạo lá chắn cho cô em.

“Xong,” nó nói khi xong việc. “GIờ em không phải lo lắng nữa nhé.”

Trừ việc em mất một cái vảy.

Nó đẩy nhẹ hàm cô em. “Thôi nào. Chúng ta về doanh trại đi.”

Họ cùng nhau rời hồ và leo lên con đê thoai thoải đằng sau, Eragon dùng một rễ cây lớn làm gậy chống.

Họ thấy toàn cảnh doanh trại Varden cách đó nửa dặm về phía đông, và ở phía bắc doanh trại là Dras – Leona. Dấu hiệu sống duy nhất trong thành phố là khói bốc lên từ các mái nhà. Như thường lệ, Thorna nằm bành trướng trên bức tường thành cổng nam, tắm mình trong ánh trời chiều. Con rồng đỏ có vẻ ngủ nhưng Eragon biết rằng nó vẫn quan sát Varden và ngay khi có ai tiếp cận thành phố nó sẽ vuonw mình và báo nguy cho Murtagh và những người trong thành phố.

Eragon nhảy lên lưng Saphira và cô nàng chở nó về trại bằng tốc độ khá lý tưởng.

Khi tới nơi, nó trượt xuống mặt đất và đi đầu di chuyển giữa các dãy lều. Doanh trại yên ắng, mọi thứ dường như trôi qua chậm chạp và buồn ngủ. Trong không khí vang lên tiếng nói chuyện chậm rãi nho nhỏ của các chiên binh và cờ xí bất động vì không có gió. Những sinh vật duy nhất miễn dịch với cảnh tẻ ngắt này là lũ chó hoang đang bới tìm thức ăn trong đống rác thải. Trên đầu chúng chi chít những vết cào xước, hậu quả do vô tình nghĩ có thể trêu đùa với những ma mèo mắt xanh như những con mèo nhà. Khi chuyện đó xảy ra, tiếng ăng ẳng đau đớn của chúng thu hút sự chú ý của cả trại và mọi người bật cười nhìn những con chó cụp đuôi chạy trốn khỏi những ma mèo.

Eragon biets nó và Saphira khiến người ta chú ý nhiều thế nào. Nó ngẩng cao đầu, vai mở rộng và sải chân hùng dũng. MỌi người cần thấy nó tràn đầy tự tin và rằng nó không bị ảnh hưởng bởi sự buồn tẻ trong doanh trại.

Giá mà Murtagh và Thorn bỏ đi nhỉ,Eragon nghĩ. Chúng chỉ cần bỏ đi một ngày là chúng ta sẽ chiếm được thành phố.

Tới giờ cục diện chiến trường Dras – Leona chưa có thêm thay đổi gì. Nasuada không chịu tấn công, cô đã giải thích với nó, “Có thể anh đã chiến thắng Murtagh trong lần đụng độ trước – nhưng cậu quên anh ta đã đâm vào hông cậu thế nào? – và hắn đã thề hắn sẽ mạnh lên trong lần đụng độ tới giữa hai người. Murtagh có thể là nhiều thứ nhưng tôi không tin hắn là một kẻ nói dóc.”

“Giữa hai pháp sư thì sức mạnh không phải là tất cả,” Eragon đã từng chỉ ra.

“Không, nhưng sức manh không phải không quan trọng. Hơn nữa hắn lại được các thầy tu Helgrind hỗ trợ, tôi nghi ngờ trong đó phải có vài pháp sư. Tôi không thể để anh đối mặt với họ và Murtagh trên chiến trường kể cả có các pháp sư của Blödhgarm. Từ giờ tới khi chúng ta lừa Murtagh và Thorn đi chỗ khác hoặc có được lợi thế trước họ, chúng ta sẽ ở đây không tấn công Dras – Leona.”

Eragon đã phản đối, đã nói rằng họ không thể không tấn công và rằng nếu nó không thể đánh bại Murtagh thì làm sao cô ta có thể hy vọng nó hạ bệ Galbatorix? Nhưng Nasuada vẫn không may may suy chuyển.

Họ - cùng với Arya, Blödhgarm và tất cả các pháp sư của Du Vrangr Gata – đã lên kế hoạch và tìm cách để giành lợi thế. Nhưng mọi kế hoạch đều có điểm yếu vì chúng đòi hỏi thời gian và nguồn lực hơn mức quân Varden có và vì họ không thể nào giải quyết được câu hỏi nên giết, bắt hay đánh đuổi Murtagh và Thorn.

Nasuada thậm chí đã tới hỏi Elva rằng con bé có thể dùng năng lực của mình – cho phép nó cảm nhận nỗi đau hiện tại cũng như tương lai của một con người – để hạ gục Murtagh hoặc để lén lút vào thành phố. Cô bé lông mày bạc đã cười vào Nasuada và chế giễu, thóa mạ đuổi cô đi. “Tôi không nợ cô hay bất kỳ ai, Nasuada. Tìm đứa trẻ khác mà nhờ. Tôi không làm.”

Và thế là, quân Varden phải đợi.

Ngày qua ngày, Eragon đã quan sát mọi người càng lúc càng rệu rã và chán nản, Nasuada càng lúc càng lo lắng. Eragon đã học được rằng một đội quân đói rã họng sẽ chết sớm và chia thành nhiều nhóm nhỏ trừ khi họ được cung cấp đầy đủ thức ăn. Khi tới một lãnh địa mới, nguồn cung cấp đơn giản nhất chính là thức ăn và những thứ thiết yếu khác từ khu nông thôn. Như dịch châu chấu, Varden đã để lại những mảnh đất trơ gốc rạ, lấy đi toàn bộ những thứ họ cần cho cuộc sống.

Một khi ngừng lại, họ sẽ nhanh chóng dùng hết nguồn lương thực dự trữ và buộc phải nhờ vào viện trợ lương thực từ Surda và những thành phố họ đã chiếm đóng được. Dù dân Surda có hào phóng thế nào thì cũng không thể nuôi Varden lâu hơn nữa.

Dù Eragon biết những chiến binh chiến đấu rất quả cam, nhưng khi đối dineej với cái chết đói từ từ dai dẳng chẳng để lại gì ngoài cho Galbatorix sự hả hê, hầu hết mọi người sẽ chọn đào ngũ sống bình yên tại một vùng đất xa xôi nào đó của Alagaësia tránh xa Triều đình tới hết đời.

THời khắc đó chưa đến nhưng cũng sắp tới rồi.

Eragon biết sự sợ hãi định mệnh đó sẽ khiến Nasuada thức trắng đêm vì thế mỗi sáng trông cô càng thêm tiều tụy, quầng thâm càng lớn.

Khó khăn họ gặp phải tại Dras – Leona khiến Eragon mừng vì Roran đã tới Aroughs chiến đấu và chiến thắng tại thành phố phía nam này. Anh ấy dũng cảm hơn mình. Nasuada không đồng tình nhưng Eragon quyết một khi Roran quay lại – nếu đúng ra thì chỉ trong vài ngày nữa – Eragon sẽ lập lá chắn hoàn toàn cho anh. Eragon đã mất quá nhiều người thân vì triều đình và Galbatorix và nó không muốn mất nốt Roran.

Nó dừng lại khi ba người lùn đang mải cãi cọ đi ngang qua. Người lùn không đội mũ trụ hay đeo huy hiệu nhưng nó biết họ không thuộc tộc Dûrgrimst Ingeitum vì họ tết râu với hột cườm – kiểu thời trang nó không bao giờ thấy ở một Ingeitum. Dù người lùn có nói chuyện gì thì nó cũng chằng hiểu – nó chỉ biết vài từ trong ngôn ngữ người lùn – nhưng chủ đề kia rõ ràng là rất quan trọng vì họ nói lớn, điệu bộ căng thẳng, biểu hiện thiếu kiềm chế và không hề để ý tới nó hay Saphira đang đứng bên đường.

Eragon mỉm cười khi họ đi qua; dù họ rất nghiêm túc nhưng nó vẫn thấy buồn cười làm sao ấy. Varden đã nhẹ nhõm đi nhiều khi vua người lùn mới Orik đã dẫn đoàn quân tới Dras – Leona hai ngày trước. Và chiến thắng của Roran ở Aroughs cùng với sự kiện này trở thành đề tài bàn tán chủ yếu trong doanh trại. Số lượng người lùn đã nhân đôi lực lượng đông minh Varden và tăng cơ hội Varden sẽ tới được Urû’baen và đánh bại Galbatorix nếu tìm được cách qua mặt Murtagh và Thorn.

Khi Nó và Saphira đi qua doanh trại, Eragon nhìn thấy Katrina ngồi ngoài lều đan quần áo cho đứa con sắp chào đời. Chị giơ tay vẫy nó và gọi. “Em họ!”

Nó vui vẻ đáo lại. Chuyện chào hỏi giữa họ đã trở thành thói quen từ khi chị và anh họ nó kết hôn.

Sau khi cả nó và Saphira đã ăn uống no say – chủ yếu là Saphira – chúng nghỉ ngơi trên một mảng đất mềm chan hòa ánh nắng cạnh lều Eragon. Theo lệnh của Nasuada, khu đất đó để trống cho Saphira sử dụng, và quân Varden cũng vui vẻ thôi.

Saphira nằm cuộn tròn tắm nắng trong khi Eragon lôi cuốn Domia Wyrda từ túi yên cương ra và ngồi dựa vào hốc giữa cổ và chân trước cô nàng. Ánh sáng chiếu vào cánh và lớp vảy lấp lánh, sơn lên đó một thứ màu tím huyết dụ kỳ lạ. Ánh sáng nhảy nhót tạo nên những hình thù lấp lánh khiến nó khó đọc nổi những con chữ run vuông chằn chặn. Nhưng nó không phiền; được ngồi cạnh saphira có thể đánh tan mọi sự bất tiện.

Chúng ngồi cùng nhau một hai tiếng đồng hồ gì đó tới khi Saphira tiêu hóa xong bữa ăn còn Eragon mệt mỏi vì phải dịch những câu nói phức tạp của Thầy tu Heslant. Sau đó vì chán, chúng đi lang thang khắp doanh trại, xem xét hàng phòng thủ và thi thoảng nói chuyện với những lính gác ở vòng ngoài.

Gần phía đông doạnh trại, nơi một toán người lùn đang đứng, họ gặp một ngườn lùn đang ngồi chồm hổm cạnh một xô nước, tay áo sắn tới khuỷu, nặn một quả bóng đất bằng cỡ nắm đấm. Dưới chân anh ta và bùn và cái que để quấy bùn.

Cảnh tưởng quá không hợp lý nên phải vài phút sau Eragon mới dám nhận đó là Orik.

““Derûndânn, Eragon... Saphira,” Orik không nhìn lên mà nói.

““Derûndânn,” Eragon nói nhắc lại từ chào hỏi bằng ngôn ngữ người lùn và ngồn xuống bên cạnh. Nó quan sát Orik tiếp tục nặn quả bóng. Orik thường xuyên nắm lấy một nắm đất rồi từ từ bồi thêm vào quả bóng.

“Tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ thấy một vua người lùn ngồi lê dưới đất nghịch đất như trẻ con,” Eragon nói.

Orik thở phì phì, thổi tung râu lên. “Tôi cũng không bao giờ nghĩ một kỵ sĩ và rồng lại nhìn tôi chằm chằm khi tôi đang làm một Erôthknurl.”

“Erôthknurl là gì?”

“Là thardsvergûndnzmal.”

“Một thardsver—?” Eragon bỏ cuộc khi nói được nửa từ vì không thể nhớ nổi chứ đừng nói là phát âm. “Và nó là...”

“Một thứ có vẻ giống thứ khác hơn bản thân nó.” Orik giơ quả banh đất lên. “Như thế này. Đây là viên đá hình thành từ đất. Hay đúng hơn, tý nữa nó sẽ là thế.”

“Viên đá hình thành từ đất... Phép thuật à?”

“Không, chỉ là kỹ năng khai khoáng thôi. Chẳng có gì hơn.”

Khi Orik không giải thích thêm, Eragon hỏi. “Làm thế nào?”

“Nếu anh kiên nhẫn, anh sẽ hiểu.” Rồi, sau một chặp, Orik dịu giọng nói. “Đầu tiên anh phải tìm ít đất.”

“Nhiệm vụ khó đấy,”

Orik ngước lên nhìn qua hàng lông mày rậm rạp. “Vài loại đất tốt hơn những loại khác. Ví dụ, chúng ta không thể dùng cát. Đất phải chứa nhiều hạt khoáng khác nhau mới kết dính được. Ngoài ra trong đất phải lẫn sét. Nhưng quan trọng nhất, nếu tôi làm thế này” – và anh ta vỗ tay vào đất xung quanh – “sẽ có nhiều bụi lẫn trong dất. Thấy không?” Anh ta giơ tay cho Eragon xém lớp bụi bám trong lòng bàn tay.

“Sao lại quan trọng thế?”

“À,” Orik xoa mũi, để lại ít nhọ trên mũi. Anh ta tiếp tục nặn quả banh thành hình tròn hoàn hảo. “Một khi có đất tốt, anh làm ướt nó và trộn như trộn bột mỳ với nước cho tới khi được một ít bùn tốt, đặc.” Anh ta hất đầu về đống bùn nhão dưới chân. “Từ bùn, cậu nặn quả banh, như thế này này. Sau đó cậu bóp chặt hết mức có thể. Thế là một có một quả banh tròn hoàn hảo. TỚi khi nó hơi dính, cậu làm theo tôi: cho thêm chút đất để hút bớt ẩm từ bên trong. Cậu tiếp tục làm cho tới khi quả banh khô nhưng vẫn giữ được hình dạng và không vỡ ra.”

“Như vậy chúng ta sắp có được khoáng thạch Erôthknurl. Sau đó tôi sẽ để nó dưới ánh mặt trời. ÁNh sáng và hơi nóng sẽ giúp lấy hết nước từ bên trong; sau đó tôi lại đắp đất lên và lại nặn tròn nó lại. Sau ba hay bốn lần, bề ngoài khoáng thạch Erôthknurl sẽ cứng như da Nagra.”

“Vậy là làm tất cả chỉ để có một quả banh bùn khô à?” Eragon bối rối hỏi. Saphira cũng có cảm giác tương tự.

Orik lại bốc thêm một nắm đất. “Không, vì thế chưa xong. Tiếp theo chúng ta sẽ dùng tới bụi. Tôi lấy bụi trát bên ngoài Erôthknurl để có lớp ngoài mỏng và trơn láng. Sau đó tôi để quá banh đó cho không khí ẩm tiếp xúc rồi cho thêm bụi, rồi đợi, cứ thế.”

“Trong bao lâu”

Tới khi bụi không bám nổi vào Erôthknurl nữa. Lớp vỏ sẽ khiến Erôthknurl đẹp hơn. Sau khoảng một ngày, nó sẽ sáng lấp lánh như thể đá hoa cương. Không cần cần nghiền, không cần gia công, không dùng pháp thuật – chỉ dùng trái tim, khối óc và đôi bàn tay – cậu sẽ có một viên đá từ đất... một viên đá dễ vỡ nhưng dù sao cũng là đá.”

Dù Orik nhắc đi nhắc lại nhưng Eragon vẫn khó tin rồi bùn dưới chân cậu có thể tạo được một thứ gì giống như Orik nói mà không cần tới phép thuật.

Nhưng vì sao người lại làm cái này hả vua người lùn? Saphira hỏi. Người có nhiều trọng trách vì giờ người là đấng trị vì cơ mà.

Orik càu nhàu. “Tôi không cần làm gì vào lúc này. Những người của tôi đã sẵn sàng chiến đấu và sẽ không tốt cho họ nếu tôi cứ toang toác bên họ như gà mẹ. Tôi cũng không muốn ngồi một mình trong lều xem râu mọc... đây là Erôthknurl.”

Anh ta lại im lặng nhưng Eragon thấy hình như Orik phiền lòng vì điều khác nên nó im miệng đợi xem Orik muốn nói gì. Sau một phút, Orik húng hắng nói, “Tôi từng uống rượu chơi xúc xắc với những người khác trong bộ tộc cho dù tôi có là truyền nhân của vua Hrothgar. Chúng tôi có thể cùng nhau nói chuyện và cười đùa thoải mái. Tôi không phải xin ai giúp đỡ và cũng không ai nhờ vả tôi. Nhưng giờ mọi sự đã khác. Bạn bè tôi không thể quên tôi là vua của họ và tôi không thể lờ chuyện họ đối xử khác với tôi.”

“Điều đương nhiên mà,” Eragon nhận xét. Nó thông cảm với Orik vì nó cũng đã trải qua tình huống tương tự khi trở thành Kỵ sĩ.

“Có lẽ. Nhưng kể cả thế tôi cũng khó chịu.” Orik than thở. “Ôi, cuộc đời thật là lạ, đội khi còn độc ác... Tôi ngưỡng mộ Hrothgar như bề tôi đối với nhà vua nhưng đối với tôi dường như ông ấy không đối xử như những người khác. Giờ tôi hiểu vì sao ông ấy lại như thế.” Orik khum khum tay cầm quả banh đất mà nhìn. “Khi cậu gặp Grimstborith Gannel ở Tarnag, ông ấy có giải thích cho cậu biết ý nghĩa của Erôthknurln không?”

“Chưa bao giờ nói tới.”

“Tôi đoán là do có nhiều vấn đề quan trọng hơn cần bàn... Nhưng vì là một Ingeitum, và là một knurla, cậu cần hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của Erôthknurl. Đó không chỉ là cách để cậu tập trung đầu óc, cho qua thời gian hay tạo ra đồ kỷ niệm. Không. Làm ra đá từ đất là một thứ thiêng liêng. BẰng cách này chúng ta thể hiện niềm tin vào sức mạnh của Helzvog và tôn kính ngài. Khi bắt tay vào việc chúng ta phải đặt vào đó sự tôn kính và mục đích của mình. Tạo ra một Erôthknurl là tạo nên một lời cầu nguyện và thần linh sẽ không nhân từ với bất cứ ai phù phiếm. Từ đất hình thành nên sinh thể sống và sinh thể sống lại trở về với đất. Vòng tuần hoàn cứ tiếp tục mãi mãi ngàn đời.”

Chỉ tới lúc này Eragon mới hiểu được công việc của Orik. “Anh cần Hvedra,” nó nói. “cô ấy sẽ đồng hành cùng anh và giúp anh không tuyệt vọng. Tôi chưa bao giờ thấy anh hạnh phúc như hồi cùng cô ấy ở Bregan Hold.”

Nếp nhăn trên mắt Orik lại trũng xuống khi anh ta cười. “Đúng... Nhưng nàng là grimstcarvlorss của Ingeitum và nàng không thể bỏ nhiệm vụ để đi an ủi tôi. Hơn nữa tôi sẽ không thể nghỉ ngơi nếu nàng trong tầm sinh sát của Murtagh và Thorn hoặc tệ hơn, dưới móng vuốt của Galbatorix và con rồng đen của lão.”

Để giúp Orik vui lên, Eragon nói, “Anh làm tôi nhớ tới câu trả lời cho một câu đố: một vị vua người lùn ngồi trên đất, làm một viên đá từ đất. Tôi không nhớ rõ câu đố như thế nào nhưng đại loại là:

Mạnh mẽ và chắc khỏe

Mười ba ngôi sao mọc trên lông mày

Viên đá sống hình thành biến đất chết thành đá chết.

“Không có vần điệu nhưng anh không thể bắt tôi ngâm nga chuẩn xác được. Tôi có thể tưởng tưởng câu đó như vậy sẽ khiến ối người gãi chảy máu đầu.”

“Ừm,” Orik nói. “Không phải với người lùn. Kể cả đứa nhỏ của chúng tôi cũng dễ dang hạ gục cậu.”

Cả rồng nữa, Saphira nói.

“Tôi nghĩ là anh đúng,” Eragon nói.

Sau đó nó hỏi Orik về mọi thứ xảy tới với người lùn sau khi nó và Saphira rời Tronjheim trong cuộc hành trình lần thứ hai về khu rừng của thần tiên. Eragon không có cơ hội nói chuyện dông dài với Orik kể từ khi người lùn tới Dras – Leona và nó mừng vì được nghe chuyện bạn mình.

Orik không muốn giải thích những rắc rối trong thể chế của người lùn. Nhưng khi nói chuyện, biểu hiện trên mặt anh ta sáng lạng hơn và sống động hơn. Anh ta giành cả tiếng kể về những kế hoạch của các bộ tộc người lùn đã bàn trước khi hành quân tới Varden. Các bộ lạc theo như Eragon biết đều rất bướng bỉnh và ngay cả vua họ, là Orik, cũng khó buộc họ nghe lời.

“Như kiểu dẫn một đàn ngỗng trời ấy,” Orik nói. “Họ luôn muốn đi theo hướng của mình và họ rất ồn ào và họ sẽ cắn tay bạn ngay khi có cơ hội.”

Trong khi nói chuyện, Eragon nghĩ sẽ hỏi về Vermûnd. Nó thường bằn khoăn chuyện gì sẽ xảy ra với người lùn định ám sát nó. Nó thích biết kẻ thù của nó đang ở đâu, đặc biệt là một kẻ nguy hiểm như Vermûnd.

“Hắn trở về quê nhà tại Feldarast,” Orik nói. “Ở đó hắn sẽ ngồi uống rượu và giận dữ về những chuyện đang và sẽ xảy ra. Nhưng giờ ai thèm nghe hắn nói chứ. Knurlan của Az Sweldn rak Anhûin vốn nổi tiếng cứng đầu. Trong hầu hết trường hợp, họ sẽ vẫn trung thành với Vermûnd dù các bộ tộc khác có làm gì hay nói gì nhưng cố ám sát một vị khách là hành vi không thể dung thứ. Tôi không thể tin nổi họ vẫn đồng ý li khai chỉ để bảo vệ một grimstborith đã đánh mất danh dự. Có thể mất hàng năm nhưng họ thực sự đã chống lại hắn. Tôi đã nghe thấy rằng rất nhiều người trong bộ lạc xa lánh Vermûnd, kể cả trong khi chính họ cũng bị tẩy chay.”

“Vậy anh nghĩ hắn ta sẽ ra sao?”

“Hắn đành phải chấp nhận hoặc không có người sẽ bỏ rượu độc hắn hoặc đâm dao vào ngực hắn. Dù sao hắn cũng không còn là mối đe dọa của cậu hay là thủ lĩnh của Az Sweldn rak Anhûin.”

Họ tiếp tục nói chuyện tới khi Orik hoàn thành xong vài bước đầu tiên trong quá trình tạo Erôthknurl. Anh ta đã để qua banh trên vải lều cho khô. Khi Orik đứng dậy thu dọn xô thùng và que, anh ta nói, “Tôi mừng vì anh đã lắng nghe tôi nói, Eragon ạ. Và cả cô nữa, Saphira. Thật là lạ khi giờ trừ Hvedra tôi chỉ có thể nói chuyện thoải mái với hai người. Những người khác...” Ông nhún vai. “Bah.”

Eragon cũng đứng dậy. “Anh là bạn tôi, Orik, dù có phải vua người lùn hay không. Chúng tôi luôn vui vẻ nói chuyện với anh. Và anh biết đấy, đừng lo chúng tôi sẽ nói cho người khác nghe những gì anh nói.”

“Ừ, tôi biết mà Eragon.” Orin nhìn thẳng vào mắt nó. “Cậu tham gia vào những sự kiện trong đại nhất thế giới nhưng cậu chưa bao giờ suy nghĩ hẹp hòi.”

“Tôi không hứng. Hơn nữa, tôi còn nhiều thứ khác để lo hơn trong giai đoạn này.”

“Thế thì tốt. Một kỵ sĩ phải tách biệt với những người khác. Hơn nữa, sao cậu có thể vì vụ lợi được? Tôi chưa bao giờ đánh giá cao tính độc lập của Kỵ sĩ nhưng giờ thì có, và vì nguyên nhân cá nhân.”

“Tôi không hoàn toàn xa rời mọi người,” Eragon nói. “Tôi đã thề trung thành với anh và Nasuada.”

Orikk gật đầu. “Đúng. Cậu không hoàn toàn tách khỏi Varden hay Ingeitum. Dù gì xảy ra tôi vẫn mừng vì tôi có thể tin cậu.”

Một nụ cười nở rộng trên khuôn mặt Eragon. “Tôi cũng vậy.”

“Dù gì chúng ta cũng là anh em nuôi mà nhỉ? Và đã là anh em thì phải bảo vệ lẫn nhau thôi.”

Nên thế, Eragon nghĩ dù nó không nói lớn, “Anh em nuôi,” nó đồng tình và vỗ vai Orik.
 
24. HỌC HỎI
Chiều hôm đó, khi mà dường như ko có dấu hiệu một cuộc tấn công nào của Đế Chế từ Dras-Leona trong khi trời vẫn còn sáng, Eragon và Saphira đi tới bãi tập ở phía sau trại Varden.

Ở đó Eragon gặp Arya, vẫn như mọi ngày từ khi tiến tới thành phố. Nó hỏi nàng, và nàng trả lời ngắn gọn rằng nàng bị vướng vào một cuộc tranh luận mệt mỏi với Nasuada và vua Orrin từ suốt đêm qua. Eragon ếm phép lên cây kiếm của mình và Arya cũng làm tương tự, họ đứng đối mặt nhau. Có một sự thay đổi nhỏ, họ đồng ý sử dụng khiên đỡ, điều này sẽ làm trận đấu tập gần giống với thực tế hơn.

Nó và nàng di chuyển nhịp nhàng, những bước ngắn, mượt mà tựa như những vũ công trên mặt đất gồ ghề bằng cảm nhận của mỗi người, thuần thục.

Đây là phần hấp dẫn nhấn trong trận đấu đối với Eragon. Cảm xúc mãnh liệt bừng lên trong đôi mắt Arya, ko mấp máy, ko dao động, nàng nhìn nó 1 cách chăm chú. Nó càm thấy bối rối, nhưng nó thích khi có một sợi dây liên kết vô hình xuất hiện giữa hai người.



Arya xuất chiêu, và chưa tới một giây, nó thấy mình khuỵu xuống, lưỡi kiếm của nàng kề sát cổ trái của nó, cứa vô d.a thịt. Eragon cảm thấy cơn lạnh thấu người tới khi nàng thu kiếm lại và để nó đứng thẳng dậy.

-Thật là cẩu thả. Nàng nói.

-Làm thế nào nàng vẫn vượt hơn ta? Nó gầm gừ, tức tối

“Bởi vì”, nàng đáp, trong lúc chỉnh lại giáp vai phải và khiên cho nó, “ta đã có ngót một thế kỉ tập luyện. Sẽ thật kì lạ nếu ta không tốt hơn chàng, ít nhất là bây giờ. Chàng nên tự hào rằng chàng đã có thể dần chống đỡ lại ta. Rất ít ng có thể”

Brisingr rít lên trong không khí khi Eragon nhắm vô chân trụ của Arya. Tiếng kim loại vang lên khi nàng chặn đứng mũi kiếm bằng tấm khiên. Arya phản đòn bằng một cú đâm xoắn quấn lấy thanh kiếm và điểm hai nhát lạnh băng xuyên qua lớp giáp lên vai và đầu nó.

Nhăn nhó, nó ngưng lại, tạm hoãn trận đấu và suy nghĩ. Một trong những thách thức khi đấu với các thần tiên chính là tốc độ và sức mạnh của họ. Họ có thể dễ dàng áp sát và hạ gục đối phương từ khoảng cách xa hơn bất kì người trần nào khác. Do đó, để an toàn trước Arya, nó phải di chuyển cách xa nàng gần ba thước rưỡi.

Trước khi nó kéo dãn khoảng cách giữa hai người ra, Arya đã áp sát nó, chỉ với bước nhảy, tóc nàng tung bay phía sau. Eragon tấn công ngay trc khi cô tiếp đất, nhưng nàng đã để lưỡi kiếm lướt qua cơ thể mình mà không cần đỡ đòn. Nàng trượt cạnh tấm khiên bên dưới Eragon và hất lên, để hở nguyên mảng sườn không được phòng thủ. Bằng tốc độ ưu việt của mình, nàng vung kiếm lên và lại kề cổ nó, lần này là dưới cằm.

Nàng giữ nguyên tư thế, đôi mắt to tròn của nàng cách nó chỉ một phân. Có một cái gì đó dữ dội trong thái độ của nàng mà nó ko thể giải thích, nhưng điều đó làm cho nó ngưng lại.

Bóng tối lướt qua khuôn mặt Arya, nàng tra kiếm vào bao và bỏ đi.

Eragon xoa xoa cổ họng của nó: “nếu nàng biết nhiều về kiếm pháp” nó nói “ tại sao nàng không thể dạy ta giỏi hơn?”

Đôi mắt ngọc bích của nàng bừng lên:” ta đã thử” nàng nói ”nhưng vấn đề không phải ở đây” Nàng chỉ kiếm vô cánh tay phải của nó. “Vấn đề là ở đây” Nàng đập lưỡi kiếm vô mũ sắt của nó, tiếng kim loại va vào nhau kêu lanh canh. “ Và ta không biết phải dạy chàng thế nào ngoại trừ việc chỉ ra lỗi của chàng hết lần này đến lần khác cho tới khi chàng không mắc lỗi nữa” Nàng lại đập vô mũ sắt của nó một lần nữa ”Có nghĩa là ta phải đánh chàng bầm dập để làm điều đó”

Và nàng lại tiếp tục hạ gục nó và lòng kiêu hãnh của nó nhiều hơn mức nó có thể thừa nhận, thậm chí cả Saphira, nó cảm thấy nghi ngờ khả năng có thể đánh bại được Galbatorix, Murtagh, hoặc bất kì đối thủ đáng gờm nào khác, và thật xui xẻo khi phải đối đầu những kẻ như vậy một mình mà không có sự tợ giúp của Saphira hoặc khả năng phép thuật của nó.

Lăn ra xa Arya, Eragon đứng cách xa arya khoảng mười thước

“Tốt thôi” nó nói qua kẽ răng nghiến chặt” tiếp tục nào” Và nó gồng mình thủ thế, chờ đợi một lượt tấn công dữ dội khác.

Arya nheo mắt lại liếc nhìn một cách tinh quái:” tốt hơn rồi đấy”

Họ xáp vào nhau, cả hai thét lên, và bãi tập vang lên âm thanh của những tiếng va chạm dữ dội. Hết trận này tới trận khác, cho tới khi họ mệt nhừ, vã mồ hôi, lấm tấm bụi, Eragon bầm mình với nhiều vết chém . Và họ tiếp tục gồng mình lao vô quần thảo nhau, điều chưa từng xảy ra ở những buổi tập luyện trước đây. Không ai trong hai người có ý định ngưng lại mặc cho những vết bầm tím khắp mình.

Saphira xem trận đấu từ phía bên kia của bãi tập, nó nằm dài ra bãi cỏ. Nó khép kín phần lón tâm trí mình, để tránh ảnh hưởng đến Eragon . Thình thoảng nó đừa ra một vài nhận xét về kiếm pháp của Eragon hoặc của Arya, điều đó thực sự hữu ích cho Eragon. Đôi lúc, Eragon cảm thấy hơn một hoặc hai lần cô em rồng đã cứu nó khỏi những cú đánh đặc biệt nguy hiểm, vào những thời điểm mà cánh tay hay chân Eragon di chuyển nhanh hơn một chút so với bình thường, hoặc thậm chí trước khi nó định di chuyển. Mỗi lần vậy, Eragon cảm thấy nhột phía sau gáy và nó biết rằng Saphira đã can thiệp vô tâm trí nó.

Cuối cùng nó bảo cô em rồng ngưng lại. Anh phải tập một mình Saphira ạ, nó nói. Em không thể luôn có mặt để giúp anh mỗi khi anh cần được.

Em sẽ cố hết sức.

Anh hiểu. Anh cũng cảm thấy như em vậy. nhưng đây là ngọn núi mà anh phải leo một mình

Môi cô em rồng mấp máy. Tại sao anh lại phải leo khi anh có thể bay? Anh sẽ không thể tới bất kì đâu với đôi chân ngắn cũn đó được.

Điều đó không đúng và em biết điều đó. Bên cạnh đó, nếu anh bay, thì có nghĩa rằng đây chỉ là đôi cánh tạm bợ, anh sẽ ko thể học được gì hơn sự rẻ tiền nếu chiến thắng đó ko phải của bản thân.

Thắng là thắng và chết thì vẫn là chết, bất kể điều đó xảy ra bằng cách nào.

Saphira.., nó cảnh cáo cô em rồng.

Tí xíu thôi mà.

Tuy nhiền để trợ giúp ông anh, nó để Eragon làm chủ cơ thể, nhưng mặc dù vậy nó vẫn theo dõi với một sự cảnh giác không ngừng

Cùng với Saphira, các thần tiên được giao nhiệm vụ bảo vệ nó và Eragon đã tụ tập tại rìa bãi tập. Sự hiện điện của họ làm Eragon cảm thấy không thoải mái. Nó không muốn ai khác thấy sự thê thảm của nó trừ Saphira và Arya, nhưng nó biết rằng các thần tiên sẽ không bao giờ chịu quay về lều. Ít ra thì, họ vẫn hữu ích ngoại trừ việc bảo vệ nó và Saphira: họ không để các chiến binh lang thanh trên bãi tập trong lúc một kĩ sĩ và một tiên nhân đang xà quần với nhau. Các pháp sư của Blodhgarm không làm gì đặc biệt, nhưng chỉ sự xuất hiện của họ là đủ đe dọa các khan giả bình thường.

Sau nhiều hiệp đấu, Eragon càng lúc càng thất vọng. Nó thắng được 2 hiệp. Hầu như không có một tiểu xảo, kĩ thuật nào có thể qua mặt đc Arya mà không cần tới may mắ, và nó chưa bao h gắng hết sức trong những trận chiến trừ khi bị đe dọa tới tính mạng. Trừ những chiến thắng ít ỏi đó, Arya tiếp tục hạ nó một cách dễ dàng.

Cuối cùng, sự giận dữ bùng phát và nhấn chìm nó. Mặc dù kĩ thuật này ít khi nào đem lại hiệu quả cho nó, Eragon nâng cánh tay phải và chuẩn bị phóng thanh Brisingr vô Arya như một cây rìu chiến.

Vào lúc đó, một luông tâm trí chạm ùa vào tâm thức Eragon, một luồng tâm trí Era ngon nhận biết một cách rõ rngf không phải của Saphira hay Arya, hay của bất kì tiên nhân nào khác, nó là tâm trí của một con rồng, một con rồng đực. Eragon chặn lại luồng tư tưởng, chạy đua đặt các vòng bảo vệ và lo sợ bị tấn công bởi Thorn. Nhưng trước đó, một giọng nói vang lên khắp ý thức của nó, giống như âm thanh của một ngọn núi thay đổi trọng lượng theo âm điệu.

Đủ rồi, Glaedr nói.

Eragon cứng đơ lại và bước tới nửa bước. Ấn đầu ngón chân xuống đất, nó ngưng bản thân khỏi việc ném thanh Brisingr. Nó nhìn và cảm thấy Arya, Saphira, và các pháp sư của Blodhgarm cũng phản ứng như vậy, bất ngờ và ngạc nhiên, và nó biết họ cũng nghe thấy Glaedr.

Tâm trí con rồng vẫn như trước- Già cỗi, khôn ngoan nhưng ẩn chứa sự đau thương. Nhưng lần đầu tiên sau cái chết của Hiền Nhân Oromis tại Gil’ead, Glaedr dường như bị thôi thúc phải làm gì đó hơn là chìm sâu và bao bọc tâm trí trong nỗi đau thương của nó.



Glaedr tiền bối! Eragon và Saphira nói cùng lúc.

Người thế nào rồi….

Người không sao chứ…

Người….

Những người khác nói---Arya, Blodhgarm và 2 vị tiên nhân khác nữa, mà Eragon không thể xác định được---Nhiều luông tâm trí và giọng nói đan xen lẫn nhau gây ra hỗn loạn .

Đủ rồi, Glaedr lặp lại, âm thanh vang lên vừa mệt mỏi vừa bực tức. Các người muốn thu hút sự chú ý không mong muốn à?

Tất cả giữ yên lặng và đợi nghe rồng vàng sẽ nói gì. Hồi hộp, Eragon trao đổi cái nhìn với Arya.

Glaedr không nói ngay, mà quan sát mọi người trong vài phút, sự xuất hiện của rồng vàng đè nặng lên tâm trí Eragon, và nó chắc rằng những người khác cũng cảm thấy như vậy.

Sau đó, bằng giọng nói trầm vang, Glaedr nói, điều này đã đi quá xa….Eragon, người không nên phis thời gian vào việc tập luyện chiến đấu. Nó làm ngươi sao lãng những vấn đề khác quan trọng hơn. Thanh kiếm trong tay Galbatorix không phải là thứ ngươi cần lo sợ nhiều nhất, cũng như thanh kiếm miệng lưỡi của hắn ta, mà là tâm trí của hắn. Tài năng của hắn ghê gớm nhất là khả năng lần vào những phần nhỏ nhất, yếu đuối nhất trong tâm trí của con và buộc con phải tuân lệnh hắn. Thay vì tập trung vào cuộc đọ sức với Arya ngươi nên tập trung vô việc rèn luyện trí óc, cải thiện khả năng làm chủ bản thân; nó vẫn còn đầy rẫy những phiền muộn, và vô kỷ luật…..tại sao, sau đó, ngươi vẫn kiên trì với những nỗ lực vô ích?

Một loạt các câu trả lời nhảy đi đầu trong tâm trí Eragon: nó rất thích đọ kiếm với Arya, mặc sự bực mình điều đó gây ra cho nó, nó vẫn muốn trở thành một tay kiếm tốt nhất có thể--một tay kiếm giỏi nhất thế giới, nếu có thể. Các bài tập giúp nó tự chủ và trui rèn cơ thể, và còn nhiều lí do bên cạnh đó. Nó cố ngăn chặng luồng suy nghĩ bản thân, vừa để bảo vệ một số thông tin riêng tư và tránh để Glaedr thấy những thông tin không mong muốn, điểu đó chỉ xác nhận ý kiến của con rồng về sự thiếu kỷ luật của nó. Nó đã cố gắng nhưng không thành công, tuy nhiên, một luông không khí thất vọng lại bắt nguồn từ Glaedr.

Eragon chọn câu trả lời xác đáng nhất: nếu con có thể bảo vệ tâm trí con khỏi Galbatorix, nhưng không thể xâm nhập tâm trí hắn, chỉ kiềm chế đc hắn, thì tất cả sẽ quyết định bằng lưỡi kiếm. Vả lại, đức vua cũng không phải là kẻ thù duy nhất chúng ta phải lưu tâm: còn có Murtagh, một người, và ai mà biết được rằng loại người hay loại quái vật nào còn nằm dưới trướng Galbatorix? Con đã không thể giết Durza, cũng như Varaug mà không có sự giúp đỡ của Arya. Con luôn luôn nhận được sự giúp đỡ. Nhưng con không thể để ch Sahira, Arya, hay Blodhgarm cứu con mỗi khi con gặp rắc rối. Con phải luyện kiếm tốt hơn. Nhưng dường như con vẫn không có chút tiến bộ nào, mặc dù con đã cố gắng.

Varaug? Glaedr thắc mắc. Ta chưa từng nghe thấy cái tên đó trước đây

Eragon hạ giọng, sau đó kể cho Glaedr về biến cố trong việc chiếm Feinster và cách mà nó và Arya làm sao để tiêu diệt tà thần mới xuất hiện ngay khi Oromis và Glaedr đối mặt với cái chết—Bằng những cách khác nhau, ngay trên bầu trời Gil’ead. Eragon cũng tóm lược lại những sự kiện và hành động của Varden sau đó, và nó nhận ra Glaedr đã tự cô lập bản thân, nó có quá ít kiến thức về rồng. Câu chuyện làm Eragon mất vài phút, trong thời gian đó, tất cả mọi người đứng yên trong bãi tập, đôi mắt nhìn vào khoảng không, sự chú ý của họ quay vào trong tâm trí khi họ tập trung vào việc trao đổi tư tưởng, hình ảnh và cảm xúc.

Sau một hồi lâu im lặng, Glaedr thu nhận những thông tin mới. Khi rồng vàng cân nhắc và nói:”ngươi quá tham vọng khi đặt mục tiêu là có thể giết được một tà thần mà không bị thương tổn. ngay cả những kị sĩ tài năng nhất và già dặn nhất cũng hải ngần ngại khi tấn công tà thần một mình. Ngươi đã sống sót sau khi tiêu diệt được hai tên trong số đó, hai đã là quá nhiều. Hãy tạ ơn rằng mình thật may mắn và đừng mơ tới điều đó. Cố gắng vượt qua một tà thần giống như thử bay cao hơn mặt trời vậy.”

Vâng, Eragon đáp, nhưng kẻ thù của chúng ta mạnh như tà thần và có khi mạnh hơn nữa, và Galbatorix có thể tạo ra nhiều tên nữa để cản bước tiến của chúng ta. Hắn dung chúng một cách bất cẩn, mà không nghĩ tới hậu quả chúng để lại cho vùng đất này.

Ebrithil, Arya nói, cậu ấy nói đúng. Kẻ thù của chúng ta qua sức nguy hiểm…như tiền bối đã biết---Nàng sử dụng âm điệu nhẹ nhàng-----và Eragon chưa đạt tới trình độ cần thiết. Để chuẩn bị cho những điều đang chờ chúng ta phái trước, chàng cần phải điêu luyện hơn nữa. Tôi đã cố hết sức để dạy chàng, nhưng người thầy thực sự phải đến từ bên trong, không phải bên ngoài.

Những lời bảo vệ nó của nàng làm tim nó ấm lên.

Cũng như trước, Glaedr chậm rãi trả lời. Eragon vẫn chưa làm chủ được suy nghĩ của mình, như cậu ấy phải làm. Tất cả kĩ năng, tâm trí hay thể xác, đều không thể sử dụng riêng lẻ, nhưng trong hai thứ đấy, tâm trí quan trong hơn. Một người có thể chiến thắng một kiếm sĩ và một pháp sư chỉ bằng tâm trí. Tâm trí và thể xác của ngươi phải được thăng bằng, nhưng nếu phải chọn để tập luyện, ngươi nên chọn tâm trí. Arya…..Blodhgarm….Yaela…các người đều biết điều ấy là đúng. Tại sao không ai trong số các ngươi hướng dẫn Eragon tập luyện điều này?

Arya chuyển ánh mắt nhìn xuống đất, như một đứa trẻ vừa bị trách mắng, trong khi lớp lông trên vai Blodhgarm gợn sóng và dựng đứng lên , ông bĩu môi, để lộ ra hàm răng nanh trắng.

Blodhgarm là người cuối cùng dám đáp trả.Ông nói hoàn toàn bằng ngôn ngữ cổ, và là người đầu tiên làm vậy, Arya ở đây với trách nhiệm là một người đưa tin cho chúng tôi. Tôi và những người còn lại ở đây để bảo vệ cho Saphira vảy sáng Eragon Khắc tinh của tà thần, và điều đó thực sự đã tiêu tốn không ít thời gian và công sức. Chúng tôi đều cố giúp Eragon, nhưng bổn phận chúng tôi không phải là huấn luyện một kị sĩ. Chúng tôi cũng không giả vờ là đã cố gắng làm điều đó khi mà một trong những người thầy thực sự vẫn còn sống và hiện diện….thậm chí cả khi vị sư phụ đó từ bỏ nghĩa vụ của mình.

Đám mây đen của cơn giận bao trùm trong tâm trí Glaedr, tựa như những cơn sấm rạch ngang chân trời. Eragon tách mình khỏi ý thức Glaedr, cảnh giác của cơn thịnh nộ của con rồng. Glaedr đã không còn

có khả năng thể chất làm tổn hại đến bất cứ ai, nhưng nó vẫn vô cùng nguy hiểm. Nếu nó không kiềm chế và tấn công mọi người với tâm trí của mình, không ai trong số họ có thể chịu đựng được sức ép ấy.

Lời lẽ khiếm nhã và vô cảm của Blodhgarm gây sốc cho Eragon---Nó chưa bao h thấy một thần tiên lại nói với một con rồng như thế----nhưng sau khi suy ngẫm, Eragon nhận ra rằng Blohdgarm phải làm thế để vực dậy Glaedr và ngăn chặn rồng vàng tự giam mình trong đau khổ. Eragon ngưỡng mộ sự can đảm của vị tiên nhân, nhưng liệu xúc phạm Glaedr có phải là cách tốt nhất. Nhưng nó chắc chắn rằng đây không phải là cách an toàn nhất.

Khối mây bão cuồn cuộn, chớp lóe lên khi tư tưởng của Glaedr nhảy từ người này sang người khác. Ngươi đang bước quá giới hạn đó, thần tiên, ông gầm lớn, bằng ngôn ngữ cổ. Ta hành động thế nào không cần ngươi quản. Ngươi thậm chí còn không hiểu nổi ta mất cái gì. Nếu không phải vì Eragon và Saphira và trách nhiệm của ta với họ, ta đã điên lâu rồi. Vì thế đừng buộc tội ta vì bàng quan thế sự, Blödhgarm,con trai Ildrid, trừ khi ngươi muốn thử sức mạnh của Con rồng Cuối cùng.

Blödhgarm nghiến răng mạnh hơn và rít lên. Tuy vậy Eragon lại ngửi thấy sự hài lòng từ nét mặt tiên nhân. Nhưng Blödhgarm vẫn nói tiếp,Vậy đừng đổ lỗi cho chúng tôi vì không hoàn thành nhiệm vụ của ông,không phải của chúng tôi, thưa Rồng Tối Cổ. Toàn bộ thần tiên đều tiếc thương trước sự mất mát của ông, nhưng ông không thể mong chúng tôi chấp nhận ông tự gặm nhấm nỗi đau trong khi chúng tôi sống chết với kẻ thù nguy hiểm nhất trong lịch sử - cùng kẻ thù đã giết toàn bộ loài rồng và giết kị sĩ của ông.

Cơn giận dữ của Gleadr phun trào. Nó đen thẫm và kinh khủng, thổi tạt vào Eragon với lực như thể quần áo bị xé vụn, như một con thuyền buồm trong cơn bão. Phía bên kia cánh đồng, những người lính làm rơi vũ khí và ôm đầu, nhăn mặt vì đau.

Tự gặm nhấm nỗi đau? Glaedr nói gằn từng từ và mỗi từ được đánh vần như từ tận thế. Trong trí óc của con rồng, Eragon cảm nhận cảm giác không hài lòng, nếu nó dám tiến sâu hơn, nó sẽ thấy nhiều nỗi đau và sự tiếc nuối.

RỒi Saphira nói, chất giọng lanh lảnh như kim loại cắt đứt luồng cảm xúc khuấy đảo của Glaedr. Sư phụ, cô bé nói, con rất lo cho người. Con rất mừng được biết người vẫn khỏe. Không ai trong chúng con sánh được với người, và chúng con cần người giúp. Không có người, chúng con không thể đánh bại Triều đình.

Gleadr gầm như sấm động nhưng ông không ngắt lời, không tỉnh bơ, hay mắng nhiếc cô nàng. Ngược lại, những lời cầu xin còn làm ông hài lòng, dù chỉ là chút ít. Sau cùng, nếu con rồng có một điểm yếu duy nhất thì đó là dễ bị tán tỉnh, và Saphira nhận thức rõ điều đó.

Saphira không dừng lại để Glaedr trả lời, Vì người không còn sử dụng đôi cánh nữa, hãy cho con làm cánh của người. Bầu trời yên ả, trong xanh và con thích thú được bay lượn trên cao, cao hơn cả những con đại bàng. Sau một quãng thời gian quá dài nằm trong tim của tim, người phải để lại tất cả phía sau mà cảm nhận những luồng khí bên đưới người thêm một lần nữa.

Cơn bão đen bên trong Glaedr đã tan nhưng còn lại chút gì đe dọa cho một trận giận dữ mới. Điều đó... sẽ rất thích.

Vậy thì chúng ta sẽ cùng bay với nhau. Nhưng, thưa Sư phụ?

Gì vậy, con gái?

Nhưng có một điều con muốn cầu xin người.

Vậy con nói đi.

Người giúp Eragon luyện kiếm được chứ? Người giúp anh ấy đi mà? Anh ấy chưa có đủ kỹ năng cần có mà con không muốn mất Kỵ sĩ của mình. Saphira giữ vẻ cao quý nhưng có chút cầu xin trong giọng nói của cô em khiến cổ họng Eragon nghẹn lại.
 
Cơn bão tan đi, để lại đằng sau vùng trời xám ảm đạm khiến Eragon thấy buồn thối ruột. Glaedr dừng lại. NHững bóng dáng kỳ lạ, mờ ảo di chuyển từ từ ở bên ngoài – những người khổng lồ đá mà Eragon không muốn lại gần chút nào.

Tốt thôi, cuối cùng Glaedr cũng cất tiếng. Ta sẽ làm tất cả những gì có thể cho Hiệp sĩ, nhưng sau khi xong việc ở đây, cậu ta phải để ta dạy thứ ta cho là cần thiết đã.

Con đồng ý, Saphira nói. Eragon thấy Arya và các tiên nhân khác thả lòng như thể từ nãy giờ họ không dám thở.

Eragon rút khỏi cuộc nói chuyện tư tưởng với những người khác trong chốc lát vì Trianna và vài pháp sư Varden khác liên lạc với nó, hỏi họ vừa cảm nhận được cơn xáo động tư tưởng và chuyện gì khiến những người lính và động vật trong doanh trại đau buồn. Trianna thay mặt những người khác lên tiếng, Chúng ta bị tấn công phải không, thưa Khắc tinh của Tà thần? Thorn à? Hay Shruikan? Cô quá hoảng hốt khiến Eragon chỉ muốn ném khiên kiếm mà chạy trốn.

Không, mọi chuyện đều ổn, nó nói đều đều. Sự tồn tại của Glaedr vẫn là bí mật với hầu hết các Varden, kể cả Trianna và những pháp sư dưới quyền cô. Eragon muốn giữ bí mật, để các gián điệp của Triều đình không hay biết. Khi giao tiếp tư tưởng mà nói dối rất khó – vì nó khó lòng không nghĩ tới điều nó đang giấu giếm – vì thế Eragon kết thúc cuộc trò chuyện nhanh. Các tiên nhân và tôi luyện tập phép thuật. Tôi sẽ giải thích sau, nhưng không phải lo lắng gì đâu.

Nó biết lời giải thích của nó không thuyết phục nhưng họ không dám yêu cầu nó giải thích kỹ hơn và đành tạm biết trước khi rời đi.

Arya chắc chắn thấy được sự thay đổi nên nàng đi tới bên cạnh và nhẹ nhàng hỏi, “Mọi việc ổn không?”

“Ổn,” Eragon đáp lại bằng giọng tương tự. Nó gật đầu với những người lính đang nhặt vũ khí lên. “Tôi phải trả lời vài câu hỏi.”

“à. Chàng không nói ai...”

“Tất nhiên là không.”

Về vị trí ban nãy đi, Glaeder trầm giọng nói, Eragon và Arya tách ra về vị tri cách nhau 6m.

Biết rằng nó có thể là một sai lầm nhưng không thể kiềm chế bản thân mình, Eragon hỏi: Sư phụ, người có thể dạy con hết những gì con cần biết trước khi tới Uru’baen không ạ? Thật sự là chúng con còn rất ít thời gian, con…..

Ta sẽ dạy trò ngay bây giờ, nếu ngươi lắng nghe.Glaedr nói. Nhưng trò phải học một cách chăm chỉ hơn bao giờ hết.

Con đang lắng nghe, thưa sư phụ.Nhưng Eragon không thể không tự hỏi một con rồng có thể biết gì về kiếm thuật. Glaedr có thể học được rất nhiều từ Oromis, cũng như Saphira học hỏi từ Eragon, nhưng dù cả hai có chia sẻ kinh nghiệm cho lẫn nhau, Glaedr vẫn chưa bao giờ cầm kiếm---Làm sao sư phụ có thể? Glaedr dạy Eragon đánh kiếm cũng giống như Eragon dạy một con rồng bay trên những luồng khí trên ngọn núi vậy; Eragon có thể làm được, nhưng chắc chắn không thể bằng Saphira, kiến thức của nó là được truyền thụ lại, và không có sự áp dụng thực tế thì khó mà có thể truyền đạt lại tốt.

Eragon giữ lại nhưng nghi ngờ đó trong thâm tâm, nhưng một số trong chúng lại vượt qua rào cản và đến tai Glaedr, rồng vàng khục khục một cách thích thú—một thói quan từ trước khi mất cơ thể thật khó mà quên ngay được---và ông nói: Tất cả những trận đánh lớn đều giống nhau, Eragon ạ, và tất cả các chiến binh vĩ đại cũng vậy. Có một điểm chung, vấn đề không phải là trò sử dụng một cây kiếm, móng vuốt, hay răng nanh, đuôi. Thực sự là, trò phải hòa hợp với vũ khí của mình. Bất cứ ai bỏ thời gian luyện tập sẽ đạt được kĩ thuật và trình độ nhất định. Nhưng để đạt được đỉnh cao, nó đòi hỏi phải có nghệ thuật. Nó đòi hỏi trí tưởng tượng, sự chu đáo, những phẩm chất chung của các chiến binh giỏi nhất, ngay cả khi, hình dạng của họ khác nhau.

Glaedr im lặng một lúc, và nói: bây giờ, ta đã nói những gì trước đó với trò?

Eragon lặp lại ngay tức khắc. Con phải học cách nhìn những gì con thấy. Và con đã thử, thưa sư phụ.

Nhưng trò vẫn chưa thấy. Nhìn Arya đi. Tại sao cô ta liên tục hạ gục trò hết lần này đến lần khác? Bởi vì cô ta thấu hiểu trò, Eragon. Cô ta biết trò là ai và trò nghĩ thế nào. Điều đó cho cô ta đánh bại trò một cách dễ dàng. Tại sao Murtagh có thể đánh bại trò tại Cánh đồng cháy, mặc dù nó không nhanh nhẹn và khỏe như trò?

Bởi vì con đã mệt và……

Làm thế nào hắn để lại một vết thương trên hông trò trong khi trò chỉ làm hắn trầy má trong lần giao chiến vừa qua. Ta sẽ nói trò biết, Eragon. Không phải vì trò mệt còn hắn thì không. Không phải vậy, đó là bởi vì hắn hiểu trò, Eragon, nhưng trò không biết gì về hắn. Murtagh biết nhiều hơn trò, do đó hắn chiếm thế thượng phong, cũng như Arya vậy

Glaedr vẫn nói tiếp: nhìn cô ta, Eragon, nhìn kỹ vào. Cô ta biết ngươi là ai, nhưng ngươi có thấy gì từ cô ta không? Những gì ngươi thấy có đủ để giúp ngươi đánh bại cô ta không?

Eragon nhìn Arya và thấy có cái gì đó kết hợp giữa sự phòng thủ và quyết tâm, như thể nàng thách thức nó tìm ra được bí ẩn bên trong nàng, nhưng cũng lo sợ rằng nó sẽ làm được điều đó. Nỗi nghi ngờ trỗi lên trong Eragon. Nó thực sự hiểu nàng như nó nghĩ hay đây chỉ là sự lừa dối bản thân?

Trò đã để cho cơn giận dữ lấn át bản thân, Glaedr nhẹ nhàng nói. Giận dữ cũng tốt, nhưng nó không giúp trò lúc này. Con đường của một chiến binh là con đường của sự học hỏi. Nếu sự học hỏi đó dựa trên sự phẫn nộ và còn sử dụng cơn phẫn nộ của mình, thì trò sẽ không học hỏi được gì đâu. Đau đớn và thất vọng là những gì chờ đợi trò phía trước nếu ngươi làm vậy.

Thay vào đó, trò phải học cách bình tĩnh, ngay cả khi hàng trăm kẻ thù như bầy quạ đang lao vào gót chân ngươi. Thư giãn tâm trí, để nó phằng lặng như một hồ nước phản chiếu mọi thứ mà không bị tác động bởi bất kì thứ gì xung quanh. Sự hiểu biết sẽ đến với trò trong tâm thức đó, khi trò không còn lo nghĩ gì về thắng và bại, sự sống và cái chết.

trò không thể dự đoán hết mọi tình huống, và trò không thể đảm bảo rằng sẽ chiến thắng trước mọi đối thủ, nhưng với cái nhìn bao quát và không quá tập trung vô chi tiết nhỏ nào, trò có thể thích nghi với bất kì tình huống nào. Một chiến binh có thể thích nghi dễ dàng nhất với mọi điều bất ngờ nhất là chiến binh có thể sống sót dai nhất.

Nào, bây giờ trò hãy nhìn Arya, nhìn thấu vào cô ta, và hành động những gì trò cho là thích hợp. Khi giao đấu, đừng để những suy nghĩ ảnh hưởng tới bản thân. Nghĩ mà không nghĩ, hành động bằng bản năng và không cần lí do. Đi đi, và thử xem.

Eragon ngẫm lại một phút những gì nó biết về Arya: nàng thích và không thích thứ gì, thói quen và kiểu cách, những sự kiện quan trọng trong cuộc đời nàng, những thứ nàng sợ hãi và hi vọng, và quan trọng hơn là cách nàng đương đầu trong cuộc sống và chiến đấu. Sau khi xem xét, nó cố gắng rút ra nhận xét về tính cách của nàng. Điều này thực sự khó khăn, đặc biệt là khi phải nhìn nàng không như mọi khi- một ngươi phụ nữ xinh đẹp mà nó hằng ngưỡng mộ và mong mỏi mà là con người thực sự của cô, toàn bộ, đầy đủ và riêng biệt, theo phân tích của nó.

Nó đưa ra kết luận sau một thời gian ngắn, mặc dù lo lắng về kết luận của mình quá đơn giản và trẻ con. Nó bước tới trước, nâng kiếm và khiên lên.

Nó biết rằng Arya đang chờ đợi một thứ gì khác từ nó; nó bắt đầu trận đấu như hai lần trước: xoay một vòng kiếm và nhắm thẳng vào vai phải nàng, như muốn phá vỡ khiên đỡ của nàng và nhắm vào phần xương sườn không được bảo vệ. Dù không đánh lừa được nàng như nó đã buộc nàng phải đoán trước mỗi hành động của nó, chừng nào nó còn làm được vậy, lợi thế nghiêng về phía nó.

Một cục đá nhỏ vấp dưới chân phải của nó. Nó phải dồn sức nặng để giữ thăng bằng.

Bước di chuyển của nó chỉ hơi khựng lại, nhưng Arya đã phát hiện ra sự phất thường đó và xáp lại, thét lên.

Thanh kiếm của họ lướt qua, một nhát, hai nhát, Eragon xoay lại và bất ngờ nhận ra rằng nhát chém tiếp theo Arya sẽ nhắm đầu mình---nó đâm vào ngực nàng, nhanh hết sức có thể, điểm ngay tại xương sườn mà nàng sẽ để hở nếu nhắm vô đầu nó

Trực giác của nó đã đúng nhưng tính toán sai.

Nó đâm quá nhanh, Arya chưa kịp vung kiếm và mũi thanh Brisingr xanh thẫm lướt qua ngực nàng một cách vô hại.

Một giây sau đó, thế giới nghiêng ngả xung quanh Eragon, mắt nó nháng lửa. Nó quỵ xuống một bên gối, chống hai tay xuống đất. Tai nó ong ong.

Những âm thanh u u dần giảm xuống, nó nghe Glaedr nói, đừng di chuyển quá nhanh Eragon. Cũng đừng di chuyển quá chậm. Di chuyển đúng thời điểm và cú đánh chuẩn xác, không quá nhanh cũng như quá chậm. Thời khắc là tất cả trong cuộc chiến. Trò phải chú ý đến động tác và nhịp điệu của đối thủ: điểm mạnh của họ, điểm yếu của họ, sự cứng nhắc và linh hoạt của họ. Cuốn lấy nhịp độ trận đấu theo ý của trò và ngắt quãng nó khi nó không theo ý mình, và con sẽ làm chủ được nhịp độ của trận đấu nếu ngươi nương theo nó. Trò phải thấu hiểu điều này. Thay đổi thói quen trong tâm trí và nghiền ngẫm nó sau….nào, thử lại lần nữa!

Nghĩ tới Arya, Eragon xoay gót, lắc đầu để xóa đi mọi suy nghĩ, như hàng trăm lần trước, nó đứng thủ thế. Những vết đau nhức là nó cảm thấy mình như một ông già bị viêm khớp.

Arya hất mái tóc lên và cười với nó, để lộ hàm răng trắng xinh.

Cử chỉ này không làm nó bị ảnh hưởng. Nó tập trung vào cánh tay và không để bị lừa lần thứ hai.

Trước khi nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt Arya, nó vụt tới, hạ thấp Brisingr và đưa khiên ra trước. Đúng như dự đoán, vị trí thanh kiếm đã thu hút Arya, một đòn phủ đầu: một nhát chém có thể nào gãy xương đòn nếu nó không né kịp

Eragon hụ xuống đỡ đòn, làm nó trượt qua tấm khiêm, nó vung thanh Brisingr lên và nhắm vào eo nàng. Nàng khóa đòn của nó và để nó văng ra, không khí trong phổi nó như bị tống hết ra ngoài.

Họ vờn nhau, không ngừng tìm điểm sơ hở của nhau. Không khí giữa hai người trở nên căng thẳng, họ di chuyển nhanh dần, gần như chim, nguồn năng lượng chảy trong họ dồi dào.

Sự căng thẳng bùng lên như một que thủy tinh bị bẻ đôi.

Nó đánh và nàng trả đòn, lưỡi kiếm cả hai di chuyển cùng tốc độ, gần ngư vô hình. Họ ăn miếng trả miếng, nó để mắt không ngừng tới nàng, nhưng nó cũng cố-- như Glaedr khuyên, quan sát nhịp điệu và chuyển động cơ thể nàng, trong khi nó cố nhớ nàng thực sự là thế nào, nàng hành động và phản ứng ra sao. Nó h.am m.uốn giảnh chiến thắng, nó cảm thấy như sẽ nổ tung nếu không làm đc điều đó.

Và bất chấp mọi nỗ lực của nó, Arya lại làm nó thót mình với cú đâm thằng vô xương sườn.

Eragon dừng lại và rủa thầm.

Tốt hơn rồi đấy, Glaedr nói. Tốt hơn rồi, kĩ thuật nắm bắt thời điểm của trò đã gần như hoàn hảo.

Nhưng nó vẫn chưa hoàn hảo

Không, nó vẫn chưa. trò vẫn còn nôn nóng, và tâm trí của trò vẫn còn quá lộn xộn. Nhớ những gì cần nhớ , nhưng đừng để nó làm trò xao lãng khỏi những gì đang diễn ra. Tìm lại sự tĩnh tâm, và để những mối bận tâm về thế giới trôi qua và không để nó cuốn trò đi. Trò nên cảm nhận theo cái cách mà Oromis bắt trò phải lắng nghe ở trong rừng. Trò đã nắm bắt được hết mọi thứ xung quanh và không quá chú tâm vô một chi tiết nào. Đừng chỉ nhìn vào mắt Arya. Sự tập trung của trò quá hẹp, quá chi tiết

Nhưng Brom dạy con rằng…

Có rất nhiều cách để sử dụng đôi mắt. Brom có cách riêng của mình, nhưng nó quá bảo thủ, không thích hợp cho những trận chiến lớn. Hắn dành nhiều thời gian cho nhưng cược đấu một chọi một, hoặc trong những nhóm nhỏ, thói quen của hắn phù hợp với điều ấy. Nhìn bao quát thì tốt hơn là nhìn gần và để cho những biến cố trong hoàn cảnh làm ngươi bất ngờ, hiểu chứ?

Vâng, thưa sư phụ.

Nào, một lần nữa, và lần này, cho phép cơ thể thư giãn và mở rộng nhận thức ra.

Eragon lại suy ngẫm những gì nó biết về Arya một lần nữa. Khi đã có kế sách, nó nhắm mắt lại, thở chậm, chìm sâu trong bản ngã. Nỗi sợ và lo âu dần rút ra khỏi người nó, để lại sau đó một sự trống rỗng sâu sắc, vượt qua cả những nhức nhối do vết thương mang lại và làm nó cảm thấy thanh thản lạ kì. Nó không còn bận tâm tới chiến thắng, cũng như nỗi lo sợ bị that bại. Cái gì tới sẽ tới, nó sẽ không làm những việc vô ích để chống lại định mệnh.

"Sẵn sàng chưa?" Arya hỏi khi nó mở mắt.

"Sẵn sàng."

Họ đứng vô vị trí chuẩn bị, bất động, đợi người kia tấn công trước. Mặt trời nằm bên phải nó, nghĩa là nếu nó có thể khiến Arya đứng đối diện, anh sáng sẽ làm lóa mắt nàng. Nó đã thử trước đó, nhưng không thành công. Nhưng nó biết nó có thể làm được.

Nó biết Arya rất tự tin rằng có thể đánh bại nó. Nó chắc rằng nàng không coi nhẹ khả năng của nó. Tuy nhờ nắm quá rõ khả năng của nó, nàng đã chiến thắng rất nhiều lần. Những điều đó làm cho nàng nghĩ rằng sẽ đánh bại nó một cách dễ dàng, ngay cả khi, nàng hiểu nó rõ hơn nữa. Sự tự tin của nàng, cũng sẽ là điểm yếu của nàng.

Nàng nghĩ nàng sử dụng kiếm tốt hơn ta, nó nghĩ thầm. Có thể, nhưng ta có thể dung điểm này để chống lại nàng.

Nó rảo bước và mìm cười với Arya và Arya mỉm cười lại với nó. Vẻ mặt nàng thoáng chút ấn tương. Ngay sau đó, nàng lườm nó, như thể chuẩn bị giải quyết nó và hạ nó lăn quay ra mặt đất.

Nó lùi về phái bên phải, và để nàng đứng đúng hướng nó muốn.

Arya dừng lại cách nó vài thước, trông như một con thú hoang bị bắt . Nàng xoay thanh kiếm nửa vòng trước mặt trong khi nhìn chằm chằm vào nó. Nó nghi ngờ rằng việc có Glaedr theo dõi càng làm cho cô quyết tâm chứng tỏ bản thân hơn.

Nàng làm nó sốc khi gầm một tiếng nho nhỏ, tựa như tiếng mèo. Giống như nụ cười trước đó, tiếng kêu của nàng là một thứ hiệu quả để làm nó xao lãng. Và điều đó có hiệu quả, nhưng chỉ một phần, nó đã đề phòng , dù lần này hơi khác trước.

Arya thu gọn khoảng cách giữa hai người chỉ với một cú nhảy và bắt đầu áp đảo nó bằng những nhát chém, nó dung khiên đỡ đòn. Nó để nàng tấn công mà không phản khán lại, như thể những cú đánh quá mạnh và nó không thể làm gì hơn việc phòng thủ. Với những tiếng kêu răng rắc từ tay và vai, nó lùi dần về phía bên phải, vấp váp và làm tăng ấn tượng rằng nó đang bị đẩy lùi. Nó vẫn bình tĩnh và giữ cảm giác trống rỗng.

Nó biết rằng thời cơ sẽ đến trước khi khi nó kịp nhận ra, và khi nó đến, nó phải hành đồng mà không cần suy nghĩ hay do dự , không cố gắng quá nhanh hay quá chậm, chỉ chớp lấy thời khắc đó ngay lập tức, hoàn hảo.

Thanh kiếm của Arya bổ xuống nó như một quầng sét, nó lách qua, xoay lưỡi kiếm trong khi mặt trời rọi phía sau lưng nó.

Lưỡi kiếm của Arya cắm phập xuống đất.

Arya xoay đầu lại, để giữ nó trong tầm nhìn, và sai lầm này đã làm nàng nhìn thẳng vào mắt trời. Nàng nháy mắt, và thấy nhiều chấm đen nhỏ.

Trong lúc cô đang bị lóa mắt, Eragon đâm Brisingr dưới cánh tay trí của cô, nhắm vô xương sườn. Nó có thể đâm vào gáy hoặc cổ nàng- nếu chiến đấu thực sự---nhưng nó không làm thế, với thanh kiếm cùn, một nhát chém như vậy có thể gây chết người.

Arya kêu lên khi bị chạm phải bởi thanh Brising, nàng lùi lại nhiều bước. Nàng đứng yên, cánh tay ép bên cạnh nhăn trán do đau và nhìn chằm chằm vào nó với một biểu hiện kỳ lạ.

Xuất xắc! Glaedr gầm lên. Lại một lần nữa!

Eragon hài lòng; sau đó nó trở lại trạng thái cảnh giác.

Khi Arya bình tĩnh, nàng hạ cánh tay xuống. Eragon và nàng cẩn thận vờn nhau cho tới khi ánh mặt trời không còn chiếu rọi, họ mới vào cuộc. Eragon nhanh chóng để ý thấy Arya e dè với nó hơn trước. Bình thường nó sẽ hãi lòng và tấn công mãnh liệt hơn, nhưng lần này nó kiềm chế lại vì nó biết nàng hành động đều có mục đích. Nếu nó nuốt mồi, nó sẽ nhanh chóng thất bại dưới tay nàng như thường vẫn thế.

Cuộc đấu chỉ kéo dài chó vài giây nhưng nó cũng đủ cho họ giao nhau vài đường kiếm mãnh liệt. Khiên nứt, những mảng cỏ bay lìa khỏi mặt đất, kiếm va chạm kiếm, cơ thể họ xoắn vặn trong không khí như hai cột khói.

Cuối cùng thì kết quả vẫn như cũ. Eragon vượt qua hàng phòng thủ của Arya nhờ lừa đòn khéo. Thế là nó chém ngang ngực Arya, từ vai tới xương ức.

Arya loạng choạng khuỵu gối. Nàng cau có và thở nặng nhọc qua lỗ mũi đang phập phồng. Má nàng trắng bệch tới khác thường, trừ vết xưng tấy đỏ sẫm ở hai bên.

Lại! Glaedr ra lệnh.

Eragon và Arya làm theo. Với hai lần chiến thắng, Eragon không còn cẩn trọng nữa nhưng Arya thì không.

Trận tiếp theo không phân thắng bại; Arya qua được hết các mánh của Eragon và nó cũng thế. Họ chiến đấu mãi cho tới khi cả hai đều quá mệt mỏi không còn đủ sức tiếp tục. Họ dựa vào thanh kiếm vì giờ chúng quá nặng khiến họ không thể nhấc lên nổi. Họ thở dốc, mồ hôi đầm đìa trên mặt.

Lại, Glaedr trầm giọng nói.

Eragon loạng choạng nhổ thanh Brisingr khỏi mặt đất. Nó càng kiệt sức, đầu óc nó càng rối loạn và càng không thể tảng lờ cơ thể đang biểu tình của mình. Ngoài ra, càng lúc nó càng không thể duy trì tinh thần minh mẫn và khó tránh cơn tức giận thường làm quấy nhiễu nó khi nó muốn nghỉ ngơi. Nó đoán ông Glaedr đang cố dạy nó đương đầu với tình thế này.

Vai nó nóng lên khiến nó khó lòng giơ khiên và kiếm. Thay vào đó, nó giữa chúng ngang hồng và mong sao khi cần nó có thể nhanh chóng nâng chúng lên. Arya cũng vậy.

Họ vẫn tấn công nhau theo bài cũ.

Eragon đã sức cùng lực kiệt nhưng nó không chịu bỏ cuộc. Nó không biết vì sao nhưng đối với nó cuộc giao đấu của họ không chỉ là màn kiểm tra tay chân; mà thành bài kiểm tra nó là ai; tính cách của nó; sức mạnh của nó và sự kiên cường của nó tới mức nào. Không phải Glaedr đang kiểm tra nó mà là Arya. Dường như nàng muốn thứ gì từ nó, dường như nàng đang muốn nó chứng tỏ một điều gì... nó không biết nhưng nó quyết tâm cho nàng thấy nó có thể. Nếu nàng muốn giao đấu bao lâu, nó sẽ chơi tới cùng, dù nó sẽ đau đớn thế nào.

Mồ hôi nhỏ vào mắt trái nó. Nó chớp mắt và Arya hét lớn và lao tới.

Một lần nữa họ quấn lấy nhau trong điệu khiêu vũ chết chóc, một lần nữa họ chiến đấu tới sống còn. Mệt mỏi làm họ vụng về nhưng họ vẫn hòa điệu với nhau không cho ai giành phần thắng.

Cuối cùng, họ đối diện với nhau, khóa kiếm vào nhau, đẩy nhau bằng chút sức lực cuối cùng.

Rồi, khi họ đứng đó, đấu qua lại không phân thắng bại, Eragon mạnh mẽ, trầm giọng nói, “Ta...đã...thấy...nàng.”

Một tia sáng lóe lên trong mắt Arya rồi biến mất rất nhanh.
 
25. TỪ TRÁI TIM TỚI TRÁI TIM
Glaedr để hai người đánh thêm hai hiệp nữa. Càng về cuối thì hiệp đấu lại ngắn hơn trước, và kết quả thì thường là hòa, điều này không làm hài long rồng vàng như Eragon và Arya.

Glaedr muốn hai đứa nó đánh tiếp để phân thắng bại, nhưng kết thúc buổi tập, cả hai lả đi và nằm lăn ra nền đất, bênh cạnh nhau, hớp lấy từng ngụm không khí, và Glaedr phair thừa nhận rằng sẽ phản tác dụng nếu bắt hai đứa nó tập tiếp.

Khi cả hai đủ sức đứng dậy, Glaedr yêu cầu hai đứa về lều của Eragon.

Đầu tiên, với sự sợ giúp của Saphira, tụi nó chữa các vết thương bằng phép thuật. Sau đó tụi nó cầm 2 tấm khiên vỡ đưa cho thợ rèn chính của Varden, Fredric, và nhận lấy hai tấm mới thay thế, không quên cho một bài giảng dạy về việc sử dụng vũ khí của hai đứa nó.

Khi quay lại lều, nó thấy Nassuada đang đợi tụi nó, với cận vệ đi kèm. “Chỉ là vấn đề thời gian” cô mỉa mai “trước khi hai người cắt nhau ra từng mảnh, chúng ta cần nói chuyện”. Cô ngưng nói, cúi đầu bước vô lều

Blodhgarm và các pháp sư thần tiên khác, đứng thành vòng tròn bao quanh lều, Eragon có thể thấy điều này làm các cận vệ của Nassuada không thoải mái.

Eragon và Arya theo Nassuada vô lều, Saphira làm họ ngạc nhiên bằng cách thò đầu qua cửa lều và làm căn phòng tràn ngập mùi khói và thịt.

Sự xuất hiện bất ngờ của Saphira làm Nassuada giật lùi lại, nhưng cô nhanh chóng lấy lại vẻ bình tĩnh. Nhìn vào Eragon, cô hỏi:” có phải tôi đã cảm nhận được tâm trí của Glaedr đúng không?”

Nó đảo mắt nhìn ra ngoài lều, hy vọng rằng các cận vệ đứng đủ xa để nghe thấy, và gật đầu, “đúng thế”

“Ôi, tôi biết mà” cô kêu lên, vẻ hài lòng. Cô ngập ngừng:” tôi có thể nói chuyện với ông ấy được không? Điều đó có được phép hay không, hay ông ấy chỉ nói chuyện với kị sĩ và thần tiên?”

Tôi sẽ nói chuyện với cô, Nassuada, con gái của Ajihad, Glaedr nói, giọng nói của ông vang trong đầu họ. Hỏi tôi những gì cô thắc mắc, và để chúng tôi tiếp tục công việc; có nhiều thứ cần phải hoàn thành để chuẩn bị cho Eragon đối mặt với những thách thức.

Eragon chưa bao giờ trông thấy Nassuada sợ vậy, cô hỏi:” ông ở đâu?” Cô thì thầm, và đan tay vào nhau.

Nó chỉ vào góc gi.ường.

Nassuada đảo mắt nhìn, và gật đầu, cô ấy đứng dậy, kính cẩn chào Glaedr. Cuộc giao tiếp có vẻ thoải mái hơn, trong suốt buổi nói chuyện, Nassuada hỏi thăm sức khỏe Glaedr và Varden có thể làm được gì cho ông không. Ngau câu hỏi đầu tiên của cô đã làm Eragon lo lắng----Glaedr đã lịch sự trả lời rằng ông ấy vẫn khỏe, cảm ơn, và vấn đề thứ hai, ông không cần gì từ Varden, mặc dù ông dánh giá cao tấm lòng của cô. Tôi không cần ăn, ông nói tôi không cần uống, cũng như không cần ngủ, như cô hiểu. Điều duy nhất làm tôi hài lòng, điều tôi h.am m.uốn nhất, là làm thế nào để mang lại sự thất bại cho Galbatorix

“Vâng” Nassuada nói, “tôi hiểu, tôi cũng có chung một mong muốn.”

Sau đó cô hỏi Glaedr có cách nào để Varden chiếm Dras Leona mà tổn thất ít nhất về nhân mạng và vật chất không, rồng vàng đáp, tôi chưa có giải pháp nào khả thi cả, tôi sẽ tiếp tục suy nghĩ về nó, nhưng bây giờ, tôi chưa thấy con đường nào cho Varden. Nếu chỉ có Murtagh và Thorn, tôi có thể dễ dàng xâm chiếm trí thức chúng. Tuy nhiên, Galbatorix đã đưa chúng quá nhiều Eldunari. Kể cả có sự trợ giúp của Eragon, Saphira, và các thần tiên, khả năng chiến thắng vẫn không phải là điều chắc chắn.

Thất vọng, Nassuada lặng người đi trong chốc lát, cô xiết chặt tấm váy cảm ơn Glaedr đã tiếp chuyện. Cô cuis đầu chào tạm biệt, bước vòng qua Saphira một cách cẩn thận, tránh đụng vô cô em rồng.

Eragon ngồi tựa lên gi.ường thư giãn, Arya thì ngồi trên một gốc cây đã được đẽo gọt. Nó chùi tay trên đầu gối, tay nó rít ráy, nó mời Arya uống một ít nước, nàng nhận nó với lòng biết ơn. Nó nuốt khan một vài ngụm nước. Trận đấu tập làm nó cảm thấy đói cồn cào. Nước chỉ làm dịu đi phần nào, nó mong sao Glaedr không giữ nó lâu hơn nữa. mặt trời đã lặn và nó muốn một bữa ăn nóng từ bếp Varden trước khi họ tắt bếp. Nếu không, nó sẽ lại phải gặm bánh mì cũ, một dải thịt khô, pho mát cừu mốc, nếu may mắn có thể nó sẽ có triển vọng được them một hai củ hành tây nữa.

Sau khi giải lao một chút, Glaedr bắt đầu nói về các kĩ năng khi quyết đấu bằng tâm trí, hầu hết là những điều nó đã biết, nhưng khi rồng vàng bắt nó làm điều gì, nó im lặng làm theo và không phàn nàn gì cả.

Họ nhanh chóng bỏ qua phần lí thuyết để bắt đầu thực hành. Glaedr bắt đầu bằng cách thử mức độ phòng thù của Eragon, dần dần tăng thêm sức mạnh, cả hai bắt đầu tấn công để giành quyền kiểm soát lẫn nhau, dù trong phút chốc, để đọc được suy nghĩ người kia.



Trong lúc tập luyện, Eragon nằm im, mắt nhắm ghiền, tập trung tất cả năng lượng vô trận bão trong tậm tưởng giữa nó và Glaedr. Trận đấu tập buổi chiều đã làm nó mệt nhoài, mụ mị, trong khi Glaedr vẫn sung sức, chưa tính tới việc ông có quyền năng thực sự mạnh mẽ. Thực sự khó khăn để Eragon có thể làm gì khác hơn là phòng thủ trước sự tấm công của Glaedr. Nhưng nó biết rằng trong một trận đấu thực sự, Glaedr vẫn sẽ là người chiến thắng

Sau hai cuộc đọ sức, Glaedr rút lui—rất nhẹ nhàng, và làm khán giả, trong khi Arya thay thế làm đối thủ của Eragon. Nàng cũng mệt như Eragon, nhưng nó nhanh chóng nhận ra rằng, khi bước vô một trận đấu trong tâm trí, nàng vẫn hơn nó một bật, nàng đã gần như giết nó, kể cả khi bị đánh thuốc độc từ hồi ở Gil’ead. Sự suy nghĩ của Glaedr tuy tập trung và kỉ luật, nhưng thậm chí ông vẫn không thể xuyên qua hang phòng ngự của nàng.

Khả năng tự chủ là một đặc tính mà Eragon nhận thấy khi sống chung với thần tiên. Nhất trong số đó là Oromis, người mà Eragon thấy là, dường như không một điều gì nhỏ nhặt nhất có thể làm ông bận lòng. Kiềm chế là một đức tính bẩm sinh của nòi giống họ, là kết quả tự nhiên của một nền giáo dục nghiêm ngặt, và sử dụng ngôn ngữ cổ. Nói và suy nghĩ bằng thứ ngôn ngữ mà không thể nói dối- và mỗi từ ngữ chứa đựng đầy ma thuật bên trong. Sự bất cần trong nói và suy nghĩ sẽ gây ra những hậu quả khôn lường. Theo lẽ đó, thân tiên trở nên tự chủ hơn so với các chủng loài khác.

Nó và Arya vật lộn trong tâm trí vài phút, nó cố gắng thoát khỏi sự kiềm cặp tư tưởng của nàng, còn nàng thì cố với theo để áp đặt suy nghĩ lên nó. Nàng bắt được tư tưởng của nó nhiều lần, nhưng nó luôn thoát kịp sau một hai giây, nó biết, nếu nàng muốn gây tổn hại nó, thì nó không có cơ hội để trốn thoát.

Và mỗi khi tâm trí nó và nàng chạm vào nhau, Eragon lạ cảm nhận thứ âm điệu hoang dã đầy mê hoặc từ sâu thẳm bên trong Arya. Chúng cuốn hút nó ra khỏi cơ thể mình và đưa nó vào sâu trong mạng lưới của những giai điệu kì lạ, thánh thót mà không thể tìm ra trên cõi đời này. Nó cảm thấy hạnh phúc khi bị bỏ bùa bằng âm nhạc, quên cả việc chống chọi lại những đòn tấn công của Arya, như một con người bất chấp và bị mê hoặc trong tâm trí của thần tiên. Nó phải thoát ra. Nó là một kị sĩ. Nó khác biệt. Đó là mối nguy mà nó không thể chấp nhận, chừng nào nó còn tỉnh táo. Nó đã nghe rằng thâm nhập vào tâm trí Blodhgarm đã làm cho Garven, cận vệ của Nassuada trở nên mơ mộng ngớ ngẩn

Vì vậy, nó chống lại sự cám dỗ, một cách khó khăn

Saphira và Glaedr tham dự vào trận chiến, khi thì đối đầu, khi thì hỗ trợ nó, rồng già nói, ngươi cũng phải luyện kĩ năng như Eragon, vảy sáng ạ. Việc có Saphira tham chiến đã làm thay đổi cục diện trận đấu. Cùng cô em rồng, nó đã có thể chống lại được Arya, dù không dễ dàng gì. Sự kết hợp còn cho phép nó chế phục Arya hai lần. Khi Saphira lien kết với Arya, cả hai làm Eragon từ bỏ mọi nỗ lực tấn công, thay vào đó, nó thu hẹp tâm trí, như một con thú bị thương, chờ từng đợt tấn công của cả hai qua đi.

Cuối cùng, Glaedr chia hai cặp---Ông và Arya, Eragon và Saphira và họ đấu đôi, họ giả định một trận đấu thực sự giữa hai cặp kị sĩ và rồng. Sau vài phút vất vả, chúng đã ăn ý hơn, nhưng kết trận, trước sức mạnh và kinh nghiệm của Gleadr, và sự kết hợp ăn ý với trình độ điêu luyện của Arya đã vượt qua Eragon và Saphira, chúng không có một cơ hội nào để đương đầu lại.

Sau đó, nó thấy vẻ bất mãn của Glaedr. Bối rối, nó nói, Chúng con sẽ làm tốt hơn vào ngày mai, sư phụ

Tâm trạng Glaedr tối tăm hơn nữa. Trông ông cũng có vẻ mệt mỏi cho luyện tập. Các con đã làm tốt, hậu bối. Ta không thể yêu cầu ở con nhiều hơn như những đệ tự của ta được đào tạo tại Vroengard trước đây. Thật sự là bất khả thi khi bắt các con học những gì cần học trong vài ngày, vài tuần. Thời gian trôi nhanh như nước trôi qua kẽ răng chúng ta, và tất cả sẽ qua đi. Phải mất nhiều năm để trở thành bậc thầy trong nghê thuật chiến đấu trong tâm trí: nhiều thế kỉ, nhiều thập kỉ, và thậm chí sau đó, vẫn còn nhiều điều để tìm hiểu, khám phá về bản thân, về kẻ thù, về nền tảng của thế giới. Ông ấy gầm lên, rồi im lặng



Vậy chúng ta sẽ học những gì có thể và đối mặt với trận chiến. Eragon nói. Galbatorix có thể có cả hàng trăm năm để tôi luyện tâm trí, những cũng đà hàng trăm năm hắn không được những bậc tiền bối như người chỉ dạy. Hắn sẽ quên thứ gì đó. Với sự giúp đỡ của người, chúng con sẽ đánh bại được hắn.

Glaedr khục khục. Miệng lưỡi ngươi ngày càng dẻo hơn đấy, Eragon khắc tinh của Tà thần ạ. Nói thế, nhưng giọng rồng vàng có vẻ rất hài lòng. Ông nhắc bọn nó ăn uống và nghỉ ngơi, sau đó ông rút lui khỏi tâm trí bọn nó và không nói gì thêm

Eragon biết rằng ông vẫn đang dõi theo tụi nó, nhưng nó không bắt gặp tư tưởng của ông nữa. Một cảm giác trống vắng khẽ lướt qua.

Cái lạnh lùa qua tay chân nó, nó rùng mình.

Nó, Saphira và Arya ngồi lặng thinh trong góc tối của lều, không nói năng gì. Sau đó, để tỉnh táo, nó nói:” ông ấy có vẻ khá hơn” giọng nó khàn khàn, nó quay mình và tìm bình đựng nước.

“thật là tốt cho ông ấy” Arya nói “ Chàng thực sự đã giúp ông ấy nhiều. Nếu không có mục đích sống….nỗi buồn đã có thể giết chết ông. Việc ông còn sống sót quả thực….may mắn. Tôi rất cảm phục ông. Có rất ít người, thần tiên, hay rồng có thể gượng qua nỗi đau như vậy.

“Brom đã làm được”

“Ông ấy quả thực rất kiên cường”

Nếu chúng ta tiêu diệt được Galbatorix và Shruikan, Công nương nghĩ Glaedr sẽ làm gì? Saphira hỏi. Ông ấy sẽ tiếp tục hay…dừng lại.

Mắt Arya phản chiếu ánh sáng lấp loáng khi cô quay lại đối diện Eragon và Saphira. Chỉ có thời gian mới trả lời được, tôi khi vọng không, nhưng nếu chúng ta vượt qua Uru’baen, có lẽ ông sẽ cảm thấy rằng ông không thể sống tiếp, mà không có Oromis.

“Chúng ta sẽ giúp ông vượt qua”

Em đồng ý.

“Chúng ta sẽ không thể ngăn cản nếu ông quyết định sẽ tan vào hư không” Giọng Arya nghiêm khắc. Quyết định là do ông, chỉ mình ông thôi.

“Chúng ta có thể động viên và cho ông thấy rằng cuộc sống vẫn còn có ý nghĩa”

Nàng im lặng một lúc, khuôn mặt nghiêm lại;” tôi cũng không muốn ông ấy chết. Không một thần tiên nào muốn. Tuy nhiên, nếu tiếp tục cuộc sống làm ông đau khổ, thì tốt hơn là để ông ấy được giải thoát.”

Cả Eragon và Saphira không ai đáp lại.

Cả ba lại tiếp tục bàn luận những chuyện xảy ra gần đây trong một lúc. Sau đó Saphira rút đầu ra khỏi lều, nằm ở bãi cỏ bên cạnh. Em cảm thấy mình như một con cáo đang đút đầu vào cái hang thỏ vậy. Cô nàng phàn nàn. Nó làm da em ngứa ngáy, em sẽ không thể phát hiện nếu có ai lén leo lên người em.

Eragon nghĩ rằng Arya sẽ rời khỏi lều ngay, nhưng ngạc nhiên, nàng vẫn ngồi lại, và tiếp tục nói chuyện với nó. Cơn đói của nó dai dẳng suốt buổi tập đấu tinh thần với nàng, Saphira và Glaedr. Trong trường hợp này, nó sẵn sàng đánh đổi một bữa ăn nóng sốt để hầu chuyện làm vui lòng nàng.

Màn đêm bao quanh hai người, và trại yên tĩnh hơn trong khi hai người nói chuyện hết chủ đề này tới chủ đề khác. Nó cảm thấy choáng do kiệt sức và hồi hộp---như thể đã uống quá nhiều rượu----nó thấy Arya bình dị hơn thường ngày. Cả hai nói về nhiều thứ: Glaedr và trận đấu của họ, bao vây Dras Leona và sẽ làm những gì; và những việc ít quan trọng hơn, như là những con cò Arya thấy ở góc bờ hồ, cái vảy ở mũi Saphira bị mất, thời tiết thay đổi và dần lạnh hơn. Rồi cuối cùng họ lại trở về chủ đề luôn hiện hữu trong đầu họ, Galbatorix và cái gì đang chờ họ tại Uru’baen.

Trong khi họ đang suy đoán, rất nhiều lần, những cái bẫy ma thuật nào Galbatorix đang cài để bẫy họ và cách nào tốt nhất để vượt qua, Eragon nghĩ về câu hỏi của Saphira về Glaedr và nói: “Arya?”

“Sao” Cô đáp, giọng dịu dàng.

“Nàng sẽ làm gì sau hi kết thúc chuyện này?” nếu như chúng ta vẫn còn sống

“Chàng sẽ làm gì?”

Nó nhịp nhịp ngón tay vào thanh Brisingr và cân nhắc câu trả lời: “tôi không biết, chưa bao giờ tôi để tâm trí vượt quá Uru’baen…..Có lẽ tùy vào việc Saphira muốn gì, có lẽ tôi và Saphira sẽ trở lại thung lũng Palancar. Tôi có thể xây một ngôi nhà lớn dưới chân một trong những ngọn núi. Có thể chúng tôi sẽ ít ở đấy, nhưng ít ra chúng tôi sẽ có nhà để về sau khi bay khắp đất nước Alagesia và các nơi khác” Nó cười mỉm “ Tôi chắ rằng sẽ có nhiều thứ làm chúng tôi bận rộn, ngay cả khi Galbatorix chết….Nhưng nàng vẫn chưa trả lời ta, nàng sẽ làm gì khi chúng ta thắng, chắc hẳn nàng có nhiều dự định. Nàng đã suy nghĩ về nó nhiều hơn ta.

Arya gác một chân lên gốc cây, vòng hai tay ôm lấy chân, và tựa cằm lên đầu gối. Dưới ánh sáng mờ ảo, khuôn mặt nàng nổi lên giữa phông màn tối xung quanh.

“tôi đã có thời gian sống giữa người và người lùn nhiều hơn giữa các alfakin” nàng nói, sử dụng tên gọi thần tiên trong ngôn ngữ cổ. “tôi đã lớn lên ở đó, nhưng tôi không muốn trở lại sống ở Elleme’ra. Quá ít sự việc diễn ra ở đó, hàng thế kỉ trôi qua trong khi bạn ngồi đó, ngắm và chiêm nghiệm các vì sao. Không, tôi sẽ tiếp tục phục vụ mẹ tôi như một sứ giả. Lí dó đã khiến tôi rời khỏi Weldenvarden bởi vì tôi muốn giúp thế giới này cân bằng. Như chàng nói, sẽ còn nhiều thứ cần phải làm sau khi tiêu diệt được Galbatorix, nhiều thứ cần được đưa vào quỹ đạo, tôi muốn là một phần trong đó.”

“Ừm” đó không phải là điều nó hy vọng nghe nàng nói, nhưng ít ra điều này làm nó vẫn còn có cớ để liên lạc với nàng sau này, sau khi vượt qua Uru’baen, nó vẫn sẽ được gặp nàng, như bây giờ.

Nếu Arya nhận ra vẻ bất mãn của nó, nàng cũng sẽ tỏ vẻ gì.

Hai đứa nói chuyện một lúc nữa, rồi nàng cáo lui và duyên dáng quay đi.

Nàng bước đi qua nó, nó với theo, như thể muốn giữ nàng lại, rồi rụt tay lại.”Đợi đã” nó nói yếu ớt.Không chắc hy vọng gì, nhưng vẫn hy vọng. Tim nó đập mạnh, tai nó lùng bùng, má đỏ lựng.

Arya dừng bước trước cửa lều, không quay lại:”ngủ ngon,Eragon” nàng nói. Rồi bước qua cửa lều, biến mất trong màn đêm, để nó lại một mình trong bóng tối.
 
26.1 PHÁT HIỆN
Đối với những Varden thời gian có thể trôi chậm nhưng đối với Eragon ba ngày trôi qua như tên bắn. Thế cân bằng vẫn duy trì trên chiến trường Dras – Leona dù hiện tại Thorn đã thay đổi chỗ nằm yêu thích từ trên cổng thành trước sang khu thành lũy cách đó vài trăm mét về phía bên phải. Sau nhiều cuộc tranh cãi – và sau khi thảo luận kỹ lưỡng với Saphira – Nasuada và cố vấn của cô đã kết luận rằng Thorn chuyển chỗ chỉ vì nó thích thế; khu thành lũy bằng phẳng hơn và rộng rãi hơn. Ngoài ra, cục diện chiến trường chẳng có gì thay đổi.

Trong lúc đó, Eragon dành buổi sáng và buổi tối mỗi ngày học tập cùng Glaedr còn buổi chiều để luyện kiếm cùng Arya và vài tiên nhân khác. Cuộc đấu kiếm với các tiên nhân không dài và mệt mỏi như với Arya – nó chẳng tội gì phải tự mình làm khổ mình – nhưng những buổi học cùng Glaedr căng thẳng kinh khủng. Con rồng già không bao giờ từ bỏ chuyện nâng cao kỹ năng và tri thức cho Eragon và ông không cho phép nó phạm sai lầm hay tỏ ra mệt mỏi.

Eragon vui mừng vì cuối cùng nó cũng đấu ngang cơ với các tiên nhan. Nhưng chỉ cần nó lơi là một giây thôi là kiếm sẽ gí sát xườn nó hoặc kề cổ nó.

Nếu trong hoàn cảnh bình thường những cố gắng học hành của nó sẽ được coi là tiến bộ vượt bậc, nhưng trong điều kiện hiện tại, cả nó và Glaedr đều thấy chưa hài lòng.

Vào ngày thứ hai, trong tiết học sáng với Glaedr, Eragon nói, Thưa thầy, hồi con mới gia nhập quân Varden ở Farthen Dûr, cặp Song sinh đã thử khả năng của con – họ kiểm tra khả năng ngôn ngữ cổ và phép thuật.

Con đã nói với Oromis rồi. Sao giờ con lại nhắc lại?

Vì tự nhiên con nghĩ... cặp sinh đôi yêu cầu con triệu hồi hình dạng thực của chiếc nhẫn bạc. Lúc đó con không biết cách. Arya sau đó đã giải thích cho con: bằng cách nào con có thể dùng ngôn ngữ cổ gọi lên hình dáng thật của bất cứ tạo vật gì. Nhưng thầy Oromis chưa bao giờ dạy con và con muốn biết...vì sao ạ?

Glaedr dường như đang thở dài. Triệu hồi hình dáng thực là một dạng phép thuật khó. Để làm được, con buộc phải hiểu được vật đó – con phải làm thế để đoán được tên thật của một người hay một vật. Hơn nữa con cần thực hành nhiều. Và chuyện đó cũng khá nguy hiểm. Rất nguy hiểm. Câu thần chú đó không tạo nên một quá trình mà con tùy ý muốn kết thúc lúc nào thì kết thúc. Nếu con không gọi thành công hình dáng thật của vật đó...con sẽ chết. Oromis không muốn con gặp nguy hiểm và con cũng chưa học đủ để bàn luận tới chủ đề đó.

Eragon rùng mình khi nhớ lại Arya đã tức giận thế nào vì cặp Song sinh bắt nó triệu hồi hình dáng thật của chiếc nhẫn. Sau đó nó nói, Giờ con muốn thử.

Eragon cảm thấy toàn bộ tâm trí Glaedr đều dồn vào nó, Vì sao?

Con muốn biết giờ tầm hiểu biết của con tới đâu, dù chỉ đối với một vấn đề nhỏ

Ta hỏi con một lần nữa: Vì sao?

Eragon không thể giải thích bằng từ ngữ, thế là nó phóng những ý nghĩ và cảm giác của mình về phía Glaedr. Khi nó đã xong, Glaedr im lặng trong chốc lát để hiểu được luồng tư tưởng. Cuối cùng rồng vàng thủng thẳng nói, Ta hiểu con cho là nếu con làm được điều này mà còn sống, con có khả năng đánh bại Galbatorix có đúng không?

Vâng, Eragon nhẹ nhõm trả lời. Nó không thể giải thích lý do của mình rõ ràng như ông rồng nhưng quả đúng là như vậy.

Vậy là con quyết thử?

Vâng thưa thầy.

Con có thể chết đó, Glaedr cảnh báo.

Con biết.

Eragon! Saphira hét lên, ý nghĩ của cô bé nhạt nhòa trong tư tưởng của nó. Cô nàng đang bay trên doanh trại quan sát những nguy hiểm tiềm ẩn khi nó đang học cùng Glaedr. Quá nguy hiểm. Em không đồng ý.

Anh phải làm em ạ, nó bình tĩnh trả lời.

Glaedr nói với Saphira cũng như Eragon, Nếu cậu ta đã muốn, tốt nhất hãy để cậu ấy thử khi ta có thể quan sát được. Nếu cậu ta thất bại, có thể ta sẽ giúp cho cậu ta thêm kiến thức và cứu cậu ta.

Saphira rống lên – sự giận dữ tràn ngập trong tư tưởng Eragon – và sau đó, từ ngoài lều, Eragon nghe thấy có một cơn cuồng phong cực lớn và những tiếng hét thất thanh của người và tiên khi cô nàng hạ cánh. Cô em nó hạ cánh cực mạnh khiến lều trại và mọi thứ trên đó rung chuyển.

Vài giây sau, cô bé chui đầu vào lều và lườm Eragon. Cô nàng thở hổn hển và hơi thở khiến tóc nó bay ngược và nước mắt nó nóng lên.Anh đúng là đồ đầu gạch, y sì Kull vậy, cô em nó nói.

Em cũng chẳng kém.

Môi cô bé cong lên điệu bộ gầm ghè. Sao chúng ta phải đợi? Nếu anh phải làm thì chúng ta cùng làm.

Trò muốn triệu hồi gì? Glaedr hỏi. Tốt nhất nên chọn thứ trò quen thuộc hàng ngày.

Eragon nhìn chung quanh sau đó nhìn chiếc nhẫn đá sapphire đang đeo trên tay phải. Aren... Hó hiếm khi tháo nhẫn ra từ hồi Ajhad đưa cho nó. Đó là kỷ vật của ông Brom. Nó đã trở thành một phần th.ân thể nó, như tay như chân nó. Nó đã nhìn nó hàng tiếng đồng hồ, nó nhớ rõ từng đường nét, từng nét chạm khắc và nhắm mắt nó cũng tưởng tượng ra nó. Nhưng nó không biết nhiều chuyện về chiếc nhẫn – nó đã trải qua tay bao chủ, thần tiên tạo ra nó thế nào, và đặc biệt trên nhẫn đó ếm và không ếm bùa phép gì.

Không... không phải Aren

Sau đó nó đưa mắt nhìn thanh Brisingr đang dựng cạnh võng. “Brisingr” nó lẩm bẩm.

Bựt thanh kiếm nhích lên khỏi vỏ vài centimet như thể có ai đẩy nó lên và một ngọn lửa nhỏ xuất hiện trên đầu vỏ kiếm, liếm lên cán kiếm. Ngọn lửa biến mất và thanh kiếm chui vào vỏ khi Eragon kết thúc câu thần chú vô ý này.

Brisingr, nó nghĩ chắc chắn vì lựa chọn này. Bà Rhunön đã tạo ra thanh kiếm nhưng chính nó mới là người sử dụng và là người cùng thợ rèn thần tiên này dùng tư tưởng rèn nên thanh kiếm. Nếu hỏi nó nó hiểu vật gì nhất, nó sẽ trả lời là thanh kiếm.

Trò chắc chứ? Glaedr hỏi.

Eragon gật đầu mà quên mất rồng vàng không thấy nó. Vâng thưa thầy... nhưng con có một câu hỏi: Brisingr có phải tên thanh kiếm không và nếu không con có cần tìm ra tên thật của nó để làm phép không ạ?

Brisingr là tên thật của nó. Tên thật của thanh kiếm thực ra rất phức tạp nhưng dù sao nó cũng bao gồm brisingr. Nếu con muốn con có thể tìm tên thật của nó nhưng nếu không con có thể gọi nó là Kiếm cũng được, miễn là trong đầu con con hiểu rõ nó. Tên chỉ là nhãn gắn cho một tri thức và con không cần một cái nhãn để dùng tri thức đó. Con hiểu không?

Con hiểu.

Vậy thì làm đi.

Eragon mất một lúc để tập trung. Sau đó nó tĩnh tâm và vươn ra cuốn lấy năng lượng trong cơ thể. Nó chuyển năng lượng đó thành từ ngử trong khi vẫn nghĩ về những điều nó biết về thanh kiếm:

“Brisingr!”

Eragon cảm thấy sức mạnh của nó tụt dốc. Thấy nguy hiểm, nó cố nói, cố cử dộng, nhưng câu thần chú buộc nó đứng im. Nó không thể chớp mắt hoặc thở.

Không giống lúc trước, thanh kiếm không biến thành lửa, nó rung lên như một hình phản chiếu trong nước. Sau đó trong không khí cạnh thanh kiếm, một hình ảnh mờ ảo như sương như khói xuất hiện: một hình phản chiếu hoàn hảo của Brisingr không nằm trong bao. Eragon thấy bản sao giống y hệt thanh kiếm thật và có phần nguyên bản hơn. NHư thể nó nhìn thấy hồn của thanh kiếm, cái hồn mà cả Rhunön, với bao nhiêu năm kinh nghiệm cùng kiếm cung cũng không thể nắm bắt nổi.

Ngay khi hình phản chiếu trở nên rõ nét, Eragon lại thở và chuyển động được bình thường. Nó duy trì câu thần chú thêm vài giây để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của hình triệu hồi sao đó nó để câu thần chú bay đi và hình ảnh ma mị của thanh kiếm tan vào hư vô.

Khi nó biến mất, trong lều dường như tối một cách không ngờ.

Chỉ lúc đó Eragon biết Saphira và Glaedr đang tiếp xúc với tư tưởng của nó, quan sát từng ý nghĩ nhảy nhót trong đầu nó. Chưa bao giờ Eragon thấy hai con rồng căng thẳng tới vậy. NẾu nó chọc Saphira, nó đoán cô nàng sẽ giật mình tới xoắn cả người lại.

Nếu em mà chọc vào người anh, anh chỉ còn là một chấm nhỏ xíu à, cô nàng nhận xét.

Eragon cười và nằm xuống võng vì mệt.

Trong tư tưởng, Eragon nghe thấy tiếng như gió thổi qua cánh đồng hoang vắng vì Glaedr đã thư thái trở lại. Con làm tốt lắm, Khắc tinh của tà thần ạ. Lời khen của Glaedr khiến Eragon ngạc nhiên; từ hồi dạy Eragon tới giờ có mấy khi con rồng già khen nó đâu. Nhưng đừng thử lại nhé.

Eragon rùng mình và xoa tay để xoa đi cái lạnh tới tận xương tủy.Con đồng ý với thầy. Nó không muốn thử lại. Nhưng dù sao nó vẫn cảm thấy hài lòng. Nó đã chứng minh được rằng ít nhất nó làm được một điều mà không phải ai trong Alagaësia cũng làm được.

Nó có thêm hy vọng.

Sáng ngày thứ ba, Roran trở về Varden cùng với những người chiến hữu: họ đều mệt mỏi, người đầy vết thương và rệu rã vì di chuyển trên đoạn đường dài. Sự trở về của Roran đã khuấy động Varden trong vài tiếng – anh và những người khác được chào đón như những người anh hùng – nhưng bầu không khí tẻ ngắt nhanh chóng trở lại với toàn quân Varden.

Eragon nhẹ lòng vì thấy Roran. Nó vốn biết anh họ mình vẫn an toàn vì nó đã bói cầu vài lần kể từ khi anh nó đi. Nhưng được nhìn thấy anh bằng mắt đã khiến Eragon không còn mang nỗi lo lắng mà tới bây giờ nó mới nhận ra nó vẫn canh cánh trong lòng. Roran là người thân duy nhất của nó – không tính Murtagh – và Eragon không thể chịu nổi ý nghĩ nó sẽ mất anh.

Giờ được nhìn thấy Roran gần ngay trước mắt, Eragon lại thấy xót xa vì vẻ ngoài của anh. Nó biết Roran và những người khác kiệt sức nhưng Roran trông tiều tụy hơn những chiến hữu nhiều; trông anh như thể già đi năm tuổi. MẮt anh đỏ và thâm đen, lông mày dựng đứng, anh di chuyển cứng nhắc như mọi centimet trên người đều bị thâm tím. Và râu anh bị cháy một nửa trông lởm khởm kinh khủng.

Năm người – ít hơn số người lúc đầu mất một – trước tiên tới gặp khu y xá của Du Vrangr Gata gặp các pháp sư trị thương. Sau đó họ yết kiến Nasuada. Sau khi khen ngợi lòng dũng cảm của họ, Nasuada cho tất cả lui trừ Roran. Cô hỏi anh đầy đủ chi tiết cuộc hành trình tới và rời khỏi Aroughs cũng như quá trình chiếm thành phố. Tuy đã nghe kể vài lần, nhưng cả Nasuada và Eragon – đang đứng bên phải cô – đều lắng nghe chăm chú và thi thoảng hoảng sợ. Khi Roran nói xong, Nasuada khiến cả anh và Eragon ngạc nhiên vì bổ nhiệm Roran làm tiểu đoàn trưởng.

Eragon cứ nghĩ Roran sẽ vui nhưng nó lại thấy những nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt anh và trán anh nhăn tít. Tuy nhiên Roran không từ chối hay phàn nàn, anh chỉ cùi đầu khàn giọng đáp, “Vâng thưa tiểu thư Nasuada.”

Sau đó, Eragon cùng Roran đi về lều nơi Katrina đang đứng đợi. Cô chào đón Roran bằng một cử chỉ khiến Eragon phải che mắt vì xấu hổ.

Họ và Saphira ăn cùng nhau nhưng Eragon và Saphira xin phép ra về ngay khi có thể vì Roran đã quá kiệt sức còn Katrina muốn ở một mình cùng anh.

Khi nó và Saphira đi lang thang trong doanh trại, Eragon nghe có ai gọi từ đằng sau, “Eragon! Eragon! Đợi tý!”

Nó quay lại và nhìn thấy hiền triết Jeod gầy cao lênh khênh đang chạy lại, những sợi tóc bay phấp phới quanh khuôn mặt gầy của ông. Jeod đang cầm trong tay trái một tờ giấy da dê nhàu nhĩ.

“Cái gì đây?” Eragon lo lắng hỏi.

“Cái này!” Jeod kêu to và mắt sáng lên. Anh giơ tờ giấy ra mà lắc. “Tôi đã làm lại! Eragon! Tôi đã tìm ra cách!” Trong ánh sáng yếu ớt, vết sẹo trên đầu và thái dương anh trông trắng đến giật mình so với làn da màu đồng.

“Anh làm cái gì lại cơ? Tìm ra cách gì thế? Từ từ; tôi chẳng hiểu gì cả!”

Jeod lo lắng nhìn xung quanh rồi ghe sát lại thì thầm, “Tất cả những gì tôi đọc và nghiên cứu đã đem lại kết quả. Tôi đã tìm ra đường hầm bí mật dẫn tới Dras – Leona!”
 
26.2 QUYẾT ĐỊNH“Giải thích lại cho tôi,” Nasuada nói.

Eragon nhúc nhích vì thiếu kiên nhẫn nhưng không nói gì.

Jeod ngửng cổ khỏi đống sách và chồng văn thư trước mặt, giơ cao một cuộn giấy mỏng buộc da đỏ và tường thuật lần thứ ba, “Theo như tôi được biết, khoảng năm trăm năm trước...”

Jörmundur phẩy tay ngắt lời. “Đứng nói dông dài. Kể những cái quan trọng thôi.”

Jeod lại nói lại. “Khoảng năm trăm năm trước, Nữ Hoàng Forna cử Erst Râu Bạc tới Dras – Leona hoặc đúng hơn tới thành phố sau này Dras – Leona.”

“Vì sao lại cử ông ấy tới?” Nasuada hỏi trong khi đang nghịch mép cổ tay áo.

“Người lun lâm vào cảnh nội chiến, và Forna hy vọng với việc giúp Vua Radgar thiết kế và xây dựng vòng phòng thủ cho thành phố, họ có thể bảo vệ chính giống loài mình, mặc dù người lùn tự mình có thể tạo nên hàng phòng thủ cho Aroughs.”

Nasuada cuốn một sợi chỉ thừa trên ngón tay. “Và sau đó Dolgrath Chân Thọt giết Forna...”

“Đúng. Và Erst Râu Bạc không còn lựa chọn nào khác ngoài trở về Rặng núi Beor nhanh hết mức có thể để chống lại sự xâm lăng của Chân thọt. Nhưng” – Jeod giơ một ngón tay rồi mở cuốn sách bìa đỏ - “trước khi rời đi hình như ông đã bắt tay vào công việc. Cố vấn của vua Radgar, Lãnh chúa Yardley, đã viết trong tự truyện rằng Erst đã phác họa sơ đồ hệ thống cống trong lòng thành phố để tăng hiệu quả cho hàng phòng thủ.”

Từ cái bàn ở giữa phòng của Nasuada, Orik gật đầu nói: “Đúng. Nhưng ngươi phải cho chúng ta biết rõ các nó ở đâu và xây bằng loại đất đá gì. Ngoài ra, ngươi phải tìm ra lối vào bị vùi lấp ở đâu.”

Jeod nói tiếp. “Tất nhiên, Dras – Leona không có hệ thống ngầm vì thế tôi đoán rằng bản thiết kế của Erst chưa bao giờ được thực hiện. Nhưng, trong vài trang sau, Yardley lại nói...” Jeod chú mục xuống sách đọc, “...trong một sự kiện đau lòng nhất, quân phản nghịch đã đốt phá và cướp bóc rất nhiều hộ gia đình. Những binh lính lúc đó không kịp phản ứng vì mải làm việc dưới cống ngầm như những nông dân bình thường.”

Jeod hạ sách xuống. “Giờ, họ đào cái gì? Tôi không thể tìm thêm bằng chứng về những hoạt động tương tự trong và ngoài Dras – Leona, cho tới khi...” Anh đặt cuốn sách bìa đỏ xuống và cầm một cuốn sách bìa gỗ dày và nặng chịch lên. “Tôi tình cờ đọc được cuốn Cuộc đời Taradas và những bí mật sâu kín trong Kỷ nguyên Loài người, Người lùn và những thần tiên già cỗi nhất thì...”

“Cuốn sách đó có nhiều sai sót,” Arya nói. Cô đứng bên trái bàn, đặt cả hai tay lên bản đồ thành phố. “Tác giả biết quá ít về loài tiên và những gì không biết, ông ta bịa ra.”

“Có thể,” Jeoda nói, “nhưng ông ấy biết rất nhiều về loài người và những thứ con người chúng tôi tò mò muốn biết.” Jeod mở tới giữa cuốn sách và từ từ đặt xuống bàn. “Trong khi viết sách, Othman có nghiên cứu về chuyện này. Ông ta chủ yếu nghiên cứu về đạo Helgrind và những sự việc bất thường xảy ra xung quanh nó. Tuy nhiên ông cũng có nói đôi nét về Dras – Leona: Dân cư thành phố thường xuyên than phiền vì những âm thanh và mùi khác lạ bốc ra từ dưới đường và sàn nhà, đặc biệt vào ban đêm. Họ cho rằng đó là do ma quỷ và những sinh vật siêu nhiên gây ra, nhưng nếu thật sự là do những linh hồn thì thật sự tôi chưa bao giờ nghe về loại nào như thể vì các linh hồn thường tránh xa con người.”

Jeod gấp sách lại. “Mai mà Othman có đánh dấu vị trí phát ra những tiếng động lạ trên bản đồ Dras – Leona mà, như quý vị có thể thấy, hình thành một đoạn đường thẳng xuyên qua phần phố cổ.”

“Vậy ông nghĩ có thể có đường hầm ngầm ở đây,” Nasuada nói. Đây là một câu nói, không phải câu hỏi.

“Chính xác,” Jeod nói và gật đầu.

Vua Orrin ngồi cạnh Nasuada vốn kiệm lời bỗng cất tiếng. “Vậy là ông cũng chưa đưa chúng tôi bằng chứng chứng thực có tồn tại đường hầm. Nếu có một khoảng không dưới lòng thành phố, biết đâu nó chỉ là một căn phòng bí mật hay hầm mộ gì đó thì sao. Kể cả nó đường hầm, chúng ta không biết nó có kéo ra tận ngoài Dras – Leona hay không và đường hầm đó dẫn tới đâu? Chẳng lẽ tới trung tâm lâu đài? Hơn nữa, theo những gì ông nói, đường hầm ngầm đó từ đầu đã không được hoàn thành.”

“Chắc chắn là đường hầm, thưa Đức Vua,” Jeod nói. “Không có một căn phòng hay hầm mộ nào lại dài và hẹp như vậy. Còn về chuyện nó có được hoàn thành hay không... chúng ta chỉ biết nó không được sử dụng cho mục đích ban đầu và còn được sử dụng ít nhất tới thời Othman. Như vậy, đường hầm ngầm, đường hầm bộ hay các ngài muốn gọi là gì cũng được đã phải hoàn thành ở một mức độ nào đó, không thì nước đã phá hủy nó từ lâu rồi.”

“Thế ông có biết lối ra – hoặc lối vào ở đâu không?” nhà vua hỏi.

Jeod lục tung những cuộn giấy trong một lúc trước khi lôi một tấm bản đồ Dras – Leona khác ra, lần này là tấm bản đồ địa hình. “Cái này tôi không chắc nhưng nếu nó dẫn ra ngoài thành phố, vậy thì lối ra sẽ nằm đâu đó quanh đây ...” Ông chỉ tay vào một điểm góc phía đông thành phố. Hầu hết các tòa nhà bên ngoài bức tường bảo vệ trung tâm Dras – Leona đều nằm ở phía tây, cạnh hồ. Điều này có nghĩa rằng khu vực Jeod vừa chỉ vào, dù là khoảng đất trông nhưng lại gần với trung tâm Dras – Leona hơn. “Nhưng nếu không ai đi khảo sát thì chúng ta cũng chẳng biết có đúng không.”

Eragon nhíu mày. Nó cứ nghĩ phát hiện của Jeod phải có gì chắc chắn hơn.

“Chúng tôi rất cám ơn vì những nghiên cứu của ngài, thưa Hiền triết Jeod,” Nasuada nói. “Một lần nữa ngài lại chứng tỏ được vai trò của ngài đối với Varden.” Cô đứng dậy và bước lại nhìn tấm bản đồ. Đường viền váy thướt tha trên đất. “Nếu chúng ta gửi một đội quân tới xem xét, có thể chúng ta sẽ khiến Triều đình nghi ngờ. Lúc đó dù cho đường hầm có thực sự tồn tại, chúng ta cũng không thể sử dụng nổi. Murtagh và Thorn có thể sẽ đón lõng chúng ta.” Cô nhìn ông Jeod. “Ông nghĩ đường hầm rộng tới mức nào? Bao nhiêu người có thể đi vào đó?”

“Tôi không biết. Có thể...”

Orik húng hắng rồi nói. “Đất ở đây mềm và giống đất sét lại còn có phù sa – không thể nào xây đường hầm ngầm nổi. Nếu Erst thông minh ông ấy sẽ không phác thảo ra một đường cống rãnh lớn; ông ấy sẽ làm sập vài con đường, hoặc gây sói mòn chân móng thành phố. Trẫm đoán nó không rộng hơn một mét đâu.”

“Quá hẹp, chỉ vừa một người,” Jeod nói.

“Quá hẹp, chỉ vừa cho một knurla,” Orik nói thêm.

Nasuada quay về chỗ ngồi và nhìn mông lung vào tấm bản đồ như thể đang nhìn thứu gì khác.

Sau một vài khắc im lặng, Eragon nói, “Tôi có thể đi tìm đường hầm. Tôi biết cách dùng phép thuật ẩn thân; lính canh sẽ không thể thấy tôi.”

“Có thể,” Nasuada nói thầm. “Nhưng tôi không thích chuyện cậu hay bất cứ ai loanh quanh chỗ đó. Khả năng quân Triều đình để ý rất cao. Nếu như Murtagh là người đứng gác thì sao? Cậu có thể lừa hắn không? Cậu có biết giờ khả năng của hắn tới đâu không?” Cô lắc đầu. “Không, chúng ta phải hành động như có đường hầm thật và theo đó mà đưa ra quyết đinh. Nếu quả thực nó không tồn tại, chúng ta cũng không mất gì... còn nếu nó có thực, chúng ta sẽ chiếm được Dras – Leona một lần và mãi mãi.”

“Nàng nghĩ gì vậy?” vua Orrin cẩn trọng hỏi.

“NGhĩ một cái gì đó táo bạo; ...không đoán trước được.”

Eragon khụt khịt mũi. “Có thể cô nên triệu tập Roran.”

“Tôi không cần Roran giúp bày mưu, Eragon.”

Nasuada lại im lặng và mọi người trong phòng, kể cả Eragon đều đợi xem cô nảy ra ý tưởng gì. Cuối cùng cô nhúc nhích người và nói, “Thế này nhé: chúng ta cho một tiểu đội đi mở cổng thành từ bên trong.”

“Nhưng bằng cách nào?” Orik thắc mắc. “Chuyện xử lý hơn trăm tên lính đứng gác đã đủ khó rồi, và tôi xin nhắc cho cô nhớ, trong đó còn có một con thằn lằn không lồ thở ra lửa đó. Chắc chắn cu cậu sẵn sàng xơi tái bất cứ thằng ngu nào đi mở cổng. Đấy là chúng ta còn chưa tính tới Murtagh.”

Trước khi cuộc thảo luận tiếp tục, Eragon nói. “Tôi có thể làm được.”

Câu nói đó có tác dụng ngay lập tức với cuộc nói chuyện.

Eragon cứ nghĩ Nasuada sẽ gạt ngay lời đề nghị của nó, nhưng nó ngạc nhiên vì cô cân nhắc mội hồi. Sau đó nó còn ngạc nhiên hơn vì cô nói. “Rất tốt.”

Bao nhiêu lời biện hộ Eragon nghĩ tới đã trôi đi khi nó kinh ngạc nhìn Nasuada. Chắc chắn cô cũng đồng quan điểm với nó ở một số khía cạnh.

Trong lều như chợ vỡ vì ai cũng tranh nói. Arya khiến mọi người dịu lại: “Nasuada, cô không thể để Eragon tự gây nguy hiểm cho mình. Không thể được. Hãy cho một vài pháp sư của Blödhgarm đi thay; tôi chắc chắn họ sẽ đồng ý giúp. Ngoài ra họ là một trong những chiến binh thông thái nhất cô có thể tìm.”

Nasuada lắc đầu. “Không một tên lính của Galbatorix nào dám giết Eragon – Murtagh không dám và những chiến binh tép riu nhất cũng không dám. Chúng ta nên tận dụng ưu thế đó. Hơn nữa, Eragon là pháp sư mạnh nhất của chúng ta, mà mở cổng thành tốn rất nhiều sức lực. Cậu ấy là người có cơ hội thành công lớn nhất.”

“Nhưng nếu chàng bị bắt thì sao? Chàng không thể chống nổi Murtagh. Cô biết mà!”

“Chúng ta sẽ dẫn Murtagh và Thorn đi chỗ khác và cho Eragon cơ hội cậu ấy cần.”

Arya hất cằm. “Thế nào? Chúng ta làm thế nào?”

“Chúng ta sẽ tấn công Dras – Leona từ phía nam. Saphira sẽ vay vòng quanh thành phố, đốt cháy vài căn nhà và giết chết lính canh trên tường. Thorn và Murtagh sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài đuổi theo nếu như Blödhgarm và các pháp sư thần tiên tạo ra một ảo ảnh của Eragon cưỡi trên lưng Saphira. Miễn là Murtagh không tới gần, hắn sẽ không thể nào biết được.”

“Cô muốn thực hiện chuyện này?”

“Đúng.”

Gương mặt Arya cứng lại. “Vậy thì tôi sẽ đi cùng Eragon.”

Eragon thấy nhẹ nhõm. Nó đã mong cô đi cùng nó nhưng nó không biết phải hỏi thế nào vì sợ nàng sẽ từ chối.

Nasuada thở dài. “Cô là con gái Islanzadí. Tôi không muốn đặt cô vào tình thế nguy hiểm. Nếu cô chết... Hãy nhớ xem mẹ cô đã phản ứng thế nào khi nghĩ Durza đã giết chết cô. Chúng tôi không thể nào mất đi sự hỗ trợ của thần tiên.”

“Mẹ tôi...” Arya ngậm miệng sau đó bắt đầu một câu khác. “Tôi có thể đảm bảo với cô, thưa tiểu thư Nasuada, Nữ hoàng Islanzadí sẽ không chấm dứt liên minh với Varden dù cho tôi có gặp chuyện gì. Cô không phải lo. Tôi sẽ đi cùng Eragon và hai pháp sư nữa của Blödhgarm.”

Nasuada lắc đầu. “Không. Cô chỉ có thể mang theo một. Murtagh biết số thần tiên bảo vệ Eragon. Nếu hắn để ý thấy hai hoặc hơn hai người biến mất, hắn sẽ nghĩ chúng ta có đặt bẫy gì ở đây. Hơn nữa, Saphira sẽ cần sự trợ giúp để thoát khỏi tầm với của Murtagh.”

“Ba người không đủ để hoàn thành nhiệm vụ khó tới mức đó,” Arya không chịu thua. “Chúng tôi sẽ không thể đảm bảo an nguy của Eragon chứ đừng nói tới mở cổng.”

“Vậy thì các người có thể mang theo một người của Du Vrangr Gata.”

Trên mặt Arya thoáng nét chế giễu. “Các pháp sư của các người không đủ sức mạnh hay kỹ năng cho nhiệm vụ này. Chúng tôi sẽ phải một chọi một trăm, có khi hơn. Cả những kiếm sĩ bình thường hay những pháp sư đã được đào tạo đều không bằng chúng tôi. Chỉ có thần tiên hoặc Kỵ sĩ...”

“Hoặc Tà thần,” Orik gầm gừ nói.

“Hoặc tà thần,” Arya nói thêm dù Eragon có thể thấy nàng đang tức giận. “Chỉ những người đó mới có thể hoàn thành một nhiệm vụ khó khăn thến ày. Và kể cả vậy còn chưa chắc đã thắng. Hãy để chúng tôi mang theo hai pháp sư của Blödhgarm. Không một Varden nào có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ này.”

“Vậy tôi có được không?”

Mọi người ngạc nhiên quay lại nhìn khi Angela bước ra từ một góc lều. Eragon còn không biết bà ta ở đó.

Bà dừng trước mặt Arya. “Vậy cô không phản đối nếu tôi đi cùng chứ, Älfa? Tôi không phải Varden nhưng tôi sẵn lòng đi cùng cô.”

Arya ngạc nhiên hơn khi thấy Arya cúi đầu nói, “Tất nhiên thưa nhà Thông thái. Tôi không có ý nói mỉa. Tôi rất vinh hạnh nếu bà đi cùng.”

“Tốt!” Angela reo lên. “Vậy thì chắc cô cũng không phản đối,” bà nói hướng tới Nasuada.

Nasuada lại lắc đầu. “Nếu bà muốn và Eragon lẫn Arya đều không phải đối vậy thì không có lý do gì mà bà không thể đi. Nhưng tôi không hiểu vì sao bà lại muốn đi.”

Angela hất lọn tóc xoăn. “Cô muốn tôi giải thích cho mọi quyết định của mình à.... Được rồi, nếu như thỏa mãn được trí tò mò của cô thì chúng ta cứ cho là tôi có thù hằn với mấy tên thầy tu dòng Helgrind và tôi muốn trả thù. Hơn nữa, nếu Murtagh xuất hiện, tôi có thể lừa hắn.”

“Hay chúng ta nhờ Elva đi cùng,” Eragon nói. “Nếu ai có thể giúp chúng ta tránh nguy hiểm..”

Nasuada nhíu mày. “Trong cuộc nói chuyện lần cuối, cô bé đã tỏ rõ quan điểm. Tôi sẽ không cúi đầu trước cô bé đó để xin giúp đỡ đâu.”

“Tôi sẽ nói,” Eragon nói. “Cô bé giận tôi và tôi sẽ đi hỏi cô bé.”

“Làm gì cậu muốn. Tôi không thích đưa một đứa bé – kể cả một đứa nhỏ được chúc phúc như Elva – vào chiến trường. Hơn nữa, chắc gì con bé có thể bảo vệ nổi mình.”

“Miễn là nỗi đau của những người xung quanh không quá lớn,” Angela nói. “Trong vài trận chiến trước con bé đã cuộn mình lại như quả bóng không thể nào di chuyển hay thở nổi.”

Con bé khó đoán được lắm. Nếu con bé muốn đi thì cậu phải để ý thật kỹ đó Eragon.”

“Vâng,” nó hứa.

Sau đó Nasuada bắt đầu thảo luaanjv ới Orrin và Orik về chiến thuật và Eragon rút lui vì nó không biết gì nhiều.

Nó phóng tư tưởng tới Saphira vẫn đang qua nó nghe ngóng chuyện xung quanh. Vậy em thấy sao? Nó hỏi. “Sao em im lặng thế? Anh nghĩ em muốn nói gì khi Nasuada nghĩ ra chuyện đột nhập Dras –Leona.

Em không nói gì vì em chẳng có gì để nói. Đây là một kế hoạch hay.

Em đồng ý?!

Chúng ta không còn là những đứa bé hèn nhát nữa, Eragon. Có thể kẻ địch của chúng ta đáng sợ nhưng chúng ta cũng thế. GIờ là lúc chúng ta nhắc cho chúng nhớ.

Em có phiền nếu chúng ta tạm xa nhau?

Tất nhiên là có, cô nàng rống lên.Dù anh có đi đâu, quân dịch vẫn sẵn sàng đập chết anh như đập ruồi. Nhưng anh không còn vô dụng như xưa. Sau đó cô nàng rừ rừ.

Anh, vô dụng? Nó nói theo kiểu giận dỗi vu vơ

Ừ, một chút. Nhưng giờ cú táp của anh nguy hiểm hơn rồi.

Em cũng thế.

Mmm...Em phải đi săn đây. Sắp có bão rồi và em sẽ không có cơ hội đi săn cho tới khi chúng ta tấn công xong.

Bay cẩn thận nhé, nó nói.

Sau đó nó cảm nhận được sự hiện diện của cô em biến mất. Nó chuyện sự chú ý lại cuộc thảo luận trong lều vì nó biết cuộc đời nó, và cả Saphira, sẽ phụ thuộc vào quyết định của Nasuada, Orik và Orrin.
 
27. DƯỚI ĐỒI ĐÁ
Eragon xoay vai để điều chỉnh áo giáp bên trong sao cho thoái mải dưới lớp áo chấn thủ.

Xung quanh họ là bóng tối tới nặng nề và ngột ngạt. Tầng mây dày che khuất trăng sao. Nếu như không có ánh sang từ ngọn đèn ma trên tay Angela, kể cả Eragon và các tiên nhân cũng chẳng thấy gì.

Thời tiết ẩm ướt. THi thoảng đôi lần Eragon cảm thấy vài giọt mưa lạnh buốt rơi xuống má nó.

Elva đã cười và từ chối khi nó nhờ cô bé giúp. Nó đã tranh luận khá lâu nhưng chẳng đi tới kết quả gì. Saphira thậm chí đã can thiệp, cô em nó đã bay xuống lều đứa bé phù thủy ở, chui cái đầu khổng lồ vào chỉ cách con bé có một mét, bắt cô bé nhìn vào cặp mắt xanh sang không chớp của Saphira.

Lúc đó Elva không còn cười nữa nhưng cô nhóc vẫn không đồng ý. Sự cứng đầu của cô nhóc khiến Eragon thất vọng. Tuy vậy, nó vẫn ngưỡng mộ cá tính mạnh của Elva; với cô nhóc này cả Kỵ sĩ lẫn rồng đều không là gì. Nhưng dù sao, cô nhóc đã phải chịu đựng quá nhiều nỗi đau và trải qua nhiều chuyện đau khổ mà kể cả những chiến binh nhiều năm cũng hiếm khi gặp phải.

Arya đang đứng cạnh nó, choàng áo choàng lên cổ. Eragon cũng mặt một cái, cũng như Angela và tiên nhân tóc đen Wydren, người Blödhgarm chọn ra để đồng hành với họ. Họ cần mặc áo choàng để chống lại cái lạnh cắt da cắt thịt của ban đêm và che giấu vũ khí khỏi tầm nhìn của cư dân thành phố, nếu như họ tới được đó.

Nasuada, Jörmundur và Saphira đã đi với họ tới rìa doanh trại. Trong các khu lều, những binh lính Varden, người lùn và Urgal đang bận rộn chuẩn bị cho trận chiến sắp tới.

“Đừng quên,” Nasuada nói, hơi thở biến thành sướng khói trước mặt cô, “nếu tới bình minh mọi người không tới được cánh cổng, hãy đợi ở một nơi nào đó cho tới sáng hôm sau, và chúng ta sẽ thử lại.”

“Chúng ta làm gì có thì giờ mà chờ đợi,” Arya nói.

Nasuada xoa tay và nói. Cô có vẻ bồn chồn khác thường. “Tôi biết. Dù sao chúng tôi cũng sẽ sẵn sàng tấn công khi nhận được tín hiệu từ mọi người dù là lúc nào. Sự an toàn của mọi người quan trọng hơn việc chiếm được Dras – Leona. Hãy nhớ lấy.” Ánh mắt của cô dán chặt vào Eragon.

“CHúng ta nên đi thôi,” Wydren nói. “Sắp sáng rồi.”

Eragon áp trán vào đầu Saphira trong giây lát. Chúc anh đi săn thành công, cô bé nhẹ nhàng nói.

Em cũng thế nhé.

Chúng miễn cưỡng chia tay rồi Eragon cùng Arya và Wyrden đi theo Angela rời khỏi doanh trại, tiến tới khu phía đông thành phố. Nasuada và Jörmundur thì thầm chúc họ thượng lộ bình anh khi họ đi ngang qua, sau đó tất cả rơi vào tĩnh lặng chỉ còn tiếng thở và tiếng gót giày nện trên nền đất.

Angela điều chỉnh ánh sáng trong lòng bàn tay cho tới khi chỉ đủ sáng để Eragon nhìn thấy chân mình. Nó phải căng mắt ra để ý những cục đá hay nhánh cây chìa ra giữa đường.

Họ bước đi trong im lặng gần tiếng đồng hồ cho tới khi bà lang dừng lại nói nhỏ, “Theo tôi biết thì chúng ta đã tới nơi rồi. Tôi khá giỏi trong ước lượng khoảng cách nhưng có lẽ chúng ta đã đi hơn một ngàn mét rồi. Trong cảnh tranh sáng tranh tối này thì cũng khó nói lắm.”

Phía trên trái họ là những ánh sáng đâu đó từ phía chân trời, đó là bằng chứng duy nhất cho thấy họ đã tới gần Dras – Leona. Những ánh sáng đó gần họ tới mức họ có cảm tưởng như có thể với tay hái chúng xuống.

Nó và hai người phụ nữ đứng xung quanh Wyrden khi tiên nhân này quỳ xuống tháo găng tay phải ra. Wyrden đặt lòng bàn tay lên mặt đất và ngâm nga câu thần chú anh đã học từ pháp sư người lùn mà Orik đưa tới hướng dẫn họ cách tìm căn phòng dưới lòng đất – ngay trước khi ra đi làm nhiệm vụ -

Trong khi tiên nhân hát, Eragon chăm chú nhìn vào màn đêm, lắng nghe và quan sát động tĩnh của kẻ thù. Mưa nặng hạt dần. Nó mong sao thời tiết sẽ khá khẩm hơn trước khi trận chiến bắt đầu, nếu như nó có thể xảy ra.

Có tiếng cú rúc đâu đó và nó với tay nắm lấy thanh Brisingr, nhưng sau đó dừng lại và nắm chặt tay. Barzûl, nó dùng câu chửi thề quên thuộc của Orik để nói với mình. Nó đang căng thẳng hơn mức cần thiết. Những ký ức về trận chiến giữa nó và Murtagh cùng Thorn một lần nữa – từng ký ức và tất cả - đang khiến nó nao núng.

Chắc chắn mình sẽ thua nếu tiếp tục thế này, nó nghĩ thầm. Vì thế nó từ từ thở ra và luyện tập bài thể dục cho tinh thần đầu tiên Glaedr dạy để kiểm soát cảm xúc.

Con rồng già không mặn mà với nhiệm vụ nay khi Eragon kể cho ông nghe nhưng ông rồng cũng không phản đối. Sau khi bàn luận xong về những tình huống bất ngờ có thể xảy ra, Gleadr nói: Hãy thận trọng với bóng tôi đó Erago. Những thứ kỳ lạ thường ẩn nấp trong bóng tôi. Eragon không cho đó là một lời động viên ý chí nó.

Nó gạt những giọt nước mưa trên mặt còn tay kia nắm lấy chuôi kiếm. Găng tay da chạm vào da mặt nó sao ấm và mềm mại thế.

Nọ hạ bàn tay xuống ngoắc vào thắt lưng của Beloth Thông Thái và cảm nhận được sức nặng của mười hai viên kim cương không tì vết nạm lên đó. Sáng nay nó đã tới khu nhốt thú và khi các đầu bếp giết chim và cừu làm bữa sáng, nó đã chuyển năng lượng chết của lũ động vật vào những viên đá quý. Nó ghét chuyện nay; khi nó phóng tư tưởng về phía những con vật – nếu như chúng còn đầu – nỗi sợ hãi và đau đớn của chúng biến thành của nó, và khi đầu óc chúng trống rỗng dần, nó cảm thấy như chính nó đang chết. Đó là một trải nghiệm kinh khủng, khiến con người ta hoàng loạn và sợ hãi. Bất cứ khi nào có thể nó đều thì thầm bằng ngôn ngữ cổ với những con vật để khiến chung dịu nỗi đau. Thi thoảng nó thành công nhưng đôi khi lại không. Mặc dù kiểu gì chúng cũng phải chết và dù nó cần năng lượng nhưng nó không thích công việc này, vì nó có cảm giác nó là người chịu trách nhiệm vì cái chết của chúng. Nó cảm thấy có tội.

Giờ nó thấy thắt lưng hơi nặng hơn một chút vì lượng năng lượng chuyển dời từ những on vật. Kể cả nếu như những viên kim cương khảm trên đó có vô giá trị đi chăng nữa, Eragon vẫn thấy thắt lưng này còn quý hơn vàng, vì trên đó chứa hàng trăm ngàn mạng sống.

Khi Wyrden ngừng hát, Arya hỏi, “Anh tìm ra không?”

“Lối này,” Wyrden đứng thẳng lên nói.

Eragon vừa bị chấn động vừa thấy nhẹ nhõm. Jeod nói đúng!

Wyrden dẫn họ đi qua một con đường và rất nhiều ngọn đồi nhỏ sau đó đi tới một bãi bồi phù sa. “Cửa đường hầm phải ở đâu đó quanh đây,” tiên nhân nói và chỉ về phía bờ tây.

Bà lang tăng độ sáng của ngọn đèn ma để họ có thể tìm kiếm; sau đó Eragon, Arya và Wyrden bắt đầu ra soát hai bên bãi bồi bằng cách dùng que chọc xuống. Hai lần Eragon vấp chân vào một thân cây bu lô đổ khiến nó nghiến răng nghiến lợi vì đau. Nó ước gì mình quấn xà cạp nhưng nó đã bỏ lại thứ đó cùng khiên vì sợ chúng sẽ khiến dân thành phố chú ý.

Sau hai mươi phút tìm kiếm cuối cùng Eragon nghe thấy có tiếng kim loại rung lên, sau đó Arya nhẹ nhàng gọi. “Ở đây.”

Nó cùng những người còn lại tất tả chạy tới chỗ nàng đứng cạnh một lỗ nhỏ trên bãi.Arya rút que gậy ra để lộ một đường hầm lát đá cao năm mét rộng ba mét. Một lưới sắt đã gỉ sét che lỗ hổng lại.

“Nhìn đi,” Arya nói và chỉ xuống mặt đất.

Eragon nhìn và nó thấy một lối nhỏ dẫn xuống đường hầm. Kể cả dưới ánh sáng đỏ kỳ dị từ ngọn đèn ma của bà lang, Eragon cũng biết lối mòn đó có là do đi lâu mà thành. Một hoặc nhiều người đã sử dụng đường hầm này thường xuyên để ra vào Dras – Leona.

“Chúng ta nên cẩn thận,” Wyrden nói.

Angela hừ nhỏ trong họng. “Không thế thì các người tính đi thế nào? Với kèn trum pét thổi om sòm và sứ giả la hét báo tin chắc.”

Tiên nhân không trả lời nhưng rõ ràng anh ta rất không vui.

Arya và Wyrden giỡ tấm lưới sắt và cẩn trọng đặt chân vào đường hầm. Cả hai mang theo ngọn đèn ma cho riêng mình. Quả cầu sang trôi trên đầu họ như những mặt trời đỏ rực con con dù ánh sang của chúng không hơn ánh lửa tỏa ra từ than đang cháy là mấy.

Eragon lùi lại nói với Angela. “Vì sao thần tiên lại kính trọng bà thế? Hình như họ sợ bà nữa là đằng khác.”

“Chẳng nhẽ ta không đáng cho người khác kính trọng à?”

Nó lưỡng lự. “Bà biết không, một ngày nào đó bà phải nói cho cháubiết rõ về bà.”

“Sao cháu lại nghĩ thế,” Sau đó bà bước vào đường hầm, áo choàng phấp phới sau lưng như cánh Lethrblaka.

Eragon lắc đầu nối bước.

Bà lang nhỏ thó không phải cúi xuống nhiều để khỏi đụng đầu vào trần nhưng Eragon và hai tiên nhân kia phải cúi xuống như một ông gia bị bệnh thấp khớp. Hầu như đường hầm trống không. Một lớp bụi bẩn dày bám trên sàn nhà. Vài cành cây và đá sỏi, thậm chí cả da rắn nằm rải rác gần miệng đường hầm. Con đường có mùi như rạ ướt và cánh bướm đêm.

Eragon và những người khác im lặng bước nhưng đường hầm khuếch đại tiếng động. Một tiếng bước chân và tiếng lạo xạo vọng lại kèm theo tiếng văng vẳng thì thầm xì xào như có người sống quanh đây. Những tiếng xì xào khiến Eragon cảm thấy như bị bao vây bởi những linh hồn người chết bám theo họ trong từng bước đi.

Quá nhiều kẻ theo dõi vài người, nó nghĩ khi đá phải một hòn đá khiến nó nảy lên với những tiếng lách cách lớn đã đường đường hầm làm lớn hơn gấp trăm lần.

“Xin lỗi,” nó nói khi mọi người quay lại nhìn nó.

Một nụ cười nhăn nhở hiện lên trên môi nó. Ít nhất chúng ta đã biết những âm thanh kỳ lạ dưới lòng Dras – Leona từ đâu mà ra. Khi về nó sẽ kể lại cho ông Jeod nghe.

Khi họ đã đi được một đoạn khá dài trong đường hầm, Eragon dừng lại và nhìn về lối vào, lúc này hầu như đã lẫn trong bóng tối. Bóng chạng vạng như có thể nắm bắt lấy, như thể một tấm vài dày phủ lên toàn thế giới. Cùng với những bức tường sát sịt và trần nhà thấp, chúng khiến nó có cảm giác tù túng và bị bóp nghẹt. Thường nó không để ý nhiều tới việc ở trong không gian hẹp, nhưng đường hầm này khiến nó nhớ tới những con đường xấu xí trong núi Helgrind nơi nó và Roran chống trả lại lũ Ra’zac – một ký ức chẳng lấy gì làm vui vẻ.

Nó hít một hơi thật sâu sau đó thở ra.

Ngay khi định bước tiếp, nó thoáng nhìn thấy hai con mắt lớn sáng lên trong bóng tôi nhưn thể hai viên đá mặt trăng màu đồng. Nó nắm lấy thanh Brisingr và rút thanh kiếm ra khỏi bao vài centimet thì Solembum xuất hiện khỏi bóng tối, nhẹ nhàng di chuyển trên bàn chân móng vuốt.

Con ma mèo dừng lại ngoài vùng ánh sáng. Nó nhúc nhích cái tai điểm đen và hàm rơi ra như ngạc nhiên lắm.

Eragon thả lỏng người. Đáng nhẽ mình phải đoán ra chứ. Angela đi đâu và Solembum theo đó. Lại một lần nữa, Eragon nghĩ về quá khứ của bà lang: Sao bà lại có được sự trung thành của con mèo ma?”

Vì những người khác đã đi xa hơn, bóng tôi lại một lần nữa phủ lên Solembum.

Biết mèo ma bọc hậu nên Eragon vui vẻ đuổi theo những người còn lại.

Trước khi nhóm rời doanh trại, Nasuada đã nói tóm tắt cho họ trong thành có chính xác bao nhiêu lính, họ đứng gác ở đâu cũng như nhiệm vụ và thói quen như thế nào. Cô cũng cho họ biết chi tiết về giờ giấc ngủ nghỉ của Murtagh, hắn ta ăn gì, và kể cả tâm trạng vào đêm trước. Thông tin của cô luôn luôn chính xác đến lạ lùng. Nếu có ai hỏi, cô chỉ cười và giải thích rằng, từ hồi Varden xuất quân, mèo ma đã giúp cô do thám Dras – Leona. Một khi Eragon và những người đồng hành vào được trong thành phố, mèo ma sẽ cùng họ đi tới cổng nam nhưng sẽ nếu được không xuất đầu lộ diện trước mặt quân Triều đình, nếu không họ sẽ không thể nào giúp Nasuada hiệu quả như trước. Dù sao thì làm gì có ai lại nghĩ một con mèo to tổ chảng lại là do thám của quân địch được chứ?

Sau đó, Eragon đột nhiên nghĩ khi nhớ những lời chỉ dẫn vắn tắt của Nasuada rằng, điểm yếu lớn nhất của Murtagh là hiện giờ hắn vẫn phải ngủ. Nếu chúng ta không bắt hoặc giết được hắn trong ngày hôm nay, lần sau gặp lại, chúng ta phải tìm cách đánh thức hắn vào nửa đêm – hoặc nếu được thì nhiều hơn một đêm. Ba hay bốn đêm không ngủ đủ sẽ khiến hắn khó lòng chiến đấu.

Họ tiếp tục đi trong đường hầm chạy thẳng như một mũi tên, không có lấy một đoạn rẽ, ngõ quặt. Eragon nghĩ nó thấy nền hơi dốc – cũng đúng thôi vì nó được thiết kế làm cống thoát nước cho thành phố - nhưng nó không chắc lắm.

Sau một hồi, lớp bụi bẩn dưới chân họ nhão hơn và dính vào giày của họ như đất sét ướt. Nước nhỏ xuống từ trần nhà, thi thoảng rơi xuống cổ và chảy xuống xương quai xanh Eragon như một ngón tay lạnh lẽo lướt lên người nó. Có một lần nó bị trượt chân vì giẫm phải bùn khiến nó phải giang tay giữ thăng bằng, khi đó nó phát hiện tường dính đầy chất nhờn.

Họ không biết đã đi bao lâu, có thể là một tiếng hoặc giả chỉ là vài phút. Nhưng thế nào đi nữa, cổ Eragon ê ẩm vì nửa đứng nửa cúi và nó mệt mỏi phải nhìn chăm chăm vào bức tường đá giống nhau như đúc.

Cuối cùng nó để ý thấy vọng nhỏ đi và ngắt quãng lâu hơn. Ngay sau đó, đường hầm dẫn tới một căn phòng chữ nhật rộng với trần nhà nửa vòm chóp cao khoảng mười lăm mét. Căn phòng trống rỗng trừ có một cái thùng bị mọt ăn ở một góc. Phía đối diện với họ là ba cánh cổng vòm giống y sì nhau mở ra ba căn phòng giống nhau, đều nhỏ và tối. Eragon không biết chúng sẽ dẫn tới đâu.

Cả nhóm dừng lại và Eragon từ từ đứng thẳng lưng, nhăn mặt vì các cơ bắp đau nhừ giãn ra.

“Chắc phần này không nằm trong bản thiết kế của Erst Râu bạc,” Arya nói.

“Chúng ta nên chọn đường nào?” Wyrden hỏi.

“Không rõ ràng sao?” bà lang hỏi. “Đường bên trái. Luôn luôn là đường bên trái.” Sau đó bà rảo bước tới cổng vòm đó.

Eragon không thể nào im miệng. “Trái là trái nào? Nếu bà đứng ở chiều bên này thì bên trái là...”

“Trái có thể là phải và phải có thể là trái, đúng, đúng,” bà lang nói. Mắt bà nheo lại. “Thi thoảng cháu thông minh đột xuất quá đấy, Khắc tinh của tà thần ạ... Tốt thôi, chúng ta sẽ đi theo hướng của cháu. Nhưng đừng nói là ta không báo trước nếu chúng ta lạc đường lòng vòng trong đây hết ngày này tháng khác.”

Eragon thực ra thích đi vào cổng vòm ở giữa hơn vì có vẻ nó sẽ dẫn chúng đi thẳng lên các con đường nhưng nó không muốn cãi nhau với bà lang. Đi đường nào chúng ta cũng sẽ sớm tìm ra cầu thang, nó nghĩ.Dưới Dras – Leona không thể có quá nhiều phòng bí mật được.”

Angela giơ ngọn đèn ma lên cao và đi trước. Wyrden và Arya đi theo và Eragon chặn hậu.
 
Quay lại
Top Bottom