Cánh hoa bay trong gió....♪♪

Trạng thái
Tác giả đang khóa bình luận
KenhSinhVien-42681448251658511066696.jpg




KenhSinhVien-raore-net-raore-net-50.jpg






KenhSinhVien-shopcntt-timeline-facebook-dep-y-nghia-26-unregistered-copy-of-dpo-please-register.jpg


KenhSinhVien-sinhvienit-net-0acf045889533ffeb256bb1368bee159-48943849-sinhvienitcoverfacebook2.jpg



 


Bến xe – Thương Thái Vi

Dịch giả : Greenrosetq

“Đời này thứ tôi có thể cho em, chỉ là danh dự trong sạch và tương lai tươi đẹp.”


8563010878_9b9907cd8a_z.jpg
Đã bao giờ bạn đọc truyện mà tim bạn run lên với từng câu từng chữ trong truyện chưa?

Đã bao giờ bạn đọc truyện mà bạn hân hoan đến ngỡ ngàng vì cái đẹp trong đó chưa?

Có thể nói đã lâu lắm rồi tôi mới lại được thưởng thức 1 tác phẩm đẹp đến vậy, tinh tế và sâu sắc đến vậy.

Trước hết là cái đẹp về lời văn. Tôi là người ghiền truyện, kể cả Tây hay Tàu. Nhưng cũng đã lâu rồi chưa có tác phẩm nào khiến tôi phải trầm trồ xuýt xoa vì nó đẹp trong nó.

Từng câu từng chữ trong tác phẩm nhẹ nhàng cứ như một bài thơ. Dịu dàng đằm thắm như người con gái Huế thấp thoáng ẩn hiện trong thơ của Hàn Mạc Tử. Thế nhưng nó lại khiến tim bạn như run lên, cảm nhận sâu sắc cái đẹp của ngôn từ.

Kế nữa là đẹp về nội dung.

Truyện chỉ đơn giản kể về 1 cô bé từ nhỏ được mệnh danh là “thiên tài”, nhưng đến khi cô gặp được người thầy dạy văn khiếm thị của mình cô mới cảm nhận được thế nào là “thiên tài thật sự”.

Tình yêu thầy trò? Không sai.

Nhưng chưa có mối tình thầy trò trong tiểu thuyết nào mà khiến tôi cảm thấy đẹp và thiêng liêng đến thế. Đồng thời cũng quặn lòng thổn thức đến vậy.

Cảm giác đẹp đẽ đồng thời cũng rất mong manh ấy, khiến khi tôi chìm đắm vào truyện, trái tim cũng đã lạc mất đi rất nhiều nhịp vì họ, vì tình yêu của họ mất rồi.

Tình yêu của hai thầy trò trong sáng, tinh khiết vô ngần. Nhưng sự mãnh liệt, sâu sắc, thâm tình ẩn chứa trong đó cũng không dễ có mối tình nào sánh được.

2 con người tài hoa, tinh tế, sâu sắc gặp gỡ nhau, đã tạo nên 2 tâm hồn đồng điệu đến lạ kỳ. Và từ đó, mở ra một thiên tình sử.

Tôi sẽ không giới thiệu nhiều về truyện, cũng không đi sâu vào nội dung truyện. Bởi tôi tự cảm thấy văn chương của mình quá kém cỏi, không thể lột tả được hết cái đẹp của tác phẩm. Nhưng trên hết, tôi chỉ muốn người đọc tự cảm nhận bằng chính cảm xúc của mình mà không chịu nhiều ảnh hưởng của review, cũng như biết trước được tình tiết truyện.

Các bạn hãy đọc, hãy cảm nhận và cùng chia sẻ với tôi nhé!

Liễu Địch, nếu có kiếp sau, nếu kiếp sau đời cho tôi một đôi mắt sáng, tôi sẽ đứng ở bến xe này – đợi em


 
Chương 1

Liễu Địch lại đứng trước cánh cửa văn phòng đó.

Vừa qua mười hai giờ trưa, cả tòa nhà vắng vẻ tĩnh mịch, chỉ có tiếng ve sầu kêu râm ran không biết mệt mỏi trên cây cối bên ngoài sân trường. Liễu Địch lau mồ hôi trên trán, điều hòa hơi thở dồn dập do chạy một mạch tới đây. Cô giơ tay, gõ nhẹ lên cánh cửa hai tiếng.

"Mời vào." Bên trong vọng ra thanh âm trầm thấp, tuy lịch sự nhưng không kém phần lạnh nhạt. Liễu Địch đẩy cửa đi vào phòng.

Đây là một văn phòng làm việc đơn giản như không thể đơn giản hơn. Trong phòng chỉ có một cái bàn làm việc, hai chiếc ghế đặt đối diện nhau. Trên bàn có một bình giữ nhiệt vỏ ngoài bằng sắt, hai tách trà sứ màu trắng, một cặp da đen, một lọ mực đỏ cắm chiếc bút mực. Ngoài ra, trên bàn còn có đống vở bài tập xếp ngay ngắn.

Trên chiếc ghế tựa vào cửa sổ có một người đàn ông đang ngồi. Anh mặc bộ đồ đơn giản, áo sơ mi trắng, quần đen, vừa gọn gàng sạch sẽ vừa cứng nhắc, giống hệt văn phòng của anh.

Thần sắc người đàn ông nhợt nhạt, vậy mà trên gương mặt đó còn đeo một cặp kính đen cỡ lớn, tựa hồ một chiếc đầu lâu được khảm hai hốc mắt đen sì, mang lại cảm giác u ám đáng sợ.

Một điều kỳ lạ là người đàn ông ngồi ngược ánh sáng, khiến gương mặt anh càng trở nên tăm tối. Anh giống một xác chết biết đi, khiến người đối diện có cảm giác lạnh lẽo và rờn rợn. Căn phòng này cũng trầm lặng giống như chủ nhân của nó. Thứ có sinh khí duy nhất là chậu hoa nhài trên thành cửa sổ. Lúc này, nó đã nở không ít nụ hoa trắng muốt, theo làn gió nhè nhẹ, tỏa hương thơm thấm vào lòng người.

Thầy giáo chỉ tay vào chiếc ghế đối diện. Liễu Địch liền đi đến ngồi xuống. Cô lấy quyển vở đầu tiên trong đống vở bài tập ở trên bàn một cách thành thạo. Sau đó cô hắng giọng, bắt đầu đọc to:

" <Phụ thân>, lưng của người lại còng rồi..."

"Dừng." Thầy giáo quả quyết ngắt lời Liễu Địch: "Đổi chữ "lại" thành chữ "càng". Liễu Địch cầm bút sửa lại, cô đã có thói quen phục tùng thầy giáo từ lâu. Thầy giáo có sự nhạy cảm đến mức cực đoan đối với chữ nghĩa. Điều này khiến Liễu Địch hết sức tâm phục khẩu phục.

Sửa xong, Liễu Địch lại đọc tiếp...

Sau khi đọc xong bài văn, thầy giáo trầm tư một lát rồi lên tiếng: "Em hãy viết nhận xét: Nếu câu từ không chuẩn xác, không trang nhã, chẳng khác nào quần chưa kéo khóa đã lên sân khấu biểu diễn."

Liễu Địch đỏ mặt, nhưng cô vẫn viết câu đó. Cô biết rõ phong cách phê bình của người thầy giáo trước mặt, chỉ một hai câu ngắn gọn, nhưng như một con dao sắc nhọn, cắm sâu vào chỗ hiểm một cách quả quyết và chuẩn xác, khiến bạn rất đau đớn, đồng thời có tác dụng giúp bạn tìm kiếm điều gì đó trong nỗi đau.

Liễu Địch vẫn còn nhớ cảnh tượng lần đầu tiên thầy giáo nhận xét bài văn của cả lớp. Lúc phát vở bài tập, gần như toàn bộ học sinh trong lớp bị đả kích nặng nề bởi những lời nhận xét chỉ có khuyết điểm, không có ưu điểm của thầy. Có người òa khóc ngay tại chỗ, có người chửi ầm lên. Thầy giáo chỉ yên lặng đứng trên bục giảng, coi như tai điếc. Kể từ giây phút đó, mỗi lần làm văn, các bạn học đều hết sức cẩn thận, dè dặt trong việc chọn đề tài và cấu tứ. Bọn họ cũng thận trọng đặt câu, chỉ sợ lại bị thầy nhận xét cay nghiệt. Vậy mà cả lớp vẫn bị phê bình, mức độ phê bình ngày càng nâng cấp. Trong sự đả kích hết lần này đến lần khác đó, các bạn học dần dần phát hiện, trình độ làm văn của mình đang tiến bộ nhanh chóng.

Liễu Địch là học sinh duy nhất chưa từng bị thầy phê bình. Bài văn của cô cũng không có nhận xét, mà chỉ có số điểm, điểm cao nhất lớp. Mặc dù lúc chấm điểm, thầy không bao giờ hỏi tác giả của bài văn, Liễu Địch cũng không bao giờ tiết lộ tên cô, nhưng khi bình giảng văn học, thầy luôn nói: "Liễu Địch, em hãy đọc bài văn của em cho cả lớp nghe."

Viết xong, Liễu Địch lại cầm quyển vở thứ hai...

Lúc này bên ngoài cửa sổ, tiếng huyên náo dần thay thế tiếng ve kêu. Phê xong quyển bài tập thứ mười, Liễu Địch nhìn đồng hồ đeo tay, một giờ hai mươi lăm phút. Thế là cô đứng dậy, cất giọng nhẹ nhàng: "Thầy Chương, sắp đến giờ lên lớp rồi."

Thầy Chương cũng chầm chậm đứng lên. Liễu Địch đi đến đỡ thầy, hai thầy trò cùng rời khỏi văn phòng.

Ngôi trường cấp ba trọng điểm hàng đầu của tỉnh này có hai tòa nhà dạy học. Lớp 11 (1) của Liễu Địch nằm ở tầng hai dãy phía Nam, trong khi văn phòng của thầy Chương nằm ở tầng bốn dãy phía Bắc. Hai thầy trò phải leo cầu thang khá cao, đi qua sân thể dục khá lớn. Tòa nhà phía Bắc cũ kỹ, cầu thang lên xuống tàn tạ. Liễu Địch vừa cẩn thận tìm nơi đặt chân, vừa đề phòng đám nam sinh chạy hùng hục. Mặc dù vậy, cô vẫn bị một nam sinh cao lớn đang chạy lên gác va vào vai. Liễu Địch vội vàng lắc đầu, ra hiệu cậu nam sinh im lặng. Sau đó, cô tiếp tục đi về phía trước như không có chuyện xảy ra. Tuy bờ vai tương đối đau, nhưng cô vẫn không buông tay khỏi thầy Chương.

Giữa sân thể dục, một đám nam sinh lớp 12 đang đá bóng. Liễu Địch chau mày quan sát. Lần nào cô cũng sợ nhất đi qua nơi này, sợ "đạn pháo" hai màu trắng đen bay đi bay lại đập trúng bản thân, đồng thời sợ những "cỗ xe tăng" đâm phải thầy Chương. Cũng như mọi hôm, cô rảo bước thật nhanh theo bản năng. May mà không xảy ra sự cố, hai thầy trò đi khỏi "khu vực nguy hiểm" an toàn.

Đến khu vực tòa nhà phía Nam, không khí đỡ hơn hẳn. Tòa nhà phía Nam là dãy phòng học mới xây dựng chưa tới hai năm. Các phòng học rộng rãi sáng sủa, có khí thế của một trường cao đẳng. Lúc này, Liễu Địch mới thở phào nhẹ nhõm. Cô đỡ thầy Chương đi vào lớp, tới bục giảng. Sau đó, cô mới quay về chỗ ngồi của mình.

Liễu Địch khát khô cổ họng, bụng đau nhâm nhẩm do ăn cơm trưa quá vội vàng. Cô vuốt bụng theo thói quen, lặng lẽ rút quyển sách ngữ văn. Tiếng chuông báo hiệu giờ lên lớp reo vang, thầy Chương cất giọng trầm trầm: "Chúng ta bắt đầu vào học."
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chương 2



Liễu Địch vĩnh viễn không thể quên cảnh tượng lần đầu tiên gặp thầy Chương Ngọc.

Lúc đó, cô mới thi đỗ vào ngôi trường cấp ba trọng điểm có lịch sử lâu đời này với thành tích đứng đầu toàn thành phố. Tuy nhiên, thành tích của cô khiến người khác vui mừng, còn bản thân cô không hề cảm thấy hưng phấn. Liễu Địch nhanh chóng chán ngán tình cảnh gặp ai cũng được khen ngợi và chúc mừng. Mọi người đều gọi cô là "thiên tài", trong khi cô rất ghét bị coi là "thiên tài".

Liễu Địch còn nhớ, năm lên bốn tuổi, khi cô được bế đứng trên ghế, cất giọng non nớt đọc thuộc làu câu "Xuân giang triều thủy liên hải bình. Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh" trước mặt một học giả, cô nhìn thấy ánh lệ lấp lánh trong mắt vị học giả đó. Kể từ lúc bấy giờ, Liễu Địch được gọi là "thiên tài".

("Xuân giang triều thủy liên hải bình. Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh" là hai câu thơ trong bài "Xuân quang hoa nguyệt dạ" của Trương Nhược Hư. Dịch thơ: "Triều lên ngang mặt sông xuân. Biển đêm, trăng cũng sáng ngần sóng xô"- Bản dịch của Nguyễn Lãm Thắng)

Năm tuổi, Liễu Địch có bài thơ đầu tiên đăng tạp chí. Biên tập của tạp chí còn đến tận nhà chúc mừng cô. Nhìn chú biên tập mặt nhễ nhại mồ hôi, cô biết bản thân có chút tài năng. Sau đó, Liễu Địch còn đoạt giải nhất cuộc thi "Chinh văn đại" toàn quốc vào năm chín tuổi, tác phẩm của cô thường xuyên xuất hiện trên báo và tạp chí, cô không ngừng được thiên hạ gắn mác "thiên tài".

Chỉ là nghe quá nhiều, Liễu Địch ngược lại không đồng tình, cô thậm chí bắt đầu nghi ngờ bản thân rốt cuộc có phải là "thiên tài" hay không? Bắt gặp gương mặt thiếu nữ ngày càng xinh xắn trong gương, cô đột nhiên cảm thấy, danh hiệu "thiên tài" mà cô giành được là dựa vào dung nhan của mình. Những cô gái xinh đẹp chỉ cần có một chút tài hoa là dễ dàng được người khác ưu ái và coi trọng. Trên toàn thế giới, điều này là luật bất thành văn.

Mỗi khi nghĩ đến nguyên nhân này, Liễu Địch đều cảm thấy vô vị và chán nản. Cô nhìn quá đủ những gương mặt tươi cười của người khác, khi họ khen ngợi cô. Những gương mặt đó thể hiện sự nhiệt tình quá độ, thành ra có điều gì đó không tự nhiên. Liễu Địch kết luận bằng hai từ "giả tạo". Cô cho rằng, ánh lệ trong mắt vị học giả và mồ hôi trên trán chú biên tập mới là chân thực, mới là chú giải từ "thiên tài" chuẩn xác nhất. Nhưng đó là chuyện từ ngày xửa ngày xưa, hiện tại cô đã 16 tuổi, cô còn dám vỗ ngực tự xưng là "thiên tài" hay sao? Vì vậy, Liễu Địch ngày càng ghét hai chữ "thiên tài".

Xét ở một khía cạnh khác, là thiên tài thì sao chứ? Cô vẫn không có quyền lựa chọn cuộc sống của mình. Cô thích văn học, nhưng vẫn phải cắm đầu vào học các môn toán lý hóa. May mà ông trời ban tặng cô trí óc thông minh, khiến cô không cần chăm chỉ cũng vẫn có thể học tốt ba môn toán lý hóa.

Liễu Địch không hiểu, cô phải học những định luật, công thức và nguyên lý đó để làm gì. Trong tương lai, cô tuyệt đối không sống dựa vào mấy môn khô khan nói trên. Nhưng Liễu Địch biết rõ, nếu không học mấy môn chán ngắt đó, cô sẽ không thể thi đỗ đại học, không được tiếp nhận nền giáo dục chính quy mang tính hệ thống. May mà năm lớp 11, trường bắt đầu phân ngành học, Liễu Địch có thể nói "bye bye" với môn vật lý và hóa học. Điều này khiến cô có chút an ủi.

Từ trước đến nay, Liễu Địch không muốn sống trái với ý nguyện của cô. Vì vậy, cô không tham gia đoàn thể, không làm cán bộ lớp, thậm chí bỏ lỡ vô số cuộc thi văn học do trường tổ chức. Nhưng cô vẫn phải ép bản thân học các môn tự nhiên. Trong cuộc sống, bạn vĩnh viễn không có cách nào làm mọi chuyện theo ý mình, dù bạn là thiên tài đi chăng nữa.

Học ở ngôi trường trọng điểm này, Liễu Địch không mong bản thân được bạn bè để ý và yêu quý, cũng không hy vọng các thầy cô đề cao cô. Cô không tâng bốc ai, cũng không lấy lòng ai. Cô chỉ cần cuộc sống chân thực, tự do, độc lập. Cô hy vọng sau khi cô qua đời, trên bia mộ cô khắc một câu của nhà thơ Diệp Tái Ninh: "Từng sống, từng yêu, từng sáng tác, từng phát biểu..."

Mang tâm trạng đó, Liễu Địch gặp thầy Chương Ngọc ở tiết ngữ văn đầu tiên của năm lớp 10.

Đến nay, Liễu Địch vẫn còn nhớ rõ, lúc thầy Chương Ngọc đi vào lớp, không hiểu tại sao, cả phòng học vốn đang ồn ào đột nhiên yên tĩnh hẳn. Ai ấy đều cảm thấy có điểm gì đó bất bình thường, nhưng không biết diễn tả ra sao. Thầy Chương dè dặt bước từng bước một lên bục giảng trong không khí yên lặng đó.

Bộ dạng của thầy Chương hết sức nghiêm túc, nghiêm túc đến mức thâm trầm. Thân hình thầy cao gầy, sống lưng thẳng tắp, sắc mặt trắng bệch vô cảm, bờ môi mím chặt. Đặc biệt là cặp kính đen sì như hai hốc mắt trên xương sọ, mang lại cảm giác lạnh lẽo, âm u, thê thảm. Chỉ liếc qua thầy, Liễu Địch bất giác rùng mình. Cô có cảm giác không phải bản thân đang nhìn thầy giáo, mà như đi vào một ngôi cổ mộ tĩnh mịch chết chóc, khiến người vừa xâm nhập liền bị bao vây bởi nỗi kinh hoàng đáng sợ.

Không có màn tự giới thiệu, không có lời mở đầu, thầy Chương bắt đầu giảng bài.

"Các em, hôm nay chúng ta học tản văn "Ánh trăng bên hồ sen" của Chu Tự Thanh tiên sinh. Mời các em mở sách giáo khoa, tôi sẽ đọc bài văn một lần."

Lớp học vụt qua một sự xao động, nhưng nhanh chóng khôi phục không khí yên tĩnh. Liễu Địch đưa mắt về bục giảng, hai tay thầy Chương trống không. Thầy không hề cầm giáo trình.

"Mấy ngày nay, trong lòng không yên tĩnh. Tối nay ngồi ở trước sân hóng mát, tôi đột nhiên nhớ tới hồ sen tôi vẫn ngày ngày đi qua. Trong ánh trăng sáng ngời, nó có một dáng vẻ khác biệt. Ánh trăng ngày càng lên cao, tiếng nô đùa của bọn trẻ trên đường phố bên ngoài bờ tường đã dần biến mất. Bà xã ở trong nhà ru Nhuận Nhi ngủ...ngâm nga câu hát ru. Tôi âm thầm mặc áo khoác, mở cửa đi ra ngoài..."

Trời ạ! Tất cả mọi người đều ngẩng đầu, ai nấy há hốc miệng. Cả lớp dồn ánh mắt kinh ngạc lên bục giảng, ngạc nhiên chứng kiến người thầy ngẩng cao đầu, chắp hai tay sau lưng đọc thuộc một bài tản văn khá dài. Thầy không cần nhìn sách cũng có thể đọc một cách rõ ràng, thanh âm vô cùng truyền cảm. Trong thanh âm của thầy có thơ, có họa, có tình, có cảnh, giống ảo ảnh mơ hồ, giống tiếng hát vang vọng. Thầy gần như đưa tất cả mọi người tới hồ sen nhuộm ánh trăng bàng bạc đó. Trước mắt mọi người hiện ra cảnh bông sen lay động dưới ánh trăng, tỏa hương thơm dìu dịu. Một điều kỳ diệu hơn, thầy Chương đã đọc ra tâm trạng vi diệu rất khó phát giác của tác giả Chu Tự Thanh, đó là sự yên tĩnh mà ông theo đuổi trong cuộc sống hiện thực ồn ào. Cả lớp say mê lắng nghe. Lúc này, thầy Chương cũng như chìm trong mộng cảnh do thầy tạo ra. Vẻ mặt nghiêm túc và thâm trầm của thầy ôn hòa đi mấy phần, khiến thầy có sinh khí hơn.

"Tối nay, nếu có người ngắt sen, hoa sen ở đây cũng được coi là "quá đầu người"..." Thầy Chương đọc thuộc hết bài tản văn, không sai một chữ. Lớp học im lặng tuyệt đối, các bạn học gần như nín thở, phảng phất thanh âm truyền cảm của thầy vẫn vương vấn bên tai. Sau đó, không biết ai mở đầu vỗ tay đốp đốp. Tiếp theo, cả lớp vỗ tay nhiệt liệt.

Thầy Chương khôi phục vẻ lạnh nhạt và nghiêm túc trước đó. Thầy tỏ ra thờ ơ trước tràng vỗ tay tán thưởng và khâm phục của đám học sinh, đến khóe miệng cũng không nhếch lên. Thái độ lạnh nhạt kỳ lạ của thầy khiến các bạn học càng ngạc nhiên hơn việc thầy đọc thuộc bài tản văn một cách chính xác vừa rồi. Mọi người không hẹn cùng nghĩ đến từ "đọc", thầy không phải "đọc sách" mà là "đọc thuộc lòng". Tiếng vỗ tay dần thưa thớt.

Sau khi mọi người yên tĩnh, thầy Chương bắt đầu giới thiệu tác giả. Về Chu Tự Thanh, thầy chỉ nói vài câu: "Chu Tự Thanh là giáo sư đại học Thanh Hoa kiêm viện trưởng viện văn học. Ông là học giả nổi tiếng, là tác gia tản văn có ảnh hưởng lớn trên văn đàn, đồng thời cũng là người Trung Quốc có khí tiết. Thời tiểu học, các em đã được tiếp xúc với tản văn "Màu xanh" của ông, thời cấp hai, các em từng học hai tản văn khác là "Bóng lưng" và "Mùa xuân". Ngoài ra, tác phẩm của ông còn có "Vội vàng", "Truyện ký chọn bạn đời"...

"Thầy ơi, thầy có thể "đọc" tác phẩm "Truyện ký chọn bạn đời" không?"

Cả lớp quay đầu về nơi phát ra tiếng nói. Đó là một nam sinh cao gầy, cậu đỏ mặt, ánh mắt thách thức đầy mùi thuốc súng. Thế là các bạn học lại dồn ánh mắt lên người thầy Chương, trong đó không ít người có tâm trạng xem trò vui. Đám học sinh xuất sắc ở một ngôi trường xuất sắc, tật xấu lớn nhất là "tự cho mình là giỏi", chúng ghét nhất thái độ ra vẻ ta đây của người khác. Thầy Chương đại khái bị chúng liệt vào hạng người "ra vẻ ta đây, khoe khoang tài năng". Đọc thuộc lòng bài "Ánh trăng bên hồ sen" chẳng có gì là giỏi. Nếu có thể đọc thuộc cả bài "Truyện ký chọn bạn đời" mà mọi người hầu như không biết tới, mới coi có bản lĩnh thật sự. Các bạn học đều ngẩng đầu, chờ câu trả lời của thầy Chương với tư thế kẻ bàng quan. Cả lớp chỉ có một người cúi thấp đầu, đó chính là Liễu Địch.

Đúng vậy, Liễu Địch không nhìn thầy Chương. Cô chưa từng đọc qua "Truyện ký chọn bạn đời", thậm chí tiêu đề cũng lần đầu tiên nghe nói. Một khi cô không biết tản văn này, cả lớp chắc cũng chẳng có ai biết. Bắt thầy Chương đọc thuộc một bài văn không nổi tiếng, ít người biết đến trước mặt cả lớp là một thử thách lớn. Liễu Địch cảm thấy hơi lo cho thầy Chương. Có lẽ cô là học sinh duy nhất quan tâm đến thầy, bởi vì cô không hề có ý nghĩ, thầy "ra vẻ ta đây" hay "khoe khoang tài năng". Tuy nhiên, Liễu Địch không biết làm thế nào để ngăn cản sự việc đang diễn ra. Điều duy nhất cô có thể làm, là bày tỏ kháng nghị bằng cách cúi đầu.

Sắc mặt thầy Chương vẫn vô cảm như thường: "Tôi sẽ thử xem sao." Câu nói của thầy khiến dưới lớp nổi lên tiếng bàn luận. Nhưng thầy nhanh chóng mở miệng: "Bản thân là con cháu đích tôn, vì vậy chưa đến mười một tuổi tôi đã được nghe nhắc đến chuyện chọn vợ..."

Thầy Chương đọc hết câu này đến câu khác. Thầy vẫn ngẩng cao đầu, chắp hai tay sau lưng, bộ dạng thong dong từ tốn như ban nãy. Liễu Địch vô cùng kinh ngạc. Cô ngẩng đầu, phát hiện các bạn học thì thầm bàn tán. Bọn họ cũng ngạc nhiên y như cô.

Trên thực tế, không một ai có thể chứng thực, tản văn thầy Chương đang đọc thuộc lòng, rốt cuộc có phải là "Truyện ký chọn bạn đời" hay không?

"Thưa thầy!" Một thanh âm cắt ngang lời thầy Chương: "Thầy có thể đọc "Giản ái", tác phẩm tiêu biểu của Hạ Lạc Đế không ạ?" Cậu nam sinh vừa lên tiếng nhanh chóng rút quyển sách từ cặp sách, đó chính là "Giản ái".

"Chương mấy?" Thầy Chương tựa hồ không nhìn thấy hành động mang tính chất sỉ nhục đó.

"Chương một ạ."

"Ngày hôm đó vốn không thể đi tản bộ. Không sai, buổi sáng chúng tôi đã dạo một tiếng đồng hồ trong rừng cây trơ trụi lá..."

"Chương ba."

"Trong ký ức của tôi..."

"Chương mười."

"Cho đến bây giờ, tôi đã ghi chép tường tận một số chuyện nhỏ nhặt không đáng kể trong cuộc sống..."

"Chương hai mươi lăm."

"Một tháng sau khi bày tỏ tình cảm..."

"Chương ba mươi mốt."

"Cuối cùng tôi cũng tìm thấy nhà..."

Thần sắc kinh ngạc của cậu nam sinh nói cho cả lớp biết, thầy Chương đọc không sai một chữ.

"Chương ba mươi sáu." Cậu nam sinh không cam lòng, lại mở miệng: "Thưa thầy, xin thầy hãy đọc câu tiếp theo câu này: "Là một nỗi đau khổ như thế nào? Mà người này tựa hồ hạ quyết tâm trì hoãn."

Tay phải thầy Chương đột nhiên cuộn thành nắm đấm, thân hình thầy hơi lảo đảo. Thầy im lặng hồi lâu. Liễu Địch nhìn thấy giọt mồ hôi trên trán thầy.

Các bạn học trầm mặc, trao đổi ánh mắt đắc ý và vui vẻ của kẻ chiến thắng. Liễu Địch thở dài. Không hiểu tại sao, nhìn những gương mặt cười cợt trên nỗi đau của người khác, trong lòng cô hơi khó chịu.

Cuối cùng thầy Chương cũng mở miệng, thầy đọc câu tiếp theo bằng ngữ điệu có phần đau đớn: "Hai mắt ông đã bị mù. Đúng vậy, Ái Đức Hoa tiên sinh đã hoàn toàn trở thành người mù..."

Cậu nam sinh buông quyển sách, lặng lẽ tuyên bố sự thất bại của mình. Các bạn học khác tựa hồ bị kích phát lòng hiếu kỳ, bọn họ nhanh nhảu nêu tên một loạt tác phẩm nổi tiếng bất chợt xuất hiện trong đầu bọn họ. Dù một số tác phẩm, bọn họ cùng lắm chỉ biết tên:

"Anna Karenina"

"Hồng Lâu Mộng"

"Phục sinh"

"Hoàng hà chảy về phía đông"

"Ông già và biển cả."

...

Cho đến khi không còn một người nào đứng dậy đề nghị thầy Chương đọc thuộc tác phẩm, cuộc khảo vấn mới kết thúc. Cả lớp không ai thắng người thầy đang lặng lẽ đứng trên bục giảng kia.

Các bạn học cuối cùng cũng bị chinh phục một cách triệt để. Vẻ bất mãn, ngông cuồng và thách thức trên mặt bọn họ hoàn toàn biến mất, thay vào đó là sự khâm phục và sùng bái. Lần đầu tiên trong đời, bọn họ biết thế nào là "uyên bác", là cảm giác nhỏ bé và bi ai của con ếch ngồi dưới đáy giếng ngước nhìn bầu trời bao la.

Về phần Liễu Địch, cô biết thế nào là "thiên tài" thực sự.

Thế nhưng, đối diện với vô số ánh mắt sùng bái, thầy Chương vẫn lạnh lùng vô cảm như cũ. Thầy cất giọng bình thản: "Các em còn cần tôi đọc tác phẩm nào nữa không?" (Thầy Chương dùng từ "Độc" 读 có nghĩa cầm nhìn vào sách hay văn bản để đọc)

Đọc? Lại là "đọc"? Những đứa trẻ mười sáu mười bảy tuổi này, dù sùng bái một người đến mấy, cũng không thể chịu đựng sự ngông cuồng và miệt thị từ ngữ. Lớp học lại ồn ào. Trong âm thanh tạp loạn, một giọng nói trong trẻo vang lên: "Thưa thầy, tại sao thầy luôn gọi "thuộc lòng" thành "đọc"? Lẽ nào thầy lớn lên với kiểu "đọc" sách đó?" (Đáng lẽ thầy Chương phải dùng từ "Bội" 背 tức đọc thuộc lòng. "Độc" và "Bội" là hai từ có cách đọc cách viết và ý nghĩa hoàn toàn khác nhau)

Đây là lời chất vấn của bạn cùng bàn Liễu Địch. Câu nói này dẫn đến một loạt tiếng nhao nhao chỉ trích. Mọi người bàn luận, trách cứ thầy, phảng phất đó không phải là người thầy họ sùng bái vài phút trước đó mà là một tên tội phạm.

Chỉ có Liễu Địch không lên tiếng. Trên thực tế, cô im lặng từ đầu đến cuối, không ra câu hỏi với thầy, cũng không lên tiếng phê bình thầy.

Về phần thầy Chương, đối diện sự công kích của đám học sinh, thầy vẫn trầm mặc, tựa hồ những lời trách cứ ở bên dưới không liên quan đến thầy.

Liễu Địch ngước nhìn gương mặt vô cảm của thầy bằng ánh mắt nghi hoặc, cô muốn tìm ra nguyên nhân của sự trầm mặc đó. Đầu óc cô vụt qua một ý nghĩ. Liễu Địch giật mình bởi ý nghĩ này, cuốn sách ngữ văn trong tay cô rơi bộp xuống đất. Cô so vai, phảng phất nỗ lực gạt bỏ ý nghĩ đó, nhưng nó ngày càng trở nên rõ ràng trong đầu óc cô. Thầy không mang giáo án, thầy dò dẫm đi từng bước lên bục giảng, thầy luôn gọi "thuộc lòng" là "đọc", thầy đeo cặp kính đen...

Trời ạ! Liễu Địch đột nhiên cảm thấy ý nghĩ này vừa chân thực vừa đáng sợ. Đầu óc cô ù ù, cô ra sức lắc đầu, tựa hồ chỉ làm vậy mới có thể gạt bỏ suy nghĩ điên rồ đó. Cuối cùng, cô lại ngước nhìn gương mặt thầy. Thầy dường như không phải đối diện với vô số gương mặt sống sờ sờ mà đối diện với sa mạc mênh mông, thậm chí là đêm tối vô bờ bến.

Tiếng ồn ào trong lớp học dần tan biến. Các bạn học nhanh chóng phát hiện, bất kể họ chỉ trích thế nào, cũng không thể chọc giận người thầy đang đứng trên bục giảng. Đến khi phòng học không còn một tiếng động, thầy Chương mới từ tốn mở miệng:

"Các em, tôi không nói sai, tôi đúng là đang "đọc". Bởi vì, tôi chỉ có thể "đọc" những cuốn sách đã in sâu trong đầu óc tôi."

Cả lớp ngẩn ngơ. Liễu Địch là người đầu tiên có phản ứng. Trong đầu cô vang lên một câu nói, thầy "đọc" bằng ngữ điệu đau đớn: "Hai mắt ông đã bị mù. Đúng vậy, Ái Đức Hoa tiên sinh đã hoàn toàn trở thành người mù..."

Liễu Địch không thể kiềm chế tiếng kêu khe khẽ: "Trời ơi!"

"Thực ra..." Thầy Chương nói tiếp: "Môn văn ở cấp ba không cần thiết phải đọc mẫu. Cứ đọc ra rả theo sách, đến bản thân tôi cũng cảm thấy tẻ nhạt vô vị. Ngữ văn là bồi dưỡng học sinh có cảm giác với ngôn ngữ và văn tự. Nến biến nó trở thành tiết mổ xẻ nội dung và giáo dục tư tưởng, chi bằng ở bên dưới lén lút xem tiểu thuyết còn hơn. Vì vậy từ nay về sau, tôi sẽ không đọc mẫu. Có điều..."

Ngữ khí của thầy trở nên nặng nề: "Hôm nay, tôi phải đọc mẫu, tôi buộc phải làm vậy, dù có thể bị các em hiểu nhầm là kẻ ngông cuồng. Hy vọng các em hiểu lời tôi nói." Ngừng một lát, thầy bổ sung thêm một câu: "Đúng rồi, từ nay về sau, trong tiết ngữ văn của tôi, các em có thể tự động đứng lên phát biểu, không cần giơ tay."

Không cần giải thích thêm điều gì, người ngu xuẩn nhất cũng hiểu ra hàm ý của câu cuối cùng. Nếu là hoàn cảnh bình thường, câu nói đó chắc chắn sẽ nhận được tràng vỗ tay nhiệt liệt. Nhưng bây giờ, các bạn học cúi đầu hổ thẹn, không dám nhìn gương mặt nhợt nhạt của thầy Chương. Liễu Địch chống tay lên trán, một nỗi đau đớn cô chưa từng trải nghiệm dội lên trong lòng. Cô không cảm thấy hổ thẹn, mà ngược lại cô chỉ muốn khóc.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chương 3​

Chuông hết tiết học vang lên, nhưng không một ai rời khỏi vị trí.

Thầy Chương lại chậm rãi, dò dẫm bước xuống bục giảng. Không biết một cây lau nhà từ đâu ra chắn ngang trước mặt thầy. Thầy Chương không tránh khỏi giẫm lên cây lau nhà.

"Cẩn thận!" Vài học sinh vội lao lên đỡ thầy, trước khi thầy ngã xuống đất.

Nào ngờ vào giây phút đó, thân hình thầy Chương run lên bần bật. Thầy hất tay đám học sinh, giống như gạt bỏ con rắn độc bám trên người.

"Đi đi! Tôi không cần sự giúp đỡ!" Thầy Chương gằn giọng.

Sự việc xảy ra nhanh chóng và đột ngột. Đám học sinh có lòng tốt ngây người đứng ở đó, nhất thời không rõ chuyện gì đang diễn ra. Chỉ trong giây lát, từ đáy lòng dâng lên cảm giác bị tổn thương, mọi người nghi hoặc nhìn nhau rồi lại quan sát gương mặt lạnh lẽo của thầy Chương. Cuối cùng, ai nấy về chỗ ngồi của mình, sự hổ thẹn biến mất, ý nghĩ báo thù lại hồi sinh. Bọn họ âm thầm chờ mong thầy Chương té ngã, cũng như mong đợi thầy bị mất mặt ở trong giờ học.

Chỉ có Liễu Địch lặng lẽ đi theo thầy Chương ra khỏi phòng học.

Đến đầu cầu thang, một cậu học sinh không biết từ góc nào lao tới, xô vào người thầy Chương. Liễu Địch chạy vội đến đỡ thầy. Lần này, Liễu Địch nắm tay thầy rất chặt, thầy Chương không hất tay cô.

"Cám ơn em. Nhưng mời em đi cho." Thanh âm của thầy Chương vẫn lạnh lùng, ngữ khí ngược lại khá lịch sự. Có lẽ thầy không ngờ, người đang đỡ thầy là học sinh vừa bị thầy trách mắng.

"Để em đưa thầy về văn phòng." Liễu Địch không buông tay.

"Không! Tôi không cần sự giúp đỡ." Giọng nói thầy đã trở nên nghiêm khắc, gần như mất kiên nhẫn. Vài học sinh từ trong phòng học thò đầu ra xem.

"Để em đưa thầy về văn phòng." Liễu Địch vẫn không buông tay.

"Tôi nghĩ tôi đã nói rõ ràng rồi." Thầy Chương miễn cưỡng kiềm chế cơn giận dữ, nhưng thầy vô ý thức cao giọng: "Nếu em còn chưa nghe rõ, tôi có thể lặp lại một lần, tôi không cần sự giúp đỡ. Bây giờ, em đã nghe rõ chưa?"

"Em nghe rõ rồi." Thanh âm của Liễu Địch rất bình tĩnh và kiên quyết: "Nhưng...xin thầy hãy cho phép em đưa thầy về văn phòng."

"Nếu tôi không cho phép thì sao?" Giọng nói thầy Chương khàn khàn, lông mày nhíu chặt, tựa hồ chuẩn bị nổi nóng.

"Nếu thầy không cho phép, em sẽ buông tay ngay lập tức." Liễu Địch không bị dọa bởi thái độ của thầy, cô cất giọng trầm tĩnh, thẳng thắn và trong trẻo: "Có điều, em sẽ đi theo thầy đến văn phòng. Trong khoảng thời gian đó, nếu thầy gặp phiền phức, em vẫn sẽ giúp thầy."

"Sự giúp đỡ tốt nhất của em đối với tôi là tránh xa tôi ra." Thanh âm của thầy Chương đã bốc hỏa: "Tôi không cần một người nào đóng vai thượng đế ở bên cạnh tôi."

"Em không phải là thượng đế, cũng chẳng muốn đóng vai gì." Giọng nói của Liễu Địch không nhanh không chậm, không cao không thấp, nhưng vang vọng khắp hành lang, truyền đến tai mỗi người: "Em chỉ là học sinh của thầy. Với tư cách một học trò, em không muốn nhìn thấy người thầy em tôn kính và ngưỡng mộ bị xô nghiêng xô ngả. Có lẽ thầy chịu đựng được điều này, nhưng em không thể, giống như em không thể chịu đựng một tư tưởng cao quý bị người đời bôi nhọ."

Thầy Chương đột nhiên trầm mặc.

Liễu Địch nhướng mắt, tựa hồ muốn nhìn ra điều gì đó từ gương mặt của thầy Chương. Đáng tiếc, thầy Chương vẫn giữ nguyên thần sắc vô cảm. Trên thực tế, gương mặt thầy từ đầu đến cuối không bộc lộ một sắc thái tình cảm nào, kể cả lúc thầy nổi giận.

Một lúc sau, thầy Chương lên tiếng: "Em là cô bé thích lo chuyện bao đồng."

Không ngờ thầy nói ra câu này, Liễu Địch mỉm cười: "Không phải em thích lo chuyện bao đồng, đưa thầy về văn phòng tuyệt đối không phải chuyện bao đồng."

Người thầy Chương hơi run run. Nếu không phải Liễu Địch đang đỡ tay thầy, cô sẽ không cảm nhận được sự chấn động của thầy.

"Em rất cố chấp." Sắc mặt thầy Chương vẫn vô cảm như thường lệ: "Đúng vậy, rất cố chấp, có thể nói cố chấp như tôi."

Liễu Địch lại cười: "Nếu được cố chấp như thầy, là vinh hạnh của em."

"Vậy...ngoài cố chấp ra, em có thể bảo đảm, em không phải là người nhiều lời?"

"Em xin dùng danh dự bảo đảm." Liễu Địch lên tiếng, ngữ khí rất chân thành, kiên quyết và rõ ràng: "Em bảo đảm sẽ không hỏi một câu thừa thãi, sẽ không nói một câu tán gẫu không liên quan, sẽ không cùng người khác bàn tán bất cứ vấn đề gì liên quan đến thầy."

Thầy Chương lặng lẽ thở dài: "Nếu em có thể giữ lời hứa, vậy thì...xin em..." Thầy mím môi: "hãy đưa tôi về văn phòng."

 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chương 4


Kể từ ngày hôm đó, tên của Liễu Địch dính liền với thầy Chương.

Cô bắt đầu phụ trách đưa thầy Chương lên lớp và về văn phòng, đưa thầy tới bến xe buýt đợi xe mỗi khi tan học. Sau khi trở thành đại diện khối văn, cô lại bắt đầu giúp thầy Chương phê bài tập làm văn vào mỗi buổi trưa. Sau khi thi giữa kỳ và cuối kỳ, cô còn tranh thủ thời gian rảnh rỗi thay thầy Chương viết những lời phân tích và nhận xét khách quan trên mỗi bài thi môn ngữ văn. Cô trở thành người bận rộn nhất khối, người ra vào văn phòng của thầy Chương nhiều nhất.

Tuy nhiên, chỉ dựa vào những điều này, Liễu Địch vẫn chưa thể bước vào thế giới của thầy Chương. Thầy Chương không phải là người dễ tiếp cận. Ngược lại, thầy tránh xa tất cả mọi người, làm gì cũng lặng lẽ một mình. Về điểm này, chỉ cần gặp thầy một lần, người ngu ngốc cỡ nào cũng đều nhận ra. Thầy suốt ngày mặc bộ đồ trắng đen đơn điệu, sống lưng luôn thẳng tắp, mãi mãi là gương mặt vô cảm, mãi mãi hốc mắt trống không. Tất cả những điều này tạo thành hình ảnh lạnh lùng vô tình vô cảm không thay đổi. Vì vậy, dù có người muốn tiếp cận thầy và giúp đỡ thầy, cũng đều bị vẻ lạnh nhạt của thầy đánh bại.

Trong trường có một hai người tốt bụng, xuất phát từ sự đồng tình và thương hại, từng thử tìm cách giúp thầy Chương. Thầy đã từ chối bằng thái độ lịch sự nhưng vô cùng lạnh lẽo, xóa bỏ hoàn toàn ý định giúp đỡ của bọn họ. Một thời gian sau, mọi người đều biết, "giúp đỡ" vĩnh viễn là từ cấm kỵ trong từ điển của thầy Chương. Do đó, không người nào dám nhắc đến trước mặt thầy, bao gồm cả Liễu Địch.

Có lẽ chỉ ở trên bục giảng, mọi người mới cảm nhận được, thầy Chương vẫn còn một chút sức sống và hứng thú. Thầy Chương trên bục giảng mang đến cảm giác "tài hoa xuất chúng". Thầy quả nhiên không "đọc mẫu" bài văn thêm một lần, nhưng cũng không còn người nào dám nghi ngờ khả năng thuộc lòng các tác phẩm nổi tiếng cổ kim trong và ngoài nước của thầy.

Thầy luôn có cách nhìn độc đáo về các tác phẩm. Bài giảng của thầy vô cùng hấp dẫn. Những phân tích sâu sắc và cách trình bày vấn đề thấu đáo của thầy kích thích đám học sinh ở bên dưới thảo luận từ lớp học đến sân chơi, từ trong trường học ra đến ngoài đường, từ hôm nay đến ngày mai.

Dần dần, thần sắc lạnh nhạt của thầy Chương cũng biến đổi ít nhiều. Tuy rằng lúc các học sinh cười ầm ầm, thầy vẫn điềm nhiên như không, nhưng vẻ mặt thầy đã trở nên ôn hòa hơn. Thỉnh thoảng, thầy biểu lộ sự tán thưởng và vui mừng. Điều này khiến cả lớp cảm thấy thầy thêm phần gần gũi.

Một điều đáng quý là, thầy không bao giờ gò ép hay hạn chế tư tưởng của học sinh, mà thường để những người "không cùng chính kiến" mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình.

Một lần, hiệu trưởng Cao và một thầy giáo khác trong tổ bộ môn văn tên Doãn Hồng dự tiết dạy của thầy Chương. Cả lớp tranh luận về văn phong của Lỗ Tấn rất hăng say. Đặc biệt, ngôn từ của "bên phản đối" tương đối kịch liệt, đến mức nhà văn Lỗ Tấn mà nghe được, chắc sẽ đội mồ chui lên để tranh luận cùng bọn họ.

Thầy Chương nghiêm túc lắng nghe ý kiến của hai bên, sau đó thầy đưa ra quan điểm của mình: "Có lẽ, Lỗ Tấn tiên sinh cũng không thích văn phong khô khan như vậy, nhưng ông buộc phải sử dụng nó. Bởi lối hành văn này là do thời đại ép buộc. Nếu Lỗ Tấn không có tinh thần trách nhiệm với thời đại và dân tộc, cứ sống nhàn nhã thoải mái như Hồ Thích hay Lâm Ngữ Đường, có lẽ văn phong của ông không đến nỗi lạnh lùng nghiêm túc như các em nhận xét. Nhưng ông làm vậy, trên văn đàn sẽ thiếu đi một người chiến sỹ dùng ngòi bút thay giáo gươm. Xin hỏi, ở thời đại nhiễu nhương đó, chúng ta cần một dũng sỹ đối mặt trực tiếp với nhân sinh thê lương, hay là cần văn nhân phong hoa tuyết nguyệt?".

Thầy Chương vừa dứt lời, hiệu trưởng Cao đập bàn khen hay, đám học sinh cũng cảm thấy nhận thức của mình trở nên sâu sắc hơn. Sau tiết học, thầy Doãn chỉ trích thầy Chương "thả lỏng học sinh" ngay trước mặt hiệu trưởng và cả lớp. Thầy Chương chỉ lãnh đạm nói một câu: "Tôi cho rằng, hạn chế tư tưởng là hành vi bóp chết tài năng." Câu nói của thầy Chương nhận được tràng vỗ tay hưởng ứng nhiệt liệt, khiến thầy Doãn đỏ mặt tức giận.

Sau sự kiện đó, thầy Doãn ra sức gièm pha bôi nhọ quan điểm của thầy Chương ở mọi nơi mọi lúc. Nhưng không thể phủ nhận một sự thật, ở mỗi kỳ thi, dù ông ta có bày trò với bài thi như thế nào, thành tích trung bình của lớp (1) bao giờ cũng cao hơn lớp (2) một hai điểm. Mọi người đều đánh giá, học sinh lớp (1) rất có năng lực, các em đều có cảm giác rất tốt về ngôn từ.

Sau khi hồi chuông hết tiết học vang lên, mọi vẻ ôn hòa, tán thưởng, vui vẻ trên gương mặt thầy Chương biến mất sạch sẽ như có phép ma thuật. Các bạn học không thể chấp nhận sự thay đổi bất thình lình đó, giống như không thể chấp nhận chuyện đang ở trên thiên đường rơi một phát xuống nơi thiêu xác đầy khói lửa. Học sinh cấp ba tầm mười bảy, mười tám tuổi, không ai không sùng bái tri thức và học vấn. Nhưng bọn họ càng hy vọng thầy giáo của mình có tình người hơn. Về phần thầy Chương, khi thầy nhắm mắt giảng bài, tình người rất đậm đặc. Khi thầy mở mắt, tình người bay đi một nửa. Đến khi thầy rời bục giảng, tình người biến mất hoàn toàn. Hơn nữa, hành vi cự tuyệt sự giúp đỡ ở ngày đầu tiên của thầy đã khiến lòng tự trọng của đám học sinh bị tổn thương. Vì vậy, bọn họ không có cách nào thích người thầy không có tình người như vậy. Các bạn học chỉ hoan nghênh thầy Chương trong giờ giảng bài. Còn sau khi tan học, bọn họ đối với thầy luôn "kính nhi viễn chi".

Về phía các đồng nghiệp, thầy Chương càng không tránh khỏi bị đối xử lạnh nhạt. Đồng nghiệp vốn là oan gia, tài hoa của thầy Chương đủ khiến thầy trở thành "oan gia" của tất cả thầy cô giáo thuộc bộ môn văn. Hơn nữa, các phần tử tri thức làm sao có thể chịu nổi thái độ "tự cho mình là thanh cao", chẳng bận tâm đến người khác của một người mù?

Do đó, các thầy cô giáo khác cũng trở thành "oan gia" của thầy Chương. Nhưng thầy Chương dường như không để ý xem thầy có bao nhiêu "oan gia", bởi vì thầy không qua lại với bất cứ người nào. Việc thầy một mình một văn phòng là minh chứng rõ rệt nhất. Bất kể các "oan gia" bàn ra tán vào như thế nào, thầy Chương cũng không hề có phản ứng. Cuối cùng, bọn họ coi thầy như không tồn tại.

Một thầy giáo luôn tránh xa tất cả mọi người lại cho phép Liễu Địch tiến lại gần, ai nấy đều mắt tròn mắt dẹt kinh ngạc. Bàn đến nguyên nhân trong lúc tán gẫu, mọi người đều kết luận: "Có lẽ do Liễu Địch chăm sóc anh ta quá chu đáo."

Liễu Địch đích thực chăm sóc thầy Chương tỉ mỉ chu đáo vô cùng. Ngày thứ ba sau khi nhập học, cô phát hiện bình nước giữ nhiệt trong văn phòng thầy Chương thường trống không. Thế là sáng sớm hôm sau, cô bắt đầu đi lấy nước nóng cho thầy Chương. Hai ngày đầu, bình nước vẫn còn nguyên. Đến ngày thứ ba, Liễu Địch phát hiện một gói trà ướp hoa bên cạnh bình nước. Cô mở nắp, nước trong bình đã cạn sạch. Dần dần, Liễu Địch nhận ra thầy Chương nghiện trà không khác người nghiện thuốc lá. Thế là sau khi đi lấy nước nóng, cô lại chủ động pha một cốc trà cho thầy Chương. Tất cả những việc làm này, Liễu Địch không nhắc một từ, thầy Chương cũng không bao giờ hỏi đến.

Đến kỳ dọn dẹp vệ sinh, Liễu Địch đều một mình tới văn phòng thầy Chương quét dọn. Nhà trường cử thêm người giúp đỡ nhưng đều bị cô từ chối. Bởi vì cô biết thầy Chương thích yên tĩnh. Cô nhẹ nhàng quét dọn phòng, lau bàn làm việc và cửa kính, cố gắng hết sức không để phát ra tiếng động.

Thầy Chương chỉ mím môi, chống tay lên đầu, ngồi trầm tư ở đó, không hỏi han Liễu Địch một câu. Trầm tư là sắc thái duy nhất trên gương mặt thầy. Liễu Địch biết, một khi rơi vào trạng thái trầm tư, thầy Chương sẽ ngồi bất động mấy tiếng đồng hồ ở đó, không người nào có thể cắt đứt mạch suy nghĩ của thầy. Vì vậy, sau khi kết thúc công việc, Liễu Địch đều âm thầm rời khỏi văn phòng.

Một tháng sau, thầy Chương đột nhiên nói với Liễu Địch: "Xin em hãy đến phòng tài vụ, lĩnh lương giúp tôi." Không hiểu tại sao, khi thầy Chương nói đến từ "giúp", Liễu Địch xúc động muốn khóc.

Xem bảng tiền lương, Liễu Địch mới biết, thầy Chương chỉ là giáo viên dạy thay. Nói trắng ra là người dạy hợp đồng, không phải nhân viên chính thức. Trong lòng cô nổi lên một sự phẫn nộ bất bình, tựa hồ việc này không phải sỉ nhục thầy Chương, mà là sỉ nhục bản thân cô. Nhưng cô có thể làm gì? Một trường điểm chịu để người mù đến dạy học, vốn đã là một việc khoan dung. Liễu Địch chỉ còn cách giao lại khoản tiền lương ít ỏi cho thầy Chương. Thầy Chương nhận tiền rồi lập tức bỏ vào túi áo. Kể từ lần đó, mỗi tháng không đợi thầy Chương nhắc nhở, Liễu Địch sẽ chủ động lĩnh lương giúp thầy.

Không chỉ chuyện lĩnh lương, Liễu Địch còn thay thầy Chương tham gia các cuộc họp giáo viên. Sau đó, cô truyền đạt lại nội dung cuộc họp với thầy. Có lúc, Liễu Địch mang về một số bản khai. Thầy Chương đọc, Liễu Địch điền vào. Trong ô "học lực", thầy Chương toàn bảo cô điền từ "tốt nghiệp phổ thông trung học".

Liễu Địch không tin một người học rộng hiểu nhiều, tài hoa xuất chúng như thầy Chương mới chỉ học hết cấp ba. Cô còn nhớ, vào học kỳ hai năm lớp 10, một đoàn đại biểu Pháp đến thăm trường, đúng lúc người phiên dịch gặp việc đột xuất không thể có mặt. Thầy Chương đã dùng tiếng Pháp lưu loát hoàn thành xuất sắc công việc phiên dịch, nhận được sự tán thưởng từ đoàn khách người Pháp. Lẽ nào, tiếng Pháp của thầy cũng học ở thời cấp ba? Liễu Địch vô cùng hiếu kỳ, nhưng nhớ đến lời cam kết, cô đành nghiến răng, nuốt hết nghi vấn vào bụng.

Khi mùa đông đến, virus cảm cúm tấn công thầy Chương. Thế là Liễu Địch mang đến một hộp thuốc cảm cho thầy. "Một ngày ba lần, mỗi lần hai viên". Liễu Địch không bao giờ nhắc đến từ "cho" hay "tặng".

Thầy Chương nhận hộp thuốc, lặng lẽ lấy ra hai viên bỏ vào miệng. Một ngày, thầy Chương ho khù khụ, thậm chí không thể lên lớp giảng bài. Buổi trưa, Liễu Địch lấy một gói thuốc bột chữa ho pha vào cốc trà của thầy Chương. Lúc phê bài tập làm văn, thầy Chương phát hiện "nước trà" không đúng vị. Thế là thầy không thưởng thức từng ngụm nhỏ như thường lệ, mà uống một hơi hết sạch. Nhìn thầy không do dự uống hết cốc "trà", Liễu Địch quên cả việc đọc bài văn. Một sự cảm động khó diễn tả thành lời dội vào lòng, khiến viền mắt cô ngân ngấn nước. Cô đột nhiên nhận ra một sự thật: thầy Chương tin tưởng cô, chỉ tin tưởng một mình cô.

Cứ thế, Liễu Địch trở thành người duy nhất thầy Chương tín nhiệm ở trong trường. Thầy chỉ nhận sự giúp đỡ của một mình Liễu Địch. Phàm là những việc ngoài khả năng, thầy sẽ không bảo cô làm. Thầy không phản đối, cũng không kiêng dè người khác đặt tên của Liễu Địch bên cạnh tên thầy. Thậm chí, cô trở thành cầu nối duy nhất giữa thầy và thế giới bên ngoài. . Những người khác muốn tìm thầy Chương cũng phải thông qua Liễu Địch.

Nhiều lúc Liễu Địch tự hỏi: "Tại sao thầy Chương lại tin tưởng mình như vậy?" Cô biết, không phải cô chăm sóc thầy chu đáo, bởi vì đối với người khác, thầy không cho họ cơ hội chăm sóc thầy. Có lẽ bởi vì cô luôn giữ lời hứa ban đầu với thầy. Đúng là như vậy, dù trong lòng có vô số nghi hoặc, cô cũng không bao giờ hỏi một câu liên quan đến vấn đề riêng tư của thầy, càng không nói chuyện với người khác về thầy. Mỗi khi người khác muốn thăm dò tình hình của thầy Chương, Liễu Địch luôn dùng nụ cười để ứng phó.

Thật ra, Liễu Địch đúng là chẳng có gì để nói. Mặc dù cô thường xuyên tiếp xúc với thầy Chương, nhưng ngoài những câu cần thiết, thầy không nói một lời thừa. Liễu Địch chưa gặp người giáo viên nào "một chữ đáng ngàn vàng" như thầy Chương. Trong công việc, có thể dùng một từ biểu đạt rõ vấn đề, thầy tuyệt đối không nói từ thứ hai. Về hoàn cảnh của thầy, Liễu Địch cũng không biết nhiều hơn người khác. Bởi vì cô không thích chủ động tìm hiểu vấn đề riêng tư của người khác. Cô biết, xé toạc vết thương trong tâm linh một người là việc làm tàn nhẫn. Có lẽ thầy Chương cũng vì muốn bảo vệ bản thân nên mới biến mình thành một tảng băng đầy góc cạnh. Liễu Địch có thể tiến lại gần tảng băng, nhưng cô sẽ không đụng vào, càng không tìm cách xâm nhập hay làm tan chảy tảng băng đó.

Khi mùa xuân đến, Liễu Địch đặt một chậu hoa nhài nho nhỏ lên bệ cửa sổ văn phòng thầy Chương. Ai ngờ đến mùa hè, hoa nhài trong chậu trưởng thành với tốc độ đáng ngạc nhiên, nở rộ những cánh hoa trắng muốt. Thế là cốc trà của thầy Chương bắt đầu tỏa hương hoa nhài dìu dịu. Mỗi lần nhìn thấy thầy Chương trầm ngâm suy nghĩ trong căn phòng đầy hương thơm thanh nhã, Liễu Địch đều cảm thấy, dưới vỏ bọc lạnh lùng vô tình của thầy, nhất định chứa đựng nhiều tình cảm mà thầy không bộc lộ cho ai biết.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chương 5​


Đúng vậy, thầy Chương là người có tình cảm nhưng không để lộ ra ngoài. Điều này, Liễu Địch đã được lĩnh hội sâu sắc trong quá trình đưa thầy ra bến xe buýt và cùng thầy đợi xe mỗi ngày.

Tiễn thầy Chương ra bến xe là việc làm thanh thản dễ chịu nhất của Liễu Địch trong một ngày. Khi chuông báo hiệu tan học vang lên, Liễu Địch nhanh chóng thu dọn sách vở vào cặp sách. Cô là người đầu tiên lao ra khỏi phòng học, chạy một mạch đến văn phòng của thầy Chương.

Mỗi lần đi văn phòng thầy Chương, Liễu Địch đều chạy như bay, bản thân cô cũng không hiểu tại sao cô phải vội vàng như vậy. Sau đó, cô nhẹ nhàng gõ cửa mà không vào bên trong. Đợi một lát, thầy Chương cầm cặp da màu đen đi ra ngoài. Liễu Địch dắt tay thầy Chương, hai thầy trò cùng rời khỏi trường học, đi về phía trạm xe buýt số hai.

Đoạn đường từ trường học tới trạm xem buýt rất ngắn, chỉ khoảng một trăm mét. Nhưng Liễu Địch cảm thấy con đường dài một trăm mét này tràn ngập không khí ấm áp và dễ chịu khó diễn tả thành lời.

Ánh hoàng hôn kéo dài hình bóng của hai thầy trò. Cơn gió mát rượi, thỉnh thoảng còn mang theo mùi thơm của thức ăn, khiến người khác thèm nhỏ dãi. Từng tốp học sinh đeo cặp sách đi ngang qua hai thầy trò, cười nói vui vẻ. Tan học là thời khắc vui vẻ nhất của mọi học sinh. Lặng lẽ nghe tiếng bước chân đều đặn trên vỉa hè, Liễu Địch cảm thấy vô cùng thư thái. Bao mệt nhọc của một ngày tan biến hoàn toàn trên đoạn đường.

Trạm xe buýt công cộng số hai là bến xe nhỏ như không thể nhỏ hơn. Ở đây không có mái che, cũng không có ghế ngồi, chỉ có một tấm biển báo bằng sắt cô độc đứng trên vỉa hè. Bên cạnh biển báo là cây dương liễu rất lớn, cành lá mềm mại rủ xuống mặt đất. Vào mùa xuân, trên cành cây mọc đầy nha bào nhỏ, non đến mức có thể nhỏ ra giọt nước, từ xa xa chỉ thấy một màu xanh lục dịu dàng. Cách biển báo không xa là một bồn hoa nhỏ, Liễu Địch thường đỡ thầy Chương ngồi ở bậc xi măng của bồn hoa nghỉ ngơi. Bên trong bồn hoa trồng mấy khóm đinh hương. Khi nha bào của cây dương liễu nhú lên những chiếc lá màu xanh lục, đinh hương cũng sẽ nở từng đóa hoa màu tím. Chúng như vô số ngôi sao nhỏ màu tím đan xen giữa những phiến lá hình trái tim.

Liễu Địch luôn tin vào truyền thuyết đẹp đẽ về cây đinh hương. Do đó, cô thành kính tìm kiếm bông hoa đinh hương năm cánh. Nếu tìm được, cô lén lút bỏ vào cặp da của thầy Chương, hy vọng nó có thể mang đến hạnh phúc cho thầy. Còn thầy Chương thường ngồi im lặng ở đó, bứt một ngọn cỏ đưa lên mũi, ngửi mùi hương pha trộn mùi bùn đất của lá cỏ, dần đần chìm vào trạng thái trầm tư.

Mùa hè là mùa mưa. Mỗi sáng sớm, Liễu Địch đều quan tâm đến bản tin dự báo thời tiết. Nếu dự báo có mưa, cô sẽ mang theo hai áo mưa. Một điều trùng hợp là, thầy Chương cũng thường cầm theo hai cái ô. Mỗi lúc như vậy, hai thầy trò mỗi người mặc một áo mưa và cầm ô đi ra bến xe.

Nếu đụng phải mưa bão, thầy Chương và Liễu Địch tới mái hiên ở gần đó trú mưa. Liễu Địch sợ nhất sấm sét. Một lần, tiếng sấm kinh thiên động địa đột nhiên vang lên bên tai cô, cô kinh hãi kêu lên một tiếng, vùi đầu vào lòng thầy Chương, ôm chặt thắt lưng thầy, tựa hồ thầy Chương trở thành thần hộ vệ của cô.

Người thầy Chương run run, nhưng thầy không né tránh, cũng không giơ tay ôm Liễu Địch. Thầy chỉ nói một câu bâng quơ: "Đừng sợ, Liễu Địch. Đây là ông trời đang gầm gừ mà thôi. Thế gian này có quá nhiều chuyện bất bình, ông trời thỉnh thoảng cũng không vừa mắt."

Thanh âm của thầy lãnh đạm và bình tĩnh như thường lệ, nhưng trong đó ẩn chứa một sức mạnh có tác dụng an ủi rất lớn. Liễu Địch ngẩng đầu, lúc này cô mới ý thức cô đang ôm chặt thầy Chương. Cô đỏ bừng mặt, lập tức buông tay. Liễu Địch muốn lên tiếng giải thích, nhưng thầy Chương lắc đầu, tựa hồ "nhìn" thấy rõ sự quẫn bách và bối rối của Liễu Địch. Liễu Địch hoảng hốt nhìn thầy Chương. Gương mặt thầy không có bất cứ biểu hiện nào, dường như không bị tiếng sấm, hay bất cứ nhân tố nào khác nhiễu loạn.

Đến mùa thu, cây dương liễu cao lớn bắt đầu rụng lá, đinh hương cũng úa tàn. Đầu tiên, những phiến lá mỏng rơi xuống lối đi, phủ đầy nền xi măng. Bước chân con người giẫm trên lá rụng phát tiếng động loạt xoạt. Thầy Chương thường dừng bước, chăm chú lắng nghe bản nhạc lá rụng ở dưới chân. Ánh hoàng hôn nhuộm một màu vàng óng lên tóc thầy, cùng với lá vàng ở dưới mặt đất, tạo thành hình ảnh bi tráng đầy ấn tượng.

Một lần, thầy Chương nhặt một phiến lá dưới đất, nhẹ nhàng đưa lên mũi ngửi. Một bé gái tầm sáu, bảy tuổi chạy tới, hiếu kỳ hỏi thầy: "Chú ơi, lá rụng có thơm không ạ?".

Liễu Địch chưa từng chứng kiến thầy Chương ôn hòa như vậy. Thầy ngồi xổm xuống, lần tay đặt lên hai vai bé gái, đồng thời cất giọng dịu dàng: "Lá không thơm. Nhưng mỗi phiến lá rụng đều có mùi của mặt trời."

Trong lòng Liễu Địch đột nhiên rất cảm động. Cổ họng cô tắc nghẹn, viền mắt ươn ướt. Không biết bao lâu sau, cô sờ lên khóe mắt, mới phát hiện nơi đó có giọt lệ.

Mùa đông, gió lạnh từ phương Bắc thổi tới, khiến cả thành phố chìm trong giá rét. Cây dương liễu bị đông cứng, khóm đinh hương bị đông cứng, đến biển sắt của trạm xe buýt cũng bị đông cứng. Liễu Địch chỉ còn cách không ngừng xoa hai tay và giậm chân để lấy hơi ấm. Thầy Chương chỉ mặc một áo khoác màu đen, nhưng thường vô tình hữu ý đứng trước Liễu Địch, để che chắn gió lạnh cho cô.

Hai thầy trò thích nhất vẫn là những ngày tuyết rơi, mặc dù lúc đó người đợi xe buýt rất đông, xe buýt chen chúc chật chội. Hoa tuyết trắng rơi xuống nhân gian, che đi mọi thứ xấu xí khó coi, khiến thế giới trở nên thuần khiết và đẹp đẽ. Liễu Địch thích ngắm cảnh hoa tuyết bay bay dưới ngọn đèn đường, trông giống những con đom đóm của mùa hè. Còn thầy Chương đứng bất động ở đó, để mặc hoa tuyết rơi đầy trên áo khoác đen của thầy, tạo thành một mảng trắng xóa. Thỉnh thoảng, thầy tháo găng tay, thò cả hai tay vào lớp tuyết dày, một lúc lâu mới rút ra, ngón tay của thầy đông cứng đến đỏ ửng.

Đúng vậy, từ trường đi đến trạm xe buýt là khoảnh khắc đẹp đẽ, đợi xe buýt ở bến xe cũng là khoảnh khắc đẹp đẽ đáng nhớ. Mặc dù trong khoảng thời gian đó, hai thầy trò hầu như không nói chuyện, nhưng họ đều cảm thấy một sự ấm áp không thể nói thành lời. Chỉ có những lúc như vậy, thầy Chương mới vô ý để lộ tình cảm mà thầy cố ý che giấu bấy lâu. Mỗi khi thầy bộc lộ tình cảm, Liễu Địch đều cảm thấy, trái tim của cô xích lại gần thầy Chương thêm một chút.

Tuy nhiên, xe buýt trước sau gì cũng đến. Mỗi khi xe số hai đến nơi, thầy Chương bao giờ cũng phát hiện trước Liễu Địch. Thầy có thể nghe ra âm thanh của các loại ô tô, không bao giờ nhầm lẫn. Liễu Địch đành đỡ thầy lên xe. Sau khi cánh cửa xe buýt khép lại, mang theo tâm tình dễ chịu và thanh thản, để lại sự trống rỗng khiến Liễu Địch thẫn thờ hồi lâu.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chương 6​







Lại là một buổi trưa nóng bức.

Liễu Địch ngồi đối diện với thầy Chương, trong tay cô là một quyển bài tập làm văn chưa mở ra. Đây là quyển vở duy nhất chưa đọc và nhận xét.

Liễu Địch ngập ngừng do dự, trong đầu cô lặp đi lặp lại câu nói : "Về đề tài "Thầy giáo của tôi", chắc các em đã viết chán rồi. Nhưng học sinh tiểu học và học sinh cấp ba viết văn không thể cùng một đẳng cấp. Tôi hy vọng mọi người viết những điều mới mẻ, thể hiện trình độ học sinh cấp ba. Tôi chỉ đưa ra một yêu cầu: trong bài văn này, các em không được viết về tôi. Nếu vi phạm quy định, xin lỗi, tôi chỉ có thể cho 0 điểm."

Đây là câu nói của thầy Chương khi ra đề tài. Câu nói này quanh quẩn trong đầu óc Liễu Địch suốt một tuần liền. Cả buổi trưa hôm nay, trong đầu cô toàn vang vọng câu nói của thầy.

Từ trước đến giờ, thầy Chương luôn nói một là một, hai là hai. Vì vậy, trong tất cả các bài văn cô vừa đọc, không một bạn nào dám "phạm quy". Lòng bàn tay Liễu Địch rịn đầy mồ hôi. Cô không có dũng khí mở quyển vở đang cầm trên tay.

"Liễu Địch!" Thầy Chương lên tiếng nhắc nhở: "Nếu tôi nhớ không nhầm, trưa hôm nay em mới chỉ đọc chín bài văn?"

Cả lớp có 50 học sinh, mỗi ngày cô cần đọc mười bài văn để thầy Chương nhận xét chấm điểm. Đây là luật bất thành văn giữa Liễu Địch và thầy Chương. Cô đưa mắt liếc thầy Chương. Gương mặt thầy vẫn nghiêm túc, lạnh lùng, có một uy lực không thể kháng cự và tôn nghiêm không dễ xâm phạm. Haizz...chuyện gì đến cũng sẽ đến, ai bảo cô...Liễu Địch cắn môi, hít một hơi sâu rồi mở quyển bài tập.

"Câu chuyện về một người thầy." Cuối cùng, Liễu Địch cũng đọc ra miệng: "Thầy Chương Ngọc là thầy giáo ngữ văn thời cấp ba của tôi..."

Thầy Chương sửng sốt, sống lưng thầy bất giác cứng đờ. Đôi lông mày của thầy bắt đầu nhíu chặt, cơ thịt trên khuôn mặt căng cứng: "Đừng đọc nữa, không điểm!" Thầy cất giọng nghiêm nghị và đanh thép.

Liễu Địch ngừng một hai giây, nhưng cô vẫn đọc tiếp: "Thầy dạy tôi tròn hai năm..."

"Không điểm!" Thầy Chương lặp lại một lần, thanh âm của thầy lạnh lẽo đến cực điểm. Thầy mím chặt môi, lồng ngực phập phồng, tựa hồ thầy đang cố gắng đè nén cơn giận dữ trong lòng.

Liễu Địch vẫn đọc đều đều: "Lúc mới nhập học, tôi không ngờ thầy là một người khiếm thị..."

"Được rồi, em đừng đọc nữa!" Thầy Chương đứng bật dậy như bị điện giật. Sắc mặt thầy tái mét, lồng ngực phập phồng kịch liệt, mũi thầy thở phì phò như dã thú: "Không điểm! Không điểm! Không điểm!" Thầy liên tiếp phun ra ba từ "không điểm", thanh âm mỗi lúc một cao, mỗi từ như quả đạn pháo bắn về phía Liễu Địch không một chút lưu tình.

Liễu Địch bắt đầu sợ hãi. Cô không ngờ thầy Chương tức giận. Bởi vì cô chưa từng bắt gặp thầy Chương nổi nóng, hơn nữa còn giận dữ như vậy. Trong ký ức của cô, thầy Chương chưa bao giờ cất cao giọng nói, thầy luôn mang lại cảm giác lạnh lùng như núi băng ngàn năm không tan. Ai có thể ngờ, núi băng này cũng có lúc phun trào ngọn lửa? Liễu Địch cảm thấy trái tim cô sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. Cô đấu tranh tư tưởng vài giây, cuối cùng vẫn đọc tiếp: "Tôi càng không ngờ, thầy mang đến cho tôi chấn động và ảnh hưởng to lớn vô cùng. Thầy đã để lại dấu ấn vĩnh viễn không phai mờ trong lòng tôi..."

Đọc xong câu này, Liễu Địch mềm nhũn người, ngả về thành ghế phía sau. Cô không còn can đảm đọc tiếp. Chỉ một đoạn mở đầu đã tiêu hao hết dũng khí cô tích tụ suốt một tuần.

Thầy Chương đột nhiên ngẩn người, phảng phất có một cây gậy phép thuật khiến thầy hóa đá. Thầy bất động vài giây, nộ khí trên mặt từ từ biến mất. Sắc mặt thầy chuyển sang trắng bệch.

"Liễu Địch." Thầy lên tiếng, thanh âm khôi phục sự bình tĩnh thường lệ: "Đây là bài văn của em đúng không?"

"Vâng ạ." Liễu Địch nói nhỏ. Đây là lần đầu tiên, thầy Chương hỏi đến tác giả của bài văn.

"Vậy thì..." Thầy Chương từ từ ngồi xuống: "Em có thể đọc hết bài văn đó."

Trong lòng Liễu Địch đột nhiên dội lên một sự cảm động không nói thành lời. Cô lờ mờ hiểu ra, lúc đưa yêu cầu làm văn, thầy Chương cũng có nỗi khổ riêng. Vì vậy, vào thời khắc này, cô thật sự cảm nhận được, thầy Chương phải có dũng khí và nghị lực lớn đến mức nào mới đưa quyết định đó. Liễu Địch mở quyển tập làm văn, cô cố đè nén tâm trạng xúc động, từ tốn mở miệng.

Bài văn rất dài, Liễu Địch gần như thổ lộ mọi điều đè nén trong lòng cô suốt hai năm qua. Cô kể về tiết dạy đầu tiên của thầy Chương và lần đầu tiếp xúc với thầy sau tiết học. Cô viết, trong buổi chào cờ hát quốc ca, hơn một nghìn thầy trò toàn trường, chỉ có thầy Chương hát theo tiếng nhạc. Cô đề cập đến chuyện thầy Chương nhận xét bài văn, cũng viết cảm nhận của cô trong lúc tiễn thầy Chương ra trạm xe buýt đợi ô tô...

Thầy Chương lặng lẽ lắng nghe, thầy không nói một lời, gương mặt thâm trầm không có bất cứ biểu hiện nào. Cuối cùng, Liễu Địch cũng đọc đến đoạn kết của bài văn:

"Đây chính là thầy Chương. Thầy là một câu đố, một câu đố không lời giải đáp. Tuy tôi chưa bao giờ thử tìm cách đi giải câu đố này, nhưng trong lòng tôi vẫn xuất hiện nhiều nghi vấn..." Liễu Địch bỗng dừng lại, ngập ngừng nhìn thầy Chương mà không chịu đọc tiếp.

"Em cứ đọc đi, đừng sợ chạm đến vết thương trong lòng tôi." Thầy Chương lên tiếng.

Trái tim Liễu Địch rung lên một nhịp. Tuy đôi mắt mù lòa, nhưng thầy Chương có thể "nhìn" thấu tâm tư của cô. Điều này khiến cô kinh ngạc và chấn động. Cô cất giọng trong trẻo: "Mắt thầy tại sao bị mù? Thầy có người thân không? Tại sao thầy có kiến thức sâu rộng nhưng lại chỉ tốt nghiệp phổ thông trung học? Thầy gặp phải tai họa như thế nào mới khiến gương mặt thầy vĩnh viễn mất đi nụ cười...Tôi không tìm ra câu trả lời, cũng không rõ sự tò mò của tôi liệu có gây thương tổn cho thầy? Có lẽ cũng vì nguyên nhân này, thầy Chương mới tạo ra vỏ bọc lạnh lùng. Nhưng dù thế nào, tôi đều cho rằng tôi đã gặp được người thầy xuất sắc nhất. Mỗi lần tiếp xúc với thầy, tôi luôn phát hiện ra điều mới mẻ trên con người thầy, đó là những thứ thuộc phương diện tình cảm và tư tưởng. Những thứ đó luôn khiến tôi kinh ngạc. Thầy sở hữu những thứ mà người khác khó lòng đạt được, đó chính là tư tưởng vĩ đại và tinh thần cao thượng. Tôi chỉ có thể tổng kết con người thầy như sau: câu chuyện cuộc đời thầy trong quá khứ, lúc ẩn lúc hiện như đom đóm phía xa xa; tư tưởng của thầy sâu xa như núi cao rừng rậm; thế giới tình cảm của thầy như đại dương cuộn trào; tâm linh của thầy giống mỏ vàng dồi dào..."

Liễu Địch đặt quyển bài tập, thở một hơi dài nhẹ nhõm. Cô nhướng mắt nhìn thầy Chương, muốn tìm ra điều gì đó từ biểu hiện của thầy. Nhưng gương mặt thầy Chương vẫn vô cảm, như một tờ giấy trắng tinh.

Văn phòng vô cùng yên tĩnh, chỉ có chậu hoa nhài nhỏ lặng lẽ tỏa ra hương thơm dìu dịu khắp căn phòng.

Một lúc lâu sau, thầy Chương mới mở miệng: "Em thật sự không muốn giải câu đố này hay sao? Không, tôi biết em rất muốn. Em chỉ là giữ lời hứa của mình, không muốn động đến vết thương trong lòng tôi, nên em mới đè nén sự hiếu kỳ suốt hai năm. Đã hai năm trôi qua, thật làm khó cho em quá." Thầy Chương nhíu mày, bờ môi thầy bật ra tiếng thở dài rất khẽ: "Em muốn biết những chuyện liên quan đến tôi đúng không?" Thầy cất giọng nhẹ nhàng, như đang hỏi Liễu Địch, cũng giống hỏi bản thân.

"Được." Sau đó thầy hạ quyết tâm. Thầy gật đầu, thanh âm vừa lạnh nhạt vừa kiên quyết: "Tôi sẽ thỏa mãn nguyện vọng của em, kể cho em nghe câu chuyện cuộc đời tôi."

Liễu Địch giật mình, mở to hai mắt, hốt hoảng nhìn thầy Chương. Điều này quá bất ngờ, thật...không thể tin nổi.

"Thưa thầy..." Liễu Địch lắp bắp: "Thầy không cần kể. Nếu thầy cảm thấy..."

Thầy Chương xua tay, ra hiệu cô im lặng. Thầy cầm cốc trà, chậm rãi thưởng thức một ngụm, phảng phất hồi tưởng vị đắng chát của nước trà. Sau đó, thầy bắt đầu kể câu chuyện cuộc đời mình. Thanh âm của thầy rất bình thản, rất tự nhiên, như đang trần thuật sự việc không liên quan đến bản thân:

"Tôi không phải là người bản xứ, quê tôi ở Tô Châu. Bố tôi là thầy giáo mỹ thuật dạy ở trường phổ thông trung học. Bởi vì ông không thể thực hiện ước mơ trở thành họa sỹ, nên ông gửi gắm niềm hy vọng vào tôi. Có lẽ do gien di truyền từ bố nên từ nhỏ tôi đã rất nhạy cảm với màu sắc và ánh sáng, cũng luyện được một đôi mắt biết quan sát vạn vật. Tuy nhiên, tôi lại yêu thích văn học một cách điên cuồng. Nhờ có khả năng thiên phú về mỹ thuật, tôi rất giỏi quan sát và nắm bắt chi tiết của cuộc sống, có thể nhanh chóng đúc kết yếu tố tôi cần để tiến hành cấu tứ và sáng tác. Sự phát hiện những nét đẹp và sự nhiệt tình đối với cuộc sống của các nhà nghệ thuật đã đốt cháy ngọn lửa sáng tác của tôi. Chắc em cũng biết, điều này có ý nghĩa như thế nào với một người yêu thích văn học và sáng tác. Tôi chìm đắm trong văn học đến mức không thể thoát khỏi. Thế là, lúc thi đại học, tôi đã giấu bố tôi đăng ký khoa Trung văn của Bắc Đại, và được tuyển chọn với thành tích đứng đầu toàn tỉnh." (Bắc Đại tức Đại học Bắc Kinh, trường đại học hàng đầu của Trung Quốc)

Thầy Chương đột nhiên ngừng lại. Thầy cầm cốc trà nhưng không đưa lên miệng, trầm tư suy nghĩ một lát, thầy nói tiếp: "Liễu Địch, sau này thi đại học, em hãy đăng ký vào Bắc Đại. Nơi đó thật sự là thánh đường của tinh thần và tri thức nhân loại."

Liễu Địch ngẩn người, cô có thể nghe ra một sự quan tâm sâu sắc, khó phát giác từ trong câu nói bình thản của thầy Chương. Liễu Địch chưa kịp suy nghĩ sâu hơn, thanh âm của thầy Chương lại vang lên bên tai cô:

"Tôi đến Bắc Đại, chỉ có thể hình dung bằng bốn từ "như cá gặp nước". Tôi vùi đầu vào đại dương kiến thức, bắt đầu điên cuồng hấp thu. Khả năng thiên bẩm và sự chăm chỉ phấn đấu nhanh chóng biến tôi trở thành người xuất sắc trong các bạn cùng khóa. Lúc đó, dùng từ "nổi bật" để hình dung địa vị của tôi cũng không quá đáng. Tôi sở hữu một thứ mà bất cứ người học văn nào cũng ngưỡng mộ, đó là đôi mắt biết quan sát và tâm linh biết cảm thụ. Cứ như vậy, tôi trải qua ba năm đẹp đẽ trong cuộc đời ở Bắc Đại. Vào kỳ nghỉ đông năm cuối trước khi tôi tốt nghiệp, do bố mẹ tôi chuyển đến làm việc tại một thành phố cách Bắc Kinh không xa, nên tôi đến ăn Tết cùng bọn họ. Một ngày trước hôm tất niên, ở đó đã xảy ra vụ hỏa hoạn vô cùng đáng sợ..."

Cây bút trong tay Liễu Địch rơi xuống bàn. Cô nhìn thầy Chương chăm chú. Không hiểu tại sao, cô mong thầy Chương dừng câu chuyện tàn khốc này. Thầy Chương cuối cùng đưa cốc trà lên miệng, uống một ngụm. Nước trà đã nguội, có lẽ sẽ càng đắng hơn.

Đặt cốc trà xuống bàn, thầy Chương không dừng câu chuyện như mong đợi của Liễu Địch, thầy tiếp tục cất giọng trầm thấp và bình tĩnh:

"Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ rõ ánh lửa đêm đó. Ánh lửa sáng rực, sáng rực, sáng rực chưa từng thấy...Tôi luôn nghĩ, bố mẹ tôi lên thiên đường trong ngọn lửa rực cháy đó, họ nhất định sẽ rất vui vẻ. Tôi thật sự muốn đi cùng họ lên thiên đường, để cảm nhận những điều đẹp đẽ và vui vẻ. Nhưng tôi không có cơ hội...cảnh tượng cuối cùng đập vào mắt tôi, là bức tường đổ ụp xuống người tôi trong ánh lửa. Sau đó...khi tôi tỉnh lại, trước mắt tôi là một màu đen tối, đen tối vĩnh viễn."

Cuối cùng, thầy Chương cũng kết thúc câu chuyện. Sắc mặt thầy vẫn không một chút xao động. Liễu Địch chống một tay lên trán, trong lòng cô tràn ngập một nỗi đau không tả nổi. Lời trần thuật như nước chết của thầy Chương có một sức mạnh vô hình to lớn, bóp nát lục phủ ngũ tạng của cô, khiến toàn bộ sợi dây thần kinh của cô chấn động. Liễu Địch không chảy nước mắt, cô không khóc nổi, cô chỉ cảm thấy trái tim cô đang từ từ rỉ máu.

"Thế nào? Nghe xong câu chuyện của tôi, em có cảm nghĩ gì?" Thanh âm của thầy Chương bình thản và tự nhiên, tựa hồ thầy vừa phân tích một cuốn tiểu thuyết với học sinh, bây giờ thầy hỏi cảm nhận của mọi người.

"Đau khổ!" Liễu Địch khó nhọc thốt ra hai từ.

"Em nói gì?" Thầy Chương đứng dậy. th.ân thể thầy run rẩy, tựa hồ bị một cơn chấn động bất thình lình.

"Đau khổ!" Liễu Địch lặp lại một lần. Ngoài từ này, cô không biết diễn tả như thế nào.

Khóe miệng thầy Chương run run. Thầy vội vàng quay người về đằng sau, tay sờ soạng bám lấy thành cửa sổ, phảng phất để khống chế bản thân. Vài giây sau, thầy tựa hồ đã lấy lại bình tĩnh, bóng lưng thầy hoàn toàn bình thường. Nhưng bàn tay bám cửa sổ của thầy nổi hết các khớp và gân xanh.

Một lúc lâu sau, thầy Chương vẫn đứng quay lưng về phía Liễu Địch, thầy chậm rãi mở miệng: "Em có biết không? Trước đây, khi tôi kể câu chuyện quá khứ với người khác, tôi cũng từng hỏi cảm nghĩ của bọn họ. Câu trả lời của bọn họ không ngoài hai từ: "đồng tình" và "đáng thương".

Liễu Địch sững sờ. Vào thời khắc này, cô bất chợt hiểu thầy Chương sâu sắc hơn hai năm qua. Cô đột nhiên hiểu ra nhiều vấn đề trước đây cô mù mờ. Cô hiểu tại sao thầy Chương luôn một thân một mình, xa lánh mọi người, cô hiểu thái độ lạnh lùng của thầy Chương là bất đắc dĩ, cô cũng hiểu tại sao thầy Chương lại tin tưởng cô, chấp nhận sự giúp đỡ của cô.

Ai muốn sống cô độc một mình, muốn tách khỏi thế giới? Ai muốn không được người khác biết đến, không được người khác chấp nhận? Thế nhưng, bản thân sự "đồng tình" và "đáng thương" chính là một loại kỳ thị. Hành động giúp đỡ xây dựng trên "đồng tình" và "đáng thương" chính là phủ nhận và cười nhạo tôn nghiêm của thầy Chương. Vì vậy, thầy Chương mới dùng thái độ lạnh lùng và cao ngạo để che giấu bản thân. Thầy thà cự tuyệt sự quan tâm chân thành, cũng không muốn chấp nhận sự giúp đỡ xuất phát từ thái độ kỳ thị của người khác. Thầy tự nguyện xa lánh cuộc đời. Mặc dù sự xa lánh này không mang lại niềm vui và hạnh phúc cho thầy, nhưng ít nhất, nó giúp thầy tránh xa phản ứng "đồng tình" và "đáng thương" mang tính lăng nhục. Chỉ làm vậy, thầy mới có thể giữ lại tôn nghiêm của mình.

Chuông báo vào học đột nhiên vang lên. Thầy Chương quay người, sắc mặt thầy đã hồi phục sự lạnh nhạt. "Liễu Địch!" Thầy nói: "Vào học rồi, chúng ta đi thôi!"

"Nhưng..." Liễu Địch nhìn quyển vở trên bàn: "Bài văn của em..."

"Không điểm."

Liễu Địch ngây người mất vài giây. Cô nhìn thầy Chương chăm chú, muốn nói điều gì đó nhưng không biết mở miệng thế nào. Sau đó, nước mắt trào ra khóe mi, làm mờ tầm nhìn của cô. Cô cầm bút viết số không lên quyển vở. Do dùng sức quá mạnh, đầu bút chọc thủng trang giấy trắng.

"Tôi không thể làm trái nguyên tắc của mình." Thầy Chương nói rành rọt từng từ một: "Nhưng tôi có thể cho em biết, tôi không hối hận nghe bài văn này, cũng không hối hận kể câu chuyện cuộc đời tôi với em."

Nước mắt chảy giàn giụa trên gò má Liễu Địch. Nó hoàn toàn xối đi giọt lệ thất vọng và tủi thân trước đó, đôi mắt Liễu Địch trở nên sáng lấp lánh. Thầy Chương trầm mặc, chủ động giơ tay về phía Liễu Địch. Liễu Địch rùng mình, sau đó nhẹ nhàng cầm tay thầy. Hai thầy trò sánh vai đi khỏi dãy nhà phía bắc, tới khu phòng học ở phía nam như thường lệ.

Trời đột nhiên nổi trận gió lớn, cơn gió hy hữu của mùa hè. Cả sân chơi lập tức trở thành thế giới cát bay mù mịt. Bóng lưng của Liễu Địch và thầy Chương, dần trở nên mơ hồ trong gió cát. Một giọng hát trong trẻo không biết từ ô cửa nào đó vang vọng khắp không gian:

"Anh hãy đưa tay,
Để em nắm lấy
Đi qua sa mạc hoang vắng,
Tìm kiếm ốc đảo khao khát bấy lâu..."

 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chương 7






Năm lớp 12 đáng sợ cuối cùng cũng tới.

Bất kể bọn trẻ vừa tham gia "nghi thức trở thành người lớn" có muốn hay không, chúng đều phải chấp nhận cuộc thử thách đầu tiên sau khi "trở thành người lớn", đó là kỳ thi đại học. Mà phương thức chấp nhận, chính là miệt mài vùi đầu vào sách vở, học, học và học theo kiểu nhồi vịt.

Trường đại học mở rộng cửa chào đón, nhưng trong mười học sinh chỉ một người có thể tiến vào bên trong. Để khiến bản thân vượt trội trong thiên binh vạn mã, trở thành một phần tử vượt qua "cầu độc mộc", mỗi học sinh đều cố gắng hết sức, ngày đêm học tập không ngừng nghỉ. Hơn nữa, bọn họ còn âm thầm đọ sức, chỉ sợ bạn học khác chăm chỉ hơn mình, một ngày nào đó sẽ vượt qua bản thân. Thế giới này vốn là một vũ đài cạnh tranh quyết liệt, chỗ nào cũng tranh giành cấu xé lẫn nhau. Chỉ là kẻ mạnh, bạn mới có cơ hội giành chiến thắng, kẻ yếu sẽ bị đào thải. Đây là quy tắc bất biến của nhân loại từ thời xa xưa.

Nhà trường tăng thêm giờ tự học buổi tối, bắt đầu lúc 6 giờ tối, mỗi ngày hai tiết. Tiết thứ nhất thầy giáo giảng bài, tiết thứ hai làm bài kiểm tra hoặc tự do ôn tập. Không một ai than vãn, vì đây là chuyện sớm muộn, nếu không tổ chức giờ tự học buổi tối, ngược lại sẽ có không ít phụ huynh kêu ca nhà trường.

Liễu Địch và thầy Chương tất nhiên cũng bị cuốn vào cơn lốc tự học. Lúc đầu, nhà trường sợ thầy Chương không gánh nổi nhiệm vụ dạy học nặng nề, có ý định đổi giáo viên ngữ văn khác cho lớp Liễu Địch. Nào ngờ ý định này bị học sinh phản đối kịch liệt. Cả lớp ký tên vào thư đề nghị, để Liễu Địch nộp cho hiệu trưởng Cao và cô chủ nhiệm. Với tư cách người đại diện lớp 12 (1), Liễu Địch chỉ nói một câu: "Thầy Chương gặp khó khăn trong công việc, em có thể gánh vác giúp thầy, ở bên cạnh thầy, không người nào có thể thay thế vị trí của em. Trong lòng chúng em, cũng không ai có thể thay thế vị trí của thầy Chương."

Hiệu trưởng Cao nghe xong, thở một hơi dài. Ông vuốt tóc Liễu Địch, cất giọng hiền từ xen lẫn lo lắng: "Cô bé, thầy không thể tưởng tượng, sau khi em tốt nghiệp, thầy Chương sẽ thế nào?"

Liễu Địch ngẩn người. Sau khi cô tốt nghiệp, ai sẽ chăm sóc thầy Chương, ai sẽ giúp đỡ thầy? Nhưng tốt nghiệp là chuyện của năm sau. Việc cần làm nhất bây giờ là giữ thầy Chương ở bên cạnh cô.

Cuối cùng, lớp Liễu Địch cũng thuyết phục được nhà trường, thầy Chương vẫn tiếp tục dạy môn ngữ văn. Tuy nhiên, gánh nặng trên đôi vai Liễu Địch càng trở nên nặng nề.

Năm giờ chiều trường tan học, Liễu Địch vẫn đến văn phòng của thầy Chương như thường lệ. Nếu buổi tối không có tiết của thầy, cô sẽ tiễn thầy ra trạm xe buýt. Nếu thầy phải dạy thêm vào buổi tối, Liễu Địch sẽ ở văn phòng giúp thầy sửa bài thi, hoặc chép đáp án đề ôn tập. Tiết học đầu tiên của buổi tối kết thúc vào lúc bảy giờ rưỡi. Lúc đó không còn xe buýt, vì vậy thầy Chương quyết định ngủ lại văn phòng. Hai chiếc ghế ghép lại thành một cái gi.ường nhỏ; áo khoác quân đội trở thành chăn bông; một miếng bánh mỳ hoặc túi mỳ ăn liền chính là bữa tối. Thiết bị sưởi ấm của tòa nhà phía Bắc không tốt, Liễu Địch liền mang quạt sưởi ấm từ nhà đến văn phòng cho thầy Chương. Thầy Chương đón nhận, không nói một câu "cám ơn".

Năm mới lặng lẽ đến gần trong sự bận rộn ngày đêm của thầy trò. Vào ngày 31 tháng 12, ngay từ lúc sáng sớm đã có tuyết rơi. Hoa tuyết dày đặc bay trong không trung, chỉ một lúc sau nhuộm trắng cả mặt đất, mái nhà và cây cối, khiến cả thành phố tràn ngập không khí của năm mới.

Ngày hôm đó, nhà trường phá lệ cho học sinh nghỉ học, để tất cả học sinh, đặc biệt là lớp 12 tổ chức liên hoan đón chào năm mới. Bọn trẻ thoát khỏi đống bài tập nặng nề, lập tức trở nên hoạt bát, cười đùa vui vẻ. Chúng đắp vô số quả cầu tuyết, treo những ngọn đèn lồng và vô số tấm thiệp chúc mừng năm mới lên cây sồi. Không rõ ai có sáng kiến độc đáo, treo cả chuông gió lên cành cây sồi. Thế là tiếng chuông gió lanh lảnh vang vọng khắp không gian trong trường học theo tiếng cười nói vui vẻ của các thiếu niên thiếu nữ.

Trong phòng học càng náo nhiệt. Cửa sổ được phun sơn màu hình đồ họa đẹp mắt và viết hàng chữ tiếng Anh khoa trương "Happy New Year To You". Trên bảng đen vẽ hình ông già noel, hình bánh sinh nhật, chuột Mickey...Vô số dải lụa màu, vô số bông hoa, vô số bóng bay, vô số vụn giấy, vô số gương mặt rạng rỡ tươi cười, tạo thành bầu không khí vui vẻ rộn ràng.

Đoán câu đố, truyền hoa, ca hát, nhảy múa, chơi trò chơi, biểu diễn tiểu phẩm...Bọn trẻ phát huy trí tưởng tượng và sức sáng tạo thiên bẩm, thể hiện niềm vui theo bản năng. Không có ôn tập, không có phụ đạo, không có bài tập, không có thi cử. Ngày hôm nay thuộc về bọn trẻ, thuộc về tuổi thanh xuân, thuộc về nụ cười và mộng ước.

Liễu Địch cũng bị lôi cuốn theo đám bạn bè náo nhiệt. Cô cùng hát, cùng nhảy múa, cùng vỗ tay, cùng cười nói với mọi người. Năm lớp 12 đúng là áp lực quá lớn, Liễu Địch không có nhiều thời gian cá nhân. Cô thật sự cần thả lỏng bản thân, để sợi dây thần kinh căng thẳng và cơ thể mệt mỏi được nghỉ ngơi.

Cô là người thích một thân một mình. Nhưng hôm nay, cùng các bạn học vui chơi, cô cảm thấy rất hưng phấn và thỏa mãn, cảm thấy niềm vui như được bộc phát. Cuối cùng cô cũng lĩnh ngộ, người sống cô độc đến mức nào, từ nơi sâu thẳm trong nội tâm cũng đều có khát vọng giao tiếp với người khác, được mọi người biết đến. Khi hiểu ra đạo lý này, Liễu Địch càng nhận thức sâu sắc, thầy Chương phải có dũng khí và nghị lực to lớn ra sao mới tự nguyện lựa chọn cách sống cô độc.

Buổi liên hoan kéo dài đến tận hai giờ chiều mới kết thúc. Các bạn học vẫn chưa thỏa mãn, lớp trưởng đột nhiên hét lớn: "Karaoke! Ai muốn đi KTV?"

Lập tức có người cất giọng khe khẽ: "Học sinh cấp ba không được phép đi KTV." Người vừa lên tiếng chính là Liễu Địch.

"Sợ đếch gì?" Lớp trưởng bất chợt nói bậy một câu: "Chúng ta nín nhịn ba năm rồi, chỉ một ngày hôm nay, còn kiêng kị gì chứ? Hơn nữa, KTV đâu phải là nơi bẩn thỉu nhơ nhớp. Chúng ta chỉ đến đó tụ tập liên hoan mà thôi. Ai muốn đi cùng tớ? Xảy ra chuyện, tớ sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm."

Ngay lập tức có hơn hai mươi người đứng về phía lớp trưởng. Liễu Địch đưa mắt quan sát, phần lớn đều là những bạn có thành tích không tồi. Các bạn đó có lẽ càng cảm thấy bị gò ép, càng cần phát tiết hơn những người khác.

"Liễu Địch, cậu có đi không?" Lớp trưởng hỏi cô.

"Tớ..." Liễu Địch ngập ngừng nhìn về ô cửa sổ nhỏ ở tầng bốn tòa nhà phía bắc.

"Thầy Chương phải không?" Lớp trưởng đọc ra tâm tư của cô, cậu ta nói một câu giải quyết mọi vướng mắc: "Bây giờ mới là hai giờ chiều. Năm giờ chắc chắn chúng ta quay về rồi, không làm nhỡ việc của cậu."

"Nhưng..." Liễu Địch vẫn không yên tâm. Tuyết rơi dày đặc, làm cô nhìn không rõ ô cửa sổ nhỏ đó. Trông nó rất nhỏ bé và cô độc trong hoa tuyết trắng xóa.

Cậu lớp trưởng nhìn Liễu Địch chăm chú. Thiếu nữ trước mặt cậu dù khoác chiếc áo to xù nhưng vẫn lộ rõ vẻ đẹp ngời ngời. Lông mày thanh tú, bờ môi chúm chím, nước da trắng nõn, khuôn mặt trái xoan, còn cả đôi mắt đen nhánh trong veo, tràn đầy tình thơ họa ý, bộc lộ vẻ ngây thơ và yên tĩnh khó diễn tả. Một thiếu nữ thông minh xinh xắn, khiến nam sinh toàn trường rung động, vậy mà bình thường cô không thèm liếc bọn họ, chỉ suốt ngày quanh quẩn bên thầy giáo mù. Lớp trưởng đột nhiên cảm thấy bất bình, cậu ta nghiến răng, lên tiếng "kích động" mọi người: "Các bạn, Liễu Địch là bạn gái xinh đẹp nhất lớp ta, nhưng cậu ấy không bao giờ nể mặt nam sinh chúng ta. Hôm nay, cậu ấy lại từ chối không tham gia buổi liên hoan của chúng ta. Chẳng lẽ nam sinh lớp 12 (1) vô dụng đến vậy sao?"

Các bạn học lập tức ồn ào huyên náo. Liễu Địch xua tay: "Được rồi, được rồi, tớ đi là được chứ gì? Coi như tớ sợ các cậu rồi đấy."

Thế là mọi người khoác vai nhau, đi tới một KTV ở gần trường. Lớp trưởng lấy một phòng lớn nhất, căn phòng không có cửa sổ, nên khi đóng cửa ra vào, bên trong không phân biệt ngày đêm. Lớp trưởng có sáng kiến thắp vài cây nến, không khí lãng mạn và ấm áp lan tỏa khắp căn phòng. Đến lúc này, mọi người hoàn toàn giải phóng bản thân.

Liễu Địch không hề hay biết, trong lớp cô lại có nhiều nhân tài như vậy. Điệu nhảy "côn trùng ngủ gật" của Viên Hà rất tuyệt. Toàn thân cậu mềm dẻo như không có xương cốt. Nhảy đến điệu cuối cùng, cậu còn xoay vài vòng trên mặt đất, được mọi người vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt.

Lớp trưởng hát tình ca rất hay. Hết "Quay đầu", lại đến "Thật ra em không hiểu lòng anh", "Tình yêu mùa thu", "Cám ơn tình yêu của em"...Không biết cậu ta hát bao nhiêu bài, dù sao đây không phải là trường học, sẽ chẳng có ai chỉ trích bạn. Mấy nam sinh biết chơi ghita tổ chức một ban nhạc, hát hết các bài dân ca học đường. Các bạn nữ sinh cũng không chịu thua kém, họ nhảy điệu disco quay cuồng khiến đám nam sinh há hốc miệng.

Liễu Địch cũng hết sức kinh ngạc. Những "thiên tài" này sao không được phát hiện? Cũng phải, bọn họ bị giam cầm trong đống sách vở bài tập, mang trên vai gánh nặng thi cử, làm gì có cơ hội thể hiện tài năng? Nếu không nhờ buổi liên hoan hôm nay, có lẽ cho đến khi tốt nghiệp, bọn họ chỉ để lại ấn tượng là những con mọt sách vùi đầu khổ học mà thôi.

Liễu Địch cũng bị ảnh hưởng bởi không khí đó, bị bầu không khí vui vẻ và tự do ảnh hưởng. Cô và các bạn học cùng ca hát, cùng nhảy múa, cùng cười nói. Dưới sự cổ vũ của mọi người, Liễu Địch biểu diễn ca khúc tiếng Anh "Yesterday Once More" của anh em Carpenters:

"Những ngày vui vẻ không kéo dài,
Chúng đã bặt vô âm tín từ lâu.
Hôm nay chúng lại quay về,
Giống những người bạn cũ mất đi..."


Điệu nhạc chậm rãi, mang tâm trạng hoài niệm và buồn bã lập tức lây nhiễm các bạn học. Mọi người không hẹn cùng cất cao tiếng hát với Liễu Địch:

"Mọi quá khứ tươi đẹp.
Đều hiện rõ trước mắt.
Tôi vẫn như trước kia,
Chảy dài hai hàng lệ."


Khi bài hát kết thúc, tất cả mọi người đều thật sự rơi lệ.

Trong hoàn cảnh và bầu không khí như vậy, Liễu Địch không khỏi cảm động. Tuổi thanh xuân là chân thành, là đầy sức sống, là vui vẻ. Liễu Địch thật sự chìm đắm trong không khí đó. Cô quên cả thời gian, quên cả địa điểm, quên hết tất cả. Tất nhiên, cô cũng quên mất hình bóng đang sốt ruột chờ đợi cô ở đằng sau ô cửa sổ nhỏ bé trên tầng bốn tòa nhà phía bắc.

Cho đến khi rời khỏi phòng KTV, bắt gặp gió tuyết bay trong bầu trời đêm, Liễu Địch mới chợt nhớ ra. Cô nhảy dựng lên hỏi người bên cạnh: "Trời ạ! Mấy giờ rồi?"

"Tám giờ rưỡi." Một bạn học nhìn đồng hồ.

"Gì cơ?" Đầu óc Liễu Địch nổ tung. Tám giờ rưỡi? Cô mải chơi quên cả thời gian, chơi đến tám rưỡi tối? Liễu Địch không thể khống chế cơ thể run rẩy và quả tim đập thình thịch trong lồng ngực.

Sao cô có thể quên mất thầy Chương. Thầy Chương, thầy Chương hiện giờ ở đâu? Thầy đã về nhà chưa? Trong lòng Liễu Địch như bị đổ một chảo dầu nóng, khiến cô đau đớn vô ngần. Cô cảm thấy bản thân là một kẻ tệ bạc.

Tuyết rơi ngày càng lớn, trời không biết nổi gió từ lúc nào. Ngọn gió bắc cuốn từng hoa tuyết bay vào mặt Liễu Địch. Liễu Địch mặc nhiều quần áo như vậy, mà vẫn còn run cầm cập. Cô lại nhớ đến thầy Chương, thầy chỉ mặc áo khoác mỏng. Trời ạ, thầy Chương, thầy đang ở đâu? Nếu thầy ở văn phòng, thầy làm thế nào để trải qua một buổi chiều dài cô độc? Nếu thầy đã về nhà...Tuyết lớn như vậy, thầy làm thế nào để đi ra bến xe? Trong lòng Liễu Địch rối bời, cô dùng hết sức lao nhanh về phía trường học, bất chấp gió tuyết.

Cuối cùng, Liễu Địch cũng lảo đảo tới cổng trường. Ơn trời, cổng trường vẫn chưa khóa. Theo thói quen, cô đưa mắt về ô cửa sổ nhỏ ở tầng bốn tòa nhà phía bắc. Văn phòng tối om, nhưng chuyện này có thể chứng minh điều gì? Người mù vĩnh viễn không cần ánh sáng. Liễu Địch không hề nghĩ ngợi, chạy vội về phía tòa nhà phía Bắc.

Bên trong dãy nhà không bật đèn, Liễu Địch lập tức rơi vào bóng tối. Cảm giác phương hướng biến mất, ánh sáng cũng biến mất, cô chỉ có thể dựa vào trí nhớ, mò đến chân cầu thang, leo từng bậc một lên tầng bốn.

Nghe tiếng giày nện cộp cộp dưới nền nhà, bị bóng tối hư vô hỗn độn bao vây, Liễu Địch đột nhiên cảm thấy một nỗi sợ hãi và cô độc chưa từng có. Không có trời đất, không có trăng sao và mặt trời, không có cây cỏ, không có muôn loài, cả thế giới chỉ còn lại một mình cô, như con thuyền nhỏ cô độc, trôi dạt trong bóng tối vô cùng vô tận, không biết lúc nào sẽ thịt nát xương tan. Bóng tối có lẽ là thế giới bất hạnh và đáng sợ nhất. Liễu Địch bỗng dưng nhận ra, thầy Chương cũng phải sống trong thế giới như vậy. Vụ hỏa hoạn năm năm trước đã định số mệnh của thầy không thoát khỏi bóng tối vô tận, bóng tối không bờ bến. Lúc này, Liễu Địch mới thật sự cảm nhận được tâm trạng của thầy Chương lúc thầy bị mù. Thế giới của người khiếm thị vốn rất cô đơn, vậy mà thầy Chương còn đẩy bản thân vào nơi cô độc hơn. Hôm nay, bản thân cô còn tặng thêm cho thầy một nỗi cô độc, cô quả thực quá tàn nhẫn.

Cuối cùng cũng leo lên tầng bốn, đôi mắt Liễu Địch đã bắt đầu quen dần với bóng tối, miễn cưỡng nhận ra đường nét của vật thể. Cô bám theo bờ tường, đi về phía văn phòng của thầy Chương. Đến trước cửa phòng, cô dừng bước theo thói quen, ngập ngừng một hai giây rồi giơ tay gõ cửa.

Không có tiếng trả lời, bốn bề chỉ là sự im lặng đến tột cùng.

Liễu Địch lại gõ cửa, vẫn là sự yên tĩnh đáng sợ.

Cô vội vàng đẩy cửa, cánh cửa khép hờ lập tức mở ra.

Trong phòng tối đen, Liễu Địch lần mò công tắc bật đèn. Ánh sáng bất thình lình khiến Liễu Địch lóa mắt. Sau đó, cô quan sát một lượt quanh căn phòng. Bàn làm việc, ghế ngồi, cốc trà, phích nước, chậu hoa nhài, quạt sưởi...vẫn ở nguyên chỗ cũ. Nhưng thầy Chương không thấy đâu cả. Mặc dù sớm đoán biết, Liễu Địch vẫn không khỏi hoảng hốt và thất vọng.

Liễu Địch lại đảo mắt một vòng, cô chợt phát hiện thấy mũ và găng tay của thầy Chương vẫn ở trên bàn. Tim cô thắt lại, thầy Chương không mang theo mũ và găng tay, chắc chắn thầy chưa về nhà. Thầy có thể đi đâu?

Sau đó, Liễu Địch nhìn thấy một tờ giấy và cây bút đặt bên cạnh mũ và găng tay. Đó là cây bút mực đỏ dùng để nhận xét bài văn. Lẽ nào, thầy Chương viết điều gì? Ba năm nay, Liễu Địch chưa từng nhìn thấy thầy Chương viết chữ. Cô vội cầm tờ giấy lấy xem, bàn tay cô đột nhiên run run. Trên tờ giấy không có chữ, mà chỉ có vô số dấu chấm hỏi, các loại dấu chấm hỏi to nhỏ, nặng nhẹ chồng lẫn lên nhau. Có mấy dấu hỏi, do người viết ấn bút quá sâu, thậm chí chọc thủng cả giấy. Chứng tỏ tâm trạng của người viết nôn nóng và sốt ruột đến mức nào.

Tim Liễu Địch nhói đau, nước mắt chảy giàn giụa, rơi cả xuống tờ giấy, làm nhòe dấu hỏi màu đỏ trên giấy trắng. Trong lòng Liễu Địch tràn ngập nỗi đau đớn và ân hận. Thầy Chương, thầy muốn hỏi ai? thầy muốn hỏi điều gì? Có phải thầy muốn hỏi tại sao em không đến đón thầy? Tại sao con bé đó lại để thầy một mình ở đây, để nỗi cô độc gặm nhấm linh hồn thầy? Thầy có biết không, em đã quên mất thầy, quên mất thầy...

Trong tầm nhìn mơ hồ bởi nước mắt, Liễu Địch lại thấy mũ và găng tay bị bỏ quên trên bàn làm việc. Thầy Chương không đội mũ và đeo găng tay đã đi ra ngoài. Trong đêm gió tuyết này, thầy có thể đi đâu? Lẽ nào thầy đi tìm cô? Trời ạ, thầy làm sao có thể đi "tìm"?

Lòng Liễu Địch đau như cắt, trán rịn mồ hôi lạnh. Cô lập tức quay người chạy ra khỏi văn phòng, chạy như bay xuống cầu thang, bất chấp bóng tối xung quanh.

Liễu Địch chạy một mạch đến phòng bảo vệ ở cổng ra vào. Cô vừa đập cửa phòng bảo vệ vừa hét to: "Ông Lý! Ông Lý!"

Ông Lý chậm chạp đi ra mở cửa. Liễu Địch túm tay ông: "Ông Lý, thầy Chương đâu rồi? Ông có nhìn thấy thầy Chương không?"

"Thầy Chương à? Ờ, ông có nhìn thấy." Ông Lý cất giọng già nua chậm rãi: "Lúc năm giờ hơn thầy đến chỗ ông, hỏi ông có nhìn thấy cháu đi ra ngoài không. Ông nói "không thấy". Người đi lại nhiều như vậy, ông thật sự không nhìn thấy cháu. Sao hôm nay cháu không ra về cùng thầy Chương?"

Trong lòng Liễu Địch càng rối bời và chua xót.

"Nghe ông nói vậy, thầy Chương quay người đi lớp học của cháu xem thế nào."

"Hả? Thầy đi lớp học của cháu ư?" Liễu Địch kinh ngạc hỏi.

"Đúng vậy." Ông Lý thở dài: "Ông khuyên thầy đừng đi nhưng thầy không nghe. Tính của thầy chắc cháu hiểu rõ hơn ai hết. Ông không dám giúp thầy, chỉ có thể đứng nhìn thầy dò dẫm từng bước tới tòa nhà phía Nam. Tuyết lớn như vậy, thầy lại chẳng nhìn thấy gì, ông thấy thầy bị trượt ngã, rồi đứng lên, sau đó lại bị ngã..." Ông Lý thở dài một hơi, lắc đầu: "Thật đấy, ông không biết thầy ngã bao nhiêu lần. Thầy còn không đội mũ..."

"Được rồi, ông Lý, ông đừng nói nữa". Trong lòng Liễu Địch dội lên một nỗi đau xé nát tim gan. Tất cả đều là lỗi của cô! "Sau đó thì sao ạ?" Cô sốt ruột hỏi.

"Sau đó, ông không đành lòng nhìn thầy, nên quay về phòng bảo vệ."

"Sau đó thì sao ạ? Rốt cuộc thầy Chương đi đâu?"

"Ông không biết." Ông Lý tỏ ra mờ mịt.

Liễu Địch thất vọng thở dài. Hỏi thăm một hồi, cô vẫn không biết tung tích của thầy Chương. Thầy Chương có thể đi đâu? Liễu Địch tự hỏi bản thân. Đầu óc cô đột nhiên vụt qua một ý nghĩ. Bến xe, đúng rồi, là bến xe. Sao cô có thể quên mất bến xe? Liễu Địch không nghĩ ngợi, chạy nhanh ra trạm xe buýt.

Tuyết nhỏ đi từ lúc nào. Mọi người đã về nhà đón năm mới từ lâu. Trên đường phố chỉ thấp thoáng vài bóng người và xe cộ. Đèn đường tỏa ánh sáng mờ mờ xuống nền tuyết trắng, tạo thành một vẻ cô tịch thê lương. Liễu Địch bất giác đi chậm lại. Vỉa hè vắng lặng, bước chân cô ngày càng nặng nề.

Trạm xe buýt mỗi lúc một gần. Liễu Địch cảm thấy một nỗi sợ hãi không nói thành lời. Thầy Chương liệu có ở bến xe? Chuyến xe cuối cùng đã chuyển bánh từ lâu, chắc thầy không ở bến xe đấy chứ? Liễu Địch cắn môi, bước chân cô trở nên chậm chạp. Cô muốn đi nhanh đến bến xe nhưng lại sợ hãi. Trong tâm trạng đầy mâu thuẫn đó, Liễu Địch cuối cùng cũng đến gần tấm biển sắt cô độc ở trạm xe buýt. Dưới tấm biển là một thân hình cao lớn bất động. Nhờ ánh đèn đường, Liễu Địch nhận ra đó là thầy Chương của cô.

Chính là thầy Chương. Thầy vẫn mặc chiếc áo khoác mỏng màu đen, không đội mũ và đeo găng tay. Thầy đứng bên cạnh tấm biển, một tay nắm chặt cột sắt của biển báo. Thầy đứng ở đó rất lâu rồi, bởi vì Liễu Địch nhìn thấy đống tuyết trên người thầy. Hai chân thầy vùi dưới tuyết. Thầy cứ đứng bất động ở đó, dưới ánh đèn mờ mờ. Trông thầy như một bức tượng đá hoa cương.

Liễu Địch ngây người. Đầu óc cô trống rỗng, cô thậm chí không thể hô hấp trong giây lát. Cô cảm thấy trái tim cô thắt lại, đau đến mức lòng bàn tay đổ đầy mồ hôi. Nước mắt lại trào ra khóe mi. Qua làn nước mắt, thầy Chương trở thành hình bóng mơ hồ. Liễu Địch lau nước mắt, rồi ấn tay vào lồng ngực đau đớn. Sau đó, cô nhẹ nhàng đi đến bên bức "tượng điêu khắc", cất giọng đầy nghẹn ngào: "Thầy Chương!"

"Bức tượng điêu khắc" động nhẹ: "Liễu Địch, là em phải không?" Thanh âm trầm thấp của thầy không che giấu nỗi vui mừng. Nhưng chỉ trong chốc lát, thầy khôi phục sự bình tĩnh thường ngày: "Tôi biết." Thầy nói, ngữ khí hơi run run: "Tôi biết, nếu em không xảy ra chuyện gì, em nhất định sẽ ra bến xe này tìm tôi."

"Thầy Chương!" Liễu Địch nấc nghẹn. Cô cảm thấy hai bàn chân, tứ chi, toàn thân đến trái tim và cả linh hồn cô đều run rẩy. Thầy Chương vẽ nhiều dấu chấm hỏi như vậy, thầy đội gió tuyết đi tìm cô. Thầy đứng ở bến xe, đợi cô trong giá lạnh không biết bao nhiêu lâu. Vậy mà thầy còn lo cô xảy ra chuyện.

Trong lúc thầy Chương cô đơn lo lắng cho cô, cô lại cùng người khác đi chơi bời, ca hát, ném thầy ra khỏi đầu. Vào giây phút này, cô cảm thấy bản thân đê tiện, ích kỷ và vô tình. Cô tháo găng tay, từ từ nắm lấy bàn tay đang bám cây cột sắt của thầy Chương. Thầy Chương run rẩy, vội vàng thu tay về. Nhưng do ở ngoài trời quá lâu, bàn tay thầy cứng đờ không thể nhúc nhích. Liễu Địch nhẹ nhàng xoa bóp bàn tay đông cứng đó. Cô có muôn vàn điều muốn nói nhưng cổ họng tắc nghẹn, không thể thốt ra lời. Cuối cùng, vẫn là thầy Chương lên tiếng trước: "Liễu Địch, em bỏ tay ra đi, đừng để lạnh cóng."

Chỉ một câu nói ngắn gọn, đã khiến tất cả sự hối hận, áy náy, cảm động, tự trách...dội vào lòng Liễu Địch. Nhiều cảm xúc đến cùng một lúc, làm linh hồn nhỏ bé của Liễu Địch không ngừng run rẩy. Cô cuối cùng không thể khống chế bản thân, vùi đầu vào lòng thầy Chương, òa khóc nức nở. Tâm trạng đau đớn, hối hận, áy náy, cảm động cùng giải phóng theo tiếng khóc của cô. Liễu Địch ôm chặt thầy Chương nói: "Thầy Chương, thầy hãy trách mắng em đi, trừng phạt em đi! Em sai rồi, em sai rồi! Em đã quên mất thầy, em không nhớ đến thầy..."

Liễu Địch vừa khóc vừa lẩm bẩm, nhưng bản thân cô cũng không biết cô đang nói gì. Sau đó, cô cảm thấy một cách rõ ràng, bàn tay lạnh giá của thầy Chương nhẹ nhàng vỗ lưng cô. Trong khi giọng nói thầy vang lên bên tai cô. Lần này, ngữ khí của thầy vô cùng ôn hòa, vô cùng dịu dàng:

"Liễu Địch, em đừng khóc. Em không làm sai điều gì. Em đã vì tôi hy sinh quá nhiều thời gian...Đừng khóc nữa, được không em?" Thanh âm đó dịu dàng như cơn gió xuân tháng ba, không một chút hàn ý. Liễu Địch từ từ ngừng khóc trong tiếng thì thầm dịu dàng đó. Cô đột nhiên cảm thấy trái tim cô như búp hoa dính đầy giọt sương ban mai, kỳ ảo, đẹp đẽ và thuần khiết.

Tuyết lặng lẽ ngừng rơi. Vầng trăng chui ra khỏi tầng mây, chiếu ánh sáng nhàn nhạt khắp không gian. Ánh trăng và tuyết trắng phảng phất khiến thế giới được khoác chiếc áo cưới lung linh mộng ảo.

Tất cả trở nên thánh thiện vô cùng...
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chương 8







Sau Tết dương lịch, kỳ nghỉ đông lặng lẽ đến, rồi lặng lẽ đi.

Đối với học sinh lớp 12, kỳ nghỉ đông chỉ là hữu danh vô thực. Ngoài sáu ngày nghỉ Tết theo luật định, bọn họ vẫn đến trường học thêm, vẫn về nhà vào lúc hoàng hôn, vẫn phải làm cả núi bài tập như thường lệ. Tài liệu ôn thi các môn và đề thi thử liên tục được phát, cặp sách của mỗi học sinh đều nặng trĩu, khối lượng bài tập khổng lồ khiến họ không thở ra hơi.

Học kỳ mới lại bắt đầu. Chỉ hơn hai tháng sau, bọn họ sẽ bước một chân ra khỏi cánh cửa trường trung học. Hơn bốn tháng sau, họ sẽ tham gia kỳ thi đại học đáng sợ. Đám học sinh lớp 12 ai nấy gầy rộc, sắc mặt nhợt nhạt và đôi mắt lờ đờ mất ngủ. Thế nhưng, các thầy cô và các bậc phụ huynh không vì bọn họ mệt mỏi căng thẳng mà thả lỏng bọn họ. Bọn họ càng không dám lơ là. Đây là giai đoạn then chốt nhất, chỉ cần lơ là một chút là nỗ lực trước đó sẽ tan thành bọt biển. Cạnh tranh lúc nào cũng tàn khốc như vậy.

Mùa xuân ở phương Bắc đến rất muộn. Sau tiết thanh minh, ngọn cỏ mới bắt đầu đâm chồi lên mặt đất. Nhờ mấy trận mưa phùn, hoa đào phơn phớt hồng, hoa lê trắng muốt, hoa lài mùa đông vàng ươm nở rộ trong chốc lát. Trong và ngoài khuôn viên trường học được nhuộm đủ màu sắc tươi sáng. Tiếp theo, cây bạch dương nhú chồi xanh lục, cây dương liễu đung đưa tà váy dài dịu dàng, cây hợp hoan lắc lư cành lá mềm mại như đuôi chim công. Mùa xuân đều thuộc về mọi sinh mệnh.

Chỉ có những học sinh chuẩn bị tốt nghiệp cấp ba ngày ngày vùi đầu vào đống bài tập là không thuộc về mùa xuân này. Thời gian trôi qua nhanh như cơn gió thoảng. Đến tháng năm, học sinh bắt đầu đăng ký nguyện vọng vào đại học. Các em học sinh và phụ huynh thận trọng cân nhắc suy nghĩ, đồng thời trưng cầu ý kiến của người khác. Sau đó, họ nộp tờ đăng ký nguyện vọng cho nhà trường, phảng phất giao phó vận mệnh của mình. Nguyện vọng của Liễu Địch vô cùng đơn giản, cô chỉ điền một nguyện vọng duy nhất: khoa trung văn đại học Bắc Kinh.

Không khí ở trường học ngày càng căng thẳng. Đám học sinh ra sức làm bài tập, đọc sách, học thuộc lòng...chỉ hận đến mức không thể đọc mọi loại sách trong hơn một tháng. Tóm lại là trong khoảng thời gian này, bọn họ không rời tay khỏi quyển sách, bất kể là lúc ăn cơm hay đi vệ sinh.

Không biết, ai đó viết trên bảng dòng chữ: "Chúng ta phải cố gắng! Chúng ta ra sức tiến về phía trước! Thế giới tươi đẹp, thế giới quang vinh xán lạn đang chờ đón chúng ta phía trước!" Đám học sinh không ai cười nhạo, cũng không ai xóa khẩu hiệu này. Một thời gian gian sau, nó trở thành động lực học tập của mọi người. Trong không khí khổ học hăng say, không một ai chú ý mùa xuân đầy sắc màu bên ngoài cửa sổ.

Trong những ngày tháng căng thẳng đó, một buổi chiều, Liễu Địch bị cô chủ nhiệm Trần Chi gọi tới một góc khuất trên hành lang.

"Cô đã xem tờ đăng ký nguyện vọng của em." Cô giáo cất giọng nghiêm nghị: "Tại sao em không điền nguyện vọng hai?"

"Em không có nguyện vọng hai." Liễu Địch lập tức trả lời mà không hề suy nghĩ: "Em chỉ muốn vào Bắc Đại."

"Không có ư?" Cô giáo Trần nghi hoặc cau mày: "Nhỡ em không thi đỗ thì sao? Kiểu gì cũng phải có một đường lùi chứ?"

"Em không cần lưu lại đường lùi cho mình. Từ trước đến nay, đường lùi chỉ dành cho những người nhu nhược. Em không tin em không thi đỗ."

"Hả?" Cô giáo Trần vô cùng kinh ngạc. Tuy cô biết rõ khả năng của Liễu Địch, nhưng cô không ngờ Liễu Địch lại tự tin đến mức dám "đập nồi dìm thuyền", tựa hồ nữ sinh trước mặt cô đã nắm chắc vận mệnh trong tay mình. Hơn hai mươi năm dạy học, cô giáo Trần lần đầu tiên gặp học sinh tự tin như Liễu Địch.

"Liễu Địch." Trầm tư một lát, cô giáo Trần mở miệng: "Cô rất tán thưởng dũng khí của em, cũng tin tưởng khả năng của em, nhưng thi cử vô thường, cô thật sự không dám cam đoan 100% em thi đỗ. May mà hiện tại em vẫn còn cơ hội, trường chúng ta vừa xin được một suất tuyển thẳng vào Bắc Đại. Em cũng là một trong những ứng cử viên cạnh tranh suất đó."

"Vậy hả cô?" Liễu Địch động lòng. Tuy cô có niềm tin bản thân, nhưng cũng không dám chắc 100%. Nếu giành được suất tuyển thẳng này, cô không những có thể thực hiện được ước mơ của mình, mà còn có thể tránh hai tháng ôn thi khổ cực. Nhưng cô chủ nhiệm nói cô chỉ là một trong những ứng cử viên. Vậy...Liễu Địch hỏi thăm dò: "Thưa cô, em có cơ hội không ạ?"

"Cơ hội tất nhiên là có, nhưng khó khăn cũng rất lớn." Cô Trần nói thẳng: "Luận về thành tích học tập của em thì không có gì đáng bàn. Ai cũng biết em luôn đứng nhất nhì toàn khối. Tuy nhiên, Bắc Đại yêu cầu học sinh tuyển thẳng phải có tài đức vẹn toàn. Mà em chưa bao giờ là học sinh "ba tốt", cũng không phải là cán bộ lớp, thậm chí không phải là đoàn viên..."

("Ba tốt" là một danh hiệu giành cho học sinh xuất sắc, bắt đầu áp dụng từ năm 1954. "Ba tốt" chỉ đạo đức tốt, học tập tốt, sức khỏe tốt)

"Việc đó có thể chứng minh điều gì? Đạo đức của em không tốt hay sao?" Liễu Địch nói nhỏ, ngữ khí hơi tức giận. Cô cảm thấy bản thân bị sỉ nhục. Không làm cán bộ, không vào đoàn là sự lựa chọn của cô. Nhưng cũng chính vì điều này, mỗi lần bình bầu "ba tốt", cô đều bị đánh trượt. Liễu Địch chẳng bận tâm cô có được nhận danh hiệu "ba tốt" hay không, nhưng không thể vì điều đó phủ nhận nhân phẩm của cô.

"Tuy không thể nói đạo đức của em không tốt, nhưng ở trong trường học, đó là căn cứ quan trọng để đánh giá phẩm chất của một học sinh. Ít nhất..." Cô Trần nhấn mạnh: "Nó chứng tỏ em không có thái độ tích cực và tinh thần cầu tiến."

Liễu Địch ngẩng đầu. Cô không đồng ý với câu nói sau cùng của cô Trần, nhưng cũng không thể phủ nhận câu nói đầu tiên. Trầm tư một lát, Liễu Địch cất giọng quả quyết: "Cô Trần, cô hãy để người khác cạnh tranh suất tuyển thẳng này đi. Nếu bắt em dùng chuyện vào đoàn hay làm cán bộ để làm ván cầu nhảy tới Bắc Đại, em thà dựa vào sự nỗ lực của mình, đường đường chính chính thi vào Bắc Đại còn hơn."

Cô giáo Trần hít một hơi sâu. Liễu Địch có ngoại hình xinh xắn trầm tĩnh, nhưng bên trong là người quật cường và tự phụ. Về điểm này, cô bé rất giống thầy giáo mù mà cô bé chăm sóc. Nghĩ đến thầy giáo "mù", đầu óc cô Trần liền nảy ra một ý tưởng. Đúng rồi, tại sao cô không nghĩ tới cách này chứ?

"Liễu Địch!" Cô giáo Trần cất giọng hưng phấn: "Cô có một cách, khiến em không cần vào đoàn cũng như làm cán bộ lớp cũng có thể giành được suất tuyển thẳng vào Bắc Đại. Hơn nữa, cách này tám chín mươi phần trăm đảm bảo có tác dụng."

"Thật không ạ? Cách gì vậy cô?" Liễu Địch vừa ngạc nhiên vừa vui mừng.

"Chẳng phải em chăm sóc thầy Chương suốt ba năm nay hay sao? Đây chính là hành động thực tế nhất." Cô giáo Trần vô cùng phấn khích về ý tưởng "thiên tài" của mình: "Cô có một người bà con làm phóng viên ở đài truyền hình. Hôm nay, cô sẽ nói chuyện với người đó, bảo ngày mai đến trường phỏng vấn em. Em hãy kể chuyện chăm sóc thầy Chương, không cần khoa trương, cứ có thế nào nói như vậy. Đây vốn là một câu chuyện cảm động lòng người. Cô sẽ bảo người bà con của cô phát cuộc phỏng vấn này trên truyền hình trong thời gian nhanh nhất. Nếu việc làm của em được tuyên truyền trên tivi, chắc sẽ gây tiếng vang gấp nhiều lần việc vào đoàn hay làm cán bộ ấy chứ. Đến lúc đó, em sẽ nắm chắc tám chín mươi phần trăm cơ hội tuyển thẳng vào Bắc Đại."

Cô Trần càng nói càng hưng phấn: "Được rồi, cứ quyết định như vậy đi nhé. Em hãy về nhà chuẩn bị, ngày mai tiến hành phỏng vấn. À, em hãy nói trước với thầy Chương, ngày mai sẽ phỏng vấn cả thầy ấy, thầy ấy nhất định bằng lòng. Được lên tivi và nổi tiếng, ai mà không muốn chứ?" Nói đến đây, cô Trần mới phát hiện, Liễu Địch đang nhìn cô bằng ánh mắt phẫn nộ xen lẫn khinh thường.

"Thưa cô." Thanh âm của Liễu Địch tựa hồ phun ra ngọn lửa: "Cô không cảm thấy làm vậy là rất đê tiện hay sao?"

"Đê tiện?" Cô Trần không tin vào tai mình: "Sao lại nói là đê tiện? Cô cũng chỉ vì muốn tốt cho em mà."

"Muốn tốt cho em?" Liễu Địch hít một hơi sâu, lắc đầu. Cô nói rành rọt từng câu từng chữ một: "Cô coi em là gì? Cô coi thầy Chương là gì?"

"Sao em có thể nói như vậy?" Cô giáo Trần không khỏi tức giận. Làm sao không bực tức khi kế hoạch hoàn hảo do cô nghĩ ra bị Liễu Địch dùng từ "đê tiện" phủ nhận sạch sẽ. "Chuyện này đều có lợi đối với em và cả thầy Chương. Em có thể nổi tiếng, có thể vào Bắc Đại. Còn thầy Chương cũng sẽ nhận được nhiều sự giúp đỡ hơn, cuộc sống và sự nghiệp của thầy sẽ dễ dàng thuận lợi hơn."

"Có lợi ở điểm nào ạ?" Liễu Địch cuối cùng cũng không kiềm chế nổi, cất cao giọng: "Cô Trần, cô muốn đẩy thầy Chương đến trước giới truyền thông, xé toạc vết thương của thầy cho tất cả mọi người cùng thấy. Cô bắt em lợi dụng thầy để nổi tiếng, khiến vết thương lòng của thầy nhuốm đầy máu tươi. Cô khiến tất cả mọi người đều biết thầy mù lòa, khiến tất cả mọi người thương hại thầy, bố thí sự giúp đỡ với thầy, khiến tất cả mọi người giẫm đạp lên sự tôn nghiêm của thầy! Cô biến thầy thành kẻ đáng thương, biến em thành học trò mua danh trục lợi, biến sự chăm sóc không đáng kể của em với thầy trở thành vốn để em tiến lên, biến quan hệ giữa em và thầy trở thành quan hệ lợi dụng và bị lợi dụng. Vậy mà cô còn nói muốn tốt cho em và thầy. Cô...sao cô có thể thốt ra những lời đó?"

Cô giáo Trần hoàn toàn mờ mịt. Một loạt lý luận của Liễu Địch khiến đầu óc cô lùng bùng. Cô cất giọng nghi hoặc: "Liễu Địch, em nói gì thế? Cô có ý tốt mà em lại coi cô lòng lang dạ thú sao?"

Liễu Địch thở dài bất lực: "Cô Trần, em biết cô có ý tốt với em. Nhưng cô cũng như tất cả mọi người, đều coi thầy Chương là người mù. Do đó, việc thầy không nhìn thấy ánh sáng khiến mọi người cảm thấy thương hại. Còn em, em coi thầy là một người thầy em kính phục và sùng bái. Vì vậy, việc thầy sống trong tăm tối khiến em cảm thấy đau đớn và bi thương. Sự thương hại là được xây dựng trên cơ sở cảm giác ưu việt . Vì vậy, khi cô và mọi người thương hại thầy, cũng có nghĩa chà đạp lên sự tôn nghiêm của thầy. Thật ra, chúng ta không có tư cách thương hại bất cứ ai, đặt biệt là thầy Chương. Bởi vì chúng ta không hẳn đã ưu việt hơn thầy, cũng không nhất định đứng trên đầu thầy. Thậm chí em có thể nói, phần lớn chúng ta đứng dưới chân thầy. Có thể về mặt th.ân thể, thầy có khiếm khuyết không bằng người khác, nhưng về mặt kiến thức, học vấn và tư tưởng, thầy cao quý hơn bất cứ người nào."

Cô Trần chỉ biết trợn mắt há mồm. Trong đầu óc của nữ sinh này toàn nhồi nhét những suy nghĩ kỳ lạ. Con bé dám bảo vệ Chương Ngọc, còn khẳng định người đàn ông mù lòa, người giáo viên chưa tốt nghiệp đại học và chỉ dạy tạm thời đó cao quý hơn bất cứ ai? Thảo nào con bé tận tâm tận lực chăm sóc Chương Ngọc, thảo nào Chương Ngọc nhìn nó bằng ánh mắt khác. Con bé này và Chương Ngọc đúng là một đôi thầy trò không bình thường.

"Vậy.." Cô giáo Trần không cam lòng hỏi: "Em không cần suất tuyển thẳng? Không cần cơ hội nổi tiếng hay sao?"

Nổi tiếng? Đến bây giờ, cô chủ nhiệm vẫn cho rằng việc này là cơ hội nổi tiếng? Liễu Địch cắn môi, cố gắng đè nén cơn giận dữ. Nhưng lời nói của cô không khách khí: "Em không cần. Em và thầy Chương đều không phải là người dung tục như vậy."

Cô giáo Trần sắp không thể đè nén nộ khí. Liễu Địch dám dùng từ "dung tục", ai dung tục ở đây? Là cô hay sao? Cô cũng chỉ muốn tốt cho học trò, vậy mà bị con bé nói thành "dung tục".

Cô giáo Trần muốn mắng Liễu Địch một trận, nhưng cô biết không thể làm vậy. Liễu Địch vẫn chỉ là một đứa trẻ, cô không thể so đo với trẻ con. Hơn nữa, Liễu Địch là một học trò đầy triển vọng. Nếu Liễu Địch đăng ký nguyện vọng hai, cô cũng chẳng cần bận tâm, bởi vì Liễu Địch kiểu gì cũng thi đỗ đại học. Nhưng Liễu Địch chỉ đăng ký đại học Bắc Kinh, đây không phải là chuyện giỡn chơi. Từ một trường trung học nhỏ ở miền Bắc chen chân vào cánh cửa Bắc Đại đâu phải là dễ dàng. Ngộ nhỡ sơ sẩy, một học sinh có thành tích xuất sắc như Liễu Địch mà thi trượt đại học, thử hỏi mặt mũi cô sẽ để vào đâu? Hơn nữa còn ảnh hưởng đến tỷ lệ thi đỗ đại học của lớp cô. Nghĩ đến đây, cô giáo Trần đổ mồ hôi hột. Con bé này đúng là chẳng hiểu biết gì cả.

Nhưng đối diện với một học trò vừa bướng bỉnh vừa tự phụ, cô giáo Trần biết nói thế nào cũng vô tác dụng. Ai có thể khuyên nhủ nó? Trừ khi...trong đầu cô giáo Trần lại nảy ra một sáng kiến.

"Liễu Địch." Cô giáo Trần tiếp tục mở miệng: "Nếu thầy Chương đồng ý, em sẽ không phản đối đúng không?"

"Gì ạ? Cô định đi nói với thầy Chương hay sao?" Liễu Địch nhảy dựng lên. Cô hiểu rõ hơn ai hết, đối với thầy Chương mà nói, kiến nghị này chẳng khác nào đâm thêm một nhát vào nỗi đau của thầy: "Thưa cô, cô đừng đi nói với thầy Chương, thầy sẽ không đồng ý đâu ạ."

"Nếu vì bản thân, có thể thầy ấy không chịu. Nhưng vì em, chẳng lẽ thầy ấy không đồng ý hay sao?" Cô Trần lên tiếng, ngữ khí vô cùng chắc chắn.

Liễu Địch ngẩn người. Cô không ngờ cô chủ nhiệm lại nghĩ ra cách này, dùng cô làm vũ khí tấn công thầy Chương. Con người quả nhiên là động vật tàn nhẫn.

Cô giáo Trần nói tiếp: "Cô sẽ bàn với thầy Chương, sự việc này liên quan đến lợi ích thiết thân của em. Cô không tin em chăm sóc thầy ấy suốt ba năm, thầy ấy không chịu báo đáp em. Thầy ấy không đến nỗi máu lạnh như vậy đấy chứ?"

"Đây không phải là vấn đề báo đáp, cũng không phải vấn đề máu lạnh hay không, mà là vấn đề nhân cách và tôn nghiêm." Liễu Địch nói nhỏ. Trầm mặc vài giây, cô ngẩng đầu, ánh mắt vụt qua một tia sáng lạ thường: "Cô Trần, bất kể cô dùng lý do gì, thầy Chương chắc chắn không đồng ý."

"Nếu thầy ấy đồng ý thì sao?" Cô giáo Trần hỏi một câu.

"Nếu thầy ấy đồng ý." Thanh âm Liễu Địch rõ ràng và kiên định: "Vậy thì...thầy ấy không phải là thầy Chương mà em biết."

Cô giáo Trần ngây người, logic kiểu gì lạ vậy? "Dù thế nào, cô cũng sẽ thử một lần." Cô Trần nói xong liền quay người đi ra ngoài.

Năm giờ chiều, Liễu Địch tiễn thầy Chương đi trạm xe buýt đợi xe như thường lệ. Hôm nay lớp cô không có tiết tự học ngữ văn buổi tối. Trên đường đi, hai thầy trò đều im lặng. Liễu Địch muốn đọc ra điều gì đó từ nét mặt của thầy Chương. Tuy nhiên, thầy Chương vẫn tỏ ra bình tĩnh lạnh nhạt không thay đổi. Có lẽ cô chủ nhiệm vẫn chưa kịp nói chuyện với thầy.

Ánh hoàng hôn chiếu tia nắng màu vàng dịu dàng khắp không gian. Liễu Địch dắt thầy Chương đến trạm xe buýt, cô định để thầy ngồi nghỉ ngơi ở bồn hoa đinh hương. Nhưng thầy Chương nhẹ nhàng giật khỏi tay cô, đi thẳng đến bên cây dương liễu. Từ trước đến nay, cảm giác phương hướng của thầy đều rất chính xác.

Liễu Địch hơi sững sờ khi phát hiện ra điều bất bình thường. Lẽ nào cô chủ nhiệm đã đi tìm thầy Chương, và thầy đã nhận lời cô chủ nhiệm? Không, không thể. Cô tình nguyện chăm sóc thầy không phải vì ơn huệ, hơn nữa thầy Chương cũng chưa bao giờ coi cô là ân nhân. Bằng không, thầy tuyệt đối không chấp nhận sự chăm sóc của cô. Thầy...chắc chắn thầy không nhận lời.

Bốn bề rất yên tĩnh, ngoài hai thầy trò không có ai đứng đợi xe. Ánh hoàng hôn chiếu xuống cây dương liễu, tạo thành hình bóng dài trên mặt đất.

"Liễu Địch." Trầm mặc một lát, thầy Chương cuối cùng cũng mở miệng, ngữ khí của thầy hơi nặng nề, tựa hồ thầy phải hạ quyết tâm rất lớn mới nói ra lời: "Có một chuyện, tôi muốn cho em biết."

"Gì ạ?" Đôi lông mày thanh tú của Liễu Địch nhíu chặt vào nhau. Theo bản năng, cô đã đoán ra thầy muốn nói điều gì.

"Chiều nay, cô chủ nhiệm của lớp em đến tìm tôi. Cô ấy nói với tôi một chuyện liên quan đến em..."

"Thầy không cần phải nói." Liễu Địch đột ngột cắt ngang lời thầy: "Em biết, là việc tuyển thẳng vào Bắc Đại." Liễu Địch không dám nghe tiếp. Không hiểu tại sao, cô đột nhiên nhớ tới cảnh thầy Chương đứng đợi cô ở bến xe trong buổi tối tuyết rơi ngày cuối cùng của năm, bên tai cô vang lên câu nói của cô chủ nhiệm: "Vì em, chẳng lẽ thầy ấy không đồng ý hay sao?"

"Em biết rồi à?" Thầy Chương hơi kinh ngạc.

"Vâng ạ. Cô Trần đã nói với em chuyện này, nhưng em từ chối." Liễu Địch cất giọng dứt khoát. Cô không dám để thầy Chương nói trước, cô sợ nghe thấy lời thỏa hiệp từ thầy, dù sự thỏa hiệp đó là vì bản thân cô. Liễu Địch biết rõ, chỉ cần thỏa hiệp, thầy Chương sẽ coi thường nhân cách của cô, cô cũng sẽ coi thường nhân cách của thầy. Cô rất sợ mối quan hệ giữa cô và thầy sẽ thay đổi vì chuyện này.

"Ờ." Thầy Chương thở nhẹ một hơi, phảng phất được an ủi. Sau đó, thầy nói khẽ: "Tôi cũng từ chối đề nghị của cô giáo."

Sống mũi Liễu Địch đột nhiên cay cay. Tất cả mọi cảm giác sợ hãi, thấp thỏm đè nặng trong suốt một buổi chiều, lúc này như được đôi bàn tay vô hình gỡ xuống. Cùng lúc đó, một thứ tình cảm dịu dàng lặng lẽ ngập tràn trái tim cô.

Liễu Địch nhìn thầy Chương, gương mặt nhợt nhạt của thầy được nhuộm bởi ánh hoàng hôn nhàn nhạt ôn hòa. Cô bỗng cảm thấy, vào thời khắc này, trái tim cô rất gần thầy Chương. Họ chỉ đứng đó, đối diện nhau mà không nói một lời nào, nhưng hai linh hồn quấn quýt hòa nhập.

Cơn gió chiều mát lạnh thổi tới, không khí xung quanh đặc biệt trong lành. Liễu Địch đột nhiên phát hiện, bầu không khí êm dịu này tỏa ra mùi hương khiến con người chếnh choáng như mùi rượu vang. Cô nhìn ngó xung quanh, sau đó ngạc nhiên mừng rỡ khi bắt gặp nụ hoa màu tím nhạt ở trong bồn đinh hương không biết nở từ lúc nào.

Liễu Địch bất giác reo lên như một cô bé ngây thơ: "Thầy Chương, thầy mau lại đây xem đi, đinh hương nở hoa rồi! Đinh hương nở hoa rồi!"

Vừa nói dứt lời, Liễu Địch liền ôm miệng. Cô hoảng hốt nhìn thầy Chương. Trời ạ, sao cô có thể nói ra những lời này. Thầy Chương lặng lẽ đứng ở đó. Gương mặt thầy không lộ vẻ tức giận, ngược lại, khóe miệng thầy nhếch lên thành đường cong dịu dàng. Thầy hít mũi như muốn nắm bắt điều gì đó. Thế là Liễu Địch cũng bắt chước thầy, hít thở không khí trong lành. Ờ, không khí có mùi thơm của hoa đinh hương, mùi của cây cỏ, mùi của đất cát, mùi hương dìu dịu của chồi non, chúng đều là sinh khí của mùa xuân.

Liễu Địch đưa mắt ngắm nhìn xung quanh. Cô bắt gặp cây dương liễu của mùa xuân, hoa đinh hương của mùa xuân, con đường trải xi măng, và bầu trời trong vắt không một vẩn đục của mùa xuân, ánh tịch dương làm lay động lòng người và con chim nhỏ líu lo trên cành cây...Liễu Địch cuối cùng cũng cảm nhận thấy không khí của mùa xuân. Mùa xuân đến rồi! Trong lòng tràn ngập sự xúc động khiến Liễu Địch muốn hét to, muốn ca hát, muốn nhảy múa.

Nhưng cô cố gắng đè nén niềm vui, chuyển ánh mắt về phía thầy Chương. Thầy đang tắm trong ánh chiều tà, đã trở thành bức tượng điêu khắc màu vàng. Thầy cũng là một phần của mùa xuân. Thầy đứng nghiêm trang, thần sắc vô cùng tập trung, tựa hồ thầy đang dùng linh hồn để cảm nhận mùa xuân. Sau đó, thầy với tay cầm một cành dương liễu, nhẹ nhàng chạm vào mặt thầy, bình thản thốt ra một câu: "Mùa xuân đẹp thật."

Thanh âm bình tĩnh của thầy Chương có vẻ run run thâm trầm, như nốt nhạc chạy thẳng vào trái tim Liễu Địch, khiến cả th.ân thể và linh hồn của cô đều run rẩy. Trong lòng cô dội lên một tâm tình mãnh liệt. Cô ngước nhìn bầu trời, mặt trời đã dần khuất bóng nhưng vẫn cháy đỏ rực ở phía xa xa.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chương 9








"Tháng 7 đen tối" đáng sợ cuối cùng cũng đến.

Ngày 7 tháng 7, Liễu Địch thức dậy từ sáng sớm. Cô phát hiện ngoài trời đổ mưa, cơn mưa không nhỏ. Nhìn nước mưa chảy thành đường cong đẹp đẽ trên cửa kính, Liễu Địch khấp khởi mừng thầm. Nghe nói, các sĩ tử ở thời cổ đại khi đi thi chỉ mong trời mưa, trời mưa là điềm lành, dự báo bọn họ "vượt long môn" thành công. Nhưng có nhiều sĩ tử như vậy, ai cũng có thể thành công hay sao? Liễu Địch cười thầm, trong lòng cô hơi hơi căng thẳng. Tham gia cuộc thi quan trọng như vậy, sao có thể không khẩn trương? May mà môn đầu tiên là môn ngữ văn. Đối với Liễu Địch, đây là điều có lợi. Cô vội vàng ăn hai miếng bánh mỳ, uống một cốc sữa rồi xuất phát.

Địa điểm thi của Liễu Địch là trường trung học mười tám, cách nhà cô rất xa. Cô phải lên chuyến xe buýt số 2 mà thầy Chương thường ngồi mới có thể đến đích.

Liễu Địch từ chối đề nghị đi cùng của bố mẹ, một mình cô lên xe buýt. Trên xe phần lớn là thí sinh đi thi đại học và phụ huynh đi kèm. Bất kể người lớn hay con cái đều một vẻ mặt nghiêm túc. Có mấy người cố ý tươi cười trò chuyện, nhưng cũng không thể che giấu sự hồi hộp căng thẳng. Không hiểu tại sao, Liễu Địch cảm thấy bản thân bỗng dưng bị ảnh hưởng bởi không khí căng thẳng này. Nhịp tim của cô dường như đập nhanh hơn bình thường. Kỳ lạ thật đấy, từ trước đến nay cô luôn tự tin, tự tin đến mức không cho bản thân đường lùi. Vậy mà hôm nay cô lại thấy khẩn trương.

Bên tai Liễu Địch vang lên câu nói của cô chủ nhiệm: "Cô tán thưởng dũng khí của em, cũng tin tưởng vào khả năng của em, nhưng thi cử vô thường, cô không thể cam đoan 100% em thi đỗ."

Đúng vậy, ai có thể dám chắc 100% rằng mình thi đỗ? Cũng chẳng ai dám bảo đảm với cô, bao gồm cả bố cô. Tối qua, bố Liễu Địch trịnh trọng tặng cô bốn từ "cố gắng hết sức". Điều này có nghĩa, bố cô cũng không có lòng tin vào cô hay sao? Cũng chẳng trách được, bây giờ ngay cả lòng tin của cô cũng hơi lung lay. Câu khẳng định từ hai tháng trước phảng phất vang lên bên tai Liễu Địch: "Em không cho mình đường lùi! Đường lùi đều dành cho người nhu nhược. Em không tin em không thi đỗ!"

Thi cử vô thường! Thi cử vô thường! Liễu Địch tự hỏi bản thân: "Bây giờ mình còn dám nói câu đó không?"

Trường trung học mười tám sắp tới nơi. Liễu Địch nhìn ra ngoài cửa xe. Bên ngoài lố nhố đầu đen, toàn là thí sinh và phụ huynh. Liễu Địch rất phản đối chuyện phụ huynh đi theo thí sinh tới địa điểm thi. Cô cho rằng, phụ huynh đứng bên ngoài chẳng giúp ích gì cho thí sinh, nhiều khi còn có tác dụng ngược lại.

Thi đại học là quá trình kiểm nghiệm năng lực của bản thân, không ai có thể giúp bạn, bạn cũng không cần sự giúp đỡ của bất cứ người nào. Vì lý do này, Liễu Địch không cho bố mẹ cô đến điểm thi "chịu khổ chịu cực".

Nhưng vào thời khắc này, Liễu Địch cảm thấy hơi hối hận. Nghìn quân vạn mã qua cầu độc mộc, đây thật sự là nghìn quân vạn mã. Trong khi cây cầu độc mộc mà cô phải vượt qua lại là cây cầu khó khăn nhất. Khi xuất hiện tâm trạng khẩn trương và dao động, Liễu Địch hy vọng có một ai đó trong biển người kia chờ đợi cô, nói những lời động viên và khích lệ cô.

Nhảy xuống xe buýt, Liễu Địch lặng lẽ đi phía cổng trường. Không ai đợi cô, không ai an ủi cô, cô chỉ có thể dựa vào bản thân. Đột nhiên, Liễu Địch cảm thấy cơn mưa không còn đẹp đẽ, không phải dự báo điềm lành, mà biến thành hỗn loạn tơi tả. Nhưng vừa đi vài bước, Liễu Địch bất chợt phát hiện một hình bóng quen thuộc đứng dưới biển báo xe buýt. Cô sững sờ một giây, vội vàng đi lên. Cô gần như không tin vào mắt mình, trời ạ, hình bóng đó chính là thầy Chương.

"Liễu Địch, là em phải không?" Trong tiếng ồn ào náo nhiệt, thầy Chương vẫn có thể nhận ra tiếng bước chân của Liễu Địch. Thần đứng bất động một chỗ, trên người thầy khoác áo mưa màu đen, trong tay thầy cầm một cái ô chưa mở ra. Liễu Địch không biết thầy đứng đợi cô bao lâu. Cơn mưa không phải là nhỏ, gương mặt và gấu quần thầy ướt sũng nước.

"Thầy Chương." Viền mắt Liễu Địch nóng lên, cô vô ý thức nắm tay thầy: "Sao...thầy lại đến đây?"

"Em có mang theo phiếu báo danh không?" Thầy Chương cất giọng trầm trầm.

"Em mang rồi ạ." Liễu Địch trả lời, thanh âm của cô hơi run run.

"Ô thì sao?"

"Em cũng mang rồi ạ." Liễu Địch nhìn chiếc ô chưa mở trong tay thầy Chương.

"Dụng cụ học tập cũng mang đầy đủ rồi chứ?"

"Vâng ạ."

Hai người im lặng mặt đối mặt. Liễu Địch cảm thấy bàn tay đang nắm tay thầy Chương của cô run rẩy. Trong lòng cô cảm động vô cùng. Thầy Chương đội mưa gió đến điểm thi, chỉ để hỏi cô những điều vụn vặn. Nhưng từ điều vụn vặt đó, Liễu Địch cảm nhận thấy sự quan tâm to lớn của thầy.

Một hồi chuông vang lên, là tiếng chuông báo hiệu thí sinh vào phòng thi. Liễu Địch quyến luyến buông tay thầy Chương, đi về phía cổng trường.

"Liễu Địch!" Thầy Chương đột nhiên gọi tên cô. Liễu Địch dừng bước và quay đầu, thầy Chương dò dẫm đi đến trước mặt cô, quờ quạng nắm hai tay cô: "Em hơi căng thẳng, đúng không?" Thầy lại một lần nữa "nhìn" thấu tâm trạng của cô.

"Vâng ạ." Liễu Địch trả lời. Trước mặt thầy Chương, cô không muốn giấu giếm, cũng không cần thiết giấu giếm bản thân.

"Đừng sợ hãi, em hãy yên tâm đi thi!" Thầy Chương cất giọng trầm ổn, rõ ràng và kiên định: "Tôi dám dùng sinh mạng bảo đảm, em nhất định sẽ thi đỗ vào Bắc Đại."

Một luồng âm ấm dâng tràn lên khóe mắt Liễu Địch, khiến tầm nhìn của cô trở nên mơ hồ. Tâm trạng cảm động, xúc động và vui mừng bao trùm cả trái tim cô. Mọi sự căng thẳng và hỗn loạn trước đó bị quét sạch. Ai nói không người nào dám cam đoan cô thi đỗ? Thầy Chương dám, hơn nữa thầy còn dùng cả sinh mạng để bảo đảm. Trên đời này liệu có phụ huynh, thầy cô và bạn bè nào dám dùng sinh mạng bảo đảm tiền đồ của người đi thi? Chỉ một mình cô có được điều đó.

Vào thời khắc này, Liễu Địch đột nhiên cảm thấy, đôi bàn tay lớn đang nắm tay cô rất kiên định và ấm áp. Thầy Chương đang dùng sinh mạng bảo đảm, để đổi lấy tất cả sự tự tin cô vừa đánh mất.

"Liễu Địch, mau vào phòng thi đi!" Thầy Chương bất chợt buông tay Liễu Địch. Liễu Địch há miệng, muốn nói điều gì đó. Thế nhưng, cổ họng cô tắc nghẹn. Cô hít một hơi sâu, cố gắng kiềm chế giọt nước mắt. Sau đó, cô cắn răng, chạy như bay về phía điểm thi.

Trước khi vào cổng trường, Liễu Địch cuối cùng cũng quay đầu. Trong làn nước mắt mơ hồ, trong cơn mưa mờ mịt, cô nhìn thấy thầy Chương đứng bất động, phảng phất như bức tượng đá màu đen, như ngọn tháp thẳng đứng. Trong lòng Liễu Địch dội lên một niềm tin không dao động, một niềm tin tất thắng.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chương 10​



PwZO8zA.jpg





Sau khi nộp bài thi cuối cùng, Liễu Địch cũng như mỗi thí sinh trong phòng thi đều thở phào nhẹ nhõm. Phòng thi nóng bức vô cùng, khiến Liễu Địch không thể ở lâu hơn. Cô nhanh chóng rời khỏi nơi đó.

Đi ra sân trường, ngẩng đầu ngắm nhìn bầu trời trong xanh và vầng mây trắng trôi lững lờ trên không trung, Liễu Địch bỗng có cảm giác như cách một thế kỷ. Cô thật sự không dám tin, kỳ thi cô mất bao công sức, chuẩn bị một thời gian dài, bây giờ đã trở thành "thì quá khứ". Bên tai cô vẫn là tiếng bút viết bài thi loạt soạt, trước mắt cô vẫn là đề thi in chữ dày đặc...

Ba ngày nay, Liễu Địch cảm thấy cô đã đạt đến cảnh giới "quên bản thân". Phảng phất cô đi vào một khu rừng rậm rạp, cây cối rợp trời. Cô đã quen với trạng thái này, nên bây giờ đột nhiên được giải phóng, cô ngược lại mất phương hướng. Liễu Địch vô ý thức đảo mắt một lượt quanh sân trường, như muốn tìm kiếm điều gì đó. Cô lập tức nhìn thấy thầy Chương đứng bên cạnh bồn hoa.

Liễu Địch nhanh chóng chạy đến bên thầy, trong lòng cô xuất hiện một niềm vui khó diễn tả. Cô chẳng nói chẳng rằng nắm chặt hai tay thầy Chương.

Ba ngày vừa qua, mỗi khi thi xong một môn, Liễu Địch đều vô ý thức tìm kiếm hình bóng thầy Chương. Nhưng kể từ hôm đầu tiên gặp cô ở bên ngoài điểm thi, thầy Chương không xuất hiện thêm một lần nào. Hôm nay, lại được gặp thầy sau khi kết thúc môn thi cuối cùng, trái tim Liễu Địch bay bổng. Cô bất chợt ý thức ra, người cô muốn gặp nhất sau khi thi xong không phải là bố mẹ, mà là thầy Chương.

"Em làm bài thi thế nào?" Thầy Chương vẫn bình thản như thường lệ. Ngữ điệu của thầy không bộc lộ nỗi vui mừng hay niềm mong mỏi.

"Em cảm thấy rất tốt." Liễu Địch không hề mất hứng. Cô đã quen với giọng điệu của thầy, biết nó chẳng nói lên điều gì.

"Bài làm văn ra đề gì?"

"Lấy một bối cảnh hay địa điểm cố định đặt tiêu đề, sau đó thuật lại câu chuyện hoặc nhân vật có liên quan một cách chân thực, bày tỏ tình cảm chân thành và sâu sắc của mình."

"Hả?" Thầy Chương hơi bất ngờ: "Không phải là văn nghị luận. Vậy tiêu đề của em là..."

"Bến xe." Liễu Địch nói nhỏ.

Thầy Chương hơi sững người, tựa hồ bị chấn động. Đại khái hai từ "Bến xe" chạm đến một sợi dây thần kinh nào đó của thầy. Thầy trầm mặc một lúc, phảng phất đang suy tư điều gì đó.

Liễu Địch thấp thỏm bất an. Cô chợt nhớ tới bài văn "không điểm" viết về thầy. Không biết thầy Chương sẽ phê bình cô ra sao?

Một lúc sau, thầy Chương mở miệng, thanh âm bình tĩnh và quả quyết: "Liễu Địch, bài văn của em chắc chắn sẽ đạt điểm cao."

Một câu nói đáng vui mừng biết bao! Nỗi nơm nớp trong lòng Liễu Địch tan biến, khóe miệng cô cong lên. Sau đó cả gương mặt cô tươi cười rạng rỡ. Nụ cười ngây thơ, chân thành và đáng yêu của cô khiến đám nam sinh vô ý thức quay đầu, ngây ngốc ngắm nhìn.

Chỉ có thầy Chương là thờ ơ, bởi vì đối với người khiếm thị, vẻ đẹp bề ngoài không tồn tại bất cứ sự mê hoặc nào. "Hãy đưa tôi ra bến xe." Thầy nói khẽ, ngữ điệu ra lệnh theo thói quen: "Tôi muốn về nhà."

Về nhà? Nụ cười của Liễu Địch cứng đờ trên khóe môi. Cô cảm thấy hơi thất vọng, cô còn rất nhiều điều muốn tâm sự với thầy. Vậy mà thầy lại đòi về nhà.

Về nhà? Liễu Địch mơ hồ ngẫm nghĩ. Không biết nhà của thầy Chương như thế nào? Không có cha mẹ, không vợ con, không người thân, chỉ một mình thầy đối diện với bốn bức tường lạnh lẽo. Đó là thầy chìm trong bóng tối cô độc, chứ đâu phải là "nhà". Liễu Địch đột nhiên buột miệng nói: "Thầy Chương, em muốn đến thăm nhà thầy."

Vừa nói dứt lời, Liễu Địch giật mình kinh hãi, cô ôm miệng, không ngờ bản thân lại có ý nghĩ này, lại thốt ra câu này. Thầy Chương quả nhiên nhíu chặt lông mày: "Liễu Địch!" Thanh âm của thầy lạnh lùng như tiếng vọng từ núi băng: "Tôi không hoan nghênh bất cứ người nào đến nhà tôi, tất nhiên bao gồm cả em."

Liễu Địch co rúm người. Thầy có phản ứng mạnh như vậy, cô không cảm thấy kỳ lạ, cũng không cảm thấy cụt hứng, tất cả trong định liệu của cô. Nhưng..."nhà" của thầy Chương rốt cuộc như thế nào? Liễu Địch nhắm mắt, cố gắng tưởng tượng ra ngôi nhà lãnh lẽo đó. Câu nói vừa thốt ra miệng cứ quanh quẩn trong đầu óc cô, không tan biến. Nhưng Liễu Địch biết cô không thể "thỉnh cầu" thầy Chương một lần nữa.

Cô lặng lẽ đưa thầy Chương ra bến xe. Chỉ là sau khi thầy Chương lên xe, Liễu Địch cũng theo dòng người, lên chiếc xe buýt của thầy.

Trên xe đầy ắp phụ huynh và thí sinh. Mấy bạn học cùng lớp nhìn thấy Liễu Địch định lên tiếng chào hỏi. Liễu Địch vội đưa tay lên môi "suỵt" một tiếng, ra hiệu mọi người im lặng. Thầy Chương xuống xe ở một trạm xe buýt nhỏ, Liễu Địch đi theo thầy trong ánh mắt ngạc nhiên của bạn học.

Đi bộ một đoạn, thầy Chương tới một ngõ hẹp. Hai bên mặt ngõ đều là nhà mái ngói thấp dày đặc. Nhà nào cũng đóng chặt cửa, ngoài cửa có sợi dây thép phơi quần áo, chăn ga trải gi.ường, tã lót...Có lẽ do buổi chiều nắng gắt, cả ngõ nhỏ yên tĩnh vô cùng. Ngõ nhỏ ngoằn ngoèo, có lúc tưởng như đi đến tận cùng, nhưng lại xuất hiện lối rẽ. Liễu Địch cảm thấy cô sắp lạc đường, trong khi thầy Chương đi rất nhanh, tựa hồ thầy quen thuộc ngõ nhỏ như trong lòng bàn tay. Liễu Địch chỉ còn cách bám theo thầy, cô sợ chỉ một giây thiếu tập trung, cô sẽ để mất dấu thầy. Nhưng cô cũng không dám tiến lại gần quá, sợ bị thầy phát hiện.

Có mấy lần, thầy Chương đang đi đột nhiên hơi ngoảnh đầu. Liễu Địch theo phản xạ tránh sang một bên. Nghĩ lại, cô mới thấy phản ứng của mình là dư thừa. Mắt thầy Chương không nhìn thấy, nhưng cô thường quên mất điều này. Trong ý thức của cô, cô chưa bao giờ coi thầy là người mù.

Thầy Chương cuối cùng dừng lại bên một cây hòe già. Đằng sau cây hòe là một bức tường gạch bao quanh một cái sân nhỏ. Dưới gốc cây hòe già có cái ghế đung đưa, trên ghế có một bà lão đang ngồi chải đầu. Bà lão mắt nhắm mắt mở, ngáp dài ngáp ngắn. Thầy Chương đi vào sân nhỏ. Liễu Địch cũng đi theo thầy vào bên trong. Trong sân có ba gian nhà mái bằng, cửa ra vào của hai gian đều mở toang, chỉ có một gian đóng chặt. Thầy Chương đi về phía gian nhà đó. Thầy rút chìa khóa, mở cửa một cách thành thạo rồi đi vào trong nhà. Sau đó, Liễu Địch nghe thấy tiếng đóng sập cửa. Cánh cửa lại khép chặt.

Liễu Địch tần ngần đứng trước cánh cửa đóng kín. Cô hiếu kỳ quan sát ngôi nhà. Ngôi nhà được xây bằng gạch đỏ, diện tích xem ra cũng không nhỏ. Hai gian nhà phía đông có vẻ nhỏ hơn ngôi nhà này. Cánh cửa gỗ quét sơn màu xanh da trời, bây giờ đã bay màu trở thành nền trắng. Bên cạnh cửa ra vào là một cửa sổ nhỏ bằng kính. Đằng sau lớp kính là rèm cửa khá dày, che hết mọi thứ ở bên trong.

Đằng sau cánh cửa này là một thế giới như thế nào? Liễu Địch đột nhiên hơi chột dạ. Cô giơ tay định gõ cửa, nhưng vừa chạm vào cánh cửa, cô liền rụt tay về.

"Vào đi Liễu Địch, cửa không khóa đâu." Một giọng nói trầm thấp từ bên trong vọng ra ngoài. Liễu Địch giật mình hoảng hốt, tim đập thình thịch. Thầy Chương đã phát hiện ra cô, không biết thầy phát hiện từ lúc nào? Có lẽ từ lúc cô lên xe buýt? Trời ạ, thầy đúng là "sáng mắt sáng lòng".

Bà lão vừa chải đầu ở bên gốc hòe thò đầu vào trong sân, nhìn Liễu Địch bằng ánh mắt tò mò. Liễu Địch không do dự đẩy cửa đi vào trong nhà. Cô lập tức sững sờ trong giây lát.

Căn nhà tối om. Dù có tia nắng chiếu qua khe cửa, Liễu Địch cũng chỉ có thể miễn cưỡng phân biệt đường nét của đồ vật. Hình bóng của đống đồ vật như quái vật to lớn, mai phục ở một góc nào đó, chuẩn bị lao vào Liễu Địch đến nơi. Ngoài ra, trong bóng tối còn lan tỏa luồng khí vẩn đục, khiến Liễu Địch cảm thấy khó thở. Đúng rồi, mọi cánh cửa đều đóng kín, không khí chẳng được lưu thông. Sau đó, từ bóng tối vang lên tiếng nói của thầy Chương:

"Em có thể kéo rèm cửa sổ, Liễu Địch. Tôi đóng kín rèm cửa là bởi vì tôi không muốn người khác nhòm ngó vào nhà tôi bằng ánh mắt tò mò kỳ quái. Tôi càng không muốn nghe những tiếng thì thầm bàn tán của bọn họ. Tuy tôi không nhìn thấy nên sẽ không phiền não, nhưng tôi không muốn cho bọn họ cơ hội. Tất nhiên, em cũng có thể bật đèn, nhưng em phải tự tìm ra công tắc. Tôi không còn nhớ công tắc nằm ở chỗ nào rồi."

Có lẽ do ảnh hưởng bởi không khí trong nhà, thanh âm của thầy trở nên nặng nề. Liễu Địch không đợi thầy nói lần thứ hai, lập tức chạy về phía cửa sổ, kéo tung rèm cửa rồi mở toang cánh cửa sổ.

Sau đó, cô lại mở cửa sổ ở hướng nam. Luồng không khí trong lành ùa vào nhà, cả ngôi nhà chìm trong ánh sáng chói lòa. Ánh sáng bất thình lình khiến Liễu Địch nhắm mắt theo phản xạ, trong khi thầy Chương vẫn bất động. Lòng Liễu Địch chùng xuống. Thầy không có một chút cảm giác với ánh sáng. Tiếp theo, Liễu Địch quan sát cả ngôi nhà.

Ngôi nhà quả thực không nhỏ, nhưng rất chật chội, bởi vì hai bên tường toàn là giá sách. Giá sách rất cao, gần như tới trần nhà. Giá sách xếp đầy sách, to, nhỏ, dày, mỏng khác nhau. Ngoại trừ những giá sách này, ngôi nhà không còn bao nhiêu diện tích trống. Bên cửa sổ hướng nam đặt một cái bàn làm việc và một cái ghế mây. Trên bàn làm việc có một cái đèn bàn màu xanh lục. Bên cạnh đèn bàn là ấm trà, tách trà nhỏ, và chiếc đồng hồ để bàn cũng một màu xanh lục. Bên cạnh bàn làm việc là một chiếc gi.ường đơn và một hòm gỗ nhỏ. Trên gi.ường phủ ga màu xanh lá cây nhàn nhạt, hòm gỗ cũng được phủ một miếng vải cùng màu. Ga trải gi.ường và miếng vải đó có vẻ thường xuyên giặt giũ, nhưng vẫn có mấy vết bẩn, chứng tỏ người giặt không nhìn thấy. Trên vỏ gối và vỏ chăn có vài chỗ chưa giặt sạch. Trên bức tường ở hướng bắc của căn phòng treo đầy những bức tranh màu nước và tranh sơn dầu. Một số được lồng trong khung kính, một số cứ thế treo thẳng lên. Góc mỗi bức tranh đều đề tên, xem ra không phải tác phẩm của bố thầy Chương thì cũng là của thầy.

Dưới cửa sổ hướng bắc có một cái bếp ga, bồn rửa mặt và hai thùng mỳ ăn liền lớn. Trong ngôi nhà này không có gạo và mỳ sợi, không có rau cỏ và hoa quả. Nền đất được quét dọn sạch sẽ, nhưng ở các góc nhà vẫn xuất hiện không ít đồ lặt vặt, không phải chủ nhân lười biếng mà không phát hiện ra. Cả ngôi nhà rất đơn giản, nhưng lại không đơn giản một chút nào.

Năm năm trước, nơi này chắc rất tao nhã, rất nghệ thuật và thú vị. Bây giờ, nét "tao nhã" và "nghệ thuật" đó chỉ còn lại hình bóng mơ hồ. Bao trùm cả ngôi nhà là không khí lạnh lẽo, cô độc, tĩnh mịch, có phần thê lương.

Liễu Địch quan sát một lượt. Không hiểu tại sao, sống mũi cô cay cay, trong lòng cũng cảm thấy chua xót. Ngôi nhà này khiến cô nhận thức một cách sâu sắc nỗi bi ai của người khiếm thị. Cô cũng có thể cảm nhận thấy, thầy Chương sống rất nghiêm túc. Thầy không sa ngã hay chà đạp bản thân như những người gặp tai họa bất ngờ khác. Trong ngôi nhà này, dù thầy không nhìn thấy, dù thầy không cho người khác vào bên trong, nhưng thầy vẫn cố gắng giữ sạch sẽ. Tuy nhiên, cuộc sống của một người mù cô độc không thể có chất lượng, trừ khi nhận được sự quan tâm chăm sóc từ người khác.

Thầy Chương ngồi trên ghế mây bên bàn làm việc, cuối cùng cũng mở miệng: "Tôi đoán em sẽ đi theo tôi. Tôi từng nói, em rất cố chấp, cố chấp giống như tôi. Bây giờ, em đã nhìn thấy nhà của tôi rồi, tất cả đều đơn giản đúng không? Nhà của người mù không thể phức tạp, bởi vì anh ta không thể ứng phó với sự phức tạp, anh ta không thể thoát khỏi bóng tối vô tận. Anh ta có thể đánh bại vô số kẻ địch, nhưng vĩnh viễn không thể đánh bại bóng tối."

Ngữ điệu của thầy mang một chút tự giễu, đồng thời không che giấu tâm trạng thê lương và bất lực. Câu nói của thầy như bàn tay vô hình bóp nghẹt trái tim Liễu Địch, một nỗi bi thương ngày càng lan tỏa trong lòng cô. Liễu Địch đột ngột đi cầm cái chậu trên bồn nước, rồi quay người đi ra ngoài sân.

"Liễu Địch, em muốn làm gì vậy?" Thầy Chương kinh ngạc kêu lên, gương mặt thầy không còn sự nghiêm nghị và lạnh nhạt như thường lệ.

Liễu Địch không trả lời. Cô đi hứng một chậu nước, sau đó rút ga trải gi.ường và miếng vải màu xanh lục phủ trên hòm gỗ, bỏ vào chậu nước.

"Liễu Địch!" Thầy Chương lại hét lên. Thầy không nhìn thấy, nhưng vẫn có thể đoán biết Liễu Địch đang làm việc nhà: "Em hãy bỏ xuống! Tôi không cần em giúp đỡ." Thần sắc thầy vụt qua một tia bất an.

Liễu Địch không đáp lời. Cô tìm thấy miếng gỗ giặt quần áo và bột giặt ở dưới gầm gi.ường. Sau đó cô bắt đầu giặt ga trải gi.ường.

"Liễu Địch, dừng tay!" Thầy Chương vẫn cất cao giọng, thanh âm của thầy bộc lộ tâm trạng sốt ruột và khổ não, nhưng không tức giận. Trả lời thầy là tiếng cọ giặt loạt xoạt. Sau đó, thầy Chương thở dài, cất giọng bất lực: "Liễu Địch, tội gì em phải làm vậy?"

Liễu Địch hơi ngẩn người, nhưng động tác tay của cô vẫn không ngừng nghỉ. Cô nhanh chóng giặt xong ga trải gi.ường và tấm vải. Sau đó, cô bắt đầu giặt vỏ chăn, vỏ gối, và đống quần áo thầy Chương thay ra chưa kịp giặt. Từ nhỏ đến lớn, Liễu Địch chưa bao giờ giặt nhiều đồ như vậy. Đến cuối cùng, cô hơi thở dốc, nhưng cô cố gắng kìm nén, không để phát ra tiếng thở nặng nề. Thầy Chương lặng lẽ ngồi trên chiếc ghế mây, gương mặt thầy trầm tư. Không biết bao lâu sau, thầy lẩm bẩm nói một câu:

"Liễu Địch, em đang giúp tôi đánh bại bóng tối đúng không? Nhưng bóng tối của người mù quá nặng nề, em có thể giúp được bao nhiêu? Em có thể giúp được bao lâu?"

Liễu Địch thẫn thờ, cô nghe ra sự hiu quạnh từ giọng nói trầm thấp và bình tĩnh của thầy Chương. Cô bất giác nhướng mắt nhìn thầy, thần sắc thầy vẫn vô cảm. Bên tai Liễu Địch chợt vang lên câu nói của hiệu trưởng Cao gần một năm trước: "Cô bé, thầy không thể tưởng tượng nổi, sau khi em tốt nghiệp, thầy Chương sẽ như thế nào?"

Lúc đó, tốt nghiệp còn là chuyện xa vời. Nhưng hôm nay, cô đã thật sự tốt nghiệp, cô có thể giúp thầy bao nhiêu, có thể giúp thầy bao lâu? Lần đầu tiên trong đời, Liễu Địch cảm nhận thấy mùi ly biệt. Một giọt lệ âm thầm từ khóe mắt Liễu Địch chảy xuống, thuận theo khuôn mặt cô, cuối cùng rơi vào chậu nước, tan biến hoàn toàn.

Sau khi giặt xong đồ và phơi lên dây thép ở ngoài sân, Liễu Địch bắt đầu giúp thầy Chương lau giá sách, dọn dẹp nhà cửa. Cô kinh ngạc phát hiện, giá sách không hề có bụi, rõ ràng thường xuyên được lau chùi. Thầy Chương không thể đọc sách, nhưng thầy vẫn dày công nâng niu bảo vệ đống sách này. Sách được phân loại và sắp xếp đâu vào đấy, phần lớn là sách văn học. Sách lịch sử, nghệ thuật và triết học cũng chiếm diện tích không nhỏ. Những cuốn sách Liễu Địch biết đến đều xuất hiện ở đây. Liễu Địch còn phát hiện, có ba giá sách đều là sách ngoại văn. Đa phần là sách tiếng Anh và tiếng Pháp, một số cuốn tiếng Tây Ban Nha. Liễu Địch há hốc miệng, không biết nói gì mới phải.

Liễu Địch lại ngó qua khu vực văn học cổ điển: Kinh Thi (là một bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo); Phạn Từ; Bách Gia Chu Tử (là thời kì chứng kiến sự mở rộng to lớn về văn hóa và trí thức ở Trung Quốc kéo dài từ 770 đến 222 TCN. Trùng khớp với giai đoạn Xuân Thu và Chiến Quốc, và nó cũng được gọi là thời đại hoàng kim của tư tưởng Trung Quốc và thời kì "trăm nhà đua tranh này" chứng kiến sự nảy nở của nhiều trường phái tư tưởng khác nhau); Lịch sử tản văn; Nhị thập tứ sử (là tuyển tập các cuốn sách sử Trung Quốc bao quát giai đoạn lịch sử từ năm 3000 TCN tới thời nhà Minh vào thế kỷ 17. Toàn bộ có 3213 tập và khoảng 40 triệu chữ. Nó thường được coi là một nguồn dữ liệu chính xác về truyền thống lịch sử và văn hoá Trung Quốc); Hàn Nhạc Phủ; Đường Thi; Tống Từ; Nguyên Khúc; Tiểu thuyết Minh Thanh, các loại luận văn, tuyển tập của tám tác giả tản văn lớn đương đại...

Liễu Địch giở cuốn "Tuyền Ki Toái Cẩm", cô kinh ngạc phát hiện đây là cuốn sách về trò chơi văn tự của người Trung Quốc cổ đại. Ở trang đầu tiên, Liễu Địch nhìn thấy dòng chữ:

"Mua quyển sách này với giá cao, có lẽ đây là tuyệt bản, vô cùng sung sướng. Nét đặc sắc của văn tự Trung Quốc, người khác không khỏi kinh ngạc và thán phục. Tác giả cuốn này chắc là thiên tài.

Liễu Địch ngẩng đầu, hai má cô đỏ bừng, đôi mắt sáng rực. Cô không thể kiềm chế, thốt lên một câu: "Thầy Chương, thầy sở hữu một kho báu, một kho báu thật sự!"

"Ý em là những cuốn sách đó phải không?" Thầy Chương tựa hồ bừng tỉnh từ trong nỗi trầm tư: "Đây đúng là một kho báu. Thời đi học, có bao nhiêu tiền tôi đều dốc ra mua sách hết. Để kiếm tiền mua sách, tôi từng đi làm thuê, làm gia sư, thậm chí có lúc bán cả quần áo của mình...Việc làm sáng suốt nhất của tôi là không để sách ở nhà bố mẹ, mà để ở đây, nên chúng mới thoát khỏi trận hỏa hoạn đó. Tuy bây giờ không thể đọc chúng, nhưng tôi vẫn cảm thấy rất may mắn. Sau khi bị mù, nhiều người khuyên tôi bán chỗ sách này đi. Người ở thư viện còn đến tận đây thuyết phục tôi, nhưng tôi không đồng ý. Sao tôi có thể nhận lời bán chúng?"

Liễu Địch trầm mặc. Cô hiểu một cách sâu sắc tình cảm của thầy Chương. Đúng vậy, sao có thể đem bán sách? Những cuốn sách này đánh dấu khoảng thời gian đẹp đẽ nhất trong cuộc đời thầy Chương, tích tụ biết bao giọt mồ hôi và tâm huyết của thầy, tích tụ tuổi thanh xuân và ước mơ của thầy, tích tụ tư tưởng và tín niệm của thầy...Chúng không chỉ đơn thuần là những cuốn sách vô tri vô giác, chúng đã trở thành một phần trong sinh mệnh của thầy Chương. Thầy Chương làm sao nỡ cắt bỏ sinh mệnh của mình?

Thầy Chương lại chìm vào hồi ức. Tâm tình nằm sâu trong ký ức của thầy, bây giờ đang từ từ tuôn chảy như dòng suối nhỏ:

"Lúc đó, tôi yêu sách như sinh mạng. Kiếm được một cuốn sách hay, tôi sẽ đọc nó quên ăn quên ngủ. Ở Bắc Đại có một giáo sư đặc biệt tin tưởng vào việc học thuộc lòng. Ông cho rằng, tiên sinh Tư Thục ở thời cổ đại đào tạo ra nhiều nhân tài qua việc bắt học trò đọc thuộc lòng, tự nhiên có đạo lý nhất định. Tôi cũng bị ảnh hưởng bởi vị giáo sư đó. Phàm là sách hay, những bài văn hay, tôi đều đọc thuộc trong đầu. Tất nhiên tôi không phải học thuộc một cách cứng nhắc, mà vừa đọc vừa cảm nhận. Bây giờ tôi thực sự cảm kích vị giáo sư. Sau khi tôi bị mù, chính những cuốn sách in sâu trong não bộ đã giúp linh hồn và tư tưởng của tôi không bị khô cạn. Tôi "đọc" chúng mỗi ngày, đọc đi đọc lại nhiều lần...Nếu không đọc, tôi làm sao có thể tiếp tục cuộc sống?"

Liễu Địch bị lây nhiễm bởi tình yêu xuất phát tự đáy lòng đối với sách và tri thức của thầy Chương. Cô chợt nhớ tới buổi lên lớp đầu tiên của thầy. Thảo nào các bạn học không thể làm khó thầy. Ở trước mặt thầy Chương, bọn họ quả thực quá nông cạn.

Sau khi dọn dẹp giá sách, Liễu Địch lại bắt đầu lau chùi bàn làm việc. Cô phát hiện một máy nghe băng cát xét và mười mấy cuộn băng ở trong ngăn kéo. Nghe thấy tiếng mở ngăn kéo, thầy Chương vội ngăn lại: "Liễu Địch, em đừng động vào những cuộn băng đó. Đây là băng ghi âm đại cương, giáo trình, tài liệu tham khảo và phương pháp dạy học của môn ngữ văn cấp ba. Mỗi buổi tối, tôi đều nghe những cuộn băng này. Nếu em làm lộn xộn, tôi sẽ không tìm thấy cuộn băng tôi cần."

Liễu Địch thè lưỡi, lập tức đóng ngăn kéo. Cô thầm nghĩ, thầy Chương nhờ người ghi âm những tài liệu này không biết tốn bao công sức. Thầy quả thực là một thầy giáo tốt.

Sau đó, ánh mắt cô dừng lại ở những bức tranh treo trên bờ tường phía bắc. Những bức tranh đó rõ ràng không được thầy Chương trân trọng như đống sách, bởi chúng dính đầy bụi. Liễu Địch tìm một miếng vải khô mềm. Cô nhẹ nhàng lau hết bụi ở trên đó, trả lại diện mạo cho những bức tranh.

Mỗi khi lau sạch một bức tranh, Liễu Địch không khỏi cảm thán trong lòng. Cô không hiểu hội họa, không thể đánh giá những bức tranh này. Nhưng cô có thể cảm nhận rõ ràng, trong mỗi bức tranh ẩn chứa một sức mạnh, một sức mạnh không thuộc về kỹ thuật hội họa, mà thuộc về sinh mệnh, tình cảm và linh hồn.

Sức mạnh này khiến Liễu Địch cảm động. Nó rốt cuộc là gì? Cô trầm tư suy ngẫm, ánh mắt cô vô tình dừng lại ở hai bức tranh sơn dầu tương đối lớn chạm cả xuống mặt đất cô vừa lau xong. Liễu Địch bị một cơn chấn động mãnh liệt trong giây lát.

Đây là hai bức tranh khác nhau. Một bức vẽ đại dương mênh mông. Người vẽ sử dụng gam màu lam thẫm. Sóng biển cuộn trào thành từng bông hoa sóng. Bên trên là bầu trời, bầu trời màu xám mờ và tầng mây nhàn nhạt. Bức tranh không có mặt trời cũng không có cánh chim bay. Bên bờ biển là một bãi cát nhỏ. Trên bãi cát có một cành cây khô vừa cằn cỗi vừa thô ráp, nằm cô độc ở đó. Sóng biển lấp chìm một nửa cành cây khô. Nhưng ở giữa chạc cây lại nhú lên một chồi non nho nhỏ màu xanh lục, khiến cả bức tranh ảm đạm trở nên có sinh khí, tỏa ra một sức mạnh thuộc về sinh mệnh khó diễn tả thành lời.

Bức tranh sơn dầu còn lại vẽ mặt trời sắp lặn trên biển. Mặt biển hiền hòa, ánh hoàng hôn màu vàng rực rỡ. Nơi tiếp giáp trời biển có chùm mây xán lạn và ông mặt trời đỏ rực, trông rất huy hoàng, cũng u sầu. Ông mặt trời như quả tim tích tụ mọi huyết quản, sau đó giải phóng hết năng lượng, đốt cháy tôn nghiêm, hy vọng, tình yêu của nhân loại, cho đến khi trái tim đó cháy hết.

Liễu Địch ngẩn ngơ ngắm hai tác phẩm rung động lòng người đó. Cô hoàn toàn bất động, cũng không nói chuyện, chỉ thất thần ngắm tranh. Cô như chìm trong cảm xúc ly kỳ và chấn động. Trong lòng cô vụt qua tia mờ mịt, chua xót, bi tráng...Cô không thể phân tích tâm trạng của mình lúc này.

Nhưng Liễu Địch đột nhiên hiểu ra, sức mạnh ẩn chứa trong tranh của thầy Chương, chính là bản thân "sinh mệnh", chính là tình yêu mãnh liệt đối với sinh mệnh. Sinh mệnh dẻo dai, sinh mệnh tươi mới, sinh mệnh đầy tôn nghiêm, sinh mệnh cao quý, sinh mệnh không khuất phục, sinh mệnh không thể bị hủy diệt và sỉ nhục...đều thể hiện trong tác phẩm của thầy. Thầy không phải vẽ bằng nét bút, mà dùng tư tưởng, tình cảm và linh hồn để vẽ tranh.

"Liễu Địch, em đang làm gì vậy?" Thầy Chương đột nhiên mở miệng, phá vỡ không khí tĩnh lặng.

"Em đang xem tranh ạ." Liễu Địch vẫn chìm đắm trong cảm xúc của mình.

"Bức nào?"

"Mặt trời lặn trên biển."

"Em có cảm giác gì không?"

"Bi tráng như sự cảm thán của người anh hùng ạ."

Gương mặt thầy Chương hơi rung động.

"Thầy Chương, thầy rất thích biển đúng không ạ?" Liễu Địch hỏi nhỏ.

"Đúng vậy, tôi rất thích." Thầy Chương lại chìm trong hồi ức: "Tôi còn nhớ lần đầu tiên tôi nhìn thấy biển. Đó là kỳ nghỉ hè năm lớp 11, một mình tôi đi đến làng chài nhỏ ở Yên Đài, sống nhờ nhà một bà lão ở đó. Lúc bấy giờ, khi nhìn thấy mặt biển mênh mông, mặt biển vô cùng vô tận, tôi mới nhận thức được thế nào là bao la bát ngát. Đứng trước biển, tôi cảm thấy bản thân nhỏ bé vô cùng. Thế là cả kỳ nghỉ hè năm đó, tôi đeo ống vẽ tranh, đi lang thang suốt đường bờ biển dài không biết bao nhiêu cây số. Có lúc, tôi chẳng làm gì cả, chỉ ngồi trên mỏm đá mấy tiếng đồng hồ nhìn ra biển. Những lúc như vậy, tư duy của tôi trống rỗng, linh hồn yên lặng, thần trí chìm trong hư vô, trong cảnh giới quên đi bản thân." Thầy Chương thở khẽ, sau đó cất giọng thâm trầm mà xúc động: "Em có biết không, biển là kiên cường nhất. Nó có thể bao dung mọi nỗi đau khổ và bất hạnh của con người."

Liễu Địch đã hoàn toàn hóa đá. Từ trước đến nay thầy Chương hết sức kiệm lời, vậy mà bây giờ thầy tâm sự nhiều như vậy. Có thể thấy, đã từ rất lâu, thầy không nhắc đến ký ức đã phủ bụi mờ với người khác.

"Đến bây giờ tôi vẫn nhớ rõ mọi thứ ở biển." Thầy Chương nói tiếp: "Tôi vẫn nhớ những mỏm đá lởm chởm, đủ hình thù sinh động, đâu đâu cũng có dấu vết của ngọn sóng đánh vào...Còn bãi cát bên bờ biển, cát vừa mịn vừa trắng, thường lấp lánh dưới ánh mặt trời, giống như vô số vì sao vỡ vụn trong cát. Trên bãi cát còn có nhiều vỏ sò, tuy không hoàn chỉnh nhưng được sóng biển gột rửa sạch sẽ. Vỏ sò thiên hình vạn trạng, đủ loại màu sắc, trắng như tuyết, đỏ như máu, tím như vầng mây cuối cùng ở trên không trung trước khi trời tối..."

Liễu Địch reo lên: "Đẹp quá, em cũng muốn đi xem."

"Biển có rất nhiều thứ đáng chiêm ngưỡng và khám phá." Thầy Chương hơi thất thần: "Mặt trời mọc trên biển là thời khắc ly kỳ nhất. Vô số tia sáng vàng tỏa ra từ chân trời tối đen. Tiếp theo là mặt trời đỏ rực như quả cầu lửa nhô ra khỏi vầng mây xán lạn, từ từ bay lên cao, lên cao mãi...cho đến khi em không thể nhìn thẳng vào nó. Còn mặt biển từ mờ mờ chuyển thành màu đỏ, rồi từ màu đỏ chuyển thành những cơn sóng trắng xóa. Quá trình thay đổi này rất kỳ diệu, đến mức em ngừng hô hấp. Ngoài ra, đến khi trời tối, mặt biển một màu đen nhưng tinh tú lấp lánh trên bầu trời dệt thành bức tranh mộng ảo."

Liễu Địch nín thở lắng nghe, sau đó cô không thể đè nén tâm trạng xúc động: "Em muốn ngắm biển, muốn ngắm biển ngay lập tức!"

"Tôi cũng vậy...tôi rất muốn, muốn ngắm biển một lần." Ngữ điệu của thầy Chương đột nhiên trở nên lạ thường, đôi lông mày của thầy nhíu chặt, thanh âm run run: "Tôi muốn nhìn thấy biển. Thật đấy, tôi muốn lại được nhìn thấy sóng biển cuộn trào, gió biển rì rào, chim hải âu vỗ cánh. Tôi muốn nhìn thấy những ngọn sóng nhấp nhô, bầu trời trong xanh và làn mây trắng. Thật đấy, có lúc mặt biển như tấm thảm nhung màu xanh, khiến tôi chỉ muốn nằm ngủ ở trên đó, muốn lăn lộn ở trên đó. Còn cả ánh hoàng hôn khi mặt trời lặn, ngọn hải đăng và những cánh buồm về bến. Tôi muốn nhìn thấy con dã tràng trên bờ cát... Nếu tôi có thể được nhìn một lần, cho dù một lần, tôi cũng..." Thầy Chương đột ngột dừng lại, gương mặt thầy trở nên co rúm, thần sắc tái mét.

Nhưng chỉ một vài giây sau, thầy lại khôi phục vẻ bình tĩnh như chưa từng có chuyện gì xảy ra: "Tôi xin lỗi, Liễu Địch, tôi hơi thất lễ." Thầy nói: "Em có biết không? Những lúc cô độc, tôi thường hồi tưởng lại cảnh tượng này. Nhưng mỗi năm trôi qua, tôi chợt phát hiện những hình ảnh đó ngày càng trở nên mơ hồ trong trí óc tôi. Tôi sống trong thế giới không ánh sáng không màu sắc. Thế giới này, tôi không thể đi ra, người khác cũng không thể đi vào. Trong bóng tối vô biên vô tận, ký ức của tôi về ánh sáng và màu sắc từ từ biến mất. Tôi nghĩ, vài năm sau, có lẽ những hình ảnh sống động đó sẽ chỉ còn lại một mớ hỗn độn trong trí não của tôi."

Sống lưng Liễu Địch lạnh buốt, cô cảm thấy từng tế bào của linh hồn đều run rẩy. Thế giới không màu sắc là thế giới như thế nào? Thế giới không ánh sáng là thế giới ra sao? Một người từ nhỏ đã vô cùng nhạy cảm với ánh sáng và màu sắc như thầy Chương làm thế nào để chịu đựng cuộc sống không màu sắc và ánh sáng? Liễu Địch hối hận đã gợi mở ký ức của thầy. Điều này nhất định sẽ đụng chạm đến nỗi đau từ đáy sâu trong nội tâm của thầy. Cô nhanh chóng rời khỏi những bức họa, đi dọn dẹp đồ dưới gầm gi.ường của thầy Chương.

Dưới gầm gi.ường chất đầy giá vẽ, bút lông, hộp màu và cả những tờ giấy trắng chưa từng sử dụng. Đối với thầy Chương mà nói, những thứ này không còn tác dụng. Liễu Địch cố gắng dồn hết chúng về một bên, chừa không gian chứa những thứ khác.

Liễu Địch đột nhiên phát hiện một cây đàn ghita dưới đống giấy vẽ. Đàn ghita đầy bụi, dây đàn đã bị gỉ, chứng tỏ một thời gian dài không ai đụng đến nó. Liễu Địch lôi đàn ghita khỏi gầm gi.ường, hưng phấn reo lên như phát hiện ra lục địa mới: "Thầy Chương, thầy biết chơi ghita phải không ạ?"

"Tôi có học một thời gian." Thầy Chương gật đầu: "Thời gian học ở Bắc Đại, trong phòng ký túc của tôi có một cậu chơi ghita rất nổi tiếng. Tôi học từ cậu ấy. Tôi từng bỏ nhiều công sức và nhiệt huyết vào cây đàn ghita. Nhưng sau khi bị mù, tôi không động đến nó, tính ra cũng năm năm rồi còn gì? À..." Thầy Chương đột nhiên hiểu ra vấn đề: "Em tìm thấy đàn ghita của tôi đúng không?"

Liễu Địch không trả lời. Cô ngắm nhìn cây đàn ghita đã bị bỏ quên nhiều năm. Qua chất gỗ của nó, có thể đoán năm đó nó rất đắt tiền. Nhưng bây giờ, nó bám đầy bụi, trông giống một nhà nghệ thuật sa sút tinh thần. Liễu Địch lấy một tấm giẻ lau, cẩn thận lau sạch bụi trên cây đàn. Nhìn cây đàn từ từ bóng loáng, Liễu Địch rơi vào trầm tư. Hôm nay là một buổi chiều kỳ lạ, Liễu Địch từng chút một tìm thấy dấu vết cuộc sống quá khứ của thầy Chương qua đồ đạc trong nhà và lời kể của thầy. Quá khứ của thầy dần hiện ra trước mắt cô. Đọc sách, viết văn, ngắm biển, vẽ tranh, chơi ghita...cuộc sống của thầy vô cùng phong phú và có chất lượng. Còn bây giờ, để bảo vệ nhân cách và tôn nghiêm của bản thân, thầy cam tâm tình nguyện sống cô độc hết ngày này sang ngày khác, hết năm này sang năm khác. Liễu Địch bất giác đọc khẽ một câu thơ: "Tiêu thủ triều triều hoàn mộ mộ, tiên tâm nhật nhật phục niên niên." (một câu thơ trong "Hồng Lâu Mộng" chỉ người con gái thời cổ đại phải sống tẻ nhạt trong khuê phòng hết ngày này đến ngày khác)

Thầy Chương đang ngồi trên ghế mây đột nhiên đứng bật dậy, hỏi bằng giọng bức thiết: "Liễu Địch, em vừa đọc gì thế?"

Liễu Địch chưa kịp trả lời, cây đàn ghita trong tay cô đột nhiên phát tiếng kêu đau đớn. Hai thầy trò giật mình, Liễu Địch cúi đầu nhìn, hóa ra dây đàn bị gỉ đã đứt phựt trong lúc cô lau chùi.

Hai thầy trò đều trầm mặc trong giây lát. Dư âm run rẩy của tiếng đàn ngân vang trong căn phòng một lúc lâu. Thanh âm khàn đục đó khiến trái tim của hai thầy trò rung lên.

Khi dư âm của tiếng đàn biến mất, thầy Chương cảm khái: "Vào thời khắc mọi dây đàn bị đứt, chúng đều phát ra tiếng kêu xé lòng, bởi chúng không cam tâm lặng lẽ chết đi."

Liễu Địch ngẩn người lắng nghe, cô vẫn chưa hoàn hoàn toàn lĩnh hội hàm ý trong câu nói của thầy Chương. Đúng lúc này, Liễu Địch nghe thấy tiếng nói chuyện từ bên ngoài vọng vào. Cô nhìn ra ngoài cửa, phát hiện mấy người phụ nữ trung niên và trẻ tuổi ở ngoài sân chỉ chỉ chỏ chỏ bàn tán điều gì đó. Thầy Chương cũng nghe thấy tiếng nói chuyện. Đáy mắt thầy vụt qua một tia cảnh giác, gương mặt thầy trở nên nghiêm nghị. Thầy cất giọng vô cảm với Liễu Địch: "Liễu Địch, không còn sớm nữa, em mau về nhà đi."

Đúng vậy, trời không còn sớm. Liễu Địch đưa mắt ra ngoài cửa sổ, ông mặt trời đỏ rực ở phía Tây, ánh hoàng hôn buông xuống.

"Nhưng..." Liễu Địch liếc hai thùng mỳ ăn liền, cô còn muốn nấu bữa tối cho thầy Chương.

"Được rồi, Liễu Địch, em hãy đi về đi!" Thầy Chương lại một lần nữa "nhìn" thấu tâm tư của cô: "Xin thứ lỗi tôi đón tiếp em không chu đáo. Tôi không định giữ em ở lại cùng ăn bữa tối."

Liễu Địch ngước nhìn thầy Chương. Sắc mặt thầy âm trầm lạnh lẽo. Thầy lại đóng chặt cánh cửa trái tim khó khăn lắm mới mở ra một chút. Liễu Địch thở dài, hiện thực là một cây roi da tàn nhẫn, nó có thể đuổi hết mọi thứ đẹp đẽ và ấm áp. Cô tức giận trừng mắt với mấy người phụ nữ ở ngoài sân, rồi lưu luyến đảo mắt một lượt quanh ngôi nhà và thầy Chương đang đứng yên lặng ở giữa nhà. Sau đó Liễu Địch mím môi, quay người đi ra ngoài.

Mặt trời sắp khuất bóng, ánh sáng vàng dịu dàng cuối cùng trong ngày chiếu lên bức tường bao xung quanh sân nhỏ. Liễu Địch nhìn ông mặt trời đỏ rực, cô đột nhiên nhớ tới mặt trời trên biển trong bức tranh của thầy Chương. Liễu Địch bất giác quay đầu về phía sân nhỏ đang được tắm trong hoàng hôn. Thầy Chương không biết đứng bên cửa ra vào từ lúc nào. Hình bóng cao lớn, cô độc của thầy nổi bật trong ánh chiều tà.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chương 11​


Cuối tháng 7, điểm thi đại học cuối cùng cũng được công bố. Lớp 12 (1) do thầy Chương dạy đạt thành tích tương đối tốt, đặc biệt là môn ngữ văn, bình quân điểm số đứng đầu toàn tỉnh. Liễu Địch đạt 718 điểm, xếp thứ nhất khối văn toàn tỉnh. Trong đó, thành tích môn ngữ văn của cô cao khủng khiếp. Điểm tối đa là 150 điểm, cô đạt tới 147 điểm. Con số này có khi đứng đầu cả nước.

Tin tức vừa lan ra, cả thành phố xôn xao. Thị trưởng thành phố đích thân gặp gỡ "trạng nguyên khối văn", khen ngợi Liễu Địch "tuổi trẻ tài cao". Phóng viên báo chí cũng lần lượt đến phỏng vấn Liễu Địch, đề nghị cô phát biểu cảm tưởng, tiết lộ kinh nghiệm học tập, phát biểu một lô vấn đề không quan trọng. Nhà trường đặc biệt dán tờ giấy đỏ báo tin vui cỡ lớn, đồng thời mời Liễu Địch tham gia buổi báo cáo với toàn trường.

Cô chủ nhiệm Trần Chi tươi cười hớn hở, khen Liễu Địch là "thiên tài". Cô Trần cho biết, cô đã sớm dự đoán Liễu Địch có thể thi đỗ Bắc Đại. Bố mẹ Liễu Địch càng vui mừng, cười ngoác miệng từ sáng đến tối. Liễu Địch phảng phất trút tảng đá nặng trong lòng, cô cũng cảm thấy vui mừng hưng phấn một thời gian.

Nhưng sau đó, đối diện với những lời ca tụng không ngừng nghỉ, với các loại hoạt động và phỏng vấn liên tiếp, tâm trạng hưng phấn nhanh chóng biến mất, thay vào đó là nỗi bực dọc. Liễu Địch từ chối buổi báo cáo của nhà trường và các cuộc phỏng vấn không cần thiết. Cuối cùng, để né tránh đám phóng viên dai như đỉa đói, Liễu Địch trốn ở văn phòng thầy Chương cả ngày không ra ngoài. Dù sao từ trước đến nay, văn phòng của thầy Chương cũng là "cấm địa". Không được phép của thầy, ngay cả thị trưởng thành phố cũng không thể vào bên trong. Thầy Chương vẫn bình thản như thường lệ, nghe tin thành tích môn ngữ văn của lớp do thầy dạy đứng đầu toàn tỉnh, thầy đều không ngẩng đầu. Chỉ khi nghe tin Liễu Địch đạt thành tích tốt, gương mặt thầy mới để lộ ý cười vui mừng.

Tiếp theo là đợi thông báo trúng tuyển.

Những trường đại học trọng điểm gửi thông báo trúng tuyển, không có tên Liễu Địch.

Các trường đại học hạng hai gửi thông báo trúng tuyển, vẫn không có tên Liễu Địch.

Bố mẹ Liễu Địch hoảng hốt. Bọn họ bắt đầu nhờ người hỏi thăm tình hình khắp nơi, nhưng không có kết quả. Bố Liễu Địch thậm chí gọi điện tới tận đại học Bắc Kinh, nhưng câu trả lời của đối phương vừa khách sáo vừa mơ hồ, khiến bố Liễu Địch chẳng biết đường nào mà lần.

Liễu Địch cũng sốt ruột lo lắng. Nghe nói, thành tích của cô vượt xa điểm chuẩn, tại sao không được tuyển? Là bị bỏ sót hay nhầm lẫn ở đâu? Hay là thông báo trúng tuyển gửi chậm trễ? Các loại suy đoán và nghi hoặc khiến Liễu Địch rối bời, nhưng cô vẫn không tìm ra đầu mối.

Nên biết, một trường đại học lớn như Bắc Đại, điểm số không phải là điều kiện tuyển chọn duy nhất. Có mấy chục lý do bị loại, ai mà biết cô rơi vào trường hợp nào?

Sau khi biết tin, đám phóng viên lập tức thay đổi thái độ. Một số hoạt động Liễu Địch nhận lời trước đó, bỗng dưng bị hủy bỏ bởi các lý do "hợp tình hợp lý". Liễu Địch từ đứa con cưng của thượng đế, trở thành con chim sẻ bị quên lãng trong mùa đông. Việc từ thiên đường rơi xuống địa ngục trong giây lát khiến Liễu Địch không chịu đựng nổi.

Đúng lúc này, tin đồn không biết bắt nguồn từ đâu âm thầm lan truyền với tốc độ chóng mặt, nào là "điểm số công bố sai", "lúc khớp điểm xảy ra vấn đề"...Có người nói Liễu Địch gian lận trong thi cử, bị người khác tố cáo nên bị hủy tư cách tuyển chọn. Các loại tin đồn tồi tệ khiến một cô gái chững chạc như Liễu Địch cũng không thể kiềm chế, cô cảm thấy bản thân sắp phát điên.

Ở trường, Liễu Địch phải đối diện với vô số ánh mắt nghi ngờ dò hỏi. Ở nhà, cô phải đối diện với gương mặt u ám của bố mẹ. Mặc dù thế giới rộng lớn như vậy nhưng cô không có chốn dung thân. Chỉ trong văn phòng nhỏ của thầy Chương, Liễu Địch mới được yên tĩnh.

Đúng vậy, kể từ lúc công bố điểm thi, Liễu Địch chiều nào cũng đến văn phòng của thầy Chương chờ thông báo nhập học. Thầy Chương ngày ngày đến trường cùng cô chờ đợi. Hai thầy trò thường lặng lẽ ngồi trong văn phòng cả buổi chiều. Đến giờ tan tầm, Liễu Địch lại tiễn thầy Chương ra trạm xe buýt.

Liễu Địch từng khuyên thầy Chương đừng đội nắng nóng đến trường cùng cô, nhưng thầy chỉ cố chấp lắc đầu. Trên thực tế, Liễu Địch rất mong thầy Chương ở bên cạnh cô. Không hiểu tại sao, gương mặt điềm tĩnh và lạnh nhạt của thầy Chương, mang đến cho cô một sức mạnh và niềm an ủi khó hình dung, nó có tác dụng hơn bất cứ lời nói nào. Ngắm nhìn bộ dạng thản nhiên và trầm tĩnh của thầy, tâm trạng lo lắng bất an của Liễu Địch lắng xuống như có phép lạ.

Cô lại nhớ đến câu nói của thầy Chương: "Tôi dám dùng sinh mạng bảo đảm, em nhất định sẽ thi đỗ vào Bắc Đại." Câu nói kiên định đó đã trở thành trụ cột tinh thần duy nhất của Liễu Địch trong những ngày tháng hỗn loạn này. Tuy nhiên, trụ cột cũng có lúc dao động. Mấy lần, Liễu Địch không kìm nén nổi tâm trạng sốt ruột. Cô đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng. Những lúc như vậy, thầy Chương sẽ pha cho cô một cốc trà, sau đó thầy dò dẫm ngắt một bông hoa nhài nhỏ trên cửa sổ, lặng lẽ bỏ vào cốc trà. Thầy Chương ăn mặc tiết kiệm, nhưng việc thưởng thức trà tương đối cầu kỳ. Nhìn cánh hoa nhỏ màu trắng dập dềnh trong cốc nước, ngửi mùi hương hoa dìu dịu khắp căn phòng, Liễu Địch liền cảm thấy một sự yên bình không nói thành lời. Tâm trạng sốt ruột thấp thỏm cũng lặng lẽ biến mất.

Nếu không có thầy Chương, Liễu Địch thật sự không biết vượt qua giai đoạn khó khăn này như thế nào. Nhưng tháng tám đã trôi qua hai phần ba thời gian, đến bạn học có điểm thi thấp nhất của lớp cũng nhận được giấy gọi nhập học của một trường hạng hai, vậy mà thông báo trúng tuyển của Liễu Địch vẫn bặt vô âm tín.

Trong một buổi chiều chờ đợi như vậy, lúc Liễu Địch chán nản đến mức gần tuyệt vọng, cửa văn phòng thầy Chương đột nhiên có tiếng gõ cộc cộc.

Nghe tiếng gõ cửa, thầy Chương và Liễu Địch đều giật mình kinh ngạc. Cả hai thầy trò đều ý thức được điều gì trong giây lát. Nhất định là ông Lý. Thầy Chương từng dặn dò, một khi nhận được thông báo trúng tuyển từ Bắc Đại, ông Lý sẽ mang ngay đến văn phòng của thầy Chương cho Liễu Địch.

Liễu Địch cảm thấy tim cô sắp nhảy ra khỏi lồng ngực, máu trong người dồn hết lên não bộ. Cô vội vàng đứng dậy, quay người đi mở cửa.

Cánh cửa mở ra, Liễu Địch ngẩn người. Bên ngoài là một ông già tóc bạc không quen biết.

"Cháu là Liễu Địch phải không?" Ông già mỉm cười đi vào văn phòng. Liễu Địch mở to mắt quan sát, ông già có mái tóc bạc trắng, đeo kính trắng gọng vàng, bộ dạng vừa thân thiện, nhân từ và phong độ. Toàn thân ông toát ra vẻ cao quý, nho nhã, tựa hồ một học giả bước ra từ phòng đọc sách.

Phát hiện Liễu Địch đang nhìn mình bằng ánh mắt dò xét, ông già cất giọng ôn hòa, giới thiệu bản thân: "Tôi họ Tô, là thầy giáo khoa Trung văn đại học Bắc Kinh."

Đến từ Bắc Đại? Trong lòng Liễu Địch hồi hộp vô cùng. Thầy Chương dường như cũng kinh ngạc, thầy ngồi thẳng người, chiếc ghế dưới thân thầy phát tiếng cót két khe khẽ.

"Tôi vì việc tuyển chọn của cháu nên mới đến đây." Thầy Tô đi thẳng vào vấn đề: "Chuyện là thế này. Sau khi công bố điểm thi, chúng tôi có xem lại bài thi môn ngữ văn của cháu. Bởi vì trong mấy năm gần đây, chúng tôi chưa từng gặp điểm số cao như vậy. Có thể nói, bài thi ngữ văn của cháu tương đối hoàn hảo, đặc biệt là bài làm văn. Ba thầy chấm thi đều cho cháu điểm tối đa. Tuy nhiên, trong lúc cho điểm, họ đồng thời viết thêm nhận xét của mình..." Thầy Tô rút trong túi ra một bài thi: "Cháu có thể đọc những lời nhận xét này."

Liễu Địch vội vàng nhận bài thi. Ba thầy chấm thi đúng là đều có lời nhận xét. Một thầy viết: "Bài văn ly kỳ đến mức khiến tôi không thể không cho điểm cao". Một thầy viết: "Tôi chưa bao giờ gặp một câu chuyện xa rời thực tế nhưng chân thực như vậy". Người thứ ba thẳng thắn nhận xét: "Tôi không tin câu chuyện này tồn tại trong cuộc sống".

"Ba lời nhận xét rất rõ ràng." Thầy Tô nhận lại bài thi bỏ vào túi: "Cả ba thầy chấm thi đều nghi ngờ tính chân thực trong bài văn của cháu, nhưng họ đều cảm động. Nói một cách khác, họ bị thuyết phục bởi tình cảm của người viết văn, vì vậy họ không hẹn cùng cho điểm số cao nhất. Khi chúng tôi đọc bài văn của cháu, nói thật, chúng tôi cũng không tin câu chuyện kể trong bài văn. Đặc biệt, thầy ngữ văn của các cháu lại là người khiếm thị."

Ngừng một hai giây, thầy Tô nói tiếp: "Nhưng chúng tôi cũng như ba thầy chấm điểm thi, bị thứ tình cảm đẹp đẽ, chân thành, sâu sắc và thuần khiết trong bài văn chinh phục. Tiếp theo là vấn đề tuyển chọn cháu, khoa xuất hiện hai luồng ý kiến trái ngược. Có ý kiến cho rằng, nếu bài văn này là hư cấu, thì không phù hợp với yêu cầu của đề thi, bài văn không thể cho điểm số cao như vậy, tác giả của bài văn không có tư cách vào Bắc Đại. Ý kiến khác cho rằng, tình cảm thể hiện trong bài văn là rất chân thực và cảm động, tác giả của bài văn là kỳ tài. Bỏ qua một nhân tài, là điều đáng tiếc của Bắc Đại. Hai luồng ý kiến tranh luận gay gắt. Cuối cùng, nhà trường quyết định cử tôi đến tận trường của cháu để điều tra, xem câu chuyện kể trong bài văn có chân thực hay không? Nếu là sự thật, tôi sẽ trao thông báo trúng tuyển cho cháu ngay tại chỗ."

Liễu Địch hoàn toàn sửng sốt. Cô nằm mơ cũng không ngờ, bài văn của cô lại gây ra sự ngờ vực và tranh luận ở Bắc Đại, hơn nữa còn làm cô suýt nữa bị đánh trượt.

Liễu Địch đưa mắt về phía thầy Chương vẫn im lặng từ đầu đến giờ. Vẻ mặt thầy rất kỳ lạ, tựa hồ đang suy ngẫm nghiên cứu điều gì đó, lại như chìm trong hồi ức, thần sắc vừa tập trung vừa xúc động. Nghe những lời nói kinh tâm động hồn của thầy Tô, thầy Chương vẫn không lên tiếng nói hộ Liễu Địch. Liễu Địch hơi thất vọng, cô đành tự mình giải thích: "Thầy Tô, bài văn của cháu..."

"Cháu không cần giải thích." Thầy Tô mỉm cười cắt ngang lời Liễu Địch, nụ cười của thầy ôn hòa thân thiện, như ngọn gió xuân tháng ba: "Vừa rồi tôi đã đến phòng hiệu trưởng, tôi đã nắm được tình hình cần tìm hiểu. Câu chuyện kể trong bài văn không ngờ lại là sự thật. Xin thứ lỗi tôi dùng từ "không ngờ", bởi vì tôi thật sự không nghĩ ra từ khác thể hiện sự kinh ngạc của tôi. Cho đến bây giờ tôi mới hiểu, trong cuộc sống đúng là xảy ra những chuyện chúng ta không thể tin nổi. Những câu chuyện khó tin đó, ở một thời điểm đặc biệt, hoàn cảnh đặc biệt, xảy ra trên những con người đặc biệt sẽ là hợp tình hợp lý. Ví dụ như thầy giáo khiếm thị mà bài văn của cháu đề cập." Ánh mắt ông chuyển sang thầy Chương: "Nếu tôi không nhầm, vị này chính là thầy Chương trong bài văn."

Từ lúc thầy Tô bước vào văn phòng, thầy Chương không nói một tiếng. Lúc này, thầy đột nhiên đứng dậy, thân hình cao lớn của thầy không thể kìm chế sự run rẩy, hai bàn tay thầy nắm chặt mép bàn, tựa hồ chỉ cần thầy buông tay, cả người sẽ ngã xuống đất. Sắc mặt nhợt nhạt của thầy trở nên ửng đỏ vì xúc động, huyệt thái dương của thầy giật giật.

"Thầy...là..." Cuối cùng thầy Chương cũng mở miệng, thanh âm run run: "Có phải...là giáo sư Tô Văn phải không ạ?"

Giáo sư Tô ngẩn người. Ông quan sát thầy Chương tỉ mỉ, như muốn nhìn xuyên thấu thầy. Sau đó, cơ mặt ông đột nhiên co giật, biểu lộ sự kinh ngạc và đau đớn tột độ. Thân hình ông lắc lư như bị giật điện. Ông cất giọng xúc động và nghẹn ngào: "Con...con...lẽ nào con là..."

Thầy Chương đột ngột cắt ngang lời giáo sư Tô. Thầy gần như dùng toàn bộ sức lực miễn cưỡng khống chế bản thân. Thầy chỉ tay ra cửa, đồng thời ra lệnh bằng một giọng nghiêm nghị: "Liễu Địch, mời em ra ngoài!"

Liễu Địch vẫn chưa hết ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh tượng trước mặt. Cô chưa bao giờ thấy thầy Chương xúc động như vậy. Lẽ nào, đây lại là một chuyện "không thể tưởng tượng nổi" hay sao? Nghe thầy Chương ra lệnh, cô hơi tái mặt nhưng vẫn không nhúc nhích.

"Liễu Địch, ra ngoài!" Ngữ khí của thầy Chương mang một sự uy nghiêm không thể kháng cự. Lần này, thầy lược bớt chữ "mời".

Liễu Địch ngơ ngác nhìn hai gương mặt xúc động. Cô đột nhiên hiểu ra vấn đề, nơi này bất luận xảy ra chuyện gì, cũng đều thuộc về thầy Chương và giáo sư Tô, chứ không thuộc về cô. Liễu Địch cắn môi đi nhanh ra ngoài, cô còn biết ý khép cửa, để lại không gian cho hai người.

Đi đến tận cùng hành lang, Liễu Địch gặp hiệu trưởng Cao. Ông đứng tựa vào lan can, tay kẹp điếu thuốc lá, miệng nhả khói mù mịt. Liễu Địch đi đến đứng bên cạnh ông.

"Sao rồi?" Hiệu trưởng Cao hỏi: "Em đã gặp giáo sư Tô chưa?"

"Em gặp rồi ạ." Liễu Địch trả lời ngắn gọn: "Giáo sư Tô và thầy Chương hình như quen biết nhau. Hai người đều rất xúc động."

"Cũng có thể." Hiệu trưởng Cao không hề tỏ ra ngạc nhiên: "Thầy Chương từng là sinh viên xuất sắc của Bắc Đại."

"Em biết ạ." Liễu Địch nói nhỏ. Một lúc sau, cô quay sang hiệu trưởng Cao: "Thầy hiệu trưởng, xin thầy hãy kể cho em biết quá khứ của thầy Chương. Mọi người đều nói, thầy là người hiểu rõ thầy Chương nhất."

"Hả?" Hiệu trưởng Cao nhíu mày nhìn Liễu Địch: "Chẳng phải em cũng biết rõ thầy Chương hay sao?"

Liễu Địch lắc đầu: "Em không biết nhiều đâu ạ. Thầy Chương rất ít khi nói chuyện cuộc đời thầy ấy với em. Em chỉ biết thầy ấy là người Tô Châu, học đại học ở Bắc Đại. Em biết thầy ấy giỏi về mỹ thuật và văn học, thích chơi đàn ghi ta, thích ngắm biển, đọc rất nhiều sách. Em còn biết nguyên nhân vì sao thầy ấy bị mù hai mắt."

Hiệu trưởng Cao cười ôn hòa: "Em cũng biết khá nhiều đấy chứ. Có điều nếu em muốn nghe, tôi sẽ kể cho em những điều tôi biết về thầy Chương. Tôi nghĩ em có tư cách nghe một số chuyện liên quan đến cuộc đời thầy Chương." Hiệu trưởng Cao lại nhả một vòng tròn khói, thầy nhìn chăm chăm làn khói tan dần trong không khí, từ từ chìm vào hồi ức:

"Tôi và bố thầy Chương là bạn bè thân thiết. Chúng tôi từng cùng học ở trường đại học sư phạm. Tôi học ngành toán, còn ông ấy học chuyên ngành mỹ thuật. Thời đi học, chúng tôi là bạn tâm đầu ý hợp. Sau khi ra công tác, tuy chúng tôi kẻ nam người bắc nhưng vẫn giữ mối liên hệ. Sau đó, dưới sự động viên của tôi, ông ấy đã chuyển đến thành phố chúng ta, làm thầy dạy mỹ thuật ở trường chúng ta. Ai ngờ chỉ nửa năm sau...Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn tự trách mình, nếu không phải tôi khuyên bố thầy Chương đến nơi này, bi kịch sẽ không xảy ra. Vì vậy, mỗi lần đối mặt với thầy Chương, tôi đều cảm thấy day dứt vô cùng."

"Thầy hiệu trưởng, thầy không cần cảm thấy day dứt." Liễu Địch đột nhiên mở miệng: "Không ai có thể định liệu bi kịch xảy ra, thầy cũng không thể đoán trước số mệnh và tương lai."

Hiệu trưởng Cao nhìn Liễu Địch bằng ánh mắt cảm kích, ông thở dài một hơi: "Chương Ngọc cũng thường nói như vậy, nhưng tôi vẫn không thể tha thứ cho bản thân. Tôi lần đầu gặp Chương Ngọc vào kỳ nghỉ đông năm đó. Cậu ấy là một chàng trai có tư tưởng, có trí tuệ, lại rất sâu sắc. Có thể nói, vừa nhìn thấy cậu ấy, tôi đã thích cậu ấy ngay lập tức. Tôi từng đến ngôi nhà của Chương Ngọc, cậu ấy thuê một ngôi nhà nhỏ và sống ở đó, nói là để tiện viết luận văn tốt nghiệp. Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện nhiều tiếng đồng hồ tại ngôi nhà nhỏ của cậu ấy. Trong cuộc đời, tôi chưa bao giờ gặp cậu bé nào tài hoa như Chương Ngọc. Cậu ấy có tri thức phong phú, tư tưởng sâu sắc, suy nghĩ phi phàm...Tóm lại, cậu ấy quá tài giỏi, quá xuất sắc, xuất sắc đến mức khiến người khác đố kỵ. Tôi không chỉ yêu quý cậu ấy, mà rất tán thưởng tài năng của cậu ấy. Tôi thường nghĩ, nếu không xảy ra vụ hỏa hoạn đó, không biết Chương Ngọc sẽ là nhân tài chói sáng như thế nào. Nhưng vụ hỏa hoạn đã hủy hoại cuộc đời cậu ấy..."

Hiệu trưởng Cao cúi đầu nhìn điếu thuốc trong tay. Sắc mặt ông nặng nề, ánh mắt buồn bã đến cực điểm:

"Lúc tôi vội vàng đến bệnh viện, bố mẹ Chương Ngọc đã qua đời, còn cậu ấy hôn mê bất tỉnh. Tôi ngồi bên gi.ường cậu ấy suốt hai ngày hai đêm. Vết bỏng trên người Chương Ngọc không đáng kể, nhưng cậu ấy bị chấn động não rất mạnh, bởi vì cả bức tường đè xuống người cậu ấy. Ngày thứ ba, Chương Ngọc tỉnh lại. Tuy nhiên, hai mắt cậu ấy chẳng nhìn thấy thứ gì."

"Lúc đó, bác sỹ không thể phán đoán Chương Ngọc có bị mù vĩnh viễn hay không. Do cậu ấy khăng khăng yêu cầu, bác sỹ đành tiến hành phẫu thuật cho cậu ấy. Cuối cùng, ca mổ thất bại." Hiệu trưởng Cao kể tiếp: "Tôi còn nhớ rõ ngày tháo vải băng. Lúc từng lớp vải băng trắng rời khỏi mắt Chương Ngọc, tôi căng thẳng đến mức không thở nổi. Ngay cả bác sỹ đứng bên cạnh tôi, trán cũng rịn đầy mồ hôi. Sau khi vải băng dỡ hết, chúng tôi nín thở nhìn Chương Ngọc. Chương Ngọc chỉ bình tĩnh ngồi ở đó. Căn phòng yên lặng đến cực điểm, chỉ có tiếng đồng hồ tích tắc. Tôi không nhớ sự trầm mặc đó kéo dài bao lâu, nhưng đối với tôi nó dài hơn một thế kỷ. Sau đó, Chương Ngọc mở miệng, thanh âm hoàn toàn bình thản. Cậu ấy hỏi bác sỹ: "Có phải từ nay về sau, mắt cháu bị mù vĩnh viễn?" Chúng tôi lập tức hiểu ra vấn đề. Bác sỹ muốn nói dối một câu thiện ý, nhưng vẻ mặt của Chương Ngọc khiến ông ta không có cách nào lừa dối cậu ấy. Bác sỹ đành nói thật, mắt cậu ấy không thể hồi phục ánh sáng. Chương Ngọc lặng lẽ gật đầu. Tôi đứng bên cạnh hết sức đau lòng, vậy mà cậu ấy nói với tôi bằng một giọng điệu bình thản đến kỳ lạ: "Chú Cao, chúng ta về phòng bệnh thôi!"

"Kể từ ngày hôm đó, Chương Ngọc lặng lẽ nằm trên gi.ường bệnh, rất hiếm khi mở miệng. Tôi sợ cậu ấy nghĩ quẩn nên thường trò chuyện với cậu ấy. Nhìn thấu tâm tư của tôi, Chương Ngọc nói: "Chú Cao, cháu không sao đâu, sẽ không xảy ra chuyện gì cả." Lúc đó, tôi không dám báo tin bố mẹ cậu ấy đã qua đời, sợ cậu ấy không chịu đựng nổi. Nhưng một ngày, Chương Ngọc đột nhiên hỏi tôi: "Chú Cao, có phải bố mẹ cháu đã mất rồi?". Trong lòng tôi xót xa vô cùng, cậu bé này quá thông minh, đúng là không thể che giấu cậu ấy bất cứ điều gì. Tôi hết cách, đành phải nói thật với cậu ấy. Chương Ngọc không khóc, chỉ là câm nín suốt một ngày trời."

Hiệu trưởng Cao lại một lần nữa dừng lại. Điếu thuốc trên tay ông cháy gần hết, ông nhìn đốm lửa nhỏ đến mức thất thần. Liễu Địch cụp mi, cắn chặt môi, không nói một lời. Một lúc sau, hiệu trưởng Cao ném mẩu thuốc, lại châm một điếu thuốc khác, rít một hơi rồi thở đầy khói:

"Một tuần sau, Chương Ngọc chủ động xin xuống gi.ường tập đi, đồng thời bắt đầu luyện tập thính lực. Cậu ấy từ chối sử dụng cây gậy của người mù, thà bị vấp ngã hết lần này đến lần khác. Cậu ấy luyện tập rất khổ cực, nhưng tiến bộ cũng rất nhanh. Có thể thấy, Chương Ngọc đang tích cực thích ứng với bóng tối, nỗ lực tiếp tục cuộc sống. Nửa năm sau, Chương Ngọc xuất viện. Trong thời gian nằm viện, tôi không hề nghe thấy cậu ấy nói một câu oán trách trời đất, oán trách số phận, thậm chí không một tiếng kêu than."

"Về đến nhà, chính là ngôi nhà nhỏ mà cậu ấy thuê, cậu ấy kiên quyết trả lại tôi toàn bộ số tiền viện phí mà tôi ứng trước và chi phí lo tang lễ bố mẹ cậu ấy. Chương Ngọc giống bố cậu ấy ở điểm, không bao giờ vô duyên vô cớ nhận ân huệ của người khác. Chương Ngọc dùng tiền bảo hiểm và tiền bồi thường của bố mẹ cậu ấy để trả nợ. Còn lại một ít, cũng vừa đủ cậu ấy sinh sống trong một năm. Vấn đề sinh kế bày ra trước mặt cậu ấy một cách tàn khốc. Nhưng Chương Ngọc không chịu dọn đến nhà tôi, kiên quyết sống tự lập. Sau một thời gian suy nghĩ, Chương Ngọc nói với tôi, cậu ấy muốn đi dạy học".

"Tôi giật mình kinh ngạc, điều này vốn không thể! Nhưng thái độ của cậu ấy rất dứt khoát. Cậu ấy nói cậu ấy học được một ít kiến thức ở trường đại học, không thể để mai một đi như vậy. Nếu đời này cậu ấy không có cơ hội sử dụng đến những tri thức đó, vậy thì cậu ấy sẽ truyền lại cho thế hệ sau. Cậu ấy nhờ tôi giúp cậu ấy ghi âm toàn bộ giáo trình và tài liệu tham khảo môn ngữ văn của cấp ba, sau đó cậu ấy chăm chỉ nghe và học. Chương Ngọc còn bảo tôi dẫn đến trường dự thính các buổi dạy của thầy cô giáo khác. Có thể thấy, cậu ấy hết sức nỗ lực, tinh thần học hỏi của cậu ấy khó ai bì kịp."

"Thế nhưng, một người mù dạy học là chuyện rất khó khăn, thậm chí không thể tưởng tượng nổi. Hơn nữa, ai cho Chương Ngọc cơ hội làm giáo viên? Đây chẳng phải đặt ra bài toán khó cho tôi? Cậu ấy nói với tôi: "Chú Cao, cháu biết chú rất khó xử. Cuộc đời này cháu rất hiếm khi cầu xin người khác. Nhưng hôm nay, cháu cầu xin chú nể tình bố cháu, giúp cháu một lần." Ngữ khí của Chương Ngọc rất chân thành và bi ai, tôi làm sao có thể từ chối cậu? Nếu không phải do tôi, Chương Ngọc đã không rơi vào cảnh "cầu xin người khác" này. Tôi nợ cậu ấy và bố mẹ cậu ấy. Thế là tôi dốc hết sức lực, vận dụng các mối quan hệ, cuối cùng Chương Ngọc cũng có thể đi dạy học. Dù không phải là giáo viên trong biên chế nhưng Chương Ngọc cũng rất mãn nguyện, bởi vì cậu ấy chỉ cần được đứng trên bục giảng. Cứ như vậy, Chương Ngọc thử dạy lớp các em đầu tiên. Không ngờ cậu ấy dạy quá tốt. Trong trường có bao nhiêu giáo viên môn ngữ văn, vậy mà không ai vượt qua một người mù."

Nghe đến đây, Liễu Địch đột nhiên mở miệng: "Thầy hiệu trưởng, câu này thầy nói sai rồi. Đây không phải vấn đề đôi mắt, mà là vấn đề trình độ và năng lực. Các thầy cô giáo khác không thể vượt qua thầy Chương, bởi vì trình độ và năng lực của bọn họ không bằng thầy Chương."

Hiệu trưởng Cao kinh ngạc nhìn Liễu Địch. Cô nữ sinh có vẻ hiền lành ngoan ngoãn này lại có cách nhìn độc đáo và sâu sắc, thảo nào cô bé trở thành "trạng nguyên" khối văn.

"Liễu Địch, em nói rất đúng. Môn ngữ văn ở thời trung học cần chú trọng bồi dưỡng năng lực của học sinh, bồi dưỡng cảm giác của học sinh đối với ngôn ngữ văn tự, chứ không phải truyền thụ kiến thức theo kiểu nhồi vịt. Ngay từ đầu, thầy Chương đã nắm bắt chuẩn xác điểm này. Một số thầy cô dạy học mười mấy năm cũng không lĩnh hội được đạo lý đó. Thầy Chương quả nhiên là "thiên tài".

Hiệu trưởng Cao thở dài: "Tôi không thể tưởng tượng nếu tôi gặp tai nạn khủng khiếp như cậu ấy, tôi sẽ sa sút chán nản đến mức nào. Thầy Chương là người kiên cường, quá kiên cường."

Đâu chỉ đơn giản là kiên cường? Liễu Địch chợt nhớ đến hai bức tranh sơn dầu của thầy Chương, nhớ đến mặt trời bi tráng ở trên biển và chồi non trên cành cây khô, nhớ đến lời miêu tả của thầy Chương về "bóng tối". Liễu Địch đột nhiên ngẩng đầu, cất giọng thâm trầm và trịnh trọng: "Thầy hiệu trưởng, thầy Chương không chỉ kiên cường. Thầy ấy luôn chống lại bóng tối. Thầy ấy từng nói với em, thầy ấy không thể đánh bại bóng tối. Nhưng hôm nay, nghe những lời của thầy, em mới hiểu rõ, dù biết bản thân sẽ thất bại, nhưng thầy Chương vẫn ngoan cường chiến đấu. Mặc dù vận mệnh đã an bài, nhưng thầy ấy vẫn muốn đọ sức với số mệnh. Thầy ấy thà làm một người thất bại oanh liệt, cũng không muốn làm kẻ hèn nhát nằm phủ phục dưới chân vận mệnh, tỏ vẻ đáng thương. Thầy ấy là một dũng sỹ, là một người anh hùng, dù theo kiểu bi kịch đi chăng nữa."

Hiệu trưởng Cao há hốc miệng lắng nghe. Ông quay cả người, nhìn chằm chằm Liễu Địch. Một lúc lâu sau, ông mới thở hắt ra, cảm khái một câu: "Liễu Địch, em mới là người hiểu thầy Chương nhất."

Đúng lúc này, cửa văn phòng của thầy Chương mở ra, giáo sư Tô Văn đi ra ngoài. Hiệu trưởng Cao và Liễu Địch lập tức tiến lại gần nghênh đón. Giáo sư Tô đã khôi phục sắc mặt bình tĩnh, nhưng khóe mắt ông vẫn còn tàn dư của giọt lệ. Giáo sư đi đến bên Liễu Địch, rút ra một phong bì, trên có đề tên Liễu Địch.

Liễu Địch nhận thông báo trúng tuyển mà cô mong chờ từ lâu. Có lẽ do trông chờ mòn mỏi một thời gian dài, Liễu Địch không cảm thấy xúc động và vui mừng như cô tưởng tượng. Cô ngược lại hơi thẫn thờ và buồn bã. Cô đưa mắt nhìn ngày tháng trên thông báo: ngày 1 tháng 9. Chỉ còn 9 ngày nữa là cô nhập học.

"Liễu Địch." Giáo sư Tô nói: "Tôi đã nói với thầy Chương để cháu tiễn tôi ra bến xe. Tôi muốn nhìn thấy trạm xe buýt mà cháu miêu tả trong bài văn."

Liễu Địch gật đầu. Cô chào tạm biệt hiệu trưởng Cao, rồi cùng giáo sư Tô đi đến trạm xe buýt nhỏ.

Mặt trời buổi chiều vẫn nắng gắt, nhưng không khí có làn gió thổi mát rượi, lá cây đung đưa xào xạc. Giáo sư Tô quan sát cây dương liễu, đưa mắt qua khóm đinh hương rồi dừng lại ở tấm biển báo xe buýt. Cuối cùng, ông nói khẽ: "Đến bây giờ, tôi hoàn toàn tin mỗi câu từ trong bài văn của cháu đều là sự thật, một sự thật "không thể tưởng tượng nổi".

Ngữ khí của giáo sư Tô chứa đầy nỗi đau mãnh liệt, tựa hồ ông không muốn đối diện với "sự thật" này. Liễu Địch lập tức nhận ra nguồn gốc của nỗi đau đó. Cô mở miệng hỏi: "Thưa giáo sư, thầy Chương là học sinh của giáo sư phải không ạ?"

Giáo sư Tô gật đầu, ánh mắt ông đầy vẻ bi thương và bất lực: "Đúng vậy, cậu ấy là học trò của tôi, đồng thời là sinh viên xuất sắc nhất khoa Trung văn Đại học Bắc Kinh. Hầu hết thầy cô trong khoa đều cho rằng tiền đồ của cậu ấy vô cùng xán lạn, tương lai của cậu ấy là con đường thẳng tít tắp. Chỉ còn nửa năm nữa là cậu ấy tốt nghiệp, khoa đã quyết định cho cậu ấy chuyển thẳng học nghiên cứu sinh. Nhưng sau kỳ nghỉ đông, cậu ấy biệt vô âm tín. Chúng tôi từng gọi điện thoại về Tô Châu, quê nhà của cậu ấy. Tôi còn đích thân đi Tô Châu tìm cậu ấy nhưng không có đầu mối. Lúc đó, tôi không biết gia đình cậu ấy đã chuyển đến thành phố này. Nếu biết, chắc tôi cũng...khụ khụ, tôi nằm mơ cũng không ngờ, cậu ấy lại ra nông nỗi này. Tôi thậm chí suýt không nhận ra cậu ấy..."

Giáo sư Tô đột nhiên không thể nói tiếp, sắc mặt ông trắng bệch như tờ giấy, toàn thân run rẩy. Liễu Địch vội giơ tay đỡ ông, sống mũi cô cay cay. Vào giây phút này, cô chợt hiểu ra, giáo sư Tô yêu quý thầy Chương như vậy. Thầy Chương nhất định từng là học trò tâm đắc nhất của ông.

Giáo sư Tô từ từ khôi phục vẻ bình tĩnh. Sau đó, ánh mắt ông dừng lại trên gương mặt Liễu Địch hồi lâu. Ông nhìn rất chăm chú, rất tỉ mỉ, tựa hồ coi Liễu Địch là đối tượng nghiên cứu. Liễu Địch ngượng ngùng cúi đầu. Giáo sư Tô thở dài một hơi: "Liễu Địch, cháu thật sự rất đẹp."

Ngữ điệu của ông chứa đựng sự phiền muộn và tiếc nuối. Liễu Địch không hiểu ý của giáo sư Tô nên ngẩng đầu. Cô phát hiện trong mắt giáo sư Tô đầy vẻ yêu mến và thương xót. Ánh mắt của ông khiến Liễu Địch không khỏi xúc động, cô có thể cảm nhận rõ ràng, tình cảm yêu mến của giáo sư Tô đối với cô là xuất phát từ đáy lòng. Nhưng tại sao ông lại phiền muộn và tiếc nuối?

"Liễu Địch." Giáo sư Tô đột nhiên chuyển sang đề tài khác: "Cháu...cháu có thích thầy Chương không?"

"Cháu sùng bái thầy ấy." Liễu Địch không hề nghĩ ngợi, trả lời ngay lập tức.

"Ờ." Giáo sư Tô hít một hơi sâu: "Chỉ có vậy thôi sao?"

Liễu Địch nỗ lực tìm câu từ thích hợp: "Thầy Chương thường khiến cháu kinh ngạc và chấn động, không chỉ ở phương diện tri thức mà phần lớn ở tư tưởng và tình cảm. Mỗi khi ở bên thầy, dù chẳng nói một câu, cháu vẫn cảm thấy tư tưởng của cháu ngày càng sâu sắc, tinh thần của cháu đang thăng hoa, linh hồn ngày càng trở nên trong sáng. Có thể nói, thầy có sự ảnh hưởng đến cháu từng giây từng phút. Cũng có lúc, cháu cảm thấy trái tim cháu và thầy rất gần gũi, thậm chí hoàn toàn hòa nhập vào nhau. Cháu và thầy thường có sự ăn ý "tâm linh tương thông". Thầy Chương luôn giữ khoảng cách với người khác, đối với cháu, có lúc...thầy cũng như vậy." Liễu Địch đột nhiên cảm thấy chua xót, cô từ từ cúi thấp đầu: "Có lúc, cháu cảm thấy khoảng cách giữa cháu và thầy đã rất gần, nhưng chỉ một câu nói, một động tác tay, thậm chí một biểu hiện của thầy, khoảng cách đó lại nới rộng. Cảm giác này...thật không dễ chịu chút nào."

Nói đến đây, Liễu Địch đột nhiên ngẩng đầu, đôi mắt cô sáng lấp lánh: "Mặc dù vậy, cháu vẫn khao khát được ở bên thầy. Cháu thật sự mong muốn điều đó."

Giáo sư Tô ngẩn người lắng nghe. Ông trầm tư suy nghĩ điều gì đó, phảng phất muốn thông qua lời nói của Liễu Địch, kiểm chứng suy đoán trong lòng mình. Sau đó, giáo sư Tô lặng lẽ thở dài. Kể từ lúc rời khỏi văn phòng của thầy Chương, ông thở dài không biết bao nhiêu lần.

Giáo sư Tô đột nhiên nắm tay Liễu Địch, cất giọng khẩn thiết: "Liễu Địch, cháu hãy ở bên cạnh thầy Chương nhiều hơn. Sau khi cháu đi đại học, thầy Chương sẽ cô độc biết bao. Ngày tháng cháu ở bên thầy không còn nhiều nữa rồi."

Ngữ khí của giáo sư Tô vừa chân thành vừa bi ai, Liễu Địch cũng bị ảnh hưởng. Cô hít một hơi sâu, để đè nén nỗi xót xa trong lòng. Sau đó, cô nghẹn ngào thốt ra hai từ: "Vâng ạ."

Xe buýt tới nơi, Liễu Địch đỡ giáo sư Tô lên xe. Trước khi ô tô chuyển bánh, giáo sư Tô đột nhiên thò đầu ra khỏi cửa xe, chân thành nói với Liễu Địch: "Liễu Địch, khi nào đến Bắc Đại, cháu nhất định phải đi tìm tôi trước. Nhà tôi ở Trúc Ngâm Cư thuộc Kính Xuân Viện. Nếu cháu không đến, tôi sẽ giận đó."

Đây đâu phải là lời tạm biệt của người thầy, mà rõ ràng là lời dặn dò của bậc trưởng bối với hậu bối, của người cha hiền từ đối với con gái. Khóe mắt Liễu Địch ngân ngấn nước. Cô lặng lẽ dõi theo chiếc xe buýt cho đến khi nó biến mất ở đầu đường.

Không hiểu tại sao, bên tai Liễu Địch vang vọng thanh âm bi thương và khẩn thiết của giáo sư Tô: "Liễu Địch, cháu hãy ở bên cạnh thầy Chương nhiều hơn. Sau khi cháu đi đại học, thầy Chương sẽ cô độc biết bao. Ngày tháng cháu ở bên thầy không còn nhiều nữa rồi."
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
[FLASH]https://static.mp3.zing.vn/skins/default/flash/embed/zing_mp3_embed_v1.3.swf?xmlURL=https://mp3.zing.vn/xml/album-xml/ZHxGtLGaBxbhJNmyLvctDHZm&autostart=false[/FLASH]
ngày mới vui vẻ :)
 
ủa sao post truyện trong nì ng ẹp
 
Tôi thích mặc áo sơ mi trắng đi học.
Có lẽ chữ " thích" này xuất phát từ khi bước vào lớp 6. Lúc nhỏ có biết gì đâu, nhà trường bắt mặt áo trắng quần tây xanh thì cứ vậy mà mặc thôi. Qua ngày qua tháng thì cái áo trắng đã gắn liền với mình rồi.
Lên cấp 2, ngoại trừ học chính thì còn có khái niệm mới mẻ - học thêm. Giờ ra chơi, lớp ồn ào như chợ vỡ, tôi tụm đầu lại với một đám con gái bà tám chuyện trên trời dưới đất, dĩ nhiên là có cái chuyện "hot" ấy. Nào là học môn nào, nên học thầy cô ra sao và nên mặc đồ bình thường hay mặc áo trắng. Đến cái lúc mà đi học rồi ấy, tôi mặc áo sơ mi trắng đi học. Lúc đó nhà cũng đủ ăn đủ mặc, không dư dả gì, tôi không có khái niệm mua đồ đẹp gì cả, cứ đơn giản với áo sơmi trắng là được.
Lớp học nhuốm màu tươi trẻ bởi đầy đủ màu sắc, nhưng nổi bật nhất là màu trắng. Rồi cứ thế đến cấp 3, trong tôi có thêm một khái niệm " bình đẳng". Tôi thấy mọi học sinh đều mặc áo trắng thì mới đẹp, không phân biệt gia cảnh ra sao, tất cả đều bình đẳng trong chiếc áo giản dị ấy. Đi học chính cũng như học thêm, tôi luôn khoác trên mình màu trắng. Có lần bạn tôi hỏi: " Sao mày lúc nào cũng mặc áo sơmi trắng đi học vậy?"
" Tao thích và nó rất thoải mái". Cười. :D
Chiếc áo này mang nắng, đội mưa theo tôi đi học hằng ngày. Sắc trắng đã nhạt màu...
Nó chứng kiến cả quãng thời gjan là hs của tôi. Nó chịu bao nhiêu vết mực từ mấy đứa bạn vô ý quệt phải. Nó thấm đẫm nước mưa tát vào người, ướt nhẹp khi tôi chạy đua với cái nắng gắt gao...
Và bây giờ tôi đã là sinh viên. Trường tôi cũng có đồng phục. Nhưng tôi không thích. Tôi vẫn may cho mình một chiếc sơ mi trắng tinh đơn giản, chỉ khác trước một điều là áo tay dài chứ không phải tay ngắn như trước nữa. Cười. :)):)):))

 
:( :( :( :KSV@18::KSV@17:

Thất vọng tràn trề.....
 
Lạc..giữa đám đông. Một mình!
Chua chát....
Vỏ bọc càng ngày càng dày...:D:D:D Dày đến nỗi không tự ra được nữa.

" Mắt không thấy, tâm không phiền". Thế nhưng lại cứ cố gắng thấy cho được. Đáng chết!
 
Trạng thái
Tác giả đang khóa bình luận
Quay lại
Top Bottom