- Tham gia
- 15/12/2011
- Bài viết
- 1.979
Nguyễn Anh Thường
Học viên Cao học Trường ĐH KHXH và NV – ĐHQG TPHCM
Học viên Cao học Trường ĐH KHXH và NV – ĐHQG TPHCM
1. Tính nhân văn trong quan niệm về con người của chủ nghĩa hiện sinh
Có thể nói, chủ nghĩa hiện sinh là một trong những học thuyết triết học ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội các nước phương Tây vào những năm 40 – 60 của thế kỷ XX. Trong một thời gian khá dài, dòng triết học này có sức cuốn hút đối với một bộ phận dân chúng, nhất là giới trẻ thành thị, vì nó đã khắc hoạ khá chân thực hình ảnh con người trong thời đại phức tạp, đầy biến động. Các triết gia hiện sinh đã nói đến tâm trạng và khát vọng của con người, đồng thời đã gợi lên những suy nghĩ ở họ về trách nhiệm đối với “thế giới của con người”.
Bản thân cách đặt vấn đề về việc xây dựng một bản thể luận về con người đã cho thấy thiện ý của các nhà triết học là muốn khám phá cõi sâu thẳm của đời sống tâm hồn con người cá nhân. Đó chính là điều đáng trân trọng ở M. Heidegger, J.P. Sartre, K.Jaspers và nhiều nhà hiện sinh khác nữa. Trong tác phẩm “Thư về nhân bản chủ nghĩa” Heidegger đã than phiền rằng từ trước đến nay, các triết gia bàn nhiều về tồn tại (sein) nhưng không tìm ra được ý nghĩa sâu xa của tồn tại con người, đó là tồn tại có ý thức (dasein). Tiếp đó ông lại phân biệt nghĩa Latinh của tồn tại (exsistentia) với nghĩa tồn tại như xuất tính thể (ek – sisteinz - tồn tại vượt trên các tồn tại ), để nhấn mạnh tính độc đáo, thăng hoa, sáng tạo của tồn tại con người. Ông cho rằng “xuất tính thể là cách hiện hữu của con người với ý thức của mình và ý thức ấy gói trọn trong sự ưu tư, trong sự cảm nhận thân phận mình và từ đó suy nghĩ về khả năng vượt lên khỏi tình trạng hiện có. Với tư cách là xuất tính thể con người đảm đương đặc tính hiện hữu của mình khi mà nhắm đến sự ưu tư con người đón nhận sự hiện hữu như là khoảng không của tính thể. Nhưng chính đặc tính hiện hữu của tính thể này lại phô bày thể tính của mình như là một cái bị quẳng ném, bị “vứt vào”. Đặc tính của hiện hữu như phơi mở, phô bày thể tính trong sự phỏng chiếu của tính thể, một tính thể mang số mệnh là ban phát trao tặng số mệnh.” [1] Tương tự như vậy nhà hiện sinh Pháp J.P.Sartre cố gắng xác định ý nghĩa của tồn tại con người: “Con người là một chủ thể hướng lai và đồng thời ý thức được việc tương lai của mình … là một dự phóng sống hoàn toàn theo chủ quan, sống cho mình để thay vì là một đám đám rêu xanh, cái gì hôi thối, hoặc một chiếc bắp cải”[2]. Ngay trong thành phố tràn đầy chết chóc vì bệnh dịch hạch, A. Camus một nhà hiện sinh Pháp khác thì cảm nhận: vẫn tìm thấy niềm hy vọng, dẫu mong manh của cuộc sống[1]. Con người trong và sau chiến tranh đã nếm trải những mất mát đau thương, những chông gai cạm bẫy, sự xô bồ của đời sống xã hội. Những vấn đề ấy đã được các nhà hiện sinh khắc hoạ khá chân thực. Con người bị “quẳng ném” đã được các nhà hiện sinh từ Heidegger đến Camus, nhắc đến rất nhiều trong những sáng tác của mình. Sự thành công của chủ nghĩa hiện sinh là ở chỗ đã mô tả “con người sống thực”, với những bi kịch diễn ra từng ngày, từng giờ, những hy vọng và những âu lo, niềm đam mê và sự chán chường, ước muốn dấn thân và sự buông xuôi phó mặc thông qua đó họ đã nói đúng phần nào thực trạng của xã hội phương Tây. Chỉ có thể xem xét chủ nghĩa hiện sinh từ góc độ đó mới lý giải được sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh và các lĩnh vực đời sống và nhận thức.
Không phải ai cũng có thể mô tả cuộc sống thường nhật mà lại gợi lên được những suy nghĩ đầy tính trách nhiệm về thân phận con người như M.Heidegger, G. Marcel, J.P.Sartre, A. Camus… Chủ nghĩa hiện sinh là “nỗ lực triết lý về những sự kiện đầy kịch tính diễn ra trên sân khấu không từ vị trí khán giả hay là người quan sát mà từ góc độ của một diễn viên, người nhập cuộc, trực tiếp tham gia và những lớp diễn. Tính chân thật của tồn tại cá nhân, tính nhất thời, tính lịch sử, tính hữu hạn, sự xô đẩy vào cõi hư vô, sự chấm dứt không thể tránh khỏi đối với khả năng tồn tại hay là cái chết, sự nếm trải tất cả những cách thức tồn tại ấy, và nỗi sợ hãi triền miên trước cái chết. Chừng ấy vấn đề dằn vặt các nhà hiện sinh” [2]. Việc K. Jaspers giới hạn sự tồn tại của con người trong tính lịch sử và hoàn cảnh sống cũng là đều đáng suy nghĩ. Cả Jaspers, Heidegger và các nhà hiện sinh khác đều cùng chung một suy nghĩ rằng; lịch sử nhân loại mặc dù tuôn theo tính quy luật nhất định, vẫn đầy ắp những bất ngờ, nên con người với tư cách là một thành viên của cộng đồng xã hội rộng lớn, cũng không tránh khỏi những tình huống không lường trước được, những suy nghĩ đó đậm tính nhân văn và khá thoả đáng[3]. J.P.Sartre và M. Heidegger thật có lý khi nêu ra “trạng thái tranh chấp” để lưu ý giữa ranh giới thiện và ác, hạnh phúc và đau khổ, tồn tại và hư vô trong cuộc sống của cá nhân, ý nghĩa nhân văn của quan niệm này là buộc con người phải biết “ưu tư” và “lựa chọn”, tìm cho mình một hướng đi, một cách sống giữa “tha nhân”.
Hiệu chỉnh bởi quản lý: