Chuyện xảy ra trên con tàu tốc hành Phương Đông

Thùy Vi

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
10/2/2013
Bài viết
1.025
Chuyện xảy ra trên con tàu tốc hành Phương Đông
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh thám

Nguồn: Vnthuquan
Dịch giả: Dao Uyên


Lời giới thiệu

“Chuyện xảy ra trên tàu tốc hành Phương Đông” là một tác phẩm trinh thám của Agatha Christie được dịch sang tiếng Việt từ cuốn “Le Crime de l’ Orient - Express” do Louis Pootif dịch tử bản gốc tiếng Anh mang tên “Murder on the Orient Express”.
Khác với chuyện “Sứ mạng trên Đào Đen” cùng một tác giả, “Chuyện xảy ra trên tàu tốc hành Phương Đông ” không có những tình tiết éo le, sôi động. Ở đây, câu chuyện xảy ra trong một bối cánh đơn giản và thời gian thì thật ngắn ngủi. Tất cả những phương tiện thông tin đều bế tắc - Con tàu tốc hành bị nghẽn đường vì tuyết phủ. Án mạng đã xảy ra trên một toa tàu chỉ có hai cửa ở đầu và cuối toa. Số người hiện diện trong toa là 14 người. Trong đó có Hercule Poirot, một thám tử tài ba và cũng là nhân vật gần như xuất hiện xuyên suốt các tác phẩm trinh thám của Agatha Christie.
Những dữ kiện đã được mô tả đày đủ từ những trang đầu. Số người trong toa lại đông và gần như họ có đủ chứng cứ vắng mặt ở hiện trường sẽ không thể xem là thủ phạm. Mọi tang chứng tại hiện trường lại càng làm cho việc truy tầm thêm phức tạp, khó hiểu và dễ đưa đến một nguyên cớ từ bên ngoài. Những dữ kiện và tình huống đặt ra cũng như phương tiện truy tầm rất hạn chế đã đặt cho Poirot một bài toán hóc búa. Chỉ còn một phương pháp duy nhất và cũng là sở trường của Poirot vận dụng sự suy nghĩ.
Lý trí và lương tâm cùng với tình cảm của con người đã giúp Poirot tìm ra thủ phạm và cũng giúp Poirot giải quyết được vấn đề một cách rất nhân bản, đó là nội dung của câu chuyện mà Agatha Christie muốn kể cho chúng ta.






Phần I - Những dữ kiện
ChươngI-Một vị khách quý trên tàu
Vào lúc năm giờ sáng, con tàu có tên gọi rất kiêu “Taurus Express” (Tốc hành Bò tót) đang nằm yên chờ khách tại nhà ga Alep. Đó là một con tàu tốc hành gồm một toa ăn, một toa ngủ và hai toa khác chở hành khách.
Đứng trên bậc thang của toa ngủ, một thiếu úy trẻ người Pháp ngoài bộ đồng phục, bên ngoài mặc chiếc áo choàng dày đang đứng nói chuyện với một người đàn ông nhỏ thó, quần áo ấm che đến mang tai, chỉ còn chừa có chóp mũi đỏ và bộ ria mép hất quặt lên má.
Với thời tiết buốt giá này, hộ tống một nhân vật quan trọng ra ga không phải là một điều lý thú, nhưng thiếu úy Dubose thi hành nhiệm vụ này một cách hòa nhã và hầu chuyện với vị khách quí này một cách lịch thiệp. Thật ra anh cũng không biết ất giáp gì. Vị chỉ huy của Dubose đã tỏ ra gắt gỏng khi người đàn ông bé nhỏ người Bỉ này đến. Ông đã phải trải qua cuộc hành trình vất vả từ Anh đến Syrie. Một tuần lễ trôi qua trong không khí căng thẳng, nhiều biến cố dồn dập đã xảy ra: Một sĩ quan đã từ chức, một nhân vật giữ chức vụ cao trong bộ máy hành chính đã bị đưa về nước. Và rồi những khuôn mặt lo lắng đã trở lại tươi và một vài biện pháp gắt gao đã được giảm dần.
Dubose đã nghe lỏm được một vài câu chuyện giữa vị chỉ huy của anh và người đàn ông người Bỉ.
- Thưa ông,- ngài chỉ huy già nói bằng một giọng run run - Ông đã làm sáng tỏ một vấn đề khá nặng nề và giúp chúng tôi tránh được nhiều phiền phức. Làm thế nào tôi có thể cảm ơn ông đã nhanh chóng đến nhận lời mời của tôi?
Vị khách nhỏ thó với bộ ria mép độc đáo Hercule Poirot đã trả lời:
- Thưa đại tá, tôi không thể quên có một ngày ông đã cứu sống tôi...
Sau vài câu chuyện, trong đó có đề cập đến nước Pháp, nước Bỉ, vinh quang và danh dự, họ đã từ giã nhau.
Thiếu úy Dubose hoàn toàn mù tịt về nội dung câu chuyện: Anh chỉ nhận trách nhiệm đưa ông Poirot ra ga và anh đã thi hành công việc của mình một cách nhiệt tình.
- Hôm nay là chủ nhật - Dubose nói với Poirot - Chiều mai thứ hai, ông sẽ đến Stambul.
- Chắc thế, - Poirot đáp trả.
- Ồng có định ở đấy vài ngày không?
- Nhất định rồi. Tôi chưa được biết Stambul vả lại chẳng có việc gì phải gấp gáp. Tôi sẽ đi thăm thành phố đó.
- Nhà thờ thánh Sophie là một tuyệt tác! - Thiếu úy Dubose nói mặc dù anh ta chưa bao giờ trông thấy nó.
Một luồng gió lạnh thổi qua sân ga. Hai người đàn ông rùng mình. Thiếu úy liếc nhanh nhìn đồng hồ, 5 giờ kém 5… chỉ còn 5 phút nữa thôi.
Ngỡ rằng Poirot đã trông thấy cử chỉ của mình, Dubose vội tiếp câu chuyện dở dang:
- Rất ít người đi du lịch vào thời gian này - vừa nhận xét, Dubose vừa nhìn lên cửa sổ cửa toa xe ngủ.
- Chắc thế.
- Mong rằng con tàu Tauruss không bị ngừng lại vì tuyết!
- Chuyện này có thường xảy ra không?
- Có chứ, thưa ông! Nhưng năm nay thì chưa thấy.
- Hy vọng rằng đường sẽ không bị nghẽn - Poirot nói - Nhưng những tin tức khí tượng không lấy gì làm khả quan.
- Họ dự đoán sẽ có nhiều trận mưa tuyết ở Balkan.
- Và ngay cả ở Đức nữa.
- Vậy thì, ngày mai vào khoảng 7 giờ 40 ông sẽ đến Constantinople.
- Phải. - và Poirot tiếp - Nhà thờ thánh Sophie, như người ta bảo với tôi, rất đẹp.
- Hình như nó lộng lẫy lắm.
Cửa sổ của một toa xe ngủ phía trên đầu họ bỗng được nâng lên và một thiếu nữ ló mặt ra.
Mary Debenham đã không hề chợp mắt từ khi rời khỏi Bagdad, thứ năm tuần trước. Trên tàu Kirkur cũng như ở trong khách sạn Mossoul cũng thế. Ngồi mãi, mắt cứ mở trong toa tàu ngột ngạt làm cho cô mệt nhừ, vi thế Mary phải ra cửa sổ đứng nhìn ra ngoài.
Alep, chẳng có gì hấp dẫn đễ xem: bến tàu dài vô tận, tối tăm, ồn ào và toàn tiếng Ả Rập.
Dưới cửa sổ toa xe của Mary, hai người đàn ông đang nói chuyện bằng tiếng Pháp. Một người là một vị sĩ quan trẻ, người kia là một người đàn ông nhỏ thó với bộ ria mép thật dài. Mary mỉm cười khi trông thấy cách ăn mặc của người này. Có lẽ bên ngoài trời lạnh lắm. Và đó cũng là lý do tại sao trong toa xe lại ngột ngạt thế. Mary cố kéo cửa kính xuống nhưng không được.
Người phục vụ toa kút-sét đến gần hai người đàn ông và báo cho họ biết là tàu sắp khởi hành:
- Xin mời ông lên cho.
Người đàn ông nhỏ thó giở mũ ra. Mặc dù tâm trí còn nghĩ đến nhiều chuyện, Mary Debenham không khỏi mỉm cười khi trông thấy cái đầu hói của người đàn ông. Cô tự nghĩ: Làm sao có thể có người kỳ cục đến thế nhỉ?
Thiếu úy Dubose từ giã vị khách. Poirot cũng trả lời lại bằng những ngôn ngữ rất khách sáo.
- Thôi, xin mời ông lên xe cho! - Người phục vụ toa kút sét nói.
Như có vẻ nuối tiếc, Poirot lên tàu và đưa tay vẫy chào thiếu úy Dubose. Tàu bắt đầu chuyển bảnh.
Hercule Poirot thở dài.
Bằng một cử chỉ hết sức trang trọng, người phục vụ chỉ cho Poirot cách sắp xếp hành lý của ông.
- Cái vali nhỏ của ông ở đây.
Bàn tay của nhân viên phục vụ đong đưa đầy ý nghĩa. Poirot liền nhét ngay tiền vào đó.
- Xin cám ơn ông.
Gã tài xế tỏ ra vồn vã.
- Tôi đã có vé cho ngài, xin ngài cho tôi thẻ thông hành nữa. Ngài nghỉ lại Stambul chứ?
- Phải, hình như đông khách lắm trong toa xe nằm này?
- Thưa vâng, chỉ thêm 2 người thôi: 2 người Anh. Một vị đại tá từ Trung Đông trở về, và một bà từ Bagdad. Ngài cần gi không ạ?
- Cần một chai nước suối !
Vào mùa đông, 5 giờ sáng quả là một giờ đáng ghét để đáp tàu hỏa. Mặt trời chỉ ló dạng trong 2 giờ nữa thôi. Mệt mỏi, Poirot thu mình trong một góc và thiếp đi.
Khi Hercule Poirot thức giấc thì đã 9 giờ 30 sáng. Ông vội đi ngay xuống toa ăn để uống cà phê.
Lức bấy giờ trong toa chỉ có mỗi một người. Chắc đấy là cô gái người Anh theo lời nhân viên đã nói. Cô ta cao và mảnh mai, tóc nâu, khoảng chừng 30. Với vẻ từ tốn của một người thượng lưu và quen đi du lịch, cô gọi thêm một tách cà phê nữa. Bộ đồ đen bằng một loại vải thưa cô mặc rất hợp với không khí ngột ngạt của toa tàu.
Không có việc gì làm nên Hercule Poirot ngồi nhìn cô một cách kín đáo.
Cô thiếu nữ này, Poirot tự nhủ, thuộc vào loại đàn bà biết cách tự xoay sở trong mọi trường hợp. Cô ta không đẹp, nhưng Poirot thích nét khắc khổ, nước da hơi xanh, mái tóc đen, cặp mắt màu xám và cái nhìn lạnh lùng... Thật ra, cô ta hơi có vẻ nghiêm trang quá để có thể nói là đẹp.
Một người đản ông khoảng 40 đến 50 tuổi dáng người cao, khuôn mặt xương, nước da rám nắng tóc đã hơi điểm bạc, bước vào toa.
“Vị Đại tá từ Trung Đông về đây, - Poirot nghĩ”. Người mới đến chào cô gái.
- Chào cô Debenham.
- Chào đại tá Arbuthnot.
Đại tá Arbuthnot đứng trước mặt cô gái, tay đặt lên thành ghế.
- Tôi không làm phiền cô chứ?
- Không một chút nào. Mời đại tá ngồi!
- Không phải lúc nào người ta cũng muốn nói chuyện khi đang dùng điểm tâm.
- Ồ không, ông cứ yên tâm, tôi không cản đâu.
Đại tá Arbuthnot ngồi xuống.
- Bồi! - Ông ta gọi bằng giọng của một kẻ chỉ huy, - cho trứng và cà phê.
Đại tá Arbuthnot liếc nhìn Hercule Poirot rồi quay đi chỗ khác, hoàn toàn thờ ơ. Poirot đoán có lẽ ông ta đang nghĩ:
- Ôi! Chỉ là một người ngoại quốc.
Như tính khí của mọi người dân Anh, đại tá Arbuthnot và cô Mary Debenham tỏ ra ít nói. Và một lúc sau thiếu nữ đứng dậy về toa của mình.
Cả hai lại ngồi chung bàn vào buổi ăn trưa và họ làm như không biết đến Poirot. Tuy nhiên câu chuyện của họ có vẻ hào hứng hơn. Đại tá nói về Punjah và hỏi chuyện Mary về Bagdad, ở đó cô đã đảm nhận chức vụ giữ trẻ. Qua cuộc nói chuyện, họ nhận ra là đều quen những người giống nhau nên dần dần cả hai đã trở nên thân thiện hơn. Đại tá Arbuthnot hỏi Mary rằng cô sẽ đi thẳng về Anh hay cô định ghé lại Constantinople?
- Không, tôi đi thẳng đến Constantinople.
- Thật tiếc cô không thể viếng thăm Stamboul.
- Tôi đã làm cuộc hành trình này cách đây 2 năm và đã ghé vào Stamboul 3 ngày.
- Trong trường hợp đó thì tôi rất sung sướng rằng cô đã không ngừng lại vì tôi cũng đi thẳng. - Nói rồi, đại tá Arbuthnot cúi đầu và hơi đỏ mặt.
- À đại tá của chúng ta bắt đầu rung động rồi. Tàu hỏa đôi khi cũng nguy hiểm như tàu thủy. - Poirot thầm nghĩ.
Cô Debenham, bằng một giọng bình thản, đồng ý là cuộc hành trình sẽ bớt dài đi nếu có bạn đi cùng.
Hercule Poirot nhận thấy rằng đại tá Arbuthnot đưa cô Mary về tận toa tàu của mình. Một lát sau, con tàu đi qua dãy núi Taurus. Đứng ở hành lang, cô Debenham và đại tá Arbuthnot ngắm nhìn cảnh hùng vĩ của núi đồi. Đứng không xa họ lắm, Poirot chợt nghe thấy tiếng thở dài của cô gái:
- Ồ, đẹp tuyệt, tôi muốn... tôi muốn...
- Gì vậy thưa cô?
- Có thể ngắm nhìn cảnh đẹp này thêm nữa!
Arbuthnot không trả lời, gương mặt ông trở nên nghiêm trang, ông thầm thì:
- Tôi ước mong sao cô không hề dính líu vào vấn đề này.
- Xin ông hãy im đi!
- Phải, cô có lý.
Arbuthnot liếc nhìn Poirot rồi tiếp:
- Cô có biết là tôi đau xót biết ngần nào khi nghĩ đến cảnh cô bị những bà mẹ quái ác và những đứa con tinh nghịch của họ hành hạ trong vai trò giữ trẻ của cô!
- Ông lầm rồi! - Mary vừa cười vừa nói. - Chuyện cô giữ trẻ bị chèn ép xưa rồi, bây giờ thì bố mẹ những đứa trẻ đã thương người giữ trẻ rồi đấy.
Một thoáng im lặng, có lẽ Arbuthnot xấu hổ về sự quan tâm quá đáng của mình.
- Hai người này như là đang diễn kịch ấy! - Poirot tự nhủ.
Sau này, ông sẽ phải nhớ đến câu nhận xét này.
Tàu đến ga Konia lúc 11 giờ rưỡi đêm. Đại tá Arbuthnot và cô Mary Debenhani xuống sân ga, đi lại để thư giãn gân cốt.
Ngồi trong toa xe, Poirot nhìn cảnh người qua lại trên sân ga. Một lúc sau, Poirot tự nhủ là không khí trong lành sẽ làm mình sáng khoái hơn. Ông bắt đầu sửa soạn để xuống ga. Trùm mình kín trong chiếc áo măng tô, che hai lỗ mũi trong chiếc khăn quàng cổ, đi đôi giày cao su bọc lông và Poirot đặt chân một cách thận trọng lên sân ga đầy tuyết. Đi được một quãng khá xa, bỗng Poirot chú ý đến cuộc đối thoại của hai người đứng trong bóng tối. Arbuthnot nói:
- Mary.
Thiếu nữ cắt ngang.
- Không, không nên bây giờ! Khi mọi việc xong xuôi đã. Hoàn toàn xong… Lúc đó...
Ngạc nhiên, Poirot rảo bước nhẹ nhàng ra chỗ khác.
Ông đã khó nhọc lắm mới nhận ra giọng nói bình tĩnh và hơi có vẻ ra lệnh của cô Debenham.
- Thật lạ lùng! - Poirot tự nhủ.
Hôm sau, khi gặp lại hai người bạn đồng hành, Poirot tự hỏi không hiểu họ có cãi nhau không vì cả hai đều rất ít trao đổi với nhau, và Mary, với cặp mắt thâm quầng, có vẻ lo lắng.
Buổi trưa, khoảng 2 giờ rưỡi, con tàu ngừng lại, những cái đầu lố nhố thò ra khỏi cửa sổ các toa. Một nhóm người tụ tập dọc theo đường rầy xe lửa, đang chỉ những đốm lửa dưới toa xe.
Chồm ra khỏi cửa sổ, Poirot hỏi người phục vụ của toa nằm đang chạy đến. Sau khi nghe xong câu trả lời, Poirot thụt đầu vào quay lại thì đụng ngay phải Mary Debenham đang đứng sau lưng.
- Chuyện gì vậy thưa ông? - Cô ta hỏi - tại sao tàu lại ngừng vậy?
- Ồ chẳng có gì đáng ngại thưa có. Có một cái gì đã bắt lửa dưới toa tàu ăn. Không có gì quan trọng. Ngọn lửa đã được dập tắt và hiện người ta đang sửa chữa. Mọi nguy hiểm đã qua.
Mary đưa tay hất mái tóc như muốn xua tan sự lo lắng.
- Ồ, tôi hiểu, nhưng thì giờ thì sao?
- Sao ạ?
- Phải, sự trục trặc này sẽ làm chúng ta chậm mất.
- Có thể lắm, thưa cô.
- Nhưng, đâu thể như thế được! Con tàu này phải đến lúc 6 giờ 55 và chúng ta phải qua biển Bosphore đế kịp chuyền tàu tốc hành Simplon ở bên kia bờ lúc 9 giờ. Nếu bị chậm trễ, chúng ta sẽ lỡ chuyến mất.
- Có thể lắm thưa cô.- Poirot nói.
Ồng nhận thấy môi cô gái và bàn tay tì vào cạnh thành cửa sổ run lên.
- Đối với cô, việc đúng giờ quan trọng lắm à? - Poirot hỏi.
- Thưa ông, tôi phải đuổi kịp chuyến tàu tốc hành này bằng mọi giá!
Nói rồi, Mary Debenham bực bội đi về phía đại tá Arbuthnot đứng cách đấy vài bước.
Mary đã lo lắng vô ích vì 10 phút sau, con tàu lại bắt đầu đi. Đến Hayda Pasa, tàu chỉ chậm có 5 phút.
Chuyến tàu vượt sông Bosphore làm Poirot hơi mệt. Trên tàu qua biển Bosphore, Poirot mất hút hai người bạn đồng hành.
Đến bến Galata, Poirot đi đến khách sạn Tokatlian.
 
Hiệu chỉnh:
Chương II : Khách sạn Tokatlian

Đến khách sạn Tokatlian, Hercule Poirot thuê một phòng có buồng tắm. Sau đó ông hỏi ở quầy hướng dẫn xem có thư từ nào mang tên mình không.
Ba bức thư cùng một bức điện tín đã đợi Poirot ở quầy hướng dẫn. Trông thấy bức điện, Poirot nhíu mày ngạc nhiên. Tuy nhiên Poirot vẫn thông thả mở bức điện và đọc.
- “Vụ Kassnes tiến triển như dự đoán. Yêu cầu về gấp”.
- Thật là bực mình! - Vừa nhìn đồng hồ, Poirot vừa lẩm bẩm.
Quay sang nhân viên quầy hướng dẫn, Poirot nói:
- Tôi phải đi ngay tối nay, chuyến tàu tốc hành Đông Simplon khởi hành mấy giờ?
- Thưa ông, 9 giờ.
- Làm ơn giữ cho tôi một chỗ trong toa nằm.
- Thưa ông vâng, chẳng có gì khó khăn vào mùa này, phần đông, tàu chỉ đầy có một nửa. Ông muốn chỗ hạng nhất hay nhì ạ?
- Hạng nhất.
- Xin tuân lệnh. Ổng đi đâu ạ?
- Đi London!
- Vâng thưa ông. Tôi sẽ mua cho ông một vé đi London và giữ một chỗ trong toa nằm của chuyến Stamboul - Calais.
Poirot lại nhìn đồng hồ.
- 8 giờ kém 10. Tôi còn đủ thì giờ ăn tối không nhỉ?
- Lẽ dĩ nhiêu rồi, thưa ông.
Hercule Poirot đi thẳng đến phòng ăn của khách sạn.
Khi Poirot sắp sửa gọi món ăn với người bồi, thì bỗng một bàn tay đặt trên vai ông:
- Ồ, ông bạn quý, gặp ông ở đây thật quý hóa!
Poirot quay lại và trông thấy một người đàn ông to ngang, khoảng 40, 45 tuổi đang cười với mình:
- Ồ! Ông Bouc.
- Ông Poirot.
Ồng Bouc cũng là người Bỉ, và ông là một trong những giám đốc của công ty quốc tế đường sắt. Đặc biệt phụ trách những toa nằm. Ông Bouc là bạn lâu năm với Poirot.
- Ông đi đâu xa thế, ông bạn?
- À... Một câu chuyện ở Syrie cần giải quyết.
- Bao giờ ông đi lại?
- Ngay tối nay.
- Thế thì hay quá, tôi cũng đi tối nay! Tôi đến Tausaune. Ông đi chuyến tàu tốc hành Đông Simplon chứ?
- Phải, tôi vừa giữ chỗ ở toa nằm xong. Tôi định ở lại đây vài ngày, nhưng lại vừa nhận được bức điện gọi gấp về London.
- Ồ! - Ông Bouc thở dài - Lại công việc, lúc nào cũng công việc, chắc giờ ông đã ở đỉnh vinh quang.
- Ông quá lời, tôi chỉ đạt được vài thành công nhỏ thôi.
Bouc mỉm cười:
- Lát nữa chúng ta gặp lại nhé. Thôi xin chào ông.
Vừa ăn xúp, Poirot vừa cố gắng cho khỏi làm dính bộ ria mép. Vừa ăn, Poirot vẫn để ý quan sát những người xung quanh, (méo mó nghề nghiệp). Trong phòng có khoảng trên chục người nhưng Poirot chỉ chú ý đến hai người đàn ông.
Hai người đàn ông này ngồi ở một bàn cạnh Poirot. Một người trạc độ 30 tuổi, có lẽ là người Mỹ, có vẻ mặt dễ mến. Poirot lại chú ý đến người đàn ông ngồi cùng bàn với anh ta. Người này khoảng 60 đến 65 tuổi, có vẻ đầu hơi hói, cái trán vồ, và nụ cười để lộ hàm răng giả, tạo cho ông ta một vẻ dễ dãi. Chỉ có đôi mắt nhỏ, lanh lợi và xảo quyệt là không hợp với khuôn mặt. Vừa nói chuyện với chàng trai ngồi cùng bản, ông vừa đảo mắt nhìn quanh. Cái nhìn của kẻ đã từng trải, dạn dày kinh nghiệm. Ông ta đứng dậy và nói bằng một giọng khàn khàn:
- Cậu trả tiền đi Hector.
Khi Poirot đến gặp Bouc trong phòng tiếp tân thì hai người đàn ông này đã về khách sạn. Những người bồi đem hành lý của họ xuống dưới sự kiểm soát của người đàn ông trẻ. Anh ta mở cửa ra vào bằng kính và nói:
- Tất cả đã sẵn sàng thưa ông Ratchett.
Người đàn ông lớn tuổi - ông Ratchett – lẩm bẩm điều gì trong miệng và bước ra.
- Sao? - Poirot quay sang ông Bouc và hỏi - Ông nghĩ gì về hai người này?
- Họ là người Mỹ! - ông Bouc nói.
- Điều đó rành rành ra rồi! Tôi muốn nói đến vẻ bề ngoài của họ kia.
- Chàng trai có vẻ dễ chịu.
- Còn, ông già?
- Thật tình mà nói, tôi không thích ông ấy. Ông ấy có vẻ như thế nào ấy. Ông thấy sao?
Sau một lúc suy nghĩ, Poirot trả lời:
- Khi ông ta đi qua chỗ tôi ngồi, trong phòng ăn, tôi có cảm tưởng như một con thú dữ…
- Người Mỹ có vẻ quý tộc ấy à?
- Phải, người Mỹ có vẻ quỹ tộc!
- Có lẽ ông có lý đấy, - ông Bouc nói - có bao nhiêu kẻ ác trên quả đất này!
Ngay lúc đó, nhân viên phòng tiếp tân đẩy cửa bước vào, vẻ mặt ái ngại.
- Thưa ông, - anh ta nói với Poirot. - Tôi chẳng hiểu gì cả, không còn một chỗ nào trên toa tàu nằm hạng nhất.
- Sao, - ông Bouc thốt lên, - vào mùa này à? Chắc hẳn lại là một nhóm phóng viên hay các chính khách đã giữ chỗ hết rồi chứ gì?
- Thưa ông, tôi cũng không biết. - Nhân viên tiếp tân quay sang ông Bouc nói một cách kính cẩn. - Nhưng người ta cho tôi biết đã hết chỗ rồi ông ạ!
- Thôi được rồi, - ông Bouc nói với Poirot. - Để tôi giải quyết vậy. Trên tàu luôn luôn có một chỗ trong toa nằm trống, số 16. Tài xế bao giờ cũng giữ chỗ này đến phút cuối cùng! - Nhìn đồng hồ, ông nói tiếp - Chúng ta đi thôi!
Khi họ đến ga, người tài xế toa nằm, trong bộ đồng phục màu nâu, vội chạy đến tiếp ông Bouc một cách nồng nhiệt.
- Xin kính chào ông, chúng tôi đã dành cho ông toa số 1.
Nói xong, anh ta gọi những người phu khuân vác đến đem hành lý của họ lên toa xe mang bảng Constantinople Trieste - Calais.
- Hình như hết chỗ rồi thì phải?
- Thật khó tin, thưa ông! Hình như mọi người hẹn nhau cùng đi du lịch tối nay!
- Dù sao anh cũng phải tìm cho ông bạn tôi đây - Ông Bouc chỉ Poirot - một chỗ. Hãy dành cho ông ta toa số 16.
- Thưa ông, chỗ này đã được mua rồi!
- Sao? Toa số 16 à?
- Vâng thưa ông. Như tôi đã bảo, tất cả các chỗ đều có người rồi.
- Có chuyện gì vậy? - Ông Bouc hỏi. - Người ta tổ chức hội nghị ở đâu à?
- Thưa ông không. Chỉ là ngẫu nhiên, nếu tất cả mọi người rủ nhau cùng đi du lịch đêm nay thôi!
Ông Bouc tỏ ra bực mình.
- Đến Belgrade - ông nói, - sẽ nối thêm toa tàu đến từ Athènes và đến Wincovisi sẽ nối thêm toa tàu từ Bucarest… Nhưng chúng ta chỉ đến Belgrade vào tối mai mà thôi. Tối nay giải quyết sao bây giờ? Không còn ghế nào ở toa hạng nhì à?
- Thưa ông còn một chỗ…
- Vậy thì…
- Nhưng đã có người ở cùng toa đó rồi. Cô bồi phòng của một bà ở toa hạng nhất.
- Thật khó xử, - ông Bouc thốt lên.
- Xin ông đừng quá bận tâm, tôi sẽ cố gắng thích nghi với tình huống này thôi, - Poirot nói.
- Không thể nào được! - Quay sang người tài xế, ông Bouc nói tiếp:
- Mọi người đã đến chưa?
- Thưa ông, còn thiếu một hành khách.
- Sao bây giờ anh mới nói, số nào?
- Thưa ông toa nằm số 7 ở toa hạng nhì, ông khách chưa đến mà tàu sắp khởi hành vài phút nữa thôi.
- Hành khách đó là ai?
- Một người Anh, - người lái xế cúi xuống xem bảng danh sách - Ông Harris.
- Điều may đấy, - Poirot nói. - Tôi đã đọc Dickens[1]. Ông Harris sẽ không đến.
- Anh hãy đem hành lý của ông Poirot đến toa số 7. Nếu ông Harris đến, chúng ta sẽ tìm cách giải quyết sau.
- Xin tuân lệnh! Thưa ông.
Ông Bouc lui lại phía sau để nhường bước cho Poirot bước lên tàu, ông nói:
- Ở cuối dãy này, toa gần cuối!
Khó nhọc lắm Poirot mới qua được dãy hành lang vì tất cả hành khách đều ra đứng ở cửa sổ. Cuối cùng Poirot cũng đến được toa nằm dành cho mình. Anh chàng người Mỹ trẻ mà Poirot đã gặp ở phòng ăn khách sạn Tokatlian đang ngồi ở đó. Anh ta đang với tay lấy chiếc vali trên giá đựng hành lý.
Anh hơi nhíu mày khi trông thấy Poirot.
- Xin lỗi, chắc ông nhầm! - Anh ta nói bằng tiếng Pháp.
Poirot hỏi anh ta bằng tiếng Anh:
- Ông là ông Harris à?
- Thưa không, tên tôi là Mac Queen. Tôi…
Người soát vé của toa tàu nằm đỡ lời:
- Không còn chỗ nằm nào hết thưa ông. Tôi phải dành cho ông đây - anh ta chỉ Poirot - chỗ này.
Nói rồi anh ta xếp hành lý của Poirot vào toa.
Poirot hơi buồn cười khi nghe giọng nói trân trọng của gã soát vé với anh chàng Mac Queen. Chắc hẳn gã đã nhận một số tiền pourboire khá lớn để không nhận thêm một hành khách nào khác ngồi cùng chỗ với Mac Queen. Nhưng dù số tiền pourboire có lớn đến đâu đi nữa thì cũng vô hiệu khi có ông giám đốc (ông Bouc) đi cùng tàu!
Gã soát vé ra khỏi toa khi đã đặt vali của Poirot lên giá đựng hành lý.
- Thưa ông như thế là ổn cả rồi, ông sẽ nằm kút-sét (couchette)[2] trên mang số 17. Vài phút nữa tàu sẽ khởi hành. - Nói rồi gã đi ra, Poirot bước vào toa.
- Một điều lạ đấy, - Poirot nhận xét một cách vui vẻ. - Một người soát vé tàu nằm lại đi thu xếp vali. Thật chưa bao giờ thấy!
Người bạn đồng hành của Poirot mỉm cười. Chắc hẳn anh ta thấy rằng nên tỏ ra hòa nhã hơn là bực mình vì điều trái ý vừa qua.
Một giọng nói vang lên dưới sân ga:
- Lên tàu!
- Chúng ta sắp khởi hành, - Mac Queen nói.
Con tàu vẫn chưa chuyển bánh, một hồi còi rít lên. Bỗng Mac Queen nói:
- Nếu ông thích nằm kút-sét dưới, xin ông cứ tự nhiên.
“Anh chàng này thật dễ thương!” - Poirot tự nhủ.
- Không! Không! - Poirot phản đối. - Tôi không muốn làm phiền ông.
- Tôi hoàn toàn không bận tâm về chuyện đó.
- Ổng thật tử tế… Nhưng tôi chỉ ngủ ở đây đêm nay thôi. Ở Belgrade…
- Vậy, ông xuống ga Belgrade à?
- Cũng không hẳn thế, thưa ông.
Một chấn động. Hai người đàn ông quay về phía cửa sổ toa tàu. Sân ga rực sáng đèn đang lướt qua trước mắt họ.
Chuyến tàu tốc hành Đông Simplon bắt đầu cuộc hành trình dài ba ngày qua châu Âu.

Chú thích :
(1) Liên hệ đến một nhân vật trong tác phẩm của Dickens, văn hào Anh, nhân vật này không bao giờ có mặt khi cần thiết.
(2) kút-sét (couchette) : Toa tàu có gi.ường để nằm ngủ trong những chuyến tàu đi ban đêm hoặc đi nhiều ngày.
 
Chương III : Poirot từ chối một đề nghị

Thức dậy sớm, Poirot đã dùng điểm tâm ở phòng toa ăn vắng người. Sau đó ông đã xem lại những giấy tờ liên quan đến việc ông phải về Luân Đôn gấp nên Poirot đã không gặp người bạn đồng hành của mình.
Buổi trưa, Poirot đến toa ăn hơi trễ. Ông Bouc, ngồi ở một bàn ăn đã dọn sẵn, vẫy tay gọi Poirot và mời ông đến ngồi cùng bàn. Poirot nhận lời và thưởng thức một bữa ăn thật ngon. Khi ăn đến món pho mát kem, ông Bouc bỗng thở dài và nói bằng một giọng triết lý:
- Ước gì tôi có thế viết văn như Balzac (1) để có thể tả cảnh này.
- Một ý kiến hay đấy! - Poirot nói.
- Phải không thưa ông? Chắc chưa ai nghĩ ra. Vậy mà ta có thế viết thành một tiểu thuyết đấy, ông Poirot ạ. Hiện diện ở đây là đủ mọi tầng lớp xã hội, đủ mọi chủng tộc và ở mọi lứa tuổi trong suốt ba ngày. Những người này hoàn toàn xa lạ với nhau, sẽ cùng ăn và cùng sống với nhau trong một toa tàu. Sau ba ngày đó họ sẽ từ giã nhau và có lẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau.
- Trừ phi có một tai họa xảy ra…
- Mong rằng, điều đó sẽ không xảy ra.
- Lẽ dĩ nhiên, về phía ông, thì đó là một điều đáng tiếc nếu có tai họa xảy ra trên tàu. Nhưng hãy thử nghĩ xem, nếu có một tai nạn. Như thế mọi người ở trên tàu sẽ gặp nhau ở… cõi chết.
- Thêm một chút rượu nữa nhé, - ông Bouc nói. - Ông quả là bi quan, sẽ ảnh hưởng đến sự tiêu hóa đấy!
- Thú thật là ở Syrie, đồ ăn không hợp cho dạ dày của tôi.
Poirot uống một ngụm rượu, ngả người dựa vào ghế, ông đảo mắt nhìn xung quanh. Tất cả có 17 hành khách. Họ thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi dân tộc như ông Bouc đã nói. Poirot bắt đầu quan sát họ.
Ngồi bàn trước mặt Poirot là ba người đàn ông đi, du lịch riêng rẽ: Một người Ý, to lớn đang ngồi xỉa răng một cách thích thú. Trước mặt anh ta là một người Anh, trầm tĩnh có dáng dấp đàng hoàng, gương mặt lạnh lùng. Bên cạnh anh ta là một người Mỹ trong bộ com lê màu sặc sỡ, có vẻ là một nhà buôn.
- Phải làm cho loá mắt - người Mỹ nói.
Gã người Ý rút tăm ra khỏi miệng, vung tay cao và tán đồng:
- Chắc chắn rồi, tôi đã bảo mà!
Anh chàng người Anh nhìn ra cửa sổ và đằng hắng giọng.
Poirot đưa mắt sang một người đàn bà lớn tuổi, ngồi ở một bàn nhỏ. Bà ta rất xấu, nhưng cái xấu của bà có một cái gì quí phái, gần như có sức thu hút hơn là gớm ghiếc. Bà ta ngồi rất thẳng, cổ đeo một chuỗi hạt trai thật to, tay đầy nhẫn. Cái áo măng tô bằng lông thú, và cái mũ lông nhỏ không hợp chút nào với khuôn mặt vàng như da cóc của bà.
Bà ta đang nói với người bồi bằng một giọng trịch thượng:
- Ông vui lòng mang đến phòng tôi một chai nước suối và một ly nước cam. Cố gắng cho tôi thịt gà trong bữa ăn chiều nay.
Người bồi nghiêng mình kính cẩn:
- Thưa bà sẽ được như ý muốn.
Bà ta khẽ cúi đầu và đứng dậy. Bắt gặp cái nhìn của Poirot, bà ta quay mặt đi chỗ khác.
- Công chúa Dragomiroff đấy! - ông Bouc nói - Một người Nga. Chồng bà ấy đã chuyển tiền sang ngoại quốc trước cách mạng và bà ấy rất giàu.
Poirot vừa nghe nhắc đến tên của công chúa Dragomiroff ở đâu rồi…
- Bà ấy xấu như 7 mối tội đầu [2] - ông Bouc tiếp, nhưng ông phải nhận rằng ba ta rất quí phái.
Mary Debenham đang ngồi ở một bàn khác cùng với hai người đàn bà. Một người khoảng 35 đến 40 tuổi, cao lớn; ăn mặc theo kiểu người Ái Nhĩ Lan. Mái tóc dày của bà ta hất ngược về phía sau và búi thành một “búi tóc”. Một cặp kính che mất một phần gương mặt hiền từ của bà. Bà ta đang nghe một cách chăm chú những lời phân trần của một bà bạn đồng hành với một khuôn mặt khả ái, đang nói với một giọng chậm rãi và đơn điệu, hình như không lúc nào dừng lại để lấy hơi.
- Sau đó con gái tôi đã nói: “Áp dụng, những phương pháp Mỹ ở đây là vô ích. Mọi người đều thờ ơ và thiếu tính hiếu động”. Tuy nhiên các bạn sẽ ngạc nhiên về những kết quả lượm hái được trong trường hợp này. Đối với tôi, tri thức là trên hết Con gái tôi còn kể…
Con tầu qua hầm, và giọng phán của bà ta cũng chìm lẫn trong tiếng máy.
Ở bàn bên cạnh, đại tá Arbuthnot ngồi một mình. Mắt ông ta cứ dán chặt vào gáy Mary Debenham. Tại sao họ lại không ngồi ăn cùng bàn nhỉ?. Điều đó thật khó hiểu, vậy thì tại sao? Có lẽ Mary Debenham không muốn, sợ hại cho uy tín của mình.
Poirot tiếp tục quan sát. Ông để ý đến một phụ nữ, mặc toàn đồ đen, mặt vuông và lạnh lùng ngồi dựa vào vách của toa tàu. Người Đức hay Phần Lan - Poirot đoán thế - Có lẽ là một bà quản gia…
Ở bàn bên, một cặp trai gái đang chụm đầu vào nhau nói chuyện một cách hào hứng. Người đàn ông mặc vét may vừa vặn - Chắc chắn phải may ở Luân Đôn. Nhưng anh ta không có vẻ người Anh - Cái đầu và đôi vai của anh đủ để chứng minh điều đó. Bỗng nhiên người đàn ông quay lại và Poirot có thể quan sát mặt anh ta kỹ hơn. Trạc độ 30, bộ ria vàng làm cho khuôn mặt đẹp trai của anh có vẻ đàn ông hơn.
Người đàn bà ngồi trước mặt anh ta khoảng chừng 20 tuổi. Bộ quần áo sang trọng màu đen để lòi cái cổ áo sơ mi bằng satanh trắng. Đầu cô đội cái mũ đen, nghiêng một bên theo đúng mốt. Nước da cô gái rất trắng làm nổi bật cặp mắt nâu và mái tóc xám. Cô ta đang hút một điếu thuốc cắm vào một cái bót xì gà; Poirot nhận ra trên bàn tay với những ngón tay sơn đỏ một cái nhẫn ngọc lớn. Giọng nói cũng như cái nhìn của cô rất đài các.
- Cô ta đẹp mà lại sang trọng nữa! - Poirot nói, - chắc họ là vợ chồng.
- Phải, anh ta làm ở Bộ ngoại giao Hung; Họ thật đẹp đôi.
Hai người còn lại là anh bạn đồng toa Mac Queen, và chủ anh là ông Ratchett. Một lần nữa, Poirot lại nhìn ông Ratchett chăm chú, sự tương phản giữa gương mặt đôn hậu và vẻ xảo quyệt, hung ác của cặp mắt lộ ra rất rõ.
Chắc hẳn ông Bouc cũng nhận thấy sự thay đổi từ Poirot. Ông ta hỏi:
- Ông đang nhìn con thú dữ của chúng ta đấy hẳn?
- Vâng - Poirot đáp.
Khi người bồi mang cà phê đến cho Poirot, ông Bouc đứng dậy và đến trước Poirot nói ông đã ăn trưa xong.
- Tôi về phòng đây, - ông Bouc nói - Khi ăn xong mời ông đến, chúng ta sẽ cùng nói chuyện!
- Rất vui lòng.
Poirot nhâm nhi tách cà phê và gọi thêm một ly rượu.
Người hầu phòng cầm cái bút nhỏ đi từng bàn đế tính tiền. Giọng nói của bà người Mỹ vang lên:
- Con gái tôi nói với tôi: “Mẹ hãy mua trước những phiếu ăn, như thế tiện hơn”. Nhưng thật ra nó chẳng hiểu gì cả, còn phải cho 10% tiền phục vụ và nước suối của họ có mùi kỳ lạ. Thật khó chịu.
Mary Debenham kéo ghế, cúi đầu dứng dậy. Ở bàn bên, đại tá Arbuthnot đứng lên và theo cô. Hai người đàn bà ngồi cùng bàu với Mary cũng đứng dậy. Cặp vợ chồng người Hung cũng đã rời bàn. Trong toa ăn chỉ còn lại Poirot, Ratchett và Mac Queen.
Ratchett nói nhỏ với Mac Queen. Anh ta rời bàn.
Ratchett cũng đứng lên. Nhưng thay vì theo Mac Queen ra khỏi toa ăn, ông ta đến ngồi vào bàn Poirot.
- Ông vui lòng cho tôi xin chút lửa? - Ratchett nói bằng một giọng nhò nhẹ - Tôi là Ratchett.
Poirot cúi đầu chào, lôi hộp quẹt trong túi đưa cho Ratchett.
- Có phải tôi đang được vinh hạnh nói chuyện với ông Hercule Poirot không ạ?
- Thưa ông vâng, Chính tôi là Hercule Poirot đây. Trước khi nói tiếp, Ratchett đưa mắt dò xét Poirot.
- Ở nước tôi, - Ratchett nói - người ta đi thẳng vào đề, thưa ông, tôi nhờ ông làm việc cho tôi.
Poirot khẽ nhíu mày.
- Thưa ông, hiện thời thì thân chủ của tôi rất giới hạn. Tôi chỉ giải quyết một số rất ít những vụ ấy thôi.
- Tôi hiểu, thưa ông Poirot. Nhưng ông sẽ không mất, mà trái lại - Ratchett cố thuyết phục.
Sau một lúc say nghĩ, Poirot hỏi:
- Vậy thì, thưa ông Ratchett, ông cần gì ở tôi?
- Ông Poirot ạ, tôi giàu, rất giàu, và như mọi người ở hoàn cảnh, tôi cũng có kẻ thù. Tôi có một…
- Một thôi à?
- Sao ông lại hỏi thế?
- Thưa ông, theo như ông nói, thì trong trường hợp ông không phải chỉ có một kẻ thù.
Câu hỏi của Poirot có vẻ làm cho Ratchett an tâm, ông vội vã nói tiếp.
- Lẽ dĩ nhiên, tôi hiểu ý ông. Nhưng một kẻ thù hay nhiều kẻ thù, thì cũng thế thôi. Điều quan trọng là sự an toàn của tôi.
- Sự an toàn của ông à?
- Thưa ông, vâng! Cuộc sống của tôi đang bị đe dọa ông Poirot ạ! Tôi có thể tự chống chọi được.
Nói rồi, Ratchett rút từ trong túi ra một khẩu súng lục.
- Họ sẽ không làm gì tôi được. Tuy nhiên, không gì bằng đề phòng. Ông là người mà tôi cần. Như tôi đã nói, tôi sẽ trả công cho ông hậu hĩnh.
Trong vài giây, Poirot hoàn toàn căm lặng. Ratchett không thể náo đoán được Poirot đang nghĩ gì…
- Tôi rất tiếc thưa ông Ratchett, tôi không thể giúp ông được.
Ngạc nhiên, Ratchett nhìn Poirot một lúc.
- Ông hãy nói giá của ông đi!
Poirot lắc đầu.
- Hình như ông không hiểu. Tôi đã thành công trong nghề của tôi và tôi cũng dư giả để sống. Tôi chỉ nhúng tay vào những vụ mà tôi thấy… thích thú.
- Tôi thật khỉ đấy, 20 ngàn dollars được không nào?
- Tôi đã từ chối rồi thưa ông.
- Nếu ông nghĩ rằng tôi sẽ nâng số tiền lên, thì ông nhầm đấy. Tôi biết giá trị của sự việc lắm.
- Tôi cũng thế, thưa ông Ratchett.
- Vậy thì, điều gì trong lời đề nghị của tôi đã làm ông phật ý.
Poirot đứng lên.
- Nếu thật tình ông muốn biết, thỉ tôi cũng xin cho ông biết là bộ mặt ông không làm tôi ưa thích, thưa ông Ratchett.
Nói rồi Poirot bỏ đi.

Chú thích :
(1) De Balzac: Nhà văn nổi tiếng của Pháp về lối văn mô tả mọi tầng lớp xã hội Pháp.
(3) 7 mối tội của người Thiên chúa giáo
 
Chương IV : Tiếng thét trong đêm

Chuyến tàu tốc hành Simplon Orient Express đến ga Belgrade lúc 9 giờ kém 15 tối và sẽ khởi hành lại lúc 9 giờ 45. Poirot xuống sân ga, nhưng ông thay đổi vì trời giá buốt, và tuyết rơi mỗi lúc một dày đặc.
Poirot về toa của mình. Người tài xế đang đi đi lại lại trên sân ga, nói:
- Thưa ông, vali của ông đã được chuyền đến toa tàu số 1, toa của ông Bouc.
- Ông Bouc đi đâu rồi?
- Ông ta đã chuyển sang toa tàu từ Athènes đến.
Poirot vội vã đi kiếm ông Bouc. Mặc cho những lời từ chối của Poirot, ông Bouc cũng không không chịu nghe.
- Không sao! Không sao, Vì tôi đi thẳng đến Luân Đôn, tôi sang toa tàu Calais. Phần tôi, cứ để tôi về toa cũ, có tôi và một Bác sĩ Hy Lạp thôi.
Tối nay chắc lạnh lắm đây. Chưa bao giờ tuyết lại rơi nhiều đến thế. Mong rằng chúng ta sẽ không kẹt. Điều đó chẳng có gì thích thú cả.
Đúng 9 giờ 45, tàu bắt đầu khởi hành, Poirot đi dọc dãy hành lang dài ngước về phía trước để về toa của mình, gần toa ăn.
Đứng trước phòng, đại tá Arbuthnot đang trò chuyện với Mac Queen. Mac Queen im bặt khi trông thấy Poirot, và tỏ ra rất ngạc nhiên.
- Ủa? Tôi tưởng ông đã xuống tàu rồi? Sao ông bảo là xuống ga Belgrade?
Poirot mỉm cười nói:
- Ông không hiểu ý tôi.
- Người ta đã lấy hết hành lý của ông rồi.
- Ồ, họ chỉ chuyền chúng sang toa khác thôi.
- Ồ, tôi hiểu.
Mac Queen tiếp tục nói chuyện với Arbuthnot. Poirot bỏ đi.
Trước khi vào phòng, Poirot trông thấy bà người Mỹ - bà Hubbard đang đứng nói chuyện với người đàn bà có khuôn mặt hiền từ, một người Thụy Điển. Hubbard đang cố làm cho người bạn mình nhận một tạp chí.
- Bà cứ cầm lấy, tôi còn nhiều lắm.
Bà Hubbard khẽ gật đầu chào khi Poirot đi qua.
- Tôi rất cám ơn bà.
- Bà hãy ngủ ngon, cơn nhức đầu sẽ qua. Ngày mai sẽ không còn cảm thấy mệt mỏi nữa đâu…
- Tôi sẽ uống trà nóng.
- Và thuốc Aspirin nữa? Thôi, chúc bà ngủ ngon nhé.
Bà người Thuỵ Điển về phòng. Bà Hubbard quay sang Poirot và nói:
- Bà ta là người Thụy Điển… Hình như một nhà truyền giáo…, một nhà giáo thì phải. Bà ta rất dễ mến nhưng nói tiếng Anh không sõi. Những điều tôi kể con gái tôi làm bà ấy rất thích.
Chẳng bao lâu, Poirot và tất cả những ai hiểu tiếng Anh trên tàu đều biết con gái của bà Hubbard.
Con gái và con rể bà Hubbard đều là giáo sư ở một trường lớn tại Syryrine. Bà Hubbard vừa đi du lịch lần đầu tiên ở Trung Đông và cho mọi người biết ý kiến của bà về dân Hồi giáo, sự thụ động và tình trạng đường sá tại đó…
Cánh cửa căn phòng gần đó xịch mở, Mac Queen bước ra. Poirot nhìn thấy ông Ratchett ngồi bên trong. Mặt Ratchett biến sắc khi nhìn thấy Poirot. Cánh cửa phòng đóng sầm lại.
Bà Hubbard kéo Poirot ra xa và nói:
- Gã đàn ông này làm tôi sợ. Không phải anh chàng theo hầu đâu. Cái nhìn của hắn có một cái gì giả dối, Con gái tôi thường nói và giác quan thứ 6 của tôi ít khi sai. Tôi đã có một nhận xét, riêng đối với gã này. Cứ nghĩ đến phòng gã ấy sát bên cạnh phòng tôi đã làm tôi run hẳn lên rồi. Tối hôm qua, tôi đã phải chồng tất cả vali của tôi ở cửa phòng thông qua phòng gã. Hình như đêm qua tôi nghe có ai vặn nắm đấm cửa. Tôi chẳng ngạc nhiên nếu hắn là một tên cướp, hoặc là một tên vô lại: Gã đàn ông này làm tôi sợ suốt cuộc hành trình! Cứ nghĩ hắn ta ở phòng bên là tôi lên cơn sốt rồi. Điều xấu nhất có thể xảy ra. Làm sao anh chàng thanh niên đáng mến kia lại có thể là một thư ký cho một người như thế? Thật khó hiểu?
Đại tá Arbuthnot và Mac Queen đi về phía họ.
- Ông hãy vào phòng tôi, - Mac Queen nói với Arbuthnot - Tôi muốn biết quan điểm của chúng ta về chính sách tại Ấn Độ và…
Người đàn ông đi qua hành lang về phía phòng của Mac Queen.
Bà Hubbard chúc Poirot ngủ ngon.
- Tôi lên gi.ường ngay để đọc sách - bà ta nói- Chúc ông ngủ ngon.
- Chúc bà ngủ ngon!
Poirot về căn phòng của mình, cạnh phòng Ratchett.
Thay quần áo, Poirot lên gi.ường, đọc sách khoảng một giờ rồi tắt đèn.
Một lát sau Poirot thức giấc vì một tiếng thét, rất gần, và ngay lúc đó một tiếng chuông vang lên.
Poirot ngồi nhỏm dậy, bật đèn. Con tàu đã ngừng lại…
Tàu đang ở một ga nào đó.
Poirot chợt nghĩ ra là Ratchett ở phòng bên. Bước xuống gi.ường, Poirot ra mở cửa. Đúng lúc đó, người tài xế bước nhanh đến phòng Ratchett và gõ cửa. Poirot khép hờ cánh cửa lại và đứng rình phía sau. Người tài xế gõ một lần nữa. Một tiếng chuông lại réo lên. Ở một cánh cửa xa hơn, một ngọn đèn đỏ bật sáng cho biết một hành khách đang gọi.
Ngay phòng gần bên Poirot, một giọng nói thốt lên bằng tiếng Pháp.
- Xin lỗi, tôi nhầm.
- Thưa ông, vâng.
Nhân viên phục vụ đến nhanh về phía cánh cửa có đèn đỏ vừa bật sáng.
Mọi việc yên ổn, Poirot quay về gi.ường, tắt đèn, nhìn vào đồng hồ, lúc này là 1 giờ kém 23!
 

Chương V : Án mạng

Poirot không tài nào ngủ lại được. Không còn sự đong đưa của con tàu. Nhà ga này có vẻ yên tĩnh quá, và có lẽ vì thế nên mọi tiếng động trên tàu đều rõ mồn một. Poirot nghe tiếng Ratchett trằn trọc phía bên kia: tiếng mở vòi nước, nước chảy vào chậu, tiếng xê dịch cái chậu, sau đó lại tiếng chậu để vào chỗ. Ngoài hành lang, tiếng chân người bước nhẹ.
Hercule Poirot đã tỉnh ngủ hẳn. Tại sao lại yên tĩnh quá nhỉ? Poirot cảm thấy cổ họng khô lại. Ông đã quên gọi một chai nước suối thường lệ trước khi đi ngủ. Đưa mắt nhìn đồng hồ, lúc này giờ đã 1 giờ 15. Định đưa tay bấm chuông gọi nhân viên phục vụ lấy nước suối thì Poirot ngừng lại: một tiếng chuông khác vừa mới reo vang.
Nhân viên phục vụ không thể trả lời cùng một lúc được.
- Reng… reng… reng…
Nhân viên phục vụ đâu nhỉ? Người khách vẫn tiếp tục bấm chuông:
- Reng… reng… reng…
Bỗng nhiên nhân viên phục vụ chạy đến và gõ vào một cánh cửa không xa phòng Poirot lắm.
Poirot nghe một giọng nói tôn kính và tiếng của một người đàn bà: bà Hubbard.
Poirot mỉm cười.
Hai người nói với nhau một lúc. Người đàn bà nói liên tục. Thỉnh thoảng gã tài xế mới chen vào được một câu. Sau cùng tất cả có vẻ được thu xếp ổn thoả. Poirot nghe:
- Chúc bà ngủ ngon!
Cánh cửa đóng sập lại.
Poirot đưa tay bấm chuông. Gã tài xế chạy đến vẻ bực mình.
- Anh cho tôi một chai nước suối.
- Thưa ông vâng…
Có lẽ cái nheo mắt của Poirot làm cho gã tài xế hứng khởi nên anh ta tiếp:
- Cái bà người Mỹ ấy…
- Sao?
Nhân viên phục vụ lau trán và nói:
- Bà ấy cứ nằng nặc quả quyết rằng có một người đàn ông trốn trong phòng mình. Ông thử tưởng tượng xem, trong một phạm vi nhỏ hẹp như thế, anh ta trốn chỗ nào? Tôi đã cố gắng thuyết phục bà ta và chứng minh sự vô lý của sự việc. Bà ấy vẫn cứ bảo đảm là khi thức dậy bà đã trông thấy một người đàn ông trong phòng toa của mình. Tôi đã hỏi bà làm cách nào gã đàn ông đã ra khỏi phòng mà lại gài chốt ở bên trong. Bà ấy vẫn không chịu. Làm như chuyện hoang tưởng! Lại còn cơn tuyết này nữa chứ.
- Tuyết à?
- Vâng thưa ông. Ông không thấy là tàu đã ngưng rồi sao? Nó không đi được vì tuyết đấy. Chỉ có trời mới biết bao giờ chúng ta mới lại đi được. Tôi còn nhớ có lần đã bị kẹt tàu vì tuyết trong 7 ngày.
- Chúng ta đang ở đâu?
- Giữa Vincovci và Brod.
- Thật xui xẻo! - Poirot thở dài.
Gã tài xế bỏ đi, một lúc sau, đem một chai nước suối lại.
- Chúc ông. Ngủ ngon.
Uống xong nước, Poirot sửa soạn đi ngủ.
Đang thiu thỉu, Poirot lại bị thức giấc. Có một vật gì nặng vừa mới rơi xuống gần cửa phòng. Poirot nhảy ngay xuống gi.ường, chạy ra ngoài cửa. Chẳng có gì. Phòng bên phải, xa hơn một tí, một người đàn bà mặc áo choàng màu đỏ đang đi ở hành lang. Tít cuối toa, gã tài xế ngồi tỉnh bơ. Tất cả cả có vẻ yên tĩnh.
“Thần kinh mình hơi bị giao động rồi” - Poirot tự nhủ khi trở lên gi.ường.
Lần này ông ngồi đến tận sáng. Khi Poirot thức giấc, tàu vẩn chưa đi được. Poirot nâng bức mành lên để nhìn ra ngoài, từng mảnh tuyết to ngăn chặn đoàn tàu. Nhìn đồng hồ Poirot thấy đã hơn 9 giờ.
Lúc 10g thiếu 15, sau khi đã sửa soạn kỹ, Poirot bước vào toa ăn ở đó mọi người đang bàn tán xôn xao vì vụ đường bị nghẽn.
Tất cả những chênh lệch xã hội được xoá bỏ giữa đám hành khách. Sự xui xẻo đã làm cho họ xích lại gần nhau. Bà Hubbard nói vẫn nhiều hơn ai hết.
- Con gái tôi đã dặn tôi là nên nghỉ ngơi cho đến Paris. Chúng ta phải chịu tình trạng này đến bao giờ? Rõ khổ, tàu tôi lại nhổ neo ngày kia rồi? Làm thế nào bây giờ? Tôi lại không thể đánh điện để hủy chỗ nữa chứ - chỉ nghĩ đến tình thế này làm tôi tức lên rồi !
Người đàn ông Ý nói là những công việc đang trông đợi ông ở Milan và gã người Mỹ trong bộ quần áo sặc sỡ cố an ủi bà Hubbard:
- Chị tôi và các cháu đang đợi tôi. - người đàn bà Thụy Điển rên rỉ - Không có cách nào để bảo cho họ? Họ sẽ nghĩ sao? Không khéo họ lại nghĩ có chuyện không may xảy ra cho tôi.
- Chúng ta sẽ ở đây bao nhiêu lâu? - Có ai biết không nhỉ ?
Mary Debenham lên tiếng, giọng của cô ta tỏ vẻ sốt ruột, nhưng Poirot nhận thấy cô ta không hề lo lắng khi con tàu tốc hành “Bò tót” ngừng lại ở đây.
Bà Hubbard lại ca thán:
- Chẳng ai trên tàu có khả năng cho ta biết về sự chậm trễ này! Họ chẳng cần quan tâm đến, chứ ở nước tôi thì …
Quay sang Poirot, Arbuthnot nói bằng tiếng Pháp pha đầy giọng Anh
- Ông là giám đốc của ngành phục vụ, phải không thưa ông? Ông có thể cho chúng tôi biết…
Tươi cười, Poirot vội đính chính:
- Thưa ông, không phải tôi, ông nhầm tôi với ông Bouc, bạn tôi đấy.
- Ồ, xin lỗi ông.
- Không sao, ông nhầm cũng bình thường thôi vì tôi hiện đang ở phòng của ông ấy.
Không thấy ông Bouc trong toa ăn, Poirot đảo mắt quanh toa để xem còn thiếu ai.
Công chúa Dragomiroff, cặp vợ chồng trẻ người Hung, Ratchett, người hầu của ông ta và bà hầu phòng người Đức không thấy có mặt trong toa.
Bà người Thụy Điển lau nước mắt.
- Tôi khóc thật kỳ cục. Dù sao đi nữa chúng ta cũng phài chấp nhận số phận thôi.
Tuy nhiên không phải ai cũng nhẫn nhục như bà.
- Bà không hiểu là chúng ta có thể bị kẹt ở đây nhiều ngày hay sao? - Mac Queen nói.
- Chúng ta đang ở đâu nhỉ? - Bà Hubbard rên rỉ.
Một người cho bà Hubbard biết là con tàu đang ở Nam Tư.
- Chỉ có cô là có vẻ không sốt ruột thôi? - Poirot nói với Mary Debenham.
Mary khẽ nhún vai:
- Rầu rĩ mà giải quyết được gì?
- Cô thật triết lý đấy!
- Thật ra tôi hơi ích kỷ và cố gắng tránh cho mình mọi xúc động vô ích.
Mary có vẻ nói cho chính mình, cô đưa mắt nhìn về phía cửa sổ, chỗ những mảnh tuyết bên ngoài.
- Cô có vẻ can đảm. Trong tất cả mọi người ở đây cô là người nhiều nghị lực nhất đấy.
- Ồ không đâu, thưa ông. Tôi biết một người vững vàng hơn tôi nhiều.
- Ai thế?
Mary chợt ý thức là mình đang nói chuyện với một người lạ, cô cười khỏa lấp và nói:
- Tôi muốn nói đến cái bà… Chắc ông cũng đã để ý đến bà ấy. Một bà thật xấu, nhưng lại có sức thu hút khá mạnh… Bà ta chỉ cần đưa ngón tay út lên, nói vài câu lịch sự là tất cả nhân viên trên tàu thuỷ sẽ chạy đến phục vụ bà ấy…
- Họ cũng sẵn sàng chạy đến ông Bouc bạn tôi, vì ông ấy là một trong những giám đốc của Cục Đường sắt chứ đâu phải vì ông ta là người tài trí?
Mary Debenham mỉm cười.
Đã gần trưa nhưng nhiều hành khách, trong đó có Poirot, vẫn còn ngồi lại trong toa ăn để tán gẫu. Poirot biết rõ hơn về con gái bà Hubbard và càng rõ hơn nữa về chồng của bà! Những thói quen của ông từ lúc thức dậy cho đến khi ông Hubbard đi ngủ phải mang vớ do chính bà Hubbard đan.
Khi Poirot đang nói chuyện với bà người Thụy Điển thì nhân viên của toa kút sét tiến về phía ông.
- Xin lỗi ông.
- Chuyện gì vậy?
- Ông Bouc mời ông đến nói chuyện.
Poirot cáo lỗi và theo anh nhân viên. Anh ta không phải là gã tài xế toa của Poirot mà là một người cao lớn, tóc vàng.
Anh ta gõ một cánh cửa ở toa xe sau và nhường chỗ cho Poirot bước vào.
Đó là một phòng thuộc toa hạng nhì… được chọn có lẽ vì rộng. Bên trong đã đầy người.
Ông Bouc ngồi ở góc phòng. Trước mặt ông là một người đàn ông tóc nâu, đang nhìn tuyết rơi bên ngoài.
Một người đàn ông to lớn, trong bộ đồng phục xanh, đứng án ngữ ngay lối vào. Sau cùng là nhân viên phục vụ toa của Poirot.
- May quá, ông đây rồi - ông Bouc thốt lên khi trông thấy Poirot - Mời ông vào! Chúng tôi đang cần ông đấy.
Người đàn ông tóc nâu ngồi cạnh cửa sổ lùi lại, nhường chỗ cho Poirot. Poirot bước vào và ngồi trước mặt ông Bouc.
Nét mặt ông Bouc nghiêm trọng – Chắc hẳn có vấn đề gì quan trọng.
- Chuyện gì vậy? - Poirot hỏi
- Nhiều chuyện lắm. Mới đầu là trận bão tuyết nghẽn đường … và…
Ông Bouc ngừng lại, người phục vụ toa tàu nằm thở dài.
- Rồi sao?
- Một hành khách vừa bị ám sát đêm qua - ông Bouc nói tiếp.
- Một hành khách à? Ai vậy ?
- Một người Mỹ… tên là… - ông Bouc lật những tờ giấy trước mặt - Ratchett…, đúng Ratchett.
- Vâng, đúng đấy thưa ông. - Nhân viên phục vụ nói, mặt trắng bệch.
- Hãy cho anh ta ngồi, anh ta sắp xỉu đấy! - Poirot nói.
Người xếp toa lui lại, anh phục vụ nhào đến cái ghế gục mặ vào hai tay !
- Nghiêm trọng đấy!
- Dĩ nhiên rồi. Mọi vụ giết người luôn luôn khủng khiếp. Nhưng vụ này thì rắc rối đấy. Có thể chúng ta bị kẹt ở đây nhiều giờ. Ở chỗ khác thì cảnh sát sẽ lên tàu, nhưng ở Nam Tư thì khác. Ông hiểu tình trạng của chúng ta chứ?
- Vâng, điều ông nói sẽ không làm cho tình hình tốt hơn! - Poirot nhận định.
- Tình hình còn trở nên bi đát, - ông Bouc nói - Xin lỗi bác sĩ Constantine tôi đã quên giới thiệu ông với ông bạn Poirot…
Người đàn ông tóc nâu và Poirot khẽ gật đầu chào nhau .
- Theo bác sĩ Constantine thì vụ án xảy ra khoảng một giờ sáng.
- Khó có thể xác định được thời gian, nhưng tôi có thể chắc là cái chết đã xảy ra với nạn nhân giữa 12 giờ đêm và 1 giờ sáng.
- Ông Ratchett được trông thấy lần cuối cùng vào lúc nào? Poirot hỏi.
- Lúc 1 giờ thiếu 20. Ông ấy đã nói chuyện với nhân viên phục vụ toa tàu.
- Đúng đấy, - Poirot nói - Chính tôi đã nghe thấy. Có phải đây là lần cuối cùng ông Ratchett được trông thấy còn sống không?
- Vâng.
Bác sĩ Constantine nói thêm:
- Cửa sổ phòng ông Ratchett mở rộng để cho người ta nghĩ rằng kẻ sát nhân đã tẩu thoát bằng đường đó. Nhưng trên tuyết lại không có dấu chân nào.
- Khi nào vụ án được phát giác?
- Michel!
Người phục vụ toa kút sét ngồi thẳng dậy, vẻ hốt hoảng.
- Anh hãy giải thích cho ông Poirot chuyện gì đã xảy ra! –
ông Bouc ra lệnh.
Bằng một giọng run run, anh ta bắt đầu kể:
- Sáng nay, người hầu của ông Ratchett đã gõ cửa nhiều lần mà không có tiếng trả lời. Cách đây 1 giờ người hầu trưởng của toa muốn biết ông Ratchett có ăn trưa không. Lúc đó là 11 giờ, tôi đã mở cửa phòng của ông Ratchett bằng chìa khóa riêng. Nhưng dây xích an toàn đã được gài bèn trong và không có ai trả lời cả. Trong phòng yên lặng như tờ, nhưng lại rất lạnh, lạnh vì cửa sổ mở và tuyết không ngừng tràn vào phòng. Nghĩ rằng ông khách bị ốm, tôi vội đi gặp ông xếp tàu và chúng tôi đã phải phá dây xích an toàn để vảo phòng. Ông Ratchett đã bị… Trời ơi! Khủng khiếp quá.
Anh ta lại vùi mặt vào đôi bàn tay:
- Cửa phòng đóng và dây xích an toàn được gài bên trong? - Poirot lập lại - Có phải là tự tử không?
Bác sĩ Constantine cười mỉa mai:
- Một người tự tử mà tự đâm vào mình 10 hay 12 nhát à?
Poirot mở to mắt.
- Hung dữ vậy sao?
Lần đầu tiêu người xếp tàu nói:
- Hung thủ là đàn bà. Hãy tin tôi đi, chỉ có đàn bà mới đâm kiểu đó -
Bác sĩ Constantine nhíu mày:
- Nếu là đàn bà, thi người ấy phải mạnh lắm. Không cần giải thích dài dòng tôi có thể nói là một vài nhát đã mạnh đến độ xuyên qua nhiều lớp gân.
- Thoạt nhìn thì vụ án này không có gì là khoa học cả.
- Đúng thế, - bác sĩ Constantine nói - Hình như những nhát dao đều được đâm một cách may rủi và có những nhát gần sớt qua da thôi. Ta có cảm tưởng kẻ sát nhân đã bịt mắt khi đâm.
- Đó là một người đản bà. Đàn bà thường thế. Sự giận dữ làm sức mạnh họ tăng thêm - Người xếp tàu nói đầy kinh nghiệm.
- Tôi có thể cung cấp thêm dữ kiện, - Poirot nói - Ông Ratchett đã nói chuyện với tôi hôm qua, theo tôi biết thì cuộc sống của ông ấy bị đe dọa.
- Có lẽ bởi bọn găng-tơ Hoa Kỳ trong trường hợp đó, hung thủ không phải là đàn bà.
Người xếp tàu có vẻ mếch lòng khi thấy lập luận của mình bị bẻ gẫy.
- Vậy thì, hung thủ là một tay mơ ngủ, - Poirot nói một cách bực dọc.
- Tôi để ý trên tàu, có một người Mỹ ăn mặc loè loẹt, miệng luôn luôn nhai kẹo cao su. Chắc ông biết tôi nói ai chứ nhĩ?- ông Bouc hỏi người phục vụ.
- Vâng thưa ông, ông ta ở phòng 16. Nhưng nếu là ông ấy thì tôi đã thấy ông ta ra vào rồi.
- Chưa chắc đâu. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này. Bây giờ ta phải làm gì đây? - ông Bouc hỏi Poirot. Ông nói tiếp:
- Chắc ông bạn cũng hiểu tôi mong gì ở ông. Tôi biết khả năng của ông. Ông hãy điều khiển cuộc điều tra. Xin ông đừng từ chối. Đối với chúng tôi, Tổng Cục Quốc Tế Đường Sắt phụ trách về toa kút-sét, vụ này quan trọng lắm. Nó sẽ đơn giản hơn nếu chúng ta tìm ra hung thủ. Trước khi cảnh sát Nam Tư đến. Nếu không, chúng ta sẽ gặp muôn vàn khó khăn. Có thể là những người vô tội sẽ bị buộc tội. Đằng này nếu ông tìm ra câu trả lời cho vụ án, chúng ta sẽ nói khi họ đến “Một vụ án mạng đã xảy ra và đây là thủ phạm”.
- Nếu tôi thất bại…?
- Ôi, ông bạn thân mến. Tôi đã từng nghe danh ông và biết cách làm việc của ông. Đây là một vụ cần đến ông. Nghiên cứu quá khứ của tất cả hành khách, điều đó đòi hỏi thời gian. Nhưng ông đã từng nói với tôi là muốn tìm ra thủ phạm, thì cần ngồi im và suy nghĩ? Vậy thì, xin ông hãy bắt tay vào việc! Hãy hỏi tất cả những hành khách trên tàu, xem xét tử thi, suy nghĩ về những dữ kiện, tôi chắc chắn ông sẽ thành công. Hãy cho những chất xám làm việc - như ông vẫn thường nói - và ông sẽ tim ra thủ phạm.
Ông Bouc nhìn Poirot đầy thiện cảm.
- Sự tín nhiệm của ông làm tôi thật cảm kích. Poirot nói bằng một giọng xúc động. Như ông vừa nói, bài toán e không dễ. Tối hôm qua… nhưng thôi ta không nên lẩn lộn. Trước đây nửa giờ, tôi chán nản nghĩ là chúng ta bị kẹt ở đây hằng giờ. Vậy mà bây giờ lại xảy ra một vụ án… thật rắc rối.
- Vậy là ông nhận lời?
- Vâng tôi nhận. Ông giao tôi cuộc điều tra này!
- Toàn bộ… thưa ông …và chúng tôi sẽ tuân theo mọi ý kiến của ông.
- Trước hết ông cho tôi một sơ đồ của toa tàu ngủ Constantinopol-Calais với tên những hành khách của từng phòng, thẻ thông hành và vé của họ.
- Michel, hãy đi lấy tất cả những thứ ấy.
Michel rời khỏi phòng.
- Những hành khách khác của chuyến tàu này là ai?
- Trong toa này chỉ có bác sĩ Constantine và tôi. Trong toa Bucarest, có một ông lão què và quen với tài xế. Sau đó là toa hành lý không làm chúng ta quan tâm lắm. Vì khi bữa ăn được dọn lên tối qua, thì toa này đã được khoá.
- Nếu thế e rằng chúng ta phải tìm thủ phạm trong toa Constantinople - Colais - Quay sang bác sĩ Constantine, Poirot hỏi - Ông cũng đồng ý chứ?
Bác sĩ Constantine gật đầu.
- Từ 12 giờ 30 đến 1 giờ, chúng ta đã bị nghẽn đường, từ lúc đó trở đi không một ai rời tàu…
Đến đây ông Bouc gằn từng tiếng:
- Thủ phạm ở cùng với chúng ta trong toa tàu này.
 
Chương VI: Một người đàn bà?


Trước hết tôi muốn nói chuyện với Mac Queen. Anh ta có thể cho chúng ta một vài chi tiết quý báu.
- Lẽ dĩ nhiên, - ông Bouc nói.
Ông ta quay về phía xếp tàu:
- Anh hãy mời ông Mac Queen đến đây. - Michel bước vào trên tay cầm giấy thông hành và vé tàu giao cho ông Bouc.
- Cám ơn Michel. Hiện giờ anh nên trở lại làm việc, lát nữa chúng tôi sẽ hỏi anh.
- Thưa ông vâng.
Michel rời khỏi phòng.
- Khi chúng ta đã hỏi Mac Queen xong, bác sĩ vui lòng trở lại phòng của nạn nhân với tôi nhé? - Poirot hỏi.
- Sẵn sàng thôi.
Sau đó, người xếp tàu trở lại, theo sau là Mac Queen.
Ông Bouc đứng dậy nhường chỗ cho Mac Queen.
- Ở đây chật chội. Anh hãy ngồi chỗ tôi. Ông Poirot sẽ ngồi trước mặt anh - Quay sang người xếp tàu, ông Bouc nói tiếp:
- Anh hãy cho mọi người ra khỏi toa ăn, đế ông Poirot sẽ sử dụng toa đó. Mời ông sang đấy làm việc.
- Có lẽ như thế tốt hơn.
Poirot gật đầu.
Mac Queen đứng yên hết nhìn người này đến người kia, anh không tài nào hiểu những câu nói nhanh bằng tiếng Pháp:
- Chuyện gì thế? Tại sao? …
Poirot mời Mac Queen ngồi xuống ghế ở góc phòng.
- Tại sao? …- Mac Queen lặp lại, sau đó anh tiếp tục hỏi bằng tiếng Mỹ:
- Có chuyện gì xảy ra trên tàu?
- Vâng, Poirot trả lời. Có chuyện quan trọng vừa xảy ra. Anh hãy bình tĩnh nghe tin chẳng lành: ông Ratchett, chủ anh, chết rồi!
Miệng Mac Queen tròn lại. - Từ ánh mắt của anh, hoàn toàn không thấy sự xúc động hay xót thương nào.
- Cuối cùng họ cũng giết được ông ta, - anh ta nói.
- Anh nói thế nghĩa là thế nào, anh Mac Queen?
Mac Queen do dự một lúc.
- Theo anh thì ông Ratchett bị ám sát à? - Poirot hỏi.
- Ông ta không bị giết à?
Lần này, Mac Queen lộ vẻ ngạc nhiên rõ rệt.
- Tôi cứ tưởng ông ta bị giết… Ông muốn nói là ông Ratchett bị chết một cách bình thường, trong giấc ngủ à? Sức khỏe của ông ta…
- Không, không. - Poirot cắt ngang. - Sự nghi ngờ của anh đúng đấy. Ông Ratchett đã bị giết… bị đâm. Tôi muốn biết tại sao anh lại chắc chắn, đây là một vụ ám sát chứ không phải là một cái chết hình thường.
Suy nghĩ một lúc Mac Queen nói:
- Trước hết xin ông cho tôi biết ông giữ vai trò gì trong vụ này?
- Tôi đại diện cho Công Ty Quốc Tế Đường sắt toa kút-sét. Tôi là một thám tử, tên tôi là Hercule Poirot.
Nếu Poirot mong đợi ở Mac Queen một sự ngạc nhiên, cảm phục thì ông đã lầm. Mac Queen chỉ gục đầu nói:
- Ra thế! - và đợi Poirot nói tiếp.
- Anh đã nghe qua tên tôi rồi chứ.
- Vâng, tên ông hơi quen quen. Nhưng tôi cứ ngỡ đó là tên một nhà thợ may danh tiếng.
Hercule Poirot lườm Mac Queen và nói:
- Thật không thể chấp nhận được.
- Cái gì không thể chấp nhận được, thưa ông?
- À, Không có gì. Chúng ta trở lại vấn đề. Anh Mac Queen, tôi mong anh nói hết những gì anh biết về nạn nhân. Anh là họ hàng của ông Ratchett à?
- Không. Tôi là… hay đúng hơn tôi đã là thư ký của ông ta.
- Từ bao lâu?
- Một năm nay.
- Anh hãy cho biết thêm chi tiết?
- Tôi đã biết ông Ratchett hơn một năm nay, khi tôi còn ở Perse.
Poirot hỏi ngang.
- Anh làm gì ở đó?
- Tôi từ New York đến để tham quan một cơ sở dầu khí. Nhưng công việc thất bại cho tôi và bạn tôi. Ông Ratchett lúc đó ở cùng khách sạn với chúng tôi. Ông vừa cho người thư ký cũ thôi việc và đã thâu tôi làm việc. Ở vào thế kẹt nên tôi đã sung sướng nhận lời…
- Rồi từ đó?
- Chúng tôi đã đi du lịch nhiều nơi. Ông Ratchett muốn biết thế giới nhưng lại bị hạn chế vì không biết nhiều ngoại ngữ; về phần tôi thì cuộc sống nay đây mai đó rất thích hợp.
- Anh hãy cho tôi biết về chủ của anh.
Mac Queen khẽ nhún vai và nói:
- Ông bắt tôi làm một việc hơi khó đấy.
- Tên thật của ông ấy là gì?
- Sanuel Edward Ratchett.
- Ông ta là người Mỹ à?
- Vâng.
- Ông ta thuộc vùng nào?
- Tôi không rõ.
- Vậy anh hãy nói cho tôi những điều anh biết.
- Thật ra thì tôi chẳng biết gì về ông Ratchett. Ông ta chẳng bao giờ nói với tôi về bản thân, và ngay cả đến cuộc sống của ông ở New York.
- Anh có biết tại sao không?
- Thưa không. Nhưng tôi nghĩ rằng rất có thể ông ấy xấu hổ về dĩ vãng của mình, có nhiêu người như thế.
- Ông ta có gia đình không?
- Ông ta không bao giờ nhắc đến.
- Anh Mac Queen, chắc chắn anh phải có một nhận xét riêng về ông Ratchett chứ?
- Dĩ nhiên. Tôi nghĩ là Ratchett không phải là tên thật của ông ấy. Ratchett đã rời đất Mỹ để trốn một kẻ nào đó. Và hình như ông ta đã thành công cho đến hai tuần lễ cuối này.
- Chuyện gì đã xảy ra?
- Ratchett đã nhận được những bức thư hăm dọa.
- Anh có đọc chúng không?
- Có. Xem trước những bức thư là nhiệm vụ của tôi. Bức thư thứ nhất đã đến cách đây 15 ngày…
- Những bức thư này có được hủy không?
- Một vài cái thôi. Tôi vẫn còn giữ hai cái trong tập hồ sơ của tôi. Ông có muốn tôi đi lấy chúng không?
- Vâng, anh làm ơn hộ.
Mac Queen rời khỏi phòng. Vài phút sau Mac Queen trở lại và đặt trước mặt Poirot hai tờ giấy:
Bức thư đầu tên, không ký tên, được viết như sau:
“Ông tưởng rằng thoát khỏi tay chúng tôi, ông lầm to rồi. Chúng tôi đã thề sẽ giết ông và chúng tôi sẽ làm được”.
Không bình phẩm một lời nào ngoài cái nhíu mày, Poirot đọc bức thư thứ hai.
“Chúng tôi sẽ đưa ông đi du lịch ông Ratchett ạ. Và cuối cùng ông sẽ không thoát được”.
Cách hành văn hơi đon điệu, Poirot nhận xét. Nét chữ có vẻ sắc sảo.
Mac Queen chăm chú nhìn Poirot không hiểu.
- Chắc ông không nhận thấy, - Poirot nới bằng giọng thông cảm. - Phải có cặp mắt tinh đời mới thấy rằng bức thư này do ít nhất hai người viết, có khi là nhiều người viết. Mỗi người đã viết một chữ. Ngoài ra, họ đã viết bằng chữ in nên việc nhận ra chữ rất khó, - ngừng một lúc Poirot tiếp:
- Anh có biết là Ratchett đã nhờ tôi bảo vệ ông ấy không?
- Ông à?
Sự ngạc nhiên của Mac Queen cho thấy rõ là anh ta hoàn toàn không hay biết gì về sự việc trên.
- Phải, tôi, - Poirot đáp - ông ta tỏ vẻ rất lo lắng. Thái độ của ông ấy khi nhận được bức thư đầu tiên như thế nào?
- Ông ta chỉ cười và không hề tỏ ra nao núng. Tuy nhiên tôi có cảm tưởng như ông ta cố làm ra vẻ bất cần.
Đến đây Poirot bỗng đặt một câu hỏi rất đột ngột:
- Anh Mac Queen, anh hãy cho tôi biết một cách tường tận anh nghĩ gì về ông chủ của anh? Anh có thích ông ấy không?
Hector Mac Queen chỉ trả lời sau một lúc suy nghĩ:
- Không, tôi không thích ông ấy!
- Tại sao?
- Tôi cũng không hiểu tại sao vì ông ta luôn luôn tỏ ra rất dễ thương. - Ngừng một lúc, Mac Queen tiếp:
- Thành thật mà nói, Ratchett không đem lại cho tôi lòng tin tưởng, ông ấy có vẻ ác độc và nguy hiểm. Tôi phải thú thật là không có một lý do cả nhân nào để nhận xét về Ratchett như thế.
- Tôi cám ơn anh, anh Mac Queen. À còn một câu hỏi nữa: Anh đã trông thấy Ratchett lần cuối cùng còn sống vào lúc nào?
- Tối hôm qua, khoảng… 10 giờ. Tôi đến phòng ông ta để xin một vài ý kiến.
- Vấn đề gì?
- Về những đồ cổ mua ở Perse Ba Tư. Những đồ này không ăn khớp với bông đặt hàng.
- Có đúng đó là lần cuối cùng anh trông thấy Ratchett còn sống không?
- Vâng, đúng thế!
- Anh có biết ông Ratchett đã nhận được bức thư đe dọa cuối cùng lúc nào không ?
- Sáng hôm ông ta rời Constantinople
- Tôi muốn biết anh có hòa thuận với ông Ratchett không?
Mắt của Mac Queen khẽ chớp.
- Không ! Ratchett và tôi chưa bao giờ cãi nhau.
- Anh Mac Queen, anh hãy vui lòng cho tôi biết. Tên họ, địa chỉ ở Mỹ của anh.
- Hector Willard Mac Queen, chỗ ở New York.
Poirot dựa mình vào thành ghế.
- Như thế tạm đủ rồi anh Mac Queen ạ. Tôi đề nghị anh nên giữ bí mật về cái chết của ông Ratchett.
- Mastesman người hầu của Ratchett sẽ rõ thôi.
- Có lẽ hiện giờ, phút này anh ta đã biết rồi. Vậy anh hãy cố làm anh ta giữ lời.
- Cũng không khó đâu. Đúng phong cách của người Anh, Mastesman sẽ giữ những gì anh ấy biết. Anh ấy đánh giá người Mỹ rất thấp.
- Cảm ơn anh Mac Queen.
Mac Queen rời phòng.
- Sao, ông Bouc hỏi. Ông có tin những lời của anh chàng này không ?
- Anh ta có vẻ thật thà. Mac Queen đã không che giấu là anh ta không ưa Ratchett. Ratchett cũng không cho Mac Queen biết ông ấy đã nhờ đến tôi giúp đỡ. Tôi nghĩ đây không phải là một trường hợp khả nghi. Ratchett là người không cần đến lời khuyên của kẻ khác.
- Như vậy Mac Queen vô tội, - ông Bouc vừa cười vừa nói.
Poirot nhìn ông ta với vẻ trách móc.
- Tôi nghi ngờ tất cả mọi người cho đến phút cuối. Tuy nhiên tôi cũng khó chấp nhận cảnh Mac Queen điềm đạm và kín đáo, mất bình tĩnh, dễ đi đến chỗ đâm ông chủ của mình tới 12 nhát dao. Điều đó không phù hợp chút nào với tính khí của Mac Queen.
- Không, - ông Bouc nói. - Sự hung dữ của vụ ám sát cho thấy đó là hành động của một kẻ điên loạn, gần như là sự thù hằn của một người La-tinh. Và nếu theo như ý kiến của người xếp ga, thì đó là hành động
của một người đàn bà.
 
Chương VII: Nạn nhân

Theo sau là bác sĩ Constantine, Poirot bước sang toa kế tiếp và vào phòng nạn nhân. Người phục vụ mở cửa cho họ bằng chìa khóa của mình.
Poirot hỏi khi bước vào phòng :
- Có gì bị xê dịch không ?
- Không một vật gì được di chuyển. Tôi cũng tránh không lật xác nạn nhân lại khi khám xét. - Bác sĩ Constantine nói.
Poirot nhìn xung quanh một cách vừa ý.Điều làm cho ông chú ý trước tiên là cái lạnh khủng khiếp đang tràn vào phòng qua cửa sổ vẫn còn mở.
- Ôi, lạnh quá. - Poirot thốt lên.
- Tôi nghĩ là nên để mọi vật ở đúng vị trí cũ nên đã không đóng cửa. - Bác sĩ Constantine vừa nói vừa cười.
Poirot xem xét cửa sổ.
- Ông có lý đấy. Không có ai ra khỏi nơi đây bằng ngả này. Cánh cửa sổ này mở là cố tình làm cho ta lầm tưởng. Tuyết đã làm hỏng ý định của kẻ sát nhân.
- Không có dấu vết, điều đó chứng tỏ là người ta đã xóa hết vết tích. Nếu có, thì chúng cũng không cho ta biết thêm gì vì đó cũng chỉ là dấu tích của Ratchett. Ở thời đại chúng ta thì những kẻ sát nhân không ngờ nghệch đến thế. Thời chúng ta hãy kéo cửa kính này xuống, không thôi thì cứ như là ở trong tủ lạnh.
Sau khi kéo cửa sổ xuống, Poirot quay sang nhìn xác chết.
- Ratchett nằm ngửa. Cái áo ngủ dính đầy máu được mở tung ra.
- Tôi muốn xem tình trạng những vết thương. - Bác sĩ Constantine giải thích.
Poirot cúi xuống bên xác chết rồi ngẩng lên, nhăn mặt nói:
- Trông thật ghê rợn. Kẻ sát nhân phải đứng ở đây và đâm nhiều lần. Có tất cả bao nhiêu vết thương nhỉ ?
-Tôi đếm được mười hai vết. Một hay hai nhát chỉ là những vết trầy thôi. Vả lại ba nhát cũng đủ làm nạn nhân chết rồi.
Có một cái gì đó trong giọng nói của bác sĩ Constantine làm Poirot ngạc nhiên. Poirot thấy bác sĩ đang nhíu mày nhìn xác Ratchett.
- Ông vừa tìm thấy một điều gì bất ổn phải không ? Ổng hãy cho tôi biết điều gì làm ông ngạc nhiên đi.
- Tôi nhận thấy có một sự kiện lạ lùng.
- Điều gì ?
- Ông hãy nhìn hai vết đâm này, vết này và vết kia (vừa nói Constantine vừa chỉ hai nhát đâm cho Poirot) chúng rất sâu ... chắc phải chạm vào động mạch, vậy mà chúng lại không rộng ; Bình thường hai vết này phải gây ra xuất huyết nhiều, vậy mà .
- Điều đó chứng tỏ ?
- Rằng Ratchett đã chết một lúc rồi mới bị đâm hai nhát này ... nhưng điều đó thật vô lý.
- Trừ phi, - Poirot trầm ngâm nói, - tên sát nhân tưởng là nạn nhân chưa chết, đã trở lại đâm tiếp hai nhát này cho chắc ăn. Nhưng giả thuyết này không hợp lý chút nào. Bác sĩ còn thấy thêm gì không ?
- Có, còn một chi tiết nữa.
- Chi tiết gì ?
- Ông thấy vết thương này chứ ... dưới cánh tay phải, gần vai. Hãy cầm lấy bút chì của tôi và hãy thử đâm như thế đi.
Poirot hạ mạnh cánh tay xuống.
- Tôi hiểu. Với tay mặt thì gần như không thể đâm được như thế. Muốn như vậy ta phải gần như bẻ quặt cổ tay lại. Nhưng nếu đâm bằng tay trái thì.
- Đúng đấy ông Poirot ạ, vết đâm này phải do tay trái gây ra.
- Như vậy tên sát nhân của ta thuận tay trái à ? Đâu đơn giản thế được, phải không bác sĩ?
- Ông có lý đấy ông Poirot ạ. Một vài vết đâm rõ ràng được gây ra bởi tay phải.
- Hai sát nhân à. Đèn có được bật sáng không nhỉ ? - Poirot đột ngột hỏi.
- Thật khó nói. Mỗi sáng, nhân viên tàu cúp cầu dao lúc 10 giờ.
- Chúng ta hãy thử xem công tắc, - Poirot nói.
Poirot xem công tắc đèn trần và đèn ngủ cạnh gi.ường.
- Như thế là tất cả đèn đều đã được tắt. Chúng ta đang đứng trước giả thuyết kẻ sát nhân thứ nhất và kẻ sát nhân thứ nhì như Shakespeare nói. Tên sát nhân thứ nhất đâm xong nạn nhân ra khỏi phòng sau khi đã tắt đèn. Tên sát nhân thứ hai lọt vào phòng và trong bóng tối không biết là công việc đã có người đến trước làm rồi, đâm thêm ít nhất là hai nhất nữa. Ông nghĩ sao về ý kiến này ?
- Tuyệt quá - bác sĩ Constantine thốt lên - ông nghĩ thế à ? Như thế là tôi yên trí - Chỉ sợ rằng đã nói lên một điều vô lý thôi.
- Vậy thì làm thế nào để giải thích hai vết đâm sau này ?
- Tôi cũng chưa biết. Còn thêm chi tiết nào về việc có hai tên sát nhân không ?
- Tôi nghĩ có thể chứng minh điều đó. Một vài nhát đâm cho thấy sự yếu đuối thiếu sức mạnh và ý chí ...trong khi đó nhát này và nhát kia (ông ta chỉ hai vết đâm đã khép lại) đòi hỏi một sức mạnh thể xác.
- Theo ông thì chỉ có một người đàn ông mới có thể đâm như thế à ?
- Tôi gần như chắc chắn điều đó.
- Một người đàn bà không làm được sao ?
- Một phụ nữ còn trẻ, tràn đầy sức sống, một lực sĩ thì có thể được. Đặc biệt là nếu cô ta đang bị xúc động mạnh. Nhưng theo lời, thì điều ấy hầu như không thể xảy ra được.
Poirot im lặng.
Ngạc nhiên, bác sĩ Constantine hỏi ;.
- Ông hiểu quan điểm của tôi chứ?
- Vâng, - Poirot nói - Tất cả đều rõ ràng ! Kẻ sát nhân là một người đàn ông khỏe mạnh, nếu yếu, đó là một người đàn bà. Hắn có thể thuận tay phải, tay trái. Ôi ! Thật buồn cười. - Poirot tiếp bằng một giọng tức giận.
- Còn nạn nhân ? Nạn nhân thì sao ? ông ta không hét à ? ông ta có giãy giụa, có chống cự không ?
- Luồn tay dưới gối, Poirot rút ra khẩu súng lục mà Ratchett đã cho ông xem.
- Đầy đạn, bác sĩ hãy xem đi !.
Cả hai người đều nhìn quanh phòng. Quần áo của Ratchett treo ở máng áo cạnh vách. Trên bàn có nhiều đồ dùng khác nhau. Trong một cái ly là hàm răng giả của Ratchett và cạnh chai nước suối là một cái ly không, một bình nước một gạt tàn đựng những mẫu xì-gà, những mảnh giấy bị đốt cháy; và hai que diêm đã được sử dụng.
Bác sĩ Constantine cầm lấy cái ly và ngửi.
- Đây là những bằng chứng về việc bất động của nạn nhân.
- Người ta đã cho ông ấy uống thuốc ngủ ả ?
- Phải.
Poirot nhặt hai que diêm và xem xét kỹ.
- Ông có tìm thấy gì không ? - Bác sĩ Constantine hỏi .
- Hai que diêm này có hình dáng khác nhau. Một que có đầu dẹp hơn que kia.
- Những que đầu dẹp được bán trên tàu.
Poirot lục túi của Ratchett và kéo ra một bao diêm, ông lấy một que so sánh với hai que diêm đã được sử dụng.
- Que diêm có đầu tròn là do Ratchett đốt. Thử xem ông ta có que diêm dẹp không?
Poirot lục soát lại, nhưng vô hiệu.
Cặp mắt của Poirot nhanh nhẹn và soi mói như mắt chim không bỏ sót một góc nào của căn phòng.
Bỗng nhiên Poirot kêu lên và cúi xuống lượm một vật gì trên thảm : Một mảnh vải mỏng có thêu chữ “H” ở góc :
- Đây là khăn tay của một người đàn bà, bác sĩ Constantine nhận xét. Anh xếp tàu đã không lầm khi nói có một người đàn bà trong vụ này.
- Do một sự ngẫu nhiên, cô ta đã để rơi chiếc khăn tay, - Poirot giải thích, - cứ giống như trong tiểu thuyết hay trong những phim trinh thám. Và để làm cho công việc của chúng ta dễ dàng hơn, chiếc khăn tay lại có chữ đầu.
- Một dấu hiệu hơi thừa, phải không?
Giọng của Poirot làm bác sĩ Constantine ngạc nhiên. Không đủ cho ông ta có thì giờ hỏi, Poirot lại cúi xuống đất. Lần này thì ông lượm lên một cái nạo ống điếu.
- Vật này có lẽ của ông Ratchett, - bác sĩ Constantine nói.
- Tôi không tìm thấy ống điếu, thuốc lá và hộp đựng thuốc ở trong túi nạn nhân.
- Trong trường hợp này thì hai vật ấy cũng là những tang vật.
- Đúng thế. Và nó đến thật đúng lúc. Lần này là đồ dùng của một kẻ hay hút thuốc. Chúng ta không nên than vãn vì thiếu manh mối. Chúng rất nhiều nữa là khác. Không hiểu vũ khí giết người đâu nhỉ ?
- Tôi chẳng thấy dấu vết nó. Có lẽ tên sát nhân đã mang theo rồi.
- Vì lý do gì ?
- Điều đó thì.
Bác sĩ Constantine lại tìm một lần nữa trong túi nạn nhân.
- Ủa, tôi không để ý đến cái này.
Từ trong túi áo, ông lôi ra một cái đồng hồ bằng vàng. Cái vỏ đã bị móp méo và kim đồng hồ chỉ 1 giờ 15.
- Ông thấy đấy, chúng ta biết giờ xảy ra án mạng rồi. Dự đoán của tôi khá đúng. Vụ ám sát xảy ra giữa 12 giờ khuya và 2 giờ sáng và tôi đã thêm : khoảng 1 giờ sáng. Và đây là bằng chứng vụ án xảy ra lúc 1 giờ 15.
- Có thể, rất có thể!.
Bác sĩ Constantine đưa mắt nhìn Poirot dò hỏi.
- Xin lỗi ông Poirot, nhưng tôi không hiểu ông.
- Tôi còn chưa hiểu tôi, và tôi hoàn toàn không hiểu gì về vụ án này. Điều đó làm tôi rất ngạc nhiên.
Buông một tiếng thở dài, Poirot cúi xuống bàn và nhìn những mảnh giấy đã bị đốt cháy.
- Điều tôi cần bây giờ, - Poirot nói, - là một hộp đựng mũ theo mốt cổ điển.
Bác sĩ Constantine không hiểu gì về câu nói của Poirot. Không để ông hỏi, Poirot mở cửa và gọi nhân viên phục vụ.
- Có bao nhiêu bà du lịch trong toa tàu này ?
- Anh đếm trên đầu ngón tay.
- Một, hai, ba ... sáu thưa ông. Bà Mỹ già, bà Thụy Điển, cô gái người Anh trẻ, quận chúa Andrenyi và công chúa Dragomiroff với người hầu phòng của bà.
Poirot suy nghĩ một lúc.
- Tất cả những bà này đều có hộp đựng mũ chứ ?[1]
- Thưa ông vâng.
- Anh đem đến cho tôi hộp đựng mũ của bà người Thụy Điển và của cô hầu phòng. Hãy nói với họ là thuế vụ đòi xét hay là anh hãy bịa cho họ mọi lý do cần thiết.
- Tất cả sẽ ổn thôi thưa ông. Hiện giờ thì cả hai bà đều không có trong phòng.
- Vậy, anh hãy làm nhanh đi.
Anh ta đi một lúc và trở lại với hai hộp đựng mũ. Poirot mở hộp của cô hầu phòng sau khi xem xong ông đẩy qua một bên. Khi mở hộp đựng mũ kia ra, ông reo lên vui mừng. Lấy những cái mũ ra một cách cẩn thận, ông trông thấy những cuộn nhỏ bằng kim khí mảnh.
- Đây, cái chúng ta cần đây rồi. Cách đây mười lăm năm, tất cả những hộp đựng mũ đều được làm theo kiểu này. Người ta gắn mũ với những kim dài vào những cuộn này.
Vừa nói Poirot vừa gỡ hai cuộn ra. Sau đó ông lại để những cái mũ vào chỗ cũ.
Cánh cửa vừa đóng lại, Poirot quay sang bác sĩ Constantine.
- Ông hiểu chứ ? tôi không phải là người dựa vào hoàn toàn cách làm việc của những chuyên viên trong một vụ án. Tôi nghiên cứu khía cạnh tâm lý, những vết tay hay đến những tàn thuốc lá. Nhưng trong trường hợp này, tôi sẵn sàng nhận sự giúp đỡ của một nhà khoa học (như ông đây). Trong phòng này đầy những dấu hiệu nhưng làm thế nào để biết là chúng không phải do kẻ sát nhân tạo ra.
- Đến đây tôi không còn hiểu được ông nữa.
- Đây nhé, một ví dụ. Chúng ta tìm thấy một khăn tay phụ nữ. Có thật là một người đàn bà đã làm rơi nó không ? Nếu kẻ sát nhân là một người đàn ông, hắn có thể đã lý luận, như sau :" Để cho người ta lầm tưởng thủ phạm là một người đàn bà, ta sẽ đâm nạn nhân vài nhát trông có vẻ nhẹ và vô hại. Sau đó ta sẽ để rơi khăn tay này, chắc chắn họ sẽ tìm ra nó", đó là giả thuyết thứ nhất . Một giả thuyết khác: một người đàn bà là sát nhân và đã làm rơi một cái nạo ống điểu. Chúng ta có thể kết luận ra hai kẻ, một nam và một nữ đã hành động một cách độc lập và dù vô ý để quên một vật có thể giúp ta nhận diện ra họ. Sự trùng hợp này khó tin lắm.
- Cái hộp đựng mũ giữ vai trò gì ở đây ?
- Chúng ta sắp nói đến nó đây. Như tôi đã nói lúc này, cái đồng hồ ngừng chạy, chiếc khăn tay, cái nạo ống điếu có thể là những dấu vết thật hoặc giả tạo. Cho đến gíờ phút này, tôi chưa khẳng định được điều gì. Nhưng tôi đã tìm ra một dấu tích mà theo tôi không phải là giả tạo. Tôi muốn nói đến que diêm dẹp đầu. Theo tôi, người ta đã dùng nó để đốt một mảnh giấy bất lợi hoặc một cái thơ mà lời lẽ có thể cho ta biết danh tánh của kẻ sát nhân. Tôi sẽ cố gắng làm sáng tỏ điều này.
Poirot rời khỏi phòng và trở lại vài phút sau đó, mang theo một bếp nấu bằng alcôn và một que sắt để uốn... tóc.
- Tôi dùng nó cho bộ ria của tôi, - Poirot giải thích.
Ngạc nhiên, bác sĩ Constantine nhìn Poirot kéo thẳng hai miếng thiếc của ông lấy từ trong hộp đựng mũ, quấn một đầu của miếng giấy bị đốt trên một ống và trải đầu giấy còn lại lên trên. Sau đó ông cầm tất cả bằng cái kẹp và đặt trên lò đã bật.
- Đây chỉ là một cách làm tạm bợ nhưng mong rằng sẽ thành công.
Mảnh thiếc bắt đầu rực nóng rồi bỗng nhiên trên miếng giấy đen đã bắt đầu nổi lên những chữ như bị nung bằng lửa. Người ta có thể đọc được phần cuối của một câu :
- ... hơ đến cô bé Daisy Armstrong.
- Điều này giúp gì ông không ? Bác sĩ Constantine hỏi.
Mắt sáng lên, Poirot để cái kẹp xuống ;.
- Có chứ. Bây giờ thì tôi biết rõ tên thật của nạn nhân và lý do ông ta không còn ở Hoa Kỳ nữa.
- Ông ta tên thật là gì ?
- Cassetti.
- Cassetti ! ... cái tên làm tôi nhớ đến, không biết rõ ..., có phải đây là tên một vụ đã xảy ra tại Hoa Kỳ không ?
- Phải, - Poirot đáp, nhưng thay vì giải thích rõ, Poirot nhìn xung quanh và kết luận :
- Lát nữa chúng ta sẽ trở lại vấn đề. Chúng ta hãy xem kỹ một lần nữa xem có còn bỏ sót gì trong phòng này không ?
Bằng bàn tay lanh lợi, Poirot soát lại túi của nạn nhân một lần nữa, nhưng không còn tìm thấy gì. Sau đó Poirot mở thử cửa ăn thông sang phòng bên, nhưng cửa bên kia đã cài chốt.
- Còn một điều làm tôi ngạc nhiên, bác sĩ Constantine nhận xét. Nếu kẻ sát nhân đã trốn ra bằng cửa sổ, nếu cửa thông qua phòng bên khóa phía bên kia, và nếu cánh cửa hành lang không những khóa mà còn cài dây xích an toàn, vậy thì sát nhân đã trốn thoát bằng cửa nào ?
- Đó là điều mà khán giả muốn biết khi xem một nhà ảo thuật trình diễn màn bị bó tay bó chân ... nhốt trong tủ.
- Ông nói sao ?
- Tôi muốn nói, rằng, - Poirot giải thích, - nếu kẻ sát nhân muốn ta lầm tưởng hắn đã nhảy qua cửa sổ, hắn sẽ làm cách nào cho hai lối thoát kia trở nên vô dụng. Giống như nhà ảo thuật cột lấy chân nằm trong tủ,phải có cách để ra. Chúng ta phải lột mặt nạ nó.
Nói xong, Poirot đưa tay gài chốt cánh cửa ăn thông qua phòng bên và giải thích :
- Phòng hờ lỡ bà Hubbard tò mò muốn biết những chi tiết về vụ án để kế cho co con gái bà ta.
Poirot nhìn qua căn phòng một lần cuối và nói :
- Không còn việc gì phải làm nữa. Chúng ta hãy ra gặp ông Bouc.

Chú thích
[1] Phụ nữ thời bấy giờ đều đội mũ. Để giữ cho mũ khỏi hỏng, họ đều cất mũ trong những hộp các tông lớn.
 
Chương VIII: Cuộc bắt cóc cô bé Armstrong

Ông Bouc vừa ăn xong thì Poirot và bác sĩ Constantine bước vào :
- Tôi xét thấy thuận tiện nên đã cho dọn bữa ăn trưa trong toa ăn. Khi đã xong, ông Poirot có thể cho tiến hành cuộc hỏi cung những hành khách. Trong khi chờ đợi tôi đã cho người mang cơm trưa đến đây.
- Ý kiến hay đấy ! - Poirot nói.
Cả ba người đàn ông đều không đói nên bữa ăn xong nhanh, nhưng chỉ mãi đến lúc cà phê được dọn lên thì ông Bouc mới đề cập đến vấn đề đang làm họ bận tâm.
- Sao ? - Ông Boue hỏi.
- Tôi đã tìm ra tông tích của nạn nhân và nguyên nhân làm ông ta phải rời khỏi Hoa Kỳ.
- Ai thế ?
- Ông đã bao giờ nghe nói đến em bé Armstrong chưa ? Nạn nhân chính là kẻ đã giết chết cô bé Daisy Armstrong. Hắn ta tên là Cassetti.
- Tôi nhớ ra thảm kịch khủng khiếp đó rồi, nhưng chi tiết thì không rõ lắm.
Đại tá Armstrong là người Anh đã được huân chương Victoria [1], ông ta là người Mỹ phía bên ngoại. Mẹ Armstrong là con của Van Der Halt, một nhà tỷ phú. Armstrong thành hôn với con gái của Linda Arden nữ diễn viên nổi danh Mỹ thời bấy giờ và cặp vợ chồng Armstrong đã lập nghiệp tại Mỹ. Họ đã sinh được một người con gái mà họ rất yêu thương gần như tôn sùng. Khi đứa bé ba tuổi, một bọn cướp đã bắt cóc nó và đòi chuộc bằng một số tiền rất lớn. Tôi không đi vào chi tiết. Nhưng sau khi đã trả 100 ngàn Đô la, người ta đã tìm thấy xác của đứa bé. Nó đã bị chết trước đó ít nhất là 15 ngày.. Dư luận đã rất phẫn nộ.
Nhưng còn một điều khác tệ hại hơn. Bà Armstrong đang mang thai, vì bị xúc động mạnh nên đứa bé đã chết trong bụng mẹ. Và bà ta cũng chết khi sinh nó, điên lên vì đau buồn, đại tá Armstrong đã tự tử bằng súng lục.
- Trời đất, thật là bi thảm ! tôi nhớ ra rồi, - ông Bouc nói. - Nhưng hình như còn một người nào đó đã chết vì thảm kịch này .
- À có ... một cô hầu người Pháp hay Thụy Sĩ bị nghi ngờ đồng lỏa với bọn cướp. Mặc dù cô đã phản đối kịch liệt, nhưng người ta đã một mực không tin. Cuối cùng quá uất ức, cô đã nhảy qua cửa sổ tự tử. Sau đó, sự vô tội của cô mới được sáng tỏ.
- Thật khủng khiếp ! .
- Sáu tháng sau, Cassetti bị bắt vì là đầu đảng của bọn cướp. Bọn chúng đã dùng cách dã man nhất vì sợ bị bắt. Chúng đã giết đứa bé ; giấu xác và tiếp tục lấy tiền chuộc cho đến khi tử thi được tìm thấy. Tôi có thể khẳng định một điều : Cassetti là sát nhân. Nhưng nhờ vào tài sản to lớn của hắn và việc tống tiền đối với một số vị tai to mặt lớn, nên cuối cùng hắn được trắng án. Tuy nhiên, dân chúng đã giết hắn rồi nếu hắn không lanh lẹ cải trang và trốn khỏi Hoa Kỳ dưới một tên khác. Từ đó trở đi hắn đã bôn ba đây đó,
nhờ vào tài sản của hắn.
- Ôi! Tên độc ác ! - ông Bouc nói bằng một giọng kinh tởm. - Người thương tiếc hắn chắc chắn không phải tôi.
- Tôi cũng thế.
- Nhưng đâu cần thiết phải giết hắn trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông này !
Poirot mỉm cười và nói :
- Phải tìm xem có phải vụ ám sát do một băng cướp kình địch mà Cassetti đã phản bội, hay đây chỉ là một cuộc trả thù cá nhân.
Poirot kể lại cho ông Bouc những chữ tìm thấy trên mảnh giấy bị đốt.
- Theo dự đoán của tôi thì cái thơ đã bị thủ phạm đốt. Tại sao ư ? Vì nó có đề tên : Armstrong ... tên này là chìa khóa của điều bí ẩn.
- Họ hàng gia đình Armstrong còn ai sống sót không ?
- Rất tiếc là tôi không biết. Nhưng hình như tôi đã đọc ở đâu nói rằng ông Armstrong có một em gái .
Poirot trình bày những điều ông và bác sĩ Constantine đã tìm thấy. Mặt ông Bouc rạng rỡ lên khi nghe chuyện cái đồng hồ bị đứng.
- Như vậy là chúng ta có giờ của vụ án.
- Phải, điều đó rất quan trọng, Poirot nói bằng một giọng kỳ lạ làm cho hai người đàn ông kia nhìn ông, vẽ hốt hoảng.
- Ông đã chẳng nói rằng ông đã nghe Ratchett nói với nhân viên phục vụ lúc 1 giờ kém 20 sao ? - ông Bouc hỏi.
Poirot kể lại tỉ mỉ những điều đã xảy ra đêm qua.
- Như vậy tất cả đều chứng minh là Cassetti hay Ratchett vẫn còn sống lúc 1 giờ kém 20.
- 1 giờ kém 23 phút.
- Nói một cách khác, vào lúc 12 giờ 37 Ratchett vẫn còn sống. Đó là điều không chối cãi được.
Poirot không trả lời mà chỉ đăm chiêu nhìn về phía trước.
Có tiếng gõ cửa và sau đó người hầu trường bước vào và nói :
- Thưa ông, toa ăn đã rảnh.
- Nào, chúng ta đi, - vừa nói ông Bouc vừa đứng lên.
- Tôi có thể theo các ông không ? - Constantine hỏi.
- Lẽ dĩ nhiên rồi thưa bác sĩ. Trừ phi ông Poirot không cảm thấy phiền.
- Ồ không.
Cả ba người đều đi về phía toa ăn.

Chú thích:
[1] Tên nữ hoàng nước Anh
 
Phần II - Cuộc thẩm vấn
Chương I- Lời khai của nhân viên toa kút sét


Trong toa ăn, tất cả đều sẵn sàng để đón ba người.
Poirot, ông Bouc ngồi cạnh nhau, bác sĩ Constantine ngồi trước mặt họ.
Sơ đồ của toa kút sét (couchette) [1] kèm theo tên của những hành khách viết bằng chữ đỏ trải ra trước mặt Poirot. Bên cạnh là giấy thông hành và những vé tàu. Nhân viên cũng không quên để mực, giấy, bút mực và bút chì.
- Tốt lắm ! - Poirot nói. - Chúng ta hãy tiến hành ngay cuộc điều tra, Trước hết là nhân viên phục vụ toa nằm. Chắc ông biết rõ về đạo đức của anh ta chứ ? Ta có thể tin vào lời của anh ta không ?
- Ồ, dĩ nhiên, Pierre Michel làm việc cho Cục đường sắt hơn 15 năm rồi. Anh ta là người Pháp ở Calais.Có thể anh ta không thông minh lắm, nhưng rất thật thà.
- Tốt, mời anh ta vào.
Mặc dù đã lấy lại chút nào bình tĩnh, Pierre Michel vẫn còn vẻ bối rối.
- Mong rằng ông không phiền về cách phục vụ của tôi chứ ? - Michel vừa hỏi vừa nhìn Poirot và ông Bouc. - Thật kinh khủng, nhưng chắc là trách nhiệm của tôi không bị tổn thương chứ ạ?
Sau khi đã trấn an Michel, Poirot bắt đầu hỏi tên, địa chỉ, thời gian Michel làm việc ở công ty và ở tuyến đường Constantinop - Calais, Poirot đã biết là những điều này nhưng đây chỉ là giúp cho Michel cảm thấy thoải mái trước khi bước vào đề.
- Nào, bây giờ chúng ta hãy đi vào những biến cố của đêm qua. Ông Ratchett đã về buồng lúc nào ?
- Ngay sau bữa ăn tối, thưa ông, trước khi tàu rời ga Belgrade. Như tối trước, ông ta đã bảo tôi làm gi.ường trong khi ông ta đi ăn tối, và tôi đã làm.
- Có ai vào phòng ông ta không ?
- Người bồi và thư ký của ông ta.
- Còn ai nữa không ?
- Theo tôi biết thì hết rồi.
- Tốt. Có phải đó là lần cuối cùng anh trông thấy hay nghe ông ta không?
- Thưa không. Ông quên là ông Ratchett đã bấm chuông khoảng 1 giờ thiếu 20 ... vài phút sau khi tàu bị nghẽn.
- Chuyện gì đã xảy ra ?
- Tôi đã gõ cửa, nhưng ông Ratchett đã cho biết ông ấy bấm lộn.
- Ông ta đã trả lời bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp ?
- Bằng tiếng Pháp.
- Ông ta nói chính xác những điều gì ?
- Ồ xin lỗi, tôi nhầm.
- Tốt, - Poirot nói. - Đó cũng là những câu tôi đã nghe. Sau đó anh bỏ đi à ?
- Thưa ông vâng.
- Anh có quay lại ngồi ở ghế của anh không?
- Thưa không. Tôi phải chạy đến trả lời cho một người khách gọi tôi.
- Michel. Tôi sẽ hỏi anh một câu quan trọng. Vào lúc 1 giờ 15 anh ở đâu ?
- Tôi ấy à, thưa ông? tôi ngồi ở chỗ tôi ở cuối dãy hành lang.
- Anh có chắc chắn không ?
- Có chứ ... trừ phi .
- À phải, tôi đã sang toa khác - toa Athènes - thăm Vivet, bạn tôi. Chúng tôi đã nói với nhau về trận bão tuyết. Lúc đó chắc khoảng 1 giờ ... tôi không dám chắc lắm.
- Lúc nào thì anh quay về ?
- Có một hành khách bấm chuông gọi, hình như khi nãy tôi đã nói rồi. Đó là bà người Mỹ. Bà ta đã gọi nhiều lần.
- Phải, tôi đã nhớ ra rồi, và sau đó?
- Sau đó thưa ông, tôi đã đến phòng ông vì ông đã bấm chuông và đem đến cho ông một chai nước suối. Khoảng 1/2 giờ sau, tôi đã làm gi.ường cho ông người Mỹ trẻ ... thư ký của ông Ratchett.
- Ông Mac Queen có ở một mình trong phòng khi anh vào làm gi.ường không ?
- Đại tá người Anh phòng số 15 đang ngồi nói chuyện với ông ta.
- Sau khi nói chuyện xong, viên đại tá đã đi đâu?
- Ông ta đã quay về phòng mình.
- Phòng 15 ... gần chỗ anh ngồi phải không ?
- Thưa ông vâng, đó là phòng thứ hai từ cuối hành lang đi tới.
- gi.ường của ông ta đã làm chưa ?
- Thưa ông rồi. Tôi đã làm lúc cơm tối.
- Vào lúc nào ?
- Tôi không thể nói rõ được. Nhưng chắc chắn không quá hai giờ.
- Rồi sau đó ?
- Tôi đã ngồi ở chỗ tôi cho đến sáng.
- Anh không trở lại toa tàu Athènes à ?
- Thưa không.
- Anh có ngủ không ?
- Tôi nghĩ là không. Sự bất động của con tàu đã làm tôi ngủ không được. Tôi đã quen với cái lắc lư của nó rồi.
- Anh không thấy hành khách nào qua lại ở hành lang à?
Michel suy nghĩ một lúc rồi trả lời :
- Một bà trong đám hành khách đã. Đi vào phòng vệ sinh ở cuối dãy hành lang.
- Bà nào ?
- Tôi không thể xác định được thưa ông. Bà ta ở cuối hành lang và quay lưng lại chỗ tôi. Bà ta mặc một cái áo khoác màu đỏ có thêu những con rồng.
- Đúng. Rồi sau đó ?
- Chẳng còn việc gì xảy ra nữa cho đến sáng.
- À có chứ. Ông, phải chính ông, đã mở cửa và nhìn ra ngoài.
- Đúng đấy anh bạn ạ. Tôi đang tự hỏi là anh có nhớ chi tiết cỏn con đó không ? À, tôi đã bị thức giấc vì nghe thấy một vật nặng rơi ngoài cửa phòng tôi. Anh có thể cho tôi biết đó là cái gì không?
Michel nhìn Poirot chăm chú rồi nói :
- Thưa ông, chẳng có gì cả.
- Nếu thế chắc tôi đã nằm mơ. - Poirot nói một cách thờ ơ.
- Nếu không phải là mơ thì tiếng động đó ở phòng bên cạnh ông, - ông Bouc nói.
Poirot làm như không chú ý đến câu nói của ông Bouc, có lẽ ông không muốn cho ý kiến riêng trước mặt nhân viên phục vụ.
- Thôi chúng ta hãy sang một vấn đề khác. Giả sử như kẻ sát nhân đã lên tàu. Hắn có thể tẩu thoát được sau khi giết người không ?
Pierre Michel lắc đầu.
- Hắn có thể trốn ở một chổ nào không?
- Ông hãy bỏ ý nghĩ ấy đi ông bạn ạ, chúng tôi dã lục soát khắp nơi.
- Ngoài ra, - Michel nói, - không ai có thể vào toa kút sét hay ra mà tôi không thấy.
- Ga cuối cùng là ga gì nhỉ ?
- Vincovei.
- Lúc đó mấy giờ ?
- Thường thì tàu phải rời ga đó lúc 11 giờ 58 phút. Nhưng vì thời tiết xấu ! nên bị chậm 20 phút.
- Ai có thể sang toa kút sét từ những toa khác không?
- Thưa không, sau bữa tối, cánh cửa ngăn đôi toa kút sét và những toa khác đã khóa.
- Anh có xuống tàu ở ga Vincovei không Michel ?
- Thưa có. Như thói quen, tôi đã xuống sân ga và đã đứng ở gần bực thẳng lên lầu. Những nhân viên phục vụ khác cũng làm thế.
- Còn cánh cửa phía trước gần toa ăn ?
- Nó luôn luôn khóa bên hông.
- Nhưng hiện giờ nó đâu có khóa.
Michel lộ vẻ ngạc nhiên một lúc. Sau đỏ mặt anh tươi lên.
- Có lẽ một trong những hành khách đã mở ra đề nhìn tuyết.
- Có thể lắm, - Poirot gật gù đáp.
Có vẻ suy tư, Poirot gõ nhẹ xuống bàn.
- Ông trách tôi điều gì ? - Michel hỏi.
- Poirot cười thông cảm và nói :
- Anh không may mắn rồi. À còn một điều tôi vừa nhớ ra. Anh có nói một hành khách khác bấm chuông gọi anh khi anh gõ cửa phòng ông Ratchett. Tôi cũng nghe thấy tiếng chuông. Ai gọi thế ?
- Công chúa Dragomiroff. Bà ta cần cô hầu.
- Và anh đã gọi cô ấy hộ bà ta ?
- Vâng, thưa ông.
Poirot cúi xuống nhìn sơ đồ của toa xe rồi nói:
- Xong rồi, cảm ơn anh.
- Thưa ông, vâng.
- Michel nhìn sang ông Bouc.
- Đừng hoảng sợ Michel ạ, anh đã làm tròn trách nhiệm của mình.
Với vẻ nhẹ nhõm, Pierre Michel rời toa ăn.

Chú thích:
[1]kút sét (couchette): là những toa tàu có chỗ nằm.
 
Chương II: Hỏi cung người thư ký

Poirot có vẻ trầm tư như đang đeo đuổi, một ý nghĩ gì đó.
- Chúng ta nên hỏi lại Mac Queen, - cuối cùng Poirot nói.
- Sao, cuộc điều tra tiến triển đến đâu rồi, - Mac Queen hỏi khi bước vào phòng.
- Không đến nổi tệ lắm. Tôi đã biết danh tánh thật của Ratchett.
Hector Mac Queen cúi nhìn về phía trước.
- Ồ.
- Ratchett, như anh đã nghi ngờ, chỉ là tên giả. Ratchett chính là Cassetti, kẻ chuyên môn bắt cóc trẻ con. Và đã bị kết án trong vụ bắt cóc và giết cô bé Daisy Armstrong.
Mac Queen biểu lộ một sự ngạc nhiên tột độ:
- Tên khốn kiếp ! - Anh thốt lên.
- Anh không mảy may nghĩ ngờ à ?
- Thưa không ! Nếu tôi biết tôi đã tự chặt tay hơn là làm việc cho tên đó.
- Anh có vẻ bị chấn động bởi tên này nhỉ ?
- Tôi cũng có lý do. Bố tôi là biện lý trong vụ án Armstrong. Vì thế tôi có nhiều dịp thấy bà Armstrong ... một người đàn bà đẹp và hiền từ ! Sự đau khổ của bà làm an ủi lòng nhiều người ! Nếu có người nào xứng đáng bị giết thì đúng Ratchett ... Cassetti. Tên khốn kiếp đó không đáng sống.
- Nếu biết, anh có thể giết ông ta không chút áy náy ?
- Vâng.
Mac Queen chợt im và đỏ mặt.
- Hình như tôi đang tự buộc tội mình.
- Tôi có thể nghi ngờ anh, nếu cái chết của Ratchett làm anh buồn khổ nhiều đến thế. - Vừa cười Poirot vừa nói.
- Tôi không thể hối tiếc ông ta được. - Ngừng một lúc Mac Queen tiếp - tôi không tò mò quá nếu hỏi ông làm cách nào tìm ra danh tánh Cassetti.
- Bởi một mảnh của lá thư trong phòng ông ta ,
- Nhưng mà ... à tôi muốn nói, hắn thật lơ đễnh khi để giấy tờ lung tung.
- Điều này còn tùy theo góc độ ta đứng. Bổn phận của tôi là phải biết rõ mọi hành vi của những hành khách trên tàu, nên tôi mong anh đừng giấu điều gì.
Mac Queen vui vẻ nói.
- Ông cứ thi hành phận sự của mình, để tôi còn có dịp biện hộ cho mình chứ ?
- Không cần thiết hỏi số phòng của anh nữa vì tôi đã ngủ với anh một đêm - vừa nói Poirot vừa cười, - Bây giờ thì một mình anh ở phòng 6 và 7 toa hạng nhì phải không ?
- Đúng thế.
- Anh Mac Queen ... anh cho tôi biết anh đã làm gì đêm qua sau khi đã rời toa tàu.
- Đơn giản thôi ! tôi, đã quay về phòng, tôi đọc sách một lúc rồi sau đó xuống ... ga Belgrade. Vì lạnh qúa… nên tôi lại lên tàu và nói chuyện một lúc với người Anh phòng bên … sau đó tôi lại nói chuyện với đại tá Arbuthnot. Hình như lúc tôi nói chuyện với Arbuthnot thì ông đi qua. Sau đó tôi đến phòng Ratchett để ghi chép vài vấn đề (ông ta đọc cho tôi). Tôi về phòng sau khi đã chúc Ratchett ngủ ngon. Đại tá Arbuthnot lúc đó vẫn đứng ở hành lang và vì phòng của ông ta đã được dọn thành gi.ường nên tôi rủ ông ấy về phòng để nói chuyện. Tôi đã gọi bia và chúng tôi tranh luận về đề tài chính trị. Thường thì tôi tránh tiếp xúc với người Anh. Sự lạnh lùng của họ làm tôi bực mình. Nhưng tôi lại thích đại tá Arbuthnot.
- Anh cho tôi biết Arbuthnot đã rời phòng mình lúc mấy giờ ?
- Rất dễ ... khoảng hai giờ sáng.
- Anh có nhận thấy tàu đã ngừng chạy chưa?
- Có. Việc này làm chúng tôi ngạc nhiên. Chúng tôi đã nhìn ra ngoài và trông thấy tuyết dày đặc. Nhưng chúng tôi không ngờ được những hậu quả.
- Chuyện gì đã xảy ra khi đại tá Arbuthnot rời khỏi phòng anh ?
- Ông ta đã về phòng, còn tôi thì gọi nhân viên tàu đến làm gi.ường.
- Anh ở đâu khi nhân viên làm gi.ường ?
- Tôi ra hành lang đứng hút thuốc.
- Rồi sau đó ?
- Sau đó tôi đi ngủ và ngủ đến tận sáng.
- Anh có xuống tàu một lúc nào không ?
- Arbuthnot và tôi đã xuống ở ... tên ga đó là gì ấy nhỉ ? .... À, Vincovei. Chúng tôi xuống cho giãn gân cốt. Nhưng trời lạnh quá nên chúng tôi lên tàu ngay.
- Anh đã xuống tàu bằng cửa nào ?
- Bằng cửa lan can, cửa gần phòng tôi nhất.
- Cảnh cửa gần toa ăn à ?
- Phải.
- Anh nhớ thử xem, cánh cửa đó có khóa bằng khóa an toàn không?
Mac Queen suy nghĩ trước khi trả lời:
- Có, tôi nhớ ra rồi. Một thanh sắt như đòn bẫy đã được kéo xuống. Chắc ông muốn nói đến cái đó phải không ?
- Phải ! Ổng có kéo nó xuống khi lên tàu không?
- Không ! tôi là người cuối cùng lên tàu và tôi nhớ là đã không khóa.
- Trong khi anh và đại tá Arbuthnot nói chuyện trong phòng, cửa hành lang có mở không?
- Có !.
- Anh có thể cho tôi biết ai đi ... ngang qua hành lang từ khi tàu rồi khỏi Vincovei cho đến khi anh và Arbuthnot chia tay nhau không?
Mac Queen khẽ nhíu mày :
- Hình như nhân viên phục vụ có đi ngang qua một lúc. Anh ta đến, từ phía toa ăn và một người đàn bà đã đi theo hành lang về phía ấy.
- Bà ta là ai ?
- Tôi không biết. Tôi không chú ý lắm. Lúc đó cuộc tranh luận của chúng tôi đang sôi nổi. Và tôi chỉ thấy một cái bóng màu đỏ lướt qua cửa thôi.
- Chắc bà ta đi về phía nhà tắm ?
- Có lẽ thế.
- Anh có thấy bà ta trở về không ?
- Rất có thể là bà ấy đã đi ngược trở lại ? nhưng tôi không chú ý đến.
- Còn một câu hỏi nữa. Anh có hút ống điếu không Mac Queen ?
- Không, tôi không hút ống điếu.
Ngừng một lát Poirot nói :
- Tạm xong rồi. Tôi muốn gặp anh hầu phòng của Ratchett. A ! nhân thể, thường anh và anh hầu phòng đi du lịch ở toa kutset hạng nhì à ?
- Anh ta thì vậy nhưng tôi thường đi toa hạng nhất, và nếu được phòng thông qua phòng Ratchett. Ông ta để phần nhiều hành lý của ông ta trong phòng tôi và vào bất cứ lúc nào khi ông ta cần tôi. Lần này tất cả phòng hạng nhất đã có người, trừ phòng RatcheM nên tôi phải ở toa hạng nhì.
- Tôi hiểu, thôi cảm ơn anh, Mac Queen !.
 
Chương 3: Anh hầu phòng

Sau Mac Queen, là người hầu phòng người Anh. Với vẻ mặt lạnh lùng, anh ta đứng, Poirot mời anh ta ngồi.
- Anh là, như người ta nói, hầu phòng cho ông Ratchett?
- Thưa vâng.
- Tên anh là gì?
- Edouard Henry Masterman.
- Anh bao nhiêu tuổi ?
- 39
- Địa chỉ của anh?
- 21, đường Fria, Kriard street, Clerkenwell.
- Anh có biết là chủ anh đã bị giết không?
- Thưa có. Thật khủng khiếp.
- Anh có thể cho tôi biết anh trông thấy ông Ratchett còn sống lần cuối cùng lúc mấy giờ không?
Anh hầu phòng suy nghĩ rồi trả lời.
- Lúc đó khoảng 9 giờ tối.
- Anh hãy kể cho tôi cụ thể hơn.
- Như mọi khi, tôi đã đến phòng ông Ratchett để xem ông ta có cần gì không ?
- Anh phải làm gì ?
- Gấp hay máng quần áo. Để răng giả của ông ấy vào ly nước. Xem ông Ratchett có thiếu gì không ?
- Anh có thấy điều gì không bình thường trong thái độ ông Ratchett không ?
- Hình như ông ấy hơi lo lắng.
- Lo lắng à, về vấn đề gì ?
- Về một lá thư mà ông ta vừa đọc xong. Ông ta hỏi xem có phải tôi vừa mới đem vào phòng không. Khi tôi trả lời không, thì ông ta bắt đầu gắt gỏng và chê trách tất cả những gì tôi làm.
- Ông ta có hành động bình thường không?
- Ổ, thưa ông không. Ông ấy ít khi nổi giận lắm.
- Chỉ có khi nào có một lý do quan trọng lắm ông Ratchetr mới tỏ ra ... khó chịu thôi.
- Ông chủ anh có hay dùng thuốc ngũ không?
Bác sĩ Constantine hơi chồm về phía trước khi Poirot hỏi câu này.
- Ông ta luôn luôn cần đến thuốc ngủ khi đi du lịch, vì ông không thể ngủ được.
- Anh có biết ông Ratchett thường đùng loại thuốc nào không?
- Tôi không rõ vì trên nhãn chai chỉ đề có hang chữ : Thuốc ngủ dùng buổi tối trước khi đi ngủ.
- Hôm qua ông chủ anh có uống không ?
- Thưa có. Tôi đã đổ thuốc vào cái ly để trên bàn.
- Ông ta không uống trước mặt anh à ?
- Thưa không.
- Chuyện gì đã xảy ra sau đó?
- Tôi hỏi xem ông ta còn cần gì nữa không và mấy giờ ngày mai phải gọi ông dậy. Ông Ratchett bảo là đừng quấy rầy ông ta trước khi ông bấm chuông gọi.
- Ông ta có thói quen như thế à?
- Thưa vâng. Thường buổi sáng. Ông bấm chuông để bảo nhân viên tàu hỏa gọi tôi đến khi ông sắp dậy.
- Ông ta, dậy sớm hay trễ ?
- Tùy hứng, ông ta có thể dậy ăn điểm tâm hay chờ đến giờ cơm.
- Anh không ngạc nhiên khi thấy đã muộn mà ông Ratchett không gọi anh à ?
- Thưa ông không.
- Ông Ratchett có kẻ thù không?
- Thưa có, - gã hầu phòng nói một cách bình thản.
- Sao anh biết?
- Tôi nghe ông ta đề cập đến một vài bức thư - với ông Mac Queen.
- Anh có mến ông Ratchett không ? Anh Masterman.
Khuôn mặt gã hầu phòng trở nên lạnh lùng hơn.
- Câu hỏi của ông làm tôi khó trả lời. Ông Ratchett là một ông chủ rất hậu hĩnh.
- Nhưng anh không mến ông ta phải không ?
- Thú thật là tôi không có cảm tình với người Mỹ.
- Anh đã sang Mỹ bao giờ chưa?
- Thưa ông chưa.
- Anh có nhớ là một dạo báo chí đã đăng tin vụ Armstrong không?
Gò má của Masterman ửng hồng.
- Thưa ông có. Có phải đó là vụ bắt cóc một cô bé không?
- Anh có biết là chủ anh đã cầm đầu bọn bắt cóc đó không?
- Thưa không. Có lẽ nào? tôi không thể tin được.
Lần đầu tiên giọng nói của anh hầu phòng run lên vì xúc động.
- Tuy nhiên, đó lại là sự thật. Anh có thể cho tôi biết tối hôm qua anh đã làm gì sau khi rời khỏi phòng ông Ríitchều ? một câu hỏi thông thường thôi.
- Tôi đã báo cho ông Mac Queen rằng ông Ratchett cần ông ta. Sau đó tôi về phòng để đọc sách.
- Anh ở phòng nào ?
- Phòng cuối ở toa hạng nhì, gần toa ăn.
Poirot cúi xuống xem sơ đồ của toa tàu.
- Anh ngủ ở kút sét nào ?
- Kút sét dưới.
- Số 4 phải không ?
- Vâng .
- Còn có ai cùng phòng với anh không ?
- Thưa có, một người Ý.
- Anh ta có nói tiếng Anh không ?
- Một loại tiếng Anh hơi lạ. Masterman nói với giọng hơi khinh miệt. Anh ta đã sống ở Mỹ - Chicago - theo tôi biết.
- Hai người có hay nói chuyện với nhau không?
- Thưa không. Tôi thích đọc sách hơn.
Poirot mĩm cười. Ông có thể tưởng tượng ra cảnh anh người Ý to béo nói nhiều và anh người Anh lầm lì ít nói.
- Tôi có thể được biết anh đọc quyển gì không?
- Hiện nay tôi đọc quyển : Mắc bẫy ái tình của bà Arabella Richardson.
- Một tiểu thuyết hấp dẫn?
- Tôi thấy đó là một quyển đầy thú vị, thưa ông.
- Tốt, chúng ta tiếp tục. Anh quay về phòng và đọc sách, cho đến lúc nào?
- Khoảng 10 giờ 30 thưa ông. Anh người Ý muốn ngủ nên nhân viên đã đến làm gi.ường.
- Vậy là anh đã đi nằm và ngủ ?
- Tôi lên gi.ường nhưng không ngủ.
- Vì sao ?
- Tôi bị đau răng ...
- Đau lắm à ?
- Vâng rất đau thưa ông.
- Anh đã uống gì đề giảm đau.
- Tôi đã lấy một ít nước girof [1]. Tôi đã hơi bớt nhức nhưng vẫn không ngủ được. Vì vậy tôi đã bật đèn đầu gi.ường kút sét. Sau đó tôi lấy lại quyển sách... để cố quên cơn đau răng.
- Anh không ngủ suốt đêm à ?
- Thưa ông có, tôi đã thiếp đi lúc 4 giờ sáng.
- Còn người bạn đồng hành của anh.
- Anh chàng người Ý ấy à ? ồ, vừa nằm xuống là anh ta đã ngáy ngay.
- Anh ta không ra khỏi phòng trong đêm sao ?
- Thưa không.
- Còn anh ?
- Tôi cũng không, thưa ông.
- Anh có nghe thấy gì trong đêm không ?
- Không có gì đáng nói. Con tàu đã ngừng lại, tất cả đều yên tĩnh.
Sau một lúc suy nghĩ, Poirot kết luận:
- Tôi không còn câu nào để hỏi nữa. Anh không còn gì nói thêm về thảm kịch nữa à ?
- Tôi rất tiếc là không, thưa ông.
- Theo anh, giữa chủ anh và ông Mac Queen có xích mích không ?
- Thưa ông không ... ông Mac Queen là một người rất tốt.
- Trước khi làm với ông Ratchett anh đã làm ở đâu ?
- Cho ngài Thomas Tomlinson ở Grovenor Square.
- Tại sao anh lại nghĩ việc ?
- Ngài Thomas đi Phi châu và không cần đến tôi nữa. Nhưng tôi tin là ngài Thomas sẽ cho ông biết về tôi rất kỹ, vì tôi đã làm cho ngài từ nhiều năm nay.
- Anh đã vào làm cho ông Ratchett bao lâu rồi ?
- Hơn 9 tháng, thưa ông.
- Cảm ơn anh. Masterman ạ, anh có biết ống điếu không ?
- Thưa ông không ? Tôi chỉ hút thuốc lá thôi.
- Cảm ơn anh, xong rồi đấy.
Poirot gật đầu chào Masterman - Anh hầu phòng có vẻ chần chừ và nói:
- Xin lỗi ông, bà người Mỹ lớn tuổi gần như ngồi trên lửa. Bà ta muốn biết chuyện gì đã xảy ra đêm qua.
- Nếu thế tôi sẽ gặp bà ta ngay bây giờ. - Poirot mỉm cười nói.
- Ông có muốn tôi mời bà ta đến không ? Từ nãy giờ bà ta cứ kêu inh ỏi đòi gặp người đại diện chính quyền. Nhân viên phục vụ không tài nào trấn an bà ta được.
- Anh hãy mời bà ta đến đây hộ tôi. Tôi sẽ hỏi bà ấy.

Chú thích:
[1] Loại nước làm giảm đau răng
 
Chương IV: Lời chứng của bà Hubbard (người Mỹ)

Bà Hubbard vào toa ăn trong một trạng thái dao động mạnh. Bà ta nói một cách khó khăn :
- Hãy cho tôi biết, ai trong các ông là người đại diện cho chính quyền? tôi có một lời khai rất quan trọng và chỉ nói cho người nào có thẩm quyền thôi. Nếu các ông ... - đến đây bà Hubbard đưa mắt dò xét ba người đàn ông. Poirot nghiêng mình về phía trước và nói :
- Bà hãy kể cho tôi mọi chuyện. Nhưng trước tiên, mời bà ngồi.
Bà Hubbard ngồi sụp xuống cái ghế trước mặt Poirot.
- Tôi muốn nói là, đêm qua trong tàu này đã xảy ra một án mạng và ... tên sát nhân đã trốn trong phòng tôi.
Bà Hubbard ngừng lại, vẻ quan trọng.
- Bà có chắc không, thưa bà ?
- Tôi có chắc không ấy à ? Buồn cười. Tôi biết tôi nói gì chứ ! Tôi sẽ kể cho ông mọi chi tiết. Tôi vừa mới chợp mắt thì bỗng nhiên thức dậy. Trong phòng tối om, nhưng tôi cảm thấy có sự hiện diện của một người đàn ông trong phòng tôi. Sợ đến nghẹn cả cổ họng, tôi nghĩ : Lạy Chúạ, người ta sắp giết tôi mất ! không thể tả hết cho ông sự khiếp sợ của tôi. Trong báo thường nói ra những thảm kịch xảy ra trên những còn tàu. Tôi tự nhủ : “Dù sao đi nữa, ta vẫn còn giữ đồ nữ trang”. Đúng thế, tôi đã dấu chúng trong đôi vớ dài dấu dưới gối, làm như thế cũng không thoải mái lắm nhưng thôi cũng được ... trở lại tên sát nhân ... Tôi kể đến đâu rồi nhỉ ?
- Bà tưởng có một người đàn ông trong phòng.
- A phải rồi. Vậy là tôi nhắm mắt và nghĩ xem tôi sẽ phải làm gì. Tôi tự nhủ : Rất may là con gái mình không biết chuyện gì đang xảy ra cho mình. Chẳng bao lâu tôi lấy lại được bình tĩnh và đưa tay bấm chuông gọi nhân viên toa tàu. Bấm mãi chẳng thấy ai trả lời. Tim tôi gần đứng. Tôi cứ tưởng tượng là bọn cướp đã giết hết mọi người trên tàu. Tôi vẫn cứ tiếp tục bấm chuông. Thật nhẹ nhõm, khi tôi nghe tiếng chân ngoài hành lang. Có tiếng gõ cửa. Tôi hét lên: Vào đi! Và đưa tay bật đèn. Ông tin hay không tùy ý, nhưng không còn ai trong phòng tôi hết.
Bà Hubbard hạ thấp giọng xuống.
- Chuyện gì đã xảy ra sau đó ? - Poirot hỏi.
- Tôi kể lại cho nhân viên phục vụ chuyện vừa xảy ra. Anh ta không chịu tin tôi. Chắc anh ấy tưởng tôi mơ. Tôi bảo anh ta tìm dưới ghế. Anh ta nói rằng một người đàn ông không thể trốn dưới đó được ... lẽ dĩ nhiên là tên sát nhân đã đi rồi. Những câu nói của anh ta làm tôi điên tiết lên. Tôi không phải là loại người đặt chuyện, thưa ông ... mà hình như tôi chưa được biết tên ông.
- Poirot, thưa bà. Tôi xin giới thiệu ông Bouc một giám đốc của công ty và đây là bác sĩ Constantine.
- Rất hân hạnh được biết các ngài, - bà Hubbard trả lời một cách lơ đễnh.
Rồi bà lại kể tiếp :
- Tôi phải thú nhận là tôi đã lầm. Tôi cứ đinh ninh là người đàn ông phòng bên trốn trong phòng... tội nghiệp ông ấy bị giết. Tôi yêu cầu nhân viên tàu xem lại cửa thông qua phòng bên. Lẽ dĩ nhiên nó không khóa. Anh ta đã khóa lại và khi anh ấy đã đi rồi. Tôi đã kê thêm một vali chặn cửa.
- Lúc đó. Mấy giờ thưa bà?
- Tôi không rõ, tôi quá xúc động nên không để ý đến chuyện đó.
- Bây giờ thì ý kiến của bà như thế nào ?
- Người đàn ông trốn trong phòng tôi là tên sát nhân, điều đó quá rõ rồi.
- Vậy là bà nghĩ rằng hắn đã qua phòng bên?
- Làm sao tôi biết được. Tôi đã nhắm mắt vì quá sợ.
- Hay là hắn đi ra ngoài hành lang?
- Tôi chẳng biết. Tôi đã nói là tôi nhắm mắt mà .
Bà Hubbard thờ dài não nuột :
- Chúa ơi, tôi sợ thật. Nếu con gái tôi mà biết.
- Thưa bà, bà có nghĩ rằng, tiếng động mà bà nghe thấy, ở phòng bên không ? ... phòng của nạn nhân.
- Không, không ông ... ông Poirot ạ. Hắn ta ở trong phòng tôi ... và tôi đã đem bằng chứng đến đây cho ông .
Một cách đắc ý, bà Hubbard giơ túi sách lên và mở ra.- Bà lần lượt kéo ra 2 khăn tay lớn sạch ... một cặp kính gọng đồi mồi, một ống aspirin, một hủ muối tiêuhóa, một hộp đựng kẹo, một xâu chìa khóa, hình của một đứa bé mặt không có gì xuất sắc, một sổ ngân phiếu, một vài bức thư, năm xâu chuỗi hạt trai giả và cuối cùng một vật nhỏ bằng kim loại ... một cái khuy .
- Ông có thấy cái khuy này không ? nó đâu phải của tôi. Tôi đã nhặt được sáng nay khi thức dậy.
Khi bà Hubbard đặt cái khuy xuống bàn, ông Bouc cúi xuống và kêu lên :
- Cái khuy này là trên áo đồng phục của nhân viên toa kútsét !.
- Chúng ta có thể tìm ra một giải thích thỏa đáng, - Poirot nói. Quay sang bà Hubbard ông tiếp :
- Thưa bà cái khuy này có thể bị rơi ra từ áo đồng phục của nhân viên phục vụ khi anh ta xem xét phòng bà, hay khi anh ta làm gi.ường tối qua.
- Không, ông hãy nghe tôi. Tối qua trước khi đi ngủ, tôi đã đặt tạp chí lên một cái thùng gỗ gần cửa. Vậy mà sáng nay khi thức dậy, tôi trông thấy cái khuy này trên tờ tạp chí. Tôi muốn biết ý kiến ông về việc trên.
- Thưa bà, tôi gọi cái khuy này là một bằng chứng buộc tội.
Câu trả lời có phần nào trấn an được bà Hubbard.
- Tôi không thể chấp nhận người ta nghi ngờ lời nói của tôi.
- Bà vừa cho chúng tôi biết một lời khai rất lý thú, - Poirot nói. - tôi có thể hỏi bà một vài câu nữa không ?
- Tôi nghe đây.
- Làm sao bà giải thích được rằng bà không nghĩ đến việc khóa then cài cửa thông qua phòng ông Ratchett, trong khi chính bà thú nhận là sợ ông ta ?
- Tôi đã khóa rồi mà. - Bà Hubbard trả lời.
- Ồ ? thế à ?
- Phải, đúng ra là như thế này : tôi đã nhờ bà người Thụy Điển - một người rất tử tế - xem bộ cài.
- Cửa đã khóa chưa ? Bà đã bảo là khóa kỹ rồi.
- Sao bà không tự đi xem ?
- Không, tôi đã lên gi.ường và cái túi xách của tôi treo ở cửa.
- Bà đã nhờ bà ta lúc mấy giờ?
- Xem nào ... giữa 10 giờ rưỡi và 11 giờ kém 15. Bà ta vào hỏi xem tôi có aspirin không? Tôi đã bảo bà ta lấy ống thuốc trong vali.
- Lúc đó bà đã đi nằm ?
- Vâng.
Bỗng nhiên bà Hubbard phá lên cười.
- Tội nghiệp ! Bà ấy hoảng hốt. Ông thử nghĩ xem, bà ta đã mở nhầm phòng bên cạnh.
- Phòng ông Ratchett à ?
- Phải. Ông phải đồng ý với tôi rằng khi tất cả các cửa đều đóng thì rất dễ nhầm phòng. Hình như ông Ratchett rất bất bình và đã nói những câu không được lịch sự lắm ! Bà ấy rất áy náy về sự nhầm lẫn này, và nói: tôi đã nhầm và thật xấu hổ .
- Sau đó bà có nghe thấy tiếng động bên phòng ông Ratchett không? - Poirot hỏi.
- Cũng không hẳn là tiếng động.
- Bà muốn nói gì?
- Có nghĩa là ông ấy ngáy.
- A, ông ấy ... ngáy.
- Kinh khủng, ông ấy đã làm tôi thức gần suốt đêm trước.
- Sau đó, ông Ratchett không còn ngáy sau khi có người lạ mặt qua phòng bà nữa à?
- Ô, ông Poirot, ông không hiểu à, lúc đó Raicheti đã chết rồi.
- Ơ thật nhỉ! - Poirot đáp. - À bà Hubbard này, bà có nhớ vụ Armstrong không?
- Lẽ dĩ nhiên, và lên khốn kiếp vẫn còn tự do. Thằng đó, nếu mà tôi tóm được thì .
- Bà biết không, hắn đã chết ... đêm qua.
- Sao? có ch.uyện ấy nữa à?
Trong cơn xúc động, bà Hubbard nhốm lên khỏi ghế.
- Phải. Ratchett chính là tên đầu đảng ấy.
- Ai mà ngờ được? tôi phải viết thư cho con gái tôi mới được. Tôi đã chẳng nói với ông, hôm qua, là tôi, sợ hắn à ? Thật tôi có lý do chính đáng để đề phòng .
- Bà có biết gia đình Armstrong không ? thưa bà.
- Không. Gia đình Armstrong chỉ giao thiệp với lại một nhóm bạn giới hạn thôi. Nhưng theo mọi người, bà Armstrong là người rất dễ thương, được chồng yêu mến.
- Bà Hubbard, lời khai của bà có giá trị rất lớn đối với chúng tôi. Bây giờ xin bà cho biết tên, họ của bà.
- Rất sẵn sàng : Caroline Martha Hubbard.
- Mời bà viết địa chỉ của bà vào đây.
Không ngừng nói, bà Hubbard làm theo lời Poirot.
- Thật tôi không thể ngờ Cassetti trên con tàu này ! Mặt của tên này thật kinh khủng ông Potroi nhỉ ?
- Vâng thưa bà. A, bà có áo khoác ngoài màu đỏ không ?
- Câu hỏi lạ lùng, không, tôi không có tôi đã đem theo hai cái áo khoác ngoài : Một cái màu hồng hồng bằng len ấm dùng khi đi tàu thủy, và một cái khác màu tím, quà của con gái tôi. Nhưng tại sao ông lại hỏi tôi việc ấy ?
- Chuyện như thế này, thưa bà, một ngoài mặt áo khoác ngoài bằng soa đỏ đêm qua đã vào phòng bà hay phòng Ratchett. Như khi nãy bà nói ... khi tất cả các cửa đều đóng, người ta dễ mở nhầm phòng.
- Chẳng có người nào mặt áo choàng đỏ vào phòng chúng tôi cả.
- Nên thế. Chắc vào phòng ông Ratchett.
Bà Hubbard bĩu môi. Poirot nói :
- Bà có nghe giọng một người đàn bà bên kia vách không ?
- Làm sao ông đoán được vậy ? Thôi nếu ông muốn biết thì ... vâng, tôi đã nghe giọng nói đàn bà.
- Vậy mà khi nãy, khi tôi hỏi bà về chuyện này ... bà chỉ nói đến tiếng ngáy của ông Ratchett
- Sự thật đấy. Ông Ratchett đã ngáy gần suốt đêm.
- Nhưng có người đàn bà đã nói mà. Lúc đó mấy giờ ?
- Tôi không biết rõ. Nhưng tôi đã thức dậy một lúc nào đó và nghe thấy tiếng đàn bà đang nói chuyện ở phòng bên.
- Lúc đó là trước hay sau khi bà nhìn thấy có kẻ lạ mặt lẻn vào phòng .
- Cũng như khi nãy tôi đã trả lời ông : làm sao Ratchett có thể nói chuyện khi hắn đã chết ?
- Ồ, xin lỗi bà. Chắc bà thấy tôi hơi ngu phải không thưa bà ?
- Tôi nghĩ là ông cảm thấy thích thú khi làm rối những sự việc. Con gái tôi sẽ nghĩ gì về chuyện này đây?
Sau khi Poirot đã xếp mọi thứ mà bà Hubbard bày trên bàn vào xắc tay, ông tiễn bà ra cửa. Ông nói khi bà sắp bước ra:
- Thưa bà, bà đã làm rơi khăn tay.
- Bà Hubbard nhìn mảnh vải mà Poirot đưa ra. :
- Đâu phải của tôi ông Poirot. Của tôi đây.
- Ồ, xin lỗi. Tôi tưởng ... vì có chữ “H” thêu ở góc khăn.
- Một sự trùng hợp kỳ lạ. Nhưng những khăn tay của tôi đều thêu C-M-H. Và so với cái khăn mà ông vừa đưa cho tôi thì những cái khăn của tôi tiện hơn. Cái mẫu vải bé tí này dùng làm gì?
Cả ba người đàn ông đều không tìm ra câu trả lời. Bà Hubbard đi ra khỏi phòng.
 
Chương V: Lời khai của bà " Thụy Điển "

Ông Bouc cầm trong tay cái khuy mà bà Hubbard đã bỏ lại.
- Tôi chẳng hiểu gì cả, - ông Bouc nói. - Không lẽ Pierre Michel lại đính líu đến vụ này à? ông nghĩ sao ông Poirot.
- Khuy áo đây có thể nói lên điều đó. Bây giờ ta hãy nghe lời khai của bà Thụy Điển. Sau đó chúng ta hãy bàn đến lời khai của bà Hubbard.
Poirot tìm trong những thông hành.
- Đây : Greta Ohlsson, 49 tuổi.
- Ông Bouc nhờ người hầu trưởng gọi hộ. Và chẳng bao lâu Greta Ohlsson bước vào. Cô ta nheo cặp mắt cận thị nhìn Poirot. Nhưng cô ta có vẻ rất bình tĩnh. - Vì cô ta hiểu và nói tiếng Pháp nên họ nói chuyện bằng tiếng Pháp. Poirot đặt những câu hỏi mà ông đã
biết câu trả lời : tên, tuổi, địa chỉ. Sau đó Poirot hỏi đến nghề nghiệp cô Greta.
- Cô Greta làm ở bệnh viện gần Stamboul. Cô ta có bằng y tá.
- Chắc cô dã biết thảm kịch xảy ra hôm qua?
- Thưa vâng, thật khủng khiếp ... bà Hubbard nói là kẻ sát nhân đã trốn trong phòng bà ấy trước khi phạm pháp.
- Hình như cô là người cuối cùng trông thấy nạn nhân còn sống.
- Có thể lắm. Tôi đã mở nhầm cửa phòng. Lẽ dĩ nhiên là tôi rất xấu hổ.
- Cô có trông thấy ông ta không?
- Có. Ông ta đang đọc sách. Sau khi xin lỗi tôi đã đóng cửa lại.
- Ông ta có nói gì với cô không?
Mặt cô Greta đỏ lên.
- Ông ta cười lên và nói tục ... tôi không hiểu rõ nghĩa lắm.
Poirot nói sang chuyện khác.
- Sau đó cô làm gì ?
- Tôi vào phòng bà Hubbard để xin bà ấy aspirin.
- Bà ấy có nhờ cô xem hộ cửa giữa phòng bà ấy và ông Ratchett có khóa không?
- Có.
- Cửa có khóa không ?
- Có, thưa ông.
- Sau đó ?
- Sau đó tôi về phòng tôi. uống thuốc và lên nằm ở kút sét.
- Lúc đó mấy giờ ?
- Khi tôi leo lên gi.ường là 11 giờ kém 5. Tôi đã nhìn đồng hồ trước khi lên giây.
- Cô có ngủ ngay không?
- Không, cơn nhức đầu của tôi đã bớt, nhưng tôi chưa ngủ.
- Khi cô ngủ, tàu đã ngừng chạy chưa?
- Hình như chưa. Khi tôi thiu thiu thì tàu bắt đầu rời ga nào đó.
- Có thể là ga Vincovei.
Đẩy bức sơ đồ toa đến trước mặt cô Greta, - Poirot chỉ vào mỗi khung và hỏi.
- Phòng của cô đây phải không ?
- Thưa phải.
- Kút sét dưới hay trên ?
- Kút sét dưới, số 10
- Ai ngủ kutset trên ?
- Một cô gái người Anh rất dễ thương đến từ Bagdad.
- Sau khi tàu rời khỏi ga Vincovei. Cô gái người Anh có ra khỏi phòng không ?
- Không. Tôi chắc chắn điều đó .
- Làm thế nào cô chắc chắn được. Cô đã ngủ rồi mà ?
- Tôi ít ngủ say nên dễ bị thức dậy bởi bất cứ tiếng động nào. Nếu cô ta bước xuống kutset tôi đã thức giấc.
- Còn cô, cô có ra khỏi phỏng không ?
- Không, cho đến sáng nay.
- Cô có áo khoác ngoài bằng soa đỏ không ?
- Thưa không.
- Còn cô người Anh ngủ chung phòng, cô Debenham áo khoác cô ấy màu gì ?
- Một loại kimônô (áo khoác ngoài đồ ngũ của người Nhật) màu hoa cà.
Poirot hỏi cô Grate ... bằng một giọng thông cảm.
- Tại sao cô lại đi du lịch? cô nghĩ hè à?
- Phải, tôi định nghĩ hè ở Thụy Điển … nhưng tôi phải ở một tuần với chị tôi ở Lousanne.
- Cô làm ơn viết tên và địa chỉ của chị cô vào đây.
- Rất vui lòng.
- Cô Greta cầm tờ giấy, bút chì và viết.
- Cô có biết nước Mỹ không cô Greta?
- Không.
- Cô có nhớ vụ Armstrong không?
- Không. Chuyện như thế nào?
Poirot kể lại vụ bắt cóc và cái chết của đứa bé Armstrong. Greta Ohlsson rất phẫn nộ, cái búi tóc rung lên:
- Sự hiện hiện của những con quái vật như thể không thể chấp nhận được. Tội nghiệp cho bà mẹ ! Tim tôi run lên khi nghĩ đến sự đau khổ của bà ta.
Cô Greta Ohlsson ra khỏi phòng, mặt đỏ, mắt rướm lệ.
Poirot bắt đầu viết lên giấy.
- Ông viết gì thế ? - ông Bouc hỏi.
- Tôi đang kê khai những sự việc theo thứ tự.
Viết xong, Poirot đưa tờ giấy cho ông Bouc.
- 9gl5 : Tàu rời ga Belgrade khoảng 9g 40 : Anh hầu phòng (Masterman) ra khỏi phòng Ratchett, sau khi đã pha thuốc ngủ.
- 10g : Mac Queen rời khỏi phòng Ratchett .
- 10g10 Greta Ohlsson nhìn thấy Ratchett (lần cuối cùng được trông thấy ông ta còn sống). Ratchett còn thức và đang đọc sách trong gi.ường.
12gl0 : Con tàn rời ga Vincovei (trễ).
12g30: Tàu bị kẹt vì tuyết.
12g37 : Chuông ở phòng Ratchett reo. Nhân viên phục vụ chạy đến. Ratchett trả lời : “không có chuyện gì, tôi nhầm”.
Khoảng 1g17 : Bà Hubbard tưởng có một người đàn ông trong phòng, bấm chuông gọi nhân viên.
Ông Bouc gật đầu tán thành :
- Tất cả đều đã được ghi lại rõ ràng.
- Không có điều gì làm ông thắc mắc à?
- Tôi thấy bảng này rõ ràng và hình như chúng ta có thể kết luận là vụ án xảy ra lúc 1g15. Đồng hồ của nạn nhân đã ngừng vào giờ đó và lời khai của bà Hubbard cũng chứng tỏ điều đó. Tôi đoán chắc kẻ sát nhân là gã người Ý to lớn vừa từ Mỹ trở về ... từ Chicago ... ông hãy nhớ là người Ý thường sử dụng dao và chỉ đâm một lần.
- Thật vậy.
- Không còn nghi ngờ gì nữa. Đây là đáp số của bài toán. Tên người Ý và Cassetti cùng một bọn với nhau. Cassetti đã phản lại đồng bọn. Gã người Ý đã tìm ra tông tích Cassetti và đã gởi thư hăm dọa. Sau đó hắn đã trả thù. Nội vụ thật đơn giản.
Poirot gật gù.
- Tôi nghĩ rằng vụ án không đơn giản như thế.
- Theo tôi thì chắc chắn những điều tôi vừa nói là đúng, - ông Bouc nói.
- Ông hãy nhớ là gã người Ý ở cùng phòng với người hầu phòng của Ratchett. Masterman (gã hầu phòng) đã thức khuya vì bị đau răng. Và Masterman đã thề là gã người Ý không hề rời khỏi phòng.
- Đó là chỗ khó đấy.
Poirot nheo mắt.
- Nói một cách khác, cơn đau răng của gã hầu phòng đã làm cho lý luận của ông không vững và làm cho anh chàng người Ý của chúng ta vô tội.
- Tất cả rồi sẽ sáng tỏ thôi. - ông Bouc nói giọng bao dung.
Poirot lại lắc đầu và nói:
- Tôi không tin là vụ án này đơn giản đâu.
 
Chương VI: Lời khai của công chúa Dragomiroff

Hãy xem anh tài xế Pierre Michel trả lời như thế nào về cái khuy này.
Pierre Michel được gọi lại, anh tạ nhìn ba người với vẽ ngạc nhiên.
Ông Bouc hắng giọng :
- Michel, - ông nói, - cái khuy áo của anh đã được tìm thấy phòng của bà khách người Mỹ. Anh có thể cho chúng tôi biết lý do không?
Michel đưa tay sờ áo và nói :
- Thưa ông, tôi có bị mất cái khuy nào đâu ? Chắc có sự nhầm lẫn.
- Thật ạ.
- Tôi cũng chẳng hiểu gì, thưa ông.
Michel có vẻ ngạc nhiên, nhưng không hề lộ vẻ lo lắng .
- Dựa vào những dữ kiện, - ông Bouc nói, - chúng ta có thể xác định được mà không sợ lầm, rằng cái khuy áo này đã rơi từ áo của kẻ lạ mặt vào phòng bà Hubbard đêm qua.
- Nhưng thưa ông, đâu có ai trong phòng bà ta. Hoàn toàn do trí tưởng tượng thôi.
- Không ... Michel. Kẻ giết ông Ratchett đã qua đó và làm rơi cái khuy.
Lúc bấy giờ Michel mới chợt hiểu ra việc cái khuy bị rơi, anh la kêu lên :
- Láo, hòan toàn láo thưa ông ! ông buộc tội à ? tôi vô tội ! Tại sao tôi phải giết ông ta. Một người mà tôi không hề quen biết.
- Anh ở đâu khi bà Hubbard nhấn chuông ?
- Tôi nhắc lại lần nữa là lúc ấy tôi ở toà tàu kia, đang nói chuyện với anh bạn đồng nghiệp.
- Chúng tôi sẽ cho gọi anh ta đến.
- Vâng thưa ông, ông hãy cho gọi anh ta đến đi.
Nhân viên toa tàu thứ hai được mời đến. Anh ta xác nhận lời khai của Michel, và nói rằng lúc đó còn có cả nhân viên của toa tàu Bucarest. Cả ba người nói chuyện về tàu bị kẹt. Họ đang nói chuyện độ 10 phút thì Michel nghe tiếng chuông gọi. Khi anh ta mở cánh cửa ăn thông từ toa này sang toa kia thì cả ba người đều nghe tiếng chuông rất rõ. Michel đã mau chóng trở về .
- Như thế ông đã rõ rằng tôi không phải thủ phạm chưa thưa ông ! - Michel. Nói gần như hét.
- Vậy thì làm thế nào giải thích được trong phòng bà Hubbard lại có cái khuy này?
- Tôi chịu thôi, thưa ông. Đối với tôi đó là một điều bí ẩn. Áo tôi chẳng thiếu cái khuy nào.
Cả hai nhân viên kia đều nói như Michel và nói thêm là họ không hề vào phòng bà Hubbard.
- Anh bình tĩnh lại đi Michel, - ông Bouc nói. - Hãy trả lời thêm một câu hỏi nữa : Khi anh đến phòng bà Hubbard anh có gặp ai ở hành lang không ?
- Thưa không.
- Lạ thật.
- Cũng không lạ lắm đâu, - Poirot nói. - Đây chỉ là vấn đề thời gian, nói đúng ra là phút. Bà Hubbard thức giấc và nhận thấy có kẻ lạ mặt trong phòng. Trong một phút hay ba?, vì quá sợ hãi, bà ta nhắm tịt mắt lại. Người đàn ông lạ mặt chuồn ra hành lang. Bà Hubbard bấm chuông gọi nhân viên. Nhưng anh ta chỉ đến ở tiếng thứ ba hoặc thứ tư thôi. Theo tôi, chừng ấy phút là đủ rồi.
- Để làm gì ? Để là gì cơ chứ ? Chúng ta đừng quên là có hàng đống tuyết bên cạnh tàu.
- Chỉ còn có một lối thoát cho tên sát nhân của chúng ta : trốn trong phòng vệ sinh hoặc trong một phòng của toa tàu.
- Nhưng thất cả các phòng đều có người.
- Đúng thế.
- Ông muốn nói lç tên sát nhân chỉ việc trở về phòng mình.
- Đúng thế.
- Có thể lắm, - Poirot nói – Trong mười phút Michel vắng mặt, kẻ sát nhân rời phòng, vào phòng Ratchett, giết ông ta, cài cửA, để dây xích an toàn phía trong, đi qua phòng bà Hubbard rồi sau đó trở về phòng mình một cách an toàn trước khi Michel xuất hiện.
- Đối với tôi, sự việc không xảy ra một cách đơn giản như thế. Ông bác sĩ đây sẽ nói cho ông biết những điều ông nghĩ.
Ông Bouc cho ba nhân viên ra ngoài, rồi nói :
- Chúng ta chỉ còn tám hành khách để hỏi nữa thôi Ông Poirot ạ. Năm người ở toa hạng một : Công chúa Dragomiroff, vợ chồng công tước Andrenyi, đại tá Arbuhnot và ông Hardman. Ba hành khách ở toa hạng nhì : Cô Debenham, Antonio Foscarelli và cô hầu phòng, cô Schmidt.
- Ông muốn hỏi ai trước ?
- Ông vẫn đeo đuổi ý định của mình. Không, chúng ta hãy mời công chúa Dragomiroff . Michel, anh hãy làm ơn mời bà ta đến d0a6y giúp chúng tôi.
- Thưa vâng.
- Hãy nói với bà ta nếu phiền thì chúng tôi sẽ đến phòng bà ấy, - ông Bouc nói.
Công chúa Dragomiroff chịu khó đến toa tàu ăn và sau khi khẽ gật đầu chào, bà ngồi xuống trước. Bà Dragomiroff quả thật là xấu, nhưng bà ta có cặp mắt tuyệt vời, sâu thẳm nhưng rất sáng như hai viên kim cương. Cặp mắt chứng tỏ đó là một người đầy nghị lực và một sự thông minh hơn người.
Bằng một giọng ấm và lịch sự, công chúa Dragomiroff ngăn chặn ngay những lời xin lỗi khách sáo của ông Bouc.
- Các ông khỏi phải xin lỗi. Một vụ án đã xảy ra trên tàu, ông phải hỏi cung tất cả hành khách là chuyện bình thường. Về phần tôi, tôi rất vui lòng cho ông biết mọi chi tiết có thể làm sáng tỏ nội vụ.
- Rất mong bà thông cảm, thưa bà.
- Không, tôi chỉ làm tròn trách nhiệm của tôi thôi. Nào, ông muốn biết gì ?
- Trước hết, tên, địa chỉ của bà. Hay bà thích viết trên giấy hơn.
Nói rồi, Poirot đưa tờ giấy và cây bút chì cho công chúa Dragomiroff, nhưng bà từ chối.
- Ông hãy ghi đi, Chẳng khó đâu : Natalia Dragomiroff, số 17 đường Kléber, Paris.
- Bà từ Constantinople đến?
- Phải, tôi đã xuống sứ quán Áo cùng với cô hầu phòng của tôi.
- Bà vui lòng cho tôi biết sơ qua, bà đã làm gì lối qua, sau bữa ăn tối?
- Sẵn sàng, sau khi bảo nhân viên dọn gi.ường trong khi tôi còn ở toa ăn. Sau bữa ăn tôi đã đi nằm và đọc sách đến 11g. Tôi tắt đèn, nhưng cơn tê thấp làm tôi mất ngủ. Khoảng 1g kém 15, tôi cho gọi cô hầu phòng. Cô ta xoa bóp cho tôi, đọc sách đến khi tôi buồn ngủ. Tôi không thể nói rõ lúc nào cô ấy ra khỏi phòng. Có thể lúc đó là 1g30 hay trễ hơn.
- Con tàu lúc ấy đã ngừng lại.
- Phải.
- Bà không nghe thấy gì à ?
- Không.
- Tên cô hầu phòng của bà là gì ?
- Hildegarde Schmidt.
- Cô ta đã ở với bà bao lâu rồi ?
- 15 năm.
- Cô ta là người thật thà chứ ?
- Hoàn toàn thật thà. Gia đình cô ta ở Đức cùng vói ông chồng quá cố của tôi.
- Hình như bà đã qua Mỹ, thưa bà.
Sự thay đổi đêé tài làm công chúa Dragomiroff nhíu mày.
- Phải nhiều lần.
- Trong khi bà qua đó, bà có quen với gia đình Armstrong không ? Một gia đình đã bị nạn.
- Ông đang nói đến những người bạn thân của tôi. Bà Dragomiroff nói giọng run lên vì xúc động.
- Như thế bà quen đại tá Armatrong ?
- Ông ta thì ít, nhưng vợ ông ta, Sonia Armstrong là con gái đỡ đầu của tôi. Tôi là bạn thân của mẹ cô ta, nữ diễn viên Linda Arden, một kịch sĩ nổi tiếng. Không ai có thể sánh được với bà ta trong vai Macheth (1)
- Bà ta chết rồi à ?
- Chưa, bà ta vẫn còn sống, nhưng hoàn toàn cô đơn. Vì sức khỏe nên suốt ngày bà phải nằm ở ghế dài.
- Hình như bà ấy có một đứa con gái khác ?
- Phải, trẻ hơn bà Armstrong.
- Cô ta còn sống?
- Dĩ nhiên.
- Cô ta ở đâu?
Công chúa Dragomiroff chăm chú nhìn Poirot.
- Tại sao ông lại hỏi tôi về những điều này. Nó có lien hệ gì đến câu chuyện của chúng ta, đến vụ án trên tàu này?
- Thưa bà có chứ … người đàn ông bị giết tối qua là tên bắt cóc và tên giết con của bà Armstrong.
- Ối!
Đôi lông mày của bà Dragomiroff chau mày lại, bà ta nhỏm dậy.
- Theo tôi, vụ án này quả là ý muốn của thượng đế! Ông hãy thứ lỗi cho sự thành thật của tôi.
- Tôi thong cảm với bç. Nhưng chúng ta hãy trở lại với vần đề của chu&ng ta. Bà chưa trả lời tôi; cô con gái thứ hai của bà Linda Arden, em gái bà Armstrong hiện ở đâu?
- Tôi không hề biết. Tôi hoàn toàn không lien hệ với giới trẻ. Hình như cô ấy đã lấy một người Anh và sang lập nghiệp ở Anh quốc. Tôi không nhớ cả tên cô ta nữa.
Nhừng một lúc; bà Dragomiroff tiếp:
- Các ông có còn cần hỏi thêm gì nữa không?
- Còn một câu nữa thưa bà … một câu hỏi hoàn toàn cá nhân: áo choàng ngoài của bà màu gì?
Một thoáng ngạc nhiên, bà Dragomiroff trả lời:
- Chắc ông phải có lý do để hỏi câu đó. Áo choàng của tôi bằng satanh, xanh da trời.
- Như thế là xong. Xin cảm ơn bà đã vui long trả lời những câu hỏi của chúng tôi.
Công chúa khoát bàn tay đeo đầy nhẫn, đứng lên. Ba người đàn bà cùng đứng lên.
Trước khi rời khỏi phòng, công chúa Dragomiroff quay lại nói với Poirot/
- Xin lỗi ông, ông cho phép tôi được biết quý danh? Nhìn mặt ông quen quen.
- Hercule Poirot, thưa bà.
Ngừng một lúc bà nói :
- Hercule Poirot. Tôi nhớ ra rồi. Đúng là bàn tay định mệnh.
Nói xong, công chúa Dragomiroff ra khỏi phòng.
- Ông nghĩ sao ? – ông Bouc hỏi.
Vẻ mặt đăm chiêu, Poirot trả lời :
- Tôi tự hỏi, bàn tay định mệnh mà bà ta nói mang ý nghĩa gì ?

Chú thích:
[1] Tên một vở kịch nổi tiếng của Shakespeare
 
Chương VII: Cuộc hỏi cung vợ chồng Quận chúa Andrenyi được mời


Vợ chồng Quận công Andrenyi được mời đến nhưng chỉ có Andrenyi đến một mình, không có vợ.
Đó là một người đàn ông đẹp trai, vai rộng, người cao khoảng 1m80. Ông mặc một bộ đồ may cắt rất sắc sảo.
- Tôi có thể giúp gì được ông?
- Chắc ông hiểu, - Poirot nói, sau biến cố đêm qua, bổn phận của tôi là phải nói chuyện với tất cả những hành khách trên tàu.
- Dĩ nhiên rồi. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi và vợ tôi cũng không giúp gì nhiều cho các ông vì chúng tôi ngủ suốt đêm qua.
- Ông có biết danh tánh của nạn nhân không:
- Hình như đó là một người đàn ông người Mỹ ...một người có gương mặt không gây thiện cảm, ngồi ở bàn ăn kia lúc ăn trưa phải không ạ?
Vừa nói, Quận công Andrenyi vừa hất đầu về phía bàn Ratchett và Mac Queen đã ngồi tối qua.
- Phải chính ông ta đấy. Tôi muốn biết xem Quận công có biết tên ông ta không?
- Hoàn toàn không. Nếu ông muốn biết rõ họ tên ông hãy xem thông hành của ông ấy.
- Tên trên thông hành chỉ là tên giả. Thật ra tên nạn nhân là Cassetti, kẻ đã bất cóc trẻ con ở Mỹ.
Vừa nói, Poirot vừa quan sát nét mặt của Andrenyi. Nhưng ông ta hoàn toàn thờ ơ và nói rất tự nhiên:
- Đây là một điều giúp ích cho cuộc điều tra đấy! Nước Mỹ thật bí hiểm.
- Chắc ông đã sang đấy rồi.
- Tôi đã sống một năm ở Washington.
- Chắc ông biết gia đình Armstrong.
- Armstrong ... Armstrong ... Tôi không còn nhớ nữa. Tôi gặp biết bao nhiêu người! Quay lại vấn đề, ông cần biết gì?
- Tối qua ông đã về phòng lúc nào?
Hercule Poirot liếc mắt nhìn tấm sơ đồ để trước mặt. Vợ chồng Quận công Andrenyi ở 2 phòng.
- Một phòng đã dọn trước trong khi chúng tôi dùng bữa tối tại toa ăn. Chúng tôi đã trở lại phòng chưa được sửa soạn để nói chuyện một lúc ...
- Phòng nào?
- Phòng số 13. Chúng tôi đã chơi bài. Khoảng 11 giờ, vợ tôi đi ngủ. Nhân viên đã làm gi.ường cho tôi và tôi cũng đi ngủ cho đến sáng.
- Ông có nhận thấy tàu đã ngừng chạy không?
- Không, mãi cho đến sáng tôi mới biết.
- Còn bà nhà?
Quận công Andrenyi mỉm cưới:
- Vợ tôi không bao giờ đi ngủ trên tàu mà không uống thuốc ngủ. Tối qua cô ấy cũng đã uống để ngủ. Tôi xin lỗi là không cho ông biết chi tiếc gì đặc sắc hơn.
Poirot đưa cho Quận công một tờ giấy và cây bút mực:
- Đây chỉ là một thủ tục bình thường, thưa Quận công. Xin ông vui lòng ghi tên vào đây và địa chỉ.
- Có lẽ tôi nên viết thì hơn vì tên và chỗ tôi ở khó viết đối với những người không thành thạo tiếng nước tôi.
Viết xong Andrenyi trao lại tờ giấy cho Poirot và đứng dậy.
- Chắc vợ tôi cũng không cần thiết phải đến đây vì cô ấy cũng chỉ khai như tôi thôi.
Mắt Poirot chợt lóe sáng.
- Có lẽ thế, tuy nhiên tôi vẫn thích gặp bà nhà.
- Tôi đã nói với ông là vô ích mà, giọng Quận công bỗng trở nên bực dọc.
- Ồ, chỉ là một thủ tục bình thường thôi. Tôi cần làm một bản tường trình đầy đủ về cuộc điều tra.
- Thôi cũng được.
Andrenyi lộ miễn cưỡng. Ông ta ra khỏi phòng.
Poirot cầm lấy tấm thông hành, nó có ghi rõ tên và chức vụ của Andrenyi, ngoài ra còn thêm: có vợ theo, tên Elene Maria, tên con gái (khi chưa lập gia đình): Goldenberg. Một nhân viên bất cẩn đã làm dây một vết mờ trên tấm thông hành.
- Coi chừng đấy, - ông Bouc nói, đây là thông hành ngoại giao. Ông hãy dè đặt. Họ không thể dính líu đến một vụ án mạng.
- Ông cứ yên tâm, tôi sẽ rất tế nhị.
Bà Andrenyi xinh đẹp bước vào toa ăn.
- Các ông muốn gặp tôi ? – Bà ta hỏi giọng rụt rè.
- Thưa bà Quận công, đây chỉ là một thủ tục bình thường, mong bà thông cảm.
Poirot đứng dậy, khẽ cúi mình và chỉ cho bà Ardrenyi cái ghế trước mặt.
- Tôi muốn biết tối qua bà có trông thấy hoặc nghe một cái gì có thể làm sáng tỏ cho vụ án không ?
- Không thấy, và nghe bất cứ một cái gì thưa ông.
- Phải, tôi hiểu. Tôi sẽ không giữ bà lâu nữa.
Bà Andrenyi vội vã đứng dậy.
- Một phút nữa thôi bà. Những chi tiết trên giấy thông hành của bà có đúng không ? Tên bà khi chưa lấy ông nhà, tuổi …
- Rất đúng thưa ông.
- - Bà làm ơn ký tờ xác nhận này.
Bà Andrenyi ký bằng nét chữ hơi xiên xiên Elena Andernyi.
- Bà có đi cùng với ông nhà sang Mỹ không ?
- Thưa không. (bà Andrenyi đỏ mặt mỉm cười).
Lúc đó chúng tôi chưa lấy nhau. Chúng tôi mới thành hôn từ một năm nay thôi.
- Xin thành thật cảm ơn bà. À, nhân thể, ông nhà có hút thuốc không ?
Bà Andrenyi chăm chú nhìn Poirot.
- Thưa có.
- Hút ống điếu à ?
- Thưa không, nhà tôi hút thuốc lá và xì gà.
- Cám ơn bà nhiều.
Trong vài giây, bà Andrenyi nhìn Poirot với cặp mắt đẹp và sâu thẳm dưới hàng mi dài và đen làm nổi bật nước da trắng xanh. Đôi môi tô đậm hé mở, bà Andrenyi có vẻ ngạc nhiên :
- Tại sao ông lại hỏi tôi câu này ?
- Như bà biết, một thám tử luôn luôn tò mò. Vì như bà có thể cho tôi biết màu áo khoác ngoài của bà không ?
Bà Andrenyi bật cười :
- Màu bắp. Điều đó có quan trọng không ?
- Rất quan trọng thưa bà.
- Như vậy ông thực sự là thám tử à ?
- Vâng thưa bà.
- Tôi cứ ngỡ là không có một cảnh sát nào trên tàu trong suốt cuộc hành trình qua Nam Tư … có nghịa là trước khi đến Ý.
- Thưa bà, tôi không thuộc lực lượng cảnh sát Nam Tư, mà là một thám tử quốc tế.
- Có lẽ ông thuộc liên đoàn các thám tử.
Bằng một giọng đầy kịch tính, Poirot dõng dạc nói :
- Tôi là người quốc tế. Tôi làm việc thường xuyên ở Luân Đôn. Bà biết nói tiếng Anh chứ ?
- Có, nhưng rất ít.
Một lần nữa, Poirot lại cúi xuống.
- Tôi không giữ bà lại thêm nữa. Như bà thấy đó, cuộc phỏng vấn vừa rồi không có gì là kinh khủng cả.
Bà Andrenyi mỉm cười, cúi đầu chào và ra khỏi phòng.
- Bà ta đẹp thật ! – ông Bouc nói – Nhưng cuộc điều tra của chúng ta không tiến triển nhiều. – Ông Bouc khẽ thở dài.
- Phải đấy. hai vợ chồng đều không hay biết gì.
- Bây giờ chúng ta mời anh chàng người Ý nhé ? – Ông Bouc đề nghị.
Poirot không trả lời ngay. Ông đang nhìn vết mờ trên tờ thông hành ngoại giao Hung
 
Chương VIII: Cuộc hỏi cung Đại tá Arbuthnot


Poirot nhỏm dậy và mắt ông lấp lánh khi nhìn ông Bouc.
- Theo ý tôi thì chúng ta nên hỏi những hành khách của toa hạng một trước toa hạng hai. Sau đó chúng ta sẽ hỏi anh chàng người Ý sau. Bây giờ chúng ta hãy cho mời đại tá Arbuthnot.
Nhận thấy sự hạn chế của Arbuthnot về tiếng Pháp nên. Poirot nói với hỏi ông ta bằng tiếng Anh. Sau khi hỏi tên tuổi, địa chỉ, và chức vụ trong quân đội của Arbuthnot, Poirot hỏi ông ta :
- Ông từ Ấn Độ trở về nghỉ ở Anh … Theo như chúng tôi gọi bằng tiếng Pháp là nghỉ phép.
Không chú ý đến vấn đề ngôn từ, đại tá Arbuthnot trả lời ngắn gọn :
- Vâng.
- Ông không đi du lịch bằng tàu à ?
- Không.
- Tại sao ?
- Tôi thích đi tàu hỏa vì những lý do riêng tư.
- Ông từ Ấn Độ đến ?
Đại tá Arbuthnot trả lời vẻ bực dọc :
- Tôi ngừng một đêm tại Ur ở Chaldéc và ba ngày ở nhà những người bạn ở Bagdad.
- Ông đã ở ba ngày ở Bagdad. Cô Debenham cũng từ Bagdad đến. Ông có gặp cô ấy ở Bagdad không?
- Không. Tôi đã gặp cô Debenham lần đầu tiên trên tàu KirKuk ở Nissibin.
Cúi nghiêng mình về phía trước, Poirot nói bằng giọng thuyết phục.
- Xin ông đừng bực mình, bởi vì chỉ có cô Debenham và ông là hai người Anh duy nhất đi du lịch trên tàu này. Nên việc ông và cô ấy cho biết ý kiến về bạn đồng hương của mình là điều cần thiết.
- Điều đó không chấp nhận được. Đại tá Arbuthnot nói một cách lạnh lùng.
- Chưa chắc đâu. Vụ án mạng có thể do một người đàn bà gây ra. Nạn nhân đã bị đâm 12 lần. Chính anh xếp ga cũng vừa nói «Thủ phạm có thể là một người đàn bà ! ». Trong những trường hợp đó, bổn phận của tôi là phải nghiên cứu kỹ những nữ hành khách trên chuyến tàu này. Nhưng không thể nào biết được phụ nữ Anh nghĩ gì, họ rất kín đáo. Để giúp công lý, ông vui lòng cho tôi biết cô Debenham thuộc loại người nào. Ông biết gì về cô ấy ?
- Cô Debenham là một phụ nữ quý tộc.
- Ồ, ông nghĩ là cô ta không thể dính líu vào vụ này được à ?
- Ý kiến này không hợp lý ! Nạn nhân hoàn toàn xa lạ với cô ấy … Cô ta chưa hề gặp hắn boa giờ.
- - Cô ta nói với ông à ?
- Phải, cô ta đã nói với tôi về gương mặt đáng ghét của hắn. Dù thủ phạm là một người đàn bà, ý kiến mà ông đưa ra chưa được chứng minh, thì cô Debenham không thể bị nghi ngờ.
- Ông biện hộ cho cô Debenham một cách hăng quá. Vừa nói Poirot vừa mỉm cười.
- Tôi muốn biết ông ám chỉ gì ?
Poirot cúi xuống và bắt đầu lật những tờ giấy trên bàn.
- Chúng ta không nên đi xa vấn đề, - Poirot nói – Vụ án mạng xảy ra đêm qua lúc 1 giờ 15. Chúng tôi cần biết tất cả hành khách đã làm gì lúc đó.
- Tôi đồng ý. Vào lúc 1 giờ 15, nếu tôi nhớ không nhầm, thì lúc đó tôi đang nói chuyện với anh chàng người Mỹ, thư ký của nạn nhân.
- Ông ở trong phònh anh ta hay ngược lại ?
- Tôi ở trong phòng anh ấy.
- Có phải anh ta tên là Mac Queen không?
- Phải.
- Anh ta là bạn của ông à ?
- Không, lần đầu tiên tôi gặp anh ta. Chiều qua chúng tôi đã nói chuyện phiếm, sau đó câu chuyện trở nên lý thú hơn. Thường thì tôi ít khi thân với một người Mỹ. Họ không dễ mến lắm.
Poirot mỉm cười khi nghĩ đến nhận xét của Mac Queen về người Anh.
- … Tuy nhiên, anh chàng đó không gây cho tôi thiện cảm lúc đầu. Anh ta đã có những nhận xét kỳ cục về Ấn Độ. Tôi đã lê gót 30 năm ở Ấn độ vì thế tôi đã bẻ gãy mọi lý luận của anh ta rất dễ dàng. Ngoài ra anh ấy cũng nói đến vấn đề kinh tế ở Mỹ, và chính trị nói chung. Hăng say trong cuộc tranh luận nên chúng tôi không còn nghĩ đến thời gian. Khi nhìn đồng hồ tôi thấy đã 2 giờ kém 15.
- Đến lúc đó thì ông ngừng cuộc tranh luận à ?
- Phải.
- Sau đó ông làm gì ?
- Tôi về phòng để ngủ.
- gi.ường ông đã được dọn chưa ?
- Rồi.
- Phòng của ông là …(Poirot cúi xuống xem sơ đồ) số 15 … trước phòng cuối từ toa ăn phải không ?
- Phải.
- Nhân viên phục vụ lúc đó ở đâu ?
- Anh ta ngồi ở cuối hàng lang. Khi tôi vào phòng thì Mac Queen gọi anh ta.
- Tại sao ?
- Có lẽ để anh ấy dọn gi.ường.
- Đại tá Arbuthnot, ông hãy nghĩ kỹ trước khi trả lời. Khi ông nói chuyện với Mac Queen có ai đi ngang qua cửa phòng không ?
- Hình như nhiều người. Nhưng tôi không chú ý lắm.
- Ông đã xuống Vincovci phải không ?
- Phải, một chút thôi. Lạnh quá nên chúng tôi lên tàu ngay. Xin lỗi ông cho tôi góp ý một chút nhé, tàu ngột ngạt quá.
Ông Bouc thở dài.
- Không thể làm vừa lòng hết mọi người ! Người Anh thì thích mở cửa. Trong khi những hành khách khác lại thích đóng cửa lại !
Cả Poirot lẫn Arbuthnot, không ai để ý đến câu nói của ông Bouc.
- Bây giờ, lúc ông trở lên tàu vì sân ga lạnh quá, ông đã ngồi xuống và ông đã hút thuốc lá hay ống điếu.
Poirot ngừng lại cđợi câu trả lời của Arbuthnot.
- Tôi hút ống điếu, Mac Queen hút thuốc lá.
- Tốt. Con tàu tiếp tục chạy, ông vừa hút ống điếu vừa tranh luận hăng say. Đã khuya, hành khách hầu hết đã trở về phòng, ông nhớ lại xem : Một người đã đi ngang qua cửa ?
Arbuthnot cố tập trung tư tưởng.
- Khó nói rõ được. Tất cả sự chú ý của tôi tập trung vào cuộc tranh luận.
- Bình thường thì một người trong quân đội có một phản xạ quan sát tự nhiên. Tôi có thể nói rằng họ thấy mà không cần nhìn.
Arbuthont suy nghĩ thêm và gật gù ra vẻ đồng ý.
- Tôi không nhớ là đã trông thấy có người đi dọc theo hàng lang, trừ nhân viên tàu. À! Có một người đàn bà.
- Ông thấy à. Bà ta trẻ hay già?
- Tôi không trông thấy. Lúc đó tôi đang quay mặt về phía kia. Nhưng tôi nhớ là có nghe tiếng sột soạt và ngửi thấy mùi nước hoa.
- Loại nước hoa nào?
- Tôi không thể nói rõ được. Nhưng mùi nước hoa nồng nặc này chắc phải tỏa hết cả toa tàu. Tuy nhiên, tôi không thể nói rõ lúc nào tôi mới ngửi thấy. Xem nào… Hình như là tôi ngửi thấy mùi nước hoa ngay sau khi chúng ta rời khỏi Vincovci.
- Sao?
- Chuyện như thế này: Tôi đang nói đến kế hoạch năm năm và do một sự liên tưởng, mùi nước hoa này đã làm tôi nghĩ đến vai trò của người đàn bà ở nước Nga! Và mãi đến cuối cuộc nói chuyện chúng tôi mới nói đến vấn đề này.
- Ông không thể nói chi tiết hơn à?
- Không. Nhưng tôi có thể khẳng định là sự việc đã xảy ra khoảng nửa giờ cuối.
- Sau khi tàu ngừng lại à?
- Phải. Tôi gần như chắc chắn điều đó.
- Tốt, Đại tá có biết nước Mỹ không ?
- Không. Tôi chưa bao giờ đặt chân đến đó.
- Ông có nhớ một đại tá người Anh tên là Armstrong không ?
- Armstrong ? …Armstrong…Tôi biết 2 hay 3 người tên như thế. Tommy Armstrong, sư đoàn 60 Selby Armstrong bị chết trong trận Somme.
- Tôi muốn nói đến đại tá Armstrong, người đã lấy một người vợ Mỹ có một đứa con bị bắt cóc và bị giết.
- À, tôi nhớ có đọc vụ này trên báo. Đó là Toby Armstrong. Tôi chưa bao giờ gặp ông ấy. Nhưng tôi đã nhiều lần nghe nhắc đến Toby Armstrong như là một sĩ quan giỏi. Ông ta đã được huân chương Victoria.
- Người đàn ông bị giết tối qua là kẻ bắt cóc và giết con đại tá Armstrong.
- Nếu thế, đối với hắn ta như thế là đáng lắm …Tuy nhiên, tôi còn muốn thấy hắn ta bị treo cổ hay lên ghế điện nữa kìa, theo luật Mỹ.
- Ông thích sự trừng phạt theo luật pháp hơn sự trả thù cá nhân à?
- Trả thù cá nhân áp dụng ở Corse, ở Ý hay của bọn Mafia không thể chấp nhận được. Ông muốn nghĩ gì tùy ý. Theo tôi, luật pháp ban hành bởi tòa án là chắc chắn nhất.
Poirot nhìn đại tá Arbuthnot/
- Tôi tán thành ý kiến của ông. Và tôi nghĩ như thế là tạm đủ. Ông còn nhớ một điều gì có vẻ khả nghi không?
- Không còn gì nữa, trừ phi …đến đây Arbuthnot do dự.
- Xin ông hãy tiếp tục cho.
- Ồ, chỉ là một chi tiết nhỏ nhặt thôi mà. Khi tôi về phòng, tôi thấy cánh cửa cạnh phòng tôi phòng cuối …ở tít cuối.
- Phải số 16?
- Đúng rồi. Cửa phòng số 16 hé mở và người hành khách ló đầu ra ngoài hành lang, rồi sau đó vội vã đóng cửa vào. Điều làm tôi ngạc nhiên là cử chỉ vội vã đó.
- Dĩ nhiên, - Poirot nói.
- Có thể tất cả là bình thường. Nhưng trong sự yên lặng của tảng sáng, một cái đầu ló ra rồi lại thụt vào, có một cái gì mờ ám …như trong truyện trinh thám vậy.
- Arbuthnot đứng lên:
- Nếu ông không cần tôi nữa, tôi xin phép…
- Cám ơn đại tá rất nhiều.
Arbuthnot lưỡng lự. Cảm tưởng khó chịu ban đầu của ông đã hoàn toàn bị đánh tan.
- Về phần cô Debenham, - Arbuthnot nói một cách vụng về và mặt hơi đỏ. Tôi xin nói cho ông rõ rằng cô ta là một người hoàn toàn không có gì đáng chê trách … một Pukka Sahib[1]
Nói rồi Arbuthnot ra ngoài.
- Pukka Sahib có nghĩa là gì? Bác sĩ Constantine hỏi.
- Có nghĩa là, Poirot nói, bố và các anh của Debenham học cùng trường với Arbuthnot.
- Ủa, điều đó thì có dính líu gì đến vụ án? Bác sĩ Constantine nói với vẻ thất vọng.
Poirot nhịp những ngón tay trên bàn và lại trầm ngâm suy nghĩ, cuối cùng, ông nói:
- Đại tá Arbuthnot hút ống điếu. Trong phòng của Ratchett tôi đã tìm thấy cái nạo ống điếu. Còn ông Ratchett chỉ hút xì gà.
- Vậy ông nghĩ là …
- Cho đến giờ phút này, ông ta là người duy nhất thú nhận mình là người hút ống điếu. Ngoài ra ông ta đã nghe, nói đến đại tá Armstrong và có thể ông ta biết Armstrong mà không thù nhận.
- Ông đoán là …
Poirot lắc đầu quầy quậy:
- Không, không thể chấp nhận được …hoàn toàn không thể chấp nhận được chuyện một người Anh khả kính với trí thong minh bình thường, trọng luật pháp lại có thể đàm kẻ thù của mình mười hai nhát dao! Ông đồng ý chứ?
- Vâng, chỉ cần suy nghĩ một phút thôi.
Ông Bouc nói:
- Chúng ta cần chú ý đến tâm lý của mỗi cá nhân. Vụ án mạng này có mang chữ ký nhưng không phải của Arbuthnot. Chúng ta hãy sang người tiếp theo.
Lần này ông Bouc không nhắc đến anh chàng người Ý nhưng ông nghĩ đến.
Chú thích:
[1] Nguyên văn

 
Chương IX: Lời khai của ông Hardman

Người cuối cùng trong toa hạng nhất là ông Hardman. Ông ta là người Mỹ quần áo sặc sỡ đã ngồi cùng bàn với người đàn ông người Ý và anh hầu phòng của Ratchett.
Hardman mặc một bộ quần áo carô, một áo sơmi hồng. Miệng ông ta nhai một cái gì đó khi bước vào phòng. Gương mặt thô kệch của Hardman có một cái gì dễ mến.
- Chào các ông. Các ông cần gì ?
- Ông có nghe nói đến vụ án trên tàu không ông... à ông Hardman ?
- Chắc chắn là có rồi.
Bằng một cái chặt lưỡi tài tình, Hardman đẩy ngay viên kẹo cao su sang một bên.
- Bổn phận chúng tôi là hỏi tất cả hành khách trên tàu.
- Được rồi, đó là cách duy nhất tìm ra thủ phạm.
Poirot nhìn cái thông hành lật ra trước mặt và đọc: Cyrus Bethman Hardman, công dân Mỹ, 41 tuổi, đại diện hãng bán ru-ban đánh máy.
- Phải, tôi đấy.
- Ông từ Stamboul đến Paris à ?
- Phải.
- Mục đích của cuộc du lịch này ?
- Công việc.
- Ông có thường đi du lịch ở toa hạng nhất không, ông Hardman ?
- Có, Công ty của chúng tôi trả mọi phí tổn. Vừa nói Hardman vừa nheo mắt.
- Nào, chúng ta vào đề nhé. Ông biết gì về việc xảy ra tối hôm qua ?
- Không biết gì cả.
- Uổng quá ! ông có thể cho chúng tôi biết ông đã làm gì tối qua sau bữa ăn không ?
Lần đầu tiên Hardman suy nghĩ trước khi trả lời:
- Xin lỗi ông. Ông cho tôi biết ông là ai đã ?
Poirot giới thiệu:
- Đây là ông Bouc, một trong những giám đốc của Công ty tàu nằm, bác sĩ Constantine, người đã xem xét xác nạn nhân.
- Còn ông ?
- Hercule Poirot. Tôi được Công ty Đường sắt mời điều tra vụ án.
- Tôi đã được nghe nói về ông. Ngưng một lúc Hardman tiếp:
- Tốt hơn là nên nói thật với ông.
- Tôi cũng khuyên ông như vậy, - Poirot nói.
- Nếu ít ra tôi biết được một điều gì tôi sẵn sàng nói cho ông. Khổ nỗi tôi chẳng biết gì cả.
- Xin mời ông đi vào đề cho.
Lại một cái chặt lưỡi khác. Viên kẹo cao su được đổi bên. Hardman thò tay vào túi và bỗng nhiên ông ta thay đổi hoàn toàn. Hardman thoát ra khỏi vai hề khi nãy. Ông ta nói bằng giọng mũi một cách dõng dạc:
- Thông hành vừa rồi giả. Đây là danh tánh thật của tôi.
Poirot nhìn tấm thiệp Hardman vừa ném xuống bàn. Ông Bouc nhìn qua vai Poirot để đọc.
Ông Cyrus B. Hardman.
Văn phòng thám tử tư Mac Neil New York
Poirot biết văn phòng này. Một trong những văn phòng thám tử nổi tiếng của Hoa kỳ.
- Ông Hardman, bây giờ đã đến lúc ông phải nói sự thật cho chúng tôi.
- Sự việc như thế này. Tôi đã theo dõi một cặp lưu manh. Chúng không liên quan gì đến vụ này đâu. Tôi đã bắt được chúng ở Stamboul và điện về cho xếp của tôi. Ông ta gọi tôi về. Tôi đang sửa soạn về New York thì nhận được bức thư này.
Hardman đưa cái thư cho ông Poirot.
Thưa ông.
Tôi được biết ông là nhân viên của phòng Neil. Ông hãy vui lòng đến phòng tôi vào lúc 4 giờ trưa nay.
Ở dưới ký tên Ratchett và mang dấu của khách sạn Tokatlian.
- Sau đó ?
- Tôi đã đến chỗ hẹn. Ông Ratchett đã kể sự việc và đưa 2 bức thư cho tôi:
- Ông ta có nghĩ là cuộc sống ông ta bị đe dọa không?
- Ông ta không nói. Nhưng thật ra Ratchett hoảng sợ. Ông ta nhờ tôi đi cùng tàu với ông đến Paris, để bảo đảm an toàn cho mình. Vậy mà, các ông thấy đó, mặc dù tôi đã canh phòng, ông ta vẫn bị giết. Tôi thật ân hận. Đối với tôi, đây là một câu chuyện không may.
- Ông Ratchett có nói cho ông biết phải bảo vệ ông ta như thế nào không ?
- Chắc rồi ! ông đã sửa soạn rất chu đáo. Nhưng không may, tôi không thể ở phòng cạnh Ratchett. Chỉ còn phòng 16 mà tôi phải khó khăn lắm mới lấy được vé. Tôi nghĩ là nhân viên đã cố tình giữ chỗ lại. Nhưng thôi, khi xem xét tôi nhận thấy là dù sao đi nữa phòng 16 cũng là một vị trí thuận lợi. Ở phía trước toa kút sét Stamboul chỉ có toa ăn và ở phía đó thì cửa hành lang được khóa lại suốt đêm. Chỉ còn hành lang ăn thông sang những toa khác thôi... trong điều kiện đó thì kẻ sát nhân phải đi ngang qua phòng của tôi.
- Ông không biết hình dáng của kẻ sát nhân chứ ?
- Ông Ratchett đã tả hắn cho tôi.
- Sao ?
Cả ba người đàn ông đều chồm về phía Hardman.
- Đó là, Hardman nói, một người đàn ông nhỏ, tóc nâu với một giọng nói nhẹ gần như giọng đàn bà. Vả lại Ratchett cũng không nghĩ là mình sẽ bị tấn công đêm đầu tiên, mà vào đêm thứ hai hoặc thứ ba kia.
- Ông ta biết à? - Ông Bouc nói.
- Ông ta biết nhiều hơn những gì ông ta tâm sự với anh thư ký, Poirot nói. Ratchett có cho anh biết tại sao người ta hăm dọa ông ấy không ?
- Không, Ratchett tỏ vẻ e dè về điều đó. Khi tôi hỏi, ông ta chỉ nói rằng kẻ thù muốn giết ông ấy?
- Một người đàn ông bé, tóc nâu với một giọng đàn bà... - Poirot lập lại vẻ tư lự.
Đột nhiên Poirot nhìn thẳng vào mặt Hardman và hỏi:
- Lẽ dĩ nhiên anh đã nhận diện và ra người đàn ông chứ ?
- Người đàn ông nào ?
- Ratchett ấy. Anh nhận ra ông ta chứ ?
- Ông nói sao ?
- Ratchett là Cassetti, kẻ đã giết đứa bé Armstrong.
Hardman huýt sáo.
- Có chuyện đó nữa hay sao ? Thú thật tôi không nhận ra hắn. Lúc đó tôi đang ở miền Tây nước Mỹ. Có lẽ đã trông thấy hình Cassetti trên báo chí. Nhưng rất khó mà nhận ra trên một vài tấm hình đăng trên báo. Tên khốn kiếp người Ý này chắc phải có nhiều kẻ thù lắm.
- Anh có nhớ đến số người có dính líu đến vụ Armstrong. Một nhân vật nào khớp với nhân vật Ratchett. Đã tả chỗ anh không ? Bé, tóc nâu, nói giọng đàn bà.
Hardman suy nghĩ một lúc:
- Gần như tất cả gia đình Armstrong đã chết. Cô hầu trông đứa bé cũng đã nhảy qua cửa sổ tự tử.
- Nhưng ta không nên chỉ nghĩ đến Armstrong. Cassetti đã là chuyên viên bắt cóc trẻ con trước đó rồi !
- Có thể. Nhưng chúng tôi có những lý do để tin là cái chết của Ratchett dính líu đến vụ Armstrong.
Hardman đưa mắt nhìn Poirot dò hỏi, nhưng Poirot im lặng.
Hardman gật đầu nói:
- Tôi chẳng thấy ai ăn khớp với nhân vật Ratchett tả, trong vụ Armstrong. Vả lại tôi đã nói với ông là lúc đó tôi ở xa New York, và cũng không hoàn toàn biết rõ chi tiết nội vụ.
- Thôi được, anh hãy tiếp tục đi.
- Tôi chẳng còn gì nhiều để nói. Ban ngày thì tôi ngủ để ban đêm canh chừng. Đêm qua, tất cả đều ổn. Tôi đã canh hành lang bằng cánh cửa phòng mở hé. Chẳng có ai qua lại cả.
- Anh có chắc không ?
- Hoàn toàn chắc chắn. Chẳng có ai vào bằng cửa lên xuống ga và bằng cửa tàu Athènes. Tôi có thể bảo đảm điều đó.
- Từ cánh cửa phòng, anh có thể trông thấy nhân viên phục vụ không ?
- Thấy chứ, cái ghế của anh ta ngang tầm với của phòng tôi mà.
- Anh ta có rời chỗ sau khi tàu ngừng ở Vincovci không ?
- Anh ta đã trả lời cho một hay hai người khách gọi, sau khi tàu ngừng lại. Sau đó anh ta lại đi ngang qua phòng tôi. Để sang toa bên cạnh. Anh ta đã ở đó khỏang 15 phút. Một tiếng chuông lại réo lên nên anh ta phải chạy về. Tôi đã ra khỏi phòng xem chuyện gì. Chả là cái bà già người Mỹ gọi anh ta đến và léo nhéo cái gì đó. Anh nhân viên lại qua một toa khác và mang một chai nước suối đến cho một hành khách. Sau đó anh trở về chỗ ngồi của mình và một lúc sau đi về phía cuối toa để làm gi.ường cho một hành khách nào đó. Từ lúc đó trở đi hình như anh ta không còn phải đi lại gì nữa.
- Anh ta có ngủ không ?
- Tôi không thể biết được.
Poirot cầm lấy tấm thẻ của Hardman vứt trên bàn.
- Anh làm ơn ký vào thẻ đây.
Hardman làm ngay.
- Ai có thể làm chứng về danh tánh của anh không?
- Trên tàu này ấy à? Không. Trừ phi nếu anh chàng Mac Queen nhận ra tôi. Tôi vẫn thường gặp Mac Queen trong văn phòng bố anh ta ở New York. Nhưng không hiểu anh ấy có để ý đến đám thám tử không. Suy cho cùng, phải chờ khi tàu chạy để đánh điện về New York hỏi thôi. Nhưng ông cứ yên tâm. Tôi không lừa các ông đâu.
- Xin chào. Ông Poirot tôi rất hân hạnh được biết ông.
Poirot mời Hardman một điếu thuốc và nói:
- Hay là ông thích hút ống điếu hơn ?
- Không, tôi không hút ống điếu.
Hardman cầm lấy một điếu thuốc và bước ra ngoài.
Cả ba người đàn ông nhìn nhau.
- Ông có tin là hắn ta nói thật không?
Bác sĩ Constantine hỏi.
- Tin, tôi biết loại người này. Vả lại cũng dễ kiểm tra lại danh tánh của hắn thôi.
- Dù gì đi nữa, ông Bouc nói, thì Hardman cũng đã cho ta một chi tiết quan trọng đấy chứ.
- Dĩ nhiên.
- Một người đàn ông bé nhỏ, tóc nâu, giọng đàn bà, ông Bouc nói.
- Than ôi! Chẳng ai trên tàu giống như vậy cả. Poirot nói.
 
Chương X: Cuộc hỏi cung người Ý

Với một nụ cười lém lỉnh, Poirot nói.
- Và bây giờ chúng ta sẽ làm vừa lòng ông Bouc. Hãy mời anh chàng người Ý vào đây.
Antonio Foscarelli nhanh nhẹn bước vào toa. Gương mặt rám nắng của anh ta hiểu lộ sự thoải mái hoàn toàn.
Anh ta nói thông thạo tiếng Pháp.
- Anh tên là Antonio Foscarelli ?
- Thưa vâng.
- Hình như anh đã nhập quốc tịch Mỹ?
- Vâng, cho tiện công việc làm ăn.
- Anh đại diện cho hãng xe hơi Ford à?
- Phải...
Sau đó Foscarelli kể lễ tỉ mỉ công việc làm ăn của anh ta, quan niệm của anh ta về nước Mỹ, điều kiện kinh tế... v... v...
Gương mặt rạng rỡ, Foscarelli lau mồ hôi trán bằng khăn tay.
- Như các ông thấy đấy, tôi làm ăn lớn. Tôi thích nghi với thời đại và tôi có khiếu về thương mại.
- Như vậy anh đi đi về về giữa nước Mỹ và Châu âu đã mười năm nay rồi à ?
- Vâng. Tôi vẫn còn nhớ lần đầu tiên tôi đi tàu thủy đến Hoa Kỳ. Xa ơi là xa ! Mẹ tôi và em gái tôi...
Đến đây Poirot cắt ngang dòng tư tưởng của Foscarelli. Ông hỏi:
- Trong khoảng thời gian anh ở Mỹ, anh có quen với người đàn ông bị giết đêm qua không ?
- Chưa bao giờ ! Nhưng tôi biết hạng người này... bề ngoài có lẽ khả kính, lúc nào cũng ăn mặc gọn gàng nhưng tất cả chỉ là bề ngoài. Theo kinh nghiệm của tôi. Không cần phải biết rõ, tôi cũng có thể đoán hắn ta là một tên vô lại. Tôi chỉ nói ý kiến riêng của tôi thôi.
- Hoàn toàn đúng. Poirot nói. Ratchett là Cassetti kẻ bắt cóc trẻ con.
- Tôi đã bảo mà ? Đoán người qua nét mặt là nghề của tôi mà. Trong kinh doanh, đó là một năng khiếu cần thiết.
- Anh có nhớ vợ Armstrong không ?
- A... không nhớ rõ lắm. Hình như vụ một đứa bé, một đứa con gái thì phải.
- Vâng, đấy là một vụ khủng khiếp.
Foscarelli là người đầu tiên không đồng ý về cách nhận xét này, anh ta nói:
- Thực ra những vụ như thế thường xảy ra ở Mỹ.
Poirot cắt ngang.
- Anh có bao giờ thấy một người trong gia đình Armstrong không ?
- Không. Hình như không. Nhưng tôi đã gặp bao nhiêu khách hàng. Để tôi cho ông một con số nhé; chỉ riêng năm ngoái thôi, tôi đã bán ba...
- Thôi xin anh đừng đi xa vấn đề của chúng ta.
Foscarelli khoác tay để xin lỗi.
- Xin lỗi, xin lỗi.
- Anh hãy cho tôi biết anh đã làm gì tối qua, sau bữa ăn.
- Sẵn sàng. Tôi đã ngồi tại đây rất lâu để nói chuyện với anh chàng người Mỹ cùng bàn. Một người đại diện cho hãng ru-ban đánh máy. Sau đó tôi về phòng. Chẳng có ai trong phòng. Thằng chó chết John Bull ở cùng phòng với tôi đã sang phòng chủ hắn. Sau đó hắn trở về, nhưng không làm cách nào cho hắn hở môi ngoài hai chữ có và không. Dân Anh sao mà lầm lỳ thế. Hắn cứ ngồi đọc sách ở góc phòng cho đến khi anh nhân viên đến làm gi.ường.
- Hai phòng 4 và 5 phải không ? - Poirot hỏi.
- Đúng đấy, phòng cuối cùng. Tôi lên kút sét trên vừa đọc sách vừa hút thuốc. Hình như thằng cha người Anh bị nhức răng. Hắn ta uống thuốc nhưng vẫn rên rỉ.
- Sau đó tôi ngủ thiếp đi. Nhưng cứ mỗi lần thức giấc là lại nghe hắn rên rỉ.
- Anh ta có ra khỏi phòng không ?
- Hình như không. Nếu có tôi đã biết. Ánh đèn ngoài hành lang đánh thức và cứ làm tôi nghĩ đến quan thuế kiểm tra.
- Anh ta có nói cho anh nghe về chủ của anh ấy không? Anh ta có vẻ gì không ưa ông ta không ?
- Tôi đã bảo là hắn câm như hến mà.
- Khi nãy anh nói là hút thuốc... ống điếu hay xì gà ?
- Thuốc lá thôi.
Poirot mời Foscarelli một điếu.
- Anh đã bao giờ đến Chicago chưa ? ông Bouc hỏi.
- Ồ, có.... một thành phố hết ý... nhưng tôi biết New York, Washington và Detroit nhiều hơn.. Còn ông, ông đã đến Mỹ chưa ? Chưa à ? tôi khuyên ông nên đến để biết.
Poirot đưa cho Foscarelli một tờ giấy và nói:
- Anh hãy viết tên và địa chỉ thường trực của anh vào đây.
Foscarelli viết bằng những nét chữ lớn. Anh ta đứng dậy tươi cười và nói:
- Xong rồi à ? Các ông không cần đến tôi nữa. Xin chào. Mong rằng tuyết sẽ không giữ chúng ta ở đây lâu nữa. Người ta đợi tôi ở Milan...
Nói xong Foscarelli bước ra khỏi phòng.
- Poirot nhìn ông Bouc.
- Anh chàng này sống rất lâu ở Mỹ. - Ông Bouc nói.
- Những người Ý nói láo tài lắm và họ thích dùng dao. Tôi ghét dân Ý.
- Tôi biết rồi, - Poirot vừa nói vừa cười.
- Tuy nhiên tôi cũng xin nhắc ông là chúng ta không hề có một chứng cớ nào buộc tội anh chàng người Ý của ông cả.
- Vậy thì ông nghĩ gì về tâm lý của các dân tộc ? Bộ người Ý không đâm kẻ thù của họ bằng dao sao ?
- Lẽ dĩ nhiên... nhưng thường trong khi cãi vã kia. Nhưng, theo tôi, vụ án này đã được chuẩn bị lâu và chu đáo. Vụ án này không phải là hành động của một người Ý. Tôi tìm thấy ở đây dấu hiệu của sự suy tính lạnh lùng đã có từ trước... đó là hành động của một người Anh.
Poirot cầm lấy những thông hành còn lại và nói:
- Nào chúng ta hãy mời cô Mary Debenham.

 
Chương XI:Lời khai của cô Mary Debenham


Mary Debenham bước vào phòng và ngồi trước mặt Poirot.
- Cô là Mary Debenham, 26 tuổi phải không ạ ?
- Phải.
- Cô là người Anh ?
- Phải.
- Cô làm ơn ghi tên và địa chỉ của cô ở Anh vào tờ giấy này.
Mary Debenham viết bằng nét chữ rõ ràng.
- Bây giờ thưa cô, cô hãy cho tôi biết cô biết gì về vụ án đêm qua.
- Tôi hoàn toàn không biết gì và tôi đã ngủ suốt đêm.
- Vụ án xảy ra trên tàu có làm cô buồn không ?
Trước câu hỏi bất ngờ này, Mary Debenham ngạc nhiên nhìn Poirot.
- Tôi không hiểu ông muốn nói gì ?
- Dễ hiểu thôi thưa cô, tôi nhắc lại, vụ án xảy ra trên tàu có làm cô buồn không ?
- Tôi không nhìn vụ án này dưới quan niệm như ông. Nói trắng ra là tôi chẳng hề quan tâm đến.
- Nếu thế thì một vụ giết người, đối với cô, chỉ là một chuyện tầm thường như mọi chuyện xảy ra hằng ngày sao ?
- Dĩ nhiên là đi du lịch trên một chuyến tàu xảy ra án mạng là một điều bực mình. Mary Debenham nói bằng một giọng bình thản.
- Cô quả đúng là người Anh. Hoàn toàn lạnh lùng trước mọi biến cố.
Mary Debenham mỉm cười:
- Tôi thấy không cần phải bù lu bù loa lên để chứng tỏ tình cảm của mình. Mỗi ngày đều có người chết.
- Sự chết là bình thường nhưng án mạng lại là chuyện khác.
- Tôi đồng ý với ông.
- Cô có biết người đàn ông bị giết đêm qua không ?
- Hôm qua tôi thấy ông ta lần đầu tiên trong bữa ăn trưa.
- Cô thấy ông ta thế nào ?
- Tôi không chú ý.
- Cô có nghĩ ông ta là người đàng hoàng không ?
Mary Debenham khẽ nhún vai.
- Tôi không quan sát kỹ ông ta để có thể có ý kiến về ông ta.
Poirot nhìn Mary chăm chú.
- Hình như cô không đồng ý cách hỏi của tôi. Có lẽ cô nghĩ rằng người Anh sẽ làm khác. Họ đi thẳng vào đề. Đặt những câu hỏi cần thiết và chỉ xem xét những dữ kiện. Tôi thì lại dùng nhiều ngõ ngách. Tôi nghiên cứu nhân chứng và sau khi đã có một sự xét đoán nào đó, tôi sẽ hỏi. Đây nhé: Cách đây một phút tôi đã hỏi một người ăn nói lưu loát, anh ta nghĩ rằng mình thông thạo nhiều vấn đề đối với anh ta, tôi chỉ đòi hỏi một câu trả lời ngắn, có hay không. Sau đó là cô. Tôi thấy ngay là mình đang nói chuyện với một người bình tĩnh, trí óc ngăn nắp và chỉ trả lời nhát gừng. Cho nên để cô thấy sự ác độc của người đời, tôi cố gắng cho cô nói những xúc động, những ý nghĩ thầm kín của cô. Cách này làm cô không vừa ý ư ?
- Nếu ông muốn biết tôi nghĩ gì thì tôi thấy cách làm việc của ông mất thì giờ. Biết được tôi có quý mến ông Ratchett hay không, điều đó đâu đem lại câu trả lời cho vụ án.
- Cô có biết ông Ratchett là ai không?
- Bà Hubbard đã kể hết cho mọi người nghe rồi.
- Vậy cô nghĩ gì về vụ Armstrong ?
- Đó là một vụ bỉ ổi.
Poirot trầm ngâm nhìn Mary:
- Cô từ Bagdad đến thì phải ?
- Vâng.
- Cô đến Londre à ?
- Phải.
- Cô làm gì ở Bagdad ?
- Tôi làm nghề trông trẻ. Tôi trông hai đửa trẻ.
- Cô có trở lại làm việc, sau khi đi nghĩ hè không ?
- Có lẽ không.
- Tại sao ?
- Bagdad xa quá tôi sẽ cố gắng tìm một chỗ làm ở Londre.
- Tôi cứ nghĩ là cô sắp lập gia đình chứ?
Cô Debenham không trả lời mà chỉ nhìn thẳng vào mắt Poirot - như muốn nói: Ông thật lỗ mãng !
- Cô nghĩ gì về người ở cùng phòng với cô. Cô Ohlson ấy?
- Đó là một cô gái tốt, rất bình dị.
- Cái áo khoác ngoài của cô Ohlson màu gì nhỉ ?
Mary lộ vẻ sửng sốt nhưng vẫn trả lời:
- Nó màu len nâu.
- Cô không cho là tôi quá sỗ sàng khi nói là tôi đã để ý đến cái áo khoác ngoài của cô; ở Stamboul, áo màu hoa cà thì phải ?
- Vâng.
- Cô còn cái áo khoác màu đỏ tươi không ?
- Không cái áo đó không phải của tôi !
Poirot chồm về phía trước. Mắt ông ta sáng lên như mắt mèo:
- Nó của ai ?
Mary Debenham lùi lại sợ hãi:
- Tôi không biết. Ông muốn nói gì vậy ?
- Thay vì trả lời. Tôi không có cái áo màu đó. Cô lại nói cái áo đó không phải của tôi, nói một cách khác: Cái áo đó của một người khác ?
- Đó là sự thật.
- Của một nữ hành khách à ?
- Vâng.
- Của ai thế ?
- Tôi vừa nói là tôi không biết mà. Sáng nay tôi thức dậy với cảm tưởng là tàu đã ngừng lại rất lâu rồi. Tôi mở cửa nhìn ra hành lang thì tôi trông thấy một người choàng áo ngoài màu đỏ ở cuối hành lang.
- Cô không biết là ai à ? Người ấy có tóc vàng, đen hay xám ?
- Tôi không thể biết được, người ấy đội mũ ngủ và tôi chỉ trông thấy phía sau lưng.
- Người ấy to lớn hay nhỏ con ?
- Hình như gầy và cao. Nhưng cũng khó chắc chắn, cái áo khoác có thêu những con rồng.
- A, phải đấy. - Poirot im lặng một lúc rồi lầm bầm:
- Tôi chẳng hiểu gì cả. Rối bung lên cả rồi!
- Như thế là xong. Tôi không giữ cô lâu nữa.
- À.
Mary có vẻ ngạc nhiên, nhưng cô đứng lên ngay. Lúc sắp bước ra ngoài, cô quay trở lại.
- Cô gái người Thụy Điển... cô Ohlson... rất phiền lòng, ông đã... cô ta là người cuối cùng trông thấy ông Ratchett còn sống, và cô Ohlson nghĩ rằng ông nghĩ cho cô ấy, ông có cho phép tôi trấn an cô ấy không ? Tội nghiệp, đến một con muỗi cô Ohlson còn không đụng vào nữa là. - Vừa nói Mary vừa cười.
- Cô Ohlson đã đi xin thuốc ở phòng bà Hubbard lúc mấy giờ ?
- Gần 10 giờ 30.
- Cô ấy đã vắng mặt bao nhiêu lâu ?
- Khoảng 5 phút.
- Cô ấy có còn ra khỏi phòng nữa không?
- Không.
Poirot quay sang bác sĩ Constantine và hỏi ?
- Ratchett có thể bị giết sớm thế không ?
Bác sĩ Constantine lắc đầu.
- Nếu thế, cô hãy trấn an bà ta hộ.
- Cảm ơn.
Cô Debenham mỉm cười và nói trước khi ra khỏi phòng.
- Tội nghiệp cô Ohlson. Cô ấy giống một con cừu nhỏ bé, hơi tí đã sợ.
 
Chương XI: Lời khai của cô Mary Debenham

Mary Debenham bước vào phòng và ngồi trước mặt Poirot.
- Cô là Mary Debenham, 26 tuổi phải không ạ ?
- Phải.
- Cô là người Anh ?
- Phải.
- Cô làm ơn ghi tên và địa chỉ của cô ở Anh vào tờ giấy này.
Mary Debenham viết bằng nét chữ rõ ràng.
- Bây giờ thưa cô, cô hãy cho tôi biết cô biết gì về vụ án đêm qua.
- Tôi hoàn toàn không biết gì và tôi đã ngủ suốt đêm.
- Vụ án xảy ra trên tàu có làm cô buồn không ?
Trước câu hỏi bất ngờ này, Mary Debenham ngạc nhiên nhìn Poirot.
- Tôi không hiểu ông muốn nói gì ?
- Dễ hiểu thôi thưa cô, tôi nhắc lại, vụ án xảy ra trên tàu có làm cô buồn không ?
- Tôi không nhìn vụ án này dưới quan niệm như ông. Nói trắng ra là tôi chẳng hề quan tâm đến.
- Nếu thế thì một vụ giết người, đối với cô, chỉ là một chuyện tầm thường như mọi chuyện xảy ra hằng ngày sao ?
- Dĩ nhiên là đi du lịch trên một chuyến tàu xảy ra án mạng là một điều bực mình. Mary Debenham nói bằng một giọng bình thản.
- Cô quả đúng là người Anh. Hoàn toàn lạnh lùng trước mọi biến cố.
Mary Debenham mỉm cười:
- Tôi thấy không cần phải bù lu bù loa lên để chứng tỏ tình cảm của mình. Mỗi ngày đều có người chết.
- Sự chết là bình thường nhưng án mạng lại là chuyện khác.
- Tôi đồng ý với ông.
- Cô có biết người đàn ông bị giết đêm qua không ?
- Hôm qua tôi thấy ông ta lần đầu tiên trong bữa ăn trưa.
- Cô thấy ông ta thế nào ?
- Tôi không chú ý.
- Cô có nghĩ ông ta là người đàng hoàng không ?
Mary Debenham khẽ nhún vai.
- Tôi không quan sát kỹ ông ta để có thể có ý kiến về ông ta.
Poirot nhìn Mary chăm chú.
- Hình như cô không đồng ý cách hỏi của tôi. Có lẽ cô nghĩ rằng người Anh sẽ làm khác. Họ đi thẳng vào đề. Đặt những câu hỏi cần thiết và chỉ xem xét những dữ kiện. Tôi thì lại dùng nhiều ngõ ngách. Tôi nghiên cứu nhân chứng và sau khi đã có một sự xét đoán nào đó, tôi sẽ hỏi. Đây nhé: Cách đây một phút tôi đã hỏi một người ăn nói lưu loát, anh ta nghĩ rằng mình thông thạo nhiều vấn đề đối với anh ta, tôi chỉ đòi hỏi một câu trả lời ngắn, có hay không. Sau đó là cô. Tôi thấy ngay là mình đang nói chuyện với một người bình tĩnh, trí óc ngăn nắp và chỉ trả lời nhát gừng. Cho nên để cô thấy sự ác độc của người đời, tôi cố gắng cho cô nói những xúc động, những ý nghĩ thầm kín của cô. Cách này làm cô không vừa ý ư ?
- Nếu ông muốn biết tôi nghĩ gì thì tôi thấy cách làm việc của ông mất thì giờ. Biết được tôi có quý mến ông Ratchett hay không, điều đó đâu đem lại câu trả lời cho vụ án.
- Cô có biết ông Ratchett là ai không?
- Bà Hubbard đã kể hết cho mọi người nghe rồi.
- Vậy cô nghĩ gì về vụ Armstrong ?
- Đó là một vụ bỉ ổi.
Poirot trầm ngâm nhìn Mary:
- Cô từ Bagdad đến thì phải ?
- Vâng.
- Cô đến Londre à ?
- Phải.
- Cô làm gì ở Bagdad ?
- Tôi làm nghề trông trẻ. Tôi trông hai đửa trẻ.
- Cô có trở lại làm việc, sau khi đi nghĩ hè không ?
- Có lẽ không.
- Tại sao ?
- Bagdad xa quá tôi sẽ cố gắng tìm một chỗ làm ở Londre.
- Tôi cứ nghĩ là cô sắp lập gia đình chứ?
Cô Debenham không trả lời mà chỉ nhìn thẳng vào mắt Poirot - như muốn nói: Ông thật lỗ mãng !
- Cô nghĩ gì về người ở cùng phòng với cô. Cô Ohlson ấy?
- Đó là một cô gái tốt, rất bình dị.
- Cái áo khoác ngoài của cô Ohlson màu gì nhỉ ?
Mary lộ vẻ sửng sốt nhưng vẫn trả lời:
- Nó màu len nâu.
- Cô không cho là tôi quá sỗ sàng khi nói là tôi đã để ý đến cái áo khoác ngoài của cô; ở Stamboul, áo màu hoa cà thì phải ?
- Vâng.
- Cô còn cái áo khoác màu đỏ tươi không ?
- Không cái áo đó không phải của tôi !
Poirot chồm về phía trước. Mắt ông ta sáng lên như mắt mèo:
- Nó của ai ?
Mary Debenham lùi lại sợ hãi:
- Tôi không biết. Ông muốn nói gì vậy ?
- Thay vì trả lời. Tôi không có cái áo màu đó. Cô lại nói cái áo đó không phải của tôi, nói một cách khác: Cái áo đó của một người khác ?
- Đó là sự thật.
- Của một nữ hành khách à ?
- Vâng.
- Của ai thế ?
- Tôi vừa nói là tôi không biết mà. Sáng nay tôi thức dậy với cảm tưởng là tàu đã ngừng lại rất lâu rồi. Tôi mở cửa nhìn ra hành lang thì tôi trông thấy một người choàng áo ngoài màu đỏ ở cuối hành lang.
- Cô không biết là ai à ? Người ấy có tóc vàng, đen hay xám ?
- Tôi không thể biết được, người ấy đội mũ ngủ và tôi chỉ trông thấy phía sau lưng.
- Người ấy to lớn hay nhỏ con ?
- Hình như gầy và cao. Nhưng cũng khó chắc chắn, cái áo khoác có thêu những con rồng.
- A, phải đấy. - Poirot im lặng một lúc rồi lầm bầm:
- Tôi chẳng hiểu gì cả. Rối bung lên cả rồi!
- Như thế là xong. Tôi không giữ cô lâu nữa.
- À.
Mary có vẻ ngạc nhiên, nhưng cô đứng lên ngay. Lúc sắp bước ra ngoài, cô quay trở lại.
- Cô gái người Thụy Điển... cô Ohlson... rất phiền lòng, ông đã... cô ta là người cuối cùng trông thấy ông Ratchett còn sống, và cô Ohlson nghĩ rằng ông nghĩ cho cô ấy, ông có cho phép tôi trấn an cô ấy không ? Tội nghiệp, đến một con muỗi cô Ohlson còn không đụng vào nữa là. - Vừa nói Mary vừa cười.
- Cô Ohlson đã đi xin thuốc ở phòng bà Hubbard lúc mấy giờ ?
- Gần 10 giờ 30.
- Cô ấy đã vắng mặt bao nhiêu lâu ?
- Khoảng 5 phút.
- Cô ấy có còn ra khỏi phòng nữa không?
- Không.
Poirot quay sang bác sĩ Constantine và hỏi ?
- Ratchett có thể bị giết sớm thế không ?
Bác sĩ Constantine lắc đầu.
- Nếu thế, cô hãy trấn an bà ta hộ.
- Cảm ơn.
Cô Debenham mỉm cười và nói trước khi ra khỏi phòng.
- Tội nghiệp cô Ohlson. Cô ấy giống một con cừu nhỏ bé, hơi tí đã sợ.
 
×
Quay lại
Top