Vương quốc của những kẻ lạ mặt (trinh thám, phưu lưu)

kingdomofstrangers

Thành viên
Tham gia
24/8/2012
Bài viết
5
Vương quốc những kẻ lạ mặt (trinh thám, phưu lưu)

20120831143934Vuong%20quoc%20nhung%20ke%20la%20mat.jpg

Tàn bạo nhưng lôi cuốn, xâm chiếm bởi những khoảnh khắc của lòng từ bi và sự can đảm, cuốn tiểu thuyết


Vương quốc những kẻ lạ mặt đưa đẩy chúng ta đến với sự tàn ác và sức nóng của mảnh đất của những mạng che mặt - Ả-rập Xê-út.

Một khách du lịch Bedouin phát hiện ra xác chết bị cắt xén của một phụ nữ bị chôn vùi trong cồn cát ven biển. Mặc dù sa mạc có thể vùi lấp được nhiều thứ, nhưng nó đã không thể che giấu được cơ thể của 18 người phụ nữ khác xung quanh xác chết tìm thấy. Mười chín phụ nữ - đã chết. Ả-rập Xê-út tuyên bố không có giết người hàng loạt trong lịch sử, nhưng các bộ xương đã minh chứng cho sự tồn tại của một kẻ giết người hàng loạt đã và đang ẩn dật tại Jeddah suốt hơn một thập kỉ.

Tuy nhiên, thanh tra trưởng Ibrahim Zahrani, lại bị phân tâm bởi một bí mật cá nhân. Tình nhân của ông đột nhiên biến mất, nhưng ông không thể trình báo việc mất tích của cô, bởi vì việc ngoại tình sẽ bị trừng phạt bằng cái chết. Không còn con đường nào khác, Ibrahim đã giao phó trường hợp này cho Katya, một trong số ít phụ nữ trong lực lượng của ông. Bị lôi kéo vào cả hai cuộc điều tra, Katya đã phải vô cùng thận trọng để giấu kín bí mật cho riêng mình.

Miêu tả cuộc sống của người phụ nữ trong một trong những nền văn hóa khép kín nhất trên thế giới, tác giả từng đoạt giải thưởng Los Angeles Times Award và American Library Associatio Alex Award - Zoë Ferraris - đã dệt một câu chuyện gay cấn, hồi hộp, đi sâu vào những góc tối nhất của thế giới ngầm Ả-rập Xê-út.

Đôi nét về tác giả
Zoë Ferraris đã chuyển đến Ả Rập Xê-út như là một hệ quả của cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (1991) để sống cùng với chồng và gia đình chồng là những người Bedouin gốc Palestine - Ả-rập Xê-út. Hiện tại cô đang sống tại San Francisco.

Năm 2006, cô hoàn thành bằng thạc sĩ về Nghệ thuật tại đại học Columbia. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của bà là Finding Nouf (Đi tìm Nouf) và tiếp đó là City of Veils (Thành phố của những mạng che mặt)được xuất bản trên 30 quốc gia. Cuốn sách thứ 3, Kingdom of strangers - Vương quốc những kẻ lạ mặt, ra mắt vào tháng 6 năm 2012

1
Gió cát bụi mù cuốn lấy chiếc SUV khiến nó trượt dài rồi dừng lại giữa lòng đường. Bốn viên cảnh sát của Đội Trọng án mặc thường phục bước ra khỏi xe, áo sơ mi nhàu nhĩ, mặt nhăn nhó vì nắng. Chỉ một người trong số bọn họ có mang theo chiếc khăn trùm đầu, những người còn lại đều đeo kính râm.

Cảnh sát địa phương tiến lại gần bọn họ. Người đàn ông Bedouin, người đã phát hiện ra xác chết, có thể ngay lập tức nhận ra ai là người chịu trách nhiệm chính qua sự khác biệt khá tinh vi về ngoại hình của những viên cảnh sát. Trung tá Thanh tra Ibrahim Zahrani không tự giới thiệu về mình. Người Bedouin kia tiến về phía ông, với vẻ bất an thuật lại việc chiếc xe tải của mình đã bị trệch lái khỏi đường như thế nào, khiến một con cừu của ông ta văng ra khỏi khoang chứa hàng và buộc ông ta phải dừng lại. Khi ông ta đi tìm con cừu thì phát hiện ra cái xác. Mọi người đi theo ông ta trong đám cát bụi tung mù.

Rất khó để ngay lập tức nhận ra cái xác là nam hay nữ. Có năm dấu giày tạo thành hình vòng cung xung quanh khuôn mặt đã bị rạch nát. Chiếc cằm và mắt bên trái đã bị mất – có lẽ là vết thương bởi đạn bắn – phần da còn lại đã khô xám ngoét và bị bao quanh bởi một lớp cát. Từ những đốm đen nhỏ li ti nhô ra từ phần cổ áo, Ibrahim đoán chừng đây là một phụ nữ.

Ý nghĩ đầu tiên của ông là một gã trai sa mạc nào đó đã bắn vào đầu chị gái của hắn vì một “tội ác” có liên quan đến danh dự gia đình. Còn có thể là kẻ nào khác được khi chôn xác người như thế này chứ? Quá xa về phía nam so với Jeddah, đây là một dải cát đã bị quên lãng nằm sâu trong lãnh thổ đến tận mười sáu dặm tính từ trục đường chính, mà chính nó cũng không thể trở thành một xa lộ được. Bọn họ đã bị lạc tới hai lần trên đường đến đây và đã phải chờ cảnh sát địa phương đến hỗ trợ.

Viên thanh tra nhìn lại khuôn mặt đó lần nữa. Không phải gương mặt của một người sinh sống ở vùng sa mạc. Cho dù nó đã bị hủy hoại, người ta vẫn có thể nhận ra nét mặt đó là của người châu Á.

Ibrahim liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay: đã một giờ rưỡi chiều. Nếu may mắn, bọn họ có thể xong việc trước khi đến khoảng thời gian kinh khủng nhất trong ngày. Đã đầu thu, thực ra là cuối mùa hè. Cái nóng đã cắt đứt mạch tư duy của ông như một kẻ lắng nghe thiếu kiên nhẫn. Viên cảnh sát địa phương, Hattab al-Anzi, trông không có vẻ gì giống với một nhân viên cảnh sát hoạt động tại khu vực sa mạc cả. Da xanh xao, mắt lác xệch, nhễ nhại mồ hôi. Ông ta bấm còi rồi lái xe đi, có lẽ là để lấy lòng các nhân viên điều tra, hoặc có thể là đội pháp y, những người mà chắc hẳn cũng đã lòng vòng cả mấy đoạn đường mà đám người của Ibrahim đã phải nguyền rủa chúng biến xuống địa ngục cho rồi.

Phía sau họ lúc này, lũ cừu đang be be kêu trong khoang chứa của chiếc xe tải. Một nửa con đường đã bị cát phủ kín. Chỉ ngay trước điểm đỗ chiếc SUV vài mét, con đường không thể nào đi qua được nữa. Thật đúng là một nơi biệt lập. Gió cát hẳn đã xuất hiện hàng tuần rồi mà không ai để ý.

“Ông có cho rằng việc này mới xảy ra gần đây không?” Ibrahim hỏi người Bedouin. “Vâng, đêm qua chúng tôi đã có bão. Một cơn bão kinh khủng. Tất nhiên là đủ để thổi tung cả một đụn cát phủ đầy con đường.”

Khi nhắc đến đụn cát, ông ta ra hiệu về phía cái xác. Tất cả những gì mà Ibrahim có thể nhìn thấy là khung cảnh cát bụi bị xé thành từng lớp bởi những vỉa đá nhô lên. Ông thấy những làn cát bay tứ tung, một số quẩn lại trên con đường trước khi ông nhận ra khu vực xung quanh cái xác đã hơi dầy cát lên. Hẳn đã có một đụn cát ở đó – không quá cao, có lẽ là hình lưỡi liềm, cong theo hướng gió thổi phía đông.

Ông quan sát thấy nhân viên của mình đi lại trên hiện trường vụ án và nghe tiếng sĩ quan cấp dưới Waseem Daher nhắc nhở họ. “Lùi lại con đường ngay! Các anh đang đạp chân lên bằng chứng đấy!” Chẳng một ai nghe theo, nhưng bọn họ đứng gần anh ta và quay sang khi anh ta nói, lúc nào cũng với vẻ háo hức. Daher không hẳn nhận thức được quyền hạn của mình đối với những người đó.

Ánh nắng gay gắt trùm lên họ như những lưỡi lửa liếm ngang từ một bó đuốc. Cuối cùng thì những chiếc xe cũng đã đến với cách thức của một đám tang. Một cuộc diễu hành của xe cứu thương của Trăng lưỡi liềm Đỏ, xe cảnh sát điều tra, hai chiếc Yukon của đội pháp y. Viên cảnh sát địa phương, Hattab, đỗ xe ở cuối hàng.

“Tay đần độn.” Một ai đó lên tiếng. “Có ai nói với hắn là người ta không thể dẫn đường nếu đi từ phía sau không?”

“Anh ta muốn chắc rằng nếu có bão nữa thì anh ta sẽ là người đầu tiên chạy thoát.” Daher nói.

Chỉ trong vài phút, cảnh tượng đã trở nên hỗn loạn bởi những người đàn ông. Mấy tay pháp y cô lập khu vực xung quanh xác chết bằng những chiếc gậy dài và một cuộn băng màu xanh dương. Ibrahim liền can thiệp; ông muốn khoanh vùng toàn bộ đùn cát, để họ có thể mở rộng khu vực và đẩy những người đàn ông kia lùi ra xa hơn. Hai viên cảnh sát trẻ đến cùng với nhân viên điều tra cũng có tên là Imbrahim, nhưng mọi người thường gọi ông ta là Abu-Musa, tức “cha đẻ của Musa.” Thực ra ông ta là cha của Kareem, nên đáng lẽ phải gọi ông ta là Abu-Kareem mới đúng, nhưng một buổi chiều tại một cửa hàng cà phê, ông ta đã ra sức giải thích với Chánh Thanh tra Riyadh rằng musa, tên của nhà tiên tri Moses, cũng là tên của loài cây họ chuối. Chúng được đặt tên như vậy bởi vì mẹ của Moses đã nhét một quả chuối vào miệng của đứa con trai mình trước khi đặt nó vào một chiếc giỏ sậy rồi đẩy xuống dòng sông Nile. Quả chuối có nhiều chất dinh dưỡng, nhưng chủ yếu là để giữ cho đứa bé im lặng để người Ai Cập không phát hiện mà giết nó. Chánh Thanh tra Riyadh, vốn không ưa mấy cái chuyện pha nửa lịch sử nửa thần thoại như vậy, chỉ bập bập chiếc tẩu và lẩm bẩm. “Thế anh thì biết chuyện à, hả cha của Musa?” Vậy là cái tên Abu-Musa có từ khi đó.

Thanh tra Ibrahim trước đây chưa từng bao giờ làm việc với Abu-Musa, nhưng bản tính nóng nảy cũng như sự chính trực hống hách của ông ta đã trở thành huyền thoại. Giờ thì Abu-Musa đang đợi các nhân viên pháp y hoàn thành việc khám nghiệm nửa thân trên. Hai nhân viên của Trăng lưỡi liềm Đỏ tiến vào giúp các nhân viên pháp y lắp đặt chiếc máy hút bụi mà họ sẽ sử dụng để loại bỏ lớp cát, thì Abu-Musa quát họ: “Quay lại đây ngay! Các anh không được đụng đến cô ta!”

“Cô ta chết rồi mà.” Một nhân viên đáp.

“Không ai được động vào cô ta hết! Giờ thì biến ngay khỏi đây đi.”

Abu-Musa đẩy người đó sang bên. Ông ta không hề để tâm đến việc ai đó có thể sẽ phá vỡ mất bằng chứng; ông ta chỉ đang cảnh giác một tội ác đạo đức, một người đàn ông đụng chạm vào cơ thể của một người phụ nữ, làm hủy hoại thanh danh của cô ta dù cô ta đã chết.


Tiếng lách tách quen thuộc của bánh xe lăn trên đường nhựa và đám bụi nhỏ cuộn lên đã báo hiệu sự xuất hiện của một chiếc SUV khác, chiếc xe chở Thám tử Osama Ibrahim. Osama bước ra khỏi xe, khảo sát hiện trường, rồi đi thẳng về phía thanh tra Ibrahim. Hai người bắt tay nhau, và Osama cáo lỗi vì đã không đón tiếp ông trước ở Sở được.

Ai nấy đều cư xử rất lễ độ. Ibrahim đã làm việc ở Sở được hai tuần rồi, một sự thuyên chuyển từ Đội Điệp vụ. Ông được kính trọng không chỉ bởi, ở cái tuổi bốn mươi hai, ông lớn tuối hơn tất cả các sĩ quan khác; mà còn bởi ông đã làm việc trong lĩnh vực trọng án từ rất nhiều năm về trước; và cũng vì ông có quan hệ với hoàng gia. Ông chắc chắn rằng chẳng bao lâu các vết rạn nứt sẽ cho biết điều gì đó.

“Một người Bedouin địa phương đã tìm thấy xác một phụ nữ vùi trong cát.” Ông nói. “Anh đến xem sao.”

Osama rời bước.

Hai nhân viên Trăng lưỡi liềm Đỏ lúc này đang càu nhàu về Abu-Musa và bàn luận về một sự việc được đưa trong mục tin tức. Có một nữ sinh tại trường Cao đẳng Sư phạm ở Qassim đổ bệnh. Trường đó đã phải gọi cho Trăng lưỡi liềm Đỏ, nhưng khi nhân viên của họ đến nơi thì các cơ quan có thẩm quyền đã cấm các nhân viên y tế được động vào cô ta. Mặc dù họ rất lo ngại rằng cô ta có thể chết nhưng hình như họ còn lo ngại hơn việc để những người đàn ông lạ mặt đụng chạm vào cô gái sẽ làm cô ta mất phẩm giá. Trong khi bọn họ còn đang tranh cãi thì cô gái đó đã chết. Hai nhân viên của Trăng lưỡi liềm Đỏ có vẻ kinh hãi trước toàn bộ sự việc này và tỏ vẻ cảnh giác với những điều tương tự có thể xảy ra với họ.

“Ông ta nghĩ chúng ta là cái quái gì cơ chứ – một đám ma cô dẫn khách à?” Một người lớn tiếng.

Osama quay trở lại trông có vẻ bàng hoàng. Ibrahim nhận thấy vẻ mặt đó của ông ta. Anh cho rằng mình đã miễn dịch với cái chết, đã chứng kiến cả thảy mọi điều xảy ra với con người – và rồi chỉ một gương mặt phụ nữ đã đánh gục anh lần nữa. “Vụ rắc rối ở địa phương thôi, anh nghĩ vậy không?”

“Chắc vậy.” Ibrahim nghiên cứu hiện trường. “Nhân viên điều tra của anh thường hung hăng như vậy sao?”

“Vâng, nhưng chỉ khi nạn nhân là nữ giới.”

“Điều đó cũng dễ hiểu.”

Bỗng có tiếng vật gì đó gãy. Tiếng kêu rất nhỏ nhưng cũng đủ tạo ra một bầu không khí im lặng đầy tò mò. Một nhân viên của Trăng lưỡi liềm Đỏ đã dẫm chân lên phần cát mềm, anh ta đã đạp phải thứ gì đó cưng cứng, khiến nó gãy vỡ. Ibrahim tiến lại và quát lớn: “Không ai được cử động!” Ngạc nhiên thay, tất cả mọi người đều tuân lệnh.

Người kia đã nhấc chân anh ta ra khỏi đám cát, và qua gương mặt anh ta Ibrahim có thể nhận ra anh ta đã tìm được thứ gì.

“Nghe có vẻ giống như xương bị gãy.”

“Chính vậy.” Chỗ đất lún vì dấu giày của anh ta đã bị cát phủ đầy. Ibrahim quan sát xem liệu còn ai khác nữa không.

Bọn họ đều đứng cách xa cái xác năm mét.

“Mọi người giữ nguyên vị trí hiện tại của mình.” Ibrahim lớn tiếng. “Ngoại trừ anh.” Ông chỉ tay về phía người chụp ảnh pháp y. “Chụp ảnh tất cả mọi người tại đúng vị trí hiện giờ của họ.” Người đàn ông đó nhoài người ra để thực hiện theo. Rồi Ibrahim chỉ sang Daher. “Anh ra chỗ tay cảnh sát địa phương bảo anh ta liên lạc bằng bộ đàm để cử mấy người tìm dấu vết đến đây. Nhóm Murrah ấy, nếu anh có thể liên lạc được với họ, và hãy cố gắng nhanh hết sức có thể.” Daher nhảy vào chiếc xe cảnh sát mà Hattab đang loay hoay với dòng điện xoay chiều.

Ibrahim đứng gác, cái nhìn chăm chú của ông ta khiến đố ai dám di chuyển chỉ một mi-li-mét. Giống như lũ trẻ đang chơi trò, bọn họ đứng bất động một cách ngượng nghịu, trên khuôn mặt họ lúc này đã biến mất cái vẻ chịu đựng vì cái nóng mà bừng sáng lên sự háo hức, một niềm vui thích kỳ lạ khi được chỉ bảo phải làm gì trong khi thực ra đó là điều bắt buộc.

Đám nhân viên của ông thanh tra đã dẫm đạp lên khu vực này tương đối nhiều, nhưng đến cái xác thứ ba bọn họ vẫn chưa phát hiện được quy luật nào.
Nhóm tìm dấu vết Murrah đã đến – một người ông và đám cháu của ông ta – và phải mất đến hàng giờ đồng hồ đi lại quanh địa điểm để ghi nhớ các dấu giày, loại bỏ từng người bằng những kỹ xảo kỳ diệu của họ. Bọn họ thậm chí không cần tham khảo các bức ảnh mà nhân viên pháp y đã chụp. Sau đó, bọn họ bắt đầu lại từ đầu, dò tìm những vật gì không nằm trong phạm vi đó. Họ khảo sát kỹ lưỡng mặt đất, hết bò, ngồi xổm, lại quỳ, chăm chú quan sát các điểm giống nhau trên mặt cát đến hàng phút theo những vệt dài rất khó hiểu. Họ đã tìm được sáu cái xác với những cánh tay theo hình chữ Y thần thánh, nhô lên mặt cát như đang cảm nhận không gian hình học thần bí, và chỉ đến khi đó thì cái thứ kiểu như một quy luật mới bắt đầu định hình.

Tất cả những cái xác đều là phụ nữ. Bọn họ đã bị chôn ở phía lưng của một đụn cát hình lưỡi liềm. Có một nền đá đặt ở dưới để giữ cho vùng cát được ổn định, giúp cho tên sát nhân, giả sử như vậy, nếu muốn có thể quay trở lại mà vẫn tìm được địa điểm chôn cất trong trường hợp bão cát đã thổi tung đụn cát của hắn lên con đường. Một điểm lún nhẹ từ phía con đường trở xuống cho thấy dù có bao nhiêu cơn bão cát quét qua đây đi chăng nữa thì cát vẫn sẽ lại tích tụ tại chính điểm này. Trong khoảng vài tháng, cát sẽ tạo thành một đụn khác nhờ gió vẫn đều đều thổi. Nếu gặp một cơn bão, nó sẽ bị thổi tung phủ lên mặt đường, giống như chuyển động từ từ của những con sóng xô vào bãi biển. Rồi con đường sẽ lại quang sạch và cát sẽ lại tích tụ thành đụn.

Con số xác chết giờ đã tăng lên khiến Ibrahim không ngừng băn khoăn: Tại sao lại là chỗ này?

Bọn họ phải gọi xe tải chở nước, và một nhà hàng địa phương (chỉ cách đó ba mươi hai cây số) chuẩn bị cho họ những đĩa cơm khổng lồ cùng với thịt cừu, đúng như một đám cưới, và bọn họ đã ăn hết sạch, nếu không muốn nói là ăn một cách điên cuồng. Những làn gió nóng như đổ lửa bắt đầu cuộc chơi chết chóc đối với cơn thèm ăn của những người đàn ông. Hai người đã ngã gục và phải đưa trở về Jeddah bằng xe của Trăng lưỡi liềm Đỏ.

Ibrahim cúi xuống từng cái xác một, cái nóng như lưỡi dao cắt ngang lưng ông. Mồ hôi đầm đìa khiến đôi giày của ông ướt nhẹp. Ngay cả nhóm Murrah có vẻ cũng bắt đầu kiệt sức.

Hiện trường mở ra về phía sa mạc giống như một khu khai quật khảo cổ học, ngổn ngang trên mặt đất nào vải bạt, nào cọc dựng, đèn sáng được mang đến khi mặt trời chuyển sang màu đỏ ối và khuất dần ở phía chân trời. Mười chín cái xác tất cả. Ibrahim thấy khiếp sợ khi ông nghe nhân viên điều tra báo cáo lại. Abu-Musa đến nói chuyện với ông, đây là lần đầu tiên trong ngày ông ta làm vậy. Ánh hoàng hôn khiến cho mái tóc hoa râm của ông ta đẹp lạ lùng.
“Ông có nghe thấy những gì tôi nói không? Mười chín cái xác.” Abu-Musa nói. “Mười chín. Ông có hiểu điều đó có nghĩa là gì chứ?”

Và trên cả đó là mười chín?” Ibrahim trích đọc.

Abu-Musa gật đầu với vẻ đồng tình lặng lẽ. Câu thơ đó được trích trong kinh Koran, là một câu thơ huyền bí không ăn nhập gì với những nội dung khác, nhắc nhở con người từ hàng bao thế kỷ nay gợi tưởng đến những hình dung hoang dại về tầm quan trọng của con số mười chín. Những lần nhập thân gần đây nhất ở Mỹ, Tucson, Arizona, một nhà hóa sinh người Ai Cập tên là Rashad Khalifa đã tuyên bố tổng lãnh thiên sứ Gabriel đã tiết lộ với ông ta rằng trong văn tự kinh Koran có một mã số toán học bí ấn có thể được giải mã bằng cách sử dụng con số mười chín.

Nhưng câu thơ tiếp theo trong Kinh Koran đã đưa ra một lời giải thích giản đơn cho con số đó: Và chúng ta không sắp đặt ai khác ngoài các thiên sứ như những người gác lửa, và chúng ta đã ấn định con số của họ.

Điều đó nghĩa là có mười chín thiên sứ canh gác Địa ngục.

“Có thể là một sự trùng hợp thôi.” Ibrahim nói.

“Anh có chắc vậy không?” Abu-Musa cười mỉm, một cử chỉ lạnh lùng. “Tôi tin là anh sẽ không tìm thấy thêm một thi thể nào nữa đâu. Dù là kẻ nào đã làm chuyện này thì hắn ta cũng có lý do của mình.”

“Cũng vậy cả thôi.” Ibrahim nói. “Có thể nó chỉ vô tình là mười chín.”
 
2

Katya Hijazi đang bê chồng hồ sơ mới nhất xuống văn phòng của Thanh tra Zahrani thì một tràng cười giòn giã vang lên từ phía phòng họp khiến cô chú ý. Cô bước rón rén dọc theo hành lang, tò mò muốn biết có điều gì đáng cười đến vậy tại một cuộc họp của Đội Trọng án.

Đám đông đứng tản mác, và cô quan sát họ qua cửa ra vào, những người đàn ông đang nói chuyện, các cuộc trao đổi ở chỗ này rồi chỗ kia, tiếng cười đùa, những cái gật đầu đồng ý. Không có ai nhìn về phía cô cả, bọn họ còn đang bận tâm dõi theo Waseem Daher, một trong những thám tử trẻ mà Katya đã gặp hai lần và đã gộp vào trong số rất ít người mà cô sẽ lấy làm mừng khi đẩy bọn họ vào một cái cối xay thịt công nghiệp. Tuần trước, Daher đã buộc tội cô là một người khôn khéo tự cho mình là trung tâm chú ý của mỗi vụ điều tra, do cô trưởng thành cùng với việc quan sát Đội Điều tra hiện trường và cho rằng chính các nhân viên pháp y đúng ra mới là người thực hiện tất cả các công việc điều tra. Nếu anh ta mà phát hiện ra cô đang thập thò ngoài cửa, hẳn là anh ta sẽ chẳng để yên.

Hình ảnh về gương mặt của các nạn nhân đã choán gần hết chiếc bảng trắng ngay trước phòng. Katya đã quá bận bịu trong phòng thí nghiệm mà vẫn chưa nhìn thấy các thi thể đó. Mỗi khi cô xuống dưới gác là lại thấy phòng khám nghiệm tấp nập những nhân viên gạo cội và các đặc vụ của Bộ Nội vụ. Chưa bao giờ họ lại có một vụ án có nhiều nạn nhân đến thế. Thực tế là họ còn không có đủ chỗ trong nhà lạnh dành cho nữ giới, nên họ đã phải đưa số nạn nhân còn lại sang khu vực dành cho nam giới của tòa nhà và mong là sẽ không có thêm người nào ở Jeddah chết cho đến khi họ hoàn tất việc xử lý các bằng chứng.

Phải mất ba ngày để di dời các thi thể khỏi hiện trường. Họ thậm chí đã mời một nhà khảo cổ đến với hy vọng mong manh rằng đó sẽ là một sự việc mang tính lịch sử nào đấy. Nhưng từ những gì mà pháp y thu nhận được thì phần “mang tính lịch sử” nhất của những thi thể đó là họ đã chết từ mười năm về trước.

Katya đã mất bốn ngày qua để đóng bao và ghi nhãn các bộ trang phục của các nạn nhân rồi thử các mẫu máu và mô như một cái máy, hoàn toàn không biết bất cứ thông tin gì khác về việc cô đang làm. Tin tức về vụ sát hại được thu nhặt qua những cuộc hội thoại vội vàng với Majdi, một trong những nhân viên pháp y nam chuyên về nghiên cứu bệnh học, hoặc thông qua cách điều tra cũ rích của chính cô: nghe trộm và “mượn” những bản báo cáo mà không bao giờ được chuyển đến bàn làm việc của cô. Lúc này cô đang có trong tay một vài bản như vậy, nhưng té ra chúng lại là những bản bỏ đi.

Cô không biết rằng các điều tra viên vẫn chưa nhận diện được bất cứ phụ nữ nào. Phần lớn những phụ nữ đó đều là người nhập cư: người Phillipine, người Sri lanka, người Indonesia, hầu hết mới ngoài hai mươi tuổi. Khuôn mặt của tất cả bọn họ đều đã bị tàn phá, và không có dấu vân tay nào sót lại. Những chuyên gia tạo dựng lại khuôn mặt đã đưa ra một vài phác họa, và đó chính là cái mà Katya không có.

Khi mọi người bắt đầu đi qua cửa, Katya né mình sang bên. Cô không muốn lên phòng thí nghiệm và cứ ngồi trước một cái máy suốt quãng thời gian còn lại trong ngày. Cô muốn được phỏng vấn mọi người, sục sạo khắp các hang cùng ngõ hẻm để tìm ai đó có khả năng là nhân chứng, làm tất cả những việc mà có thể đóng góp cho cuộc điều tra và cũng là những việc mà những người đàn ông này sắp thực hiện, hoặc thực hiện một cách dễ dàng, mà không phải lo lắng điều đó sẽ ảnh hưởng đến phẩm hạnh của mình. Tuy nhiên cô không thể phỏng vấn mọi người được. Có thể người ta sẽ thấy việc nói chuyện với một phụ nữ là điều không đứng đắn. Cô phải có một nam giới tháp tùng. Cô sẽ phải có một quyền hạn nào đó để buộc họ phải nói chuyện. Cô có thể luôn đẩy bật cánh cửa để đi qua đó, nhưng còn những trở ngại khó nói hơn một cánh cửa rất nhiều. Đó là những lối vào tâm tưởng, những ngõ ngách tăm tối và những lối đi nhỏ hẹp, những mê cung đã dựng lên toàn bộ cái thành phố tư duy, toàn bộ cái thế giới mà ở đó con người ta sẽ không bao giờ tìm thấy lối ra, khi mà bao quanh họ là những bức tường bằng đá tảng từ thời đại của Rashidun Caliphate.

Katya đi về phía cuối hành lang, bỏ tập hồ sơ vào hộp thư của Zahrani rồi đi thẳng xuống tầng dưới vào phòng khám nghiệm y tế. Có hai lối vào tầng dưới tòa nhà, một dành cho nam giới, một dành cho nữ giới. Cô bước qua cánh cửa dành cho mình và đi vòng ra phía trước tòa nhà thì thấy Adara đang ở trong phòng khám nghiệm tử thi của nữ giới.

“Ồ, hay quá, cậu đây rồi.” Adara nói. “Đeo găng tay vào và lại đây đi.”

Katya làm theo và lấy hết dũng khí để nhìn năm thi thể xếp hàng trên những chiếc cáng bên cạnh tường.

“Ban đầu họ đánh số các nạn nhân theo thứ tự tìm thấy họ, nhưng hóa ra cách đánh số đó lại rất lộn xộn. Giờ thì họ muốn đánh số các thi thể theo trình tự thời gian họ bị sát hại, thế nên cái xác này trở thành cái mới đây nhất.” Adara ra hiệu với cái kim đang khâu đóng ngực tử thi đó lại. “Người ta mới đưa cô ta đến sáng nay.”

“Cô ta chết đã lâu chưa?”

“Rất khó nói, nhưng không quá sáu tháng.”

“Mình không biết gì về chuyện này cả.” Katya nói. “Mình mới chỉ thử mẫu máu và xem những tấm ảnh chụp gương mặt họ.”

“Thực ra, gương mặt của bọn họ đã nói lên toàn bộ sự việc rồi. Người nào cũng bị bắn thủng đầu từ phía sau ở tầm gần và bắn thẳng. Vết thương do đạn nổ đã phá hủy hầu hết khuôn mặt, nhưng vẫn có thể nhìn ra được một số đặc điểm trên gương mặt.” Adara ra hiệu về phía người phụ nữ đang nằm trên bàn. “Một điều nữa mà mình có thể nói với cậu là cô ta ở độ tuổi từ hai mươi đến hai mươi lăm. Xương ống chân và xương đùi bị vỡ, không thấy dấu hiệu bị h.ãm hiếp. Và, dĩ nhiên, cả bàn tay của cô ta nữa.”

Katya nhìn hai cánh tay của người phụ nữ đó và chút nữa thì ngã quỵ. Bàn tay đã biến mất – cả hai bàn tay. Điều đó giải thích tại sao lại không một dấu vân tay nào.

“Tất cả bọn họ đều giống như vậy.” Adara nói.

“Tất cả ư?”

“Ừ. Mỗi bàn tay đều bị chặt chỉ bởi một nhát chém sau khi nạn nhân bị giết.” Đôi tay của Adara đang thực hiện công đoạn khó khăn của việc khâu tử thi. Cô đâm kim xuống, đi vòng ra đến bồn rửa, rồi kéo kim lên.

“Xin lỗi nhé.” Cô thì thầm. “Đang mang thai.”

“Ồ. Chúc mừng cậu nhé.”

Adara lau miệng rồi rửa lại bằng một chút nước trước khi quay lại bàn mổ.
“Bọn họ có còn bàn chân không?” Katya hỏi.

“Vẫn còn.”

“Mình biết các điều tra viên đang có một số phác họa về gương mặt được tạo dựng lại của các nạn nhân này.” Katya nói. “Họ sẽ trình các phác họa đó lên các lãnh sự quán.”

“Và cậu cho rằng…?”

“Rằng việc này sẽ mất một vài năm. Các lãnh sự quán sẽ chẳng biết gì đâu. Cứ nhìn bọn họ tệ bạc thế nào với người sống thì biết.”

“Đúng là như vậy.” Adara nói. “Mình nghĩ họ đã đúng khi cho rằng hầu hết những phụ nữ này là lao động nước ngoài, có lẽ là những người giúp việc.”
Chi tiết gây sốc nhất đối với Sở là có khả năng chỉ một người thực hiện vụ sát hại này, một người duy nhất, trong khoảng thời gian từng ấy năm, đã âm thầm giết những phụ nữ này mà không một ai để ý tới. Katya đã bắt đầu tập hợp các hồ sơ về những người bị mất tích, nhưng có khả năng là những phụ nữ này chưa từng được khai báo là mất tích. Chủ của họ có lẽ đã cho rằng người giúp việc của mình đã bỏ trốn, giống như rất nhiều người khác đã làm vậy, để tìm một công việc tốt hơn hoặc để thoát khỏi cảnh ngộ bị ngược đãi. Người giúp việc đó sẽ không muốn bị phát hiện, bởi cô ta có thể bị đi tù.

Cũng có khả năng là kẻ giết những phụ nữ này đã thuê họ làm người giúp việc cho hắn. Có thể hắn ta đã giữ họ ở một nơi biệt lập, từ từ tra tấn họ, từng người một, trước khi giết họ. Có thể ngay từ đầu khi những phụ nữ này đến đây, không có một ai đã biết về sự tồn tại của họ ngoại trừ kẻ giết người.

“Cậu biết gì về những kẻ giết người hàng loạt?” Adara hỏi.

Katya lắc đầu. “Không nhiều lắm.”

“Mình mới nghe được họ sẽ mời một người từ FBI Mỹ sang, một chuyên gia về những tên giết người hàng loạt.”

“Nghe có vẻ hơi quá.” Katya nói. “Ý mình là, chúng ta đã từng mời bọn họ rồi.”

Adara nhìn những thi thể nằm xếp hàng bên cạnh tường. “Mình đoán là bọn họ nhận thấy vụ án này là một vụ khác thường. Một dạng mới, có lẽ vậy. Hắn ta đã ra tay trong vòng ít nhất là mười năm rồi. Chánh Thanh tra Riyadh cảm thấy xấu hổ. Mọi người đều cảm thấy bị sỉ nhục. Họ đã không hề biết sự việc này đã đang diễn ra. Họ đã chậm mất mười năm. Cảnh sát đã phải mất bốn năm trời để lần theo tên giết người hàng loạt ở Yanbu. Riyadh sẽ không để vụ án này phải kéo dài lâu đến thế.”

Trên đường quay trở lại phòng thí nghiệm, Katya ghé vào văn phòng của Majdi, nhưng anh ta đang nghe điện thoại, mà các đặc vụ cũng đang quanh quẩn ở đó. Cô cúi đầu rảo bước về phía hành lang rồi rẽ sang đại sảnh. Mới trong tuần này các cơ quan tôn giáo đã đưa ra một sắc lệnh nhằm chống lại các nữ thu ngân, nói rằng những phụ nữ làm việc ở các khu vực công cộng, nơi mà họ có thể tiếp xúc với nam giới, là tội lỗi. Có thể đây lại là một sắc lệnh ngớ ngẩn nữa mà người Ả Rập Xê-út sẽ tự cảm thấy là sai trái nhưng sẽ hoàn toàn lờ nó đi, ngoại trừ ngài đại trưởng giáo chịu trách nhiệm thông qua sắc lệnh đó trên thực tế sẽ mở rộng phạm vi ảnh hưởng của nó, bằng cách cấm đoán những phụ nữ không chỉ ở vị trí thu ngân mà còn ở tất cả các vị trí khác có liên quan đến việc tiếp xúc với nam giới. Các vị trí bị cấm hàng đầu sẽ là các công việc tại những cơ quan của chính phủ, nhất là khi sắc lệnh này được thi hành. Katya mong rằng các hoàng thân quốc thích hoặc chính nhà vua sẽ làm gì đó để xoay chuyển tình hình, nhưng cho đến khi đó thì tất cả những phụ nữ đang làm ở phòng thí nghiệm chỉ còn biết nín thở chờ đợi.
 
3

Chỉ còn biết chờ đợi khi thời điểm tồi tệ nhất có thể xảy đến, cuộc sống của con trai ông sẽ đón nhận một cú sốc lớn. Cuộc hôn nhân của Zaki ngay từ đầu đã là một tai họa. Ibrahim đã nhận thấy áp lực đó ngày một nặng nề trong suốt ba tháng trời ròng rã. Ngay cả sự việc kinh hoàng khi phát hiện ra mười chín thi thể kia cũng không đủ để thay đổi chiều hướng không thể tránh khỏi này như một tác động sâu sắc, đen tối và day dứt đối với thất bại gia đình của ông.

Đứa con trai yêu quý của ông, Zaki. Ibrahim ngồi trong phòng xử án và lắng nghe khi con trai mình đang ra sức giải trình một lần nữa về bản thân cậu ta trước tòa. Cậu đã sai lầm. Mọi việc thật quá dễ dàng khi bạn không hề biết gì về vị hôn thê của mình trước khi bạn cưới cô ta. Bọn chúng – cả hai đứa – đều đang đòi ly hôn.

Ông thẩm phán chẳng có vẻ gì là đang lắng nghe cả nhưng có điều gì đó trong ánh mắt ông ta nói với Ibrahim rằng ông ta không chấp nhận được điều này, rằng lần nào ông ta cũng nghe cánh đàn ông lý sự như vậy. Nhưng Zaki phải nói gì đây? Rằng chưa bao giờ cậu có ý định cưới một người phụ nữ kiểu như Saffanah: ngoan ngoãn, mộ đạo, cầu nguyện năm lần một ngày, rồi mỗi tuần một lần yêu cầu cậu đưa mình tới Mecca? Vị thẩm phán hẳn sẽ tống cổ cậu ra khỏi phòng xử án vì hành vi bất kính đối với đạo Hồi.

Cái cách mà Zaki thuật lại sự việc, rằng hàng sáng mỗi khi thức dậy, cậu đều thấy chiếc áo thụng của mình, tấm khăn trùm đầu và sợi dây buộc nằm gọn ghẽ trên gi.ường. Rồi cả tất nữa – cô ta luôn để một đôi ngay bên cạnh chiếc áo thụng, với hy vọng rằng cậu sẽ là một trong những tên ngốc kia mà khoác chúng lên người. Vào bếp, cậu sẽ thấy bữa sáng của mình được dọn sẵn trên bàn, cà phê cũng đã được pha và bỏ đường, bánh mỳ nóng hổi vừa mới nướng. Sau bữa sáng, cậu sẽ thấy chiếc ví và chùm chìa khóa được đặt trên chiếc bàn ngay cửa trước. Cậu sẽ chỉ nhìn thấy Saffanah đúng một lần khi cậu ngồi vào ô-tô của mình và quay đầu lại nhìn về phía căn hộ. Cô ta sẽ đứng phía sau ô cửa sổ với một bên cửa chớp đã khép lại, nhìn ra ngoài phố. Chí ít thì cậu cũng cho rằng phía sau bộ đồ trùm kín đó chính là cô ta; có ai khác nữa ở trong nhà đâu. Cậu không biết cả ngày cô ta làm gì ở nhà. Cô ta quá sùng đạo đến mức không dùng điện thoại di động. Cô ta nói rằng đó là những công cụ làm băng hoại đạo đức. Buổi tối khi cậu về nhà, bữa tối đã sẵn sàng. Chiếc thảm cầu nguyện của cậu cũng đã được trải bên cạnh bộ đồ sạch sẽ để cậu thay. Cô ta làm công việc chăm sóc cậu quá chu đáo trong khi lần nào cũng từ chối làm cái việc mà một người chồng luôn mong đợi ở một người vợ. Mỗi đêm khi đi ngủ, cô ta sẽ không đụng đến cậu. Cậu còn chưa bao giờ được nhìn thấy cô ta khỏa thân. Cậu hiểu đó là quyền của mình khi yêu cầu chuyện đó, nhưng cậu không muốn ép buộc cô ta. Thực tế là, cậu cũng không chắc rằng mình có muốn chuyện đó hay không nữa.

Chỉ vài ngày sau đám cưới, thậm chí trước cả khi Zaki bắt đầu phàn nàn về việc này, Ibrahim đã nhận ra vấn đề. Mặc dù Saffanah chưa bao giờ như ông nghĩ, nhưng khoảng cách, sự im lặng và sự vâng lời tuyệt đối của cô ta đã bắt đầu đưa mọi chuyện theo chiều hướng đó.

“Đây,” một đêm Zaki lớn tiếng, “chính là lý do tại sao con căm ghét tôn giáo!”

“Không được nói vậy.” Ibrahim sửng sốt nói. “Con bé không phải người Hồi giáo. Nó thậm chí cũng không phải một trường hợp ngoan đạo của Hồi giáo.”

Cả hai đều đã nói trước tòa rằng họ chưa qua đêm tân hôn, và vì lẽ đó Saffanah vẫn là trinh nữ. Zaki cũng rất tế nhị khi đề nghị một bác sỹ kiểm chứng điều đó. Cha của Saffanah, Jibril, thì bật dậy khỏi ghế và lớn tiếng phản đối. Ông thẩm phán đã phải xua tay buộc ông ta phải trật tự và quay sang Zaki với ánh mắt hoài nghi sâu sắc.

“Nhưng đó là sự thật!” Zaki nói.

Jibril ngay lập tức lại phản đối. Ông ta biện luận rằng cho dù đã có chuyện gì xảy ra trong phòng ngủ đi chăng nữa thì đó không phải là vấn đề. Saffanah đã kết hôn được ba tháng rồi. Không một người đàn ông nào sẽ tin rằng cô còn trinh tiết, ngay cả khi điều đó là sự thật. Ibrahim ghét phải thừa nhận rằng cái lý lẽ khó chịu này có cái lý của nó. Sẽ rất khó cho Saffanah để có thể tái hôn.

Cô ta đang ngồi phía bên kia của Ibrahim. Không để hở bất cứ một phần da nào trên cơ thể; chiếc áo dài có khăm trùm đầu của cô ta là một mảnh vải đen không thể nhìn qua được, cô ta còn mang cả bít tất và găng tay nữa. Nhưng tư thế của cô ta đã nói lên tất cả. Cô ta thu mình trong chiếc ghế, hai cánh tay ôm lấy phần thân trên, đầu cúi xuống. Saffanah – “viên ngọc trai”. Cô ta trông lúng túng, vụng về, e dè một cách khổ hạnh. Khuôn mặt cô ta méo mó, trông lổn nhổn như một cục bột nhào. Chẳng có chút gì le lói hết. Viên ngọc trai – như chỉ giấu mình trong đó cô ta mới có thể trở thành vết thương thầm kín trong nội tâm yếu mềm của Zaki.

Lần duy nhất mà Ibrahim từng thấy hai đứa trao đổi với nhau đó là khi Saffanah mua bữa tối cho Zaki. Cô ta không ăn với đàn ông bởi cô ta tin rằng người vợ mà ăn cùng chồng là không phải phép. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô ta ăn nhanh hơn chồng mình? Cô ta sẽ ăn xong trước! Thậm chí cô ta có thể ăn nhiều hơn cả chồng! Như vậy là, theo đúng lời của cô ta nói, người vợ đó đã “hành động như một người chồng”, và đó là một trọng tội. Ibrahim cố gắng giải thích rằng “hành động như một người chồng” là cách nói tránh hợp pháp đối với tội đồng tính luyến ái, nhưng khi ông nhắc đến từ đồng tính luyến ái cô ta đã bịt tai lại và bắt đầu lầm rầm cầu nguyện bởi đó là những ngôn từ tội lỗi. Cô ta còn cầu nguyện cho Ibrahim được che chở nữa, bởi ông đã trở thành tội đồ khi dám thốt ra những ngôn từ xấu xa đến thế, và khi ông nói thôi, đừng có ngớ ngẩn như vậy, cô ta đã dành cả buổi tối còn lại để vẩy nước thánh khắp ngôi nhà – hãy tĩnh tâm – và dâng mình cho Allah.

Cô ta đã khiến cho mẹ của Zaki trở thành mẫu người tiết chế hiếm có.

Ibrahim hiểu rằng sai lầm lớn nhất của ông là không phản đối vợ mình, Jamila. Bà ta đã ép buộc Zaki phải cưới Saffanah, một bà cô không chồng hai mươi hai tuổi. Cô ta đã hoảng hốt vì sợ mình sẽ không lấy được chồng bởi nhà tiên tri đã nói rằng tín đồ Hồi giáo chuẩn mực nên kết hôn. Cô ta đã tuyệt vọng, và hẳn sẽ không ai muốn lấy cô ta. Rồi Zaki, mới mười chín tuổi đầu, không phải cực kỳ đẹp trai, là con trai thứ với một công việc xoàng xĩnh, hay kiểu như mẹ cậu vẫn hay kêu ca như vậy. Ibrahim đã có thể làm nhiều hơn thế để ngăn chặn việc này xảy ra. Vậy thì đỉnh điểm là gì? Nhưng với Jamila, ông đã học được cách lựa chọn những trận chiến cho mình, và trong trận chiến này, bà ta đã khơi mào với một loạt ba-zô-ka và súng phóng lựu chống tăng phản lực, tiếp đến là những vũ khí hạt nhân, và ông đã không có được sức mạnh để chống trả. Giờ đây ông đang phải trả giá vì điều đó, phải dẫn dắt Zaki và Saffanah qua những ngày tháng khổ đau.

Ibrahim nhìn đôi trẻ, cả hai đều đang nhìn về trước, cùng lờ nhau đi. Ông tự hỏi sẽ thế nào nếu Saffanah lên tiếng bênh vực họ. Bênh vực họ. Có lẽ cô ta sẽ làm hỏng chuyện bằng cách nói với ông thẩm phán rằng chồng mình là một kẻ vô tín ngưỡng: Anh ta hút thuốc. Anh ta không hề cầu nguyện năm lần một ngày. Thực ra, anh ta chẳng hề cầu nguyện chút nào hết. Và anh ta còn nghe nhạc nữa. Suy nghĩ đó khiến Ibrahim đột nhiên đau đớn bởi phần buồn nhất của cuộc hôn nhân thất bại này là việc Zaki đã từng có một cây ghi-ta, đã từng khát khao được chơi đàn, thậm chí đã lập cả một ban nhạc nhỏ, rồi sau đó, chỉ vì sự xuẩn ngốc của mình và người mẹ độc đoán, đã phải cưới một người xa lạ trong khi đáng lẽ cậu sẽ tự do gảy đàn trong ga-ra của nhà ai đó và hưởng thụ nốt cuộc sống của một đời trai trẻ.

Từ phía bàn bên kia, Jibril đang vô cùng hả hê. Không khí im lặng càng kéo dài, thì dường như Jibril càng cảm thấy thỏa mãn với chính mình. Ông ta đã có pháp luật chở che, và cả cái lý lẽ khó chịu kia nữa. Hợp đồng hôn nhân đã quy định rất rõ rằng nếu Zaki quyết định ly hôn, cậu sẽ phải trả cho Saffanah mười lăm triệu riyal – đủ để giúp cho cô ta có một cuộc sống thoải mái đến hết đời. Do một phụ nữ ly hôn thì sẽ không có người để nương tựa, cô ta sẽ phải cậy nhờ cha mẹ mình mãi mãi. Nhưng tất nhiên là không ai trong gia đình có đủ số tiền đó. Ai mà có được số tiền đó cơ chứ? Ông đã thấy rất nhiều người đàn ông ly dị vợ và không bao giờ trả một xu nào, hay ít ra là không bao giờ trả đến hàng triệu bạc tiền như họ đã thề thốt cả. Chính vì vậy mà với ông thẩm phán chuyện thật giản đơn – Zaki và Saffanah muốn ly hôn, và lời huấn đạo của Muhammad đã dạy rằng tất cả những gì cậu cần phải làm là nói với vợ mình ba lần câu “Tôi ly dị cô!”, chỉ vậy thôi. Thế là xong. Còn có thể nào dễ dàng hơn thế được chăng? Nhưng cha của cô ta lại từ chối không tiếp nhận cô ta trở lại.

Điều này cũng khiến cho ông thẩm phán khó chịu. Ông ta ngồi đó, đưa mắt ngán ngẩm nhìn Ibrahim, gãi gãi bộ râu thưa thớt của mình, nhìn chăm chăm vào cốc nước, nhìn lên những chiếc quạt trần, rồi lại nhìn xuống những viên gạch lát sàn đã sứt mẻ, tất cả chỉ để cố tỏ ra mình đang suy nghĩ trong khi rõ ràng là ông ta đang vô cùng bối rối. Ibrahim có thể hiểu được tâm trí ông ta đang rối bời. Phần tốt của ông ta thì nói rằng: Hãy để bọn trẻ ly hôn! Nhưng phần tự cao tự đại thì đang phải đấu tranh với tính pháp lý của việc phá vỡ hợp đồng.

Khi đến lượt mình lên tiếng, Jibril đã đứng lên và nói với các vị thẩm phán rằng Zaki đã hủy hoại con gái ông ta và rằng cho đến khi nào cậu chưa thể trả được mức tiền bồi thường mà hợp đồng hôn nhân đã quy định, gia đình ông ta sẽ không tiếp nhận con gái mình trở lại. Hiển nhiên điều đó đã buộc Zaki phải tự chủ hết mức để không hét lên. Ibrahim cảm thấy sự thôi thúc phải lên tiếng. Ông muốn nói với thẩm phán rằng Jibril là chúa bịp bợm. Rằng ông ta đã ly dị người vợ đầu tiên của mình mà không trả nổi đến một trăm riyal và rốt cuộc là Saffanah và mẹ cô ta đã rơi vào cảnh bần cùng đáng thương. Rằng Jibril đã từng có bảy bà vợ và hiện tại đang có bốn bà, người nào cũng đang mang bầu, trong khi bọn họ đã có với nhau mười hai mặt con, và nếu như ông ta không quá sung mãn trên gi.ường đến vậy thì hẳn là ông ta đã có thể đã hào phóng hơn với đứa con đầu tiên của mình, Viên ngọc trai tội nghiệp, và người mẹ khốn khổ của cô ta.

Jibril vẫn đang thao thao bất tuyệt. Mặc dù ông ta rất yêu quý đứa con gái của mình, nhưng ông ta không thể đón nhận cô ta trở lại. Saffanah đã hai mươi hai tuổi rồi; cơ may để cô ta tái hôn thực tế là bằng không. Làm sao cô ta có thể tự lo cho mình được đây? Liệu cô ta sẽ trở thành gánh nặng cho bố mẹ suốt quãng đời còn lại không? Bọn họ sẽ phải lo liệu cho cô ta từ việc ăn, ở đến việc thường xuyên thăm viếng Mecca sao? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông ta chết? Con gái ông ta sẽ cô quả, không con cái, không tiền bạc, không chồng, không tương lai. Khi đó thì nhà nước sẽ phải chăm sóc cô ta, lẽ nào lại không? Và ai mà chẳng biết nhà nước chăm sóc những phụ nữ cô độc tuyệt vời đến mức nào! Con bé sẽ trở thành gái mại dâm, ai cũng hiểu như vậy.

Chỉ có điều là ông ta không hẳn dùng từ gái mại dâm, mà dùng từ không đứng đắn. Con bé sẽ trở nên không đứng đắn. Vậy là Saffanah – người phụ nữ đã lôi tờ lịch biểu cầu nguyện nhàu nhĩ ra khỏi thùng rác và là nó phẳng lỳ – Saffanah sẽ bắt đầu đứng đón khách làng chơi ở đường Corniche. Ibrahim nhìn ông thẩm phán đang lặng lẽ đánh tan thứ kem đó. Không đứng đắn. Đó chính xác là từ mà ông ta cần để bám vào nhằm đưa ra quyết định. Vấn đề này thật phức tạp cho đến khi cái từ đó bật ra. Giờ thì thật đơn giản: không gì có thể biện minh cho việc đẩy một người phụ nữ rơi vào cảnh đời tan nát, mặc dù cô ấy đang muốn thoát khỏi những nỗi bất hạnh này thế nào đi chăng nữa.

Nét mặt ông thẩm phán đã nói lên tất cả với Ibrahim: Không ly hôn, các bạn trẻ ạ, xin lỗi nhé.

Ibrahim cảm thấy hai bên thái dương mình giật giật. Chỉ mới tuần trước thôi một người đàn ông đã có thể ly dị vợ anh ta tại chính phòng xử án này chỉ vì cô vợ đã xem một phát thanh viên nam trên truyền hình một mình. Cô ta đã ở một mình trong căn phòng với một người đàn ông lạ mặt. Chẳng quan trọng khi anh ta chỉ có trên một cái màn hình phẳng. Gã chồng ngớ ngẩn đó đã có thể ly dị vợ mình, mà Zaki thì lại không thể được sao?
 
Bọn họ đứng bên ngoài phòng xử án và nhìn Jibril lái xe đi khỏi. Zaki giúp Saffanah ngồi vào ghế sau ô-tô. Cô ta dò dẫm để ngồi vào ghế, va cả đầu mình vào thành cửa xe. Ibrahim đã từng thấy cảnh tượng này trước đây rồi. Zaki sẽ nhắc cô ta thắt dây an toàn. Hàng năm số người chết vì không đeo dây an toàn nhiều hơn bất cứ nguyên nhân tử vong nào khác, không hiểu cô ta có biết điều đó không? Cô ta sẽ lắc đầu – không phải ý là Không, em không biết điều đó, mà là Không, em chịu thôi. Cô ta sẽ khoanh tay lại, đó là kiểu thắt dây an toàn Saffanah, và cứ ngồi như vậy cho đến khi Zaki khởi động xe. Làm sao có thể thắt dây an toàn được khi mà Saffanah luôn e ngại sợi dây an toàn thắt chặt vào người có thể làm lộ rõ thân hình của mình và bất cứ người đàn ông nào lái xe ngang qua có thể nhìn thấy dáng hình của cô ta, và điều đó là không thể chấp nhận được.

Sau khi nhìn cô ta va đầu vào khung cửa xe, Zaki nói: “Cô nên mặc bộ áo choàng nào có khe hở cho mắt chứ.”

Cô ta không đáp lại.

Ibrahim định ngồi vào băng ghế sau nhưng Zaki đã ngăn ông lại. “Bố, bố làm ơn lái xe giúp con. Con sẽ đi bộ.”

“Gì cơ?” Ibrahim thốt lên. “Không được. Cứ về nhà đã. Đi bộ giờ nóng lắm.”

Khuôn mặt Zaki tái đi vì phải kìm nén cơn giận dữ. “Nếu con thấy nóng quá, con sẽ bắt taxi.” Anh nói. Đoạn trừng mắt nhìn Saffanah lần nữa rồi quay bước đi.

Ibrahim ngồi vào xe và nhìn Saffanah trong gương chiếu hậu. Cô ta hướng mặt về phía trước và nghếch lên đầy thách thức. “Thắt dây an toàn của con vào đi”. Ông nói, chỉ để nhắc cô ta rằng thế là đủ lắm rồi.

Ibrahim nổ máy. Ông hiểu rằng thật không phải khi nổi nóng với cô ta, nhưng ông không chịu đựng được. Sự im lặng đầy thù nghịch và theo kiểu đổ dầu vào lửa của cô ta chẳng lạ lẫm gì. Jamila lúc nào chẳng tỏ thái độ như vậy, chỉ là không có ẩn ý tôn giáo nào mà thôi.

Xe chạy cách phòng xử án chừng ba tòa nhà thì Ibrahim nghe thấy tiếng ậm ọe từ phía ghế sau. Ông xoay người lại thì thấy Saffanah đang kéo tay nắm cửa. Ngay lập tức ông dừng xe. Cô ta đẩy cửa mở, ngả người ra ngoài, rồi nôn thốc tháo lên mặt đường, nhưng bởi cô ta không vén tấm áo choàng lên nên đám nôn tung tóe khắp mặt vải của chiếc khăn che mặt và chảy xuống tà trước của chiếc áo trùm bên ngoài. Chỉ có một ít bị bắn tóe lên hè đường.

Ibrahim lao ra ngoài và chạy vòng sang phía cô ta, nhưng khi ông đến nơi thì cô ta đã ngồi ngay ngắn trở lại, tấm mạng che mặt dính bết vào cằm cô ta. Cô ta sẽ không tháo bỏ nó ở nơi công cộng, ngay cả khi ngồi trong ô-tô và ngay cả khi đám nôn mửa dính đầy mình.

“Đợi ở đây.” Ông nói, rồi để mặc chiếc xe đỗ bên cạnh một chiếc khác, chạy bộ xuôi theo con đường cho đến khi thấy một cửa hàng rượu vang ở góc phố. Ông mua khăn giấy, nước đóng chai và kẹo cao su. Ơn trời, ông chủ cửa hàng là một người tốt bụng, đã chạy ngay lên tầng trên căn hộ của mình, bắt được chiếc mạng che mặt của vợ và đưa nó cho Ibrahim. Khi Ibrahim trở lại xe, ông để những thứ đó lên băng ghế sau bên cạnh Saffanah. “Đây,” ông nói, “một vài thứ để con lau chùi cho sạch sẽ. Và cả chiếc áo choàng mới nữa.” Rồi ông vào xe và bắt đầu lái đi.

Ông chạy xe theo đường cao tốc và cho đến khi gần về đến nhà thì ông mới để ý thấy Saffanah đang dùng khăn giấy lau mặt. Cô ta cúi xuống để tránh ai đó lái xe ngang qua có thể trông thấy việc tế nhị đó, rồi cô ta tháo bỏ chiếc khăn đã bẩn và đeo chiếc khăn che mặt mới vào. Cô ta đưa một thanh kẹo cao su vào miệng. Vài phút sau đó cô ta mở một chai nước, luồn nó vào dưới chiếc mạng che mặt rồi nhấp một ngụm.

Ibrahim thấy nhẹ lòng và hướng sự tập trung trở lại việc lái xe. Ông rẽ vào con đường nhánh chạy qua khu phụ cận rồi thẳng hướng chạy về khu ngoại ô phía nam thành phố. Giao thông ở đây thưa thớt; ông đã thấy sa mạc hiện ra phía trước. Trong giây phút bốc đồng, ông quyết định lái xe đi thẳng.

Một lát sau, Saffanah bắt đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. Ibrahim không chắc cô ta có nhìn rõ qua tấm mạng che mặt và tấm kính màu hay không, nhưng rõ ràng cô ta đã nhận ra họ đã đi quá điểm dừng mọi khi. Ông quyết định không giải thích gì cả. Không khí trong xe nặng mùi ói mửa nên ông đã hạ một tấm kính cửa sổ xuống và bật điều hòa lên.

Qua dáng vẻ và cái nghiêng đầu của Saffanah, Ibrahim có thể hiểu được cô ta đang chột dạ và lấy làm lạ. Phía bên phải xe hiện ra trước mắt là một cánh đồng rộng mênh mông cùng một vài con lạc đà ở phía sau hàng rào dây thép. Phía bên kia là một ngôi nhà nhỏ nhắn. Ông dừng lại, đỗ xe sát một bên lề đường rồi vòng ra phía cửa sau để giúp cô ta ra khỏi xe.

Ông ngạc nhiên khi cô ta không hề tỏ ra kháng cự. Cô ta không hỏi một câu hay nói một từ nào kể từ khi cô ta vào trong xe. Ông đã cố nghĩ về cô ta như là một đứa con gái – ông đã cố nhiều tháng nay rồi – những ông vẫn không thể xua đi cái ý nghĩ rằng ông sẽ không bao giờ để bất kỳ đứa con gái nào của mình hành xử như vậy cả, ông sẽ không bao giờ khuyến khích sự cô độc mộ đạo và sự phô trương tôn giáo kiểu này – một thứ biến thể của tôn giáo, một sự phóng tác của một kẻ nào đó. Nhưng khi ông mở cửa xe và Saffanah bước ra, bước chân nhẹ nhàng của cô ta đã khiến ông thấy thoải mái. Có lẽ trong suốt thời gian này, cô ta đã chỉ cần được ra khỏi thành phố.

Một người đàn ông Bedouin trung niên bước ra khỏi ngôi nhà nhỏ khi trước và bắt đầu trao đổi với Ibrahim. Saffanah đứng sang bên nhìn ngắm những con lại đà, ba con trong số chúng đã bước tới chỗ hàng rào và lúc này đang nghiêng mình về trước, rướn cái cổ dài của chúng để với tới cô ta. Một cách rụt rè, cô ta tiến về phía chúng, đưa tay lên gãi nhẹ bên tai của một con trong số đó. Con lạc đà khịt khịt rồi dụi cái mũi vào cổ cô ta. Nó có ngửi thấy mùi ói mửa không nhỉ? Ibrahim tự hỏi. Nhưng có vẻ như là không, bởi con lạc đà đã ngoạm răng vào phần dưới chiếc khăn trùm đầu của cô ta. Saffanah co rúm người rồi bước lùi lại, và chiếc khăn trùm bị xé toạc rồi rơi ra. Cô ta vội cúi đầu quay sang một bên, né khuôn mặt mình để tránh người đàn ông Bedouin. Nhưng cô ta không phải quá lo lắng, vì người đàn ông kia đã nhanh hơn cô ta. Ông ta ngay lập tức đã quay về phía con lạc đà, lắc lắc đầu cười phá lên và với lấy chiếc khăn trùm đầu. Nhưng con lạc đà đã bỏ chạy và ông ta phải đuổi theo nó khắp cả bãi rào.

Phải mất một lúc Ibrahim mới nhận ra là Saffanah đang cười. Cô ta chầm chậm quay người lại, nụ cười vẫn ánh lên trong đôi mắt, và khi cô ta nhận thấy người Bedouin kia đã lịch sự quay lưng lại phía mình thì quả thực trông cô ta rất vui vẻ.

“Đồ vô duyên kia.” Người đàn ông Bedouin cằn nhằn với con lạc đà. “Mi quả thật là một tay già xấu thói.”

Hai con lạc đà còn lại vẫn đứng bên hàng rào, khụt khịt cái mũi bên cổ Saffanah một cách hào hứng. Ibrahim vừa quan sát cô ta, vừa lắng nghe người Bedouin quở trách con lạc đà của mình. Đột nhiên Saffanah cọ mũi vào một trong hai con lạc đà. Một cử chỉ nhẹ nhàng đến diệu kỳ đã truyền tải một điều lớn hơn thế: sự thiếu vắng và buồn tủi, niềm khát khao được mang đến sự thoải mái cũng như được nhận nó, và nó giống như một lời cầu xin rằng: Hãy tha thứ cho con.

Có thể đó là một cử chỉ, có thể đó chỉ là ói mửa thôi, nhưng một ý nghĩ đột nhiên lóe lên trong tâm trí Ibrahim. Con bé đã có thai. Không có lý nào. Saffanah sùng đạo đến mức không thể nào lại đẩy mình vào hoàn cảnh như vậy được. Điều này thật phi lý. Nhưng mười lăm năm làm việc trong ngành cảnh sát đã dạy ông biết tin vào trực giác của mình. Có thai? Máu hai bên cánh tay ông như dồn cả lên mặt. Ông giữ chặt tay hai bàn trong túi quần và một tay nắm lấy chiếc điện thoại di động. Làn da của ông như đang bị hàng ngàn mũi kim châm. Saffanah?

Ông không thấy tức giận, đúng vậy. Ông thấy sững sờ và thất vọng. Con bé đã gặp kẻ cưỡng bức mình khi nào vậy? Ông có cảm giác chắc chắn đó không phải Zaki – con trai của ông đã phàn nàn quá mức về sự lãnh cảm của cô ta đủ để khiến ông không nghi ngờ kẻ đó chính là con mình. Zaki đã thường xuyên ra khỏi nhà hết mức có thể; Chúa ơi, cô ta có thể gặp gỡ bất cứ gã đàn ông nào!

Cô ta đã nhận thấy thái độ khác lạ của Ibrahim và lúc này đang lo lắng vuốt ve con lạc đà. Ngay khi người Bedouin kia đi đủ xa, Ibrahim tiến về phía cô ta. Ông gạt tay cô ta khỏi khuôn mặt con lạc đà và nắm chặt lấy nó. Đó là lần đầu tiên ông chạm vào cô ta.

“Saffanah. Nhìn bố đây.” Ông nói một cách đàng hoàng, nhưng cô ta tỏ vẻ như thể ông đang cầm trong tay một cái roi da. Ông siết bàn tay cô ta để cô ta cảm thấy vững tâm. “Con đang có thai.”

Cô ta lùi lại, giật tay ra với vẻ sững sờ phủ nhận.

“Đó không phải là một câu hỏi.” Ông vừa nói vừa siết tay cô ta chặt hơn. “Đã lâu chưa?”

“Con không…”

“Bố là cảnh sát, Saffanah ạ. Bố biết khi nào người ta nói dối. Hãy nói cho bố biết; bố sẽ không nói với bất cứ ai. Bố hứa như vậy.”

Cô ta nhìn ông chằm chằm. Cô ta đã thể hiện rất đạt cái vẻ phẫn nộ trên gương mặt. Thực ra cô ta đã thể hiện rất đạt tất cả mọi thứ. Và cô ta còn ương bướng nữa. Sẽ không đời nào cô ta thừa nhận sự thực, và dọa nạt cũng không làm nản sự kháng cự của cô ta. Ông đành thở dài.

“Thôi được rồi.” Ông nói và buông tay cô ta ra. “Bố chỉ nghĩ vậy – khi con bị ói mửa trên xe…”

Cô ta quay lại phía bãi quây nuôi lạc đà. Mấy con lạc đà vẫn dụi mõm vào cô ta, còn cô ta thì tiếp tục vuốt ve chúng, nhưng tay cô ta cử động như một cái máy.

Ibrahim nhận ra rằng họ sẽ không bao giờ gửi trả lại cô ta được nữa. Nếu cha cô ta mà biết chuyện, ông ta sẽ buộc Zaki phải chu cấp cho đứa trẻ suốt đời. Nếu Jibril biết được rằng đó không phải là con của Zaki, ông ta sẽ buộc con gái mình phải chịu tội thông dâm.

Hai cánh tay của Ibrahim vẫn đang tê buốt và ông nhận ra lúc này ông đang lo lắng cho cô ta. “Vậy thì,” ông nói, “sau những gì đã xảy ra ngày hôm nay, bố nghĩ ý hay nhất là hãy về nhà và quan hệ với Zaki.” Nghe đến từ quan hệ thì bàn tay cô ta khựng lại trên tai con lạc đà, rồi sau đó lại từ từ tiếp tục vuốt ve nó. “Chẳng bao lâu nữa con sẽ mang thai và có con. Nếu con không muốn vậy thì Zaki sẽ nhận ra đứa bé không phải là con của nó. Mẹ có biết chuyện không?”

Cô ta đưa mắt nhìn Ibrahim tỏ rõ sự căm phẫn.

“Tạ ơn Chúa vì điều đó.” Ông lẩm bẩm.

Đúng giây phút ấy có điều gì đó như gắn kết giữa họ, một không gian từ tính của những bí mật được sẻ chia. Cô ta thôi không vuốt ve đám lạc đà nữa, mà vòng tay ôm lấy eo mình rồi nhìn chăm chú cái hàng rào. Nếu đây chính là đứa con gái của ông – một trong hai đứa sinh đôi, giả dụ vậy, bởi Farrah quả thực là vô vọng rồi – và nếu như cô ta không phải đang mang bầu, ông sẽ nói với cô ta rằng tốt hơn hết cô ta nên đi học trước khi hủy hoại dáng hình yêu kiều của mình vì chuyện bầu bí hay kiểu ăn uống quá đà vì buồn chán và vì bị mắc kẹt như một bà nội trợ Ả Rập Xê-út chuẩn mực. Ông sẽ nói với cô ta rằng tốt hơn hết nên có một sự nghiệp riêng phòng trường hợp chồng cô ta là một kẻ bất lương mà bỏ cô ta lại một mình chăm lũ con thơ. Ông sẽ cố gắng để tạo dựng cho cô ta sự mạnh mẽ, một tinh thần quyết liệt, đó là sức mạnh đem lại phẩm giá của một cá nhân, ít nhất là trong gia đình ông, phẩm giá đáng quý trọng nhất của một người phụ nữ. Nhưng ông có cảm tưởng rằng Saffanah sẽ không hưởng ứng những quan điểm ấy.

Người đàn ông Bedouin mang chiếc khăn trùm đầu trở lại, và Ibrahim cảm ơn ông ta. Chiếc khăn ướt nhẹp bởi nước bọt của con lạc đà và phần dưới đã rách toạc, nhưng Ibrahim vẫn nói là nó ổn. Saffanah nhận lấy nó một cách lễ phép và ngay lập tức trùm lên đầu mình.

Bọn họ đi bộ trở ra xe ô-tô, nhưng Ibrahim buộc Saffanah phải ngồi lên ghế trước, và ông không chịu nổ máy xe cho đến khi cô ta đeo dây an toàn vào. Cô ta chậm rãi thực hiện giống như một đứa trẻ khó bảo. Bọn họ không nói gì, nhưng Ibrahim hiểu là cô ta muốn nói điều gì đó. Có lẽ là: Bố không thực sự nghĩ rằng con đang có thai đấy chứ? Ông không cảm thấy muốn nói chuyện một chút nào.

Mặt trời khuất dần khi họ ra đến đường chính. Cả khoảng trời ngập tràn trong ánh hồng rực rỡ và trong khoảnh khắc Ibrahim cảm giác như đang được cuộn mình trong một đám kẹo bông. Nó gợi cho ông nhớ lại thời niên thiếu và mỗi lần được đi hội chợ vào buổi tối. Ông cũng đã trở lại chính những hội chợ đó cùng với con cái mình, nhưng lần nào Jamila cũng biến chúng thành một kỷ niệm đau buồn. Và bây giờ chuyện gì sẽ xảy đến với Zaki và Saffanah, chúng sẽ đến hội chợ và căm ghét nhau ra mặt cùng với đứa con thậm chí cũng không phải của chúng sao?

Ông với tay vào ngăn hốc bên cửa xe và tìm bao thuốc lá, châm một điếu rồi bỏ cái gói lên mặt ngang tay lái. Ông hơi cảm thấy có lỗi khi hút thuốc bên cạnh một phụ nữ mang thai, nhưng lạ chưa kìa, ngày hôm đó quả là chưa hết những điều kinh ngạc. Saffanah rút một điếu từ trong bao thuốc lá. Ông kinh ngạc đến mức không thốt lên được lời nào. Saffanah – hút thuốc lá? Cô ta thậm chí còn không thèm đưa một ánh mắt hối lỗi nào về phía ông trước khi châm điếu thuốc, rít một hơi ngay qua tấm mạng che mặt của cô ta.

Ngay giây phút đó thì mọi chuyện đã quá rõ ràng. Saffanah như ông đã từng biết là hoàn toàn dối trá. Sự mộ đạo của cô ta giờ đây giống như một thứ giả cách, một tấm chắn để cô ta đẩy Zaki ra xa – có lẽ vì cô ta đã yêu một người nào khác chăng? Quỷ sứ, cô ta đã cố tình né tránh cả gia đình. Cô ta mới chân thật làm sao, ông không thể nào tưởng tượng nổi.

“Con không nên hút thuốc.” Ông ngập ngừng nói. “Ngay cả khi con không có thai đi nữa.”

Cô ta không đáp lại. Liếc nhìn sang, ông thấy tấm mạng che của cô ta đang dính vào khuôn mặt; một dòng nước đang lăn dài trên hai má. Cô ta đang khóc.

“Ôi, Saffanah.”



Ibrahim đỗ xe tại một góc phố xa nhất trong tầm nhìn của ngôi nhà. Ông muốn cho cô ta một cơ hội để bình tâm lại trước khi đối mặt với cả gia đình, phòng trường hợp có ai đó vô tình ở bên ngoài ngôi nhà. Đường phố vắng hoe. Bọn họ ngồi lặng thinh trong xe, Saffanah quay mặt ra cửa sổ và có lẽ chẳng để nhìn gì hết. Trời đã tối, và theo kinh nghiệm thì ông hiểu một điều rằng đeo mạng che mặt khi trời tối thì chẳng khác gì người ta bị mù. Thực tình có lần ông đã từng thử đeo nó vào ban đêm – ông và cậu em trai Omar đã đi tới đi lui cả toà nhà với tấm khăn trùm đầu của hai bà vợ họ, chỉ để phân giải cho cuộc tranh cãi về việc liệu có phải vợ của Omar, Rahaf, có khả năng vô tình bước vào trong xe ô-tô của nhà hàng xóm khiến cho chuông báo động kêu ầm ĩ và làm cho họ tức điên lên hay không. Omar đã khăng khăng rằng vợ mình làm việc đó có chủ ý, nhưng Ibrahim tranh luận rằng kể cả cái khăn trùm mà có khe nhìn cho mắt đi chăng nữa thì vẫn khó có thể quan sát được mình đang làm gì. Chính vì vậy mà Saffanah tránh nhìn ông như âm thầm cầu xin một sự riêng tư – hay một sự tha thứ, ông không chắc là ý nào mới đúng nữa.

Khi ông hút hết điếu thuốc lá cuối cùng, cả hai cùng bước ra khỏi xe. Saffanah dò dẫm trong bóng tối. Ông đi vòng sang phía cô ta và nói, “Đi cạnh bố. Bố không muốn con làm chuông báo động của bất cứ chiếc xe nào kêu đâu.” Cô ta nghe theo lời ông và họ bước chậm rãi xuôi theo con đường. Ibrahim để ý mỗi bước chân của cô ta để đảm bảo cô ta không bị vấp. Khi ông cùng cô ta về đến nhà, ông nghe tiếng vợ mình đang bước xuống tầng dưới, lẩm bẩm cằn nhằn không rõ là chuyện gì nhưng ông hoàn toàn hiểu được. Bà ta lại đang phàn về việc gì đó, có lẽ là việc Ibrahim đã không thể làm gì cho chuyện ly hôn của con trai mình.

Saffanah không tháo khăn trùm đầu cho đến khi họ lên đến tầng hai. (Mấy người hàng xóm ở tầng dưới nhiều khi cư xử không đúng mực.) Chính vì vậy ông tiễn cô ta lên tận cửa. Cô ta nhìn ông lần cuối với ánh mắt khiếp hãi trước khi bước vào trong.



Mười phút sau đó, Ibrahim lái xe trở lại thành phố. Ông đi theo đường Corniche. Những ngã tư và tượng đài sáng lấp lánh ánh đèn – đèn giao thông, đèn đường, đèn pha và đèn từ những tòa nhà chung cư, cả một dòng chảy ánh sáng bên bờ Biển Đỏ tối mịt mùng.

Ông đỗ xe ở chỗ cũ ngay dưới tòa nhà của Sabria, khoảng diện tích được phân bổ cho căn hộ của cô mà cô có thể sử dụng nếu cô được phép lái xe. Giả thử những người hàng xóm có để ý đến Ibrahim thì họ cũng cho rằng ông là bố của cô. Trông ông cũng lớn tuổi chừng ấy. (Mặc dù có lần một người phụ nữ hàng xóm đã tưởng nhầm ông là tài xế và đã xin ông cho đi nhờ xe.) Có những lúc rối trí, ông đã cân nhắc đến việc đỗ xe ở đâu đó trên phố để không ai nghi ngờ rằng Sabria có khách nam giới đến nhà, nhưng khu vực có thể đỗ xe ở đây rất hiếm gặp. Thật nhẹ lòng khi có một nơi dành riêng cho mình, bởi càng đến đây, dường như ông càng khẩn thiết muốn được gặp cô. Ban đầu, cô là người cần đến ông nhiều hơn – vì nhu cầu t.ình d.ục, vì một nguồn động viên an ủi, và chỉ vì những việc giản đơn như đi khám chẳng hạn. Tuy không kết hôn, nhưng thực chất cô đã trở thành người vợ thứ hai của ông. Trong suốt hai năm qua, nhu cầu cần gặp cô ngày càng nhiều hơn là ông tưởng.

Ông thấy một phụ nữ bước vào thang máy, nên ông đi thang bộ. Những người hàng xóm ở đây chủ yếu là người nước ngoài – một tay bác sĩ người Ấn Độ, một vài cặp vợ chồng người Ai Cập, đều không phải là những người quá để ý đến tình trạng hôn nhân của Sabrina hay người đàn ông vẫn thường ghé qua nhà cô mỗi tối rồi rời khỏi trước bình mình. Cũng vậy cả thôi, ông nghĩ tốt hơn hết là tránh chuyện trò với họ.

Ông bước liền hai bước một trên cầu thang bộ và không hề mệt khi lên đến tầng bốn. Ông bước thẳng về phía cửa căn hộ của cô. Khi cô không mở cửa, ông bắt đầu cảm thấy ngực mình nghẹt lại. Tim ông đập thình thịch. Đáng lẽ ông nên đi thang máy mới phải. Ông gõ cửa lần nữa. Vẫn không động tĩnh gì.

Lục trong túi, ông tìm thấy chiếc chìa khóa. Cô đã đưa nó cho ông từ một năm trước, và ông đã gài nó trong chùm chìa khóa của mình, treo nó lủng lẳng ở đó như thể đó là chiếc chìa khóa nhà của chính mình. Ông chưa bao giờ dùng đến nó cả, và không chắc liệu nó có mở được cửa hay không. Nhưng chiếc chìa đã trượt vào ổ, và cửa mở.

Căn hộ tối om. Sự yên lặng khiến ông bồn chồn. Cô luôn mở nhạc, ti-vi, đài phát thanh al-Jazeera lặng lẽ nhấp nháy trong phòng. Thức ăn đang nấu trên bếp. Ông đứng im lặng và băn khoăn một điều duy nhất: Cô ấy đâu rồi?

Cảm thấy kỳ dị như một kẻ không mời mà đến, ông đặt mình xuống tràng kỷ và cố liên lạc với cô bằng điện thoại di động. Tiếng hòm thư thoại cất lên ngay từ hồi chuông đầu tiên, có nghĩa là điện thoại đã tắt.

Ông bước thẳng sang nhà hàng xóm. Iman và Asma rõ ràng là một cặp đồng tính nữ nhưng luôn tự xưng họ là chị em. Bọn họ chung vách với căn hộ của Sabria, và những đêm hè tĩnh lặng khi tiếng động từ phòng ngủ của họ vọng sang qua vách ngăn tường, Ibrahim nằm đó tự hỏi liệu những người phụ nữ này có khi nào đó sẽ bị bắt quả tang hay không và ai sẽ nhớ đến họ nếu họ bị xử tội. Bọn họ dường như tồn tại trong một thế giới của riêng mình.

Bọn họ chỉ là những người hàng xóm đến ở đây, thi thoảng có chào hỏi Sabria. Asma mở cửa và chăm chú nhìn ông với vẻ khang khác kể từ khi Sabrina nói với họ ông là cảnh sát.

“Tôi chỉ muốn hỏi thăm hôm nay cô có thấy Sabria không?” Ibrahim nói.

Cô ta lắc đầu. “Tôi không thấy cô ấy kể từ hôm qua rồi.”

“Cô có nghe thấy tiếng cô ấy đi ra ngoài không?”

“Không. Sao vậy? Cô ấy không ở nhà à?” Ngay đến cả Asma có vẻ như cũng thấy chuyện này kỳ quặc. “Có thể cô ấy đi chợ chăng?”

“Tôi lại nghĩ là cô ấy ở nhà.”

Asma gọi Iman, và cả hai người phụ nữ đứng đó nhớ lại xem lần cuối cùng họ gặp Sabria là khi nào. Khi mọi việc ngã ngũ thì thực tế là đã hai hôm nay họ không gặp Sabria. Nhưng Iman chắc chắn rằng mình đã nghe tiếng gì đó từ căn hộ của Sabria trong chiều muộn ngày hôm nay.

“Có vẻ như cô ấy đã ở nhà.” Iman nói. “Tôi đã nghe thấy tiếng ti-vi.”

“Vâng, cảm ơn hai cô.” Ibrahim nói. “Nếu các cô thấy cô ấy, nhắn giúp cô ấy gọi cho tôi nhé.”

Ông quay trở lại căn hộ. Ông đã không nói chuyện với Sabria kể từ đêm hôm trước. Nhưng lẽ ra cô phải ở đây như mọi khi chứ, vui vẻ chào đón ông. Cười tươi. Cho ông ăn gà, cơm và cả một tô halawa trộn với kem. Sà vào vòng tay ông khi ông ngồi mê mẩn ngắm nhìn cô trước bữa ăn tối; đánh thức ông bằng đôi tay ấm áp và cặp đùi săn chắc khi cô leo lên người ông.

Ông nhìn quanh căn hộ một lần nữa. Không thấy dấu hiệu nào của việc đột nhập trên khung cửa, hay tay nắm cửa. Cửa sổ vẫn khóa. Không có gì khác thường. Chỉ có chiếc xắc tay, chìa khóa, và điện thoại di động là biến mất. Hẳn là cô đã đi đâu đó. Rồi sẽ lại là một lời giải thích ngớ ngẩn. Nhưng ông không thể nghĩ được nó là gì. Mỗi khi một ý nghĩ nào đó lóe lên, ông cảm nhận được một nỗi hoảng sợ thoáng qua, những gợn sóng của tâm trạng xáo động trước khi mỗi ý nghĩ lắng chìm dần. Ông ngạc nhiên rằng mọi thứ có thể xảy đến dễ dàng như vậy – thứ quan trọng trong cuộc đời con người ta có thể vội vàng và âm thầm tan biến mất.
 
4

Điều tồi tệ nhất là không có ai để trò chuyện.

Ông nằm trằn trọc, nhìn chăm chăm vào khung cửa sổ bằng gỗ trong phòng khách nam. Bình minh còn chưa ló rạng, thậm chí vẫn chưa đến giờ cầu nguyện đầu tiên trong ngày, nhưng ông đã tỉnh giấc, hoang mang khi nghĩ đến Sabria.

Trong suốt năm năm quen biết cô, cô chưa từng bao giờ đúng giờ hẹn cả. Nhưng hai năm qua ở bên nhau, cô chưa bao giờ lỡ hẹn một lần nào. Họ chưa có một cuộc hẹn hò nào đúng nghĩa cả, nhưng họ gặp nhau ba hoặc bốn lần một tuần. Giá như ông có thể nói với Omar chuyện gì đang xảy ra, em trai ông, trong phạm vi thẩm quyền của mình, sẽ có câu trả lời. Nhưng Ibrahim phải nói gì đây: Anh đã có một người tình hai năm nay và giờ thì cô ấy đã bỏ đi?

Thật dễ dàng để đổ lỗi cho sự hoang tưởng của ông vì đã phát hiện ra những tử thi đó. Ông vẫn còn nhớ trước đây, khi ông làm việc ở Đội Trọng án lúc mới gần ba mươi tuổi. Mỗi khi có một vụ án mạng nào, ông đều thấy hốt hoảng nếu có chuyện gì đó xảy ra trong gia đình. Lúc này hơn bao giờ hết, ông cần cả quãng đời còn lại để giữ được cái cấu trúc bí mật và mong manh đó của cuộc đời mình.

Phải có ai đấy biết cô đang ở đâu chứ. Cô không có nhiều bạn bè. Hàng ngày cô làm việc ở một khu mua sắm dành cho phụ nữ. Các đồng nghiệp của cô đối với ông là một bí ẩn như bất cứ một người lạ mặt nào đằng sau chiếc mạng che mặt. Gia đình cô sống ở Indonesia, hoặc giờ có lẽ họ đã trở về Philippines. Cô không bao giờ nhắc gì đến họ, ngoại trừ người mẹ đã khuất của mình.

Tâm trí ông ngổn ngang bởi những khả năng có thể xảy đến. Chúng chạy dọc ngang cắt nát các giao lộ, mặc kệ khách bộ hành, lao đi trên những tuyến đường cao tốc bao quanh khu đô thị của những vấn đề mà chỉ mới đêm trước thôi là không hề tồn tại. Cô đã chán ông rồi chăng? Cô bỏ đi vì một ai khác chăng? Tại sao không có đến một lời nhắn nào để lại? Có ai đó đã đưa cô đi rồi sao? Cô là người ẩn danh. Có người nào mà lại biết cô ở đó được cơ chứ?

Ông nghĩ đến một vài người có thể muốn hại cô. Tên chủ cũ của cô chẳng hạn, tên đê tiện đã h.ãm hiếp cô khi cô còn là người giúp việc trong nhà hắn. Nhưng tên khốn đó đã trở thành dĩ vãng đau buồn, chẳng bao giờ nhắc đến hắn nữa làm gì. Mà việc gì hắn phải theo dõi cô cơ chứ? Nếu có khả năng nào như thế, hay thậm chí chỉ là dấu hiệu đe dọa thôi, cô hẳn đã nói ngay với ông rồi.

Có thể là ai đó trong một vụ nào đấy của cô ở Đội Điệp vụ muốn trả thù chăng. Năm năm về trước, cô đã làm việc cho Đội Điệp vụ, đó cũng là lúc họ gặp nhau. Cô đã thực hiện một số nhiệm vụ cùng với Ubayy al-Warra trước khi làm việc với Ibrahim. Ông phụ trách phá một mạng lưới ăn cắp là nữ giới và cần một người thâm nhập vào đó. Rất khó khăn để có thể tìm được một người phụ nữ phù hợp cho nhiệm vụ này, chứ chưa nói đến việc người đó phải là một người thật tài giỏi. Sabria là một trường hợp xuất sắc.

Mãi sau này cô đã cho rằng đó là một công việc quá vất vả đối với cô. Ông nắm rõ tất cả các vụ cô cộng tác với ông, nhưng ông không biết mấy về hàng tá những vụ khác nữa mà cô đã thực hiện trong vòng hai năm khi làm việc với Warra. Cô không nói gì về những vụ việc đó ngoại trừ việc chúng chẳng hề thú vị gì.

Tòa nhà trở nên náo động. Ông tựa đầu vào tường và kiểm tra điện thoại. Không có cuộc gọi nào. Rất ít người nhận ra rằng ông đang quan hệ với một phụ nữ mà không cưới xin, và số đó lại là những người rất thân với gia đình ông. Ông không tin rằng bọn họ sẽ không nói gì đó, và ông cũng không thích những người nắm giữ những bí mật bất lợi ở bên cạnh mình. Chỉ Sabria mới có đặc quyền đó.

Họ không cưới hỏi vì Sabria đã kết hôn. Cô đã bị tên chủ cũ của mình ép buộc, chính cái tên đã h.ãm hiếp cô, bỏ rơi cô, và chẳng lạ nếu hắn ta cũng bạo hành với một cô giúp việc mới nào khác cùng vào thời điểm ấy. Mahmoud Halifi. Hắn ta đã biến mất hơn năm năm trước, không lâu sau khi Sabria trốn thoát khỏi nhà hắn. Ibrahim nhận ra rằng nếu cô gặp lại Halifi, cô có thể sẽ hành động thiếu suy nghĩ. Cô mang theo mình một lọ xịt hơi cay và lại giỏi kungfu nữa, nhưng Halifi to lớn gấp hai lần cô, cơ bắp lực lưỡng, hung bạo và thú tính. Hắn ta có thể dễ dàng áp đảo cô.

Halifi h.ãm hiếp Sabria rất nhiều lần, nhưng cho đến khi Sabria có thai thì hắn mới ép buộc cô phải cưới hắn. Bọn họ đã tiến hành một buổi lễ khoảng chừng hai phút trong phòng khách của hắn, và tên khốn đó đã thông báo cho phòng công chứng, để biến buổi hôn lễ đó thành hoàn toàn chính thức. Một tuần sau đó Sabria bị sảy thai. Để ly hôn, cô phải tìm được hắn, và cô đã không để tâm đến việc đó trong suốt năm năm qua.

Việc cô và Ibrahim không lấy nhau không khiến cô băn khoăn nhiều như chính Ibrahim. Nhưng khi ông suy nghĩ thật kỹ càng, thì chuyện này sẽ dẫn đến một kết cục nào đó chẳng hạn như việc vợ ông sẽ âm thầm giết hại ông trong khi ông đang ngủ, hoặc tìm cách để gia đình và bè bạn ông lánh xa ông suốt cả quãng đời còn lại.

Ông tỉnh dậy, mặc quần áo, và cố để rời khỏi nhà mà không phải nói chuyện với Jamila, mặc dù điều đó có nghĩa là không thể ăn sáng với cặp song sinh mười tuổi. Ông gửi tin nhắn hai đứa rằng ông sẽ gặp chúng sau bữa tối và hỏi xem liệu chúng có nhớ thứ Năm này – họ đã hẹn đi ăn kem không? Cả hai đều nhắn lại với hình mặt cười vui sướng.

Ông đến căn hộ của Sabria và nhìn bao quát một lần nữa. Vẫn trống không. Ông sang bên hàng xóm thì họ nói rằng đêm qua cô không về nhà. Ông trở lại căn hộ, ngồi bên bàn ăn trong bếp, và bắt đầu gọi điện tới các bệnh viện.

5

Qua lời bàn tán thì rõ ràng là Sở khá tự hào về việc không tìm được chuyên gia về tội phạm giết người hàng loạt nào đến giúp cả. Thực ra, đó là vấn đề về lòng tự hào dân tộc, rằng họ không cần đến một người như vậy. Nhưng trên khuôn mặt của những người đàn ông vẫn có sự khao khát nhất định khi biết rằng một người Mỹ sẽ sắp bước vào phòng để giảng giải một vài điều mà chỉ một người Mỹ mới biết được. Và họ sẽ, lịch sự hơn bao giờ hết (Ibrahim có thể thấy bọn họ lên kế hoạch khôn khéo đến thế nào), trách móc nước Mỹ vì việc đã mang bạo lực đến một quốc gia trong sáng như thế này; một quốc gia tuy không phải là miễn dịch với bạo lực, nhưng chắc chắn không bao giờ lại đẻ ra một thứ Hannibal Lecter cả. (Ông chắc rằng có nhiều người trong căn phòng này không hề biết rằng Lecter chỉ là một nhân vật hư cấu.) Còn có cả sự háo hức nữa, nó nói lên rằng Rất tốt, chúng tôi có thể sinh ra Osama bin Laden, nhưng các ông đã tạo ra một loại vi-rút Jeffrey Dahmer lây truyền khắp thế giới, và đó là lý do tại sao chỉ có các ông mới có vác-xin.

Ibrahim tình cờ nghe được ai đó thì thào “Anh có nghĩ ông ta sẽ nói về Ed Bundy không?”

“Ted Bundy!” Daher vừa lớn tiếng chữa lại, vừa đập vào gáy của tay sĩ quan kia.

Đó là khoảng thời gian cuối tuần dài dằng dặc. Ibrahim lúc nào cũng lo nghĩ về Sabria, nhưng hiện giờ, khi nhìn thấy cả phòng họp đông kín người, ông cố gắng cất giữ hình ảnh của cô trong tâm trí mình và tập trung vào vụ án.

Một số sĩ quan không có mặt, và một nửa số nhân viên pháp y vẫn còn ở ngoài hiện trường. Bọn họ phải hoàn tất công việc di dời các thi thể để đưa đi khám nghiệm, nhưng trong hai mươi tư giờ vừa qua, các nhân viên pháp y đã khám phá thêm một điều khác nữa: hung thủ đã chôn một trong bàn tay bị chặt ngay gần thi thể của chính bàn tay đó. Điều này đã gợi ý cho các nhân viên pháp y và đội khai quật hiện trường mở rộng phạm vi ra xung quanh các thi thể để tìm thêm các bằng chứng. Bọn họ đã tìm thấy hai bàn tay nữa được chôn gần một cái xác khác, nhưng chỉ có vậy.

Ibrahim ngạc nhiên rằng ông vẫn là người chịu trách nhiệm về vụ án này. Riyadh chuyển ông ra khu vực sa mạc vì ông đã không điều tra các vụ trọng án mười năm nay rồi. Giờ thì đột nhiên ông thấy mình nắm vị trí cao nhất của một vụ án có thể được coi là nghiêm trọng nhất trong mười năm trở lại đây. Phía cuối phòng, mấy tay thám tử mới vào nghề của Sở tụ tập lại thành một nhóm: Osama, Abu-Haitham, anh chàng kều cục mịch Yasser Mu’tazz, cùng với hai người nữa mà ông không thể nhớ tên.

Ngay khi viên cảnh sát người Mỹ xuất hiện, tất cả sự mong đợi đều sụp đổ. Ibrahim gần như có thể nghe thấy tiếng Chết tiệt! đồng thanh vang lên như một dàn hợp xướng trong tâm tưởng, được nối tiếp bởi một tiếng lấy hơi vào thật sâu khi Tiến sỹ Charlie Becker bước vào phòng. Cô có gương mặt trắng sứ mịn màng, chiếc áo sơ-mi cài cúc trễ như thể một sự chế nhạo đối với lòng can đảm của đàn ông Ả Rập Xê-út: trắng muốt và lỏng lẻo, nhưng bám sát người rất đúng chỗ. Cô thậm chí chẳng đeo khăn trùm đầu, và mái tóc dài mềm mại màu đỏ nâu của cô bồng bềnh đến mức mỗi cử động của cô đều khiến nó dường như sinh động hẳn.

Cô có vẻ bối rối trong giây lát, như thể là cô đã bước vào nhầm phòng, tại một đất nước xa lạ nào khác. Cô quay lại liếc nhìn người hướng dẫn của mình, Chánh Thanh tra Riyadh, người đang sải bước lên trước, gật gật đầu với phía cô trước khi tại vị trí ngay phía trên đám lính của mình với vẻ cương nghị cẩn trọng.

“Thưa quý vị, tôi xin được giới thiệu tới quý vị chuyên gia FBI của chúng ta về lĩnh vực giết người hàng loạt, Tiến sỹ Charlie Becker, người đã vui lòng bay tới đây từ một hội nghị ở Dubai.” Qua giọng nói của Riyadh, rõ ràng là ông cũng không hề biết rằng Tiến sỹ Becker lại là một phụ nữ cho đến khi cô xuất hiện. “Tiến sỹ Becker không nói tiếng Ả Rập, nhưng Sĩ quan Kazaz đã được đề nghị sẽ phiên dịch.” Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía Kazaz như thể anh ta vừa được xức dầu phong vua.

Ibrahim để ý thấy người ông của nhóm Murrah là Talib al-Shafi, người chịu trách nhiệm phần lớn các công việc dò tìm dấu vết tại hiện trường. Ông đứng bên cửa ra vào, một người đàn ông gày gò với mái tóc xám dày được tết lại và vấn lên phía dưới chiếc khăn đội đầu. Khi Charlie bước vào phòng, ông soi xét kỹ cách đi của cô, nhìn đôi bàn chân cô, như thể thấy chúng là chấp nhận được, sau đó quay bước bỏ đi.

“Cảm ơn quý vị đã chào đón tôi.” Charlie lên tiếng khiến mọi người ngạc nhiên. Chắc hẳn cô không hiểu được âm điệu thanh cao và sắc nét trong giọng nói của cô đã dội vào các bức vách mà từ lâu lắm rồi không được biết đến âm thanh của người phụ nữ. Cô nhận ra hiệu ứng của những lời nói của mình trên nét mặt những người đàn ông và hơi đỏ mặt trước khi tiếp tục. “Tôi được đào tạo như một chuyên gia về tâm thần học nhưng đã tham gia FBI với tư cách một chuyên gia về những hành vi lệch lạc, còn hiện tại tôi đang chuyên tâm đặc biệt vào những tên giết người hàng loạt. Tôi được biết các anh hiện đang có một vụ như vậy.”

Một số người gật gật đầu, nhưng toàn bộ số còn lại thì chết lặng bởi cử chỉ của cô, vừa yếu đuối lại vừa tự tin, nhất là khi mái tóc của cô cứ lấp loáng dưới ánh đèn huỳnh quang. Hầu hết mọi người trong phòng đều có khả năng nghe tốt để hiểu được cô đang nói gì. Việc dịch nói chỉ là hỗ trợ thêm. Ibrahim bước lên trước.

“Tiến sỹ Becker,” ông nói, “cảm ơn cô đã nhận lời đến đây. Tôi là Thanh tra Ibrahim Zahrani và là người phụ trách vụ án này. Đúng là chúng tôi có vẻ như đang có một vụ giết người hàng loạt và chúng tôi đánh giá cao bất cứ điều gì cô có thể cho chúng tôi biết.”

“Tôi nên hiểu là các anh chưa từng gặp một vụ giết người hàng loạt nào trước đây chăng?”

Khi câu hỏi được chuyển ngữ xong nó đã làm nổ ra một cuộc tranh luận. “Tất nhiên là chúng tôi đã từng gặp những vụ giết người hàng loạt.” Daher nhấn mạnh bằng tiếng Ả Rập. “Cô ta nghĩ chúng ta hoàn toàn chậm tiến hay sao vậy?”

“Nói cho cô ta biết về vụ Yanbu đi.” Ai đó lên tiếng.

“Cô ấy đã biết vụ đó rồi.” Người phiên dịch trả lời. “Cô ấy đang muốn hỏi cụ thể trường hợp của Sở ta kia. Có ai trong phòng này trước đây đã xử lý một vụ giết người hàng loạt không?”

“Có.” Từ phía cuối phòng Osama lên tiếng. “Tên sát nhân ở nhà chứa.”

Kazaz chuyển ngữ câu trả lời đó.

“Đó là kiểu giết người rải rác.” Charlie lên tiếng, ngay lập tức chấm dứt việc bàn luận. “Giết người rải rác là một loại khác biệt. Kẻ sát nhân thường bị cám dỗ bởi bản tính khát máu. Một tên giết người hàng loạt thì tỉ mỉ hơn thế rất nhiều, và thường chúng sẽ cẩn trọng hơn.”

Ibrahim thấy Katya Hijazi lẻn vào phòng. Cô đứng ngay sát cửa và cố tỏ ra như thể mình cũng là một phần của đám đông ở đây. Charlie cũng nhận thấy sự có mặt của Katya, liền mỉm cười với cô, và ngập ngừng điều đang nói khiến tất cả mọi người trong phòng đều quay sang nhìn Katya chằm chằm. Cuối cùng thì Charlie lên tiếng “Xin chào” với vẻ mặt có phần lấy làm tiếc về việc đó. Katya trông như chỉ muốn tát cho Charlie một cái.

“Dù sao thì,” Charlie nói tiếp, “bước quan trọng nhất trong việc điều tra vụ án kiểu này là xác định được vấn đề các anh đang phải đối mặt là gì. Và các anh đã đi được nửa đường rồi. Các anh đã biết được rằng hắn ta là một tên giết người hàng loạt. Cho đến khi nào có thể nhận diện được một số nạn nhân, không một ai có thể nói một cách cụ thể về tên sát nhân này được – thí dụ như hắn có thể gặp gỡ những phụ nữ này ở đâu, hắn ta sống ở một khu dân cư như thế nào, hắn có thể làm nghề gì, gia đình ra sao, hay các mối quan hệ xã hội của hắn như thế nào. Chính vì vậy tôi sẽ nói với các anh những gì chúng tôi biết về tội phạm giết người hàng loạt, sau đó tôi sẽ nói khái quát về vụ án các anh đang có, giả sử là chúng ta đã biết quy luật giết người của hắn.”

Khi người phiên dịch nói xong, trong phòng chỉ nghe thấy tiếng ro ro của không khí lưu chuyển qua lỗ thông hơi của hệ thống điều hòa nhiệt độ.

“Đối với hầu hết những tên giết người hàng loạt, khởi nguyên đều từ sự mộng tưởng.” Charlie nói. Có người đưa mời cô một chai nước, cô mở nó và nhấp một ngụm. “Ai cũng có mộng tưởng của mình, phải không ạ? Có người mộng tưởng được làm sếp, có người lại mong muốn vợ mình yêu mình hơn bất cứ ai trên thế giới này. Dù đó là điều gì đi chăng nữa, thì hẳn cũng là điều bình thường.”

Ibrahim nghe tiếng ai đó bên cạnh thì thào nói khẽ “Ayyyyyyywa.” Đúngggggggg. Ông ngờ rằng đó là Daher.

“Hầu hết những tên sát nhân đều có động cơ rõ ràng và dễ hiểu – sự tham lam, sự giận dữ, sự trả thù – nhưng đối với những tên giết hàng loạt, động cơ chính lại mang tính cá nhân, tính nội tâm, và khó có thể nắm bắt được hoàn toàn. Nó giống như một sự cưỡng bách. Những vụ án mạng do chúng gây ra nhằm thỏa mãn nhu cầu nội tại, biến những mộng tưởng mà chúng nuôi dưỡng, thường trong một khoảng thời gian dài, trở thành hiện thực. Có khi từ thời thơ ấu. Sự mộng tưởng của chúng rất tàn bạo. Chúng thường liên quan đến những hành vi ác dâm và làm biến dạng cơ thể con người. Ở đây chúng ta thấy sự biến dạng cơ thể trong vụ án của các anh.” Cô đưa mắt nhìn tấm bảng trắng với những bức hình của mười chín khuôn mặt đã bị biến dạng được treo ngay ngắn theo hàng. “Nhưng điều quan trọng cần biết về những mộng tưởng đó là chúng giống như một sự nghiện ngập. Tôi hiểu các anh không có những tệ nạn như đánh bạc hay rượu chè hoặc thậm chí là ma túy ở đây. Nhưng hẳn các anh đều biết về chúng, và tôi chắc là các anh đã được thấy chúng.”

“Điển hình nhất, rượu thường đi liền với một vấn đề hoặc một nỗi đau nào đó, và mộng tưởng cũng vậy. Chính vì thế mà kẻ giết người thường bám vào mộng tưởng của hắn để khiến hắn cảm thấy thoải mái hơn. Hắn sẽ nuôi dưỡng nó trong nhiều năm, và giống như chứng nghiện ngập vậy, nó lớn đến mức mà hắn cần phải mộng tưởng nhiều hơn để nhằm duy trì sự hưng phấn. Một vại bia không thể khiến người ta say, nên một kẻ nghiện rượu sẽ phải bắt đầu với mười vại, hoặc có thể là hai mươi. Đối với kẻ sát nhân, hắn đạt đến độ mà hắn cần để biến mộng tưởng của hắn thành hiện thực.”

Charlie đưa mắt nhìn khắp căn phòng. Lúc này cô đã tự tin tin hơn, không còn vẻ ngượng ngùng nữa. Cô nhận thấy có điều gì đó trên nét mặt Daher, và lên tiếng: “Anh có câu hỏi gì chăng?”

Anh ta lắc đầu.

“Không sao, xin cứ tự nhiên.” Cô nói. “Anh…?”

“Daher.” Anh ta hắng giọng. “Waseem Daher.” Thật buồn cười khi thấy anh ta tỏ ra không thoải mái lắm. “Tôi chỉ đang băn khoăn. Hắn ta điên dại, phải vậy không? Hắn ta cho rằng chuyện là bình thường khi giết một ai đó để thỏa mãn mộng tưởng bệnh hoạn của mình. Tại sao lại như vậy?”

“Câu hỏi rất hay. Các chuyên gia tâm thần học gọi những người này là bệnh nhân tâm thần hay kẻ thái nhân cách, tùy thuộc vào một số yếu tố nhất định. Tuy nhiên ngày nay người ta thường gọi chung họ là những kẻ mắc chứng rối loạn nhân cách chống xã hội, nói tắt là ASPD. Tóm lại, nó có nghĩa là những người này không có lương tri như anh hay tôi. Bọn họ thường không có khả năng yêu thương, tức là họ không phát triển các mối quan hệ lâu dài trừ phi có một động cơ rõ ràng cho mối quan hệ đó, như t.ình d.ục hoặc tiền bạc chẳng hạn. Bọn họ bốc đồng và hung hăng. Nhưng khía cạnh rõ nét nhất đó là bọn họ hoàn toàn không có cảm giác tội lỗi.”

“Vì vậy nên bọn họ không hiểu cách hành xử với con người?”

“Thực- ra- là,” Charlie nói, “bọn họ không cảm nhận được những gì mà người bình thường cảm thấy, nhưng bọn họ hiểu con người ở một mức độ đáng kinh ngạc. Bọn họ có khả năng lừa gạt những người thân thiết nhất của mình – như thành viên trong gia đình, đồng nghiệp – và bọn họ có thể thực hiện điều đó một cách hoàn hảo bởi bọn họ hiểu những người này. Những đối tượng đó thường là những kẻ nói dối khôn ngoan. Và cực kỳ thông minh.”
https://vanvietbooks.wordpress.com/

 
×
Quay lại
Top Bottom