Hoàn Ring - Vòng tròn Ác nghiệt - Full - Suzuki Koji

Monmunmon

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
1/1/2012
Bài viết
4.527
Cái chết đến từ một cuộn băng. Hai đôi nam nữ vị thành niên lần lượt chết bởi cơn đau bót nghẹt tim một tuần sau khi xem phải một cuộn băng lạ trong một nhà nghỉ ngoại ô Tokyo, bên trên một cái giếng cũ...
Mê mẩn khám phá ra bí ẩn đằng sau những cái chết kinh hoàng đó, Asakawa, một phóng viên đang háo hức vì danh vọng lao vào cuộc truy tìm dấu vết. Đến mức gã tự mình xem cuộn băng, và đối mặt với lời đe doạ hãi hùng kẻ nào đó đã đặt trong những hình ảnh cuộn băng ghi lại. Bảy ngày còn lại, vòng quay của Ring bắt đầu, sự khiếp hải của kẻ đã thấy ngọn núi lửa phun trào, những cái mặt ma quái, và cuối cùng, cái giếng cũ tiêu điều giữa khu rừng vắng... bắt đầu ngấm vào trong tim. Sự thật là đâu? Đâu là lời nguyền, đâu là lời giải?
Hãy thưởng thức Ring-vòng tròn ác nghiệt của Suzuki Koji, tác phẩm kinh dị kinh điển đã làm mưa làm gió bằng những thành công khổng lồ ở đất nứơc Phù Tang trong hàng thập kỷ, trước khi bước lên màn ảnh với hai bộ phim nổi tiếng Ringu của Nhật Bản vàThe Ring của Hollywood. Xuất khẩu nỗi sợ đặc trưng Nhật Bản ra toàn thế giới, Ring thoả mãn những ai đang tìm kiếm khoái cảm trong nỗi rùng mình, cùng những triết lý cao sang và sâu sắc của một trong những kiệt tác của thể loại.
Hồn ma, quỷ dữ - đại diện của cái ác - chính là một phần của thế giới con người. Đó lại là một thông điệp nữa trong Ring.
Ngay khi đọc xong Ring, có thể bạn chưa thấy sợ. Nhưng nếu cái bóng đèn 50 oát nhà bạn đột nhiên chập chờn thì đừng nghi ngờ gì nữa: nó đang đến. và bạn cũng đừng bao giờ mất cảnh giác mà xem một cuộn băng không nhãn, có thể, một thế giới củaRing thật sự đang chờ... - Dịch giả Lương Việt Dzũng

"Vẫn còn ở Ring những bất ngờ khiếp đảm cho những ai đã xem phim." - The Globe mail"Tóc bạn sẽ dựng ngược lên, nhưng bạn không thể bỏ sách xuống." - AsianWeek

zze1338526688.jpg

Tên truyện: Ring - Vòng tròn Ác nghiệt
Tác giả: Suzuki Koji

Nguồn: vnthuquan.net
Lời mở đầu:

Khi đến với Ring, độc giả sẽ cảm thấy nỗi sợ lạ lùng bủa vây xung quanh một cách từ từ và lặng lẽ. Không máu me, chém giết đầy thương tích - bốn án mạng xảy ra lúc ban đầu chỉ khiến người ta đôi chút rùng mình khi chứng kiến vẻ kinh hoàng trên nét mặt nạn nhân. Cảnh sát không vào cuộc, thậm chí gia đình người bị nạn cũng không nghi ngờ. Cho đến khi Asakawa Kazuyki, một nhà báo đang hăm hở tìm kiếm sự nổi tiếng xắn tay vào điều tra.
Bản thân Asakawa là một người thần hồn nát thần tính. Có thể nhắm mắt và hình dung về anh phóng viên trẻ này như bất kỳ người bình thường nào khác, hám danh vọng, không bản lĩnh, đặc biệt yêu gia đình và cô con gái bé bỏng của mình. Thế nên những câu chuyện mà sau này Asakawa tham dự càng khoác thêm nỗi sợ lạ lùng. Khi anh cầm cuốn băng không nhãn mở ra xem, Asakawa không ý thức rằng từ giờ đó, phút đó, ngày đó - tính mạng anh bị treo lơ lửng như một cái án không tên. Và nhất là khi cả vợ và con gái vì tò mò mà trót xem nó nữa. Asakawa dường như tê liệt trong nỗi hoảng hồn khi nhìn thấy hạn chót của Thần Chết cứ lừng lững tiến lại gần với lời hẹn một tuần, sau khi xem cuộn băng.
Kể từ lúc độc giả lật giở những trang sách đầu tiên và khi gập lại trang cuối cùng, dù nỗi sợ hãi dần sẽ nguôi ngoai - nhưng sẽ rất nhiều người bị ám ảnh về người con gái có năng lực phi thường ấy. Có lẽ vì Sadako đẹp quá, vẻ đẹp quá hoàn hảo khiến gã bác sĩ Nagao ngày ấy đã không nén nổi lòng trước bộ ngực trắng căng tròn. Có lẽ vì Sadako quá đặc biệt trên cõi đời này khi bị phát hiện bị hội chứng t.inh hoàn nữ hóa và vĩnh viễn không thể có con. Có lẽ vì Sadako quá bất lực trước cơn chấn động của bà mẹ, do dư luận quá nặng nề bà đã lặng lẽ tìm đến cái chết. Và năng lực kỳ bí của người con gái nhan sắc này đã lưu lại một oan hồn lạnh lùng, trong một cái giếng hoang chật hẹp có nước.
Có nhiều người tìm đến Ring, vòng tròn ác nghiệt để tận hưởng cảm giác rợn tóc gáy khi cùng Asakawa truy tìm một hồn ma trong quá khứ. Nhưng thực ra trong đó đâu chỉ có nỗi kinh hoàng ngự trị. Thực ra trong cái ác đâu chỉ khoanh vùng sự đen tối của khát vọng trả thù. Trong hồn ma của Sadako chất chứa cái nhìn bi quan về cuộc sống, cả lời phê phán sự thờ ơ của dư luận khi đổ dồn trách nhiệm lên người mẹ của cô, cả khát khao được yêu như một cô gái bình thường, cả khát khao được làm mẹ… Sadako như hiện thân của một con người đơn độc cả về thể xác lẫn tâm hồn. Khi mọi ước muốn đều bất thành thì cái ác đương nhiên xuất hiện.

Tác giả : Suzuki Koji
Suzuki Koji sinh năm 1957 tại thành phố Hamamatsu, tỉnh Shizuoka. Ông tốt nghiệp trường Đại học Keio chuyên ngành Văn học Pháp. Suzuki Koji bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình với tiểu thuyết đầu tay Rakuen (Thiên đường) vào năm 1990 và giành giải thưởng Japan Fantasy Novel Award. Tiếp sau đó, bộ ba tác phẩm Ring (1991), Spiral (1996) và Loop (1998) đã đưa ông lên tới đỉnh cao của thể loại tiểu thuyết kinh dị Nhật Bản (J-horror) và khoa học giả tưởng. Bộ ba tác phẩm này được dịch ra hơn 20 thứ tiếng trên thế giới.
Ở Nhật, người ta coi Ring là đỉnh kim tự tháp của thể loại tiểu thuyết kinh dị và cuốn sách đã tạo nên cơn sốt tiểu thuyết kinh dị ở xứ Phù Tang. Tác phẩm này được những người làm phim trong nước chuyển thể thành phim truyền hình năm 1995 và phim truyện năm 1998, sau đó được hãng Dreamworks SKG của Mỹ dựng lại vào năm 2002.
 
Phần 1: CHỚM THU

1.
10h49' tối, ngày mùng 5 tháng Chín
Yokohama
Phía bắc mảnh đất nằm kế bên khu vườn cổ Sankeien, một vài toà nhà chung cư mười bốn tầng mọc lên sát cạnh nhau, tuy vừa xây xong nhưng hầu hết các căn hộ đều đã có chủ. Có tới gần trăm căn hộ trong mỗi toà nhà nhưng đa phần cư dân ở đây không hề biết mặt hàng xóm, chỉ có ánh đèn đang hắt ra từ phía những căn phòng nói lên sự tồn tại của họ.
Phía nam, mặt biển sóng sánh phản chiếu ánh sáng từ những ngọn đèn canh đêm của nhà máy. Bên ngoài bức tường bao, vô số những đường ống ngoằn ngoèo tựa như các mạch máu bò đi khắp cơ thể và đám đèn trang trí trông giống hệt lũ dạ quang trùng, mà với mỗi người cảnh tượng kỳ quái ấy ắt hẳn cũng có vẻ đẹp riêng của nó. Khu nhà xưởng im lìm in hình trên mặt nước.
Trên khu đất chia lô cách đó chỉ vài trăm mét, một ngôi nhà hai tầng mới xây đứng trơ trọi một mình. Cổng của ngôi nhà quay thẳng ra con đường một chiều chạy dọc từ bắc xuống nam, cạnh đó là bãi đậu chỉ vừa đủ chỗ cho một chiếc xe. Trông nó bình thường như mọi ngôi nhà khác mà người ta vẫn thường thấy ở những khu đô thị mới. Có lẽ bởi giao thông không thật thuận tiện nên chẳng mấy ai đến đây hỏi mua, những tấm biển Bán đất mọc lên khắp dọc con đường. So với mấy toà nhà chung cư đã không còn chỗ trống ngay khi vừa hoàn thiện, cảnh tượng của khu đất chia lô thật buồn tẻ.
Ánh đèn huỳnh quang lọt ra từ ô cửa sổ tầng hai đang mở toang của căn nhà nọ chiếu sáng cả một khoảng đường tối mịt. Trong ngôi nhà ấy, chỉ có căn phòng trên tầng hai của Tomoko sáng đèn. Oishi Tomoko là học sinh lớp 12 ở một trường trung học nữ tư thục. Cô đang ngồi trước quyển vở bài tập mở rộng. Mặc một chiếc áo phông trắng cùng với quần soóc, cô duỗi dài hai chân đón lấy luồng gió từ chiếc quạt điện đặt dưới nền nhà, vừa lấy tay phe phẩy vạt áo để gió thổi trực tiếp vào da mình vừa luôn miệng kêu nóng. Còn cả núi bài tập chưa làm xong. Tomoko lúc nào cũng đổ lỗi cho thời tiết nóng bức, nhưng thực ra mùa hè năm nay trời đâu có nóng lắm, chỉ vì kỳ nghỉ hè vừa rồi cô quá mải chơi. Trong năm, những ngày trời nắng rất ít, số lượng khách đi tắm biển kém hơn nhiều so với mọi năm. Tuy nhiên mùa hè vùa mới qua đi thì lập tức năm ngày liền sau đó trời oi bức như đang giữa hạ. Tomoko tỏ ra bực bội với cái thứ thời tiết như trêu ngươi ấy và thấy ghét ông trời.
... Nóng nực thế này thì học làm sao được...
Tomoko vén tóc rồi đưa tay mở to âm lượng chiếc máy thu thanh. Một con ngài đậu trên tấm cửa lưới ngay cạnh cô vừa chao cánh bay đi vì không thắng nổi sức gió của chiếc quạt. Tấm cửa lưới vẫn khẽ rung lên hồi lâu sau khi con ngài biến mất vào bóng tối.
Chẳng nhét được thêm tẹo chữ nghĩa nào vào đầu trong mấy phút vừa qua. Mai là ngày thi, nhưng cứ thế này thì có thức trắng cả đêm cũng không sao học được hết.
Cô đưa mắt nhìn đồng hồ. Sắp mười một giờ. Cô định bụng bật máy thu hình lên xem tin tức về giải bóng chày chuyên nghiệp. Biết đâu lại chả thấy bố mẹ cô ở trên khán đài. Nhưng kỳ thi ngày mai vẫn không dứt khỏi tâm trí cô. Dù thế nào Tomoko vẫn rất muốn vào đại học. Trường nào cũng được, miễn là có cái mác đại học. Kỳ nghỉ hè năm nay chưa làm cô thấy mãn nguyện. Cuộc chơi chưa đã vì thời tiết và cả cái thứ không khí oi bức nhớp nháp đáng kinh tởm này khiến cô cảm thấy chẳng muốn học bài tí nào.
... Ôi, giá mà mình có thể chơi một trận hoành tráng hơn nữa để chia tay kỳ nghỉ hè cấp ba cuối cùng. Thế là hết.
Trong cơn bực bội, mục tiêu cằn nhằn của Tomoko bỗng quay ngoắt sang đối tượng khác.
... Hừ, trong khi cô con gái đang nhễ nhại mồ hôi học bài thì hai người lại có thời gian rảnh rỗi để đi xem đấu bóng chày đêm cơ đấy. Xin các vị nghĩ cho con cái một chút chứ.
Bố mẹ cô đang đi xem trận đấu của đội Giants ở sân Tokyo Dome bằng tấm vé tình cờ có được từ mối quan hệ công việc. Nếu không tạt ngang vào đâu đó sau trận đấu thì lẽ ra giờ này bố mẹ cô đã phải về đến nhà rồi. Lúc này, chỉ có một mình Tomoko trong căn phòng rộng lớn.
Mấy hôm nay trời không có mưa, vậy mà không khí lại oi nồng đến lạ. Ngoài thứ mồ hôi nhớp nháp rỉ ra từ cơ thể mình, Tomoko còn cảm thấy rất rõ những giọt nước nhỏ li ti đang lơ lửng khắp căn phòng. Đột nhiên, cô vô thức vỗ tét vào đùi mình. Nhưng khi bỏ tay ra thì lại không thấy xác con muỗi nào cả. Có lẽ là tại cảm giác, vì rõ ràng cô vừa cảm thấy cái ngứa tập trung vào một điểm trên đầu gối. Tiếng đập cánh vo ve đâu đó. Tomoko lấy hai tay phẩy mạnh phía sau đầu mình. Một con ruồi. Con ruồi tạm thời biến mất khỏi tầm mắt Tomoko rồi thay đổi độ cao để tránh luồng gió từ chiếc quạt khi ra tới trước cửa. Nó lọt vào đây bằng đằng nào nhỉ? Cửa vẫn đóng. Tomoko kiểm tra lại tấm cửa lưới, nhưng không hề tìm thấy khe hở nào đủ để một con ruồi có thể chui qua. Tomoko tự dưng cảm thấy buồn tiểu và khát nước.
Chưa đến mức khó thở, nhưng cô cảm thấy một thứ áp lực nào đó, một thứ sức mạnh đang ép lấy ngực mình. Cô nàng Tomoko khi rồi vẫn còn lớn tiếng càu nhàu giờ đây bỗng im lặng như biến thành người khác. Tim cô đập mạnh một cách vô cớ lúc đi xuống cầu thang. Ánh đèn pha của chiếc ôtô chạy qua con đường trước nhà liếm xoẹt lên bức tường phía dưới cầu thang rồi biến mất. Khi tiếng động cơ nhỏ dần và xa khuất thì dường như bóng tối trở lại còn đen đặc hơn trước, khiến Tomoko phải cố gõ bước thật to lên các bậc cấp và với tay bật công tắc điện hành lang.
Tiểu tiện xong rồi Tomoko còn bần thần ngồi lại một lát trên bệ xí. Nhịp tim vẫn không chịu lắng xuống. Đây là lần đầu tiên cô bị thế này. Sao vậy nhỉ? Sau một vài cái hít thở thật sâu, cô đứng dậy, kéo cả chiếc quần lót lẫn quần soóc lên cùng một lúc.
... Papa, mama à! Mau về đi chứ.
Thế rồi giọng nói của cô bỗng nhiên mất hẳn sự ngang tàng.
... Sao mình lại sợ thế này, mình đang cầu xin ai đây?
Lời cầu xin đó không phải dành cho bố mẹ cô. Mà cho một cái gì đó hoàn toàn khác.
... Làm ơn đừng có doạ tôi.
Không biết tự lúc nào, giọng cô bỗng trở nên thật lễ phép.
Cô rửa tay trên bồn bếp, mở tủ lạnh lấy mấy viên đá bằng bàn tay ướt và thả vào trong cốc. Cô rót Coca-cola vào đầy cốc. Uống một hơi cạn sạch, cô đặt chiếc cốc lên quầy pha rượu. Mấy viên đá quay tròn trong lòng cốc rồi dừng lại. Tomoko chợt rùng mình. Cô thấy lạnh sống lưng. Vẫn chưa thoả cơn khát, cô lôi chai Coca-cola 1,5 lít từ trong tủ lạnh ra và rót vào cốc. Tay cô run bắn. Có cái gì đó ở sau lưng. Chắc chắn không thể là người. Cái gì đó như mùi thịt rữa, khăm khẳm đang tan ra bao bọc lấy bầu không khí... cái gì đó không phải là vật thể rắn.
- Làm ơn thôi đi mà!
Cô cất tiếng van lơn. Cái bóng đèn năm mươi oát chỗ bồn rửa bát bỗng lập loè như đom đóm. Bóng vẫn còn mới cơ mà, sao lại chập chờn thế nhỉ? Sao mình lại không bật hết đèn trong nhà lên kia chứ, Tomoko hối hận. Nhưng cô không thể đi đến chỗ cái công tắc. Thậm chí quay đầu lại cũng không thể. Cô biết đằng sau mình có cái gì. Có căn phòng kiểu Nhật, có bàn thờ của ông nội ở trên sàn. Và xuyên qua ô kính cửa sổ với tấm rèm để ngỏ là bãi đất có cỏ mọc đầy và ánh đèn như những ô kẻ ca-rô bé xíu của khu chung cư, chắc chắn là chỉ có thế.
Cốc Coca-cola thứ hai mới uống hết có một nửa, nhưng Tomoko không thể nào cử động được nữa. Linh tính báo cho cô biết về một thứ gì đó đang ở rất gần. Dường như nó vừa nhớp nháp vươn mình ra và chuẩn bị chạm vào gáy cô.
... Nếu là nó thì làm sao đây?
Cô không muốn nghĩ thêm nữa. Vì nếu cứ như thế này, cái sự việc xảy ra trước đó một tuần mà cô đã quên mất sẽ thức dậy trong trí nhớ và cô sẽ không thể chịu nổi nỗi sợ hãi đang lớn dần lên. Chỉ tại Shuichi đã nói ra điều đó... Nhưng khi trở về thành phố, chính cô cũng không còn tin vào cái hình ảnh đầy kích động ấy nữa – nó chỉ giống như một trò đùa. Tomoko muốn nghĩ tới một điều gì đó khác vui vẻ hơn. Nhưng, nếu là nó... Nếu đúng thật là nó thì sao? Chuông điện thoại đã reo đúng vào lúc đó mà.
... Ôi, bố mẹ đang làm gì thế?
- Mau về đi chứ!
Tomoko nói thật to. Song dù vậy, cái bóng đen ghê người ấy chẳng hề có ý định thoái lui. Nó vẫn im lìm nghe ngóng phía sau. Và chờ thời cơ đến.
Mười bảy tuổi, Tomoko chưa hiểu nhiều lắm về hình thù của nỗi sợ. Nhưng cô biết có một nỗi sợ đang tự nó lớn dần lên trong tưởng tượng của mình.
... Giá như không phải nó. Không, chắc chắn không phải là nó. Đằng sau mình chẳng có gì cả. Chắc chắn là không có gì cả.
Nỗi thèm muốn được quay đầu lại phía sau thôi thúc Tomoko. Cô muốn chắc chắn rằng chẳng có gì hết và nhanh chóng thoát ra khỏi trạng thái này. Nhưng có thật là chỉ đơn giản như vậy thôi không? Lưng cô sởn da gà. Cảm giác gai người bắt đầu từ bả vai trườn dọc sống lưng xuống dưới khiến tấm áo phông ướt đầm vì mồ hôi lạnh. Nếu chỉ là sự tưởng tượng đơn thuần thì cơ thể chẳng bao giờ phản ứng dữ dội đến thế.
... Ai đó đã nói: cơ thể bao giờ cũng thành thật hơn lý trí.
Cùng lúc, cô lại nghĩ: "Quay đầu lại đi, có gì đâu nào? Mau uống nốt chỗ côca rồi trở về bàn học kẻo không biết bài thi ngày mai sẽ ra sao đâu."
Cục đá trong cốc kêu đánh tách rồi vỡ vụn. Âm thanh đó bất đồ làm Tomoko giật bắn mình quay đầu ngược lại.

10h54 tối, mùng 5 tháng Chín
Ngã tư trước cửa ga Shinagawa, Tokyo
Đèn tín hiệu chuyển sang màu vàng. Kimura có đủ thời gian để vượt qua bên kia trước khi đèn đỏ nhưng hắn lại cố cho chiếc taxi đỗ dịch về phía bên trái. Chẳng gì tiện bằng nếu bắt được khách đi ngã tư Roppongi. Đã không ít lần hắn kiếm được khách hàng trong lúc chờ đèn đỏ như thế này, vì phần lớn khách chờ taxi ở đây thường đi về phía mạn Akasaka, Roppongi.
Chiếc môtô lướt qua sườn trái chiếc taxi rồi dừng lại ngay phía trước vạch đường dành cho người đi bộ. Ngồi trên đó là một cậu thanh niên mặc quần jeans. Cái cách luồn lách của cậu ta khiến Kimura vô cùng khó chịu. Hắn mới bực dọc làm sao, đúng vào lúc đang chờ đèn đỏ thế mà chiếc môtô kia lại ngang nhiên lao lên phía trước và đỗ xịch ngay hông cửa xe hắn. Cũng tại cả ngày hôm qua vắng khách nên trong lòng hắn không vui, hắn nhìn cậu thanh niên với ánh mắt chẳng thích thú gì. Giấu nét mặt trong chiếc mũ bảo hiểm kín mít, cậu thanh niên chống chân trái xuống gờ đường, dạng đùi ra và lắc lư với một điệu bộ buông thả.
Chợt phát hiện ra một cặp chân phụ nữ tuyệt đẹp đang rảo bước trên vỉa hè, cậu ta ngoái đầu nhìn với theo. Nhưng cậu thanh niên đã không kịp nhìn theo cô gái đó cho tới phút cuối cùng. Ánh mắt cậu ta bỗng bị cố định vào khung kính trưng bày của một cửa hàng ở bên trái khi vừa xoay đầu được chừng chín mươi độ. Cô gái dần vượt ra khỏi tầm mắt. Cậu thanh niên bị bỏ lại cùng với tia nhìn như dính chặt vào một thứ gì đó. Đèn tín hiệu dành cho người đi bộ bắt đầu nhấp nháy rồi chuyển thành màu đỏ. Dòng người hối hả băng qua mũi xe trên làn đường dành cho người đi bộ. Không có ai giơ tay lên vẫy. Kimura bật máy và chờ cột đèn tín hiệu phía trước mặt đổi sang màu xanh.
Đúng lúc đó, cậu thanh niên giãy mạnh người, giơ hai tay lên trời rồi đổ ập về phía chiếc taxi của Kimura. Sau khi đập vào cửa xe gây ra một tiếng sầm lớn, cậu ta biến mất khỏi tầm mắt hắn.
... Thằng khốn!
Rõ là hắn bị mất thăng bằng rồi ngã đây mà, Kimura vừa nghĩ bụng vừa bật đèn đỗ và xuống xe. Nếu có vết xước trên cửa xe, hắn sẽ bắt đền tay thanh niên kia một số tiền sửa chữa tương đương. Đèn chuyển sang màu xanh, những chiếc ôtô xếp hàng phía sau vượt lên trước rồi hoà vào giữa ngã tư. Cậu thanh niên đang bật ngửa người, chân giãy giụa, hai bàn tay hốt hoảng gỡ chiếc mũ bảo hiểm ra. Trước khi ngó ngàng tới cậu ta, Kimura phải đi xem xét cái công cụ kiếm cơm của mình đã. Đúng như dự đoán, có một vết xước chạy xéo trên thành cửa.
- Chậc!
Kimura vừa chặc lưỡi vừa tiến lại gần cậu thanh niên. Cậu ta đang cố sống cố chết gỡ mũ bảo hiểm, mặc cho quai mũ vẫn thít chặt vào cằm với sức mạnh như muốn giật luôn cả cái cổ của cậu ta ra vậy.
... Hắn khó thở đến thế kia à?
Kimura nhận thấy vẻ bất thường ở cậu thanh niên nên ngồi xuống bên cạnh và hỏi: "Có sao không?". Hắn không biết được nét mặt cậu ta vì miếng kính chắn sẫm màu. Cậu thanh niên nắm lấy tay Kimura và bắt đầu nói điều gì đó. Nhưng rất yếu ớt. Và không thành tiếng. Cậu ta cũng chẳng buồn kéo miếng kính chắn lên. Kimura cuống quít.
- Chờ đấy để tôi đi gọi xe cấp cứu.
Vừa chạy về phía bốt điện thoại công cộng hắn vừa thắc mắc: sao một cú ngã vớ vẩn lại làm hắn đau đớn thế nhỉ? Hay là đập phải chỗ hiểm trên đầu?
... Nhảm nhí, hắn chẳng đội mũ bảo hiểm đấy là gì. Chân tay thì hình như không gãy. Cầu trời đừng có chuyện gì rắc rối ở đây... Để hắn va vào xe mình rồi bị thương là rách việc chứ chả bỡn.
Kimura bỗng bị một thứ linh cảm đáng sợ xâm chiếm.
... Nếu hắn bị thương thật thì có lẽ phải giải quyết bằng bảo hiểm. Mà khi đó sẽ phải làm tờ trình xác nhận tai nạn, rồi lại phải động đến cảnh sát...
Gọi điện xong hắn quay lại chỗ cũ nhưng cậu thanh niên chỉ còn nằm bất động với hai bàn tay đặt trên cổ. Một vài người qua đường dừng lại xem xét vẻ lo lắng. Kimura rẽ đám đông chạy đến và ra vẻ rằng chính mình là người đã gọi xe cấp cứu.
- Này... này... tỉnh dậy đi. Xe cấp cứu đến ngay bây giờ đấy.
Kimura tháo quai mũ bảo hiểm. Thật không thể tin nổi, trầy trật lắm hắn mới cởi được chiếc mũ ra. Hắn giật thót mình: khuôn mặt cậu thanh niên gần như biến dạng. Nếu phải dùng một từ để mô tả, thì đó chính là sự thất kinh. Đôi mắt trợn ngược, cái lưỡi đỏ tụt hẳn vào cuống họng và bọt mép sùi ra cả hai bên. Thế này thì khỏi cần chờ xe cứu thương. Vì khi chạm tay vào dưới hàm cậu ta trong lúc tháo mũ, Kimura đã không còn cảm thấy nhịp đập của mạch máu nữa. Kimura ớn lạnh. Hiện thực vụt biến mất khỏi khung cảnh xung quanh hắn.
Bánh xe của chiếc môtô bị đổ vẫn quay chầm chậm, vũng dầu máy đen sẫm từ động cơ loang ra trên mặt đường rồi rỏ giọt xuống cống. Không có gió, đèn tín hiệu lại chuyển sang màu đỏ dưới bầu trời đêm trong suốt ngay trên đầu hắn. Kimura lảo đảo đứng dậy và bám vào thành rào chắn ven đường. Hắn liếc nhìn cậu thanh niên đang nằm trên mặt đường thêm một lần nữa. Đầu cậu ta gập lên gần như vuông góc bên trên chiếc mũ bảo hiểm, trông thật gượng gạo.
"Không lẽ mình đã đặt đầu hắn ở tư thế ấy? Cái mũ trông như chiếc gối thế kia. Để làm gì nhỉ?"
Kimura không thể nhớ lại sự việc trước đó chỉ vài giây. Đôi mắt mở thao láo ấy đang nhìn hắn. Cái lạnh chạy dọc sống lưng. Hắn vừa cảm thấy một thứ không khí tanh nồng thổi sượt chỏm vai. Mặc cho đêm oi bức, cơ thể hắn cứ liên hồi run lên.
 
Màu sắc của buổi sớm thu phản chiếu lên mặt nước xanh lục của con hào chạy quanh Hoàng cung. Tháng chín oi ả sắp sửa qua đi. Asakawa Kazuyuki đang thả bộ xuống sân ga tàu điện ngầm thì bất ngờ đổi ý, gã muốn cảm nhận ở khoảng cách gần hơn nữa cái màu nước mà gã vừa nhìn thấy từ tầng chín nên quyết định bước ngược lên cầu thang để ra ngoài. Gã cảm thấy bầu không khí ô hợp của toà soạn đã len lỏi xuống tận tầng hầm giống như một thứ cặn lắng dưới đáy chai khiến gã đột nhiên thèm được hít thở không khí bên ngoài. Khi màu xanh của Hoàng cung hiện ra ngay tầm mắt, gã không còn để ý tới mùi khí thải từ đoạn hợp lưu của đường cao tốc số 5 với đường vành đai nữa, khung trời của một ngày mới đang hửng dần lên sống động trong cái hơi lạnh của buổi sớm.
Mặc dù cơ thể bải hoải vì phải thức trắng đêm nhưng gã không thấy buồn ngủ lắm. Sự hưng phấn khi viết xong bản thảo như một thứ thuốc kích thích vừa độ làm cho các tế bào não tỉnh táo. Đã hai tuần nay Asakawa chưa hề được nghỉ. Gã muốn dành hôm nay và ngày mai để xả hơi ở nhà. Lần này gã có thể nghỉ ngơi thật đàng hoàng vì đây là mệnh lệnh của tổng biên tập.
Một cách rất bản năng, gã giơ tay lên khi thấy chiếc taxi không có khách chạy lại từ phía Kudansita. Vé tàu điện ngầm tuyến Takehashi-Shinbaba đã hết hạn từ hai hôm trước nhưng gã vẫn chưa mua vé mới. Từ đây đi tàu điện ngầm tới khu chung cư Kita-shinagawa mất bốn trăm yên, còn bắt taxi sẽ mất ngót nghét hai nghìn yên. Chẳng ai muốn mất không hơn một nghìn rưỡi yên, nhưng nghĩ đến việc phải chuyển tàu ba lần, cộng với tâm trạng phấn chấn vì vừa lĩnh lương xong nên gã quyết định tiêu hoang một chút cho riêng ngày hôm nay.
Điều gì đã khiến Asakawa quyết định bắt taxi ở chính nơi đây và vào ngày hôm nay? Nó đơn giản chỉ là một ý nghĩ chợt nảy ra sau một loạt những xung động nho nhỏ. Gã vốn đâu có định đi ra ngoài để bắt taxi. Mà bởi đúng lúc gã chợt thấy nhớ bầu không khí bên ngoài thì một chiếc taxi còn trống chạy ngang qua, trong thoáng chốc đó, gã thấy thật cách rách khi phải mua vé và lại phải đổi tàu những ba lần. Nếu gã vẫn đi về bằng tàu điện ngầm thì hai sự kiện kia có lẽ đã chẳng chắp nối được với nhau. Nhưng suy cho cùng, mọi câu chuyện đều bắt đầu từ sự ngẫu nhiên.
Chiếc taxi dừng lại trước toà nhà Palaceside với vẻ ngập ngừng. Tài xế là một người đàn ông nhỏ thó, tuổi xấp xỉ bốn mươi, chắc hẳn vì đã thức trắng đêm nên đôi mắt hắn đỏ ngầu. Trên táp-lô có một bức ảnh chân dung màu và bên cạnh đó là dòng chữ Kimura Mikio, tên của tay tài xế.
- Đi Kita-shinagawa...
Nghe thấy thế Kimura muốn nhảy lên vì sung sướng. Kita-shinagawa nằm quá bãi xe của công ty hắn ở Higashi-gotanda một chút, như thế là thuận đường về. Cái thú của một tay tài xế taxi là những lúc như thế này đây, khi mọi việc đều tuân đúng theo ý muốn của hắn ta. Kimura bất chợt muốn trò chuyện.
- Anh đi lấy tin bây giờ đấy à?
Gì cơ? Asakawa hỏi lại trong lúc đang hướng đôi mắt đỏ ngầu vì mệt mỏi ra ngoài cửa sổ và mông lung suy nghĩ. Gã tự hỏi không hiểu làm sao tay đó biết được nghề nghiệp của mình.
- Anh là phóng viên phải không?
- Tôi làm ở một tạp chí ra hàng tuần, mà anh biết rõ nhỉ.
Gần hai mươi năm lái taxi đã cho Kimura cái khả năng có thể đoán biết được phần nào nghề nghiệp của khách đi xe dựa vào địa điểm lên xe, trang phục và cách ăn nói của người đó. Và thông thường, với những vị khách có một nghề nghiệp hấp dẫn và tỏ ra hãnh diện về điều đó, thì những câu chuyện liên quan tới công việc sẽ ngay lập tức trở nên rôm rả.
- Chà, anh vất vả quá nhỉ. Mới sớm thế này.
- À không, mà là tôi về nhà.
- Ra vậy, thế thì giống tôi rồi.
Asakawa thường ngày chẳng mấy tự hào về công việc của mình. Nhưng sáng nay, khi mà lần đầu tiên bài báo của gã được lên khuôn, gã bỗng lấy lại được cái cảm giác thoả mãn ấy. Cuối cùng thì gã cũng đã kết thúc loạt bài phóng sự của mình và nhận được kha khá những lời khen ngợi.
- Công việc có thú vị không anh?
- Cũng còn tùy - Asakawa trả lời qua loa.
Cũng có lúc này lúc kia, nhưng bây giờ thì gã chẳng muốn trả lời thêm. Gã không hề quên thất bại cách đây hai năm. Gã vẫn còn nhớ như in tít bài khi đó: Những vị thần mới thời hiện đại.
Cái hình ảnh đáng hổ thẹn khi gã vừa run rẩy vừa nói với tổng biên tập rằng gã không thể làm cái công việc đi lấy tin được nữa lại hiện lên trước mắt.
Sự im lặng diễn ra khá lâu. Xe chạy rất nhanh qua khúc cua ngay bên trái tháp Tokyo.
- À, mà anh thích chạy dọc đường bờ sông hay đường Keihin số 1?
Lộ trình sẽ khác nhau tùy theo người ta muốn đến chỗ nào của Kita-shinagawa.
- Đường Keihin số 1... Mà cho tôi xuống phía trước đường Shinbaba ấy.
Đối với tài xế taxi, yên tâm nhất là khi biết được chính xác điểm đến của khách. Kimura đánh tay lái sang phải ở ngã tư Fuda-no-Tsuji.
Hắn lại đang đến gần cái địa điểm ấy, trên cái ngã tư mà suốt một tháng nay hắn không làm sao quên được. Khác với mối bận tâm của Asakawa về thất bại cách đây hai năm, Kimura tỏ ra khá bàng quan với tai nạn ấy. Nghĩa là, hắn chẳng hề cảm thấy trách nhiệm cũng như sự ân hận nào. Nó hoàn toàn là một vụ tai nạn do nạn nhân tự gây ra, và dù hắn muốn tránh cũng không tránh được. Hắn đang dần quên đi nỗi sợ hãi khi ấy. Một tháng trời, có phải là một quãng thời gian dài? Còn Asakawa, ngay cả lúc này đây vẫn bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi của hai năm về trước.
Có một điều không thể giải thích nổi. Đó là cứ mỗi lần đi qua nơi này, chẳng hiểu sao hắn lại muốn kể cho người khác nghe sự việc xảy ra hôm ấy. Hắn sẽ lén đưa mắt nhìn qua miếng gương buồng lái, nếu thấy khách ngủ rồi thì thôi, còn không, hắn sẽ bị thôi thúc phải kể lại ngọn ngành vụ tai nạn cho tất cả các khách đi xe, chẳng chừa ai. Cứ rẽ vào ngã tư này, bao giờ Kimura cũng bị cảm giác hối thúc ấy xâm chiếm.
- Thế mà đã gần một tháng rồi cơ đấy...
Dàn đèn tín hiệu chuyển từ màu vàng sang màu đỏ ngay trước mắt Kimura như chỉ chực chờ hắn bắt đầu câu chuyện.
- Trên đời này có quá nhiều chuyện khó hiểu.
Kimura muốn thu hút sự chú ý của người nghe bằng cái cách bắt đầu lấp lửng như vậy. Đang lơ mơ ngủ bỗng Asakawa choàng tỉnh vì giọng nói của Kimura, gã nhìn ngó xung quanh như để xác nhận xem mình đang ở đâu.
- Dạo này có lắm kẻ bị đột tử thế anh nhỉ... Đến cả đám thanh niên cũng chả chừa.
- Anh bảo sao?
Đột tử... hai tiếng ấy vang lên trong tai Asakawa.
Kimura nói tiếp:
- Đâu chừng gần một tháng trước, lúc ấy tôi đang chờ đèn đỏ ở đằng kia thì tự nhiên có một chiếc môtô đổ sập vào xe mình. Mà có phải nó ngã lúc đang chạy đâu, đang đứng im thế mà làm đến sầm một cái. Rồi anh biết chuyện gì xảy ra không? Ờ, mà tay lái xe là một cậu trai mười chín tuổi, học sinh trường dự bị... Thế mà tạch, chết ngoẻo. Hãi thật. Hết xe cứu thương rồi đến xe cảnh sát, cứ nháo cả lên. Khổ nỗi là nó lại va vào xe mình mới chết chứ.
Asakawa im lặng lắng nghe, song với sự nhạy cảm của một người làm báo đã mười năm, gã lập tức ghi lại tên của tài xế và hãng taxi. Cũng có thể gọi sự nhanh nhạy ấy là bản năng.
- Cái cách chết đến là lạ anh ạ. Tay thì cứ cố gỡ mãi cái mũ bảo hiểm..., người thì nằm ngửa ra đấy giãy giụa..., tôi đi gọi xe cấp cứu về đến nơi thì đã thấy thăng rồi.
- Hiện trường ở đâu?
Asakawa đã tỉnh hẳn.
- Đấy, ở đằng kia kìa.
Kimura chỉ về phía bên kia vạch đường dành cho người đi bộ trước cửa ga. Ga Shinagawa nằm ở khu Takanawa thuộc Quận Minato. Asakawa ghi khắc thật sâu địa điểm đó vào đầu. Nếu tai nạn xảy ra ở đấy thì Sở cảnh sát Takanawa sẽ phụ trách vụ này. Thế rồi rất nhanh, gã rà soát trong đầu mình xem đường dây nào có thể đưa gã xâm nhập vào nội bộ Sở cảnh sát Takanawa. Thế mạnh của một hãng đưa tin lớn chính là ở chỗ này. Họ có mạng lưới tay trong ở khắp mọi lĩnh vực, và đôi khi khả năng thu thập thông tin của họ còn qua mặt cả cảnh sát.
- Thế nguyên nhân của cái chết là đột tử à?
Chẳng cần biết có căn bệnh nào tên là đột tử hay không, Asakawa vội vã hỏi. Gã cũng chưa kịp nhận ra tại sao vụ tai nạn ấy lại khiến gã bận tâm.
- Rõ là khỉ gió. Xe tôi đang yên lành đậu ở đấy không dưng đâu hắn đổ nhào vào. Lỗi là tại hắn cả, thế mà tôi lại phải viết tờ khai, rồi suýt chút nữa thì mất đứt suất bảo hiểm của mình cho hắn. Đúng là tai bay vạ gió.
- Anh còn nhớ ngày giờ xảy ra tai nạn không?
- Xem kìa, nhà báo đã đánh hơi thấy một vụ án rồi hả? Ờ, có lẽ là ngày mùng bốn hay mùng năm tháng chín gì đó. Đâu như vào khoảng mười một giờ đêm.
Vừa dứt lời, quanh cảnh khi đó lại hiện lên trong óc Kimura. Mùi không khí tanh nồng..., vũng dầu đen đặc rỉ dần về phía miệng cống thoát nước. Nó phản chiếu ánh đèn pha ôtô rồi biến thành những giọt chất lỏng sền sệt rơi xuống cống và biến mất không một tiếng động. Cơ quan cảm giác của hắn, trong giây lát, bỗng tê liệt. Và khuôn mặt của cậu thanh niên gối đầu lên chiếc mũ kia đang lộ đầy vẻ hãi hùng. Cậu ta sợ gì nhỉ?
Đèn xanh, Kimura đạp ga. Hắn nghe thấy tiếng bút sột soạt ở ghế sau. Asakawa đang ghi lại câu chuyện. Kimura thấy buồn nôn. Tại sao hắn lại nhớ rõ thế nhỉ? Kimura nuốt miếng nước bọt chua loét vào trong và cố ghìm cơn ghê cổ.
- Thế nguyên nhân là gì? – Asakawa hỏi.
- "Đứng tim."
Đứng tim? Có thật đó là kết luận của pháp y? Gần đây người ta đâu còn dùng từ này nữa.
- Cần phải kiểm tra lại điểm này, và cả ngày giờ chính xác nữa. – Asakawa vừa lẩm bẩm vừa ghi chép. – Nghĩa là không có bất kỳ dấu hiệu nào của ngoại thương đúng không?
- Đúng vậy. Thật kinh hoàng... Đến tôi cũng còn muốn kinh hoàng nữa là.
- Ý anh là sao?
- Ý tôi là, lạy Phật, vì hắn chết với một bộ mặt hết sức kinh hoàng.
Bỗng có cái gì đó loé lên trong óc gã. Nhưng không, gã không muốn thừa nhận mối liên hệ ấy.
... Một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Đơn giản chỉ là ngẫu nhiên mà thôi.
Ga tàu tốc hành Shinbaba tuyến Keihin đã ở ngay trước mặt.
- Tới cái đèn đỏ kia anh rẽ trái rồi dừng lại cho tôi.
Xe dừng lại, cửa mở. Asakawa chìa ra hai tờ một nghìn yên cùng với danh thiếp:
- Tôi là Asakawa, làm việc ở báo M. Nếu được, tôi muốn nghe kỹ hơn chút nữa câu chuyện vừa rồi.
- Vâng, tất nhiên là được.
Kimura phấn khởi đáp. Không hiểu sao hắn nghĩ rằng hắn có nghĩa vụ phải làm thế.
- Mấy hôm nữa tôi sẽ gọi điện.
- Còn số điện thoại...
- À, khỏi lo. Tôi có tên công ty anh rồi. Cũng gần chỗ tôi thôi.
Asakawa bước xuống xe, định đóng cửa nhưng lại chần chừ. Gã cảm thấy một nỗi sợ khó tả khi phải xác nhận điều này. Chẳng nên dính dáng tới những chuyện quái quỷ làm gì. Gã không muốn làm trò cười lần thứ hai. Nhưng gã đã đến nước này rồi thì gã không thể ngoảnh mặt làm ngơ. Gã biết rõ điều đó. Asakawa hỏi lại Kimura một lần nữa.
- Này, đúng là cậu thanh niên đó đã cố vật lộn để tháo chiếc mũ ấy ra phải không?
 
Oguri, ngài tổng biên tập, nhíu mày nghe Asakawa báo cáo. Ông ta đang nhớ lại hình ảnh của Asakawa hai năm về trước. Giống như một kẻ bị ma làm, gã ngồi lỳ trước máy đánh chữ từ sáng đến tối để viết về tiểu sử của Tổ sư Kageyama Shoko từ những tư liệu thu thập được. Cái vẻ bất bình thường ấy của gã khiến Oguri thực sự muốn đưa gã đến một vị bác sĩ chuyên khoa tâm thần.
Cái không may là sự trùng hợp về thời điểm. Hai năm trước, sự bùng nổ về những câu chuyện siêu nhiên huyền bí xưa nay chưa từng có đã nuốt chửng cả giới xuất bản, những bức ảnh ma chất dày như núi trong phòng biên tập. Hàng đống của rởm dán mác chuyện ma và ảnh ma được gửi đến tất cả các hãng xuất bản, tới mức khiến người ta phải nghĩ rằng chẳng biết thế gian này rồi sẽ ra sao. Ngay cả Oguri, vốn vẫn tự hào về khả năng giải mã những bí ẩn của thế giới, cũng không thể nào tìm thấy câu trả lời khả dĩ cho hiện tượng đó. Số lượng người gửi bài tăng chóng mặt, theo cái cách chưa từng được ghi nhận từ trước tới nay. Chẳng phải khoa ngôn nếu nói rằng lượng bưu phẩm gửi đến trong một ngày đủ để lấp kín cả phòng biên tập, hơn nữa lại toàn những chuyện ma quái. Không chỉ toà soạn của báo M. là nạn nhân, các hãng xuất bản trên khắp nước Nhật cũng cùng lúc bị cuốn theo cơn lốc đó, họ tối tăm mặt mũi với cái hiện tượng vượt ra ngoài tầm hiểu biết kia. Chấp nhận mất trắng thời gian, họ tiến hành điều tra và nhận ra rằng không ai trong số những người gửi bài gửi nhiều hơn một bức thư, và đương nhiên, hầu hết là thư nặc danh. Chỉ cần làm một phép tính nhanh cũng có thể thấy rằng đã có khoảng mười triệu người cùng gửi bài tới tất cả các hãng xuất bản trong thời gian đó. Mười triệu! Một con số khiến giới xuất bản rùng mình. Nội dung những bài viết không đáng sợ đến vậy, mà chính con số kia mới làm người ta phải vã mồ hôi.
Nghĩa là, cứ mười người thì có một người gửi bài, nhưng tìm đâu cũng không ra một người như thế trong giới làm xuất bản, cũng như người thân hay bạn bè của họ. Vậy thì chuyện là thế nào? Núi thư từ kia từ đâu tới? Các biên tập viên đều bóp trán. Và mọi sự qua đi trong khi vẫn chưa tìm ra lời giải. Cứ như một giấc mơ, phòng biên tập trở lại yên ổn sau gần nửa năm sống trong bầu không khí bất thường. Rồi thì chẳng còn bức thư nào như thế được gửi tới nữa.
Là người đứng đầu tờ tuần san của toà soạn báo, Oguri buộc phải có một thái độ rõ ràng về cách xử trí với hiện tượng này. Kết luận mà ông đưa ra là bỏ qua tất cả. Rất có thể kẻ châm ngòi cho hiện tượng này là một tờ tạp chí, mà Oguri vẫn thường chê là lá cải. Và việc xảy ra sự thể bất thường ấy chẳng qua là hậu quả của lối chèo kéo độc giả gửi bài bằng cách cho đăng những bức ảnh và những câu chuyện nghe được ở đâu đó. Tất nhiên, Oguri biết rằng cách giải thích như thế chả thuyết phục được ai. Nhưng Oguri vẫn phải đưa ra một lập luận thật hợp lý để giải quyết vụ này.
Kể từ ấy, biên tập viên dưới quyền Oguri bị buộc phải mang các bưu phẩm được gửi đến, vẫn gói kín, đi hủy ở lò đốt. Đối với bên ngoài, ông ta tỏ thái độ như chưa từng có gì xảy ra, và tất nhiên, quyết định đóng cửa và làm ngơ với mọi thứ có liên quan tới chuyện thần bí. Có thể nhờ vậy mà cơn sốt gửi bài vô tiền khoáng hậu cũng dần dịu bớt. Thế mà đúng lúc ấy, Asakawa ngu xuẩn lại theo đuổi một hành vi chẳng khác nào đổ dầu vào ngọn lửa đang sắp tắt. Oguri chòng chọc nhìn vào mặt Asakawa.
... Không lẽ hắn muốn nếm lại vị đắng hai năm trước?
- Này ông.
Mỗi khi không biết phải nói gì, bao giờ Oguri cũng gọi người đối diện là "này ông".
- Tôi thừa biết tổng biên tập đang nghĩ gì rồi.
- Sao nào? Hay thì hay đấy, nhưng rồi ai biết sẽ lòi ra chuyện quái quỷ gì. Mà này, cậu chưa quên cái vụ lần trước chứ, lại là nó nữa thì tôi đi đời.
Lần trước... Oguri vẫn tin rằng cơn sốt chuyện thần bí hai năm trước là do một kẻ nào đó cố ý gây nên. Những chuyện thần bí đã khiến Oguri vô cùng khốn đốn, vì vậy ông ta căm ghét chúng và định kiến về chúng.
- Không, tôi không định đề cập đến tính thần bí. Tôi chỉ muốn nói rằng trên đời này không thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên như thế mà thôi.
- Ngẫu nhiên...
Oguri chống tay lên má và một lần nữa sắp xếp lại câu chuyện.
... Oishi Tomoko, cháu gái gọi vợ Asakawa bằng dì, chết tại nhà riêng ở Honmonku lúc mười một giờ đêm ngày mùng 5 tháng Chín. Nguyên nhân được xác định là do suy tim cấp tính. Trong khi cô bé mới mười bảy tuổi và là học sinh năm thứ ba trung học. Cùng giờ đó, ngày đó, ở trước cửa ga JR Shinagawa, một cậu học sinh trường dự bị, mười chín tuổi, cũng chết do nhồi máu cơ tim trong lúc đang ngồi trên môtô chờ đèn đỏ.
- Tôi thì chỉ thấy đây đơn giản là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Chẳng qua vì cậu vô tình nhớ lại cái chết của cô cháu vợ lúc nghe câu chuyện của tay tài xế taxi kia thôi.
- Thưa tổng biên tập. – Asakawa gây sự chú ý của Oguri. – Tôi chỉ muốn lưu ý rằng cậu thanh niên đi trên chiếc môtô trước lúc chết đã cố vật lộn để gỡ cái mũ đó ra.
- Thế thì sao?
- Lúc phát hiện ra xác Tomoko, người ta thấy trên các ngón tay của nó quấn đầy tóc, hẳn là nó đã tự vò bứt đầu mình.
Asakawa có gặp Tomoko một vài lần. Cô bé thật đúng là nữ sinh trung học, lúc nào cũng chăm chút cho mái tóc và chưa bao giờ quên gội đầu vào buổi sáng. Một cô gái như thế có lẽ nào lại tự dứt ngần ấy những lọn tóc quý giá của mình đi? Gã không biết chân tướng của cái đã khiến cô bé phải làm như vậy. Mỗi lần nghĩ tới cảnh tượng Tomoko đang gắng hết sức để rứt đứt những sợi tóc của mình, Asakawa lại hình dung ra cái bóng của một thứ không thể nhìn thấy.
- Chả biết ra sao nữa. Mà này ông tướng, có thể ông suy diễn quá rồi đấy. Nếu cố lục tìm thì vụ án nào chả có những tình tiết giống nhau. Hai nạn nhân đều chết vì bệnh tim kịch phát phải không nào? Vậy thì đương nhiên là đau đớn rồi. Nên hành động vò đầu hay cố gắng cởi mũ bảo hiểm ra, tưởng là lạ, nhưng lại rất hợp lẽ thường.
Mặc cho trong bụng thừa nhận là có khả năng đó, Asakawa vẫn lắc đầu. Gã không thể để bị thuyết phục dễ dàng như vậy.
- Nhưng thưa tổng biên tập, nếu là tim thì sẽ đau ở ngực, tại sao lại vò đầu?
- Thế cậu đã bị trụy tim cấp bao giờ chưa?
- Dạ chưa...
- Thế đã hỏi bác sĩ chưa?
- Hỏi gì cơ ạ?
- Hỏi xem những người bị trụy tim cấp có vò đầu không.
Asakawa đành im lặng. Thực ra gã đã hỏi. Và gã được trả lời rằng: "Cũng có thể có những hiện tượng như vậy. Còn trường hợp ngược lại thì nhiều, nghĩa là khi người ta bị đau đầu do xuất huyết dưới màng nhện hoặc xuất huyết não, người ta đồng thời cũng thấy khó chịu ở vùng bụng." Một câu trả lời nước đôi.
- Tóm lại là mỗi người sẽ phản ứng khác nhau trước cùng một sự việc. Khi không giải được một bài toán, có người sẽ vò đầu, còn người khác sẽ hút thuốc. Chưa biết chừng có kẻ còn ôm bụng.
Oguri vừa nói vừa xoay tròn chiếc ghế đang ngồi.
- Thôi, tóm lại là chưa thể kết luận gì vào lúc này. Không có chỗ cho bài của cậu đâu đấy. Rõ chưa nào? Cậu chưa quên bài học hai năm trước chứ. Dính dáng vào những chuyện kiểu ấy không thể bất cẩn được. Cậu muốn viết thì cứ việc mà viết thôi.
Rất có thể là như vậy. Rất có thể đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên đúng như lời của tổng biên tập. Nhưng lý giải sao cái nghiêng đầu nghĩ ngợi của vị bác sĩ vào lúc cuối? Đáp lại câu hỏi của gã rằng, người ta có rứt tóc mình một tiếng không rõ ràng. Nét mặt ấy nói lên rằng, ít nhất thì trong các bệnh nhân mà ông ta đã từng khám chưa có ca nào như thế.
- Tôi hiểu.
Lúc này, gã chỉ còn cách ngoan ngoãn thu binh. Khó mà có thể thuyết phục nổi tổng biên tập nếu không tìm thấy mối liên hệ khách quan giữa hai vụ tai nạn. Nếu không tìm ra, chừng ấy ta sẽ im lặng rút lui, Asakawa quyết định như thế.
 
Gác ống nghe lên và giữ nguyên tay ở tư thế ấy, Asakawa không buồn nhúc nhích. Cái cảm giác không thể chịu nổi khi gã nhớ lại giọng nói sặc mùi xu nịnh của mình hòng làm vừa lòng kẻ ở đầu dây bên kia. Thoạt đầu, kẻ đó nhận ống nghe từ tay thư ký với thái độ cực kỳ hống hách, nhưng sau khi nghe kỹ kế hoạch của gã, hắn dần dịu giọng. Có lẽ lúc đầu hắn nhầm tưởng đấy là một lời mời quảng cáo. Nhưng rồi bộ óc hắn bắt đầu hoạt động rất nhanh, hắn tính ngay được cái lợi rằng bài báo sẽ viết về hắn.
Loạt bài phỏng vấn với tựa đề Top Interview bắt đầu được đăng tải từ tháng Chín, nhắm tới những vị giám đốc công ty đã tự mình dựng lên cơ nghiệp để viết về những gian truân và nỗ lực của họ. Đáng lẽ Asakawa phải lấy làm thoả mãn khi đặt ống nghe xuống vì đã xin được cuộc hẹn, thế mà tâm trạng gã lại rất nặng nề. Gã biết trước rằng thứ nghe được từ cái tay mạt hạng ấy sẽ lại là những câu chuyện cũ rích kiểu như tôi đây đã phải khốn khó thế nào, đã vận dụng tài trí và nắm bắt cơ hội ra sao để có được thành công như ngày hôm nay vân vân và vân vân, và nó sẽ tiếp tục cho đến bất tận nếu gã không đứng dậy xin phép ra về. Gã ngán ngẩm. Gã thù kẻ nào đã đưa ra cái ý tưởng chết tiệt này. Mặc dù gã rất hiểu quảng cáo là cần thiết cho sự sinh tồn của một tờ tạp chí, và những bài báo kia sẽ có ích cho việc đó, nhưng gã chẳng mấy quan tâm được làm một công việc có nghĩa lý, chỉ vậy thôi. Thường thì những công việc không cần tới trí tưởng tượng có thể nhẹ nhàng về thể xác, nhưng sẽ nặng nhọc về tinh thần.
Asakawa hướng tới phòng lưu trữ nằm trên tầng bốn. Tất nhiên gã cần một số tư liệu cho cuộc phỏng vấn ngày mai, nhưng còn có thứ khiến gã bận tâm hơn nhiều. Đó là mối liên hệ giữa hai vụ tai nạn. Một câu hỏi chợt nảy ra trong óc gã. Gã chưa biết phải bắt đầu từ đâu, nhưng nó đến đúng vào cái tích tắc mà gã vừa gạt giọng nói của tay giám đốc mạt hạng ra khỏi đầu mình.
... Có chắc là chỉ có hai cái chết bất ngờ không rõ nguyên nhân xảy ra vào lúc mười một giờ đêm ngày mùng 5 tháng Chín?
Nếu không phải vậy, nghĩa là nếu có vụ tai nạn nào đó tương tự như thế xảy ra, thì xác suất của sự ngẫu nhiên gần như bị triệt tiêu. Asakawa quyết định kiểm tra lại các số báo ra vào đầu tháng Chín. Khi xem báo, thường thì gã đọc rất kỹ các mục kinh doanh, còn trang xã hội, gã chỉ lướt qua dòng tít rồi lật ngay sang trang khác, nên khả năng bỏ sót một điều gì đó là rất lớn. Linh cảm mách bảo gã thế. Nó luẩn quẩn trong đầu gã. Gã nhớ mang máng rằng cách đây chừng một tháng gã có bắt gặp một dòng tít khá lạ được đăng ở một góc rất nhỏ của trang xã hội. Bài báo ấy nằm ở góc dưới cùng bên tay trái... Gã chỉ còn nhớ vị trí của nó. Lúc ấy, gã có chú ý tới dòng tít khi lướt qua nó, nhưng tiếng gọi cắt ngang của tay phụ trách đã giật gã ra khỏi bài báo, và rồi, gã đã quên bẵng mất nó trong sự bộn bề của công việc.
Asakawa bắt đầu từ tờ buổi sáng ra ngày mùng 6 tháng Chín. Gã hồi hộp như một đứa trẻ đi tìm kho báu vì tin chắc rằng mình sẽ lần ra manh mối. Không hiểu sao cái công việc ngồi lục lại đống sách báo cách đây gần một tháng trong căn phòng lưu trữ tối tăm lại khiến gã hào hứng đến thế, thứ cảm giác mà cuộc phỏng vấn tay giám đốc vớ vẩn kia không thể đem đến. So với việc lao ra ngoài, tất bật gặp gỡ người này người nọ, thì công việc này hợp với gã hơn.
Tờ buổi chiều phát hành ngày mùng 7 tháng Chín... bài báo cần tìm nằm ở đúng vị trí mà Asakawa đã nhớ. Bị đẩy xuống dưới đoạn tin về một vụ tai nạn trên biển làm ba mươi tư người chết, diện tích của nó trên trang báo nhỏ hơn gã tưởng tượng khá nhiều. Thế này thì bị bỏ qua cũng là dễ hiểu. Asakawa với lấy đôi kính gọng bạc rồi cúi sát mặt vào tờ báo và đọc kỹ từng câu, không để sót chữ nào.
HAI CÁI CHẾT KHÔNG BÌNH THƯỜNG CỦA MỘT ĐÔI TRAI GÁI TRẺ TRÊN XE Ô TÔ
Khoảng 6 giờ 15 phút sáng ngày mùng 7, một người lái xe tải hạng nhẹ đã tìm thấy xác chết của một đôi nam nữ trẻ trên băng ghế trước của chiếc xe bốn chỗ khi chiếc xe này đang đỗ tại khu đất trống ven đoạn tỉnh lộ đi qua Ashina, thị trấn Yokosuka. Người này đã báo tin cho cảnh sát Yokosuka.
Qua kiểm tra biển số, cảnh sát xác nhận đôi trai gái thiệt mạng là một nam học sinh trường dự bị (19 tuổi) ở quận Shibuya, thành phố Tokyo và một nữ học sinh trường trung học nữ tư thục (17 tuổi) ở quận Isogo, Yokohama. Chiếc xe do nạn nhân nam thuê tại quận Shibuya vào buổi chiều hai ngày trước.
Lúc được tìm thấy, chiếc xe đang bị khoá và chìa khoá vẫn cắm ở chế độ ignition (chế độ đánh lửa). Thời điểm tử vong theo suy đoán là vào khoảng nửa đêm ngày mùng 5 cho tới rạng sáng ngày hôm sau. Với tình tiết cửa kính xe đóng kín cảnh sát cho rằng các nạn nhân có thể đã chết ngạt do ngủ quên, và cũng không loại trừ khả năng đây là một vụ tự tử tập thể bằng thuốc, tuy nhiên nguyên nhân cái chết chưa được làm rõ. Cảnh sát không coi đây là một vụ giết người.
Bài báo chỉ có vậy nhưng quả nhiên đã làm Asakawa phấn chấn. Trước hết, nạn nhân nữ trong vụ án rất giống với cô cháu gái Tomoko, cùng là học sinh tại một trường trung học nữ tư thục ở Yokohama và cùng mười bảy tuổi. Còn nạn nhân nam thuê xe ôtô thì giống hệt với cậu thanh niên tử nạn trước cửa ga Shinagawa, cùng là học sinh trường dự bị và cùng độ tuổi mười chín. Thời điểm tử vong cũng gần như đồng nhất. Thêm nữa, nguyên nhân của các cái chết đều không rõ ràng.
Bốn cái chết này nhất định phải có một điểm chung mang tính quyết định. Để tìm ra nó chắc sẽ không mất nhiều thời gian đến vậy. Dù gì, gã cũng đang làm việc trong một hãng thông tấn lớn, thông tin thì gã không thiếu. Sao xong bài báo, gã định ghé qua toà soạn một lát. Với tâm trạng thoả mãn của một kẻ vừa đào trúng mỏ vàng vĩ đại, bước chân Asakawa mỗi lúc một nhanh hơn, gã thậm chí còn cảm thấy sốt ruột ngay cả khi chờ thang máy.
Câu lạc bộ báo chí toà thị chính Yokosuka. Yoshino đang ngồi bên chiếc bàn chuyên dụng và lia bút trên những trang bản thảo. Nếu đường cao tốc không đến nỗi đông thì đi từ trụ sở ở Tokyo tới đây chỉ mất chừng một giờ đồng hồ. Asakawa đến sau lưng Yoshino rồi cất tiếng.
- Anh Yoshino.
Gã không gặp mặt Yoshino đã một năm rưỡi nay.
- Ái chà, Asakawa. Sao? Tiếng gọi nào đã đưa cậu tới cái xó Yokosuka này thế. Mà ngồi đi đã.
Yoshino kéo chiếc ghế trống về phía Asakawa. Bộ mặt tua tủa những râu khiến người khác dễ có ấn tượng về một kẻ bất lịch sự, song ngược lại, Yoshino khá chu đáo.
- Bận chứ hả?
- Vâng, cũng vẫn vậy.
Asakawa biết Yoshino dạo vẫn còn làm ở ban xã hội, Yoshino vào ban đó trước Asakawa ba năm, năm nay ba mươi lăm tuổi.
- Em hỏi ban tin tức của Yokosuka thì được biết anh đang làm ở đây, thế nên...
- Sao? Định nhờ vả gì thằng này?
Asakawa chìa ra bài báo vừa copy lúc trước. Yoshino nhìn như dán mắt vào đó suốt một lúc lâu, lâu đến khác thường. Tự tay mình viết ra đáng lẽ chẳng cần đọc kỹ đến vậy cũng phải nắm được hết nội dung, đằng này Yoshino lại tập trung toàn bộ thần kinh vào đó, tới mức quên cả món lạc rang khoái khẩu đang định đưa lên miệng. Anh ta thong thả nhâm nhi từng câu từng chữ, cứ như thể muốn tiêu hoá tất cả bọn chúng trong dạ dày.
- Rồi, cậu muốn gì?
Nét mặt Yoshino trở nên nghiêm túc.
- À, em muốn hỏi kỹ thêm một chút.
Yoshino đứng dậy.
- Thế thì qua bên kia vừa uống trà vừa nói chuyện.
- Anh có bận gì không?
- Không sao, chuyện này thú vị hơn.
Ngay cạnh toà thị chính có một cái quán nhỏ, cà phê ở đây hai trăm yên một cốc. Yoshino vừa ngồi vào chỗ liền ngoái ra quầy phục vụ gọi lớn: cho hai ly cà phê. Sau đó, anh ta quay lại và rướn sát người về phía Asakawa.
- Cậu nghe này, tớ làm ở ban xã hội ngót nghét mười hai năm trời, trong mười hai năm ấy tớ đã từng gặp không biết bao nhiêu vụ án. Nhưng mà, thú thực, tớ chưa bao giờ gặp phải một vụ quái thế này đâu.
Nói đến đây Yoshino nhấp một ngụm nước rồi tiếp tục.
- Này, Asakawa, hay là mình trao đổi nhá. Cậu đang làm ở toà soạn, sao lại biết vụ này mà điều tra?
Chưa thể nhả ra vào lúc này được. Asakawa muốn đây là nguồn tin độc của gã. Nếu để lộ cho một tay cáo già như Yoshino biết thì sớm muộn gã cũng sẽ bị hất cẳng và thành quả của gã sẽ đi đời. Asakawa tặc lưỡi nói dối.
- Có gì ghê gớm đâu ông anh. Con nhóc chết trong vụ này là bạn của đứa cháu gái em, nó hỏi han nhiều quá nên nhân tiện xuống đây em định hỏi hộ nó một chút...
Một câu nói dối non nghề. Sau thoáng lộ ra ánh mắt loé lên đầy nghi hoặc, Yoshino giận dỗi từ từ thu người lại.
- Thật không đấy?
- Anh thấy đấy, nó là nữ sinh cấp ba, bạn chết đã là cái gì ghê gớm lắm rồi, đằng này lại chết một cách bí ẩn như thế, đâm ra nó cứ hỏi này nọ... Anh giúp em đi. Cho em biết chi tiết một chút.
- Rồi, cậu muốn biết những gì?
- Sau đó có xác định được nguyên nhân cái chết không?
Yoshino lắc đầu.
- Chưa, họ nói rằng do tim ngừng đập đột ngột, nhưng tại sao nó xảy ra thì không ai biết.
- Có dấu hiệu giết người không? Như là bị bóp cổ chẳng hạn?
- Không hề. Không có vết bầm trên cổ.
- Thế còn thuốc ngủ...
- Có mổ tử thi nhưng không phát hiện được gì.
- Thế nghĩa là vụ án này vẫn chưa được giải quyết...
- Thôi nào, giải quyết cái con khỉ. Có phải vụ án giết người đâu. Kết luận là tử bệnh, hoặc tử nạn, thế thôi. Đương nhiên cũng chả có tổ điều tra nào hết.
Yoshino trả lời một cách cắm cảu và đang tựa mình vào lưng ghế.
- Tại sao lại phải giấu tên nạn nhân?
- Vị thành niên... Hơn nữa cũng có nghi vấn về một vụ tự tử tập thể.
Nói đến đó, như chợt nhớ ra điều gì Yoshino bật cười rồi vươn người về trước.
- Thằng con trai ấy, quần bò và quần sịp của nó lúc đó đang tụt xuống quá đầu gối. Quần lót của đứa con gái cũng thế.
- Nghĩa là chúng đang làm ch.uyện ấy?
- Chưa đâu, đang chuẩn bị. Sắp đến màn kịch chính thì...
Bốp! Yoshino vỗ hai tay vào nhau.
- Có một cái gì đó đã xảy ra.
Yoshino dùng thứ ngữ điệu đưa người nghe lên đến cao trào.
- Này Asakawa, nói thật đi. Cậu nắm được manh mối của vụ này rồi phải không...
- ...
- Tớ sẽ giữ bí mật. Đừng nghĩ tớ nẫng tay trên của cậu. Chỉ vì tớ thấy quan tâm, thế thôi.
Asakawa im lặng.
- Tớ đang muốn nghe đến phát rồ cả người lên đây này.
Gã thử nghĩ rồi, nhưng không được. Chưa nên tiết lộ vào lúc này. Tuy nhiên nói dối sẽ không qua được mắt Yoshino.
- Anh Yoshino, cho em xin lỗi. Anh chờ thêm ít nữa được không. Em chưa thể nói được điều gì cả. Trong hai, ba hôm nữa em sẽ gọi cho anh, em hứa đấy.
Vẻ thất vọng hiện lên trên nét mặt Yoshino.
- Chậc, cậu đã nói vậy thì thôi...
Asakawa hướng ánh mắt đầy khẩn khoản về phía Yoshino hòng giục anh ta tiếp tục câu chuyện.
- Chỉ có thể phỏng đoán là đã có điều gì đó xảy ra. Làm sao mà một đôi trai gái lại chết ngạt đúng vào lúc định làm ch.uyện ấy? Cóc phải chuyện cười đâu nhé. Cũng có lập luận cho rằng đúng lúc ấy thì chất độc trong thuốc mà bọn chúng uống trước đó bắt đầu phát tác, nhưng lại không phát hiện thấy gì cả... Tất nhiên cũng có những loại độc dược không phản ứng với các xét nghiệm, nhưng một đứa học sinh trường dự bị với một đứa học sinh trung học dễ đâu mà mua được những thứ như vậy.
Yoshino nhớ lại địa điểm phát hiện ra chiếc xe. Vì anh ta đã đến đó nên ấn tượng đọng lại còn khá rõ ràng. Ven đoạn tỉnh lộ chưa trải nhựa chạy từ Ashina lên đỉnh Okusu có một bãi đất trống cây cối um tùm nằm lọt trong một khe núi nhỏ. Những người đi ngược lên núi có thể thoáng thấy đuôi xe của nạn nhân đậu thò ra ngoài. Thật không khó tưởng tượng tại sao cậu học sinh trường dự bị lại đậu xe ở một nơi như thế. Đoạn đường hầu như không có xe cộ qua lại vào ban đêm, cộng với tán cây trên núi xờ ra che kín chẳng khác nào một mật thất lý tưởng cho những cặp tình nhân ít tiền.
- Rồi sao cậu biết không? Hai cái xác chết ấy, thằng con trai thì trong tư thế như cố ấn đầu mình vào giữa vô lăng và cửa kính, còn đứa con gái thì cố vùi đầu mình vào giữa ghế trước và cánh cửa xe. Chính mắt tớ chứng kiến cảnh hai cái xác được đưa ra khỏi xe. Lúc cánh cửa xe vừa bật mở thì mỗi cái xác liền đổ về mỗi phía. Cứ như ngay trước lúc chết chúng đã bị ép bởi một lực rất mạnh từ bên trong, rồi cứ như sức ép ấy vẫn còn nguyên ngay cả sau khi đã chết mười ba tiếng đồng hồ, chúng bật mạnh ra như có một lực đàn hồi lúc tay nhân viên điều tra mở cánh cửa. Mà cậu nghe này, kiểu xe ấy là kiểu hai cửa, nó được chế tạo để không thể khoá được cửa từ bên ngoài nếu để chìa khoá ở bên trong. Và chìa khoá thì vẫn cắm nguyên ở chế độ ignition (chế độ đánh lửa)..., cửa xe bị khoá... cậu có hiểu như thế là thế nào không? Nghĩa là chiếc xe giống như một mật thất hoàn hảo. Khó có thể nghĩ tới một lực tác động từ bên ngoài. Còn nữa, cậu có biết khuôn mặt của bọn chúng trông thế nào không? Cả hai, đều sợ hãi cực độ. Hai bộ mặt biến dạng vì sợ.
Yoshino ngừng một lát. Có tiếng nuốt nước bọt. Là của Asakawa hay Yoshino?
- Cậu thử nghĩ coi. Nếu ta đặt giả thiết rằng có một con thú đáng sợ từ trong rừng lao ra, thế thì chúng phải nép vào nhau mới phải chứ. Cho dù thằng con trai không làm thế đi nữa thì đứa con gái nhất định sẽ sáp lại gần thằng con trai. Gì thì gì bọn chúng là người yêu cơ mà. Đằng này, cả hai đều cố dán lưng về phía cửa, cứ như muốn tránh thật xa nhau ra vậy.
Yoshino giơ hai cánh tay lên trời.
- Chịu chết, chẳng biết chuyện quái gì đang xảy ra nữa.
Đáng lẽ bài báo này đã có một diện tích lớn hơn nếu không có vụ tai nạn ngoài khơi Yokosuka. Và như thế, chắc chắn nó đã biến thành một ô chữ suy luận dành cho những độc giả mê trò trinh thám. Nhưng... có một thứ không khí đang bao trùm lên những người có mặt ở hiện trường lúc ấy, kể cả đội điều tra. Bầu không khí ấy khiến chẳng một ai trong số họ dám nói ra, mặc cho nó đã bật lên đến cuống họng, cái điều mà tất cả bọn họ đều đang cùng nghĩ tới. Chẳng ai tin một đôi trai gái lại có thể chết vào cùng một thời điểm vì bệnh tim kịch phát, song tất cả bọn họ đều tự thuyết phục mình bằng những căn cứ khoa học gượng gạo. Không nói ra không phải họ sợ bị kẻ khác nhạo báng là nhảm nhí, phi khoa học; mà họ sợ một thứ gì đó khủng khiếp hơn, vượt qua cả sức tưởng tượng, sẽ tìm đến họ khi công nhận điều đó. Chi bằng, cứ vin vào một cách giải thích khoa học, dù chẳng thuyết phục gì, lại hơn.
Asakawa và Yoshino đồng thời thấy cái lạnh chạy dọc sống lưng. Cả hai đều đang nghĩ tới một điều. Sự im lặng hồi lâu giữa họ là để cùng xác nhận một dự cảm nào đó vừa loé lên trong trực giác. Sự việc chưa hề kết thúc, nó mới chỉ bắt đầu. Loài người, về căn bản, cho dù được trang bị một lượng kiến thức khoa học lớn đến đâu cũng vẫn sẽ tin rằng, có một dạng tồn tại nào đó không thể giải thích được bằng các phương pháp khoa học.
- Lúc phát hiện ra xác chết, tay nạn nhân để ở đâu? – Asakawa đường đột hỏi.
- Trên đầu..., à không, đúng hơn là hai bàn tay nạn nhân giống như đang ôm lấy mặt.
- Có tự rứt tóc mình không, như thế này này?
Asakawa lấy tay bứt mớ tóc làm mẫu.
- Nghĩa là sao?
- Nghĩa là nạn nhân có vò đầu rồi rứt tóc mình không?
- Không, tớ nghĩ là không.
- Vậy à. Anh Yoshino này, cho em xin tên và địa chỉ của hai nạn nhân được không?
- Được chứ sao. Nhưng mà này ông mãnh, chớ quên lời hứa đấy.
Nhìn Asakawa vừa cười vừa gật đầu, Yoshino đứng dậy, mạnh tới nỗi làm chiếc bàn rung lên và cà phê tràn cả ra đĩa. Suốt buổinói chuyện, Yoshino chưa hề chạm môi tới chiếc cốc.
 
Asakawa định bụng sẽ tranh thủ những lúc rảnh rỗi để điều tra về bốn cái chết ấy, nhưng công việc ngập đầu khiến cho ý định của gã không được như mong đợi. Cứ như thế, một tuần trôi qua rồi một tháng mới bắt đầu, mùa thu mỗi lúc một thêm rõ nét, cả cái oi ả của tháng Tám mưa triền miên cùng cái nóng dậm dật của tháng Chín như muốn giữ chân mùa hạ lại đều dần trở thành những ký ức xa xôi. Chẳng có gì xảy ra trong khoảng thời gian này. Suốt từ dạo ấy, gã để mắt tới mọi ngóc ngách của trang xã hội nhưng không bắt gặp thêm một vụ án nào tương tự. Hay là có điều gì đó rất đáng sợ đang tiến triển mà Asakawa không nhìn thấy? Tuy nhiên, càng lúc gã càng muốn tin rằng bốn cái chết có thể chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên chứ chẳng có mối liên hệ nào cả. Gã cũng không gặp lại Yoshino. Có thể, Yoshino cũng không còn nhớ gì nữa. Bởi nếu nhớ, hẳn anh ta đã liên lạc với Asakawa.
Mỗi lần thấy lòng nhiệt tình trong mình giảm sút, Asakawa thường lấy từ trong túi ra bốn lá bài để nhắc nhở mình rằng đó không thể là sự ngẫu nhiên. Trên từng lá bài, gã viết lên đó những chi tiết cần thiết như tên và địa chỉ của mỗi nạn nhân, còn khoảng trống bên dưới, gã dành để ghi chép những hoạt động từ tháng Tám đến tháng Chín hoặc tiểu sử của bốn nạn nhân và những thông tin khác thu thập được:
LÁ BÀI THỨ NHẤT:
OISHI TOMOKO
Sinh ngày 21 tháng 10 năm 1972
Học sinh lớp 12 trường Nữ sinh Tư thục Keisei, 17 tuổi
Địa chỉ: 1-7 Motomachi, Honmoku, Quận Naka, TP. Yokohama
Chết vào khoảng 11 giờ đêm ngày mùng 5 tháng Chín trong bếp tầng một tại nhà riêng trong lúc bố mẹ đi vắng.
Nguyên nhân - suy tim cấp.
LÁ BÀI THỨ HAI:
IWATA SHUICHI
Sinh ngày 26 tháng 05 năm 1971
Học sinh năm thứ nhất trường Dự bị Eishin, 19 tuổi
Địa chỉ: 1-5-23 Nishi-nakanobu, Quận Shinagawa
Chết do ngã xe vào lúc 10 giờ 54 phút tối ngày mùng 5 tháng Chín tại ngã tư trước cửa ga Shinagawa.
Nguyên nhân - nhồi máu cơ tim.
LÁ BÀI THỨ BA:
TSUJI HARUKO
Sinh ngày 12 tháng 01 năm 1973
Học sinh lớp 12 trường Nữ sinh Tư thục Keisei, 17 tuổi
Địa chỉ: 5-19 Mori, Quận Isogo, TP. Yokohama
Chết vào khoảng từ nửa đêm ngày mùng 5 tháng Chín cho tới rạng sáng hôm sau trong xe ô tô, đoạn ven tỉnh lộ dưới chân núi Okusu.
Nguyên nhân – suy tim cấp.
LÁ BÀI THỨ TƯ:
NOMI TAKEHIKO
Sinh ngày 04 tháng 12 năm 1970
Học sinh năm thứ hai trường Dự bị Eishin, 19 tuổi
Địa chỉ: 1-10-4 Uehara, Quận Shibuya
Chết vào khoảng từ nửa đêm ngày mùng 5 tháng Chín cho tới rạng sáng hôm sau trong xe ô tô, đoạn ven tỉnh lộ dưới chân núi Okusu.
Nguyên nhân - suy tim cấp.
Oishi Tomoko và Tsuji Haruko là bạn cùng trường trung học, Iwata Shuichi và Nomi Takehiko là bạn cùng trường dự bị, điều này đã rõ ràng khỏi phải xác minh. Thêm nữa, việc Tsuji Haruko và Nomi Takehiko đi chơi bằng xe hơi tới núi Okusu, Yokosuka đêm ngày mùng 5 tháng Chín là bằng chứng nói lên rằng, hai đứa trẻ này nếu không yêu nhau thì ít ra cũng là một cặp chơi bời. Qua dò hỏi, gã cũng nghe trong đám bạn bè của Tsuji Haruko đồn rằng cô nàng có giao du với một cậu học sinh trường dự bị. Chỉ có điều, gã chưa biết chúng quen nhau từ bao giờ và như thế nào. Theo cách đó, đương nhiên sẽ có một câu hỏi được đặt ra: phải chăng Oishi Tomoko và Iwata Shuichi cũng yêu nhau? Tuy nhiên gã tìm kiếm mãi mà chưa thấy bằng chứng nào xác nhận điều này. Hoặc giả cũng có thể Oishi Tomoko và Iwata Shuichi chưa gặp nhau bao giờ. Vậy thì sợi dây liên hệ giữa chúng rốt cuộc nằm ở đâu? Không thể phủ nhận mối quan hệ quá mức gần gũi giữa bốn đứa trẻ này cho dù có đặt giả thiết rằng kẻ sát nhân giấu mặt chọn các nạn nhân một cách ngẫu nhiên. Hay là bốn nạn nhân bị giết vì một bí mật mà không ai ngoài bọn chúng biết?... Không, Asakawa thử tư duy khoa học hơn một chút. Có thể bốn nạn nhân đã nhiễm phải một loại virus tấn công vào tim ở cùng một nơi và vào cùng một thời điểm.
... Vớ vẩn.
Asakawa lắc đầu trong lúc vẫn bước đi.
... Có hay không một loại virus gây suy tim cấp?
Virus, virus! Asakawa vừa bước lên cầu thang vừa lẩm bẩm từ đó hai lần. Thế rồi gã đổi ý, gã thấy trước hết cần phải dùng phương pháp khoa học để giải thích. Gã quyết định đặt giả thiết rằng có sự tồn tại của một loại virus gây ra bệnh tim kịch phát. Nó có vẻ thực tế hơn giả thiết về một sức mạnh siêu nhiên, vả lại đỡ lo bị chê cười nếu đem kể với người khác. Cho dù loại virus này hiện nay chưa được tìm thấy trên trái đất thì cũng không thể loại bỏ khả năng nó trú ngụ trong một tảng thiên thạch vừa mới rơi xuống từ vũ trụ. Hoặc rất có thể nó đã rò rỉ ra từ một chương trình phát triển vũ khí sinh học. Phải rồi, trước hết gã sẽ thử coi đó là một chủng virus. Tất nhiên, như thế cũng không giúp gã trả lời được tất cả những điểm nghi vấn. Tại sao cả bốn nạn nhân đều chết với vẻ mặt hãi hùng đến thế? Tại sao Tsuji Haruko và Nomi Takehiko lại chết trong tư thế như cố muốn tránh xa nhau trong một chiếc xe chật hẹp như thế? Tại sao khi khám nghiệm tử thi lại không phát hiện ra điều gì? Nếu đặt giả thiết rằng có việc rò rỉ vũ khí sinh học thì nghi vấn thứ ba sẽ được giải quyết rất đơn giản. Đó là do lệnh cấm tiết lộ thông tin đã được ban ra.
Nếu suy luận theo giả thiết này thì rõ ràng đây là loại virus không lây truyền qua không khí vì không thấy xuất hiện thêm nạn nhân nào nữa. Nó là chủng virus lây qua đường máu giống AIDS hay là một chủng rất khó lây? Và chi tiết quan trọng nhất là bốn nạn nhân đã nhiễm ở đâu? Gã cần phải một lần nữa rà soát lại hoạt động của bọn trẻ suốt từ tháng Tám đến tháng Chín để tìm ra thời gian và địa điểm cùng lúc có mặt cả bốn đứa. Nhưng không hề đơn giản khi mà tất cả các đương sự đều đã bị bịt miệng. Nếu đó là bí mật chỉ của bốn đứa trẻ và không một ai kể cả cha mẹ và bạn thân của chúng biết được thì chẳng còn cơ hội nào dành cho gã. Nhưng, chắc chắn, vào một thời gian nào đó, ở một địa điểm nào đó, bốn đứa đã từng chung nhau một thứ gì đó.
Ngồi xuống trước máy đánh chữ, Asakawa tạm thời gạt lũ virus không rõ chân tướng ấy ra khỏi đầu mình. Gã rút cuốn sổ ghi chép và nhanh chóng tổng hợp lại nội dung đoạn băng cassette phỏng vấn ban nãy. Gã phải hoàn tất bài báo trong ngày hôm nay. Vì ngày mai, Chủ nhật, gã sẽ cùng với Shizu, vợ gã, tới chơi nhà bà chị vợ Oishi Yoshimi. Gã muốn tận mắt nhìn thấy hiện trường nơi Tomoko thiệt mạng và tự mình cảm nhận lấy bầu không khí ấy nếu nó vẫn còn ở đó. Chuyến đi Honmoku lần này còn là dịp để an ủi người chị gái vừa mất đi đứa con duy nhất nên Shizu đồng ý ngay, nhưng tất nhiên cô không hề biết dụng ý thật của chồng.
Asakawa bắt đầu gõ lên bàn phím trong khi đề cương của bài báo chưa kịp định hình hẳn trong đầu.
 
Đã một tháng rồi Shizu, vợ Asakawa, mới gặp lại cha mẹ. Kể từ sau ngày đứa cháu ngoại Tomoko chết đi, cứ đến ngày nghỉ hai ông bà lại từ Ashikaga lên Tokyo động viên con gái. Mãi hôm nay Shizu mới biết việc đó. Lòng cô đau nhói khi nhìn thấy cha mẹ già với nỗi buồn khắc sâu trên gương mặt tiều tụy. Trước chuyện này, hai ông bà có ba đứa cháu: Tomoko, con gái của người chị cả Yoshimi; Keinichi, con trai của người chị thứ Kazuko; và Yoko, con gái của vợ chồng Asakawa. Ba cô con gái, mỗi người sinh cho ông bà một đứa cháu thật ra không phải là nhiều. Vì là đứa cháu đầu tiên nên mỗi lần gặp Tomoko, hai ông bà lại vui cười đến nhăn nheo cả mặt và chiều cháu hết mức. Nhìn sự buồn rầu khôn tả ấy, cô không biết nỗi đau của vợ chồng anh chị với của cha mẹ, nỗi đau nào lớn hơn.
... Một đứa cháu lại có ý nghĩa lớn đến vậy ư?
Năm nay vừa bước sang tuổi ba mươi, Shizu cố gắng thấu hiểu nỗi đau của người chị bằng cách thử đặt mình vào hoàn cảnh đó. Tuy nhiên, dù sao đi nữa, Yoko mới có một tuổi rưỡi, không thể đem so sánh với Tomoko đã gần mười bảy tuổi. Shizu không thể hình dung được, tình yêu sẽ lớn lên như thế nào theo năm tháng.
Đã quá ba giờ chiều, cha mẹ Shizu chuẩn bị trở về Ashikaga.
Shizu rất lấy làm lạ. Một ông chồng cứ mở miệng ra là than bận sao bỗng nhiên lại rủ vợ đến thăm nhà chị gái? Hôm tổ chức lễ tang, chồng cô còn chẳng thể tham dự vì phải viết bài cho kịp hạn nộp. Hơn nữa, đã sắp đến giờ chuẩn bị bữa tối rồi mà chẳng buồn ra về. Chồng cô mới gặp Tomoko một đôi lần, chắc chắn chưa bao giờ nói chuyện thân mật với nhau, vậy thì không thể nào lại bịn rịn thương tiếc đến nỗi khó rời xa như vậy.
- Anh này, mình chuẩn bị về thôi...
Shizu vỗ nhẹ đầu gối và nói nhỏ vào tai Asakawa.
- Yoko có vẻ buồn ngủ rồi đấy. Hay là nhờ anh chị để nó ngủ ở đây một lúc.
Vợ chồng Asakawa mang con gái đi theo. Bình thường thì giờ này là khoảng thời gian ngủ trưa của cô bé. Quả thực là mí mắt của Yoko đã sắp nhíu lại rồi. Thế nhưng nếu để con bé ngủ ở đây, vợ chồng cô sẽ phải lưu lại căn nhà này thêm hai tiếng nữa. Cô không biết phải nói gì trong hai tiếng ấy với vợ chồng người chị vừa mất đi đứa con gái độc nhất.
- Để nó ngủ trong tàu điện cũng được chứ sao? – Shizu hạ thấp giọng.
- Lên tàu nó quấy lắm, lần trước phải khổ với nó rồi, anh chịu thôi.
Mỗi lần buồn ngủ ở chỗ đông người là Yoko lại quấy khóc không sao dỗ dành được. Cô bé vùng vẫy chân tay, la hét ầm ĩ khiến vợ chồng gã rất khó xử. Cách tốt nhất là nựng khéo cho cô bé ngủ, chứ mà nạt nộ thì chẳng khác nào đổ dầu vào lửa. Những lúc ấy, ánh mắt của mọi người xung quanh luôn khiến Asakawa mất bình tĩnh, gã nín lặng với bộ mặt giận dữ như thể kẻ bị quấy rầy nhiều nhất chính là bố mẹ con bé vậy. Bởi Asakawa thấy nghẹt thở vì những tia nhìn đầy trách móc của các hành khách khác. Còn Shizu, vốn rất yếu đuối, cũng chẳng dám nhìn khuôn mặt chồng đang run lên.
- Anh đã nói thế thì thôi...
- Vậy thì nhờ anh chị ấy cho nó ngủ trưa trên tầng hai một lát.
Yoko đang ngủ lơ mơ trong lòng mẹ.
- Để anh lên đặt nó.
Asakawa vừa vuốt má con gái bằng mu bàn tay vừa nói. Là một kẻ hiếm khi chăm sóc trẻ nhỏ, lời nói ấy phát ra từ miệng Asakawa có âm hưởng gì đó rất lạ. Hay gã đã thay đổi tâm tính sau khi nhìn thấy nỗi đau của một người mẹ mất con?
- Hôm nay anh sao thế... Chả bình thường chút nào.
- Không sao, nó sẽ ngủ ngay thôi, đưa đây cho anh.
Shizu truyền con gái cho chồng.
- Giá mà hôm nào cũng được thế này thì tốt.
Lúc đưa từ lòng mẹ sang tay bố, Yoko hơi nhíu mày, nhưng chưa kịp khóc thì cô bé đã chìm ngay vào giấc ngủ. Asakawa ẵm con lên tầng hai. Tầng hai gồm có hai căn phòng kiểu Nhật và một căn phòng kiểu Âu mà Tomoko đã ở lúc trước. Gã khẽ đặt Yoko lên tấm nệm trong căn phòng kiểu Nhật quay ra hướng Nam. Chẳng cần phải nằm cạnh con bé, nó đã chìm sâu vào giấc ngủ với tiếng thở nhẹ nhàng.
Asakawa khẽ rời khỏi căn phòng kiểu Nhật, gã vừa nghe ngóng động tĩnh bên dưới vừa bước vào phòng Tomoko. Gã thấy hơi có lỗi về hành vi xâm phạm cõi riêng tư của người quá cố. Bình thường gã đâu có vậy. Nhưng vì một mục đích lớn lao, và để vạch mặt cái ác, gã không còn cách nào khác. Gã thấy hổ thẹn về gã, kẻ đang định hợp thức hoá hành động của mình bằng những lý do này nọ. Gã đang biện hộ: chú không có ý định viết báo, chú chỉ đang đi tìm những thứ chỉ cho chú biết địa điểm và thời gian mà bốn đứa cháu đã cùng có mặt, tha lỗi cho chú nhé.
Asakawa mở ngăn kéo bàn. Những thứ văn phòng phẩm mà một nữ sinh trung học thường dùng đang nằm đó ngăn nắp. Có ba bức ảnh, một chiếc hộp nhỏ, một phong thư, một quyển sổ ghi chép, và bộ kim chỉ. Liệu bố mẹ con bé có động vào chúng sau khi con bé chết? Không, không có vẻ gì là như thế. Con bé chắc là một người thích sạch sẽ. Giá kể mà tìm được một thứ gì đó giống như nhật ký là nhanh nhất. Ngày x, tháng x, ở xxx, mình đã cùng với Tsuji Haruko, Nomi Takehiko, Iwata Shuichi... Giá mà tìm thấy một vài dòng ghi chép như thế. Asakawa nhanh chóng lật giở những cuốn vở viết lấy từ giá sách. Ở tít trong hốc ngăn kéo gã tìm thấy một quyển nhật ký trông rất nữ tính, nhưng chỉ có mấy trang được viết gọi là, hơn nữa ngày tháng ghi trên đó cách nay đã khá lâu.
Trong chiếc kệ đặt cạnh bàn không có sách, thay vào đấy là một cái tủ trang điểm be bé với hoạ tiết hình hoa màu đỏ. Gã rút ngăn kéo. Rất nhiều đồ trang sức rẻ tiền. Dễ thấy con bé hay làm mất đồ vì chẳng còn mấy đôi hoa tai đủ bộ. Trên chiếc lược bỏ túi còn vương vài sợi tóc.
Lúc gã mở chiếc tủ đựng quần áo được bắt chặt vào tường, một mùi nữ sinh trung học xông lên mũi. Những tấm áo liền váy và váy ngắn có hoa văn nhiều màu ken dày trên mắc. Bố mẹ người đã mất chưa biết phải xử lý ra sao với những bộ quần áo còn vương mùi cô con gái độc nhất. Asakawa lắng tai nghe động tĩnh bên dưới. Rủi mà bị bắt gặp ở đây thì không biết vợ chồng người chị sẽ nghĩ gì về gã. Không có tiếng động. Dường như vợ gã và vợ chồng người chị đang mải chuyện. Asakawa lục tìm từng chiếc túi. Khăn tay, cuống vé xem phim, giấy gói kẹo cao su. Gã sờ thấy băng vệ sinh và ví đựng vé tháng trong cái sắc. Gã nhòm vào trong ví. Một vé tháng đi tuyến Yamate-Tsurumi, một thẻ học sinh, và một thẻ hội viên. Có tên người trên tấm thẻ. Nonoyama XX. Hừm, hai chữ sau đọc là gì nhỉ? Yuki hay Yuuki? Gã không thể đoán được đó là tên đàn ông hay đàn bà. Tại sao lại có một tấm thẻ mang tên người khác ở chỗ này? Có tiếng bước chân đi lên cầu thang. Asakawa cất tấm thẻ vào túi, đút trả chiếc vé vào ví rồi đóng tủ lại. Gã vừa ra đến hàng lang thì cũng là lúc Yoshimi lên đến nơi.
- Tầng hai có nhà vệ sinh không chị?
Asakawa làm ra vẻ như đang ngó nghiêng tìm kiếm, tuy hơi thái quá.
- Ở cuối hàng lang ấy chú ạ.
Người chị không hề tỏ ý nghi ngờ.
- Yoko ngủ ngoan không?
- Dạ, cháu ngủ rồi. Làm phiền anh chị quá.
- Chú nói gì thế.
Người chị vợ khẽ cúi đầu, áp tay lên đai tóc rồi bước vào căn phòng kiểu Nhật.
Vào tới toilet, Asakawa lấy tấm thẻ ra xem. Thẻ Hội viên Câu lạc bộ Pacific Resort. Đấy là tên của tấm thẻ. Phía dưới là họ tên, số hiệu hội viên của Nonoyama XX, và ngày hết hạn. Gã lật mặt sau. Có năm mục cần lưu ý, tên và địa chỉ công ty. Công ty cổ phần Pacific Resort, 3-5 Kojimachi, quận Chiyoda, Tokyo, Tel (03) 261-4922. Nếu tấm thẻ này không phải là đồ nhặt được hay đánh cắp của ai thì có lẽ Tomoko đã mượn nó từ một nhân vật có cái tên Nonoyama. Để làm gì? Tất nhiên là để được sử dụng Khu nghỉ dưỡng Pacific Resort rồi. Nhưng khu nghỉ dưỡng đó ở đâu và Tomoko đã sử dụng nó vào thời gian nào?
Không thể dùng điện thoại của nhà chị vợ, Asakawa viện cớ đi mua thuốc rồi chạy ra bốt điện thoại công cộng trước nhà. Gã quay số.
- Vâng, Pacific Resort xin nghe. - Giọng một cô gái trẻ.
- Xin lỗi, cô có thể làm ơn cho tôi biết những khu nghỉ dưỡng chấp nhận thẻ hội viên của công ty được không?
Vẫn chưa thấy câu trả lời của cô gái. Có lẽ số lượng những khu nghỉ dưỡng như thế nhiều quá nên không thể giải đáp hết bằng miệng.
- À, như thế này đi, cho tôi hỏi những khu có thể nghỉ lại một đêm nếu đi từ Tokyo...
Asakawa nói thêm. Vì nếu cả bốn đứa trẻ đều cùng vắng nhà hai hoặc ba đêm liền thì chắc chắn người lớn sẽ để mắt tới. Gã không phát hiện thấy gì trong suốt cuộc điều tra vừa rồi hẳn là vì chúng đã đến một nơi mà chỉ cần ngủ lại một đêm. Bởi nếu chỉ một đêm, chúng có thể nói dối bố mẹ là tới ngủ ở nhà bạn mà không bị lộ.
- Thưa quý khách, nếu vậy quý khách có thể tới tổ hợp nghỉ dưỡng Pacific Land của chúng tôi ở Nam Hakone.
Cô gái trả lời ngắn gọn.
- Cụ thể là công ty có những dịch vụ giải trí gì?
- Vâng, chúng tôi có sân tennis, sân goft, khu thể thao ngoài trời và cả bể bơi nữa ạ.
- Thế còn chỗ nghỉ?
- Vâng, chúng tôi có khách sạn và khu biệt thự gỗ cho thuê Villa Log Cabin. Chúng tôi sẽ gửi thông tin chi tiết tới quý khách nếu quý khách quan tâm.
- Được như thế thì tốt quá.
Asakawa đóng vai một vị khách, bằng cách ấy gã có thể moi thông tin một cách dễ dàng.
- Thế người bình thường có thể thuê khách sạn hoặc biệt thự ở đấy được không?
- Dạ, được ạ. Tuy nhiên chúng tôi sẽ tính tiền phòng theo mức giá không ưu đãi.
- Vậy à. Thôi được, vậy cô cho tôi xin số điện thoại ở đó đi, tôi sẽ thử tới đó xem sao.
- Quý khách có thể đăng ký đặt phòng tại chỗ chúng tôi.
- À không, cô cho tôi xin số đi, vì có thể trong lúc lái xe qua đó tôi sẽ bất ngờ ghé vào...
- Xin quý khách chờ một lát.
Trong lúc chờ đợi, gã chuẩn bị sẵn cây bút bi và cuốn sổ ghi chép.
- Quý khách đã có giấy bút chưa ạ?
Cô gái trở lại ống nghe và đọc số điện thoại hai lần. Có cả thảy mười một con số vì mã vùng khá dài. Gã nhanh nhẹn ghi lại.
- Cô cho tôi hỏi thêm là ngoài khu đó ra còn có khu nào khác không?
- Chúng tôi còn có hai khu giải trí tổng hợp tương tự như thế ở hồ Hamana và Hamajima thuộc tỉnh Mie.
Xa quá! Đám học sinh trung học và trường dự bị làm sao có đủ tiền đi đến chỗ đó.
- Tôi hiểu, các khu nghỉ dưỡng của công ty đều nhìn ra Thái Bình Dương đúng như tên gọi cô nhỉ.
Sau đó cô gái bắt đầu hồ hởi giải thích rằng nếu trở thành hội viên của Câu lạc bộ Pacific Resort thì sẽ được hưởng những ưu đãi tuyệt hảo như thế nào. Asakawa nghe lấy lệ một lát trước khi cắt ngang:
- Cảm ơn cô, tôi sẽ xem trong tờ giới thiệu của công ty sau. Cô gửi cho tôi theo địa chỉ này nhé.
Asakawa đọc địa chỉ rồi gác máy. Kể mà dư giả tiền bạc thì có khi mình cũng đăng ký hội viên, trong lúc nghe cô gái nọ giới thiệu Asakawa bắt đầu nghĩ thế thật.
Yoko đã ngủ được hơn một giờ, ông bà ngoại cũng đã về Ashikaga. Shizu đang đứng trong bếp rửa bát hộ chị, Yoshimi lại sắp bị những ý nghĩ đau khổ giày vò. Asakawa cũng hăng hái phụ giúp việc dọn dẹp bát đĩa ngoài phòng khách.
- Anh này hôm nay lạ thật đấy. – Shizu nói trong khi vẫn không ngừng tay. – Cho con ngủ, phụ giúp việc bếp núc. Hay là thay đổi tâm tính rồi đấy? Giá mà lúc nào cũng được như thế thì tốt.
 
Asakawa đang mải nghĩ ngợi, gã không muốn bị quấy rầy. Gã muốn vợ gã im miệng đi đúng như cái tên của cô (Shizu trong tiếng Nhật có nghĩa là im lặng). Cách tốt nhất để đàn bà khỏi mở miệng là không trả lời.
- À này, trước lúc đặt nó, anh đã đóng bỉm chưa đấy? Để nó tè dầm ra nhà người khác là phiền lắm.
Asakawa chẳng thèm để ý, gã nhìn khắp một lượt trong bếp. Tomoko chết ở đây. Nghe nói mảnh thuỷ tinh của chiếc cốc vỡ và nước Coca văng đầy trên sàn. Rất có thể đúng lúc Tomoko lấy chai Coca từ tủ lạnh ra và định uống thì đám virus nọ tấn công. Asakawa mở tủ lạnh và thử bắt chước đúng như những gì Tomoko đã làm. Gã tưởng tượng ra cái cốc và giả vờ uống.
- Anh này... làm cái gì đấy?
Shizu há hốc mồm nhìn chồng. Asakawa vẫn tiếp tục. Gã vừa giả bộ uống vừa quay lại đằng sau. Quay lại, trước mặt gã là cánh cửa kính ngăn cách bếp với phòng khách. Trên đó, bóng đèn huỳnh quang chỗ bồn rửa bát đang hắt ánh. Có lẽ tại trời vẫn sớm, phòng khách còn nhiều ánh sáng nên trên khung cửa kính chỉ có bóng của chiếc đèn huỳnh quang chứ không thấy rõ nét mặt những người trong bếp. Giả sử phòng khách tối đen còn bên này có ánh sáng, phải rồi, giống Tomoko đã đứng đây tối hôm đó... thì chắc chắn, cánh cửa kính sẽ thành một tấm gương soi rõ mọi vật trong bếp. Nó sẽ phản chiếu khuôn mặt biến dạng vì sợ hãi của Tomoko. Asakawa chợt cảm thấy tấm kính tựa như kẻ ghi lại tất cả những gì đã xảy ra. Sự giằng co giữa ánh sáng và bóng tối sẽ biến tấm kính trở nên trong suốt hoặc thành một tấm gương. Đúng lúc Shizu định chạm vào vai Asakawa, đang gí mặt mình vào ô cửa kính như bị thôi miên, thì có tiếng trẻ con khóc vọng xuống từ tầng hai. Yoko vừa tỉnh giấc.
- Ôi, Yoko dậy rồi đấy.
Shizu lau bàn tay ướt vào khăn. Nhưng tiếng khóc nghe sao rợn người, chẳng giống tiếng khóc của một đứa trẻ mới thức giấc. Shizu tất tả chạy lên.
Yoshimi vào bếp thay Shizu rửa nốt chỗ bát đĩa. Asakawa lấy ra tấm thẻ hội viên.
- Chị này, em nhặt được nó dưới chân đàn piano.
Asakawa thản nhiên nói như vậy và chờ phản ứng của Yoshimi. Cô nhận lấy tấm thẻ rồi lật mặt sau lên xem.
- Lạ thật đấy, sao lại có cái này nhỉ.
Yoshimi cau mày khó hiểu.
- Hay là cháu Tomoko mượn của bạn?
- Nhưng chị chưa từng nghe thấy cái tên Nonoyama này bao giờ. Chả lẽ trong đám bạn nó lại có ai tên như vậy?
Yoshimi gật đầu không nói. Rồi cô đi ra vì chợt có tiếng gọi của người chồng từ phòng khách. Người bố mất con ngồi quỳ trước bàn thờ còn mới, miệng đang lẩm bẩm điều gì đó với tấm di ảnh. Giọng nói nghe vui vẻ đến giật mình khiến Asakawa trở nên u uẩn. Con người đó đang muốn phủ nhận hiện thực. Asakawa chỉ còn biết cầu nguyện để hai người họ có thể vượt qua.
Có một điều này mà Asakawa biết chắc. Là nếu quả thật nhân vật có cái tên Nonoyama cho Tomoko mượn thẻ hội viên thì chắc chắn nhân vật này phải liên lạc với Tomoko để đòi lại tấm thẻ ngay sau khi biết tin cô chết. Nhưng mẹ Tomoko không hề biết gì. Đương nhiên là không có chuyện Nonoyama quên tấm thẻ. Cho dù là thẻ hội viên gia đình mượn của bố mẹ thì cũng không thể làm mất rồi lờ đi được, vì họ đã phải trả cả một đống tiền hội phí cho nó. Lý giải sao đây? Asakawa bèn suy luận thế này. Nonoyama đã cho một trong ba người còn lại, nghĩa là Iwata, Tsuji, Nomi mượn tấm thẻ. Tuy nhiên vì một lẽ nào đó mà tấm thẻ đã rơi vào tay Tomoko và không ai biết. Nonoyama liên lạc với bố mẹ người đứng ra mượn thẻ. Bố mẹ người này đi tìm trong đống đồ đạc của con nhưng không thấy. Tất nhiên rồi, vì tấm thẻ đang ở đây. Theo hướng đó, biết đâu gã lại chẳng có được địa chỉ của Nonoyama nếu liên lạc với ba gia đình kia? Cần phải gọi điện ngay trong tối nay. Bằng cách ấy mà không tìm được manh mối gì thì gần như có thể loại trừ khả năng tấm thẻ đã cung cấp một địa điểm chung cho cả bốn đứa. Nhưng dù sao gã cũng muốn gặp và hỏi chuyện Nonoyama. Còn một cách cuối cùng là gã sẽ lần ra địa chỉ từ số hiệu hội viên của Câu lạc bộ Pacific Resort. Gã biết không dễ gì lấy được thông tin đó từ phía công ty, nhưng vỏ quít dày có móng tay nhọn, gã sẽ sử dụng những mối quen biết trong làng báo.
Anh ơi... anh ơi... Ai đó đang gọi gã, tiếng gọi từ khá xa. Ấy là tiếng vợ gã đang ríu lại cùng với tiếng con khóc.
- Anh ơi, lên đây đi.
Asakawa choàng tỉnh. Bất chợt, gã chẳng còn biết vừa rồi mình đã nghĩ những gì. Không hiểu sao tiếng khóc của con bé nghe lạ quá. Càng lên đến gần gã càng cảm thấy vậy.
- Chuyện gì thế?
Asakawa nói như trách vợ.
- Lạ quá, cứ như nó bị làm sao ấy. Nó khóc chẳng giống bình thường gì cả. Hay là bị ốm?
Asakawa áp tay lên trán con. Không sốt. Nhưng bàn tay nhỏ bé của nó đang run. Cơn run truyền ra khắp người, thỉnh thoảng tấm lưng lại giật mạnh. Mặt cô bé tím tái, đôi mắt nhắm nghiền.
- Nó bị thế này từ bao giờ?
- Chắc là lúc tỉnh dậy nó không thấy ai ở bên cạnh.
Lúc tỉnh dậy, con bé thường hay khóc khi không thấy mẹ. Nhưng hễ được mẹ bế lên là nó nín ngay. Trẻ con khóc khi muốn nói điều gì đó. Yoko định nói gì... Đó không phải là cách nó làm nũng. Nó đang nắm chặt hai bàn tay nhỏ xíu vào nhau, giơ lên trước mặt... Nó sợ. Phải rồi, nó luôn gào khóc khi quá sợ. Yoko đang ngoảnh mặt đi, nó hơi xoè nắm đấm đang bấu chặt và cố chỉ lên phía trên. Asakawa nhìn theo hướng ấy. Ánh mắt gã bắt gặp chiếc cột. Gã đưa mắt lên cao hơn. Trên đó, cách trần nhà ba mươi phân là chiếc mặt nạ hình quỷ Hannya cỡ lớn. Con bé sợ mặt nạ quỷ?
- Hoá ra tại cái đó.
Asakawa hất hàm chỉ. Cả hai người cùng nhìn chiếc mặt nạ, rồi từ từ quay sang nhau.
- Quái lạ, chẳng lẽ nó biết sợ quỷ?
Asakawa đứng dậy tháo chiếc mặt nạ trên cột xuống và úp lên nóc tủ. Làm thế này Yoko sẽ không nhìn thấy nó nữa. Đúng lúc ấy, tiếng khóc im bặt.
- Lạ thật, Yoko biết sợ quỷ cơ đấy.
Thở phào vì hiểu ra nguyên cớ, Shizu vui vẻ cọ má vào mặt con. Có cái gì đó mà Asakawa vẫn chưa hiểu. Nhưng gã không muốn ở lại căn phòng này thêm nữa.
- Thôi, mình về sớm đi. - Asakawa giục vợ.

Xế chiều, vừa từ nhà Oishi về, Asakawa liền lần lượt gọi điện cho gia đình Tsuji, Nomi, Iwata để hỏi xem có ai trong số người quen của con cái họ hỏi tới tấm thẻ kia không. Cuối cùng khi gọi tới nhà Iwata, bà mẹ đã nói một mạch với gã rằng: "Có một cậu tự xưng là bạn học khoá trên của nó ở trường trung học gì đó gọi điện đến, bảo hôm trước có cho nó mượn cái thẻ hội viên, hôm nay gọi điện để xin lại... Nhưng tôi tìm khắp phòng nó rồi mà không thấy, đang chẳng biết phải ăn nói làm sao với người ta". Nhờ vậy mà gã lập tức lấy được số điện thoại và có thể gọi ngay cho Nonoyama.
Nonoyama nói rằng cậu ta gặp Iwata ở Shibuya vào Chủ nhật tuần cuối cùng của tháng Tám và đã cho Iwata mượn thẻ hội viên, đúng như những gì gã nghĩ. Cậu ta còn kể Iwata có bảo rằng nó sẽ đi nghỉ cùng với một con bé học sinh trung học nó đang tán tỉnh.
"Sắp hết kỳ nghỉ hè đến nơi rồi, không chơi tơi bời một phát cuối thì em chịu không học cho ra hồn được đâu ông anh ạ."
Nonoyama bật cười khi nghe Iwata nói vậy.
"Thằng khỉ, học sinh trường dự bị mà cũng đòi có nghỉ hè."
Chủ nhật tuần cuối cùng của tháng Tám là ngày 26, nên nếu chúng đi chơi và nghỉ lại đâu đó thì sẽ là vào một trong các ngày 27, 28, 29, 30. Vì sang tháng Chín cả trường dự bị và trường trung học đều đã bước vào học kỳ mới.
Chắc là mệt mỏi vì đi xa cả ngày nên Yoko và Shizu đều lập tức ngủ rất say. Gã nghe thấy tiếng thở khe khẽ của hai mẹ con lúc áp tai vào cửa buồng ngủ. Chín giờ tối... đây là khoảng thời gian thư thái đối với Asakawa. Nếu vợ con không đi ngủ thì gã chẳng kiếm đâu được một khoảnh yên tĩnh để làm việc trong căn hộ chung cư bé tẹo này.
Asakawa lấy bia từ tủ lạnh và rót vào cốc. Mùi vị của bia hôm nay rất đặc biệt. Rõ ràng là gã đã tiến được một bước dài nhờ tìm thấy tấm thẻ hội viên. Khả năng bốn đứa trẻ, gồm cả Iwata, sử dụng khách sạn hoặc biệt thự cho thuê ở khu nghỉ dưỡng Pacific Resort vào một trong các ngày 27, 28, 29, 30 của tháng Tám là cực kỳ cao. Nhưng trong số các khu nghỉ dưỡng, biệt thự gỗ cho thuê Villa Log Cabin tại Pacific Land ở Nam Hakone là đáng chú ý nhất. Xét về khoảnh cách, không đâu lý tưởng bằng Hakone, hơn nữa, không thể có chuyện một nhóm học sinh trung học ít tiền mà lại dám nghỉ ở một khách sạn hạng sang. Cho nên, theo lẽ thường hẳn là bọn chúng sẽ dùng thẻ hội viên để nghỉ ở một biệt thự cho thuê rẻ tiền. Giá thuê một căn biệt thự cho hội viên ở đó là năm nghìn yên, tính ra mỗi đứa chỉ cần góp vào hơn một nghìn yên là đủ.
Gã đã có số điện thoại của khu Villa Log Cabin trong tay. Asakawa đang đặt cuốn sổ ghi chép trên bàn. Cách nhanh nhất là gọi điện đến lễ tân để kiểm tra xem có nhóm bốn người nào với cái tên Nonoyama đã từng nghỉ ở đấy không. Tuy nhiên, có gọi điện thì cũng đời nào họ chịu trả lời. Người quản lý ở những khu biệt thự trong các câu lạc bộ resort vốn được huấn luyện rất kỹ càng nên đương nhiên họ sẽ coi việc giữ kín bí mật của khách hàng là nghĩa vụ. Và dù có chứng minh mình là phóng viên của một tờ báo lớn và nói rõ mục đích của cuộc điều tra thì cũng không bao giờ họ tiết lộ cho gã biết. Hay là mình sẽ liên lạc với phân xã ở đó để nhờ một tay luật sư cánh hữu yêu cầu họ cho xem số đăng ký thuê phòng, Asakawa nghĩ. Trong những trường hợp như thế này, chỉ có cảnh sát và luật sư là có quyền yêu cầu người quản lý cho xem sổ. Gã có thể đóng giả, nhưng nếu bị lộ thì sẽ rất phiền tới công ty. Thôi, cứ chính danh là an toàn và chắc chắn nhất.
Chỉ có điều, nếu nhờ luật sư thì sẽ phải mất ít nhất ba đến bốn ngày. Mà Asakawa thì không đợi được lâu thế. Gã muốn biết ngay bây giờ. Sự háo hức muốn làm sáng tỏ vụ án sôi sục đến mức gã không thể chịu đựng nổi khoảng thời gian ba ngày. Rốt cuộc, cái gì đang chờ gã ở phía trước? Nếu đúng là bốn đứa trẻ đã nghỉ lại một đêm tại khu Villa Log Cabin ở Pacific Land Nam Hakone vào cuối tháng Tám và đó chính là nguyên nhân cho những cái chết bí ẩn ấy, thì rốt cuộc điều gì đã xảy ra? Virus, virus. Gã thừa hiểu virus chỉ là cách nói cứng gã dùng để thoát khỏi áp lực về một thứ gì thần bí. Ở một mức độ nào đấy, sẽ là hợp lý khi lấy sức mạnh khoa học để đối chọi lại với sức mạnh siêu nhiên. Người ta không thể bàn về một thứ không biết bằng thứ ngôn từ mà người ta không biết. Người ta phải diễn đạt cái thứ không biết ấy bằng một ngôn từ mà người ta biết.
Asakawa nhớ lại tiếng khóc của Yoko. Chiều hôm nay, tại sao khi nhìn thấy mặt nạ hình quỷ con bé lại sợ hãi đến vậy? Trên xe điện về nhà, Asakawa hỏi vợ.
- Này, có phải em dạy cho Yoko biết về quỷ không?
- Ý anh là sao?
- Nghĩa là em đã bao giờ chỉ cho nó xem con quỷ trên tranh và dạy rằng nó rất đáng sợ chưa?
- Không, làm gì có...
Cuộc trò chuyện chỉ diễn ra có vậy. Shizu chẳng nghi ngờ gì cả. Nhưng Asakawa thì nghĩ ngợi. Nỗi sợ ấy là nỗi sợ khi bản năng bị chạm đến. Nó khác với nỗi sợ có được qua dạy bảo và kinh nghiệm. Ngay từ thời vượn người nguyên thuỷ, con người đã luôn sống với những nỗi sợ. Sấm sét, giông bão, thú rừng và bóng tối... Vì vậy, một đứa trẻ sẽ sợ hãi ngay lần đầu tiên khi nó tiếp xúc với sấm sét, ấy là nỗi sợ của bản năng. Chỉ có điều sấm sét thì thực sự tồn tại, còn ma quỷ... Gã tra từ điển quốc ngữ, ở đó định nghĩa rằng "Quỷ là quái vật hoặc linh hồn người chết chỉ có trong tưởng tượng". Nếu Yoko sợ quỷ vì bộ mặt dữ tợn thì chắc chắn nó cũng phải sợ khi nhìn thấy mô hình con Gozilla chứ. Thực ra Yoko đã từng nhìn thấy Gozilla trong khung kính vào một lần đi mua sắm. Đó là một mô hình được làm rất tinh xảo. Chỉ có điều thay vì sợ, mắt con bé ánh lên thích thú và nhìn mãi không thôi. Phải giải thích việc này như thế nào? Gozilla, nói gì thì nói, rõ ràng là một kiểu quái vật trong tưởng tượng. Vậy thì tại sao nó lại sợ quỷ... Phải chăng quỷ là thứ chỉ có riêng ở Nhật Bản. Không, phương Tây cũng có một loại tương tự như thế: ác quỷ... Gã bỗng thấy bia không còn ngon như cốc đầu tiên. Liệu Yoko còn sợ thứ gì khác? Phải rồi, bóng tối. Con bé sợ nhất bóng tối. Nó không bao giờ dám vào trong phòng một mình nếu không có điện. Bóng tối là một thứ có thật đối lập với ánh sáng. Giờ này, trong căn buồng tối, Yoko đang ngon giấc giữa vòng tay mẹ.
 
Phần 2: CAO NGUYÊN

Thứ Năm, ngày 11 tháng Mười
Asakawa phải tăng tốc độ cần gạt nước vì mưa mỗi lúc một mau. Thời tiết ở Hakone rất thất thường. Dưới Odawara trời vẫn nắng, song càng lên cao không khí càng ẩm ướt và đến đỉnh đèo thì một cơn mưa dữ dội ập đến. Gã đã gặp chuyện này một vài lần. Nếu là ban ngày thì gã còn có thể phần nào dự đoán được thời tiết trên núi dựa vào những đám mây bao lấy đỉnh Hakone. Nhưng ban đêm, gã chẳng thấy gì ngoài bóng tối phía sau ánh đèn pha. Mãi đến khi dừng xe lại và ngẩng nhìn lên gã mới nhận ra bầu trời đầy sao đã biến mất. Lúc gã lên tàu ở Tokyo, phố xá bắt đầu chìm trong mờ tỏ. Tới ga Atami, lúc thuê xe gã vẫn còn thấy bóng trăng ẩn hiện qua những kẽ mây. Thế mà bây giờ, những giọt nước nhỏ li ti phất phơ trước ánh đèn pha đã biến thành cơn mưa thật sự, quất thẳng vào kính trước.
Bảng đồng hồ điện tử phía trên công-tơ-mét hiển thị con số 19:32. Asakawa nhẩm tính quãng đường thời gian cho tới lúc này. Gã lên tàu ở Tokyo lúc 17:16 và tới ga Atami lúc 18:07. Ra khỏi cửa soát vé và làm xong thủ tục thuê xe lúc 18:30. Mua hai hộp mỳ cốc, một chai Whisky loại nhỏ ở chợ và thoát ra khỏi khu nội thị toàn đường một chiều vào lúc 19:00.
Đường hầm dài xuyên qua rặng núi đá Tanna bắt đầu hiện ra trước mắt gã trong ánh đèn vàng nhấp nháy. Đi hết đường hầm ra tới tỉnh lộ Atami-Kannami là sẽ thấy biển chỉ dẫn lối vào Pacific Land Nam Hakone. Vào tới bên trong tiếng gió rít bên thành xe nghe khác hẳn. Cùng lúc, màu da gã, chiếc ghế bên cạnh, tất cả mọi thứ trong xe đều bị nhuộm vàng bởi ánh đèn màu cam, gã bỗng thấy bồn chồn. Gã sởn gai ốc. Không có bóng xe nào chạy ngược lại, tiếng cần gạt nước ken két miết vào mặt kính trước. Gã ngắt công tắc cần gạt nước. Gã sẽ tới đó trước tám giờ. Đường vắng tanh vậy mà gã không hề có ý định tăng ga. Tự nhiên, trong vô thức, gã thấy sợ phải đi đến đó.
Tấm bảng chỉ dẫn lối vào Pacific Land Nam Hakone được dựng trên một sườn núi. Không đèn nê-ông quảng cáo, chỉ có tấm bảng chắn với những vệt sơn đen. Vì thế, nếu bỏ lỡ cái tích tắc đèn pha chiếu vào tấm biển, bất kỳ ai cũng có thể chạy tuột qua. Asakawa cho xe rẽ sang trái và leo lên con đường núi chạy giữa những mảnh ruộng bậc thang. Quá nhỏ so với một lối vào khu nghỉ dưỡng. Gã thấy hơi lo lắng; không khéo lại là đường cụt. Gã cài số thấp và leo một cách chậm rãi vì nhiều đoạn cua gấp mà đèn đường thì không có. Cũng chẳng còn khoảng trống nào để tránh nếu có xe ngược chiều chạy lại.
Mưa đã tạnh tự lúc nào. Bây giờ Asakawa mới nhận ra điều dó. Thời tiết giữa sườn Đông và sườn Tây của dải núi đá Tanna thật trái ngược nhau.
Song đó không phải là đường cụt, nó chạy dài mãi lên trên. Hai bên đường bắt đầu lác đác xuất hiện những ngôi biệt thự đang rao bán. Rồi đột nhiên, cảnh vật hoàn toàn thay đổi, đường mở thành làn đôi, mặt đường tốt hơn và hai bên được trang hoàng bằng những hàng đèn. Sự biến đổi ấy khiến Asakawa kinh ngạc. Gã đã vào đến Pacific Land, khắp nơi là những đồ trang trí xa xỉ. Con đường nhỏ chạy xuyên qua ruộng vừa rồi là sao? Con đường vốn hẹp lại càng hẹp hơn bởi lá ngô và đám lau sậy cao ngút đầu xoè ra từ hai phía làm gã thấy bồn chồn với ý nghĩ: rất có thể nó đang chờ mình ở khúc cua kế tiếp.
Đối diện với bãi đậu xe rất rộng là toà nhà ba tầng, ở đó có trung tâm thông tin và nhà hàng. Asakawa dừng xe ngay trước sảnh lớn và bước vào trong. Gã nhìn đồng hồ: vừa tám giờ, đúng như dự tính. Có tiếng đập bóng từ đâu đó vọng lại. Phía dưới trung tâm là sân quần vợt, có mấy đôi nam nữ đang hào hứng chơi tennis trong ánh đèn vàng vọt. Thật lạ, cả bốn sân đều đang được sử dụng. Tám giờ, thứ Năm, một ngày thượng tuần tháng Mười, Asakawa không thể hiểu nổi thần kinh của những kẻ đã tới tận đây để chơi tennis vào giờ này. Dưới sân tennis, ở mãi đằng xa, có thể nhìn thấy ánh đèn đêm từ Manj Mishima và Numazu hắt tới. Và khoảng tối phía xa hơn nữa, đậm đặc như hắc ín, là vịnh Tago-no-Ura.
Bước vào trung tâm, ngay trước mặt gã là nhà hàng. Gã có thể nhìn thấy mọi thứ bên trong nhà hàng vì nó được làm bằng kính. Asakawa lại một lần nữa phải kinh ngạc. Nhà hàng đóng cửa lúc tám giờ, vậy mà các thực khách, đa phần là các gia đình và những nhóm toàn phụ nữ, vẫn còn quá nửa. Chuyện quái gì thế nhỉ, gã chau mày khó hiểu. Đám người này từ đâu đến? Gã không sao lý giải nổi. Khó mà tin được rằng bọn họ đã tới đây bằng con đường mà gã vừa đi qua. Biết đâu đấy, con đường mà gã đi qua chỉ là đường tắt, chứ thực ra còn có con đường khác sáng sủa và rộng rãi hơn? Nhưng khi chỉ đường đến Pacific Land, cô lễ tân đã chẳng nói thế qua điện thoại là gì.
"Quý khách cứ đi theo tỉnh lộ Atami-Kannami, được nửa đường thì rẽ trái và leo hết con đường núi là tới."
Asakawa đã đi đúng như vậy. Không thể có con đường nào khác.
Asakawa bước vào nhà hàng dù biết đã hết giờ đón khách. Dưới ô cửa kính cực lớn là thảm cỏ được cắt tỉa khéo léo tạo thành một sườn dốc mềm mại đổ về phía thành phố trong đêm. Gã đoán rằng người ta cố tình giảm lượng ánh sáng trong phòng để các vị khách có thể ngắm cảnh đêm được đẹp hơn. Gã níu lấy một người bồi bàn đi lại gần phía gã để hỏi đường tới Villa Log Cabin. Anh ta chỉ ra sảnh chính, chỗ ban nãy gã vừa bước vào.
- Anh rẽ phải theo con đường đó, đi thêm hai trăm mét nữa thì tới phòng quản lý.
- Có bãi đậu xe không?
- Bãi đậu xe ở ngay trước phòng quản lý.
Đơn giản chỉ có vậy. Chỉ cần đi thẳng và không rẽ vào đây là tự nhiên sẽ tới. Nhưng tại sao gã lại bị thu hút bởi toà nhà đầy vẻ hiện đại này, và tại sao gã lại sốt sắng đi vào nhà hàng? Gã phần nào có thể phân tích được tâm lý ấy của mình: vì bằng cách đó gã cảm thấy yên lòng. Suốt dọc đường, bóng dáng những căn nhà gỗ nhỏ tăm tối tách biệt với thế giới hiện đại, tưởng như có thể là bối cảnh hoàn hảo cho bộ phim Thứ Sáu ngày 13, luôn choán lấy tâm trí gã, nhưng ở đây, gã không thấy khung cảnh nào như thế. Và đứng trước bằng chứng nói lên rằng sức mạnh của khoa học hiện đại cũng đang có mặt nơi đây khiến gã thấy vững tâm. Duy có một điều làm gã băn khoăn, ấy là sự kinh khủng của con đường từ chân núi lên đây, và mặc vậy, vẫn có rất nhiều kẻ đang vui thú với quần vợt và say sưa ăn uống trên đỉnh núi này. Gã không hiểu tại sao gã lại băn khoăn về điều ấy. Song, gần như chắc chắn, gã không hề cảm thấy những người ở đây đang sống.
Sân tennis và nhà hàng đông đúc như thế, hẳn là Asakawa sẽ nghe thấy những tiếng chuyện trò vui vẻ sau bữa tối vọng ra từ vài căn biệt thự. Gã đã hy vọng thế. Nhưng, khi đứng trên bãi xe và nhìn xuống tận đáy dốc, gã cũng chỉ đếm nổi sáu trong số mười ngôi biệt thự gỗ được xây dựng giữa rừng trên một sườn dốc thoai thoải. Xa hơn nữa, chỉ có bóng đêm dày đặc của cánh rừng vì ánh đèn đường không đủ sức chiếu tới, vả lại cũng chẳng có lấy một ngọn sáng nào thoát ra từ các căn phòng. B-4, nơi gã sẽ nghỉ lại đêm nay nằm đúng trên cái ranh giới sáng tối ấy và tất cả những gì mà gã có thể thấy được là phần trên của cánh cửa chính.
Asakawa vòng ra đằng trước, mở cửa và bước vào phòng quản lý. Có tiếng ti vi nhưng không có người. Người quản lý đang ngồi trong căn phòng kiểu Nhật nằm sâu bên tay trái nên không để ý thấy Asakawa vừa vào. Gã không biết bên trong đó ra sao vì vướng chiếc quầy. Có vẻ như người quản lý đang xem một bộ phim nước ngoài chứ không phải một chương trình truyền hình, lời thoại bằng tiếng Anh cùng với khuôn hình đang rung rinh phản chiếu lên cánh cửa tủ trước mặt gã. Có rất nhiều những cuốn băng video nằm trong vỏ được xếp kín trên chiếc tủ bắt chặt vào tường. Asakawa tì tay lên quầy và cất tiếng gọi. Ngay lập tức một người đàn ông xấp xỉ lục tuần thò cổ ra và cúi chào: "Ồ, xin mời vào!" Đây chắc hẳn là người đàn ông đã xuất trình sổ đăng ký thuê phòng theo yêu cầu điều tra của luật sư và ban tin tức Atami... Nghĩ vậy, Asakawa nở một nụ cười thân mật.
- Cháu là Asakawa, có đặt phòng ở đây.
Người đàn ông mở sổ kiểm tra.
- Đúng rồi, B-4. Nhờ anh viết tên và địa chỉ vào đây cho.
Asakawa điền tên thật của mình vào. Gã không còn cầm tấm thẻ hội viên nữa vì vừa gửi trả cho Nonoyama ngày hôm qua.
- Có một mình thôi à?
Người quản lý ngước nhìn Asakawa một cách lạ lùng. Trước nay chưa có ai nghỉ một mình ở đây bao giờ. Nếu chỉ có một mình và không phải hội viên thì nghỉ ở khách sạn sẽ kinh tế hơn. Người quản lý đưa cho gã hai tấm chăn rồi quay lại phía chiếc tủ.
- Nếu anh thích thì có thể mượn một cuốn. Có đủ các chủ đề ăn khách đấy.
- Ồ, bác cho thuê cả băng video cơ à?

Asakawa đưa mắt điểm qua các tựa phim trong đống băng xếp kín cả một mặt tường. Cuộc truy tìm rương thánh tích (Raiders of the Lost Ark), Chiến tranh giữa các vì sao (Star Wars), Trở lại tương lai (Back to the Future), Thứ Sáu ngày 13 (Friday the 13th)..., toàn các bộ phim ăn khách nước ngoài, chủ yếu là thể loại khoa học giả tưởng, phim mới cũng nhiều. Tới Villa Log Cabin này hẳn là toàn bọn trẻ. Chẳng có bộ phim nào làm gã thấy quan tâm. Hơn nữa, gã đến đây vì công việc.
- Tiếc thật, cháu nhiều việc quá.
Asakawa nhắc chiếc máy chữ xách tay đang để trên bàn lên cho người quản lý xem. Có vẻ như vì thế mà ông ta đã hiểu ra tại sao gã lại đến đây có một mình.
- Trong phòng có đầy đủ đồ làm bếp chứ ạ? – Asakawa hỏi.
- Vâng, anh có thể dùng bất cứ thứ gì.
Hỏi vậy thôi, chứ Asakawa chỉ cần một chiếc siêu đun nước nóng để pha mỳ cốc là đủ. Người quản lý hướng dẫn Asakawa đường đi đến ngôi biệt thự B-4 trong lúc gã cầm lấy chăn cùng với chìa khoá và đang định bước ra ngoài. Rồi ông ta nói với gã bằng một vẻ lịch sự kỳ lạ: "Mong quý khách thấy thoải mái như ở nhà."
Trước khi chạm tay vào nắm cửa, Asakawa lấy đôi găng tay cao su đã chuẩn bị trước ra và xỏ vào. Chúng như tấm bùa hộ mạng bảo vệ gã khỏi lũ virus giấu mặt và làm yên lòng gã.
Asakawa mở cửa, bật công tắc cạnh lối vào, bóng đèn 100 oát chiếu sáng cả căn phòng khách rộng thênh thang. Từ giấy dán tường, thảm trải sàn, ghế sofa cho bốn người, ti vi, cho đến bộ bàn ăn, mọi thứ trong phòng đều còn mới và được bài trí một cách hợp lý. Asakawa bỏ giày và bước vào trong. Phòng khách quay mặt ra ban công, tầng một và tầng hai mỗi tầng có một phòng kiểu Nhật rộng vừa phải. Quả thật sự rộng rãi ấy là quá xa xỉ nếu chỉ dành cho một người. Gã kéo chiếc rèm đăng ten đồng thời mở cánh cửa kính để không khí lùa vào. Căn phòng quá sạch sẽ, trái hẳn với những gì gã mong đợi. Biết đâu gã sẽ phải ra về mà chẳng kiếm được manh mối nào. Ý nghĩ ấy bất chợt đến trong đầu gã.
Asakawa bước vào căn phòng kiểu Nhật kế bên phòng khách và mở tủ hốc. Chẳng có gì. Gã cởi sơ mi và quần dài rồi mặc một chiếc áo giéc-xi và quần thể thao. Gã treo bộ đồ thay ra vào tủ hốc. Gã đi lên tầng hai, bật đèn trong căn phòng kiểu Nhật. Mình chẳng khác gì một đứa trẻ con, gã tự cười. Gã nhận thấy gã đã bật tất cả mọi nguồn sáng có thể được ở trong phòng.
Sau khi phòng đã đủ sáng, gã rón rén mở cửa toilet. Gã vẫn để cánh cửa hơi he hé trong lúc kiểm tra bên trong. Gã nhớ lại tính nhát ma hồi nhỏ của mình. Vào đêm mùa hè, gã không bao giờ dám đi vệ sinh một mình, gã luôn để cửa toilet mở hé và nhờ bố ngồi trông ở ngoài. Bên kia tấm kính mờ là buồng tắm. Buồng tắm ngăn nắp, không có hơi nước, cả bồn tắm và bồn rửa mặt đều khô ráo. Chắc chắn là lâu rồi không có khách đến đây. Gã định tháo găng tay cao su nhưng mồ hôi làm nó dính chặt vào tay không sao cởi ra được. Cơn gió mang theo hơi lạnh của cao nguyên thổi vào phòng làm tấm rèm lay động.
Asakawa lấy đá trong tủ lạnh cho vào đầy cốc. Gã mở chai whisky mua trước lúc tới đây và rót chừng phân nửa. Sau đó, gã định pha thêm với một chút nước máy, nhưng sau một thoáng chần chừ, gã khoá miệng vòi lại và tự thuyết phục mình rằng, gã thích uống đặc hơn. Gã không dám đưa bất cứ thứ gì trong ngôi nhà này vào miệng. Chỉ có đá là gã không đề phòng vì tin rằng: vi sinh vật không thể chịu được nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp.
Asakawa ấn mình thật sâu xuống ghế sofa và bật ti vi. Có tiếng hát của một ca sỹ mới nổi. Giờ này, Tokyo cũng đang phát chương trình đó. Asakawa chuyển kênh. Gã điều chỉnh âm lượng vừa đủ mặc dù không hề có ý định xem, rồi lấy chiếc máy quay phim ra và đặt lên bàn. Gã muốn ghi lại tất cả nếu có chuyện bất thường xảy ra.
Asakawa tợp một ngụm hết cốc whisky. Gã cảm thấy bình tâm đôi chút. Sau đó, một lần nữa, Asakawa sắp xếp lại mọi diễn biến cho đến lúc này trong đầu. Nếu đêm nay gã không thu hoạch được gì thì nghĩa là bài báo gã định viết sẽ bế tắc. Nhưng biết đâu như thế lại chẳng tốt hơn. Không thu lượm được manh mối nào nghĩa là gã sẽ không bị nhiễm loại virus đó. Gã có vợ có con, gã không muốn chết theo một cách khác thường. Asakawa gác chân lên bàn.
... Này, mi đang đợi gì thế? Không sợ ư? Không sợ thật đấy chứ? Thôi nào, cẩn thận kẻo thần chết tới bây giờ.
 
Asakawa căng thẳng nhìn quanh, gã không sao có thể cố định ánh mắt vào một điểm trên tường. Vì gã sợ nếu nhìn lâu, mọi tưởng tượng trong đầu gã sẽ hiện ra trước mặt.
Từ bên ngoài, gió lạnh thổi vào. Gã khép cửa và nhìn rất nhanh ra ngoài trời tối lúc kéo rèm. Đằng trước là bờ mái của ngôi biệt thự B-5, cái bóng của nó tạo thành một quầng tối đen đặc. Cả sân tennis và nhà hàng đều đông người. Nhưng tại sao lại chỉ có mình Asakawa ở đây? Kéo rèm xong gã ngó đồng hồ. Tám giờ năm mươi sáu phút. Gã mới ở trong căn phòng này chưa đầy ba mươi phút. Vậy mà gã có cảm giác như đã một tiếng trôi qua. Chỉ ngủ lại đây thôi hẳn là chẳng có gì nguy hiểm. Gã cố gắng nghĩ như vậy để trấn an mình. Vì tính ra khu Villa Log Cabin hoạt động cũng đã được nửa năm, trong nửa năm ấy tất phải có rất nhiều người đến nghỉ tại ngôi biệt thự B-4 này. Nhưng đâu phải tất cả những người đến nghỉ tại đây đều thiệt mạng. Cho tới lúc này, theo gã biết, mới chỉ có bốn đứa trẻ đó. Không loại trừ khả năng còn có những nạn nhân khác nếu điều tra kỹ hơn, nhưng hiện tại thì không. Tóm lại, vấn đề không ở chỗ chúng đã nghỉ lại đây, mà ở chỗ chúng đã làm một điều gì đó.
... Vậy thì chúng đã làm những gì?
Rồi Asakawa thay đổi một chút cách đặt vấn đề.
... Không, mà là điều mà chúng có thể làm được trong căn nhà này là gì?
Cả toilet, buồng tắm, tủ hốc và tủ lạnh đều không có dấu vết. Giả sử rằng chúng có để lại dấu vết đi chăng nữa thì chắc người quản lý gã gặp ban nãy đã dọn đi mất rồi. Nếu vậy, thay vì ngồi đây thong thả uống whisky, gã nên đi gặp người quản lý thì sẽ được việc hơn.
Cốc thứ nhất đã cạn. Cốc thứ hai gã chỉ rót một ít. Gã không muốn bị say mèm. Gã pha thật nhiều nước, lần này là nước máy. Có vẻ như giác quan cảnh báo nguy hiểm của gã đã phần nào tê liệt. Tự trách mình ngu xuẩn vì đã đến đây, Asakawa gỡ kính, vớt nước rửa mặt và nhìn mình trong gương. Gã nhìn thấy một khuôn mặt bệnh hoạn. Hay là gã nhiễm virus rồi? Gã nốc cạn cốc rượu vừa pha rồi rót thêm cốc nữa.
Trở vào từ phòng ăn, Asakawa phát hiện ra một quyển sổ trên chiếc kệ dưới máy điện thoại.Kỷ niệm những chuyến đi, đó là dòng chữ trên bìa. Gã lật giở.
Chủ nhật, mùng 7 tháng Tư
Nonko sẽ chẳng bao giờ quên ngày hôm nay.
Tại sao à? B-í-m-ậ-t. Yuichi thật tuyệt vời, hihi
NONKO
Loại sổ kiểu này thường hay thấy xuất hiện trong các nhà nghỉ rẻ tiền để khách có thể ghi lại những kỷ niệm hay cảm tưởng của mình về chuyến đi. Trang tiếp theo là một bức vẽ chân dung bố mẹ, nét vẽ hơi nguệch ngoạc, có lẽ là của một cậu bé đi nghỉ cùng gia đình. Bức tranh đề ngày 14 tháng Tư, nghĩa là vào thứ Bảy.
bố béo phì này
mẹ béo phì này
vì thế con cũng béo phì
ngày mười bốn tháng bốn
Asakawa giở tiếp. Có một trang nào đó ở phía dưới cứ chực kênh lên, nhưng gã vẫn tuần tự lật giở từng tờ. Gã sợ nếu không xem hết gã sẽ bỏ sót điều gì đó.
Có thể thấy khách thường đến đây nghỉ vào các thứ Bảy trước dịp nghỉ hè, tuy nhiên gã không dám chắc vì tất nhiên, có nhiều khách hàng chẳng viết gì. Vào hè, khoảng cách giữa các ngày ghi trong sổ cũng thu hẹp dần, càng về cuối tháng Tám càng có nhiều lời than thở vì mùa hè sắp đi qua.
Chủ nhật, ngày 20 tháng Tám
Ôi, thế là hết hè. Chả có gì thú vị. Có ai giúp tôi không? Có ai cứu vớt kẻ đau buồn khốn khổ này không? Tôi sở hữu một xe máy 400cc. Đẹp trai bất ngờ. Hàng tốt giá rẻ đây.
A.Y
Chẳng khác nào một đoạn quảng cáo tìm bạn tầm thư. Đại loại, các ý tưởng đều có điểm nào đó rất chung. Kẻ đi cùng bạn tình thì muốn chia sẻ kỷ niệm đó với người khác, còn kẻ đơn độc một mình thì bày tỏ ước muốn có người làm bạn.
Nhưng gã đọc mãi mà không thấy chán. Kim giờ của chiếc đồng hồ cuối cùng cũng chỉ đến con số chín.
Trang tiếp theo.
Thứ Năm, ngày 30 tháng Tám
Hù! Ta báo trước. Những kẻ yếu tim chớ nên xem cái này. Sẽ hối hận đấy. Khà khà khà..
S.I
Chỉ có vậy. Ba mươi tháng Tám là buổi sáng đêm bốn đứa trẻ ngủ lại đây. Còn S.I hẳn là tên viết tắt của Iwata Shuichi. Trong số những lời lẽ ghi ở đây, chỉ có trang này là khác. Như thế nghĩa là sao? "Chớ nên xem lại cái này?" Vậy cái này rốt cuộc là gì? Asakawa gấp sổ lại rồi nhìn sang bên mép. Có một nếp gấp kênh lên thành khe hở nhỏ. Asakawa thò ngón tay vào và mở ra... "Hù! Ta báo trước. Những kẻ yếu tim chớ nên xem cái này. Sẽ hối hận đấy. Khà khà khà. S.I.", dòng chữ ấy đập vào mắt gã. Tại sao luôn có một lực khiến cho nó tự mở ra? Rất có thể bọn trẻ đã chặn một vật gì đó lên trên, Asakawa suy luận. Và do đã thành nếp, nên lúc nào nó cũng chực mở ra. Và vật mà bọn chúng dùng để đặt lên trên ấy không phải cái gì khác mà chính là cái này.
Asakawa tìm kiếm xung quanh, rồi lục lọi mọi ngóc ngách của chiếc kệ để điện thoại. Không có gì. Đến cả một cây bút chì cũng không thấy.
Asakawa quay lại ghế sofa và giở tiếp. Ngày sau đó là Chủ nhật, mùng 1 tháng Chín. Không có nội dung gì đặc biệt nên khó đoán được nhóm sinh viên nghỉ lại ngày hôm đấy có xem cái này hay không. Những trang tiếp theo cũng không thấy có bút lục nào liên quan tới cái này, mặc cho gã đã tìm rất kỹ.
Asakawa gấp cuốn sổ lại và châm thuốc. Nội dung của cái này nhất định phải rất đáng sợ nếu căn cứ vào dòng chữ "Những kẻ yếu tim chớ nên xem cái này". Gã mở một trang bất kỳ trong cuốn sổ rồi đè nhẹ tay lên. Cần phải có một vật-gì-đó đủ nặng để thắng được lực gấp của giấy. Nếu chỉ là một hoặc hai bức ảnh ma thì không thể có được sức nặng ấy. Hay là một cuốn tạp chí, hoặc một cuốn sách? Dù gì thì cũng là một thứ cần phải xem. Có lẽ mình nên đi hỏi người quản lý xem ông ta có tìm thấy thứ gì mà khách để lại trong phòng vào ngày 30 tháng Tám không, Asakawa nghĩ. Liệu ông ta còn nhớ hay không? Nếu là một thứ gì đó khác thường và gây ấn tượng mạnh thì ắt hẳn ông ta phải nhớ. Bất chợt, một chiếc đầu quay băng đập vào mắt gã lúc gã định đứng lên. Ti vi vẫn đang bật, trên màn hình là cảnh một nữ diễn viên nổi tiếng đang ôm máy hút bụi và chạy theo chồng. Có vẻ như một đoạn quảng cáo đồ điện gia dụng.
... Đúng vậy, nếu là một cuộn băng thì vừa đủ nặng.
Vẫn ngồi yên, Asakawa dập thuốc. Bộ sưu tập băng video mà gã thấy trong phòng quản lý khi nãy vụt hiện lên trong đầu. Rất có thể bọn chúng tình cờ xem được một bộ phim kinh dị đáng sợ nào đó và muốn giới thiệu cho những người khác cùng xem. Nếu chỉ có vậy... khoan đã, nếu chỉ có vậy tại sao Iwata Shuichi không viết rõ tên của bộ phim? Không ai lại dùng một danh từ chung kiểu như cái này để nói về một bộ phim cụ thể nào đó, như Thứ Sáu ngày 13 chẳng hạn. Và hơn nữa, đâu cần phải đặt cái này lên trên quyển sổ. "Cái này" hẳn là thứ-gì-đó không có tên riêng mà bắt buộc phải gọi bằng cái này.
... Hướng này liệu có đáng để lần theo không?
Không một mảy may manh mối, vậy thì có mất gì đâu nếu cứ thử triển khai giả thiết ấy, còn hơn là ngồi nghĩ ngợi ở đây. Asakawa bước ra ngoài, xuống khỏi những bậc thềm bằng đá và đẩy cửa phòng người quản lý.
Cũng giống như lúc trước, không có bóng dáng của người quản lý ở sau quầy, chỉ có tiếng ti vi vọng ra từ bên trong. Có lẽ, người đàn ông này sau khi nghỉ việc ở một công ty ngoài thành phố, muốn sống nốt phần đời còn lại giữa chốn thiên nhiên nên đã chọn công việc làm người quản lý ở một khu nghỉ dưỡng, nhưng công việc thực sự quá buồn tẻ khiến ông ấy chỉ còn biết tìm vui trong những cuốn băng video... Đấy là cách giải thích của Asakawa về cảnh ngộ của người quản lý. Người quản lý lồm cồm bò dậy ló mặt ra trước khi gã kịp cất tiếng gọi. Asakawa nói như thanh minh.
- Buồn quá nên định xuống mượn bác một cuốn băng về xem.
Người quản lý mừng rỡ nhe răng cười.
- Anh cứ chọn tuỳ thích... Mỗi cuốn ba trăm yên.
Asakawa lựa tìm những tên phim kinh dị. Ngôi nhà địa ngục, Nỗi sợ màu đen, Thày phù thuỷ (The Exorcist: tên một bộ phim kinh dị Mỹ được dựng theo tiểu thuyết cùng tên của William Peter Blatty do William Friedkin làm đạo diễn), Điềm xấu (The Omen: loạt phim kinh dị Mỹ được dựng theo tiểu thuyết cùng tên của David Seltzer do Richard Donner làm đạo diễn)... toàn những phim gã đã xem hồi còn đi học. Chắc chắn còn có bộ phim đáng sợ mà gã chưa hề biết kia. Gã đưa mắt một lượt từ đầu đến cuối nhưng không tìm thấy thứ nào giống như vậy. Một lần nữa, gã rà soát lại toàn bộ tựa đề của hơn hai trăm cuộn băng. Thế rồi, ở góc dưới cùng, gã phát hiện thấy một cuộn băng không nhãn nằm đổ rạp sang bên. Nó không được dán bất cứ mẩu nhãn nào trong khi các cuốn băng khác có đầy tranh ảnh và những dòng tên phim.
- Cái đó là phim gì thế bác?
Gã bỗng nhận ra mình vừa gọi cuốn băng ấy là cái đó. Đâu còn cách gọi nào khác vì nó không hề có tên. Người quản lý nhíu mày bối rối rồi bật lên một tiếng hả không rõ ràng. Sau đó, ông ta cầm lấy cuốn băng.
- Chả có gì đâu.
... Sao cơ, không lẽ người đàn ông này biết nội dung của cuốn băng?
- Bác xem cái đó rồi à? – Asakawa hỏi.
- Cái này...
Người quản lý cau trán ra chiều khó hiểu. Vẻ mặt tựa như muốn nói, tại sao lại có thứ này ở đây.
- Nếu không phiền bác cho cháu mượn cuốn đó đi.
Thay cho câu trả lời, người quản lý vỗ đét vào đùi mình.
- À, tôi nhớ ra rồi. Cái này, tôi thấy nó rơi ở trong phòng. Tôi cứ đinh ninh nó ở trong đống băng của tôi nên mới mang về.
- Bác tìm thấy cái này ở B-4 phải không?
Asakawa chậm rãi hỏi như thể muốn xác nhận với đối phương. Người quản lý lắc đầu cười.
- Tôi làm sao nhớ được, đã hai tháng rồi còn gì.
Asakawa hỏi lại.
- Bác đã xem cuốn băng này chưa?
Người quản lý vẫn lắc đầu. Nụ cười biến mất khỏi gương mặt.
- Chưa.
- Bác cho cháu mượn cái đó.
- Anh định ghi hình sao?
- Vâng, cũng đại loại như thế...
Người quản lý liếc qua cuốn băng.
- Mất lẫy rồi, anh xem, cái lẫy chống ghi bị bẻ đi mất rồi.
Cũng một phần do rượu, Asakawa đột nhiên cảm thấy mất tự chủ. Đã bảo cho mượn thì mau đưa cho người ta mượn, lão già khốn kiếp này! Cơn nóng bốc lên khiến cho những lời lỗ mãng ấy bật ra trong đầu gã. Nhưng dù say đến đâu, gã cũng chẳng bao giờ dám tỏ thái độ hung hăng với người khác.
- Bác làm ơn đi, cháu sẽ trả lại ngay mà.
Asakawa cúi đầu. Người quản lý có vẻ không hiểu nổi tại sao vị khách kia lại quan tâm tới cái đó đến vậy. Phải chăng trong đó ẩn chứa những hình ảnh vô cùng thú vị? Chẳng hạn như một cuốn băng chưa kịp xoá... Người quản lý tiếc rẻ vì đã không xem nó lúc tìm thấy. Dù rất muốn xem ngay bây giờ, nhưng khách đã nài nỉ ông ta sao dám từ chối. Người quản lý đưa cuốn băng cho Asakawa. Gã định rút ví nhưng người quản lý xua tay.
- Thôi, thôi, khỏi tiền nong. Ai lại nhận của anh cơ chứ.
- Cảm ơn bác, cháu sẽ trả ngay.
Asakawa khẽ nhấc bàn tay cầm cuộn băng lên tỏ ý cảm ơn.
- Nếu hay nhớ đưa lại cho tôi sớm nhé.
Trí tò mò của người quản lý bị kích thích tột độ. Ông ta đã xem qua tất cả những cuốn có ở đây, vì thế chúng không còn là mối quan tâm đối với ông ta nữa.
... Lạ thật, tại sao ông ta lại bỏ qua cuốn đó? Một thứ rấttốt để tiêu sầu. Nhưng, cũng có thể chỉ là cuốn băng ghi lại một chương trình truyền hình vô vị.
Người quản lý vẫn tin rằng cuộn băng đó sẽ được trả lại.
 
Cuộn băng đã được tua sẵn về đầu. Đó là loại băng 120 phút thông thường, có thể mua ở bất cứ đâu, và đúng như lời người quản lý, lẫy chống ghi đã bị bẻ. Asakawa bật nguồn, đẩy cuộn băng vào trong. Gã ngồi khoanh chân ngay trước màn hình và ấn nút play. Có tiếng băng chạy. Nó đem đến cho gã niềm hy vọng rằng, chiếc chìa khoá mở cánh cửa của bốn cái chết đầy bí ẩn đang được cất giấu trong đó. Và gã bật nút play với mong muốn sẽ tìm ra manh mối, dù chỉ là chút ít. Gã không tin rằng có sự nguy hiểm. Chỉ xem thôi thì có gì mà nguy hiểm. Thoạt tiên, hình rung mạnh kèm theo tiếng réo, nhưng sau khi gã chuyển hệ mọi thứ lại đâu vào đó, bóng hình đen đặc. Đấy là cảnh đầu tiên của cuốn băng. Gã đưa mặt lại gần, ngỡ là bị hỏng vì không thấy tiếng phát ra. "Ta báo trước. Chớ nên xem cái này. Sẽ hối hận đấy." Lời của Iwata Shuichi chợt hiện lên trong óc gã. Làm sao phải hối hận. Gã quen rồi. Trước đây gã từng là phóng viên của ban xã hội. Gã không bao giờ hối hận cho dù phải xem những thước phim man rợ nhất. Gã có đủ tự tin.
Trên màn hình đen đặc, một chấm sáng nhỏ bằng đầu kim xuất hiện và nhấp nháy, nó lớn dần lên, nhảy sang phải rồi sang trái trước khi bị cố định vào góc trái. Sau đó, nó tách ra và tạo nên một bó ánh sáng có nhiều đầu, nó bò xung quanh như một con giun và cuối cùng biến thành những ký tự. Nó không phải là một dạng phụ đề. Đó là một dòng chữ rất xấu được viết bằng bút lông trắng trên nền giấy đen. Tuy vậy gã vẫn đọc được. "Phải xem hết" - một mệnh lệnh. Nó biến mất và dòng chữ tiếp theo hiện lên. "Ngươi sẽ bị người chết ăn thịt." Gã không hiểu lắm ý tứ của cụm từ người chết, nhưng bị ăn thịt thì không phải chuyện đùa. Có vẻ như liên từ nếu không nối giữa hai câu đã bị lược bớt. Nếu quả vậy thì đây là một lời đe doạ: Không được tắt máy khi đang xem, nếu không, ngươi sẽ gặp tai hoạ.
Dòng chữ Ngươi sẽ bị người chết ăn thịt lớn dần lên, đẩy những mảng màu đen ra khỏi khung hình. Màu đen chuyển sang màu sữa đục, một sự biến màu đơn điệu. Rất khó khẳng định màu sữa đục với những vệt loang lổ ấy là một tông màu tự nhiên, trông nó giống như rất nhiều ý niệm được vẽ chồng lên nhau trên một tấm canvas. Giống như sự vô thức đang uốn lượn, sầu não, rồi tìm thấy lối ra và sắp sửa trương lên; hay giống như sự sống đang kích động. Tư duy hàm chứa năng lượng, như loài thú, nó nuốt đầy bụng bóng tối. Thật lạ là gã không hề có ý định ấn vào nút stop. Không phải gã sợ người chết, mà bởi dòng chảy mãnh liệt của năng lượng khiến gã thấy dễ chịu...
Màu đỏ bắn toé ra giữa cái màn hình gần như chỉ có trắng và đen. Cùng lúc, tiếng đất rền từ đâu đó vọng tới. Âm thanh ấy gây cho gã cái cảm giác rằng nó không có hướng, không phải nó phát ra từ chiếc loa nhỏ kia, đến mức gã cảm thấy một thứ ảo giác như thể toàn bộ ngôi nhà đang rung chuyển. Dòng dung dịch đỏ lòm nhầy nhụa bùng nổ và bắn tung toé, có những lúc như muốn che kín cả màn hình. Từ màu đen, chuyển sang màu trắng, rồi màu đỏ..., chỉ toàn sự biến đổi đầy kích thích của màu sắc chứ chưa hề thấy một quang cảnh tự nhiên nào xuất hiện. Những ý niệm trừu tượng hoá cùng sự biến đổi sống động của màu sắc tác động mạnh vào các tế bào não khiến gã thấy mệt. Thế rồi, như thể đọc được ý nghĩ của người xem, màu đỏ biến mất khỏi màn hình, mở ra khung cảnh một trái núi, mà chỉ cần nhìn qua cũng biết là núi lửa, với đỉnh núi thoai thoải. Từ miệng núi lửa, một cột khói trắng cuồn cuộn phun lên nền trời nắng chói. Máy quay được đặt dưới chân núi, và chân máy bị bao quanh bởi dòng nham thạch màu vàng xám đang ùng ục cháy.
Lại chìm vào bóng tối. Bầu trời trong xanh phút chốc bị nhuộm đen, sau đó vài giây, dòng dung dịch đỏ lòm bắn toé ra từ chính giữa màn hình rồi chảy xuống. Vụ nổ thứ hai..., những tia dung dịch bị văng ra bốc cháy đỏ rực, và nhờ thế, gã có thể phân biệt được những đường nét mờ tỏ của ngọn núi. Nó đã cụ thể hơn so với hình ảnh trừu tượng lúc trước. Rõ ràng đây là cảnh về một vụ nổ núi lửa, một hiện tượng thiên nhiên và có thể giải thích được. Dòng dung nham từ miệng núi lửa tràn xuống khe núi và tiến dần về phía gã. Máy quay đang đặt ở đâu? Nếu quay từ trên không thì là chuyện khác, chứ vẫn giữ nguyên vị trí vừa rồi sẽ không tránh khỏi bị dung nham nuốt chửng. Tiếng đất rung chuyển lớn dần và ngay trước khi dòng dung nham lấp kín màn hình, cảnh quay đột ngột thay đổi. Các phân cảnh không hề có tính liên tục và luôn thay đổi rất đột ngột.
Chấm đen giữa nền trắng đậm dần và hiện lên thành các ký tự. Nét viết hơi nhoè nhưng vẫn có thể nhận ra chữ Yama. Những chấm đen lớn nhỏ bắn đầy xung quanh các con chữ, tựa như ngòi bút đẫm mực đã bị lia rất mạnh. Các ký tự đứng im và màn hình cũng bất động.
Lại một sự thay đổi đột ngột nữa. Hai con xúc xắc bên trong cái bát đáy tròn đúc bằng chì đang chạy vòng quanh. Màn hình màu trắng, lòng cái bát chì màu đen, chỉ có một chấm của các con xúc xắc là màu đỏ. Đây là ba màu xuất hiện nhiều nhất. Hai con xúc xắc chạy chầm chậm không một tiếng động rồi dừng lại: một chấm và năm chấm. Một chấm đỏ, và năm chấm đen trên mặt trắng của các con xúc xắc... Nó có nghĩa gì?
Cảnh tiếp theo. Lần đầu tiên có con người xuất hiện. Một bà lão mặt mày nhăn nhúm ngồi khòng lưng trên hai manh chiếu, hai tay chống lên đầu gối, vai trái hơi nhô ra, mặt nhìn thẳng và đang chậm rãi nói. Vì mắt này to hơn hẳn mắt kia nên mỗi lần bà lão chớp mắt trông không khác gì đang nháy mắt.
"Kể từ... thế nào? Cháu mà... nước... quỷ ác... Phải cẩn thận... nghe chưa. Sang năm,... sinh con. Cháu gái... nghe lời bà nói. Không có gì..."
Bà lão chỉ nói có vậy với bộ mặt vô hồn, rồi đột nhiên biến mất. Có nhiều tiếng không rõ nghĩa. Nhưng không hiểu sao gã cảm thấy như thể bà lão đang thuyết giáo. Bà ta bảo cẩn thận điều gì nhỉ? Rốt cuộc bà lão này đang nói với ai và đang nhìn vào ai?
Khuôn mặt của một đứa trẻ sơ sinh choán hết màn hình. Có tiếng khóc chào đời từ đâu đó phát ra. Không phải từ đôi loa của ti vi. Mà từ rất gần, ngay bên dưới gã. Gã đang ở cực gần tiếng khóc. Trên màn hình xuất hiện cánh tay đang bế đứa trẻ. Bàn tay trái đỡ dưới đầu, bàn tay phải vòng qua lưng, xem ra vô cùng cẩn thận. Đôi bàn tay rất đẹp. Asakawa nhìn như bị thôi miên, và không biết tự lúc nào cánh tay gã đã đưa thành tư thế giống như của nhân vật trong kia. Gã giật mình rụt tay lại. Vì gã cảm nhận thấy. Sự nhớp nháp của nước ối hay của máu, và sức nặng của một cục thịt bé nhỏ. Asakawa vung hai tay ra như thể để ném nó đi và đưa lòng bàn tay lên mặt. Mùi vẫn còn đọng lại. Mùi máu nhạt, không biết là của bào thai, hay là của... Có cả cảm giác ươn ướt trên da. Thế nhưng, bàn tay gã không hề ướt. Asakawa quay lại màn hình. Vẫn là khuôn mặt của đứa trẻ. Mặc dù đang khóc nhưng nét mặt đứa trẻ vẫn tràn đầy vẻ ôn hoà, cơn run vì khóc truyền xuống háng khiến cả cái vật nhỏ bé kia cũng rung lên.
Cảnh sau đó là một trăm bộ mặt người. Bộ mặt nào cũng chứa đầy sự căm tức và hằn học, ngoài ra chẳng còn có đặc điểm đáng chú ý nào khác. Những bộ mặt như được sơn lên một tấm ván phẳng lùi dần về phía sau màn hình. Thế rồi, khi từng bộ mặt thu nhỏ lại thì cùng lúc có vô số những bộ mặt khác được nhân lên tạo thành một đại quần thể. Lạ một điều là cái đại quần thể ấy chỉ có từ cổ trở lên, nhưng những âm thanh mà chúng phát ra buộc người ta phải công nhận đó là một đại quần thể. Các bộ mặt với cơ man những cái miệng đang gào thét điều gì đó, đồng thời mỗi lúc một nhiều hơn và nhỏ dần đi. Asakawa không nghe được những điều chúng nói. Sự ầm ĩ của một đám đông, nghe như những tiếng la ó hay chửi rủa. Chứ rõ ràng không phải những lời hoan nghênh, tán thưởng. Rồi mãi gã cũng nghe được một tiếng rành rọt: "Đồ dối trá!". Sau đó là một tiếng nữa: "Quân lừa đảo!". Số lượng những bộ mặt có lẽ đã vượt quá một nghìn. Vậy mà chúng vẫn tiếp tục sinh sôi, và tỷ lệ thuận với điều đó, những tiếng nói cũng to lên. Khi con số vượt qua một vạn, chúng biến thành những hạt nhỏ màu đen lấp kính cả màn hình, bóng hình biến thành thứ màu tựa như trạng thái bị tắt nguồn, mặc dù vậy những tiếng nói kia vẫn không dứt. Thế rồi cuối cùng những tiếng nói cũng biến mất và chỉ còn một chút dư âm trong tai gã. Cứ như vậy một lúc lâu như thể màn hình đang đứng im. Asakawa tự dưng cảm thấy bất nhẫn. Gã tưởng tượng như đó là những lời thoá mạ dành cho chính gã...
 
Màn hình chuyển sang cảnh khác, một chiếc ti vi trên một chiếc giá gỗ. Đấy là kiểu ti vi 19 inch đời cũ với núm chỉnh kênh hình tròn và một bộ ăng-ten râu đặt trên nóc tủ gỗ. Không phải kịch trong kịch mà là ti vi trong ti vi. Chiếc ti vi ở bên trong vẫn chưa có hình gì. Dường như nó đang bật vì đèn báo bên cạnh núm chỉnh kênh sáng đỏ. Màn hình của chiếc ti vi trên màn hình rung rung. Sau đó nó trở về trạng thái cũ rồi lại rung rung. Khoảng cách giữa các lần ngắn dần, rồi một con chữ hiện ra, khá mờ. Hình như là chữ Sada. Thỉnh thoảng, con chữ giật giật, méo mó rồi mờ thành chữ ada và biến mất. Nó giống như cái cách một con chữ bằng phấn trắng được viết lên bảng đen bị xoá đi bởi một chiếc giẻ lau thấm nước.
Giữa lúc ấy, Asakawa bị một cảm giác khó thở kỳ lạ xâm chiếm. Gã nghe thấy nhịp tim, cảm thấy áp lực của máu trong thành động mạch. Sau đó là mùi, cảm giác, vị chua ngọt kích thích đầu lưỡi. Gã không hiểu nổi bằng cách nào mà một dạng vật chất trung gian ngoài hình ảnh và âm thanh có thể kích thích vào các giác quan của gã.
Bất thình lình, khuôn mặt một người đàn ông xuất hiện. Không giống với những hình ảnh trước, người đàn ông này rõ ràng đang sống, sức sống gõ nhịp trong con người anh ta. Bỗng nhiên gã có ác cảm. Gã không hiểu tại sao mình lại thấy ác cảm. Anh ta không đến nỗi quá xấu xí. Mái trước hơi hói, nhưng dù sao, cũng thuộc loại đàn ông tạm được. Song có điều gì đó rất đáng sợ trong đôi mắt anh ta: đôi mắt của loài thú đang rình mồi. Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt anh ta. Anh ta thở hổn hển, mắt nhìn lên và cử động thân mình theo một nhịp điệu. Sau lưng anh ta là những lùm cây thưa thớt, ánh trời chiều chiếu xuyên qua những kẽ cây. Người đàn ông đưa mắt xuống, nhìn về phía trước mặt thì gặp đúng ánh mắt của Asakawa. Gã và người đàn ông nhìn vào mắt nhau một hồi lâu. Cảm giác khó thở gia tăng khiến gã muốn quay đi chỗ khác. Người đàn ông sùi bọt mép, mắt đỏ ngầu, cổ từ từ bạnh ra rồi thoắt biến mất khỏi phía trái màn hình, sau đó, chỉ còn lại bóng đen của những thân cây. Có tiếng hét dội lên từ đáy bụng. Cùng với tiếng hét, khuôn mặt người đàn ông hiện trở lại, bắt đầu từ vai rồi lên đến mang tai. Vai anh ta để trần. Mỏm vai phải bị khoét mất vài phân thịt. Những giọt máu nhỏ ra từ đó bị hút về phía máy quay, lớn dần lên, va vào ống kính và làm nó bị nhoè đi. Như thể chiếc máy quay biết chớp mắt, màn hình vụt tối một lần, rồi hai lần, sau đó ánh sáng trở lại với một hình ảnh đầy màu đỏ. Đôi mắt người đàn ông đằng đằng sát khí. Cả khuôn mặt và mỏm vai cùng tiến đến sát màn hình, phần xương trắng hếu dưới lớp thịt vừa bị khoét mất lộ ra. Lại là khung cảnh của những lùm cây. Bầu trời xoay đảo. Dưới màu sắc của bầu trời đang lẫn dần vào bóng tà, đám lá cỏ khô kêu lạo xạo. Gã nhìn thấy đất, thấy cỏ, rồi lại thấy bầu trời. Có tiếng khóc của một đứa trẻ sơ sinh ở đâu đó. Liệu có phải là của con trai người đàn ông ban nãy...? Chẳng mấy chốc, bóng tối viền quanh lấy màn hình và từ từ thu hẹp vòng vây ấy lại. Ranh giới giữa sáng và tối khá rõ ràng. Chính giữa màn hình, trong bóng tối, một mặt trăng tròn hiện lên trống hoác. Có khuôn mặt của người đàn ông trong đó. Từ mặt trăng, có một tảng gì đó cực lớn rơi xuống gây ra một tiếng động trầm đục. Một tảng nữa, rồi lại một tảng nữa. Kèm theo mỗi tiếng động, hình ảnh lại giật mạnh, chao đảo. Có tiếng thịt bị dập, đằng sau đó là bóng tối thực sự. Tuy vậy, vẫn có tiếng tim co bóp. Máu đang chảy trong huyết quản ùng ục. Cảnh phim đó kéo dài khá lâu. Bóng tối ấy làm người ta tưởng như nó sẽ không bao giờ chấm dứt. Chữ lại hiện lên giống như lúc đầu. So với những dòng chữ nguệch ngoạc như của một đứa trẻ mới tập viết ở cảnh đầu, những dòng chữ ở cảnh cuối khả dĩ hơn rất nhiều. Những ký tự màu trắng mờ tỏ lần lượt hiện lên rồi biến mất.

"Những kẻ xem hình ảnh này sẽ chết vào đúng giờ này một tuần sau đó. Nếu không muốn chết, hãy làm theo những lời dưới đây. Nghĩa là..." Asakawa nuốt nước bọt, mở to mắt và nhìn dán vào ti vi. Nhưng màn hình vụt thay đổi. Sự thay đổi quá đỗi hoàn hảo. Bởi một cảnh quảng cáo truyền hình, mà có lẽ ai cũng đã từng xem qua, đột ngột chen ngang. Quang cảnh thị trấn nhỏ đêm hè, cô nữ diễn viên trong bộ yukata ngồi bên hiên, pháo hoa khoe sắc trên nền trời..., một đoạn quảng cáo hương muỗi. Đoạn quảng cáo ước chừng ba mươi giây vừa kết thúc, màn hình chuẩn bị chuyển sang một cảnh khác thì đột nhiên đen ngóm. Chỉ có bóng tối lúc trước và dư ảnh của dòng chữ cuối cùng đã biến mất. Sau đó là những tạp âm kêu lào xào, nghĩa là băng đã chạy hết. Mắt không hề chớp, Asakawa tua băng và cho quay lại cảnh cuối. Vẫn như lần trước... cái đoạn quảng cáo chết tiệt đã chèn lên phần quan trọng nhất. Asakawa dừng băng rồi tắt ti vi. Mặc vậy, mắt gã vẫn không rời khỏi màn hình. Họng gã khô khốc.
... Cái gì... thế nhỉ?
Gã còn biết nói gì ngoài câu ấy. Sự tiếp nối của những cảnh phim không tường nghĩa. Nhưng có duy nhất một điều mà gã hiểu được, ấy là những ai xem cái này sẽ chết đúng một tuần sau đó, và, phần hướng dẫn phương cách tránh khỏi cái chết ấy lại bị xoá mất bởi một đoạn quảng cáo truyền hình.
... Ai đã xoá? Hay là bốn đứa trẻ?
Hai hàm răng gã đánh vào nhau cầm cập. Nếu gã không biết về việc cả bốn đứa trẻ đều chết cùng một lúc, thì gã đã có thể cười mà rằng, thật là một trò ngớ ngẩn. Nhưng vì gã biết. Bốn đứa trẻ đó đã chết đầy bí ẩn, hệt như những lời cảnh báo trong băng.
Đúng lúc đó, chuông điện thoại reo. Tim gã gần như nhảy bắn lên vì âm thanh ấy. Gã nhấc ống nghe và áp vào tai. Gã linh cảm thấy có một thứ-gì-đó đang giấu mình trong bóng tối và theo dõi gã.
- ... Alô.
Mãi một lúc Asakawa mới nói được như vậy với một giọng run rẩy. Không có tiếng trả lời. Ở một nơi nhỏ hẹp, tối tăm, có cái gì đó đang xoáy tít. Có một âm thanh trầm tựa như tiếng đất rền và mùi đất ải. Gã cảm thấy tóc gáy gã đang dựng lên vì khí lạnh truyền đến mang tai. Càng lúc gã càng thấy tức thở hơn, lũ côn trùng từ sâu trong đất lổm ngổm bám vào cổ chân và sống lưng khiến gã nhột nhạt. Những ý nghĩ không thể nói thành lời và sự căm ghét đã đạt đến cùng cực theo thời gian truyền tới gã qua điện thoại. Asakawa dập mạnh ống nghe, lấy tay bịt miệng rồi chạy vào toilet. Gã thấy ớn lạnh và bất giác buồn nôn. Ở bên kia đầu dây, cái đó đã không nói gì, nhưng gã biết ý đồ của nó. Đấy là một cú điện thoại xác nhận.
... Thế nào, hiểu rồi chứ. Nhớ làm theo lời ta nói..., nếu không...
Asakawa nôn thốc trên bệ xí. Chẳng có gì ngoài chỗ whisky gã vừa uống và thứ dịch vị chua loét từ mồm gã chảy ra. Mắt gã nhoè nước. Dịch vị xộc lên mũi làm gã ngạt thở. Mặc dầu vậy, lúc này, ở đây, gã vẫn tin rằng nếu có thể nôn ra toàn bộ, thì gã cũng sẽ trút đi được cái hình ảnh mà gã vừa xem.
- ... nếu không... nếu không cái chết tiệt. Ta làm sao biết được. Phải làm gì bây giờ? Hả? Ta phải làm gì bây giờ?
Ngồi bệt xuống sàn toilet, Asakawa gào to lên để át đi nỗi sợ.
- Ngươi có hiểu không, bọn chúng xoá đi mất rồi... cái chỗ quan trọng ấy. T... ta làm sao biết được. Ta xin ngươi đấy.
Lúc này, gã đâu còn cách nào khác là thanh minh. Chẳng kịp ngó đến bộ dạng thảm hại của mình, Asakawa lao ra khỏi toilet, gã nhìn khắp căn phòng, dập đầu lia lịa trước cái-thứ rất có thể đang ở đâu đây và van xin nó. Bản thân gã cũng không nhận ra tự khi nào gã đang làm một bộ mặt như thể cầu xin sự chấp nhận của kẻ khác. Asakawa đứng dậy, súc miệng bên bồn rửa bát và uống nước. Gió thổi. Gã nhìn ra cửa sổ phòng khách. Cánh rèm đang lay động.
... Sao thế, rõ ràng mình đã đóng cửa rồi mà.
Quả có vậy, Asakawa đã đóng chặt khung cửa kính trước khi kéo rèm. Gã không hề nhớ nhầm. Gã run liên hồi. Rồi một cách vô cớ, trong óc gã hiện lên quanh cảnh về đêm của những toà cao ốc nơi thành phố. Những ánh đèn thoát ra từ các ô cửa sổ hình bàn cờ trên bức tường của toà nhà lúc ẩn lúc hiện như muốn biến thành những ký tự nào đó. Nếu ví toà nhà với một tấm bia mộ khổng lồ hình chữ nhật, thì những con chữ được tạo nên bởi ánh đèn từ các ô cửa sổ trông tựa như những dòng tên trên mộ chí. Thế rồi, ngay cả khi hình ảnh ấy biến mất thì tấm rèm đăng ten màu trắng vẫn phật phờ trước mắt gã.
Asakawa lấy chiếc túi từ trong tủ hốc và thu dọn đồ đạc trong trạng thái gần như cuồng loạn. Gã không thể ở lại đây thêm một giây nào nữa.
... Mặc xác tất cả. Nếu mình ở lại đây, cái mạng này sẽ đi tong trong dêm nay chứ đừng nói đến một tuần.
Vẫn bận nguyên áo giéc-xi và quần thể thao, gã đi xuống thềm cửa. Nhưng trước khi ra đến bên ngoài, lý trí của gã hồi tỉnh. Gã cần phải nghĩ ra phương cách để cứu mình, chứ không chỉ đơn giản là chạy trốn khỏi sự sợ hãi. Trong một tích tắc khi bản năng sinh tồn chợt trỗi dậy, Asakawa quay lại phòng và lấy băng ra khỏi máy. Gã cuộn tròn cuốn băng vào khăn rồi nhét vào túi. Cuốn băng là toàn bộ manh mối nên gã không thể bỏ nó lại đây. Nếu giải mã được những cảnh phim liên tục đó, biết đâu gã sẽ tìm ra cách cứu mình. Nhưng dù thế nào, thời hạn chỉ có một tuần. Gã xem đồng hồ. Mười giờ tám phút. Hình như gã xem xong lúc mười giờ bốn phút. Thời gian càng lúc càng quan trọng với gã. Asakawa để chìa khoá lên bàn và ra khỏi phòng trong ánh đèn vàng vọt. Gã chạy về phía chiếc xe mà không ghé qua phòng quản lý, cắm chìa khóa rồi khởi động.
- Không thể hành động một mình, cần phải nhờ sự giúp đỡ của hắn.
Vừa lẩm bẩm một mình Asakawa vừa cho xe lao về phía trước, song vẫn không ngừng để mắt đến gương chiếu hậu. Gã cảm thấy xe chạy rất chậm mặc dù đã ra sức đạp ga. Hệt như một bộ phim đuổi bắt trong mơ. Gã liên tục nhìn gương chiếu hậu. Nhưng chẳng có bóng đen nào bám theo.
 
Phần 3: LỐC XOÁY

Thứ Sáu, ngày 12 tháng Mười
- Trước tiên cậu phải cho tớ xem cuốn băng ấy đã.
Takayama Ryuji vừa nhăn nhở cười vừa nói. Gác hai của một quán cà phê ở ngã tư Roppongi. Bảy giờ hai mươi phút tối thứ Sáu ngày 12 tháng Mười. Đã gần hai mươi bốn giờ trôi qua kể từ lúc Asakawa không may xem phải cuốn băng đó. Với hy vọng rằng nỗi sợ nào rồi cũng sẽ tan đi nếu được ở giữa những tiếng cười nói vui vẻ của đám con gái, gã đã chọn Roppongi phồn hoa cho cuộc hẹn, nhưng lòng gã chẳng nhẹ nhõm hơn là mấy. Càng kể, sự kiện đêm qua càng hiện về rõ ràng trong gã, nỗi sợ không hề giảm bớt mà mỗi lúc một lớn thêm. Thậm chí, rất sâu trong cơ thể, đôi lúc gã còn bất chợt cảm thấy bóng đen của thứ-gì-đó đã ám vào mình.
Ryuji vận một chiếc sơ mi trắng, cúc cổ đóng kín và không hề có vẻ gì muốn tháo chiếc cà vạt đang thắt hơi chặt trên cổ ra. Vì thế, phần thịt xung quanh cổ y đùn lên thành hai lớp, khiến cho chính người nhìn phải cảm thấy khó thở. Hẳn là một người bình thường sẽ chẳng khoái gì khi bị bộ mặt góc cạnh này cười vào mặt.
Ryuji thò tay lấy đá từ trong cốc rồi ném tọt vào mồm.
- ... Cậu không thèm nghe mình phải không? Mình đã bảo là rất nguy hiểm. – Asakawa nén cơn bực dọc nói.
- Thế thì tại sao cậu lại muốn hỏi ý kiến tớ? Cậu muốn tớ giúp đúng không nào?
Vẫn giữ nguyên nụ cười trên má, Ryuji nhai đá rôm rốp trong miệng.
- Ngay cả không xem cuộn băng đó thì cậu vẫn có cách cứu mình cơ mà.
Ryuji lắc đầu trong tư thế hơi cúi. Nụ cười nhạt vẫn chưa biến mất khỏi khuôn mặt. Asakawa hét lên đầy kích động vì một cơn thịnh nộ bất ngờ.
- Cậu không tin những gì mình kể, phải không?
Xem phải cuộn băng ấy trong tư thế không được chuẩn bị, Asakawa giống như kẻ mở phải một gói quà mà không ngờ đó là thuốc nổ. Gã còn biết nói thế nào khác để giải thích về nụ cười mỉa mai ấy của Ryuji? Gã chưa bao giờ trải qua một nỗi sợ nào khủng khiếp đến vậy. Nhưng đó chưa phải là dấu chấm hết. Còn sáu ngày phía trước. Cơn hoảng sợ như một sợi dây thắt cổ, sẽ từ từ thu hẹp vòng siết ấy lại. Điều chực đợi gã ở phía trước là cái chết. Thế mà thằng cha này vẫn cứ nằng nặc đòi xem cuộn băng ấy.
- Đừng có lớn tiếng. Cậu bất bình vì tớ không sợ chứ gì? Nghe này Asakawa, như tớ đã từng nói với cậu, tớ muốn xem cả ngày tận thế nếu có thể. Nếu có kẻ nào giải được câu đố về sự vận động của cái thế giới này, nghĩa là sự khởi đầu và kết thúc, nghĩa là sự cực đại và cực tiểu, có lẽ tớ dám đánh đổi cả mạng sống của mình để moi được những kiến thức ấy từ hắn. Cậu đã từng đưa tớ lên báo. Chắc cậu còn nhớ.
Tất nhiên Asakawa còn nhớ. Chính vì thế, gã mới kể hết toàn bộ cho Ryuji như thế này.
Ban đầu, kế hoạch bản thảo do Asakawa lập ra. Hai năm trước, khi gã 35 tuổi, có lần gã tự hỏi: không biết những người đàn ông trẻ Nhật bản cùng độ tuổi với mình đang suy nghĩ những gì, đang sống với những ước mơ ra sao? Sau đó kế hoạch được thông qua, gã chọn ra những người ba mươi tuổi đang hoạt động trên nhiều lĩnh vực, từ những quan chức trong bộ kinh tế-công nghiệp, những dân biểu trong Hội đồng Thành phố, những nhân viên trong các hãng thương mại hạng nhất cho đến những người làm công hết sức bình thường cho bài báo của mình. Trên một trang báo hạn hẹp gã đưa lên đó từ những thông tin cơ bản nhất mà có lẽ độc giả nào cũng quan tâm đến những cá tính đặc trưng của từng nhân vật và phân tích về cái độ tuổi ba mươi của bọn họ. Tình cờ, trong số mười mấy người mà gã lựa chọn, gã phát hiện ra có Takayâm Ryuji, bạn học thời cấp ba của gã. Chức danh của người này là giảng viên hợp đồng Bộ môn Triết học, Khoa văn, trường Đại học K. Nhìn thấy thông tin đó gã hơi ngạc nhiên. Vì theo trí nhớ của gã, Ryuji theo học ngành y. Asakawa đảm nhiệm cuộc phỏng vấn lần đó. Gã đưa Ryuji vào danh sách với tư cách là đại diện cho một lĩnh vực, tuy nhiên cá tính của anh ta lại quá khắc nghiệt để có thể đại diện cho một lớp học giả tuổi ba mươi hứa hẹn. Gã cảm thấy như cái tính cách lãng đãng từ hồi cấp ba của anh ta càng ngày càng được bồi đắp hơn.
Sau khi tốt nghiệp Y khoa, anh ta học tiếp ở Bộ môn triết học, và vào thời gian phỏng vấn, anh ta vừa hoàn tất chương trình đào tạo tiến sỹ. Nếu chiếc ghế trợ giảng còn trống thì hẳn là, một cách nghiễm nhiên, anh ta đã có được vị trí đó, tuy nhiên, rủi thay nó đã thuộc về một nhà nghiên cứu khoá trên. Còn Ryuji nhận vị trí giảng viên hợp đồng và một tuần có hai tiết giảng về logic học. Hiện nay triết học đã rất gần với một môn khoa học. Nó không còn phải thứ triết học bông đùa với những quan niệm ngớ ngẩn như con người nên sống như thế nào. Chuyên môn của Ryuji là logic học, một bộ môn nghiên cứu toán học mà không dùng đến những con số. Thời xưa ở Hy lạp cổ đại, các triết gia đồng thời cũng là những nhà toán học. Ryuji cũng vậy, tuy anh ta là giảng viên văn khoa nhưng cái đầu của anh ta lại là cái đầu của một nhà khoa học. Tuy nhiên, không chỉ am hiểu chuyên môn, Ryuji còn cực kỳ uyên thâm về siêu tâm lý học, đến mức khó ai sánh nổi. Asakawa nhận thấy có gì đó mâu thuẫn. Siêu tâm lý học nghĩa là siêu nhiên và thần bí, chẳng phải đi ngược lại với những luận cứ khoa học hay sao? Asakawa hỏi thì Ryuji trả lời rằng: "Ngược lại. Siêu tâm lý học là một từ khoá giải mã sự vận động của thế giới". Đang giữa mùa hè vậy mà anh ta mặc một chiếc sơ mi kẻ sọc dài tay và cài kín cúc cổ hệt như hôm nay. Ryuji nói tiếp trong khi mồ hôi chảy đầy trên khuôn mặt đang khổ sở vì nóng bức: "Tớ muốn chứng kiến giây phút diệt vong của loài người và nhổ vào mặt lũ người đang kêu gào cho hoà bình của thế giới và sự trường tồn của nhân loại".
Trong lúc phỏng vấn Asakawa hỏi: “Hãy cho mình biết về ước mơ trong tương lai của cậu?”
Ryuji thản nhiên đáp: “Ngồi trên ngọn đồi cao vừa chiêm ngưỡng cảnh diệt vong của loài người vừa đào một cái hố xuống lòng đất và phóng tinh liên tục liên tục vào đó.”
Asakawa hỏi lại: “Này, cậu định để mình viết cái này lên mặt báo thật đấy hả?”
Ryuji cũng chỉ khẽ nở nụ cười nhạt như lúc này và gật đầu.
- Vì vậy, chẳng có gì làm tớ sợ cả; - Nói xong Ryuji đưa sát mặt về phía Asakawa; -Tối qua, tớ vừa làm một em nữa đấy.
.....Lại nữa sao???
Theo như Asakawa biết thì đây là nạn nhân thứ ba của Ryuji. Vụ việc đầu tiên mà gã được nghe là hồi lớp mười một. Asakawa và Ryuji theo học tại một trường cấp ba của thành phố Kawasaki, cả hai đều đi đến trường từ nhà mình ở quận Tama, tuy nhiên Asakawa thường có thói quen đến trường sớm hơn giờ học một tiếng đồng hồ, khoảng thời gian khoan khoái nhất mỗi sáng, để đọc trước bài của ngày hôm đó. Không kể học sinh trực nhật thì bao giờ gã cũng là người tới sớm nhất. Ngược lại Ryuji quanh năm đến muộn và chưa bao giờ có mặt ở lớp đúng tiết học thứ nhất. Vậy mà vào một buổi sáng nọ, khi kỳ nghỉ hè vừa kết thúc, Asakawa tới trường như thường lệ thì đã thấy Ryuji đang lơ đễnh ngồi trên bàn học từ bao giờ. "Ái chà, hôm nay lạ quá nhỉ" - Asakawa cất tiếng. "Ờ có gì mà lạ" - sau câu trả lời lạnh nhạt Ryuji vô hồn nhìn qua cửa sổ về phía sân trường. Đôi mắt y đỏ ngầu. Hai má cũng đỏ hơi thở phảng phất mùi rượu. Cuộc trò chuyện chẳng kéo dài thêm nữa vì hai người vốn không thân nhau. Asakawa bắt đầu giở sách ra và đọc bài như thường lệ. Một lúc lâu sau, không một tiếng động, Ryuji lén tới sau lưng Asakawa rồi vỗ vào vai gã: "Ê, tớ có việc này muốn nhờ cậu..." Sở hữu một tính cách mạnh mẽ, học giỏi lại là vận động viên điền kinh có hạng, Ryuji là tâm điểm của mọi người trong trường. Với một kẻ làng nhàng như Asakawa, không có lý do gì để khó chịu khi được một bạn học như Ryuji nhờ vả.
- Thực ra là thế này, tớ muốn nhờ cậu gọi điện thoại về nhà tớ. -Ryuji thân mật khoác tay lên vai Asakawa nói;
- Được, nhưng để làm gì??
- Cậu chỉ cần gọi rồi hỏi gặp tớ là được.
Asakawa nhíu mày.
- Hỏi gặp cậu á? Thế không phải cậu đang ở đây là gì?
- Thôi nào, giúp tớ đi mà.
Asakawa quay số như Ryuji bảo, có tiếng mẹ Ryuji trong điện thoại."Bác cho cháu gặp Ryuji với ạ" Asakawa hỏi gặp kẻ đang đứng ngay trước mặt mình. "Ryuji đến trường rồi cháu ạ..." - Mẹ Ryuji ôn tồn đáp. "Vậy hả bác" - nói rồi Asakawa gác máy.
- Ê, thế được chưa?
Asakawa mù tịt. Gã không hiểu làm thế thì có ý nghĩa gì.
- Có gì khác lạ không? Ryuji hỏi - Giọng bà già tớ có căng thẳng không?
- Không, chẳng có gì...
Lần đầu tiên Asakawa nghe thấy giọng mẹ Ryuji, nhưng gã không nghĩ rằng có vẻ gì căng thẳng trong đó.
- Thế có tiếng nói chuyện ầm ĩ xung quanh không?
- Không, chẳng có gì. Có vẻ như mẹ cậu đang ăn sáng, rất bình thường.
- Thế hả, thế thì tốt. Cảm ơn nhé.
- Này, chuyện gì vậy? Tại sao cậu nhờ mình làm việc này?
Nét mặt Ryuji có vẻ giãn ra. Ryuji quàng tay lên vai Asakawa rồi kéo mặt gã sát lại phía mình và ghé miệng vào tai.
- Thấy cậu là người kín miệng, nên tớ tin. Tớ sẽ nói cho cậu biết. Thực ra, khoảng năm giờ sáng nay, tớ đã h.ãm hiếp một đứa con gái.
Asakawa choáng váng không thốt nên lời. Năm giờ sáng, trời còn tinh mơ, Ryuji đã lẻn vào căn hộ của nữ sinh đại học sống một mình và làm bậy. Trước khi tới trường y còn quẳng lại một lời đe doạ: mày mà báo cảnh sát thì biết tay tao. Vì thế, y sợ giờ này cảnh sát đang có mặt tại nhà y nên nhờ Asakawa gọi điện về thăm dò tình hình.
Kể từ sau sự kiện ấy, Asakawa và Ryuji thường xuyên nói chuyện với nhau hơn. Đương nhiên, Asakawa không hề tiết lộ hành vi phạm tội của Ryuji cho ai biết. Rồi một năm sau tại đại hội thể thao các trường trung học, một năm sau nữa, y vào học tại khoa Y, trường đại học K. Còn Asakawa, sau một năm thi trượt, cuối cùng gã cũng đỗ được vào khoa văn một trường đại học nổi tiếng.
Asakawa biết rất rõ gã đang mong đợi điều gì. Quả tình, gã muốn Ryuji xem cuộn băng đó. Kiến thức và kinh nghiệm khó mà giúp gì được Ryuji nếu chỉ nghe kể suông, Nhưng mặt khác, luân thường, không cho phép gã đẩy người khác đến chỗ nguy hiểm vì sự tồn vong của mình. Có một cuộc giằng co trong lòng gã, song bên nào nặng hơn, chỉ cần đặt lên bàn cân là sáng tỏ. Cố nhiên, gã muốn tăng cơ hội sống sót cho mình. Nhưng.... tại sao mình lại có thể là bạn của hắn được nhỉ? Cái câu hỏi thường trực ấy bất chợt nảy ra trong đầu gã. Mười năm làm tại toà soạn báo, gã đã quen không biết bao nhiêu người qua những lần phỏng vấn. Vậy mà cớ sao gã chỉ có Ryuji làm bạn rượu? Vì hắn ta là bạn cùng lớp ư??? Không, gã không thiếu gì bạn cùng lớp. Bỗng nhiên Asakawa chẳng còn hiểu nổi bản thân khi nghĩ rằng ở đâu đó trong lòng, gã thấy đồng cảm với sự lập dị của Ryuji.
- Thôi nào, còn chần chờ gì nữa. Chỉ có sáu ngày thôi. Ryuji nắm lấy hai cánh tay Asakawa bóp mạnh. Ryuji rất khoẻ. - mau lên, cho tớ xem cuộn băng ấy đi không muộn mất bây giờ. Cậu mà ra ma tớ sẽ buồn đấy.
Ryuji nắm cánh tay Asakawa theo nhịp rồi cầm dĩa chọc lấy miếng bánh kem còn nguyên trên đĩa đưa lên miệng và bắt đầu nhai nhồm nhoàm. Ryuji không có thói quen khép miệng khi nhai khiến cho Asakawa cảm thấy khó chịu lúc nhìn thấy cảnh chiếc bánh trộn lẫn với nước bọt và tan chảy ngay trước mắt..
Một người đàn ông với khuôn mặt góc cạnh, vóc người lực lưỡng, vừa nhồm nhoàm ăn bánh kem vừa lấy tay vốc đá trong cốc rồi cho vào mồm nhai rôm rốp... Gã đã quyết. Ngoài hắn ra, gã không còn có thể dựa vào ai khác.

....Kẻ sát nhân là một hồnma giấu mặt, vì thế người thường không phải là đối thủ của nó. Và kẻ dám thản nhiên xem cuộn băng ấy xem chừng chỉ có Ryuji. Dĩ độc trị độc. Không còn cách nào khác. Nếu Ryuji phải chết thì âu cũng là chuyện có thể đoán trước. Một kẻ dám lớn tiếng đòi chứng kiến cảnh diệt vong của loài người thì không đáng được sống lâu.
Asakawa quyết định biện minh cho hành vi lôi kéo người khác với một lý lẽ như vậy.
 
Hai người bắt taxi tới căn hộ chung cư của Asakawa. Nếu đường không đông thì đi từ Roppongi về Kita-shinagawa chỉ mất chưa đầy hai mươi phút. Trong xe, chiếc gương buồng lái chỉ phản chiếu vầng trán của người tài xế. Anh ta im lặng đặt một tay trên vô lăng và không hề có ý định bắt chuyện với khách. Nếu truy lại căn nguyên thì mọi chuyện đều bắt đầu từ sự lắm lời của một tay tài xế taxi. Nếu lúc đó, tại chỗ đó, gã không bắt chiếc taxi ấy thì đâu đến nỗi bị sa chân vào cái vụ án quái gở này. Asakawa nhớ lại sự việc nửa tháng trước. Và gã hối hận, đáng lẽ gã nên mua vé tàu để về nhà dù rất bất tiện, dù phải chuyển qua bao nhiêu ga đi nữa...
- Đầu video nhà cậu có sang băng được không? - Ryuji hỏi.
Vì đặc thù nghề nghiệp, Asakawa có hai bộ đầu quay băng. Một bộ gã mua vào thời kỳ đầu video mới được phổ biến nên tính năng không thật tốt nhưng nếu chỉ là sao băng thì không vấn đề gì lắm.
- Được.
- Vậy hả, thế thì sang ngay cho tớ một cuốn. Tớ muốn mang về nhà xem lại nhiều lần để nghiên cứu.
Asakawa thấy vững dạ. Câu nói ấy của Ryuji đã dễ dàng giúp gã lấy lại dũng khí.
Hai người quyết định xuống taxi ở trước Gotenzan Hills để đi bộ. Chín giờ kém mười. Rất có thể lúc này vợ con gã vẫn còn thức. Shizu bao giờ cũng cho con đi tắm trước chín giờ, sau đó sẽ chui vào đệm và ngủ luôn trong lúc nằm cạnh con. Và một khi đã ngon giấc, cô hầu như không thể tự mình bò ra khỏi đệm. Shizu luôn cố gắng để có thời gian tâm sự với chồng, nên ngày trước, cô thường bỏ lại một lời nhắn trên mặt bàn: "Đánh thức em nhé." Sau khi kết thúc công việc và trở về, Asakawa sẽ làm theo lời nhắn ấy, gã sẽ lay vợ dậy vì nghĩ rằng vợ gã có thể dậy được. Thế nhưng, vợ gã chẳng bao giờ chịu dậy. Nếu còn cố lay dậy, vợ gã sẽ xua hai tay như đuổi ruồi trước mặt rồi nhăn nhó và kêu lên một cách khó chịu. Những lúc như thế, tuy Shizu đã đôi phần tỉnh giấc nhưng có vẻ như cơn buồn ngủ hoàn toàn chiếm ưu thế nên Asakawa đành phải bỏ cuộc. Chuyện này tiếp diễn vài lần khiến Asakawa không buồn đánh thức Shizu dậy nữa, cho dù có nhìn thấy lời nhắn, và rồi Shizu cũng không để lại lời nhắn nữa. Lúc này là chín giờ, khoảng thời gian bất khả xâm phạm của Shizu và Yoko. Vào những ngày như hôm nay, thế thành ra lại tốt. Vì Shizu không ưa gì Ryuji. Asakawa chưa bao giờ hỏi vợ tại sao vì nghĩ rằng thái độ đó hoàn toàn chính đáng. "Em xin anh đấy, đừng có mời anh ta đến nhà nữa được không." Asakawa vẫn còn nhớ vẻ mặt đầy ác cảm của vợ lúc ấy. Hơn nữa, điều quan trọng nhất là không thể bật cuộn băng đó ngay trước mặt Shizu và Yoko.
Căn phòng im lặng tối đen, mùi nước nóng và xà phòng bay ra đến tận cửa. Hai mẹ con hình như vừa mới đi nằm vì khăn tắm vẫn đang lót dưới mái tóc chưa khô. Sau khi áp tai vào cửa phòng và chắc chắn vợ con đã ngủ, Asakawa dẫn Ryuji vào phòng ăn.
- Cún con ngủ rồi à?
Ryuji nói vẻ tiếc rẻ. Suỵt, Asakawa đưa ngón tay lên miệng. Shizu chẳng bao giờ thức giấc vì những chuyện như thế này nhưng ai dám chắc cô sẽ không cảm thấy điều gì đó khác thường và không tỉnh dậy.
Kết nối đường ra và đường vào của hai chiếc đầu video xong, Asakawa đút cuộn băng kia vào. Gã nhìn mặt Ryuji trước khi ấn nút play như để xác nhận một lần nữa trong im lặng.
- Làm cái khỉ gì thế, bật nhanh lên nào. - Ryuji không hề rời mắt khỏi màn hình, giục gã.
Asakawa đưa điều khiển từ xa cho Ryuji rồi đứng dậy đi về phía cửa sổ. Gã không dám xem. Đáng lẽ ra gã phải xem lại thật nhiều lần và bình tĩnh phân tích, vậy mà gã không còn chút khí lực nào để theo đuổi vụ án này thêm nữa. Gã muốn trốn chạy. Chỉ thế thôi. Asakawa ra bao lơn hút thuốc. Gã đã hứa với vợ là không hút thuốc trong nhà từ lúc con gái gã chào đời và gã chưa bao giờ làm sai lời hứa ấy. Cuộc hôn nhân của vợ chồng gã vẫn rất hoà thuận sau chín năm tròn. Asakawa không thể bỏ ngoài tai ý kiến của người vợ đã cho gã một mụn con gái đáng yêu.
Ngó vào trong phòng từ ban công, gã thấy những hình ảnh đang nhảy nhót qua tấm kính mờ. Cảm giác sợ hãi khi phải xem một mình ở Villa Log Cabin so với ở đây, trong căn hộ chung cư tầng sáu tại một khu phố nhỏ, nơi có ba người nữa xung quanh gã quả thật rất khác nhau. Còn Ryuji, chắc chắn y chẳng bao giờ sợ đến rũ người ra và khóc lóc dù cho có phải xem trong một hoàn cảnh như gã. Vì vậy mà gã muốn Ryuji, chỉ Ryuji, xem những hình ảnh ấy với một nụ cười khinh bạc cùng những lời thoá mạ bằng thứ ánh mắt uy hiếp đối thủ của y.
Đúng lúc điếu thuốc cháy hết và gã đang định trở vào phòng từ ban công thì cánh cửa giữa phòng ăn với hành lang mở ra, Shizu xuất hiện trong bộ quần áo ngủ. Gã luống cuống với lấy chiếc điều khiển trên bàn và tạm dừng màn hình.
- Em chưa ngủ à? - Hơi có ý trách cứ trong giọng nói của Asakawa.
- Tại em thấy có tiếng động.
Vừa nói, Shizu vừa nhìn chiếc ti vi đang nhiễu loạn và phát ra những âm thanh lạo xạo rồi quay sang Ryuji, rồi lại Asakawa, nét mặt đầy vẻ nghi ngờ.
- Thôi đi ngủ đi! - Asakawa nói như muốn chặn đứng mọi câu hỏi.
- Hay là em cùng xem đi. Cái này hay đấy.
Ryuji ngẩng mặt lên trong tư thế ngồi khoanh chân. Asakawa muốn quát cho Ryuji một trận nhưng gã không thể bật được thành lời, mọi sự tức tối đều dồn cả vào nắm đấm dận xuống mặt bàn. Giật nảy mình trước tiếng động đó, Shizu vội vàng đặt tay lên nắm cửa nheo mắt rồi khẽ cúi đầu chào Ryuji: "Xin cứ tự nhiên". Cô nhanh chóng quay gót và biến mất vào sau cánh cửa. Đêm khuya hai gã đàn ông đang xem video bỗng cuống quýt tắt máy lúc vợ bắt gặp... Asakawa biết rõ Shizu đang tưởng tượng những gì. Gã vừa kịp nhìn thấy vẻ khinh bỉ trong cái nheo mắt của vợ. Đúng ra thì đó là sự khinh bỉ đối với bản năng của đàn ông hơn là đối với Ryuji. Gã chợt thấy cay đắng vì không thể giải thích cho vợ hắn hiểu.
Đúng như mong đợi của Asakawa, sắc mặt Ryuji không hề thay đổi khi xem xong. Y vừa ư ử hát bằng mũi vừa tua đi tua lại cuốn băng để kiểm tra lại một lần nữa những điểm mấu chốt.
- Thế là tớ cũng dính vào vụ này rồi đây. Thời gian của cậu còn sáu ngày, của tớ còn bảy ngày. - Ryuji hoan hỉ như vừa được tham dự vào một trò chơi.
- Cậu thấy sao? - Asakawa hỏi ý kiến Ryuji.
- Chẳng khác gì trò trẻ con.
- Cái gì?
- Hồi bé cậu không chơi trò này bao giờ à? Ví dụ như cho bọn bạn xem một bức tranh hay thứ gì đó thật đáng sợ, hoặc gửi cho chúng một lá thư rồi dọa chúng rằng kẻ nào nhìn thấy cái này sẽ gặp phải điều bất hạnh. Chẳng hạn thế.
Tất nhiên, Asakawa đã từng chơi những trò đó. Chúng cũng na ná như trò kể chuyện ma vào những đêm hè.
- Thế thì sao?
- Chả có gì. Chẳng qua tớ cảm thấy vậy thôi.
- Ngoài ra còn điều gì đáng lưu ý thì nói mau ra xem.
- Để coi, hình ảnh thì không có gì đáng sợ lắm. Có vẻ như sự lẫn lộn giữa hiện thực và trừu tượng. Nếu bốn đứa nhóc đó không chết đúng như lời cảnh báo thì ta có thể khịt mũi mà cười vào nó. Đúng không nào?
Asakawa gật đầu. Khốn nạn là ở chỗ, gã biết rằng cuộn băng không nói dối.
- Trước tiên, ta thử suy nghĩ xem lý do tại sao bốn đứa đầu đất ấy lại chết. Có hai giả thiết. Cuối băng là dòng chữ "Những kẻ xem cái này sẽ phải chết..." và ngay sau đó là một câu thần chú... đúng rồi, từ giờ trở đi, ta hãy gọi cách thoát khỏi cái chết là thần chú. Như vậy, bốn đứa đó đã xoá mất phần có câu thần chú nên đã bị giết. Hoặc là vì chúng không thực hiện câu thần chú nên đã bị giết. À khoan, trước đó, ta cần phải kiểm tra lại xem kẻ xoá mất câu thần chú có phải bốn đứa nhóc ấy không đã. Biết đâu khi chúng xem tới đó thì câu thần chú cũng đã bị xoá mất rồi.
- Kiểm tra bằng cách nào bây giờ? Cậu không định hỏi bốn đứa trẻ ấy chứ?
Asakawa lấy bia từ trong tủ lạnh, rót ra cốc rồi đặt trước mặt Ryuji.
- Thôi được, để xem nào.
Ryuji bật lại cảnh cuối và ấn nút tạm dừng vào đúng thời điểm mà đoạn quảng cáo hương muỗi chèn lên câu thần chú kết thúc. Y chậm rãi cho chạy từng khung hình. Băng chạy hơi quá, y tua lại, rồi tạm dừng, rồi cho chạy từng khung hình... Thế rồi, trong một tích tắc, y phát hiện ra một cảnh phim có ba người ngồi quanh chiếc bàn. Một đoạn phim cực ngắn trong một chương trình truyền hình có lẫn quảng cáo đã bị ghi vào đây. Đó là một night-show truyền hình phát sóng trên toàn quốc vào lúc mười một giờ đêm. Một trong ba người là một nhà văn ăn khách, tóc bạc mà bất kỳ ai cũng biết, người thứ hai là một cô gái trẻ đẹp, người thứ ba là một danh hài trẻ tuổi vùng Kansai. Asakawa đưa sát mặt lại màn hình.
- Cậu biết chương trình này chứ? - Ryuji hỏi.
- Một night-show đang phát trên NBS.
- Đúng thế. Tay nhà văn ăn khách kia là người dẫn chương trình, cô em trẻ đẹp là trợ lý, còn cậu danh hài kia là khách mời của ngày hôm đó. Thế nên, chỉ cần biết ngày cậu danh hài kia được mời làm khách là sẽ xác minh được có phải bốn đứa nhóc đó đã xoá mất câu thần chú hay không.
- ... Hiểu rồi.
Night-show được phát vào lúc mười một giờ đêm các ngày thường. Nếu ngày phát sóng chương trình đó là ngày 29 tháng Tám thì không nghi ngờ gì nữa, kẻ xoá mất câu thần chú chính là bốn đứa trẻ đã nghỉ tại Villa Log Cabin vào đêm hôm ấy.
- NBS là công ty con của báo cậu đúng không? Thế thì đơn giản rồi còn gì.
- Được rồi, để mình kiểm tra.
- Trăm sự nhờ cậu đấy. Nó liên quan tới mạng sống của cậu và tớ phải không nào. Trước hết phải làm rõ từng thứ một, bất kể là gì. Phải không, chiến hữu?
Ryuji vỗ vào vai Asakawa. Hẳn là y dùng từ "chiến hữu" bởi cả hai cùng phải đối mặt với cái chết.
- Cậu không sợ à?
- Sao lại sợ? Ngược lại là đằng khác. Một trò chơi hẹn giờ tuyệt cú. Và hình phạt cho bên thua là cái chết... Nếu không phải đánh đổi bằng tính mạng thì chả còn gì là thú vị.
Suốt từ lúc nãy Ryuji luôn tỏ ra rất khoái chí. Còn Asakawa thì lo lắng tự hỏi liệu vẻ khoái chí ấy có phải là một kiểu lên gân để giấu đi nỗi sợ? Tuy nhiên, khi nhìn sâu vào đáy mắt Ryuji, gã không nhận thấy mảy may sợ hãi nào trong đó.
- Tiếp theo, cần phải điều tra xem cuộn băng này được tạo ra bởi kẻ nào, vào thời gian nào và với mục đích gì. Ta có thể tìm ra được kẻ nào đã đem cuộn băng đến B-4 trong số các khách tới nghỉ tại đó trong nửa năm hoạt động của khu Villa Log Cabin. Mà khỏi cần nửa năm, gói gọn trong cuối tháng Tám là được. Khả năng lớn nhất chính là những kẻ đến ngay trước bọn nhóc.
- Lại là mình phải điều tra hả?
Suy nghĩ một lát sau khi nốc cạn cốc bia, Ryuji nói.
- Tất nhiên rồi. Hạn chót đang đến gần. Xem trong đám bạn hữu của cậu có thằng nào nhờ vả được thì bảo nó giúp một tay.
- Có một tay nhà báo cũng quan tâm tới vụ này. Nhưng, đây là việc liên quan tới tính mạng nên...
Asakawa đang nghĩ đến Yoshino.
- Ngại quái gì, mau gọi hắn tới. Cho hắn xem cuộn băng này rồi thì các vàng hắn cũng chả dám ngồi yên. Khác gì châm lửa vào đít. Nhất định hắn sẽ vui vẻ giúp cậu.
- Đâu phải ai cũng như cậu.
- Thế thì phỉnh hắn là phim mát rồi dụ hắn xem là ổn chứ gì.
Có nói lý với Ryuji cũng chẳng ích gì. Chừng nào nội dung câu thần chú chưa sáng tỏ, Asakawa không thể cho ai khác xem cuộn băng này. Gã cảm thấy trước mặt mình là ngõ cụt. Để giải mã được chân tướng của nó cần phải có một cuộc điều tra mang tính tổ chức. Nhưng với một cuộn băng như thế, dễ đâu mà kiếm được người. Những kẻ sẵn sàng vui vẻ dấn thân vào một trò chơi chí tử như Ryuji lại quá hiếm. Còn Yoshino, anh ta sẽ phản ứng ra sao ? Anh ta cũng có vợ con, vả lại chắc gì đã dám bất chấp nguy hiểm để thỏa trí tò mò. Tuy vậy, vẫn có một cách để nhờ anh ta giúp đỡ mà không cần đả động đến cuốn băng. Có lẽ, gã nên kể hết với anh ta mọi diễn biến cho tới lúc này.
- Được, mình sẽ thử.
Ryuji ngồi lên bàn ăn rồi với lấy chiếc điều khiển.
- Đúng rồi, cái này tách biệt rõ ra thành hai loại phân cảnh: những cảnh trừu tượng và những cảnh cụ thể.
Vừa nói, y vừa bật lại cảnh núi lửa phun trào rồi cho hình đứng yên.
- Nhìn ngọn núi lửa này xem. Nó chắc chắn có thật. Ta cần phải kiểm tra xem nó tên là gì. Nó lại đang phun trào nữa này. Nếu biết được tên ngọn núi, chúng ta sẽ tìm được ngày mà nó phun trào, như vậy thời gian và địa điểm quay cảnh phim này sẽ được làm sáng tỏ.
Ryuji lại cho băng chạy tiếp. Cảnh bà lão xuất hiện cùng với những lời nói khó hiểu, nghe giống như tiếng địa phương.
- Phương ngữ ở đâu thế nhỉ. À, trường tớ có chuyên gia về phương ngữ, để tớ hỏi thì sẽ biết ngay bà già này ở vùng nào.
Ryuji tua nhanh. Khuôn mặt đặc biệt của người đàn ông gần đoạn kết hiện ra. Ryuji cho hình dừng lại ngay trước cảnh mỏm vai bị khoét mất miếng thịt của người đàn ông mặt mày nhễ nhại mồ hôi, đang vừa thở hổn hển vừa chuyển động thân mình theo một nhịp điệu. Đây là đoạn cận cảnh nhất của khuôn mặt người đàn ông. Có thể nhận ra một cách rõ ràng các đặc trưng của khuôn mặt từ ánh mắt, sống mũi đến hình dạng của tai. Tuy tóc trước trán hơi bợt lên trên nhưng độ tuổi có lẽ cũng chỉ vào khoảng ba mươi.
- Cậu có nhận ra thằng cha này không? - Ryuji hỏi.
- Làm sao mà nhận ra được.
- Mặt hắn trông ớn quá.
- Cậu mà còn nghĩ thế thì hắn quả không phải loại vừa. Cậu khiến mình thấy kính trọng hắn rồi đấy.
- Ờ, nên làm như thế. Không có nhiều khuôn mặt gây ấn tượng mạnh đến vậy đâu. Cậu tìm hộ tớ được không? Cậu là phóng viên mà, còn ai chuyên nghiệp hơn cậu trong những mánh điều tra đó.
- Cậu đùa đấy à? Tội phạm hay nghệ sỹ còn hoạ chăng chứ người thường thì tìm thế cóc nào được. Mà dân số Nhật Bản thì tới cả trăm triệu người.
- Thế thì cậu tìm trong đám tội phạm, hoặc diễn viên đóng phim poóc-nô cũng được.
Thay cho câu trả lời, Asakawa cầm lấy quyển sổ ghi chép. Có quá nhiều việc phải làm, nếu không ghi lại gã sẽ quên mất.
Ryuji tắt máy rồi tự tiện lôi ra một chai bia nữa từ trong tủ lạnh và rót vào cốc.
- Nâng cốc nào!
Asakawa không định cầm cốc lên vì không hiểu được tại sao lại phải nâng cốc.
- Tớ có một linh cảm. - Đôi má xám xịt của Ryuji hơi ửng đỏ. - Trong vụ việc này có bóng dáng của một thứ tội ác chống lại loài người. Tớ đánh hơi thấy nó, không thật rõ ràng, nhưng có một xung động xảy ra vào thời điểm đó... Mà tớ đã kể với cậu rồi nhỉ, về nạn nhân đầu tiên của tớ ấy mà.
- Ờ, vẫn nhớ.
- Hơn mười lăm năm trước, vào lúc ấy, có một thứ dự cảm làm ngực tớ nhột nhạt. Hồi đó là tháng Chín của lớp mười một, năm tớ mười bảy tuổi. Tớ học toán đến ba giờ đêm, sau đấy học tiếng Đức khoảng một tiếng đồng hồ để thư giãn đầu óc. Lúc nào tớ cũng làm như vậy. Học ngoại ngữ là cách tốt nhất để làm dịu đi các tế bào não đang mệt mỏi. Đến bốn giờ, tớ uống hai chai bia như thường lệ rồi ra ngoài đi dạo, một thói quen hàng ngày của tớ. Lúc đi ra, có một cái gì đó rất khác với mọi khi khi nảy nòi trong óc tớ. Mà cậu đã bao giờ rảo bộ qua các dãy phố giữa đêm khuya chưa nhỉ? Khoan khoái lắm đấy. Lũ chó cũng ngủ khì cả. Giống như cún con nhà cậu ấy. Thế rồi tớ đến trước một khu căn hộ. Nó là một toà nhà hai tầng làm bằng gỗ khá đỏm dáng, và tớ bắt gặp một cô nàng sinh viên sạch sẽ, mà đôi khi tớ bắt gặp ở trên phố, đang sống đâu đó trong ngôi nhà này. Nhưng tớ không biết là phòng nào. Tớ lần lượt đưa mắt qua các ô cửa sổ của tám căn phòng. Lúc ấy, tớ chỉ quét mắt qua thôi chứ chẳng nghĩ ngợi gì. Thế mà, chả hiểu sao, khi mắt tớ dừng lại ở căn phòng tầng hai tít mãi đầu hồi phía nam, tớ lại nghe có tiếng nổ tách trong đầu, rồi bất chợt cảm thấy một thứ bóng đen mới mọc mầm trong tim tớ đang lớn dần lên. Và tớ lại tuần tự nhìn qua một lần nữa. Quả nhiên là đúng đến chỗ đó, bóng đen ấy lại cuộn lên. Thế là tớ tin chắc rằng căn phòng đó không đóng khoá. Tớ không biết có phải cô nàng quên bấm khoá hay không. Tớ chỉ biết bước theo sự dẫn lối của cái bóng đen sinh ra trong tim tớ lên tầng hai và đứng trước cửa phòng. Có một tấm biển đề tên bằng chữ Latin: YUKARI MAKITA. Tớ tóm mạnh lấy nắm đấm cửa bằng tay phải. Tớ giữ như thế hồi lâu rồi dồn hết sức xoay sang bên trái. Nhưng nó không nhúc nhích. Tớ rủa thầm trong bụng. Trong tích tắc vang lên một tiếng cách, cánh cửa mở ra. Cậu nghe này, không phải cô nàng quên khoá cửa mà chính là cánh cửa đã mở ra vào giây phút ấy. Có một sức mạnh nào đó đã tác dụng lên nó. Cô nàng đang nằm ngủ trên tấm nệm cạnh bàn. Tớ cứ đinh ninh là cô nàng ngủ trên gi.ường cơ, nhưng không phải vậy. Tớ nhòm thấy một bên chân của cô nàng thò ra khỏi chăn...
Ryuji tạm ngừng câu chuyện ở đó. Thế rồi, như thể đang tái hiện lại rất nhanh trong đầu cái quang cảnh sau đó, y chìm đắm vào vùng ký ức xa xăm với một vẻ mặt có cả xót thương lẫn tàn ác. Lần đầu tiên Asakawa nhìn thấy khuôn mặt đầy vẻ giằng xé của Ryuji.
- ... Sau đó hai ngày, trên đường từ trường về ngang qua khu căn hộ ấy, tớ thấy có chiếc xe tải hai tấn đậu trước sân và đồ đạc thì đang được khuân ra khỏi phòng. Người chuyển nhà là Yukari. Đứng bên cô nàng là một người đàn ông có vẻ như là bố, cô nàng thì chẳng làm gì, chỉ đứng tựa vào hàng rào và chăm chú nhìn đống đồ đạc được chuyển ra. Lẽ đương nhiên là ông bố thì chẳng biết tại sao cô con gái lại đùng đùng chuyển nhà rồi. Đấy, Yukari biến mất trước mặt tớ như vậy đấy, Chẳng biết là cô nàng về nhà đẻ hay chỉ thay đổi chỗ ở rồi vẫn tiếp tục theo học ở trường đại học ấy? Đi đâu thì đi chứ chắc chắn cô nàng chẳng thể sống thêm một giây nào nữa trong cái căn phòng đó. Hê hê, thật tội nghiệp. Hẳn là cô nàng đã sợ chết khiếp.
Câu chuyện làm Asakawa thấy nghẹt thở. Gã cảm thấy kinh tởm ngay cả cái việc uống bia cùng Ryuji.
- Cậu không bao giờ dằn vặt vì ch.uyện ấy à?
- Quen rồi. Cậu cứ thử hàng ngày đấm tay vào tường bê tông coi, cuối cùng sẽ chẳng thấy đau nữa đâu.
... Thảo nào, ngay cả bây giờ y vẫn tiếp tục làm thế. Asakawa tự hứa với lòng sẽ không bao giờ cho gã đàn ông này bước vào nhà mình thêm một lần nào nữa. Ít nhất cũng không để y lại gần vợ và con gã.
- Cậu khỏi lo, tớ không làm thế với cún con nhà cậu đâu.
Asakawa vội lảng sang chuyện khác như thể bị nhìn thấu tim gan.
- Thế cái linh cảm ấy là gì?
- À, một thứ linh cảm về cái ác. Nếu không có một thứ năng lượng cực kỳ độc ác, thì tớ đã không thể gây ra những trò như thế với bàn tay này.
Ryuji đứng dậy. Ngay cả khi đứng dậy, y cũng không cao hơn đầu Asakawa lúc đang ngồi. Tuy vóc người không đầy một mét sáu, nhưng những bó cơ cuồn cuộn nơi bả vai của Ryuji không thể chê vào đâu được, quá xứng là kẻ đã giật giải ném tạ trong đại hội thể thao các trường trung học.
- Tớ chuẩn bị về đây. Nhớ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Qua đêm nay cậu sẽ chỉ còn năm ngày nữa thôi đấy.
Ryuji xoè rộng bàn tay.
- Mình hiểu.
- Tớ biết có một luồng năng lượng ác đang cuộn lên ở một nơi nào đó. Nó toả ra thứ hương thơm sao mà quen thuộc. - Đứng cạnh cửa ra vào với cuốn băng vừa sao trước ngực, Ryuji nói như nhấn mạnh.
- Cuộc họp tác chiến lần sau sẽ tiến hành ở nhà cậu. - Giọng Asakawa hạ thấp và rành mạch.
- Biết rồi, biết rồi.
Ánh mắt Ryuji đang cười.
Asakawa vội nhìn chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng ăn lúc Ryuji vừa về khỏi. Đó là món quà cưới của một người bạn, quả lắc hình cánh bướm màu đỏ đang đánh qua đánh lại. Mười hai giờ hai mươi mốt phút... Ngày hôm nay, gã đã xem đồng hồ bao nhiêu lần rồi nhỉ? Thời gian đang choán hết tâm trí gã. Ryuji nói đúng, qua đêm nay thời hạn của gã chỉ còn lại năm ngày. Liệu cho tới lúc đó gã có giải được câu đố về dòng chữ đã bị xoá hay không? Tâm trạng của gã giống như của một bệnh nhân ung thư đang đứng trước ca phẫu thuật mà cơ may thành công gần như không có. Từ trước đến nay, Asakawa luôn chủ trương rằng cần phải báo cho bệnh nhân ung thư biết được tình trạng của mình. Nhưng nếu trạng thái tâm lý này cứ mãi tiếp diễn thì quả là gã chẳng muốn biết chút nào. Gã không phải loại người có thể làm được những việc phi thường giống như một vài người có thể làm lúc đối mặt với cái chết. Bây giờ thì gã vẫn còn đủ bình tĩnh. Nhưng khi chỉ còn một ngày, một giờ, hoặc một phút, gã không dám tin rằng mình còn có thể duy trì được trạng thái ý thức bình thường nữa hay không. Gã chợt hiểu ra rằng tại sao mặc dù kinh tởm Ryuji song gã vẫn bị y lôi cuốn. Ryuji có một sức mạnh tinh thần không thể nào cưỡng nổi. Trong khi Asakawa luôn để ý tới ánh mắt xét nét của những người xung quanh và khép nép sống thì Ryuji nuôi dưỡng một vị thần, à mà không, một con ác quỷ ở trong người và buông mình phóng túng. Y chưa bao giờ khuất phục trước nỗi sợ. Với Asakawa, chỉ những lúc nghĩ đến người vợ và đứa con nhỏ mà gã sẽ bỏ lại trên đời sau khi chết thì lòng tham sống của gã mới xua đi được nỗi sợ. Asakawa sực nhớ ra, gã khẽ khàng mở cửa buồng ngủ và ngắm nhìn gương mặt vợ và con gái. Hai khuôn mặt đang ngủ trong bình yên vô sự. Gã không còn thời gian để mà hoảng sợ nữa. Gã quyết định gọi điện cho Yoshino, kể hết sự tình và nhờ anh ta giúp đỡ. Gã sẽ phải hối hận nếu không làm ngay những việc có thể làm trong hôm nay.
 
Asakawa đã định xin nghỉ một tuần nhưng gã nghĩ lại, thay vì nhốt mình trong phòng và nhấm nháp nỗi sợ một cách vô nghĩa, gã nên tận dụng tối đa hệ thống thông tin của công ty thì may ra còn có ích cho việc giải mã cuốn băng, nên mặc dầu là thứ Bảy gã vẫn đến toà soạn. Gã thừa biết rằng dù đến công ty gã cũng sẽ không bắt tay vào công việc. Thuật lại toàn bộ câu chuyện rồi xin tổng biên tập cho tạm gác công việc trong một thời gian là thượng sách. Nếu có được sự giúp đỡ của tổng biên tập nữa thì khỏi phải bàn. Vấn đề là ở chỗ, ngài tổng biên tập có tin lời gã hay không. Chắc chắn, ông ta sẽ lại lôi cái lý thuyết ngẫu nhiên ấy ra và cười vào mũi gã. Thây kệ cuốn băng chứng cứ của gã, nếu ông ta đã muốn phủ nhận từ đầu thì ông ta sẽ theo cái lập luận ấy của mình mà triển khai, rồi uốn nắn sao cho gã phải tùng phục. Thế nhưng sẽ rất thú vị nếu..., Asakawa nghĩ bụng. Gã có đem theo cuốn băng trong chiếc cặp da, nếu gã cho ngài tổng biên tập xem cái đó thì ông ta sẽ phản ứng như thế nào nhỉ??? À khoan, trước đó phải xét xem ông ta có muốn xem không đã chứ. Tối hôm qua, khi đã muộn Asakawa gọi điện cho Yoshino và anh ta tin ngay những gì gã thuật lại. Và trong cái cách nói ch.uyện ấy, anh ta ngầm bảo với gã rằng: đừng có cho tớ xem, tớ không muốn. Nhưng bù lại, anh ta hứa sẽ hợp tác trong mọi khả năng có thể... Với trường hợp của Yoshino, thực sự là anh ta có lý do để tin. Lúc thi thể của Tsuji Haruko và Nomi Takehiko được tìm thấy trong chiếc xe ven đoạn tỉnh lộ Ashina, Yoshino gần như là người đầu tiên chạy tới hiện trường và tiếp xúc với bầu không khí ấy. Một thứ không khí nghẹt thở mà ở đó, tất cả những thành viên trong tổ điều tra đều không dám nói ra cho dù ai cũng hiểu rằng sự thể ấy chỉ có thể do một thứ ma quái gây nên. Nếu Yoshino không được tiếp xúc với bầu không khí đó, chưa chắc anh ta đã dễ dàng tin đến vậy.
Đằng nào thì Asakawa cũng đang ôm một trái bộc phá. Chỉ cần gã châm ngòi nổ trước mắt ngài Tổng biên tập và lấy thế ấy uy hiếp ông ta thì hẳn là sẽ đem lại một hiệu quả kha khá. Gã bỗng muốn sử dụng con bài đó chỉ đơn giản vì tính tò mò cám dỗ.
Nụ cười như lúc nào cũng giễu cợt người khác biến mất khỏi Oguri. Tì hai khuỷu tay lên bàn và chớp mắt liên tục, Oguri một lần nữa nghiền ngẫm lại lời kể của Asakawa.
....Hai đôi nam nữ, được biết chắc là đã xem cuốn băng video tại Villa Log Cabin vào đêm ngày 29 tháng tám, đã chết một cách đầy bí ẩn sau trong một tuần đúng như lời cảnh báo trong cuốn băng. Cuốn băng này sau đó lọt vào tay người quản lý rồi được đem về cất tại văn phòng và nằm phủ bụi cho đến khi Asakawa tìm thấy. Thế nhưng khi phát hiện ra, Asakawa đã chẳng may xem phải nó. Và hắn sẽ chết sau năm ngày nữa? Liệu có thể tin được chuyện này không? Nhưng cái chết của bốn đứa trẻ là bằng chứng không thể chối cãi, phải giải thích ra sao về điều đó? Logic nằm ở đâu?
Asakawa đang đứng nhìn tổng biên tập Oguri, trên nét mặt thoảng qua một vẻ khoái trá hiếm thấy. Bằng kinh nghiệm, gã có thể đoán được Oguri đang nghĩ gì vào lúc này. Gã chờ cho đến khi dòng tư duy của Oguri đi đến chỗ bế tắc rồi mới lấy cuộn băng ra. Gã làm ra vẻ đầy hệ trọng và diễn kịch với bàn tay như thể gã sắp tung ra một xấp bài ù.
- Tổng biên tập có muốn xem thử cái này không?
Asakawa nói, trong khi vừa ra hiệu bằng ánh mắt về phía ti vi đặt cạnh chiếc sofa ngay mép cửa sổ vừa đủng đỉnh nở nụ cười khiêu khích. Có tiếng nuốt nước bọt rất lớn phát ra từ cổ họng Oguri. Oguri không hề quay sang chiếc tivi bên mép cửa mà chỉ nhìn như hút hồn vào cuộn băng đen nháy đang ngự trên mặt bàn. Rồi ông ta tự hỏi lòng mình.
...Nếu muốn thì mi có thể xem ngay được lúc này, Mi dám mà. Mi có thể cười khẩy, coi nó như một thứ lá cải rồi nhét nó vào cái đầu kia như mọi khi, thế là xong. Nào ngại ngần gì nữa, làm đi.
Lý trí của Oguri ra lệnh cho cơ thể của ông ta. "Trên đời làm gì có cái thứ nhảm nhí đó, cứ xem đi. Nếu ta xem, Asakawa sẽ nghĩ ta không tin hắn. Nhưng ngược lại, nghe này, hãy nghĩ cho kỹ, nếu từ chối không xem tức là ta tin vào câu chuyện bịa đặt của hắn. Vậy thì ta cứ xem. Ta là tín đồ của khoa học hiện đại, đâu phải một thằng nhóc con sợ ma vãi đái ra quần cơ chứ".
Trên thực tế có đến chín mươi chín phầm trăm Oguri không hề tin vào câu chuyện đó. Tuy nhiên, ẩn sâu trong tâm trí, cái cụm từ "biết đâu đấy" làm ông chột dạ. Biết đâu đấy chuyện này có thật... Vì rất có thể trên thế giới này vẫn còn những nơi mà khoa học hiện đại chưa với tới. Và cố nhiên, chừng nào vẫn còn những mối đe doạ như thế thì dù có lý trí hối thúc đến đâu, cơ thể cũng sẽ cự tuyệt. Lúc này, Oguri vẫn ngồi nguyên trên ghế và không hề động đậy. Nói đúng hơn thì Oguri không thể động đậy được. Sự trơ lì của cơ thể vượt quá những hiểu biết trong đầu ông ta. Một khi vẫn còn có dấu hiệu của sự nguy hiểm, dù rất nhỏ, thì bản năng phòng vệ của cơ thể sẽ thẳng thừng lên tiếng. Oguri ngẩng mặt lên và hỏi bằng giọng khô khốc.
- Rồi, thế cậu muốn gì??
Asakawa đã cầm chắc phần thắng.
- Em xin sếp cho em rút khỏi loạt bài đang làm, em muốn tìm ra chân tướng của cuốn băng này. Sếp biết đấy, mạng sống của em đang treo trên đầu sợi tóc sếp à.
Oguri nhắm nghiền hai mắt.
- Cậu định viết bài phải không?
- Dù gì thì em cũng là nhà báo...Trước mắt em cứ viết tạm các tình tiết ra đấy. Có em và Takayama Ryuji thì nhất định vụ này sẽ không thể chìm vào bóng tối. Tất nhiên, đăng hay không là quyết định của sếp.
Oguri gật đầu thật mạnh hai cái.
- Thôi được, sẽ giao Top Interview cho Hirame vậy.
Asakawa khẽ cúi đầu. Đang định nhét lại cuộn băng vào cặp thì một ý nghĩ tinh quái nảy ra trong đầu gã, gã lại chìa cuộn băng ra trước mặt Oguri.
- Sếp tin cái này, phải không?
Ogủi chỉ hứ lên một tiếng rất dài rồi lắc đầu. Ông ta không thể nói cứng rằng tin hay không tin. Dù sao thì cũng còn một mối bất an nho nhỏ..., phải rồi, có lẽ là tại chỗ đó.
- Em cũng nghĩ giống như tổng biên tập đấy.
Asakawa bỏ lại câu nói đó đằng sau rồi quay đi. Oguri vừa nhìn theo lưng gã vừa nghĩ, nếu qua ngày 18 tháng mười mà hắn vẫn sống thì mình quyết xem cuộn băng đó cho hắn biết tay. Thế nhưng đến ngày hôm ấy, rất có thể cơ thể Oguri lại vẫn cự tuyệt không chừng. Cái mối bất an "biết đâu đấy" có thể sẽ chẳng bao giờ biến mất.
Trong phòng lưu trữ, Asakawa xếp ba quyển sách dày cộp lên bàn: Núi lửa Nhật bản, Quần đảo núi lửa, Những ngọn núi lửa đang hoạt động trên thế giới. Trước tiên, Asakawa lật giở trang bìa của cuốn sách có tên Núi lửa Nhật bản vì đồ rằng cảnh phun trào trong cuộn băng là của một ngọn núi ở Nhật bản. Bức ảnh đầu tiên. Những ngọn núi hùng vĩ bị bao quanh bởi một lớp nham thạch màu xám đang phun lên trời những cột bụi trắng và hơi nước. Những miệng núi chìm lửa lần vào bóng tối đang tung lên nền trời đêm những tảng dung nham cháy đỏ. Tất cả những cảnh tượng ấy gợi người ta nhớ đến vụ nổ Big Bang hình thành nên vũ trụ. Asakawa vừa lật giở từng trang vừa so sánh các bức hình với những lưu ảnh mà gã đã ghi nhớ rất kỹ trong đầu. Ngọn Aso, đỉnh Asama, Showa-shinzan, Sakurajima... Tuy nhiên, gã đã không mất nhiều thời gian như gã nghĩ để tìm ra ngọn núi ấy: đỉnh Mihara. Mihara là một trong những ngọn núi lửa khá nổi tiếng trong số các núi lửa đang hoạt động ở Nhật Bản, nó thuộc vào dải núi lửa Phú sỹ.
...Núi Mihara? Asakawa lẩm bẩm. Trên trang sách mở rộng có hai bức ảnh hàng không và một bức ảnh chụp từ trên gò cao. Asakawa nhớ lại đoạn băng đó và tưởng tượng ra đủ các góc độ rồi so sánh. Quả là giống. Nếu nhìn từ chân núi, đỉnh núi tạo thành một đường dốc thoai thoải. Nhưng nếu dựa vào ảnh hàng không thì có thể nhận thấy một đường hình tròn bao quanh một lòng chảo lớn trên đỉnh núi, và ở giữa lòng chảo là một đụn đất đùn lên từ họng núi lửa. Bức hình chụp từ trên gò cao dưới chân núi đặc biệt giống với ngọn núi lửa trong băng. Cả màu sắc của bề mặt lẫn những đường nhấp nhô gấp khúc đều gần như đồng nhất. Gã cần phải xác minh lại bằng các căn cứ chắc chắn hơn chứ không thể chỉ dựa vào trí nhớ. Asakawa chụp lại bức ảnh của đỉnh Mihara cùng với vài ba ngọn núi đáng lưu tâm khác.
Asakawa gọi điện suốt cả buổi chiều. Gã gọi điện cho những người từng nghỉ tại Villa Log Cabin trong vòng nửa năm qua. Thực ra nếu có thể gã nên gặp trực tiếp vừa hỏi chuyện vừa coi sắc mặt họ thì tốt hơn, nhưng gã không có nhiều thời gian đến thế. Chỉ nghe qua điện thoại thì khó mà lật tẩy được nếu họ nói dối. Asakawa dỏng tai lên nghe để không bỏ lọt bất kỳ sự lúng túng nào, dù là nhỏ nhất, của người bên kia đầu dây. Có mười sáu nhóm đối tượng cần phát minh. Vì vào thời điểm khánh thành Villa Log Cabin tháng Tư năm nay thì các phòng chưa được trang bị đầu video. Vào giữa tháng Bảy, một khách sạn ở địa phương bị phá bỏ, người ta quyết định chuyển giao một khối lượng lớn đầu video ở đó cho Villa Log Cabin. Và công việc lắp đặt cùng với mua sắm băng cho thuê đã hoàn tất vào cuối tháng Bảy để kịp cho đợt nghỉ hè. Chính vì thế, trên tờ giới thiệu về khu nghỉ dưỡng không thấy có dịch vụ này và phải khi tới tận nơi người ta mới ngạc nhiên nhận ra là có thứ đó và chúng chỉ được sử dụng để giết thời giờ vào những ngày trời mưa, nên hầu hết không có nhóm nào chuẩn bị băng mang theo để ghi lại các chương trình ti vi. Tất nhiên, đấy là nếu gã tin những gì người ta nói trong điện thoại. Rốt cuộc thì ai đã mang cuộn băng này tới đó? Và ai là kẻ đã ghi hình? Không muốn bỏ sót chi tiết nào, Asakawa đã nhiều lần phải dùng đến những mánh lới hòng giục đối phương nói thật, tuy nhiên xem chừng chẳng có ai có ý định giấu giếm bất cứ điều gì. Trong số mười sáu nhóm, có ba nhóm đi đánh golf thậm chí còn không để ý đến sự tồn tại của bộ đầu video. Có bảy nhóm biết mà không sử dụng và có năm nhóm đi đánh tennis nhưng vì trời mưa nên bất đắc dĩ phải mượn băng về xem. Các tựa phim mà họ mượn phần lớn là danh tác trong những năm qua. Có thể là họ xem lại những thứ mà họ đã từng xem rồi. Chỉ có một nhóm gia đình bốn người sống ở Yokohama đăng ký dưới cái tên Kaneko là có dùng băng video mang theo để ghi hình một chương trình truyền hình ở kênh khác được phát đồng thời với bộ phim dã sử trên đài NHK.
Asakawa tạm gác máy rồi một lần nữa đảo mắt qua mười sáu dữ kiện vừa thu thập được. Có một điểm đáng ngờ… Đó là vợ chồng Kaneko và hai đứa con đang học tiểu học. Họ đã tới Villa Log Cabin hai lần trong dịp nghỉ hè này. Lần thứ nhất là đêm ngày 10 tháng Tám, lần thứ hai là hai đêm liền ngày 25 và 26 tháng Tám tức là vào thứ Bảy và Chủ nhật. Như vậy là họ đã tới trước bốn đứa trẻ ba hôm. Và vì ngày thứ hai và thứ ba tiếp theo không có khách đến nghỉ nên bốn đứa trẻ đã vào ngay sau gia đình Kaneko. Hơn nữa họ còn nói rằng: lúc tám giờ tối ngày Chủ nhật, đứa con trai lớn đang học lớp 6 (bậc tiểu học ở Nhật có 6 lớp) đã ghi một chương trình truyền hình ở kênh khác được phát đồng thời với một bộ phim dã sử trên đài NHK vào cuộn băng mang theo từ nhà. Cậu chàng không bao giờ bỏ qua chương trình tấu hài được phát trên một đài tư nhân vào lúc tám giờ tối các ngày Chủ nhật. Thế nhưng quyền chọn kênh, như một lẽ đương nhiên, luôn thuộc về bố mẹ. Và bố mẹ cậu thì bao giờ cũng chuyển sang kênh NHK đang chiếu bộ phim dã sử vào khoảng thời gian này. Tuy chỉ có duy nhất một chiếc ti vi trong mỗi căn biệt thự ở Villa Log Cabin song vì biết rằng còn có một chiếc đầu video nên cậu đã bật chế độ ghi hình để sau đó xem lại. Tuy nhiên, giữa lúc ghi băng thì có một người bạn đến thông báo là trời đã tạnh mưa và rủ đi chơi tennis nên cậu cứ để nguyên như vậy rồi cùng với cô em gái chạy ra sân quần. Bố mẹ cậu sau khi xem chương trình yêu thích liền tắt luôn tivi mà quên mất là băng đang ở chế độ ghi. Đến gần mười giờ thì hai anh em trở về nhà trong trạng thái mệt nhoài vì quần đảo suốt một hồi trên sân, chúng lăn ngay ra ngủ và quên béng mất sự tồn tại của cuốn băng. Ngày hôm sau, khi về gần tới nhà thì cậu mới nhớ ra rằng mình đã để quên cuốn băng trong đầu video nên nằng nặc đòi ông bố đang lái xe quay lại. Mặc dầu giãy nảy lên một hồi khá lâu nhưng cuối cùng cậu cũng đành bỏ cuộc và vừa khóc vừa đi vào ngưỡng cửa..
Asakawa lấy cuộn băng ra và dựng đứng trên mặt bàn. Khoảng trống vốn để dán nhãn băng, dòng chữ Fujitex VHS T120 Super AV ánh lên màu bạc. Gã lại ấn số nhà Kaneko.
- Xin lỗi vì làm phiền chị nhiều quá. Tôi là Asakawa ở báo M. có điện thoại cho chị ban nãy.
Sau một phút im lặng có tiếng “vâng” đáp lại. Vẫn là giọng bà mẹ.
- Chị nói rằng cháu nhà ta có để quên một cuộn băng video, thế chị có biết hãng nào sản xuất không ạ?
- Cái đó thì …- Câu trả lời ẩn chứa một cái cười.
Có tiếng động sau lưng chị ta.
- À thằng bé vừa về đây rồi, để tôi hỏi cháu xem sao.
Asakawa chờ đợi. Mặc dù gã cũng thừa hiểu nó làm sao mà nhớ nổi.
- Đúng là cháu cũng không biết. Nhà tôi thường chỉ dùng loại rẻ tiền ba cuốn một hộp thôi anh ạ.
Cũng chẳng có gì là lạ. Mấy ai để ý đến hãng sản xuất lúc mua băng. Vào lúc đó, trong đầu Asakawa chợt loé lên một ý nghĩ... Khoan đã vỏ hộp băng phải có ở đâu đó. Thông thường, băng phải được bán kèm với hộp. Và không mấy khi người ta vứt hộp đi. Ít ra thì trong trường hợp của Asakawa gã chưa bao giờ vứt vỏ băng đi dù là băng cassette ghi nhạc hay băng video.
- Nhà chị có thường cất giữ băng ở trong vỏ không ạ?
- Vâng tất nhiên rồi ạ.
- Tôi thành thật xin lỗi, nhưng chị có thể kiểm tra hộ tôi xem nhà ta còn thừa chiếc hộp rỗng nào không với ạ.
- Anh bảo sao cơ? Giọng người phụ nữ hơi ngớ ra. Chị ta hiểu ý nghĩa của câu hỏi, nhưng không hiểu cái động cơ sâu xa của nó nên có vẻ ngập ngừng.
- Chị làm ơn giúp tôi với… Cái này có liên quan đến tính mạng con người chị ạ.
Một người phụ nữ chuyên việc nội trợ, luôn phát hoảng khi nghe nhắc đến tính mạng con người. Và cụm từ ấy có ấn tượng đủ để khiến họ hành động nhanh hơn. Vả lại, Asakawa đâu có nói dối.
- Xin anh chờ cho một chút.
Sắc giọng người phụ nữ thay đổi hẳn, đúng như gã nghĩ. Sau khi chị ta đặt ống nghe xuống là một khoảng thời gian khá dài. Nếu như họ để quên vỏ hộp ở Villa Log Cabin thì hẳn là người quản lý đã quẳng nó đi rồi. Tuy nhiên, nếu không phải thế thì khả năng tìm thấy nó trong nhà Kaneko là rất lớn. Giọng người phụ nữ trở lại.
- Có phải là vỏ hộp rỗng không anh?
- Vâng.
- Tôi tìm thấy hai cái.
- Trên đó hẳn có ghi tên hãng sản xuất và chủng loại băng…
- Vâng, một chiếc là Panavision T120. Còn chiếc kia là Fujitex VHS T120 Super AV.
Nó hoàn toàn trùng khớp với cuộn băng Asakawa có trong tay. Băng video của Fujitex hẳn là được bán rất nhiều nên khó mà có thể kết luận đó là một căn cứ xác thực. Tuy nhiên, việc gã đã tiến gần hơn một bước là xác thực. Chính cậu con trai học lớp sáu của họ đã mang cuộn băng hắc ám này tới Villa Log Cabin. Cách lập luận như thế có ổn không? Chắc hẳn là không sai. Asakawa lịch sự cảm ơn rồi đặt ống nghe.
Chiếc đầu video trong ngôi biệt thự B-4 được bật ở chế độ ghi hình suốt từ tám giờ tối Chủ nhật, ngày 26 tháng Tám. Thế rồi cả gia đình Kaneko đã bỏ quên cuốn băng và trở về nhà. Những người đến sau đó là bốn nạn nhân trong vụ này. Và ngày hôm ấy trời cũng mưa. Chúng bèn rủ nhau xem video. Khi chúng bật máy, chúng đã vô tình xem được cuộn băng đó vì nó đã nằm sẵn trong máy. Một cuộn băng có nội dung khó hiểu và ghê rợn, hơn nữa lại có lời đe dọa ở đoạn kết. Bực mình vì thời tiết xấu, bốn đứa trẻ đã nghĩ ra một trò nghịch ác. Chúng xoá đi lời hướng dẫn cách thoát khỏi cái chết rồi định cho những người tới sau xem để doạ họ. Tất nhiên là chúng không tin vào nội dung đó. Nếu tin, chắc chắn chúng đã khiếp sợ đến mức không thể nghĩ ra được trò tai quái ấy. Hẳn là vào phút lìa đời, bọn chúng đã nhớ lại nội dung của cuốn băng này. Mà cũng có khi, chúng đã bị tử thần lôi đi mà không kịp làm như vậy. Nhưng đấy không phải chuyện của ai đó khác. Asakawa chợt rùng mình. Sau năm ngày nữa, nếu gã không tìm ra cách thoát khỏi cái chết, gã cũng sẽ cùng chung số phận như chúng…. Đến khi ấy, gã sẽ biết được bọn chúng đã chết với cảm giác như thế nào.
Tuy nhiên, nếu cậu bé đó là người ghi cuốn băng thì những hình ảnh kia từ đâu tới? Ban đầu, Asakawa cứ ngỡ rằng nó được ghi bằng máy quay video. Gã không một mảy may nghĩ đến việc những hình ảnh gớm ghiếc ấy lọt vào sóng phát trong lúc băng đang ở chế độ ghi hình… cướp sóng!
Asakawa chợt nhớ lại sự kiện hàng loạt hình ảnh báng bổ ứng cử viên đối lập được phát ngay sau khi kết thúc một chương trình trên sóng NHK trong cuộc bầu cử năm ngoái.
Đúng rồi, chỉ có thể là hành động cướp sóng.
Những hình ảnh ấy rất có khả năng đã lọt vào sóng truyền hình được phát trên vùng Nam Hakone từ tám giờ tối ngày 26 tháng Tám, và cuộn băng này đã vô tình ghi lại chúng. Nếu đúng như vậy, chắc chắn sự cố này phải được hệ thống giám sát sao lưu lại dưới hình thức nào đó. Asakawa cần liên hệ ngay với phân xã địa phương và ban tin tức để xác minh sự thật.
 
Mười giờ tối, Asakawa trở về nhà trong sự tiếp đón của hai hơi thở êm đềm. Vừa qua khỏi hành lang, gã lập tức nhẹ nhàng mở cửa buồng và kiểm tra xem hai mẹ con đã ngủ hay chưa. Dù mệt thế nào, gã cũng không bao giờ bỏ qua hành động đó.
Trên bàn ăn là một mảnh giấy có ghi: "Hôm nay anh Takayama gọi điện đến." Cả ngày hôm nay Asakawa gọi điện tới cho Ryuji từ toà soạn nhưng y vắng nhà nên không gặp được. Hẳn là y cũng đang đôn đáo đi điều tra. Biết đâu y chẳng tìm ra điều gì đó mới mẻ? Asakawa quay số gọi, nhưng chuông kêu đến mười tiếng trong căn hộ cho thuê ở Hagashi-nakano. Y vẫn chưa về.
Sau khi tắm qua, Asakawa mở một chai bia và gọi điện một lần nữa. Vẫn chưa về. Gã chuyển sang uống whisky không pha đá. Nếu không phó mặc mình cho cơn say, Asakawa chẳng còn cách nào khác để ngủ yên. Người gã cao và mảnh khảnh, nhưng gã chưa bao giờ bị trận ốm nào đáng gọi là ốm. Vậy mà gã lại phải nhận một bản án tử hình theo cái cách này đây... Ở đâu đó trong tâm tưởng, gã vẫn cảm thấy chuyện này chỉ là giấc mơ. Cái hạn chót mang tên mười giờ ngày 18 tháng Mười có thể sẽ đến mà gã chưa kịp tìm ra ý nghĩa của cuốn băng và nội dung của câu thần chú, nhưng biết đâu rồi thì chẳng có chuyện gì xảy ra, cuộc sống thường nhật của gã vẫn tiếp diễn... Với bộ mặt giễu cợt, tổng biên tập Oguri sẽ lên lớp gã vì đã ngu ngốc tin vào chuyện mê tín, còn Ryuji sẽ lại vừa nhăn nhở cười vừa lẩm bẩm: "Cóc thể nào hiểu được sự vận động của thế giới." Và vợ con gã sẽ lại đón gã về với nét mặt say ngủ hàng ngày. Giống như trong một chiếc phi cơ đang rơi, hành khách nào cũng hy vọng tới cùng rằng sẽ chỉ có mình thoát nạn.
Uống hết ly thứ ba cũng là lần thứ ba Asakawa quay số. Gã sẽ thôi không gọi nữa nếu y vẫn chưa về. Đến tiếng chuông thứ bảy thì gã nghe có tiếng nhấc máy.
- Làm cái chết tiệt gì mà bây giờ mới nghe máy?
Chưa kịp hỏi xem ai đang ở đầu bên kia, Asakawa đã ầm ĩ quát tháo. Nếu đó là Ryuji, bao giờ gã cũng văng tục. Kể ra cũng lạ... Asakawa vốn là kẻ luôn giữ một khoảng cách và không bao giờ tỏ thái độ suồng sã ngay cả với bạn bè, thế mà chỉ riêng với Ryuji gã lại có thể mắng y té tát. Nói vậy, nhưng gã chưa một lần coi Ryuji là bạn thân của mình.
Tuy nhiên, thật bất ngờ vì người nghe máy không phải Ryuji.
- Alô... Xin lỗi anh...
Giọng một người con gái hơi luống cuống vì bị nạt nộ vô cớ.
- Ồ, tôi xin lỗi. Tôi nhầm người.
Asakawa định dập máy.
- Có phải anh muốn gọi cho thầy Takayama?
- À vâng, đúng vậy...
- Thầy vẫn chưa về nhà anh ạ...
Asakawa tự hỏi không biết chủ nhân của giọng nói trẻ trung và hấp dẫn đó là ai. Chắc không phải người nhà vì cô ta gọi Ryuji bằng thầy. Hay là người yêu? Vớ vẩn. Trên đời này làm gì có thứ phụ nữ thích Ryuji, suy nghĩ ấy đã thành định kiến trong đầu gã.
- Vậy à, tên tôi là Asakawa.
- Anh Asakawa phải không ạ. Nếu thầy về tôi sẽ nói lại để thầy gọi điện cho anh.
Giọng cô gái vẫn văng vẳng trong tai gã sau khi đã đặt ống nghe xuống. Một dư âm ngọt ngào dễ chịu.
Vợ chồng gã đã bỏ chiếc gi.ường ra khỏi phòng ngủ có trải thảm hồi đẻ Yoko. Không nên để trẻ sơ sinh ngủ trên gi.ường, vả lại một căn phòng bảy mét rưỡi vuông thì lấy đâu ra chỗ mà đặt gi.ường em bé. Chẳng còn cách nào khác, vợ chồng gã quyết định quẳng chiếc gi.ường đôi đi và thay vào đó là tấm đệm có thể gấp ra gấp vào được. Asakawa chui vào khoảng trống còn lại trên tấm đệm đôi. Chỉ những khi cả ba người cùng đi ngủ, chỗ nằm mới được cố định. Shizu và Yoko rất hay ngọ nguậy, nên thường thì chỉ một giờ sau khi ngủ là cả hai sẽ lăn đi rất xa khỏi vị trí ban đầu. Vì ngủ sau, nên Asakawa lúc nào cũng phải lần tìm chỗ trống để chui vào. Nếu Asakawa không còn nữa, vợ gã sẽ mất bao lâu để lấp đầy chỗ trống ấy? Không phải chuyện đi bước nữa của Shizu. Có những người chẳng bao giờ lấp đầy nổi khoảng trống sinh ra sau khi mất đi người bạn đời của mình. Ba năm... Ba năm phải chăng là một mốc thời gian hợp lý? Asakawa cố tìm cách hình dung ra khuôn mặt rạng ngời của Shizu, nếu một ngày kia cô phải trở về nhà cha mẹ, gửi con cho ông bà để đi làm. Gã muốn cô mạnh mẽ. Gã không thể chịu đựng nổi mỗi lần tưởng tượng ra vợ con mình sẽ rơi vào cảnh địa ngục trần gian sau khi gã chết.
Asakawa quen Shizu năm năm trước, khi ấy cô đang làm nhân viên văn phòng cho một công ty du lịch thuộc báo M., còn gã vừa mới chuyển về toà soạn chính từ phân xã ở Chiba. Shizu làm ở tầng ba, còn gã ở tầng bảy, thỉnh thoảng lắm hai người mới gặp nhau trong thang máy. Và phải đến một lần, lúc gã tới lấy vé tàu cho một đợt làm phóng sự, gã mới thực sự quen cô vì tình cờ Shizu phải làm thay người phụ trách đang đi vắng. Khi ấy, Shizu mới hai mươi lăm tuổi, cô khoái ngao du hơn mọi thứ trên đời, nên cô đã nhìn Asakawa, một chàng phóng viên nay đây mai đó bằng một ánh mắt vô cùng ngưỡng mộ. Còn gã, gã tìm thấy trong ánh mắt ấy bóng hình một người con gái của mối tình đầu. Sau đó, khi đã biết tên biết mặt, hai người bắt đầu chào nhau mỗi lần bắt gặp trong thang máy và quan hệ của họ nhanh chóng trở nên thắm thiết. Rồi hai năm sau, họ cưới nhau mà không gặp bất kỳ trở ngại nào từ phía gia đình. Trước ngày cưới nửa năm, gã xin gia đình một ít tiền và mua được một căn hộ nho nhỏ ở Kita-shinagawa. Gã vội vàng mua nhà trước khi cưới không phải vì đoán trước được rằng giá đất sẽ tăng lên. Chỉ đơn giản là vì gã muốn sớm trả hết món tiền vay mua nhà. Có lẽ, nếu bỏ lỡ thời điểm đó, vợ chồng gã đã chẳng bao giờ có nổi một cơ ngơi ở giữa lòng thành phố như thế này. Bởi một năm sau, giá nhà chung cư đã tăng lên gấp ba. Hơn nữa, mua vào thời điểm đó, tiền trả nợ hàng tháng chỉ chưa bằng một nửa tiền thuê nhà. Tuy luôn miệng phàn nàn về sự chật hẹp, nhưng phải thừa nhận rằng, nhờ khối tài sản này mà vợ chồng gã sống khá dư dả. Vẫn còn có cái mà để lại cho mẹ con nó, Asakawa nhẹ nhõm nghĩ. Nếu đập chỗ tiền bảo hiểm nhân thọ vào khoản nợ mua nhà, căn hộ này sẽ là của hai mẹ con.
... Tính ra thì số tiền bảo hiểm nhân thọ mà mình nhận được sau khi chết sẽ là hai mươi triệu yên, nhưng cái này cần xác nhận lại cho chắc chắn.
Trong cái đầu đầy mông lung, Asakawa phân chia số tiền đó ra thành các khoản rồi tự nhủ mình rằng phải mau chóng ghi hết những điều cần nhắc nhở ra giấy cho vợ. Nhưng biết chọn tên gọi nào cho cái chết của gã? Chết bệnh? Tử nạn? Hay bị sát hại?
... Trước tiên mình phải kiểm tra lại các điều khoản bảo hiểm thêm một lần nữa.
Ba ngày nay, mỗi lần sắp chìm vào giấc ngủ Asakawa lại cảm thấy bi quan. Gã khổ não vì những muốn để lại ảnh hưởng của mình lên cái thế giới mà gã sẽ không còn nữa, gã đã nghĩ tới việc để lại một thứ gì đó giống như di chúc.
Chủ nhật, ngày 14 tháng Mười
Chủ nhật, vừa thức giấc Asakawa đã ngay lập tức gọi cho Ryuji. "... Vâng", Ryuji nhấc máy với một giọng đứt quãng. Có vẻ như cú điện thoại vừa làm y tỉnh giấc. Cơn bực tức từ đêm qua lại trào lên khiến Asakawa nói như quát vào máy.
- Đêm qua cậu đi đâu?
- À, tưởng ai... hoá ra Asakawa?
- Chứ không phải cậu bảo cậu gọi điện cho mình hả.
- Có gì đâu, tớ hơi quá chén. Mấy em sinh viên dạo này uống rượu khoẻ quá, mà ch.uyện ấycũng khoẻ nữa. Mệt quá, mệt quá.
Bất giác, Asakawa cảm thấy ba hôm vừa rồi tựa như một giấc mơ. Gã thả lỏng người. Gã thấy mình như một thằng ngốc vì đã sống quá nghiêm túc.
- Chờ đấy, mình sẽ đến chỗ cậu ngay bây giờ.
Asakawa gác máy.
Gã xuống Higashi-nakano ở ga JR và đi bộ mất mười phút để đến Kamiochiai. Vừa rảo bước gã vừa ấp ủ một niềm hy vọng nhỏ nhoi: dù hắn có uống rượu cả đêm thì hắn vẫn là Ryuji, rõ là hắn đã nắm được thứ gì đó. Biết đâu hắn chẳng đã giải được câu đố, thế thì hắn mới thản nhiên tửu sắc tới khuya như thế chứ. Càng gần đến căn hộ của Ryuji gã càng hồ hởi, chân gã rảo bước nhanh hơn. Thấp thỏm rồi hy vọng, bi quan rồi lạc quan, sự dao động liên tục của cảm xúc khiến tinh thần Asakawa mệt mỏi.
Có vẻ như đúng là Ryuji vừa mới dậy, y ra mở cửa trong bộ pyjama với khuôn mặt lởm chởm râu. Asakawa chẳng kịp cởi giày tức tốc hỏi: "Tìm thấy gì không?"
- Không, chẳng có gì đặc biệt. Cậu vào đi.
Vừa nói Ryuji vừa gãi đầu sồn sột. Đôi mắt y thẫn thờ vô định, trông qua cũng biết các tế bào não của y vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo.
- Uống cà phê vào cho nó tỉnh hẳn đi ông mãnh.
Cảm thấy như niềm hy vọng bị phản bội, Asakawa khủng khỉnh đặt mạnh cái siêu đun nước lên bếp rồi châm lửa. Đột nhiên, nỗi ám ảnh về thời gian xâm chiếm gã.
Hai người đang ngồi xếp bằng trong căn phòng rộng gần mười mét vuông với một mặt tường chất đầy sách.
- Rồi, cậu nói cho tớ biết những thứ cậu điều tra được đi nào. - Ryuji vừa rung đùi vừa nói. Không được phép lãng phí thời gian. Asakawa cẩn thận sắp xếp những điều mà gã tìm được trong ngày hôm qua và trình bày theo thứ tự thời gian. Trước hết là về cuộn băng video đã được ghi lại từ một chương trình truyền hình tại Villa Log Cabin vào lúc tám giờ ngày 26 tháng Tám.
- Hả?
Ryuji tỏ ra khá bất ngờ. Quả là y cũng đã ngỡ rằng cuộn băng đó được ghi bằng máy quay video.
- Cái đó thú vị đấy. Nhưng mà này, nếu đúng là có trò cướp sóng như cậu nói thì chắc chắn sẽ còn nhiều người khác nữa cũng đã xem phải hình ảnh ấy...
- Việc này mình đã hỏi ban tin tức ở Atami và Mijima rồi. Nhưng không có nguồn tin nào cho thấy khu vực Nam Hakone bị nhiễm dải sóng lạ vào đêm ngày 26 tháng Tám.
- Hiểu rồi, hiểu rồi. - Ryuji khoanh tay nghĩ ngợi. - Có hai khả năng. Khả năng thứ nhất, có lẽ tất cả những người không may xem phải đều đã chết... Hượm đã, lúc phát trên truyền hình, hẳn là câu thần chú chưa bị xoá mất, mà không, hãy tính tới giả thiết các báo địa phương không chộp được vụ này...
- Đã kiểm tra khả năng đó rồi. Cậu định nói tới những nạn nhân khác ngoài bốn đứa trẻ chứ gì. Không có. Con số không cậu hiểu chưa, con số không. Nếu xảy ra sự cố nhiễm sóng thì chắc chắn phải có rất nhiều người xem được, vậy mà không thấy xuất hiện thêm một nạn nhân nào, những lời đồn đại khác thường cũng không nốt.
- Này, thế cậu còn nhớ hồi căn bệnh AIDS mới xuất hiện trong xã hội văn minh không? Ban đầu, các tay bác sỹ ở Mỹ có biết chuyện quái gì đang xảy ra đâu. Nhìn những bệnh nhân chết vì các triệu chứng chưa từng gặp bao giờ, bọn họ chỉ linh cảm thấy một căn bệnh lạ, thế thôi. Mãi hai năm sau khi nó xuất hiện, người ta mới gọi nó là AIDS đấy... Không phải là không có những chuyện như vậy.
Xuôi xuống tỉnh lộ Atami-Kannami ven sườn núi phía tây rặng Tana, chỉ có vài ngôi nhà dân thưa thớt nằm rải rác. Từ đó nhìn lên phía Nam là cao nguyên và khu nghỉ dưỡng Pacific Land Nam Hakone, một thế giới mà bóng dáng của hiện thực thật mờ nhạt. Hay là có một cái gì đó vô hình đang tiến triển? Biết đâu đấy, mặc dù trên thực tế có vô số những ca đột tử không rõ nguyên nhân đã xảy ra mà người ta chưa nhận thấy. Không chỉ có AIDS. Bệnh sốt Kawasaki lần đầu tiên phát hiện ở Nhật Bản cũng phải mất hơn mười năm trời để được coi là một căn bệnh mới. Mới một tháng rưỡi trôi qua kể từ khi dải sóng lạ lọt vào sóng truyền hình và vô tình bị ghi lại trong cuộn băng video đó. Vì thế, vẫn chưa đến mức để người ta nhận ra đó là một hội chứng. Nếu như Asakawa không phát hiện ra những yếu tố chung trong cái chết của bốn đứa trẻ, trong đó có cô cháu gái của vợ gã, thì hẳn căn bệnhnày vẫn ngủ im dưới lòng đất. Gã thấy sợ hơn khi nghĩ vậy. Thông thường, chỉ sau khi có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn nạn nhân được ghi nhận, người ta mới cho nó cái vị trí của một căn bệnh.
- Mình không đủ thời gian để kiểm tra từng ngôi nhà một ở khu vực ấy. À này, Ryuji, khả năng còn lại là gì?
- Còn một khả năng nữa. Đó là không có bất kỳ ai, ngoài bốn đứa trẻ, cậu và tớ, xem được những hình ảnh ấy. Này, liệu cái thằng ranh học tiểu học đã ghi hình cuộn băng đó có biết là tần số sóng sẽ thay đổi theo từng khu vực không nhỉ? Chẳng hạn như kênh bốn ở Tokyo sẽ được phát trên các kênh hoàn toàn khác nhau tuỳ theo mỗi địa phương. Một thằng nhãi dốt đặc thì không biết được điều này nên có khi nó đã chỉnh theo kênh của Tokyo để ghi hình cũng nên.
- Ý cậu là sao?
- Động não đi nào. Thế những người sống ở Tokyo như chúng ta có bao giờ xem kênh hai không?
Đúng vậy, rất có thể cậu bé ấy đã chỉnh sang kênh, mà nếu là người ở đó thì không bao giờ làm thế, để ghi hình. Và cậu ta không thể kiểm tra được hình ảnh đang ghi là gì, vì chương trình mà họ đang xem là một chương trình khác. Hơn nữa, khu vực đó là vùng núi, dân cư thưa thớt nên số người xem ti vi chắc chắn rất ít.
- Tóm lại, vấn đề là trạm phát sóng đó nằm ở đâu. - Ryuji nói dứt khoát.
Trạm phát sóng, vấn đề này chẳng dễ giải quyết nếu không tiến hành một cuộc điều tra có tổ chức và khoa học.
- Chờ chút đã nào. Đã chắc gì giả định này là đúng. Việc thằng bé ghi nhầm phải dải sóng lạ chẳng qua chỉ là một suy luận thôi mà.
- Tớ biết. Nhưng thưa ông bạn, nếu ông bạn chờ đến khi nắm được những bằng chứng chắc ăn một trăm phần trăm mới tiến hành thì chỉ có nước tắc tị. Chả còn cách nào khác đâu.
Sóng vô tuyến. Kiến thức khoa học của Asakawa rất nghèo nàn. Gã sẽ phải bắt đầu từ một khái niệm vô cùng đơn giản: sóng vô tuyến là gì? Gã chẳng còn nước nào khác là phải tìm ra nó, cái trạm phát sóng ấy. Gã buộc phải tới chỗ đó một lần nữa. Nếu không tính hôm nay, thời hạn của gã còn lại bốn ngày.
Vấn đề tiếp theo là kẻ nào đã xoá mất câu thần chú. Nếu giả định rằng cuộn băng được ghi tại chỗ thì kẻ xoá mất dòng chữ đó chỉ có thể là bọn trẻ. Asakawa đã hỏi đài truyền hình về ngày phát sóng chương trình night-show trực tiếp có danh hài trẻ Shinraku Sanyutei trong vai khách mời. Gã không nhầm. Câu trả lời là ngày 29 tháng Tám. Gã không hề nhầm khi cho rằng bốn đứa trẻ đã xoá mất câu thần chú.
Asakawa lấy ra mấy tờ giấy photo từ trong cặp. Đó là bản sao các bức tranh của ngọn núi Mihara trên đảo Izu Oshima.
- Cậu thấy thế nào ? - Gã đưa cho Ryuji xem và hỏi ý kiến y.
- Núi Mihara à? Thế thì đích xác là nó rồi.
- Sao cậu dám khẳng định?
- Chiều qua tớ có hỏi một tay nghiên cứu văn hoá dân gian trong trường tớ về phương ngữ của cái mụ già ấy. Hắn bảo rằng hiện tại nó không còn được sử dụng nhiều, nhưng có vẻ như là phương ngữ ở đảo Izu Oshima. Hắn nói ngữ điệu đó có nhiều yếu tố phương ngữ Sashikichi, một vùng nằm ở cực nam đảo Oshima. Vì là tay thận trọng nên hắn không kết luận dứt khoát, nhưng với bức ảnh này thì có thể khẳng định rằng phương ngữ là của đảo Oshima và ngọn núi là Mihara. À mà cậu đã điều tra được gì về thời điểm hoạt động của núi lửa Mihara chưa?
- Tất nhiên. Sau Thế chiến... Và mình nghĩ rằng chỉ cần thu gọn đối tượng vào khoảng thời gian sau thế chiến là được.
Hiển nhiên là thế nếu xét tới sự phát triển của công nghệ quay phim được sử dụng trong băng.
- Cậu tính phải.
- Nghe đây, sau Thế chiến, núi lửa Mihara đã phun trào cả thảy bốn lần. Lần thứ nhất từ năm 1950 đến 1951. Lần thứ hai vào năm 1957, lần thứ ba vào năm 1974. Còn lần thứ tư, khá mới, mùa thu năm 1986. Trong lần phun trào năm 1957, nó sinh ra thêm một miệng núi mới, khiến một người thiệt mạng, năm mươi ba người bị thương nặng.
- Nếu tính tới sự phổ cập của máy quay video thì năm 1986 là đáng ngờ nhất, tuy chưa thể kết luận được điều gì.
Nói đến đó, như bất chợt nhớ ra điều gì, Ryuji bèn lục tay vào trong túi và lấy ra mẩu giấy.
- À, đây là ý nghĩa câu nói của bà già ấy. Tay đó đã tử tế chuyển phương ngữ sang tiếng phổ thông cho tớ đấy.
 
Thứ Hai, ngày 15 tháng Mười
Mấy ngày qua, mỗi lần thức dậy vào buổi sáng, Asakawa lại thầm mong mọi chuyện sẽ chỉ là giấc mơ. Gã gọi điện đến cửa hiệu cho thuê xe gần nhà để báo với họ rằng gã sẽ tới đó đúng vào giờ đã hẹn hôm qua. Vậy là hôm qua gã có đặt xe thật. Nghĩa là hiện thực vẫn liền mạch nối tiếp nhau.
Quả là cần phải có một phương tiện di chuyển nếu muốn đến tận nơi để truy tìm nguồn phát sóng. Rất khó có thể gây ảnh hưởng được tới sóng truyền hình chỉ với những máy vô tuyến thông thường nên đó hẳn phải là một loại thiết bị đã được cải tiến bởi một chuyên gia. Chắc chắn cường độ sóng phải rất mạnh vì hình ảnh không hề bị ngắt quãng. Nếu có nhiều thông tin hơn, Asakawa hoàn toàn có thể xác định được khu vực chịu ảnh hưởng của sóng và tìm ra được vị trí trạm phát, nhưng căn cứ duy nhất mà gã có chỉ là việc chiếc ti vi trong ngôi biệt thự B-4 ở Villa Log Cabin đã bắt được sóng. Gã chẳng còn phương pháp nào khác là lấy chỗ đó làm tâm điểm rồi vừa kiểm tra địa hình vừa tìm như tìm rận. Gã không dự liệu được sẽ mất bao lâu nên nhét tạm số quần áo đủ thay trong ba ngày vào túi. Ba ngày... chẳng cần mang hơn thế làm gì.
Shizu không hề đả động tới cuốn băng mỗi khi hai người giáp mặt nhau. Tối qua, không nghĩ ngay ra được một câu nói dối khả dĩ, Asakawa đành lấp lửng về "cái chết sau một tuần" rồi dỗ dành Shizu đi ngủ. Shizu, tất nhiên chẳng dám làm cho ra nhẽ, vì hẳn là cô cũng mong muốn một tình huống lấp lửng như thế. Không tấn công chồng bằng những câu hỏi như mọi lần, Shizu chìm trong một sự im lặng lạ lùng, có vẻ như cô đang suy luận theo cách thức riêng của mình. Chẳng ai biết cô đã tìm thấy lời giải thích nào chưa nhưng dường như, cảm giác bất an vẫn còn đó. Cô tỏ ra quá đỗi mẫn cảm với những tiếng động bên ngoài, tới mức đã mấy lần cô bật người dậy trong khi theo dõi bộ phim truyền hình nhiều tập phát vào buổi sáng.
- Cấm em không được nói đến chuyện này nữa. Ngay cả anh cũng không thể trả lời được tại sao, em hiểu chưa. Nhưng anh sẽ lo liệu.
Asakawa chẳng biết nói thế nào khác để trấn an Shizu. Gã nhất quyết không được tỏ ra mềm yếu trước mặt vợ.
Chuông điện thoại reo đúng vào lúc Asakawa định ra khỏi nhà. Ryuji gọi.
- Tớ vừa có một phát hiện khá lý thú đây. Kiểu gì cũng phải hỏi ý kiến cậu. - Giọng Ryuji có vẻ hơi phấn khích.
- Điện thoại không được à? Mình phải đi thuê xe bây giờ.
- Thuê xe làm gì?
- Thì chính cậu bảo mình đi tìm trạm phát sóng còn gì!
- Nhớ rồi. Nhưng mà thôi, dẹp việc đó lại đã, mau tới đây đi. Chưa biết chừng cậu không phải tìm cột ăng-ten ấy nữa đâu. Vì rất có thể giả định của chúng ta bị chệch hướng.
Asakawa vẫn quyết định thuê xe rồi mới tới chỗ Ryuji để phòng trường hợp nếu cần phải đi Pacific Land Nam Hakone thì gã có thể đi thẳng từ nhà Ryuji.
Sau khi đậu xe lên vỉa hè, Asakawa vội vã gõ cửa phòng Ryuji.
- Vào đi! Không khoá đâu.
Asakawa đẩy mạnh cánh cửa rồi lao sầm sầm qua bếp.
- Cậu tìm thấy gì rồi? - Asakawa dồn dập hỏi.
- Làm gì mà nhóng lên thế.
Ryuji vẫn ngồi xếp bằng, tròn mắt nhìn gã.
- Tìm thấy gì rồi thì nói mau lên!
- Bình tĩnh đã nào.
- Cậu nói xem, mình có thể bình tĩnh được không!
Ryuji im lặng một lát. Thế rồi, y từ tốn nói.
- Có chuyện gì rồi à?
Asakawa ngồi bệt xuống căn phòng mười mét vuông rồi nắm chặt hai đầu gối trong lòng bàn tay.
- Vợ mình... vợ mình và con gái mình xem cuộn băng đó rồi.
- Việc này, gay go đây.
Ryuji không rời mắt khỏi Asakawa và chờ cho gã bình tĩnh trở lại. Thế rồi trong lúc đó, y hắt hơi một cái rõ to, hỉ mũi đánh toẹt rồi vắt nước mũi.
- Thế cậu có muốn cứu vợ và con cậu không?
Asakawa gật đầu như một đứa trẻ.
- Vậy thì càng phải lạnh cái đầu. Tớ sẽ không đưa ra kết luận trước. Sẽ chỉ có các bằng chứng. Việc của cậu là nói cho tớ biết cậu nhận thấy điều gì từ mỗi bằng chứng ấy. Được chưa nào? Vì vậy, cậu chớ nên mất bình tĩnh.
- Mình hiểu. - Asakawa ngoan ngoãn chấp thuận.
Asakawa vừa khóc trước mặt Ryuji. Gã đã trút lên Ryuji toàn bộ những xúc cảm mất tự chủ mà gã không thể bộc lộ trước Shizu.
Asakawa lau mặt xong và quay trở lại thì Ryuji đưa cho gã một tờ giấy chuyên dùng để viết báo cáo. Trên đó chỉ đơn giản là một bảng liệt kê.
1) Giới thiệu - 83 giây [0] - Trừu tượng
2) Màu đỏ chảy ra - 49 giây [0] - Trừu tượng
3) Núi Mihara - 55 giây [11] - Hiện thực
4) Núi Mihara phun trào - 32 giây [6] - Hiện thực
5) Chữ Yama - 56 giây [0] - Trừu tượng
6) Con xúc xắc - 103 giây [0] - Trừu tượng
7) Bà già - 111 giây [0] - Trừu tượng
8) Đứa trẻ sơ sinh - 125 giây [33] - Hiện thực
9) Vô số những khuôn mặt - 117 giây [0] - Trừu tượng
10) Chiếc ti vi cũ - 141 giây [35] - Hiện thực
11) Khuôn mặt người đàn ông - 186 giây [44] - Hiện thực
12) Cảnh kết - 132 giây [0] - Trừu tượng
Nhìn vào đó, gã có thể hiểu được phần nào. Bảng liệt kê chia đoạn phim trong băng thành từng phân cảnh.
- Tối qua bất chợt nghĩ ra nên tớ mới lập thành bảng này. Cậu hiểu ý nghĩa của nó đúng không nào? Đoạn phim được ghép từ mười hai phân cảnh. Tớ đã đánh dấu và đặt tên cho từng cảnh một. Đằng sau tên cảnh là khoảng thời gian diễn ra cảnh đó. Cậu để ý nhé, chữ số tiếp theo trong ngoặc vuông là số lần màn hình bị tối đen.
Nét mặt Asakawa đầy vẻ hồ nghi.
- Tối qua, khi cậu về rồi, tớ đã thử kiểm tra các cảnh khác ngoài cảnh đứa bé xem có bị hiện tượng đen màn hình hay không. Cậu thấy đấy, đây là kết quả: chúng xuất hiện trong những cảnh 3), 4), 8), 10), 11).
- Thế còn trừu tượng và hiện thực là sao?
- Ta có thể chia mười hai phân cảnh này thành hai nhóm lớn. Những cảnh trừu tượng mà ta có thể gọi là những cảnh tưởng tượng vì chúng chỉ tồn tại ở trong đầu, và những cảnh hiện thực mà ta có thể nhìn được bằng mắt thường vì chúng tồn tại thật. Tớ phân loại ra như thế.
Nói đoạn, Ryuji ngừng một lát.
- Thế nào, cậu có nhận xét gì không?
- Phải rồi, nhìn thấy màn hình chỉ bị đen trong những cảnh hiện thực.
- Đúng đấy. Trước tiên, cậu phải ghi nhớ kỹ điểm đó.
- Này Ryuji, cậu dẹp cái trò sốt ruột ấy đi rồi nói ngay cho mình biết nó có ý nghĩa gì được không?
- Cậu đừng vội. Việc đưa ra kết luận trước sẽ làm cho trực giác trở nên trì độn. Bằng trực giác, tớ đã đi đến một kết luận. Nhưng một khi đã khăng khăng tin như vậy thì dù cho mọi hiện tượng có xoay đổi cậu cũng sẽ cố tìm cách biện bạch cho nó. Ngay trong lĩnh vực điều tra tội phạm cũng vậy phải không nào? Nếu ngay từ đầu cậu tin rằng thằng đó khả nghi thì mọi chứng cứ đều là để chứng minh nó khả nghi. Tớ muốn cậu kiểm chứng cái kết luận của tớ. Nghĩa là, tớ muốn biết cậu có cùng linh cảm với tớ từ những sự việc này hay không.
- Hiểu rồi, cậu tiếp tục đi.
- Bây giờ, cậu hãy nhớ lại cái cảm giác lúc xem cuộn băng và kết hợp với một thực tế là màn hình chỉ bị đen ở những phân cảnh hiện thực. Về cảnh đứa bé thì như tớ đã nói hôm qua. Thế còn những cảnh khác thì sao? Ví dụ như cảnh có rất nhiều mặt người này?
Ryuji lấy điều khiển từ xa bật lại cảnh đó.
- Nhìn kỹ những bộ mặt này nhé.
Vài chục khuôn mặt bị gắn chặt vào tường dần dần lui lại phía sau rồi nhân lên hàng trăm, hàng ngàn cái. Nếu nhìn kỹ từng cái sẽ thấy chúng có nét gì đó khác với những bộ mặt người.
- Cảm giác thế nào? - Ryuji hỏi.
- Cứ như bọn chúng đang chửi mình là đồ dối trá, đồ lừa đảo vậy.
- Thực ra tớ cũng có cảm giác giống cậu, à không, có lẽ là gần như cậu.
Asakawa tập trung toàn bộ thần kinh để tìm ra cái kết luận mà thực tế này sẽ dẫn tới. Ryuji đang đợi một câu trả lời rõ ràng của gã.
- Sao? - Ryuji hỏi.
Asakawa lắc đầu.
- Chịu thôi, chẳng nảy ra được điều gì hết.
- Hẳn là cậu sẽ nảy ra cái điều mà tớ đang nghĩ nếu có nhiều thời gian để chiêm nghiệm hơn nữa. Cậu nghe này, cả cậu và tớ đều tưởng tượng những hình ảnh này được ghi lại bởi máy quay phim, nói cách khác là qua ống kính của một cái máy, phải không nào?
- Chẳng lẽ không phải thế?
- Thế cái màn đen che phủ màn hình trong tích tắc này là gì?
Ryuji cho chạy từng khung hình có những đoạn phim bị đen. Liên tục có những đoạn như thế kéo dài từ ba đến bốn khung hình. Độ dài của một khung hình bằng một phần ba mươi giây, vì vậy mỗi đoạn bị đen tương đương với 0,1 giây.
- Tại sao chúng lại chỉ xuất hiện trong những cảnh có thật mà không phải những cảnh tưởng tượng? Cậu nhìn kỹ đi, đâu phải toàn bộ màn hình đều bị đen.
Asakawa ghé sát mặt lại màn hình. Quả thực nó không phải là một màu đen đặc. Có cái gì như những vết lấm tấm màu trắng mờ nhạt trên đó.
- Cái bóng mờ đó chính là dư ảnh. Vì vậy, khi xem những cảnh này, ta có cảm giác sống động như chính mình là người trong cuộc.
Ryuji chớp mắt một cái rất mạnh trước mặt Asakawa... Màn đen? Màn đen? Hả?
- Không lẽ, đó là cái chớp mắt? - Asakawa lẩm bẩm.
- Đúng thế, còn là gì khác được nữa nào? Sẽ rất logic nếu cho rằng như vậy. Con người không những có thể nhìn trực tiếp sự vật bằng mắt mà còn có thể hình dung ra chúng ở trong tâm trí. Khi tưởng tượng, vật thể không đi qua võng mạc nên không xuất hiện những lần chớp mắt. Tuy nhiên, với những cảnh vật nhìn bằng mắt trong thực tế, hình ảnh được tạo thành bởi cường độ mạnh yếu của ánh sáng phản chiếu lên võng mạc. Những lúc như thế, để tránh cho võng mạc khỏi bị khô, chúng ta thường chớp mắt một cách vô thức. Màn đen đó chính là khoảng thời gian mi mắt nhắm lại.
Cảm giác buồn nôn lại ập đến. Lần đầu tiên khi xem xong, Asakawa đã phải lao vào toilet, vậy mà lúc này cơn ớn lạnh còn dữ dội hơn nhiều. Kẻ nào đó đã ám vào người mình! Ý nghĩ ấy xâm chiếm gã. Những hình ảnh này không phải do máy móc, mà do mắt, tai, mũi, miệng và cảm giác trên da, nghĩa là toàn bộ các giác quan của một con người ghi lại. Có một cái bóng đã nhập vào các giác quan của gã. Chính nó gây ra cái ớn lạnh và cơn rùng mình không thể ngăn lại được này. Gã đã xem đoạn băng bằng cùng ánh mắt với một dị thể trong người gã.
Lau mãi, lau mãi mà mồ hôi trên trán gã vẫn chảy ra.
- Cậu biết không, tuy mỗi người mỗi khác song số lần chớp mắt trung bình trong một phút của nam là hai mươi còn của nữ là mười lăm. Vì vậy, rất có thể đây là hình ảnh do một phụ nữ ghi lại.
Asakawa không nghe thấy gì nữa.
- Hơ hơ, cậu sao vậy? Trông cái mặt như chết rồi thế kia. - Ryuji cười. - Này, lạc quan lên chút. Chúng ta tiến thêm được một bước rồi còn gì. Nếu quả là những hình ảnh ấy được ghi lại bởi các giác quan của một nhân vật nào đó, thì hẳn là nội dung câu thần chú phải có mối quan hệ với ý muốn của kẻ ấy. Tóm lại, nhân vật này muốn chúng ta làm một điều gì đó.
Khả năng tư duy của gã hiện thời tê liệt. Tiếng nói của Ryuji tuy có bay tới tai gã nhưng ý nghĩa của nó không thể lọt được vào đầu gã.
- Vậy là trước mắt những việc cần làm đã rõ ràng. Chúng ta sẽ phải tìm cho ra nhân vật này. Và phải tìm hiểu xem sinh thời..., ờ, vì chắc là không còn sống, kẻ đó mong muốn điều gì. Đó là câu thần chú cho sự sống sót của cậu và tớ.
Ryuji nháy mắt cho Asakawa như muốn nói: cậu thấy tớ thế nào?
Chiếc xe Asakawa lái vừa ra khỏi xa lộ Keihin số 3 và lao về phía nam trên con đường nối Yokohama-Yokosuka. Ryuji đang ngả lưng ghế và ngủ ngon lành bên cạnh gã. Đã gần hai giờ chiều, vậy mà Asakawa không hề thấy đói.
Asakawa rụt lại bàn tay đang định đánh thức Ryuji dậy. Đích đến vẫn còn ở phía trước. Ryuji chỉ bảo gã đi Kamakura mà không giải thích gì hơn, gã cũng không biết là cần phải đến chỗ nào. Không rõ phải đi đâu và để làm gì luôn khiến thần kinh của người giữ lái căng thẳng. Trong lúc vội vã nhét hành lý vào túi, Ryuji bảo sẽ giải thích cụ thể khi vào trong xe, vậy mà vừa mới lên xe, y chỉ kịp nói: "Đêm qua tớ không ngủ nên bao giờ đến Kamakura hẵng đánh thức tớ dậy", rồi lập tức ngủ mất.
Họ rời đường Yokohama-Yokosuka ở Asahina rồi chạy khoảng năm cây số nữa theo phố Kanazawa thì đến trước ga Kamakura. Ryuji đã làm một giấc hơn hai tiếng đồng hồ.
- Này, tới rồi.
Bị Asakawa lay vai, Ryuji vươn người, lấy mu tay dụi mắt rồi lắc lắc cái mặt như một con mèo.
- ... Làm mất cả giấc mơ đẹp của tớ.
- Làm gì tiếp đây?
Ryuji nhỏm người dậy, ngó ra ngoài cửa kính để kiểm tra xem mình đang ở đâu.
- Cứ đi theo con đường này, rẽ trái ở cổng chính vào đền thờ Hachiman rồi dừng lại.
Nói đoạn Ryuji cười hề hề: "Tớ phải mơ tiếp đây", rồi lại định ngả người nằm xuống.
- Này, đến đó chẳng mất tới năm phút, còn có thời gian cho cậu ngủ sao? Mau giải thích cho mình nghe xem nào.
- Cứ tới rồi khắc biết.
Ryuji ghếch đầu gối lên táp-lô và lại chìm vào giấc ngủ.
Asakawa rẽ trái rồi dừng lại. Ngay trước mặt gã là một ngôi nhà tư hai tầng cũ kỹ có đề dòng chữ nhỏ "Kỷ niệm Đường Miura Tetsuzo".
- Cậu cho xe vào bãi đậu đằng kia.
Không biết Ryuji đã he hé mở mắt từ lúc nào. Bộ mặt y đầy vẻ mãn nguyện và lỗ mũi đang nở ra như thể đánh hơi thấy một mùi hương nào đó.
- Hề hề, ơn trời, thế nào mà tớ lại mơ tiếp được.
- Cậu mơ thấy gì? - Asakawa vừa bẻ lái vừa hỏi.
- Cậu biết rồi còn gì, tớ mơ thấy tớ đang bay trên trời. Tớ khoái nhất là được mơ thấy mình đang bay. - Ryuji khoái trá khịt mũi rồi liếm mép.
Ngôi nhà với cái tên Kỷ niệm Đường Miura Tetsuzo vắng hoe. Toàn bộ không gian rộng chừng ba mươi ba mét vuông dưới tầng một được trang trí bởi những bức ảnh và thư tịch được lồng trong khung hoặc đặt trong hòm kính, ở bức tường chính giữa là tiểu sử của nhân vật có cái tên Miura Tetsuzo. Đọc qua một lượt, cuối cùng Asakawa cũng biết được nhân vật ấy là người như thế nào.
- Xin lỗi, có ai ở nhà không ạ? - Ryuji gọi với vào trong. Không có tiếng trả lời.
 
Miura Tetsuzo, sau khi thôi làm giáo sư tại trường đại học Y., đã mất ở tuổi bảy mươi hai cách đây hai năm. Chuyên môn là vật lý lý thuyết nhưng ông ta đặc biệt am hiểu về vật lý chất đặc và cơ học thống kê. Tuy nhiên, toà nhà này không phải được dựng lên để tôn vinh những thành tựu trong lĩnh vực chuyên ngành của ông ta là vật lý, cho dù nó khá nhỏ. Mà là cho sự giải mã những hiện tượng phi thường một cách khoa học. Trong tiểu sử có viết: lý thuyết của ông đã gây nên sự chú ý của thế giới, nhưng tất nhiên, chắc đó chỉ là một phần rất nhỏ. Bằng chứng là từ trước đến nay, Asakawa chưa một lần nghe thấy danh tiếng của ông ta. Vậy thì cái lý thuyết mà ông ta phát hiện là gì? Asakawa đi tìm câu trả lời trên những bức tường và các hòm kính. "... ý nghĩ hàm chứa năng lượng và nguồn năng lượng ấy..." Gã đọc tới đó thì từ bên trong vọng ra tiếng bước chân chạy xuống cầu thang. Một người đàn ông ngoại tứ tuần với hàng ria mép mở cánh cửa trượt ra và xuất hiện. Làm theo Ryuji đang cầm danh thiếp và tiến lại gần người đàn ông, Asakawa cũng rút danh thiếp của mình từ túi áo ngực.
- Chào anh, tôi là Takayama, hiện đang giảng dạy tại đại học K.
Giọng điệu của Ryuji khác hẳn với khi nói chuyện với Asakawa. Gã thấy cái lối giả lả của Ryuji thật ngộ. Asakawa cũng đưa danh thiếp ra. Hết nhìn chiếc này tới chiếc kia, một của giảng viên đại học và một của phóng viên tạp chí, khuôn mặt người đàn ông lộ vẻ hơi khó chịu. Anh ta nhíu mày vì tấm danh thiếp của Asakawa.
- Nếu không phiền, chúng tôi có thể thỉnh giáo anh một vài việc được không ạ.
- Số là hồi giáo sư Miura còn sống, tôi có vinh hạnh được gặp giáo sư một lần.
Không hiểu sao câu nói đó lại khiến nét mặt người đàn ông giãn ra, anh ta đem tới ba chiếc ghế gấp rồi xếp chúng quay mặt vào nhau.
- Vậy à? Các anh ngồi đi.
- Cách đây chừng ba năm, tính ra là đúng một năm trước khi giáo sư qua đời, tôi quyết định đến thỉnh chuyện giáo sư nhân một lần nhà trường đánh tiếng hỏi xem tôi có muốn dạy môn phương pháp luận khoa học hay không...
- Ở ngôi nhà này?
- Vâng, qua sự giới thiệu của giáo sư Takatsuka...
Cuối cùng thì người đàn ông cũng nở một nụ cười khi nghe nhắc đến tên giáo sư Takatsuka, vì điểm chung giữa họ đã rõ ràng.
Hẳn là anh ta đang nghĩ: hai người này cùng phe với mình, chắc không phải những kẻ đến để công kích...
- Tôi tên là Miura Tetsuaki, xin thứ lỗi cho sự khiếm nhã vừa rồi. Cũng xin lỗi vì danh thiếp của tôi vừa mới hết...
- Nói vậy thì anh là...
- Vâng, tôi chính là đứa con kém cỏi của ông.
- Vậy sao, ồ, tôi không hề nghĩ là giáo sư lại có một đứa con giỏi giang như thế...
Asakawa phải cố nén để khỏi phì cười vì cái cách Ryuji gọi một người hơn họ đến mười tuổi là "một đứa con giỏi giang".
Miura Tetsuaki giới thiệu sơ qua về kỷ niệm đường của cha mình, rằng các học trò của ông đã góp sức biến ngôi nhà mà ông để lại thành một kỷ niệm đường và phân loại các tài liệu thu thập được. Còn về phần mình, anh ta nói với một vẻ pha chút tự trào rằng, anh ta đã không đi theo con đường nghiên cứu mà người bố mong đợi, mà lại bỏ tiền ra xây dựng và kinh doanh một khách sạn nhỏ trên cùng miếng đất với ngôi kỷ niệm đường.
- Tóm lại là tôi đang lợi dụng danh tiếng và mảnh đất ông cụ để lại, vì thế tôi buộc phải tự gọi mình là một đứa con kém cỏi.
Tetsuaki nói vậy rồi cười thẹn thùng. Khách sạn của anh ta thường phục vụ cho những chuyến đi xa của đám học sinh cấp ba. Khách trọ hầu hết là thành viên các câu lạc bộ khoa học như câu lạc bộ vật lý, sinh vật, trong số đó còn có cả những cái tên như Hội Nghiên cứu Siêu tâm lý học. Mà chỗ nghỉ trọ của bọn học trò thì cần một chút danh nghĩa. Vì thế, Kỷ niệm Đường Miura Tetsuzo chính là miếng mồi câu bóng bẩy thu hút những đoàn học sinh cấp ba tới nghỉ.
- Chuyện là thế này anh ạ. - Ryuji sửa lại tư thế ngồi và tìm cách đưa câu chuyện trở về quỹ đạo.
- Ấy chết, tôi xin lỗi vì cứ huyên thuyên những chuyện không đâu... Vậy tôi có thể giúp gì được các anh?
Như thế đủ thấy Tetsuaki chẳng có chút tài năng nào của một nhà khoa học. Nhìn nghiêng, nét mặt lộ đầy vẻ khinh bỉ của Ryuji tuồng như muốn nói: cái thái độ vuốt đuôi kiểu con buôn hợp với thằng cha này lắm.
- Chẳng là chúng tôi đang đi tìm một nhân vật.
- Là ai vậy?
- Chúng tôi chưa biết, chính vì thế nên chúng tôi mới tới đây.
- Ái chà, như vậy nghĩa là..., à, anh cứ nói tiếp đi...
Tetsuaki nhíu mày bối rối như thể giục khéo Ryuji trình bày câu chuyện một cách dễ hiểu hơn.
- Tôi không dám chắc chắn nhân vật này còn sống hay đã chết. Chỉ biết rõ một điều rằng, kẻ đó sở hữu một sức mạnh mà người thường không thể nào có được.
Nói đến đây Ryuji ngừng một hơi và nhìn xoáy vào Tetsuaki. Dường như ngay lập tức Tetsuaki hiểu ra rằng, "sức mạnh mà người thường không thể nào có được" nghĩa là gì.
- Giáo sư Miura là nhà sưu tập hàng đầu Nhật Bản trong lĩnh vực này. Trước đây, tôi có nghe giáo sư nói rằng, bằng mạng lưới riêng của mình, giáo sư đã lập danh sách những người có khả năng thần bí trên toàn nước Nhật và vẫn còn cất giữ những tài liệu đó.
Mặt Tetsuaki sầm lại. Anh ta nghĩ bụng: không phải bọn người này đến để nhờ mình tìm cho họ một nhân vật trong đống tài liệu ấy đấy chứ?
- Vâng, tất nhiên là các tập hồ sơ vẫn còn được lưu giữ. Nhưng, phần lớn bọn họ là những kẻ lừa đảo, vả lại khối lượng hồ sơ không phải là nhỏ.
Tetsuaki chợt rùng mình khi hình dung tới việc phải lật giở đám hồ sơ ấy một lần nữa. Mười mấy học trò của ông đã phải mất vài tháng mới phân loại xong. Cũng bởi theo di nguyện của người quá cố, họ đã giữ lại cả những tài liệu không đủ căn cứ thành thử mới lên tới con số khổng lồ như vậy.
- Ồ, chúng tôi đâu dám phiền anh như thế. Nếu anh cho phép, hai chúng tôi sẽ tự mình tìm lấy.
- Chúng nằm trong kho trên tầng hai, trước tiên mời các anh lên xem.
Tetsuaki đứng dậy. Bọn họ chưa biết chúng nhiều thế nào nên dám nói vậy, chứ chỉ cần thấy cái giá sách la liệt những thứ ấy thì không nản mới lạ. Tetsuaki vừa nghĩ như vậy vừa đưa hai người lên tầng hai.
Trần nhà của căn phòng đó khá cao, sát bức tường đối diện với lối lên cầu thang là hai hàng giá sách bảy tầng được kê cạnh nhau. Có bốn mươi tập tài liệu trong mỗi quyển kẹp hồ sơ, mà nhìn qua cũng tính được có đến vài nghìn quyển... Chẳng biết Ryuji ra sao chứ mặt Asakawa thì không còn giọt máu.
... Đốt thời giờ vào đống hồ sơ này thì chỉ còn nước chết mục trong cái nhà kho tối tăm này mà thôi.
Thế rồi, gã kêu thầm trong bụng: "Không còn cách nào khác nữa sao?"
- Xin phép anh cho chúng tôi xem qua một chút. - Ryuji thản nhiên nói.
- Xin mời, các anh cứ tự nhiên...
Mặc dù đã hơi chán nản, Tetsuaki vẫn đứng nán lại quan sát hai người một lúc vì tò mò muốn biết rốt cuộc họ đang định tìm kiếm cái gì, thế nhưng đến nước này thì quả thực anh ta ngán ngẩm quá rồi.
- Tôi xin phép vì còn có chút việc. - Nói vậy rồi anh ta rời chỗ.
Khi chỉ còn hai người, Asakawa hỏi Ryuji.
- Này, cậu giải thích xem chuyện là như thế nào.
Giọng Asakawa hơi ồm ồm vì phải ngẩng cổ lên để nhìn cái giá xếp đầy hồ sơ. Kể từ lúc bước vào kỷ niệm đường, đây là lần đầu tiên gã cất tiếng. Các tập hồ sơ được xếp theo năm, ngày tháng ghi trên những miếng bìa gáy bắt đầu từ năm 1956 và kết thúc vào năm 1988. Năm 1988, chính là năm tiến sỹ Miura qua đời. Cái chết đã khép lại công cuộc sưu tầm suốt ba mươi hai năm trời của ông.
- Không còn thời gian, chúng ta vừa tìm vừa nói chuyện. Tớ sẽ tìm từ năm 1956 trở đi, còn cậu bắt đầu cho tớ từ năm 1960.
Asakawa rút bừa một quyển ra và thử giở mấy tờ. Trang nào cũng có ít nhất một bức ảnh và một mẩu giấy ghi lại vài dòng chú thích đơn giản, địa chỉ và danh tính.
- Cậu bảo mình tìm, nhưng tìm cái gì bây giờ?
- Nhớ chú ý tên và địa chỉ. Nhặt ra những người nào là nữ sống trên đảo Izu Oshima.
- Sao phải là nữ? - Asakawa chau mày khó hiểu.
- Thế theo cậu thì câu nói: "sang năm cháu sẽ sinh con" của bà già ấy là để nói với ai?
Đúng là đàn ông không đẻ được con.
Dẹp mọi chuyện khác sang bên, hai người bắt đầu tìm kiếm. Vừa lặp đi lặp lại một thao tác đơn điệu, Ryuji vừa cắt nghĩa cho câu hỏi của Asakawa rằng tại sao lại có những tập hồ sơ này.
Bước vào những năm năm mươi, với mối quan tâm lớn tới hiện tượng siêu tự nhiên, tiến sỹ Miura bắt đầu tiến hành những thí nghiệm siêu năng lực, tuy nhiên các kết quả thiếu tính ổn định đã khiến một học thuyết khoa học chưa thể ra đời. Ngay cả đối với khả năng thấu thị, sự thiếu ổn định như vậy cũng thường xuyên xảy ra, khi trình diễn trước mắt công chúng, người ta bỗng nhiên không thể thực hiện được cái khả năng mà mới đó còn làm được. Mọi chuyện cho thấy rằng cần phải có một sức tập trung không nhỏ để phát huy những khả năng này. Tuy nhiên, điều mà tiến sỹ Miura đòi hỏi là một nhân vật có thể phát huy những khả năng đó ở mọi lúc và ở mọi nơi. Ông hiểu rằng nếu thất bại trước mặt đám đông, bản thân ông sẽ không tránh khỏi bị gọi là một tên lừa đảo. Vì vậy, tin chắc rằng vẫn còn tiềm ẩn những người có năng lực siêu nhiên trên thế giới, ông đã quyết định đi tìm họ. Vấn đề là cần phải tìm bằng phương pháp nào? Tất nhiên, không thể kiểm chứng khả năng thấu thị, khả năng tiên tri, năng lực viễn khiển bằng cách gặp mặt từng người một. Vậy là ông nảy ra một sáng kiến: ông gửi một tấm phim được niêm phong cẩn mật tới những nhân vật được cho là có khả năng này, yêu cầu họ dùng ý nghĩ của mình để in lên đó một hình vẽ mà ông chỉ định rồi gửi lại cho ông trong trạng thái vẫn dán kín. Với cách ấy, ông có thể kiểm tra được khả năng của ngay cả những người ở cách ông rất xa. Hơn nữa, chụp ảnh bằng ý nghĩ là một khả năng khá cơ bản, người có khả năng này thường đồng thời có khả năng tiên tri hoặc thấu thị. Năm 1956, tiến sỹ Miura bắt đầu chiêu mộ rộng rãi những người có khả năng đặc biệt từ khắp nước với sự giúp sức của các học trò đang làm việc tại các nhà xuất bản và toà soạn báo. Khi nghe thấy tin đồn về những người có khả năng này thông qua mạng lưới của mình, các học trò sẽ báo cáo lại cho ông. Tuy nhiên, việc kiểm tra bằng phương pháp ấy cho thấy số người có khả năng thực sự chỉ chiếm chưa quá một phần mười, còn lại phần lớn các tấm phim đều bị bóc ra và đánh tráo một cách khéo léo. Ông quyết định tiêu huỷ ngay tại chỗ những tấm phim được xác định là bịp bợm và cố gắng giữ lại những tấm phim chưa thể kiểm chứng rõ ràng. Kết quả là đã hình thành nên một bộ sưu tập không thể quản lý nổi như thế này. Sau đó, cùng với sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự gia tăng về số lượng học trò, mạng lưới của ông mỗi ngày một hoàn thiện hơn, các số liệu liên tục dày theo năm tháng cho tới khi tiến sỹ qua đời.
- Ra vậy... - Asakawa lẩm bẩm. - Mình hiểu ý nghĩa của bộ sưu tập này rồi. Nhưng làm sao cậu biết được trong đó có cái kẻ mà chúng ta đang tìm kiếm?
- Ai bảo cậu là tớ khẳng định như thế. Tớ chỉ nói là rất có thể thôi. Nghe này, cậu hiểu một kẻ làm được những điều như vậy là thế nào không? Ừ thì cũng có vài ba kẻ có thể chụp ảnh bằng ý nghĩ. Nhưng một kẻ có thể đưa hình ảnh vào trong bóng hình ti vi mà không dùng bất cứ thiết bị nào thì quả là hiếm. Đó là một siêu siêu năng lực cậu hiểu chưa? Một kẻ có khả năng như vậy cho dù có sống một cách hết sức bình thường cũng không thể tránh khỏi sự chú ý của xung quanh. Tớ không nghĩ là mạng lưới của tiến sỹ Miura lại có thể bỏ qua một đối tượng lù lù trước mắt như vậy được.
... Vậy là có cơ may. Ngay cả Asakawa cũng thừa nhận điều này. Gã cảm thấy những ngón tay đang lật giở hồ sơ trở nên mạnh mẽ hơn.
- Nhưng tại sao mình lại phải lục tìm từ những tệp hồ sơ năm 1960? - Bất chợt nhớ ra, Asakawa ngẩng đầu lên hỏi.
- Cậu còn nhớ chiếc ti vi trong đoạn băng ấy chứ? Nó là một chiếc ti vi đời cũ, thuộc thế hệ sơ khai của máy truyền hình, khoảng những năm năm mươi tới đầu sáu mươi.
- Thế thì sao? Chả giải quyết được vấn đề gì...
- Cậu thật rầy rà, chẳng phải tớ đã nói rằng đó là vấn đề cơ may hay sao?
Asakawa tự nhắc nhở mình rằng suốt từ lúc nãy tới giờ gã đã quá nóng ruột. Nhưng như thế cũng hợp lẽ. Thời gian không còn nhiều nữa, lại phải lục lọi đống hồ sơ khổng lồ này nữa, như thế mà bình tĩnh được mới là lạ.
Đúng lúc ấy, dòng chữ "Izu Oshima" đập vào mắt gã.
- Ái chà, đây rồi!
Tiếng kêu của gã như thể vừa tóm cổ được một con ma. Ryuji giật mình quay lại ngó vào tập hồ sơ.
... Motomachi, Izu Oshima. Tsuchida Teruko. 37 tuổi. Bưu ấn đề ngày 14 tháng Hai năm 1960. Một bức ảnh đơn sắc có hình tia chớp chạy sáng trắng trên nền đen. Phần chú thích ghi: "Đây là kết quả nhận được khi gửi đi yêu cầu dùng ý nghĩ để chụp hình chữ thập. Không có dấu vết đánh tráo."
- Cậu thấy sao? - Asakawa phấn khích lắc lư người trong lúc chờ đợi phản ứng của Ryuji.
- ... Không phải là không có khả năng. Trước mắt, cậu cứ ghi lại địa chỉ và họ tên cái đã.
Chỉ nói có vậy rồi Ryuji lại quay trở về với tập hồ sơ của mình. Tuy đã phấn chấn hơn vì ngay lập tức phát hiện ra một đối tượng đầy hứa hẹn song Asakawa cũng không khỏi bất mãn trước phản ứng lạnh nhạt của Ryuji.
Đã hai giờ đồng hồ trôi qua. Kể từ lúc đó họ không còn phát hiện thêm một phụ nữ nào có nguồn gốc từ đảo Izu Oshima nữa. Địa chỉ của người gửi phần lớn là ở Tokyo hoặc những khu vực ven vùng Kanto. Tetsuaki xuất hiện với hai ly trà, trước khi bỏ đi, anh ta còn để lại mấy câu hàm ý mỉa mai. Đã hai tiếng đồng hồ mà chưa giải quyết hết chỗ tư liệu của một năm, bàn tay hai người mỗi lúc một uể oải hơn.
Đã tìm xong năm 1960. Trước khi chuyển sang năm 1961, Asakawa đưa mắt qua phía Ryuji. Y đang ngồi xếp bằng và gục mặt xuống tập hồ sơ mở rộng mà không hề nhúc nhích. Hắn lại ngủ rồi, nghĩ vậy Asakawa vừa định đưa tay ra thì có tiếng y rên lên đầy thảm thiết.
- Đói chết mất. Này, mua hộ tớ hộp cơm với trà Ô Long về đây được không? Nhân tiện đặt luôn một phòng ở Le Petite Pension Soleil đêm nay nhé.
- Cái quái quỷ gì vậy.
- Là khách sạn của thằng cha lúc nãy ấy mà.
- Ai chả biết, nhưng tại sao lại phải ngủ với cậu cơ chứ...
- Cậu không thích à?
- Nhưng mình không có thời gian, mình không thể ung dung ngủ lại khách sạn lúc này được.
- Ừ, thì cứ cho là cậu đã tìm thấy người đàn bà đó rồi đi, nhưng cậu định đi Oshima ngay bây giờ chắc? Hôm nay phải nằm lại đây thôi. Tốt hơn hết là đánh một giấc thật đẫy cho lại sức cái đã.
Asakawa cảm thấy không còn gì ghê tởm hơn khi phải ở chung khách sạn với Ryuji, nhưng đành vậy, gã chạy đi mua cơm, nói với Miura Tetsuaki rằng họ sẽ nghỉ lại đêm nay, rồi ngồi nhai cơm hộp và uống trà Ô Long với Ryuji. Bảy giờ tối, hai người tạm nghỉ tay.
Hai cánh tay và bả vai mỏi nhừ. Asakawa gỡ kính ra cho khỏi nhức mắt. Bù lại, gã gí sát mặt vào tập hồ sơ rồi lần tìm như thể đang liếm chúng. Việc tập trung thần kinh cao độ để không sơ sểnh bỏ qua bất cứ chi tiết nào càng khiến gã mệt mỏi hơn.
Chín giờ tối. Giữa căn phòng lặng ngắt bỗng vang lên tiếng kêu thất thanh của Ryuji.
- Tìm được rồi. Hoá ra nó nằm ở đây.
Bị thu hút, Asakawa ngồi xuống cạnh Ryuji và đeo lại kính lên mắt.
... Sashikichi, Izu Oshima. Yamamura Sadako. Mười tuổi. Bưu ấn trên bì thư đề ngày 29 tháng Tám năm 1956. Cùng với một tấm ảnh có chữ Yama màu trắng nổi lên trên nền đen là lời chú thích: "Đây là kết quả nhận được khi gửi đi yêu cầu dùng ý nghĩ để chụp tên mình lên phim. Khẳng định tấm phim hoàn toàn là thật."
Asakawa nhận ra con chữ ấy.
- Đúng... đúng là nó. - Giọng gã run lên.
Trong đoạn băng, cảnh phim có chữ Yama diễn ra ngay sau cảnh phun trào của núi lửa Mihara. Và ở cảnh thứ mười, chữ Sada đã hiện lên trong chiếc ti vi đời cũ. Mà tên đứa bé gái này lại là Yamamura Sadako.
- Cậu nghĩ sao? - Ryuji hỏi.
- Đúng là nó rồi, không sai được.
Cuối cùng thì những tia hy vọng cũng được nhen lên. Biết đâu vẫn còn kịp, ý nghĩ ấy bất chợt thoáng qua trong óc gã.
 
Thứ Ba, ngày 16 tháng Mười

10:15 sáng, Asakawa và Ryuji đang ở trên chiếc tàu cao tốc vừa rời cảng Atami. Không có phà nối đảo Oshima với đất liền, vì vậy họ đành phải gửi lại ô tô ở bãi đỗ xe bên cạnh khách sạn Atami Korakuen. Tay trái Asakawa vẫn đang nắm chặt chiếc chìa khoá.
Theo dự định, thuyền sẽ tới đảo Oshima sau một tiếng. Trời sắp mưa, gió cũng nổi lên khá mạnh. Chẳng có mấy hành khách lên boong, hầu như mọi người đang ngồi co ro trên ghế. Vì phải quáng quàng mua vé nên họ đã không thể xác nhận thông tin một cách đầy đủ, nhưng dường như có một cơn bão đang tiến lại gần. Sóng dằn mạnh, con thuyền cũng chao đảo hơn.
Vừa nhâm nhi lon cà phê nóng bỏng, Asakawa vừa điểm lại những diễn biến vừa qua trong đầu. Gã không biết nên khen ngợi mình vì sự kiên cường cho đến lúc này, hay nên tự trách mình vì đã không thể tìm ra cái tên Yamamura Sadako và tới đảo Oshima sớm hơn. Vì toàn bộ chìa khoá của vấn đề nằm ở chỗ: có nhận ra hay không lớp màng đen che phủ màn hình trong thoáng chốc ấy chính là một cái chớp mắt. Nếu đúng là đoạn băng ấy không phải được ghi lại bằng máy quay video mà bằng các giác quan của một con người, và đúng là nhân vật đó đã dùng thuật ghi hình bằng ý nghĩ trong lúc đầu máy video đang chạy tại ngôi biệt thự B-4 của Villa Log Cabin, thì siêu năng lực của kẻ đó không thể lường hết được. Chú ý tới đặc điểm nổi bật khác với người thường này, Ryuji đã thành công trong việc tìm ra tung tích của kẻ đó. Nhưng, đã chắc gì Yamamura Sadako là thủ phạm. Tất cả mới chỉ là nghi vấn. Và bọn gã đang trên đường tới đảo Oshima để làm rõ nghi vấn này.
Sóng xô mạnh con thuyền. Một linh cảm xấu bỗng ập xuống Asakawa. Liệu có sáng suốt không khi cả hai người cùng tới đảo Oshima? Ai sẽ cứu vợ con gã nếu bọn họ mắt kẹt trên Oshima vì bão? Hạn chót của gã đang đến gần: 10:40 tối ngày kia.
Cơ thể Asakawa mỗi lúc một co rúm lại mặc cho lon cà phê đang hâm nóng hai tay.
- Mình vẫn chưa tin. Làm sao con người có thể làm được việc đó.
- Vấn đề đâu phải tin hay không. - Ryuji trả lời trong khi vẫn nhìn xuống tấm bản đồ Oshima. - Vấn đề là cậu đang phải đối mặt với thực tế. Cậu nên hiểu, cái mà chúng ta nhìn thấy được chỉ là một phần của hiện tượng biến hoá không ngừng.
Ryuji đặt tấm bản đồ lên đầu gối.
- Cậu biết Big Bang chứ? Người ta cho rằng vũ trụ ra đời từ một vụ nổ khủng khiếp cách đây hai mươi tỷ năm. Tớ có thể biểu diễn lại những biến thiên của vũ trụ từ khi hình thành cho tới nay bằng các công thức toán học, nói một cách cụ thể là phương trình vi phân. Cậu phải biết rằng hầu hết các hiện tượng của vũ trụ này đều có thể biểu diễn dưới dạng phương trình vi phân. Với phương pháp này, hình dáng của vũ trụ cách nay mười tỷ năm, hai mươi tỷ năm, thậm chí một giây cho đến 0,1 giây sau vụ nổ cũng sẽ được làm sáng tỏ. Thế nhưng, chúng ta sẽ không bao giờ biết được cái thời khắc bằng 0, tức là cái tích tắc xảy ra vụ nổ, cho dù chúng ta có dùng mọi cách để lội ngược dòng thời gian và cố gắng mô phỏng nó. Còn một chuyện nữa, đó là vũ trụ của chúng ta sẽ kết thúc như thế nào... Vũ trụ này là mở hay đóng? Chúng ta sẽ không bao giờ biết được sự khởi đầu và kết thúc, chúng ta chỉ biết được những gì đang diễn ra ở khoảng giữa của nó mà thôi. Cậu không thấy đời người cũng giống vậy sao?
Nói rồi Ryuji vỗ vỗ vào cánh tay Asakawa.
- Cậu nói phải, khi xem lại album, mình cũng phần nào hình dung được hồi ba tuổi hay lúc mới sinh nom mình ra sao.
- Đúng không? Nhưng con người không bao giờ biết được trước khi chào đời và sau khi chết đi thì như thế nào.
- Sau khi chết? Thì chết rồi là hết, là chẳng còn gì nữa chứ sao?
- Cậu đã chết bao giờ chưa?
- Chưa. - Asakawa thành thật lắc đầu. - Ý cậu là linh hồn có thật?
- Tớ chỉ có thể nói rằng tớ không biết. Nhưng khi xét tới sự chào đời của một sinh mệnh, tớ cảm thấy mọi thứ sẽ dễ dàng hơn với việc giả định rằng linh hồn tồn tại. Còn giới sinh vật học phân tử hiện đại thì toàn nói bậy. Cậu biết cánh đó nói gì không? "Chỉ cần cho hơn hai mươi loại a-xit a-min, mỗi loại vài trăm đơn vị vào một cái âu, vừa khoắng tít vừa rắc lên đó mấy vốc năng lượng điện, ấy thế là chúng ta đã có ngay được chất đạm, cái gốc của sự sống". Bọn chúng nói vậy đấy. Cậu tin được không? Xằng bậy. Thà nói đại rằng chúng ta là những tạo vật của Thượng Đế cho dễ hiểu. Còn tớ thì tin rằng, có một dạng thức năng lượng hoàn toàn khác, mà chính xác hơn là một loại ý chí nào đó đã hoạt động đúng vào cái thời khắc mà chúng ta ra đời.
Hơi ghé mặt về phía Asakawa, Ryuji đột ngột chuyển chủ đề.
- Này, lúc ở kỷ niệm đường, xem chừng cậu có vẻ say sưa với các trước tác của ông giáo sư ấy nhỉ. Có phát hiện ra điều gì lý thú không?
Gã chợt nhớ ra là gã đang đọc dở dang. Học thuyết của tiến sỹ nói rằng... ý nghĩ hàm chứa năng lượng và năng lượng ấy...
- Hình như ông ta viết rằng ý nghĩ là năng lượng hay cái gì đại loại thế.
- Đoạn tiếp theo là gì?
- Mình không có thời gian đọc hết.
- Hề hề, thật đáng tiếc, phần hấp dẫn nhất lại nằm ở phía sau. Cái cách bố già ấy trình bày thản nhiên và rất có lý về những người mà người bình thường nào cũng sẽ sốc khi nghe tới sẽ làm cậu khoái ra trò. Nhưng tóm lại, bố già ấy muốn nói rằng ý thức là một thực thể sống có năng lượng.
- Cái gì? Nghĩa là những suy nghĩ trong đầu chúng ta sẽ biến thành một thực thể sống?
- Đúng là như thế.
- Thế thì cực đoan quá.
- Chính xác là cực đoan, nhưng có một chủ thuyết tương tự đã được bàn đến suốt từ trước công lịch cho tới nay. Cũng không loại trừ đây là một biến thái của thuyết sức sống (Vitalism).
Nói đến đó, Ryuji bỗng không còn hào hứng với câu chuyện và lại quay về với tấm bản đồ Oshima.
Không phải gã không hiểu Ryuji định nói gì. Nhưng gã vẫn chưa hết thắc mắc. Họ không thể lý giải bằng khoa học cái thực tế mà họ đang phải đối mặt lúc này. Song vì nó là hiện thực, nên họ chỉ còn cách hành xử theo hiện tượng bên ngoài cho dù không biết được mối quan hệ nhân quả. Việc họ cần làm trước tiên là giải mã câu thần chú và thoát ra khỏi vòng vây của thần chết chứ không phải đi tìm lời giải cho sự bí ẩn của những năng lực siêu nhiên. Gã đồng ý là như thế. Nhưng gã cần ở Ryuji một câu trả lời minh xác hơn.
Càng ra xa con thuyền càng lắc mạnh. Asakawa bắt đầu lo mình bị say sóng. Gã thấy rất rõ cảm giác nôn nao trong người. Đang lơ mơ ngủ, bất thần Ryuji ngẩng mặt nhìn ra bên ngoài. Biển một màu xanh xám đậm dậy sóng, phía trước, bóng dáng hòn đảo hiện ra mờ tỏ.
- Asakawa này, tớ vẫn thấy khúc mắc một chuyện.
- Chuyện gì?
- Tại sao bốn đứa nhóc không thực hiện câu thần chú?
... Tưởng gì, hoá ra chuyện đó.
- Nó rành rành ra đấy còn gì? Vì bọn chúng không tin vào nội dung của cuốn băng.
- Tất nhiên, tớ cũng đã từng cho là như vậy. Và chính vì thế mà bọn chúng mới chơi cái trò nghịch dại là xoá đi câu thần chú. Nhưng mà đột nhiên tớ lại nhớ ra một chuyện. Hồi ở trung học, vào một đêm ngủ chung trong chuyến dã ngoại của nhóm điền kinh, thằng Saito đã lao như tên bắn vào trong phòng. Cậu còn nhớ chứ, cái thằng Saito cớm nắng ấy? Cả nhóm có mười hai đứa, đều ngủ trong một phòng. Lúc lao vào phòng, hắn la lớn lên là có ma trong khi răng vẫn đánh vào nhau cầm cập. Hắn bảo, lúc vừa mở cửa toilet ra thì bỗng nhiên hắn nhìn thấy khuôn mặt đang khóc của một đứa bé gái ở chỗ cái bóng của chiếc thùng rác bên cạnh la-va-bô. Trừ tớ ra, cậu biết mười đứa còn lại phản ứng như thế nào không?
- Chắc là năm thằng tin còn năm thằng thì cười nhạo chứ gì?
Ryuji lắc đầu.
- Thế giới phim kinh dị hoặc truyền hình thì như thế. Đó là cái mô típ kiểu như ban đầu sẽ chẳng ai tin, thế rồi con quái vật sẽ tấn công từng người từng người một... Nhưng thực tế hoàn toàn khác. Mười thằng đó, chẳng chừa đứa nào, đều tin lời hắn cả. Đừng nghĩ chúng quá nhát gan. Các cuộc thử nghiệm với những nhóm khác cũng cho cùng kết quả. Nỗi sợ hãi mang tính căn nguyên đã được tạo lập sẵn trong bản năng con người rồi.
- Ý cậu cho rằng bốn đứa trẻ không tin vào đoạn băng là không bình thường?
Nghe Ryuji nói, Asakawa chợt nhớ lại nét mặt khóc thét của con gái khi nhìn thấy chiếc mặt nạ, và cả mối băn khoăn vào lúc ấy rằng, tại sao con bé lại biết sợ mặt nạ quỷ?
- Tớ không nói vậy, thực ra đoạn phim đó không có cốt truyện cũng chẳng đáng sợ cho lắm. Nên khả năng bọn chúng không tin là không thể phủ nhận. Nhưng chẳng lẽ bọn chúng không thấy bận tâm chút nào? Là cậu thì cậu sẽ tính sao? Nếu thực hiện câu thần chú mà thoát được cái chết, liệu cậu có thử làm không, mặc dù có thể không tin? Có gì lạ đâu nếu một trong số bọn chúng chơi trò ăn mảnh. Đành rằng lúc đó nó phải cố tỏ ra can đảm trước mặt ba đứa khác, nhưng về Tokyo nó vẫn có thể kín đáo thực hiện cơ mà.
Cái linh cảm xấu trong gã lại tăng lên. Thực ra, bản thân Asakawa cũng đã từng nghĩ tới điều này.
... Nếu thần chú là một thứ không thể thực hiện được thì sao?
- Có thể rằng đó là một mệnh lệnh bất khả thi nên chúng đã tự thuyết phục mình theo chiều hướng không tin vào nó?
Lúc ấy, trong óc gã bỗng nảy ra một tình huống như thế này. Có thể, đứa bé gái đã bị một kẻ nào đó sát hại và nó muốn gửi đi thông điệp ấy hòng mượn tay người khác rửa hận cho mình...
- Tớ biết cậu đang nghĩ gì. Và nếu quả là như vậy thì cậu sẽ hành động ra sao?
Nếu câu thần chú là một mệnh lệnh kiểu như hãy giết chết một ai đó thì liệu rằng gã có thể cướp đi sự sống của một con người không hề quen biết để cứu lấy sinh mệnh của mình không? Asakawa tự vấn. Nhưng còn một vấn đề bức thiết hơn, ấy là ai sẽ thực hiện câu thần chú khi mà sự thật là như thế? Asakawa lắc mạnh đầu. Gã không nên nghĩ tới những chuyện ngu ngốc như vậy. Gã chỉ còn biết cầu mong để những yêu cầu của cái kẻ tên Yamamura Sadako là thứ mà ai cũng có thể thực hiện được.
Những đường nét của hòn đảo đã rõ ràng, con thuyền chầm chậm xoay hướng để cập vào cầu cảng Motomachi.
- Này Ryuji, mình muốn nhờ cậu một chuyện. - Giọng Asakawa rành rọt.
- Gì thế?
- Nếu mình không còn đủ thời gian, nghĩa là... - Asakawa không muốn nhắc đến chữ chết. - Nếu cậu tìm ra chân tướng của câu thần chú vào ngày hôm sau, thì cậu hãy...
Ryuji không để gã nói hết.
- Tất nhiên. Để đó cho tớ. Tớ sẽ có trách nhiệm cứu vợ và cún con nhà cậu.
Asakawa chìa ra tấm danh thiếp mà gã đi ghi ở mặt sau một số điện thoại.
- Mình định gửi vợ con về nhà ngoại ở Ashikaga cho tới khi giải quyết xong vụ này, đây là số điện thoại nhà vợ mình. Mình đưa luôn cho cậu kẻo quên.
Ryuji nhét tấm danh thiếp vào trong túi mà không thèm nhìn.
Nhà tàu thông báo thuyền đã cập cảng Motomachi. Asakawa gọi điện cho vợ từ trên cầu cảng hòng thuyết phục cô về nhà bố mẹ đẻ ít lâu. Gã không biết khi nào mình mới có thể trở lại Tokyo. Chưa biết chừng gã sẽ phải đón cái kết cục của mình ở trên đảo Oshima này. Gã không sao chịu được khi tưởng tượng ra cảnh vợ con đang sống trong sợ hãi nơi căn hộ chung cư chật hẹp.
Ryuji cất tiếng hỏi trong khi bước xuống cầu tàu.
- Này Asakawa, cậu thương vợ con đến thế cơ à?
Một câu hỏi chẳng có vẻ gì là Ryuji khiến gã bật cười.
- Ngay cả cậu rồi cũng sẽ hiểu tại sao.
Tuy nhiên, Asakawa không nghĩ rằng Ryuji sẽ có được một gia đình tử tế.
 
Đứng trên cầu cảng Oshima, gió lộng hơn ở Atami. Ngẩng mặt lên trời, Asakawa thấy nhiều đám mây hối hả bay từ tây sang đông, những con sóng xô mạnh vào thành cầu làm khối bê tông rung lên dưới chân gã. Mưa chưa lớn, nhưng đã có những giọt nước được gió mang theo rơi thẳng xuống mặt. Hai người không mang ô, đút hai tay vào túi, so vai và rảo bước thật nhanh theo chiếc cầu tàu thò ra biển.
Nhiều người dân đảo cầm những tấm biển cho thuê xe hơi hoặc những lá cờ phướn của quán trọ đang đứng chờ du khách. Asakawa ngẩng đầu lên và đưa mắt tìm một người đã hẹn trước. Trước khi lên tàu cao tốc rời cảng Atami, gã đã nhờ toà soạn cung cấp số điện thoại của ban tin tức Oshima và thỉnh cầu sự hợp tác của một cộng tác viên tên là Hayatsu. Chưa có tờ báo nào đặt phân xã ở Oshima, thay vào đó, họ thuê người địa phương làm cộng tác viên. Cộng tác viên có nhiệm vụ theo dõi mọi diễn biến trên đảo và liên lạc về tổng xã nếu phát hiện thấy những sự kiện hay những mẩu chuyện đặc biệt. Tất nhiên, sự hợp tác của họ là không thể thiếu trong những trường hợp phóng viên của tổng xã ra tác nghiệp trên đảo. Với trường hợp của Hayatsu, ông về ở hẳn trên đảo Oshima sau khi thôi làm việc cho báo M. Phạm vi phụ trách của ông là toàn bộ bảy hòn đảo thuộc quần đảo Izu nằm về phía nam thị trấn Oshima, ông được phép trực tiếp viết bài và gửi về toà soạn mà không cần chờ phóng viên của tổng xã mỗi khi diễn ra sự kiện nào dó. Bản thân Hayatsu nắm giữ một mạng lưới đưa tin riêng trên đảo, vì thế, công việc điều tra của gã chắc chắn sẽ tiến triển nhanh hơn nếu có được sự cộng tác của người này.
Hayatsu vui vẻ chấp nhận lời đề nghị của Asakawa qua điện thoại và hứa sẽ ra đón họ tại cầu cảng. Vì không biết mặt nhau nên Asakawa thông báo với Hayatsu rằng họ đi hai người và mô tả sơ qua về đặc điểm cơ thể của mình.
- Xin lỗi có phải anh là Asakawa?
Có giọng nói cất lên từ phía sau.
- Vâng, là tôi đây.
- Tôi là Hayatsu, làm việc ở ban tin tức Oshima.
Hayatsu vừa đưa ô lên che vừa chào họ với một nụ cười dễ mến.
- Xin lỗi bác vì đường đột quá.
Vừa bước đi Asakawa vừa giới thiệu Ryuji rồi họ nhanh chóng leo lên xe ô tô của Hayatsu. Không thể nói chuyện bên ngoài xe vì tiếng gió rít ù ù. Lòng xe khá rộng so với một chiếc ô tô hạng nhỏ. Asakawa ngồi lên ghế phụ còn Ryuji ngồi ở băng sau.
- Chúng ta đến thẳng nhà Yamamura Takashi chứ? - Hayatsu hỏi, hai tay đặt trên vô lăng. Đã hơn sáu mươi nhưng tóc ông vẫn khá dày, tuy có nhiều sợi bạc.
- Bác đã tìm được nhà Yamamura Sadako rồi ạ?
Trên điện thoại, Asakawa đã nói qua với Hayatsu về ý định điều tra một nhân vật có cái tên Yamamura Sadako.
- Vì ngôi làng ấy nhỏ lắm. Nói đến họ Yamamura ở Sashikichi thì chỉ có một thôi nên tôi tìm thấy ngay. Nhà Yamamura vốn làm nghề đánh cá, tuy vậy vào mùa hè cũng có kinh doanh thêm nhà trọ. Hay là đêm nay tôi để các anh nghỉ lại đó... Để các anh ở lại nhà tôi cũng được nhưng phải cái chật chội và bừa bộn quá, chỉ sợ làm phiền hai người...
Hayatsu nói vậy rồi cười. Ông sống cùng với vợ. Quả tình ông không nói dối, nhà ông chẳng đủ chỗ để mời hai vị khách ngủ lại. Asakawa quay lại sau nhìn Ryuji.
- Tớ thì sao cũng được.
Hayatsu tăng tốc cho xe phóng thẳng về phía Sashikichi, ngôi làng nằm ở cực nam của đảo. Nói là tăng tốc chứ chẳng chạy được nhanh, vì đường vành đai lượn quanh đảo vừa hẹp vừa lắm khúc cua. Những chiếc xe chạy ngược chiều phần lớn là xe hạng nhỏ. Tầm mắt mở rộng về phía bên phải, biển hiện ra và tiếng gió cũng đổi khác. Biển nhuộm màu da trời, sâu thẳm, những đợt sóng cuộn lên, ngọn sóng trắng lấp lánh. Nếu không có chúng, đường ranh giới giữa biển và trời, thậm chí giữa biển và đất liền hẳn đã trở nên mờ nhạt. Nhìn mãi cảnh tượng ấy khiến lòng Asakawa buồn bã. Thông tin về cơn bão đang phát trên đài lại càng làm gã rầu rĩ hơn. Tới một ngã ba, chiếc xe rẽ vào con đường bên phải và bắt gặp một lối đi trồng toàn hoa trà, nó chui qua dưới cái vòm ấy. Chắc tại mưa gió lâu ngày cướp đi lớp đất phủ, dưới những gốc cây, vô số những chiếc rễ trần trụi cong queo trồi ra và xoắn xuýt vào nhau. Vẻ mơn mởn ẩm ướt vì nước mưa trên bề mặt chúng bất chợt khiến Asakawa rơi vào một cảm giác như đang luồn lách trong ruột một con quái vật khổng lồ.
- Còn một đoạn nữa là đến Sashikichi rồi. - Hayatsu nói. - Nhưng tôi không nghĩ là cô Yamamura Sadako còn ở đó. Những chuyện cụ thể hơn các anh cứ hỏi ông Yamamura Takashi. Nghe đâu ông ấy là anh em họ với mẹ của Yamamura Sadako.
- Cô Yamamura Sadako năm nay bao nhiêu tuổi rồi ạ? - Asakawa hỏi. Từ nãy tới giờ, Ryuji chỉ ngồi bó gối ở ghế sau, chẳng hề mở miệng câu nào.
- Tôi chưa gặp bao giờ, nhưng nếu cô ta còn sống thì năm nay chắc khoảng bốn hai, bốn ba gì đấy.
... Nếu còn sống? Tại sao ông ấy lại dùng cách nói này? Asakawa bỗng thấy nghi ngại. Hay là cô ta đã biệt tích từ lâu? Đã đặt chân lên đến đảo mà không thu lượm được tin tức gì, gã chỉ còn cách đợi chờ kết cục. Nỗi hoang mang thoáng qua trong đầu gã.
Đang băn khoăn thì chiếc xe dừng lại trước cửa một ngôi nhà hai tầng có tấm biển đề "Quán trọ Yamamura". Ngôi nhà tọa lạc trên một sườn dốc thoai thoải nhìn ra biển, những ngày đẹp trời hẳn là phong cảnh dưới kia sẽ rất tuyệt vời. Ngoài khơi, cái bóng hình tam giác của một hòn đảo hiện lên lờ mờ. Đó là đảo Toshima.
- Hôm nào trời nắng to, từ đây ta có thể nhìn thấy được đảo Nijima, Shikinejima, và cả đảo Kozushima nữa.
Hayatsu đưa tay chỉ tít về phía nam và nói với vẻ tự hào.
 
×
Quay lại
Top