Biểu tượng Thất truyền ( The Lost Symbol )

CHƯƠNG 40


Tại sao Trish đi lâu thế nhỉ?

Katherine Solomon lại xem đồng hồ lần nữa. Cô đã quên không thông báo với bác sĩ Abaddon về lộ trình đi tới phòng thí nghiệm của mình, nhưng cô không nghĩ rằng quãng đường tối tăm đó lại khiến hai người đi chậm đến vậy. Lẽ ra giờ này họ phải tới đây rồi chứ?
Katherine bước lại phía cửa chính, ráng sức mở cánh cửa bọc chì và đăm đăm nhìn vào khoảng tối vô định. Cô lắng nghe một lúc, nhưng chẳng thấy gì cả.
- Trish? - cô gọi, tiếng chìm nghỉm trong bóng tối đặc quánh.
Im lặng.
Bối rối, Katherine đóng cửa lại, lấy điện thoại di động và gọi ra sảnh.
- Tôi Katherine đây. Trish có ở ngoài đó không nhỉ?
- Không, thưa cô, - người bảo vệ ở sảnh đáp - Cô Dunne và vị khách đã quay vào được mười phút rồi mà.
- Thế à? Thậm chí họ còn chưa tới Khoang 5 ấy, tôi nghĩ thế.
- Chờ chút. Tôi sẽ kiểm tra - Katherine nghe rõ tiếng ngón tay của người bảo vệ gõ lách tách trên bàn phím máy tính - Cô nói đúng. Theo dữ liệu thẻ của cô Dunne thì cô ấy vẫn chưa mở cửa Khoang 5. Lần truy cập cuối cùng của cô ấy là khoảng 8 phút trước… ở Khoang 3. Tôi đoán cô ấy muốn dẫn khách của cô tham quan một chút trên đường đi.
Katherine cau mày. Rõ rồi. Tin báo có phần hơi kỳ cục nhưng ít nhất cô biết Trish không mấy khi ở lâu trong Khoang 3. Mùi ở đó rất kinh khủng.
- Cảm ơn anh. Anh trai tôi đến chưa nhỉ?
- Chưa, thưa cô, chưa thấy ạ.
- Cảm ơn anh.
Katherine tắt máy, và bỗng thấy lòng trào lên một nỗi lo lắng. Cảm giác khó chịu ấy khiến cô chững lại, nhưng chỉ trong chốc lát. Nó chính là tâm trạng bất an xâm chiếm tâm khảm cô lúc bước vào nhà bác sĩ Abaddon. Trực giác phụ nữ của cô đã không có tác dụng ở nơi đó Thật tệ.
Chẳng có gì đâu, Katherine tự nhủ.
 
CHƯƠNG 41


Robert Langdon chăm chú nhìn cái kim tự tháp bằng đá. Không thể nào tin nổi.

- Một ngôn ngữ cổ đã được mã hoá, - Sato nói mà không hề nhìn lên - Hãy cho tôi biết, điều này có ý nghĩa gì không?
Trên bề mặt mới lộ ra của kim tự tháp, một loạt 16 ký tự được khắc rất ngay ngắn trên lớp đá nhẵn thín.
Ở bên cạnh, Anderson đứng há hốc miệng, như phản ánh lại chính sự bất ngờ của Langdon. Trông bộ dạng viên Chỉ huy an ninh, dễ tưởng anh ta vừa nhìn thấy một loại bàn phím máy tính rất lạ lẫm.
- Giáo sư? - Sato lên tiếng - Tôi nghĩ là ông đọc được những chữ này?
Langdon ngó lại.
- Tại sao bà lại nghĩ thế?
- Bởi vì ông được mang tới đây, Giáo sư ạ. Ông được lựa chọn. Những chữ khắc này có vẻ là một dạng mật mã nào đó, và căn cứ vào tiếng tăm của ông, tôi thấy rõ ràng là người ta đưa ông tới để giải mã nó.
Langdon phải thừa nhận rằng sau những trải nghiệm ở Rome và Paris, anh liên tục nhận được đề nghị nhờ hoá giải các mật mã vẫn trong vòng tranh cãi, từ Đĩa Phaistos[1], Mật mã Dorabella[2], tới di cảo Voynich bí hiểm[3].
Sato rờ tay trên những dòng khắc.
- Ông cho tôi biết ý nghĩa của những tiêu ký này đi!
Đây không phải là những tiêu ký, Langdon nghĩ. Chúng là các biểu tượng. Anh đã nhận ra ngôn ngữ này, một loại ngôn ngữ mật mã từ thế kỷ XVII, và anh biết rất rõ cách giải mã nó.
- Thưa bà, kim tự tháp này là tài sản riêng của Peter. - anh ngập ngừng nói.
- Nếu thực tế đoạn mật mã này chính là lý do đưa ông tới Washington, thì tôi sẽ không cho ông cơ hội bàn đến chuyện của riêng hoặc của chung. Tôi muốn biết nó nói gì.
Chiếc Blackberry bật kêu to, Sato móc ngay ra khỏi túi, xem tin nhắn vừa gửi tới. Langdon rất ngạc nhiên vì mạng không dây nội bộ của Điện Capitol vẫn có thể hoạt động tít sâu dưới này.
Sato lầm bầm và nhướng mày, ném về phía Langdon một cái nhìn là lạ.
- Chỉ huy? - bà ta quay sang Anderson - Trao đổi riêng một chút, được không?
Giám đốc OS ra hiệu cho viên Chỉ huy an ninh đi theo, và họ biến mất ngoài hành lang tối đen như mực, bỏ Langdon lại một mình trong ánh nến chập chờn của Gian buồng Suy niệm.
o O o
Chỉ huy Anderson tự hỏi không biết khi nào thì buổi tối hôm nay mới kết thúc. Một bàn tay bị chặt đứt trong Nhà tròn của mình?Một linh đường chết chóc ngay trong tầng hầm của mình? Rồi những hình khắc kỳ quái trên một kim tự tháp đá? Trận đấu của đội Redskins giờ không còn ý nghĩa gì nữa.
Vừa theo Sato tiến vào bóng tối hành lang. Anderson vừa gõ nhẹ cây đèn pin. Quầng sáng đã yếu hẳn nhưng vẫn còn tốt hơn là chẳng có đèn đóm gì. Sato dẫn anh ta men theo hành lang vài thước, khuất khỏi tầm nhìn của Robert Langdon.
- Hãy xem cái này, - bà ta thì thào và đưa cho Anderson chiếc Blackberry của mình.
Anderson cầm lấy và chăm chú nhìn màn hình sáng rực. Nó hiển thị một bức hình đen trắng - hình X quang chiếc túi của Langdon mà Anderson đã yêu cầu gửi tới cho Sato. Ở tất cả các máy chụp X quang, những đồ vật có tỷ trọng lớn nhất sẽ xuất hiện với màu trắng sáng rõ nhất. Trong cái túi của Langdon có một vật nổi bật so với tất cả những thứ khác. Rõ ràng vật này cực kỳ đặc biệt vì nó hiện rõ như một món đồ trang sức sáng chói giữa cả mớ đồ linh tinh. Hình dáng của nó không lầm lẫn vào đâu được.
Anh ta đeo cái đó suốt buổi tối ư? Anderson nhìn Sato với vẻ ngạc nhiên.
- Sao cái tay Langdon này không nhắc đến nó nhỉ?
- Câu hỏi vớ vẩn quá, - Sato thì thào.
- Hình dạng… không thể là sự trùng hợp được.
- Không hề, - Sato đáp, giọng bà ta bừng bừng giận dữ - Tôi khẳng định là không.
Có tiếng lạo xạo mơ hồ trong hành lang khiến Anderson phải chú ý. Giật mình, anh ta quét cây đèn pin dọc theo lối đi tối đen. Luồng ánh sáng yếu ớt soi lên dãy hành lang vắng ngắt, các cánh cửa hai bên mở toang.
- Ai đó? - Anderson nói - Ai ở đó không?
Im lặng.
Sato ném cho viên Chỉ huy một cái nhìn kỳ quái, tỏ rõ rằng bà ta chẳng hề nghe thấy gì.
Anderson nghe ngóng một lúc nữa rồi mới bỏ cuộc. Mình phải chuồn khỏi đây thôi.
o O o
Còn lại một mình trong gian phòng thắp nến, Langdon dùng ngón tay rờ các viền sắc cạnh của dòng chữ trên kim tự tháp. Anh rất muốn biết bức thông điệp này nói gì, nhưng anh sẽ không xâm phạm bí mật riêng tư của Peter Solomon thêm nữa. Mà tại sao gã điên kia lại quan tâm đến cái kim tự tháp nhỏ này chứ?
- Chúng ta có một vấn đề, thưa Giáo sư, - giọng Sato vang lên rõ to ngay phía sau anh - Tôi vừa nhận được một thông tin mới, và tôi có đủ bằng chứng về những lời khai dối trá của ông.
Langdon xoay người lại. Vị Giám đốc OS đang bước vào với chiếc Blackberry trên tay, đôi mắt như bốc lửa. Langdon giật lui, liếc nhìn Anderson như cầu xin giúp đỡ, nhưng viên Chỉ huy lúc này đang đứng chắn ở cửa, vẻ mặt không hề có chút cảm thông.
Sato bước tới trước mặt Langdon và gí chiếc Blackberry của mình vào sát mặt anh.
Langdon kinh ngạc nhìn bức ảnh đen trắng như một âm bản phim trên màn hình. Bức hình hiển thị đủ thứ linh tinh, và một trong số đó rất sáng. Mặc dù không chính diện, nhưng vẫn có thể nhận ra đấy là một cái kim tự tháp nhỏ, đầu nhọn.
Một cái kim tự tháp bé xíu? Langdon nhìn Sato.
- Cái gì thế?
Câu hỏi dường như khiến Sato điên tiết.
- Ông giả vờ giả vịt đấy hả?
Cơn giận của Langdon bùng phát.
- Tôi chẳng vờ vịt gì hết! Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ này!
- Vớ vẩn! - Sato cáu kỉnh, giọng bà ta xuyên qua màn không khí ẩm ướt - Suốt cả tối. Ông đã mang theo nó trong cái túi kia!
- Tôi… - Langdon chững lại nửa chừng. Mắt anh từ từ dịch chuyển xuống chiếc túi trên vai mình. Sau đó, anh lại ngước lên nhìn màn hình Blackberry. Lạy Chúa… cái gói. Anh ghé sát vào bức hình. Giờ anh đã nhận ra. Một cái hộp vuông có chứa kim tự tháp. Thì ra đây là bức hình chụp X quang túi vải của anh… và cả gói nhỏ hình hộp bí ẩn của Solomon. Khối hộp rỗng lòng… chứa một ngọn kim tự tháp.
Langdon toan phân trần, nhưng mọi ngôn từ bỗng bay biến đâu hết. Nhận thức giáng cho anh một đòn chí mạng, buồng phổi như không còn chút không khí nào nữa.
Đơn giản. Rõ ràng. Tàn phá.
Lạy Chúa. Anh nhìn lại cái kim tự tháp đá cụt ngọn nằm trên bàn. Đỉnh nó phẳng lì - một mặt cắt vuông vức nho nhỏ - một không gian bỏ trống đang chờ đợi cấu phần cuối cùng của mình… Cấu phần sẽ biến cải nó từ một Kim tự tháp Dang dở thành một Kim tự tháp Đích thực.
Giờ Langdon đã vỡ lẽ, cái kim tự tháp nhỏ xíu mà anh mang theo người không phải là một kim tự tháp hoàn chỉnh. Nó là phần chóp.
Trong khoảnh khắc đó, anh hiểu rõ tại sao chỉ mình anh mới đủ khả năng mở khoá những bí ẩn của kim tự tháp này.
Chính mình giữ phần chóp.
Và trên thực tế đó là một… lá bùa.
Khi Peter bảo Langdon rằng cái gói có chứa một lá bùa (talisman), Langdon đã không nhịn được cười. Giờ đây anh hiểu bạn mình nói đúng. Cái đỉnh kim tự tháp bé xíu này là một lá bùa, chứ không phải phép màu. Rất lâu trước khi từ bùa chú mang ý nghĩa phép thuật, nó đã có một nghĩa khác - "hoàn chỉnh", Bắt nguồn từ telesma trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là "hoàn chỉnh", một lá bùa là bất cứ thứ gì hoặc ý tưởng gì hoàn tất thứ khác và làm cho thứ ấy trở thành chỉnh thể.
Nó là nhân tố hoàn thiện. Một cái chóp, nói một cách hình tượng, là lá bùa cuối cùng, biến Kim tự tháp Dang dở thành một biểu tượng của sự hoàn hảo trọn vẹn.
Lúc này, Langdon cảm thấy một sự pha trộn kỳ quái buộc anh phải chấp nhận một sự thật rất lạ: nếu không xét đến kích cỡ, thì kim tự tháp đá trong Gian buồng Suy niệm của Peter dường như đang dần biến đổi thành một thứ giống với Kim tự tháp Tam điểm trong huyền thoại.
Căn cứ vào độ sáng mà cái chóp thể hiện trên máy X quang, Langdon tin rằng nó được làm bằng kim loại… một thứ kim loại rất đặc. Liệu nó có phải là vàng khối hay không thì anh chưa biết và cũng không định để tâm trí đánh lừa chính mình. Cái kim tự tháp này quá nhỏ. Mật mã quá dễ đọc, và… nó là một huyền tích, lạy Chúa!
Sato vẫn quan sát anh.
- Là người hiểu biết mà Giáo sư lại xử sự rất dở tối nay. Định nói dối một Giám đốc tình báo ư? Hay cố tình cản trở cuộc điều tra của CIA?
- Tôi có thể giải thích, nếu bà cho phép.
- Ông sẽ phải giải thích tại trụ sở CIA. Còn lúc này, tôi bắt giữ ông.
Người Langdon cứng đờ.
- Bà không thể làm như vậy được.
- Hoàn toàn được. Tôi đã nhấn mạnh rằng ván bài tối nay rất lớn, và ông đã chọn nước bài không chịu hợp tác. Tôi khuyên ông nên nghĩ đến việc giải thích dòng chữ khắc trên kim tự tháp này, bởi vì khi chúng ta đến CIA… - Bà ta giơ chiếc Blackberry lên và chụp cận cảnh nội dung chữ khắc trên cái kim tự tháp đá - Các chuyên gia phân tích của tôi sẽ tiến hành trước đấy.
Langdon toan mở miệng phản đối, nhưng Sato đã ngó ra cửa, bảo Anderson.
- Chỉ huy, - bà ta ra lệnh - hãy cho cái kim tự tháp đá vào túi ông Langdon và xách lấy. Tôi sẽ bắt giữ ông Langdon. Vũ khí của anh đâu?
Anderson tiến vào phòng với bộ mặt lạnh lùng, rút khẩu súng của mình đưa cho Sato. Bà ta lập tức chĩa súng vào Robert Langdon.
Langdon tưởng đâu tất cả như không thật. Sao lại thế này chứ?
Bấy giờ Anderson tiến tới chỗ Langdon, nhấc cái túi khỏi vai anh, mang nó tới bên bàn và đặt lên ghế. Anh ta mở khoá, vạch miệng túi ra và nhét cái kim tự tháp đá nặng trịch trên bàn vào túi, cùng với sổ sách của Langdon và cái gói nhỏ.
Đột nhiên, có tiếng động ngoài hành lang. Bóng một người hiện ra ở ô cửa, lao bổ vào phòng và xẹt đến phía sau Anderson. Viên Chỉ huy chưa kịp phát giác thì đã bị người đó rùn vai huých mạnh vào lưng. Anderson chúi về phía trước, đầu va mạnh vào mép hốc tường.
Anh ta ngã sụp xuống bàn, làm cho mấy khúc xương cùng các đồ vật bắn tung lên. Chiếc đồng hồ cát vỡ tan dưới sàn. Cây nến đổ nghiêng trên nền nhà nhưng vẫn cháy.
Sửng sốt trước cảnh rối loạn này, Sato giơ ngay súng lên, nhưng người vừa đến đã chụp lấy một đoạn xương đùi và quật mạnh vào vai bà ta. Sato rú lên đau đớn và bật ngửa, đánh rơi cả vũ khí. Người kia đá văng khẩu súng đi rồi quay về phía Langdon. Đó là một người da đen cao dong dỏng, ăn vận rất lịch sự mà Langdon chưa gặp mặt bao giờ.
- Chụp lấy cái kim tự tháp! - người đàn ông ra lệnh - Theo tôi!
Chú thích
[1] Đĩa Phaistos là một chiếc đĩa bằng đất sét nung lấy từ cung điện Phaistos từ thời Minoa, có lẽ từ giai đoạn giữa hoặc cuối Thời kỳ đồ đồng (thế kỷ II trước Công nguyên). Nó có đường kính khoảng 15 cm và cả hai mặt đều phủ kín một vòng xoáy ốc gồm các biểu tượng được đóng dầu. Mục đích và ý nghĩa của nó, cũng như nơi sản xuất ra nó vẫn là một điều gây tranh cãi, làm cho nó trở thành một trong những bí ẩn nổi tiếng nhất của ngành khảo cổ. Hiện vật độc đáo này hiện được trưng bày tại bảo tàng khảo cổ Heraklion ở Crete, Hy Lạp. Đĩa do nhà khảo cổ người Italia là Luigi Pernier tìm ra năm 1908. Đặc điểm của nó là 241 dấu hiệu, hình thành lên 45 dấu hiệu độc đáo, rõ ràng được tạo thành bằng cách đóng những "con dấu" tượng hình đã tạo sẵn vào một chiếc đĩa đất sét còn mềm, xoáy trôn ốc thuận chiều kim đồng hồ về phía tâm đĩa - ND.
[2] Mật mã Dorabella là một bức thư mã hoá do Tòng Nam tước Edward Elgar, nhà soạn nhạc người Anh, viết cho cô Dora Penny. Cho đến giờ ý nghĩa của bức thư vẫn là điều bí mật. Bức mật mã này gồm 87 ký tự chia làm 3 dòng, có vẻ như được tạo thành từ một bảng chữ cái gồm 24 biểu tượng, mỗi biểu tượng gồm 1, 2, hoặc 3 hình bán khuyên, xoay theo một trong 8 hướng - ND.
[3] Di cảo Voynich là một cuốn sách có minh hoạ bí ẩn vẫn chưa được giải mã. Người ta nghĩ rằng nó được viết trong khoảng thế kỷ XV-XVI. Vẫn chưa rõ về tác giả, kiểu chữ viết và ngôn ngữ trong di cảo. Cuốn sách được đặt theo tên thương nhân bán sách người Mỹ gốc Ba Lan là Wilfrid M. Voynich, người có được nó vào năm 1912. Hiện di cảo được lưu giữ tại Thư viện Di cảo và Sách hiếm Beinecke thuộc Đại học Yale với số hiệu "MS 408". Người ta ước đoán sách gốc có 272 trang chia thành 17 tay sách, mỗi tay sách 16 trang. Hiện nay chỉ còn 240 trang bằng giấy da cừu, có một vài trang đã bị thất lạc khi Voynich có được cuốn sách - ND.
 
CHƯƠNG 42


Người đàn ông da đen đang dẫn Langdon qua mê cung ngầm của Điện Capitol rõ ràng là một nhân vật quyền thế. Ngoài việc thông thuộc đường đi lối lại giữa những hành lang và phòng ốc, ông ta còn mang theo một chiếc chìa khoá dường như mở được tất cả mọi cánh cửa trên đường họ đi.

Langdon theo sau, mau chóng chạy lên một cầu thang lạ hoắc. Quai da của chiếc túi đang đeo thít chặt vào vai anh theo mỗi bước đi Kim tự tháp đá nặng đến nỗi Langdon chỉ sợ nó sẽ làm quai túi đứt tung.
Những phút vừa qua thật phi lý, và giờ Langdon thấy hành động của mình hoàn toàn thuần bản năng. Lòng anh mách bảo rằng hãy tin tưởng người lạ này. Không chỉ cứu Langdon khỏi bị bắt giữ, ông ta còn mạo hiểm bảo vệ kim tự tháp bí ẩn của Peter Solomon cho dù cái kim tự tháp có là gì đi nữa. Tuy chưa rõ động cơ của người lạ, nhưng Langdon đã kịp nhận ra chiếc nhẫn vàng lấp lánh trên tay ông ta, một chiếc nhẫn của Hội Tam điểm với con phượng hoàng hai đầu cùng chữ số 33. Người đàn ông này và Peter Solomon không chỉ là những người bạn đáng tin cậy của nhau mà còn là huynh đệ Tam điểm ở cấp độ cao nhất.
Langdon theo người nọ lên đến đỉnh cầu thang, bước vào hành lang khác, băng qua một cánh cửa không có biển đề để tới lối đi dành cho nhân viên phục vụ. Họ chạy qua hàng dãy hộp nhu yếu phẩm và những túi rác, thình lình rẽ sang một cánh cửa dẫn tới một rạp chiếu phim sang trọng. Người dẫn đường đi theo lối ngách, qua những ô cửa chính để tới một tiền sảnh rất lớn. Giờ thì Langdon nhận ra họ đang ở trung tâm khách tham quan mà anh đã đi qua hồi tối.
Thật không may, ở đó có một nhân viên an ninh Điện Capitol.
Khi hai bên chạm mặt cả ba người đều dừng lại, đăm đăm nhìn nhau. Langdon nhận ra anh chàng gốc Tây Ban Nha này chính là người có mặt bên máy chiếu X quang.
- Nhân viên Nunez - người Mỹ da đen lên tiếng - Đừng nói gì. Hãy theo tôi.
Anh chàng cảnh vệ có vẻ băn khoăn nhưng vẫn làm theo mà không hỏi gì.
Người này là ai nhỉ?
Cả ba vội vã đi về góc đông nam của trung tâm du khách, tới một phòng giải lao nhỏ và một dãy cửa nặng nề với nhiều cột màu cam. Các cửa này đều được dán băng dính, rõ ràng để khỏi dính bụi từ khu vực tham quan bên ngoài. Người đàn ông bước tới và gỡ băng dính trên một cánh cửa. Sau đó, ông lục tìm chùm chìa khoá và nói với anh chàng nhân viên an ninh.
- Chỉ huy Anderson của chúng ta đang ở tầng đáy. Có lẽ anh ấy bị thương. Anh nên xuống xem tình hình thế nào.
- Vâng, thưa ngài - Trông Nunez thiểu não y như vấp phải tình huống báo động vậy.
- Điều quan trọng nhất là anh không hề gặp chúng tôi - Người đàn ông lựa ra một chiếc chìa khoá, tháo rời khỏi chùm và dùng nó để mở một cánh cửa đã cũ. Ông kéo cánh cửa thép và ném chiếc chìa cho anh chàng nhân viên - Hãy khoá cánh cửa này lại sau khi chúng tôi qua. Dán băng dính như cũ. Cho chìa khoá vào túi và đừng nói gì với bất kỳ ai. Kể cả Chỉ huy. Rõ chưa, nhân viên Nunez?
Anh chàng kia nhìn chiếc chìa khoá như thể vừa được tin tưởng giao phó một viên đá quý.
- Rõ, thưa ngài.
Người đàn ông bước vội qua cửa, Langdon đi theo. Anh nhân viên an ninh khoá cánh cửa nặng nề, Langdon còn nghe rõ tiếng anh ta dán lại băng dính.
- Giáo sư Langdon, - người đàn ông lên tiếng, đồng thời sải bước theo một hành lang khá hiện đại đang xây dở - Tên tôi là Warren Bellamy, bạn chí thân của Peter Solomon.
Langdon giật mình nhìn người đàn ông lịch lãm. Ông ta là Warren Bellamy ư? Tuy chưa từng gặp mặt, nhưng anh đã nghe nhắc nhiều đến tên tuổi vị kiến trúc sư Điện Capitol này.
- Peter đánh giá anh rất cao - Bellamy nói - và tôi thật tiếc vì chúng ta gặp nhau trong hoàn cảnh không vui vẻ gì.
- Peter đang gặp rắc rối. Tay ông ấy…
- Tôi biết - Giọng Bellamy đanh lại - Tôi sợ rằng thế chưa phải đã hết đâu.
Họ đến cuối hành lang khá sáng sủa, và lối đi đột ngột ngoặt sang trái, phía ấy tối như mực.
- Đi nào, - Bellamy nói và biến mất trong một phòng điều khiển điện gần đó, có cả mớ dây nhợ màu cam bò ra từ phòng này rồi chạy vào bóng tối hun hút của hành lang. Langdon chờ đợi, còn Bellamy dò dẫm bên trong. Chắc ông định tìm công tắc điện, bởi cả đãy hành lang trước mặt họ đột nhiên sáng trưng.
Langdon đứng đờ ra nhìn.
Washington D.C. - cũng như Rome - là một thành phố có nhiều lối đi bí mật và nhiều đường hầm dưới lòng đất. Lúc này, lối đi trước mặt khiến Langdon nhớ tới đường hầm Passetto[1] nối Vatican với Lâu đài Sant’Angelo[2]. Rất dài. Tối tăm. Chật hẹp. Tuy nhiên, khác với Passetto cổ kính, lối đi này còn mới và vẫn chưa hoàn thiện. Đây là một khu vực xây dựng dài đến mức dường như không có điểm cuối. Thứ ánh sáng duy nhất là một dãy bóng đèn bố trí cách quãng càng làm nổi bật chiều sâu hun hút của đường hầm.
Bellamy đã tiến vào hành lang.
- Theo tôi. Cẩn thận khi bước đấy.
Langdon theo sát dấu chân Bellamy, lòng băn khoăn không rõ đường hầm này dẫn tới đâu.
o O o
Cùng lúc đó, Mal’akh bước ra khỏi Khoang 3 và rảo chân theo hành lang chính vắng hoe của SMSC để tiến về phía Khoang 5. Gã nắm chặt tấm thẻ của Trish trong tay và khẽ lẩm bẩm.
- Không-tám-không-bốn.
Trong đầu gã còn lởn vởn ý nghĩ gì đó. Mal’akh vừa nhận được một tin nhắn khẩn từ Điện Capitol. Tay trong của ta vướng phải những trở ngại ngoài dự đoán. Thế nhưng vẫn có những tin khá thú vị: Rober Langdon đã nắm giữ cả kim tự tháp và cái chóp. Cho dù mọi việc diễn ra ngoài dự liệu thì các đồ vật quan trọng đều đã tụ về một chỗ. Số phận đang an bài mọi sự kiện tối nay, bảo đảm cho thắng lợi của Mal’akh.
Chú thích
[1] Đường hầm Passetto di Borgo, gọi tắt là Passetto, là một lối đi trên cao nối giữa Vatican và Lâu đài Sant’Angelo. Đây là một hành lang dài gần 800 m, được Giáo hoàng Nicholas III cho xây năm 1277. Trong một số trường hợp, nó được dùng làm lối thoát hiểm cho Giáo hoàng - ND.
[2] Bảo tàng Hadrian, thường được đến với tên gọi Lâu đài Sant’Angelo, là một toà nhà hình tròn cao vút ở Rome, nguyên thuỷ được Hoàng đế La Mã Hardian xây dựng làm bảo tàng cho mình và gia đình. Sau này, công trình được sử dụng như một pháo đài, thậm chí là nơi giam cầm, còn nay là một bảo tàng. Lâu đài Sant’Angelo xuất hiện trong tiểu thuyết Thiên thần và ác quỷ của Dan Brown với tư cách là hang ổ bí mật của Hội Hassassin Và là thánh đường cuối cùng còn tồn tại của tổ chức Illuminati - ND.
 
CHƯƠNG 43


Langdon vội vã bước cho kịp Warren Bellamy, cả hai cùng im lặng di chuyển dọc đường hầm dài dằng dặc. Cho đến giờ, Kiến trúc sư Điện Capitol quan tâm đến việc mang kim tự tháp đi thật xa khỏi chỗ Sato hơn là giải thích cho Langdon về những điều đang xảy ra.

Langdon càng lúc càng hiểu rằng sẽ có nhiều biến cố vượt quá mọi hình dung của anh.
Nào là CIA? Rồi Kiến trúc sư Điện Capitol? Hai hội viên Tam điểm ở cấp 33?
Điện thoại di động của Langdon chợt ré lên. Anh móc nó ra khỏi túi áo khoác và ngập ngừng nghe máy.
- A lô?
Đầu bên kia là tiếng thì thào kỷ quái quen thuộc.
- Giáo sư, tôi nghe nói ông có một người bạn đồng hành bất ngờ.
Langdon bỗng ớn lạnh.
- Peter đâu rồi?! - anh hỏi, giọng vang vọng trong đường hầm kín bưng. Warren Bellamy lo lắng liếc sang và ra hiệu cho Langdon tiếp tục đi - Đừng lo, - gã kia đáp - Tôi đã nói với ông rồi. Peter ở một chỗ rất an toàn.
- Mày đã chặt đứt tay ông ấy, lạy Chúa? Ông ấy cần bác sĩ!
- Ông ấy cần giáo sĩ. - gã kia đáp - Nhưng ông có thể cứu Peter. Nếu ông làm theo lời tôi, Peter sẽ sống. Tôi thề đấy.
- Lời thề của một thằng điên chẳng nghĩa lý gì với tao hết.
- Điên ư? Giáo sư. Ông hãy ngẫm lại sự trân trọng tôi dành cho những nghi thức cổ xưa tối nay xem. Mật Thủ đã dẫn ông tới một cánh cổng, chính là cái kim tự tháp có thể hé mở những tri thức cổ xưa. Tôi biết là giờ ông đã có nó.
- Mày tưởng đây là Kim tự tháp Tam điểm ư? - Langdon hỏi lại - Nó chỉ là một cục đá thôi.
Đầu bên kia im lặng.
- Langdon, ông đừng giả ngốc nữa. Ông hiểu rất rõ những gì vừa khám phá tối nay. Một nhân vật Tam điểm rất quyền thế… giấu một kim tự tháp bằng đá… ở trung tâm Washington D.C.…?
- Mày đang theo đuổi một câu chuyên hão huyền? Cho dù Peter đã nói gì với mày thì đó cũng là vì ông ấy buộc phải nói. Truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm chỉ là hư cấu. Hội Tam điểm chưa bao giờ xây dựng bất kỳ kim tự tháp nào để bảo vệ tri thức bí truyền cả, và cho dù họ có xây đi chăng nữa thì cái kim tự tháp này cũng quá nhỏ, không thể là cái mà mày nghĩ đâu.
Gã đàn ông cười khùng khục.
- Tôi thấy là Peter tiết lộ rất ít với ông. Tuy nhiên, cho dù ông có chịu chấp nhận rằng mình đang giữ Kim tự tháp Tam điểm hay không, thì ông cũng phải làm theo những điều tôi yêu cầu. Tôi biết rất rõ rằng cái kim tự tháp ông mang theo bên người có một dòng chữ khắc ông sẽ giải mã dòng chữ ấy hộ tôi. Sau đó, nhớ là chỉ sau đó nhé, tôi sẽ trả Peter Solomon về cho ông.
- Dù dòng chữ khắc tiết lộ điều gì đi nữa thì nhất định nó cũng không phải là những Bí mật cổ xưa - Langdon nói.
- Dĩ nhiên là không phải rồi, - gã kia đáp - Những bí mật đó quá đồ sộ nên không thể viết lên bề mặt một cái kim tự tháp đá nhỏ xíu được.
Câu trả lời khiến Langdon phải chú ý.
- Nhưng nếu dòng chữ khắc không phải là Bí mật cổ xưa thì cái kim tự tháp này cũng không phải là Kim tự tháp Tam điểm. Truyền thuyết nói rất rõ Kim tự tháp Tam điểm được xây dựng để bảo vệ những Bí mật cổ xưa mà.
Giọng gã kia chợt nhũn nhặn hẳn.
- Thưa ông Langdon, Kim tự tháp Tam điểm được xây dựng để gìn giữ những Bí mật cổ xưa, nhưng với một dụng ý mà rõ ràng là ông vẫn chưa nắm được. Chẳng lẽ Peter lại chưa kể với ông ư? Sức mạnh của Kim tự tháp Tam điểm không phải ở chỗ nó tiết lộ các bí mật… mà là cho biết vị trí chôn giấu các bí mật ấy.
Langdon hết sức hoang mang.
- Hãy giải mã dòng chữ khắc đi - gã kia tiếp tục - và nó sẽ cho ông biết nơi cất giấu kho tàng vĩ đại nhất của nhân loại - Gã cười - Lão Peter không tin tưởng giao cho ông kho báu rồi, thưa Giáo sư!
Langdon đứng sững lại trong hầm.
- Này. Y anh nói, kim tự tháp này là một… bản đồ ư?
Bellamy cũng dừng bước, vẻ mặt bất ngờ và cảnh giác. Rõ ràng, kẻ gọi tới vừa tạo một ấn tượng mạnh. Kim tự tháp là một tấm bản đồ.
- Tấm bản đồ này, - gã kia thì thào - hay kim tự tháp, cánh cổng, hoặc bất kỳ tên gọi nào ông thích… được tạo ra từ rất lâu về trước để bảo đảm rằng vị trí cất giấu những Bí mật cổ xưa sẽ không bị quên lãng… và nó sẽ không bao giờ chìm nghỉm trong lịch sử.
- Một chuỗi 16 biểu tượng trông chẳng giống một bản đồ tí nào.
- Vẻ ngoài dễ gây nhầm lẫn đấy, thưa Giáo sư. Nhưng chỉ mình ông mới có đủ quyền năng để đọc những dòng chữ khắc đó.
- Anh nhầm to rồi, - Langdon vặc lại, cố hình dung ra dòng mật mã giản dị kia - Bất kỳ ai cũng có thể giải mã dòng chữ khắc này. Nó chẳng có gì phức tạp cả.
- Tôi cho rằng kim tự tháp còn nhiều ý nghĩa khác ẩn sâu. Nhưng dù sao thì cũng chỉ mình ông mới có phần chóp.
Langdon nhớ lại cái chóp nhỏ nằm trong túi mình. Trật tự từ trong hỗn loạn? Anh không biết tin vào điều gì nữa, cứ mỗi thời khắc qua đi cái kim tự tháp đá trong túi anh dường như nặng thêm.
Mal’akh áp chặt di động vào tai, khoái trá nghe tiếng thở đầy nôn nóng của Langdon ở đầu bên kia.
- Bây giờ tôi có việc phải làm, thưa Giáo sư, và ông cũng vậy. Hãy gọi cho tôi ngay khi ông giải mã được tấm bản đồ. Chúng ta sẽ cùng tới chỗ cất giấu và làm công việc của chúng ta. Mạng sống của Peter… đổi lấy toàn bộ tri thức của mọi thời đại.
- Tôi sẽ là làm gì hết, - Langdon tuyên bố - Đặc biệt là nếu không có bằng chứng rằng Peter vẫn còn sống.
- Tôi khuyên ông đừng thử thách tôi. Ông là một bánh răng rất quan trọng trong một cỗ máy đồ sộ. Nếu ông không nghe tôi, hay cố gắng truy tìm tôi, thì Peter sẽ chết. Tôi thề đấy.
- Theo tất cả những gì tôi biết thì Peter đã chết rồi.
- Peter vẫn còn sống, thưa Giáo sư, nhưng ông ấy rất cần sự giúp đỡ của ông đấy.
- Thực sự thì mày đang mong muốn điều gì? - Langdon quát vào điện thoại.
Mal’akh im lặng chốc lát rồi đáp.
- Rất nhiều người truy tìm các Bí mật cổ xưa và tranh giành sức mạnh của những bí mật ấy. Tối nay, tôi sẽ chứng minh những bí mật ấy là có thật.
Langdon im lặng.
- Tôi khuyên ông hãy xử lý cái bản đồ ngay đi, - Mal’akh nói - Tôi cần thông tin này trong ngày hôm nay.
- Hôm nay ư? Đã hơn 9 giờ tối rồi.
- Chính xác. Thời gian không còn nhiều đâu.
 
CHƯƠNG 44


Jonas Faukman, biên tập viên Thời báo New York, vừa tắt đèn trong văn phòng của mình ở Manhattan thì điện thoại đổ chuông.

Anh không hề có ý định nghe máy giờ này - nhất định thế, cho tới khi nhìn thấy danh tính người gọi. Hay ho đây, anh nghĩ bụng và với tay nhấc ống nghe.
- Cậu sẽ xuất bản chứ - Faukman hỏi, vẻ nghiêm túc.
- Jonas! - Giọng Robert Langdon đầy lo lắng - ơn Chúa là cậu vẫn còn đó. Tớ cần cậu giúp đỡ.
Tinh thần Faukman phấn chấn hẳn.
- Cậu đã xong bản thảo cho tớ biên tập rồi phải không Robert? Xong rồi hả?
- Không, tớ cần thông tin. Năm ngoái, tớ có giới thiệu cậu với một nhà khoa học tên là Katherine Solomon, em gái Peter Solomon ấy?
Faukman cau mày. Không có bản thảo.
- Cô ấy tìm một nhà xuất bản để ra cuốn sách về Lý trí học? Cậu còn nhớ cô ấy không?
Faukman đảo mắt.
- Rồi. Tớ nhớ, và vô cùng biết ơn vì vụ giới thiệu đó. Cô ấy không những từ chối cho tớ xem kết quả các nghiên cứu của mình mà còn không muốn xuất bản bất kỳ thứ gì cho tới một ngày quái nào đó trong tương lai cơ.
- Jonas, nghe tớ này, tớ không có thời gian đâu. Tớ cần số điện thoại của Katherine. Ngay bây giờ. Cậu có không?
- Tớ phải cảnh báo cậu rằng… cậu đang làm một việc vô vọng đấy Cô ấy trông rất tuyệt, nhưng cậu không gây ấn tượng cho cô ấy bằng…
- Đừng đùa, Jonas, tớ cần số điện thoại của cô ấy ngay.
- Được rồi… chờ nhé - Faukman là bạn thân của Langdon đã nhiều năm, đủ để biết khi nào thì Langdon nghiêm túc. Anh gõ tên Katherine Solomon vào cửa sổ tìm kiếm và bắt đầu rà máy chủ e-mail của công ty.
- Tớ đang tìm đây, - Faukman nói - Nhưng để làm gì chứ, khi gọi cho cô ấy, có thể cậu sẽ không muốn gọi từ bể bơi Harvard đâu. Như thế thì chẳng khác gì cậu đang ở trong trại tâm thần.
- Tớ không ở bể bơi. Tớ đang ở trong một đường hầm bên dưới Điện Capitol.
Nghe giọng Langdon. Faukman cảm nhận được rằng bạn mình không hề đùa cợt. Có chuyện gì với thằng cha này vậy nhỉ?
- Robert, sao cậu không ở nhà và viết sách nhỉ? - Máy tính của Faukman dừng lại - Được, nào… tớ có đây rồi - Anh lật qua danh sách e-mail dài dằng dặc - Hình như tớ còn số di động của cô ấy.
- Tớ sẽ ghi lại ngay.
Faukman đọc số điện thoại cho Langdon.
- Cảm ơn nhé, Jonas, - Langdon nói, giọng cảm kích - Tớ nợ cậu lần này.
- Cậu nợ tớ một bản thảo, Robert. Cậu định bao lâu nữa…
Máy ngắt.
Faukman đăm đăm nhìn ống nghe và lắc đầu. Xuất bản sách sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu không có các ông bà tác giả.
 
CHƯƠNG 45


Katherine Solomon ngạc nhiên khi nhìn thấy tên người gọi. Cô cứ nghĩ cuộc gọi tới là của Trish để giải thích lý do tại sao hai người họ lại đi lâu đến vậy. Nhưng người gọi không phải là Trish.

Hoàn toàn không phải.
Một nụ cười bẽn lẽn thoáng hiện trên môi Katherine. Liệu tối nay còn chuyện gì lạ lùng hơn nữa không?
Cô mở máy.
- Đừng nói với tôi là - giọng cô vui vẻ - Một anh chàng độc thân suốt ngày chúi mũi vào sách vở lại tìm kiếm một nhà Lý trí học chưa lập gia đình nhé?
- Katherine! - giọng Robert Langdon vang lên - ơn Chúa, chị vẫn ổn.
- Dĩ nhiên là tôi vẫn ổn, - Katherine đáp, vẻ bối rối - Chỉ phiền lòng vì anh chẳng chịu gọi cho tôi từ sau bữa tiệc ở nhà Peter mùa hè năm ngoái.
- Tối nay có một sự cố. Xin hãy nghe đây - Giọng nói trơn tru ngày thường của Langdon bỗng như vấp váp - Tôi lấy làm tiếc phải nói với chị chuyện này… nhưng anh Peter đang gặp rắc rối lớn.
Nụ cười của Katherine biến mất.
- Anh đang nói gì vậy?
- Anh Peter… - Langdon chần chừ như muốn lựa lời - Tôi không biết phải nói sao, nhưng anh ấy đã bị… bắt cóc. Tôi không rõ như thế nào và do ai, nhưng…
- Bị bắt cóc ư? - Katherine hỏi lại - Robert, anh doạ tôi đấy à? Bắt đi đâu?
- Bị bắt làm con tin - Giọng Langdon đầy bối rối - Chắc sự việc xảy ra sớm hôm nay hoặc từ hôm qua.
- Đừng đùa thế, - Katherine giận dữ - Anh trai tôi vẫn ổn. Tôi vừa nói chuyện với anh ấy mười lăm phút trước?
- Thật không?! - Giọng Langdon đầy sửng sốt.
- Thật! Anh ấy gửi tin nhắn cho tôi nói rằng đang trên đường tới phòng thí nghiệm.
- Anh ấy gửi tin nhắn cho chị… - Langdon kêu to - Nhưng chị không hề nghe thấy tiếng anh ấy phải không?
- Không, nhưng…
- Nghe tôi nói này. Tin nhắn chị nhận được không phải của anh trai chị. Có kẻ đã lấy điện thoại của Peter. Hắn rất nguy hiểm. Chính hắn là kẻ đã lừa tôi tới Washington tối nay.
- Lừa anh ư? Chẳng ra làm sao cả.
- Tôi biết, tôi xin lỗi - Langdon có vẻ hoang mang khác thường - Katherine, tôi nghĩ chị đang gặp nguy hiểm đấy.
Katherine Solomon biết chắc rằng Langdon không bao giờ đùa cợt kiểu này, nhất là với giọng điệu như mất trí ấy.
- Tôi ổn mà, - cô đáp - Tôi đang ở trong một toà nhà rất an toàn!
- Đọc cho tôi nghe tin nhắn chị nhận từ điện thoại của Peter. Nào!
Hết sức bối rối, Katherine mở lại tin nhắn và đọc cho Langdon nghe, cô thấy châu thân ớn lạnh khi đọc đến phần nhắc tới bác sĩ Abaddon. "Nếu được, mời bác sĩ Abaddon cùng tham gia với chúng ta. Anh tin anh ấy hoàn toàn…"
- Ôi lạy Chúa… - Giọng Langdon đầy sợ hãi - Chị đã mời người này vào đó chưa?
- Rồi! Trợ lý của tôi đã ra sảnh dẫn anh ta vào. Tôi nghĩ họ sẽ quay lại bất kỳ…
- Katherine, thoát ra ngay đi! - Langdon hét lên - Ngay bây giờ!
o O o
Phía bên kia SMSC, điện thoại phòng an ninh bỗng đổ chuông, át hẳn tiếng trận đấu của đội Redskins. Người bảo vệ chần chừ tháo tai nghe một lần nữa.
- Phòng chờ đây, - anh ta lên tiếng - Tôi là Kyle.
- Kyle, Katherine Solomon đây! - Katherine hổn hển gọi, giọng đầy thảng thốt.
- Thưa cô, anh trai cô vẫn chưa…
- Trish đâu rồi? - cô hỏi - Anh có thấy cô ấy trên màn hình không?
Người bảo vệ xoay ghế về phía dãy màn hình.
- Cô ấy vẫn chưa trở lại Khối hộp ạ?
- Chưa! - Katherine hét lên như báo động.
Lúc này, người bảo vệ mới nhận ra rằng Katherine Solomon hoàn toàn mất bình tĩnh, hình như cô ấy đang chạy. Có chuyện gì ở đó không biết? Anh ta nhanh chóng điều khiển cần máy quay, lướt qua các khuôn hình với tốc độ nhanh.
- Đây rồi, vâng, tôi đang tua lại… tôi thấy Trish cùng vị khách của cô rời phòng khách… họ đi xuống hành lang… tua nhanh nhé… rồi, họ vào Thuỷ trì tua nhanh nhé… rồi, đây họ vừa rời Thuỷ trì chừng một phút trước… đi về phía… - Anh ta gõ gõ vào trán, cho máy chạy chậm lại - Chờ chút. Không ổn rồi.
- Sao cơ?
- Chỉ có mình quý ông ra khỏi Thuỷ trì thôi.
- Trish vẫn ở bên trong à?
- Vâng, có vẻ như vậy. Tôi thấy vị khách của cô… anh ta ở trong sảnh một mình.
- Trish đâu rồi? - Katherine hỏi, giọng càng cuống hơn nữa.
- Tôi không thấy cô ấy trên video, - người bảo vệ đáp, giọng thoáng lo lắng. Anh ta xem lại màn hình và nhận ra tay áo khoác người kia bị ướt… lên đến tận khuỷu. Thằng cha này làm quái gì trong Thuỷ trì không biết? Hắn ta bắt đầu bước dọc hành lang chính về phía Khoang 5, tay cầm chặt một thứ trông giống… tấm thẻ.
Người bảo vệ cảm thấy tóc ở sau gáy dựng đứng.
- Cô Solomon, chúng ta gặp phải một chuyện rất nghiêm trọng rồi.
o O o
Tối nay là một buổi tối dị thường đối với Katherine Solomon.
Hai năm qua, cô chưa hề sử dụng điện thoại di động trong bóng tối cũng chưa bao giờ phải băng qua khoảng tối ấy bằng cách chạy thục mạng cả. Tuy nhiên, lúc này, Katherine đang áp chặt điện thoại di động vào tai và quáng quàng lao vội dọc chiều dài lớp thảm vô định. Mỗi lần cảm thấy chân chệch ra khỏi thảm, cô lại nhích vào giữa, hối hả băng qua bóng tối mịt mùng.
- Gã ta đâu rồi? - Katherine hỏi người bảo vệ.
- Tôi đang kiểm tra, - người bảo vệ đáp - Tua lên đây… được rồi, gã đang đi xuống đại sảnh… về phía Khoang 5…
Katherine guồng mạnh chân, hy vọng kịp ra tới cửa để khỏi bị kẹt lại trong này.
- Còn bao lâu nữa thì gã tới được cửa Khoang 5?
Người bảo vệ nín lặng.
- Thưa cô, cô không hiểu sao? Tôi đang tua đi mà. Đây là chế độ xem lại. Mọi việc đã xảy ra rồi - Anh ta ngừng lời - Chờ chút, để tôi kiểm tra màn hình lối vào - Dừng chốc lát, anh ta nói tiếp - Thưa cô, thẻ của cô Dunne đã nhập lệnh vào được một phút rồi.
Katherine khựng lại ngay giữa khoảng tối mịt mùng.
- Gã đã mở cửa Khoang 5 rồi à? - cô thì thào trên điện thoại.
Người bảo vệ vội vã gõ bàn phím.
- Vâng, hình như gã đã vào… 90 giây trước.
Toàn thân Katherine cứng đờ. Cô nín thở. Bóng tối xung quanh đột nhiên như có sự sống.
Gã đã vào trong này cùng với mình.
Trong khoảnh khắc, Katherine nhận ra rằng thứ ánh sáng duy nhất trong khoảng không gian tối om này chính là từ điện thoại di động của cô, soi rõ gương mặt cô.
- Gọi hỗ trợ ngay - cô thì thào với người bảo vệ - Và tới Thuỷ trì giúp Trish - Rồi cô vội tắt điện thoại.
Bóng tối mịt mùng phủ kín xung quanh.
Katherine đứng im lìm và thở thật khẽ. Sau vài giây, mùi. ethanol toả ra từ khoảng tối trước mặt cô. Mùi đó càng lúc càng đậm. Cô có thể cảm nhận được sự hiện diện của kẻ kia, gã chỉ ở cách cô vài bước.
Trong im lặng, tiếng tim đập nghe sao rõ đến vậy. Rất khẽ khàng, Katherine rút chân khỏi giày và nhích sang trái, bước lệch khỏi tấm thảm. Nền xi măng lạnh ngắt dưới chân cô. Cô dịch ra khỏi tấm thảm thêm một bước.
Một ngón chân cô bỗng miết két xuống sàn nhà.
Chẳng khác gì tiếng súng giữa thinh không.
Tiếng quần áo sột soạt vang lên cách đó vài bước. Katherine phản ứng quá trễ, một cánh tay chắc khỏe sượt qua cô, quờ quạng trong bóng tối như cố túm lấy cô. Katherine vùng mạnh ra khi bàn tay lạ nắm được áo choàng, kéo cô trở lại.
Katherine duỗi thẳng hai tay ra sau để tuột khỏi áo choàng và thoát đi. Đột nhiên, chẳng cần biết đâu là lối ra nữa, cô quáng quàng lao về phía trước, băng qua bóng tối vô định mịt mùng.
 
CHƯƠNG 46


Mặc dù sở hữu "không gian đẹp nhất thế giới", như nhiều người thường nói, nhưng Thư viện Quốc hội lại được biết đến nhờ bộ sưu tập sách đồ sộ hơn là nhờ kiến trúc tráng lệ mê hồn. Với những giá sách kéo dài đến hơn 500 dặm - một khoảng cách tương đương từ Washington D.C. đến Boston - nó dễ dàng giành được danh hiệu thư viện lớn nhất thế giới, và vẫn đang tiếp tục mở rộng với tốc độ hơn 10.000 đầu mục sách mỗi ngày.

Thư viện Quốc hội là nơi cất giữ bộ sưu tập cá nhân sách khoa học và triết học của Thomas Jefferson, giờ đây nó đã trở thành biểu tượng cho lời cam kết của nước Mỹ về sự nghiệp phổ biến tri thức. Là một trong những toà nhà đầu tiên ở Washington được mắc điện, thư viện thực sự toả sáng như ngọn đèn hiện trong bóng u minh ở Tân Thế giới.
Đúng như tên gọi của nó, Thư viện Quốc hội được thành lập để phục vụ các nghị sĩ đáng kính làm việc trong Điện Capitol ngay bên kia đường. Mối liên hệ lâu đời giữa thư viện và Điện Capitol gần đây lại được củng cố thêm nhờ việc xây dựng một cầu nối hữu hình - một đường hầm dài ngay bên dưới Đại lộ Độc Lập, nối liền hai toà nhà.
Đêm nay, trong đường hầm tăm tối này, Robert Langdon theo Warren Bellamy băng qua khu vực đang xây dựng dở, cố gắng chế ngự tâm trạng lo lắng mỗi lúc một tăng về Katherine. Gã điên đang ở phòng thí nghiệm của chị ấy! Langdon thậm chí còn không muốn hình dung xem vì sao lại như vậy. Khi gọi đến để cảnh báo, Langdon đã cho Katherine biết chính xác địa điểm để cô tới gặp anh. Cái đường hầm quái quỷ này còn kéo dài bao xa nữa đây? Đầu anh đau như búa bổ vì những ý nghĩa chồng chéo, đan xen quay cuồng: Katherine, Peter, Hội Tam điểm. Bellamy, kim tự tháp, lời tiên tri cổ xưa và một tấm bản đồ.
Langdon lắc đầu, cố xua đuổi những ý nghĩ ấy và rảo bước đi tới.
Bellamy đã hứa sẽ giải đáp cho mình.
Tới đầu bên kia của đường hầm, Bellamy dẫn Langdon đi qua một dãy cửa hai cánh vẫn đang trong quá trình xây dựng. Chưa thể khoá được cửa, Bellamy đành ứng biến bằng cách lấy một chiếc thang nhôm trong đống dụng cụ xây dựng, dựa hờ nó vào mé ngoài cánh cửa. Sau đó, ông đặt một cái xô bằng kim loại lên đỉnh thang. Nếu có ai mở cửa, cái xô sẽ rơi loảng xoảng xuống sàn.
Hệ thống báo động đây hả? Langdon ngó cái xô đặt chênh vênh, hy vọng Bellamy có một kế hoạch toàn diện hơn để bảo đảm an toàn cho họ tối nay. Mọi thứ diễn ra quá nhanh, tới lúc này Langdon mới bắt đầu xem xét hậu quả của việc tẩu thoát. Mình là một kẻ đang trốn chạy CIA.
Bellamy đi trước quành qua một góc tường, từ đây họ bắt đầu leo lên một cầu thang rộng rãi nằm giữa hai hàng cột màu cam. Cái túi da kéo trĩu vai Langdon theo từng bước tiến.
- Về kim tự tháp đá, - anh đánh tiếng - tôi vẫn chưa hiểu…
- Không phải ở đây, - Bellamy ngắt lời - Chúng ta sẽ xem xét nó ở chỗ sáng. Tôi biết một nơi an toàn.
Langdon băn khoăn, liệu có nơi nào đủ an toàn cho kẻ vừa đánh trọng thương Giám đốc Phòng An ninh của CIA hay không.
Lên hết cầu thang, hai người bước vào một hành lang rộng xây bằng đá cẩm thạch Italia, vữa trang trí và vàng lá. Đại sảnh có tám cặp tượng dàn thành hai hàng, tất cả đều là tượng nữ thần Minerva. Bellamy vẫn rảo bước, dẫn Langdon đi về phía đông, qua một cửa vòm để tiến vào một không gian rộng lớn hơn nhiều.
Dù đèn đóm chỉ còn lờ mờ do đã hết giờ làm việc, đại sảnh thư viện vẫn hiện lên rực rỡ trong dáng vóc cổ điển của một toà dinh thự sang trọng kiểu châu Âu. Ở độ cao 22 mét, những ô cửa sổ lắp kính màu lấp lánh giữa viền khung thếp nhôm lá hiếm - thứ kim loại có thời còn quý hơn vàng. Đỡ bên dưới là một dãy cột đôi sừng sững chạy dọc ban công tầng hai, dẫn đến hai cầu thang xoắn rất lộng lẫy, mỗi chấn song lại đỡ một bức tượng thiếu nữ bằng đồng đang giơ cao ngọn đuốc khai sáng.
Vừa cố gắng thể hiện chủ đề khai tâm thời hiện đại vừa nỗ lực bảo lưu phong cách kiến trúc trang trí thời Phục hưng, các lan can đều chạm hình thiên sứ kháu khỉnh, dáng dấp tựa thần ái tình nhưng tư thế lại mô phỏng khoa học gia, chẳng hạn kỹ sư điện thiên thần cầm điện thoại hoặc nhà côn trùng học ngây thơ bưng mẫu vật… Langdon tự hỏi không biết Bernini[1] sẽ nghĩ gì khi trông thấy cảnh này.
- Chúng ta lại đằng kia nói chuyện - Bellamy gọi, dẫn Langdon đi qua dãy tủ trưng bày lắp kính chống đạn, bên trong chứa hai cuốn sách quý nhất của thư viện: cuốn Đại Kinh thánh Mainz, bản viết tay năm 1450, và bản sao cuốn Kinh thánh Gutenberg của Mỹ, một trong ba bản sao bằng da cừu hoàn hảo nhất the giới. Thật thích hợp là phần vòm trần phía trên thể hiện bức vẽ sáu mảnh nhan đề Lịch sử tiến hoá Sách của John White Alexander.
Bellamy bước thẳng tới hai ô cửa cánh đôi rất trang nhã trổ chính giữa mặt sau bức tường hành lang phía đông. Langdon biết rõ loại phòng nằm sau mấy cánh cửa ấy, nhưng chọn nơi này để trao đổi thì quả có hơi lạ lùng. Thật hài hước vì họ sẽ nói chuyện trong một không gian đầy những tấm biển "Giữ im lặng", chưa kể đó còn là một nơi rất thiếu an toàn. Nằm chính giữa mặt bằng hình thập giá của thư viện, căn phòng này chẳng khác gì trung tâm toà nhà. Ẩn mình ở đây cũng tương tự đột nhập vào một thánh đường và núp sau bàn thờ.
Vậy mà Bellamy vẫn mở khoá cửa. Ông bước vào khoảng tối rồi lần mò tìm đèn điện. Công tắc vừa bật lên, một trong những kiệt tác kiến trúc vĩ đại của nước Mỹ thình lình hiện ra.
Phòng đọc sách nổi tiếng này thực sự thoả mãn mọi giác quan. Đây là một không gian hình bát giác đồ sộ với chóp đỉnh chạm tới độ cao 48 mét, tám cạnh đều "ốp đá cẩm thạch, nào là Tenessee màu nâu sô-cô-la, Siena màu kem, rồi Algeria màu táo đỏ. Vì được chiếu sáng từ cả tám góc nên bóng tối không có nơi hiện hữu, tạo cảm giác rằng gian phòng tự phát quang.
- Có người nhận xét đây là gian phòng ấn tượng nhất Washington, - Bellamy lên tiếng, giục Langdon bước vào.
Có khi nhất thế giới ấy, Langdon nghĩ thầm và đưa chân qua ngưỡng cửa. Như thường lệ, trước tiên ánh mắt anh lướt ngược lên dọc thân cột trung tâm, tới chỗ những ô trần lõm uốn cong theo mái vòm xuống một ban công tầng trên. Tại đây, mười sáu pho tượng "chân dung" bằng đồng đứng quây tròn theo viền phòng, đăm đăm nhìn xuống. Phía dưới cũng là một ban công, do dãy cong tò vò tạo thành. Ở phần sàn, những chiếc bàn gỗ láng bóng xếp thành ba đường tròn đồng tâm, toả ra quanh một chiếc bục bát giác rất lớn.
Bellamy đẩy mạnh cho hai cánh cửa phòng mở rộng hơn. Langdon chuyển sự chú ý sang ông, anh thắc mắc.
- Chúng ta đang lẩn trốn cơ mà.
- Tôi muốn phát hiện động tĩnh nếu chẳng may có ai vào toà nhà - Bellamy nói.
- Nhưng họ sẽ mau chóng tìm thấy chúng ta ở đây thôi.
- Nhất định họ sẽ tìm thấy, dù chúng ta trốn ở đâu. Nhưng nếu bị bao vây, anh sẽ lấy làm mừng vì tôi đã chọn căn phòng này.
Langdon chưa hiểu vì sao, nhưng rõ ràng Bellamy không định thảo luận tiếp. Ông tiến thẳng vào giữa phòng, chọn một trong những chiếc bàn đặt sẵn ở đó, kéo hai chiếc ghế lại, bật đèn bàn lên và trỏ cái túi của Langdon.
- Được rồi, Giáo sư, chúng ta cùng xem xét kỹ hơn nào.
Không muốn mạo hiểm để khối đá hoa cương thô cứng làm xước mặt gỗ nhẵn bóng, Langdon đặt cả túi lên bàn, mở khoá và gấp hết mép túi xuống cho lộ cái kim tự tháp bên trong ra. Warren Bellamy chỉnh lại đèn và cẩn thận xem xét kim tự tháp. Ông rờ tay lên những dòng chữ khắc dị thường.
- Tôi đồ rằng anh nhận ra thứ ngôn ngữ này chứ? - Bellamy hỏi.
- Dĩ nhiên rồi, - Langdon đáp, mắt nhìn mười sáu ký tự.
Thứ ngôn ngữ mã hoá, thường được gọi là Mật mã Tam điểm này, là phương tiện liên lạc riêng giữa các huynh đệ Tam điểm thời kỳ đầu. Sau này họ không dùng phương pháp mã hoá ấy nữa, vì một lý do hết sức đơn giản là quá dễ phá giải. Hầu hết các sinh viên môn biểu tượng học của Langdon đều có thể giải loại mật mã này trong vòng năm phút. Còn chính anh thì chưa cần đến 60 giây, chỉ với cây bút chì và tờ giấy.
Xét từ đặc tính dễ giải nổi tiếng của loại mật mã đã có lịch sử hàng trăm năm này, câu chuyện tối nay bộc lộ vài điều phi lý. Thứ nhất, thật ngớ ngẩn nếu cho rằng Langdon là người duy nhất trên Trái đất hoá giải được nó. Thứ hai, bảo mật mã Tam điểm là vấn đề an ninh quốc gia (như lời Sato) chẳng khác nào bảo mật mã phóng tên lửa hạt nhân được khoá bằng chiếc khuyên giải mã trong gói bim bim Cracker Jack[2]. Langdon vẫn nghi hoặc về hai điểm trên. Kim tự tháp là một bản đồ? Nó sẽ chỉ đường tới kho tri thức đã thất truyền của mọi thời đại?
- Robert, - Bellamy lên tiếng, giọng nghiêm trang - Giám đốc Sato đã cho anh biết lý do vì sao bà ta quan tâm đến vụ này phải không?
Langdon lắc đầu.
- Không cụ thể. Sato chỉ nói đây là vấn đề an ninh quốc gia. Tôi ngờ bà ta nói dối.
- Có lẽ thế, - Bellamy nói và xoa xoa gáy, vẻ đang băn khoăn điều gì. - Nhưng còn một khả năng đáng ngại hơn thế - ông quay sang nhìn Langdon - Chưa chừng Giám đốc Sato đã phát hiện ra tiềm năng thật sự của kim tự tháp này.
Chú thích
[1] Gian Lorenzo Bernini (1598 -1680) là một nghệ sĩ Italia làm việc tại Rome trong thế kỷ XVII. Ông là nhà điêu khắc trường phái Cổ điển hàng đầu của thời đại mình và cũng là một Kiến trúc sư nổi tiếng. Ngoài ra, ông cũng vẽ, viết kịch và thiết kế sân khấu - ND.
[2] Bộ giải mã bí mật, dưới dạng phù hiệu hoặc cái khuyên, là một trò chơi rất phổ biến cho trẻ em từ những năm 1930 và trong suốt thế kỷ XX. Nó thường được đặt trong các hộp ngũ cốc và bim bim, chẳng hạn của hãng Cracker Jack, làm phần thưởng. Đây là một cách khá lý thú để phát huy trí tưởng tượng của trẻ em rằng chúng có những loại mật mã dùng để gửi các thông điệp bí mật cho nhau - ND.
 
CHƯƠNG 47


Bóng tối vây kín quanh Katherine Solomon.

Tách xa khỏi vùng an toàn quen thuộc của lớp thảm, cô chỉ còn nước dò dẫm bước, loạng choạng đi sâu vào khoảng không trống trải, tay vươn thẳng không nơi bấu víu. Dưới hai bàn chân đi tất của Katherine là nền xi măng lạnh giá vô tận như hồ nước đóng băng… một môi trường hung hiểm mà giờ đây cô cần phải thoát ra.
Không còn ngửi thấy mùi ethanol nữa, Katherine dừng bước và chờ đợi trong bóng tối. Cô đứng bất động, nghiêng tai lắng nghe, chỉ mong sao tim mình đừng đập mạnh như vậy. Những bước chân nặng trịch phía sau cô dường như đã dừng lại. Mình thoát được hắn rồi ư?
Katherine nhắm mắt, cố hình dung vị trí đang đứng. Mình đã chạy theo hướng nào? Cửa ở đâu? Vô ích. Cô đã chạy lòng vòng nên giờ lối ra có thể ở bất kỳ chỗ nào.
Katherine từng nghe nói nỗi sợ hãi chính là chất kích thích làm trí não suy nghĩ thêm sắc bén. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi hiện thời khiến tâm trí cô quay cuồng vì hoảng loạn và bối rối. Cho dù tìm được cửa thì mình cũng không thể ra ngoài. Tấm thẻ đã bị mất khi cô thoát khỏi chiếc áo choàng. Hy vọng duy nhất của cô là lúc này là gã sẽ không tên được cô Mặc dù rất muốn chạy trốn, nhưng trí não quen phân tích của Katherine mách bảo cô hành động hợp lý nhất là không di chuyển đi đâu hết. Cứ ở yên một chỗ. Dừng gây ra tiếng động. Bảo vệ đang trên đường tới, và vì một lý do không rõ nào đó, kẻ tấn công cô toả ra mùi ethanol rất mạnh. Nếu hắn đến gần, mình sẽ phát hiện ra.
Đứng yên lặng giữa bóng tối, Katherine điểm lại trong trí những lời Langdon nói. Anh trai chị… bị bắt cóc. Cô cảm thấy giọt mồ hôi lạnh ngắt rơi xuống cánh tay và chảy xuôi xuống chiếc điện thoại di động vẫn nằm gọn nơi bàn tay phải. Cô quên bẵng mối nguy này.
- Nếu điện thoại đổ chuông, nó sẽ chỉ ra vị trí của Katherine, và cô không thể tắt được nó mà không mở ra và làm màn hình sáng lên.
Đặt điện thoại xuống… tránh xa khỏi nó.
Nhưng đã quá muộn. Từ bên phải, mùi ethanol đang lan dần lại phía cô, mỗi lúc một nồng hơn. Katherine gắng trấn tĩnh, cố chế ngự bản năng muốn bỏ chạy. Rất cẩn thận, rất chậm rãi, cô bước một bước sang trái. Tiếng quần áo sột soạt khe khẽ chính là điều mà kẻ tấn công đang cần. Cô nghe rõ hắn chồm lại, mùi ethanol ào tới khi một bàn tay tóm lấy vai cô. Katherine xoay người đi, vô cùng khiếp hãi.
Xác suất toán học hoá ra vô ích, cô bung người chạy quáng quàng. Cô nhớn nhác lao sang trái, đổi hướng, chạy nháo nhào trong khoảng không vô định.
Tường nhà đột ngột xuất hiện.
Katherine va mạnh vào tường, tay và vai đau buốt, nhưng cô vẫn cố đứng vững. Nhờ đụng phải góc vát của bức tường nên lực va chạm có giảm bớt, nhưng cũng không dễ chịu mấy. Tiếng động vang vọng khắp nơi. Hắn biết mình ở chỗ nào. Quên cả đau. Katherine ngoảnh đầu và nhìn xoáy vào khoảng tối và cảm nhận rõ gã kia đang trừng trừng nhìn lại.
Đổi vi trí ngay thôi! Vừa cố điều hoà hơi thở, Katherine vừa nhích xuôi theo bức tường, dùng tay trái lần từng cái núm thép trên đường di chuyển. Cứ theo sát bức tường. Luồn qua hắn trước khi hắn dồn được mình. Katherine vẫn nắm chặt chiếc điện thoại di động trong tay phải, sẵn sàng dùng nó để ném nếu cần thiết.
Đột ngột, có tiếng sột soạt rất rõ của quần áo cọ vào tường ngay phía trước, Katherine hoàn toàn bất ngờ, cô cứng người, và nín thở.
Làm sao mà hắn áp sát được tường thế? Một luồng không khí thoáng qua, mang theo mùi ethanol tanh tưởi. Hắn đang di chuyển dọc theo tường về phía mình!
Katherine lùi lại vài bước. Sau đó, lặng lẽ xoay 180 độ, cô bắt đầu di chuyển thật nhanh theo hướng ngược lại men theo tường. Cô di chuyển được khoảng sáu mét thì một điều bất ngờ lại xảy ra. Lại một lần nữa, ngay trước mặt cô, sát tường, có tiếng sột soạt của quần áo.
Tiếp đến là một luồng không khí quạt đến như lúc nãy, mang theo mùi ethanol. Katherine Solomon cứng đờ tại chỗ.
Chúa ơi, hắn khắp mọi nơi!
o O o
Cởi trần trùng trục, Mal’akh nhìn xoáy vào bóng tối.
Mùi ethanol trên tay áo dễ khiến gã bị phát hiện, gã bèn biến nó thành một thứ hữu dụng bằng cách cởi áo sơ mi và áo khoác rồi dùng chúng để dồn ép con mồi của mình. Ném chiếc áo khoác vào tường phía bên phải, gã nghe thấy tiếng Katherine dừng lại và đổi hướng.
Lúc này, vừa ném xong chiếc áo sơ mi sang phía trái, Mal’akh lại nghe thấy Katherine dừng lại. Gã đã dồn được cô vào sát tường bằng cách tạo ra những ranh giới mà cô không dám vượt qua.
Giờ thì gã chờ đợi, tai căng ra trong im lặng. Mụ chỉ còn một hướng để đi thôi - đó là tiến thẳng về phía ta. Thế nhưng, Mal’akh vẫn chẳng nghe thấy gì cả. Katherine đã sợ đến mức tê liệt chăng, hay cô đã quyết định đứng yên và đợi cứu viện vào Khoang 5. Dù thế nào thì mụ cũng thua cuộc thôi. Sẽ chẳng kẻ nào vào được Khoang 5 nhanh chóng cả, Mal’akh đã vô hiệu hoá ổ khoá ngoài bằng một kỹ thuật rất thô sơ nhưng lại hiệu quả. Dùng xong thẻ của Trish, gã nhét một đồng xu vào khe đút thẻ để ngăn không cho ai khác dùng được trừ phi phải dỡ bỏ toàn bộ hệ thống.
Chỉ có bà và tôi thôi. Katherine… bao lâu tuỳ thích.
Mal’akh im lặng nhích lên phía trước, lắng nghe từng cử động. Đêm nay, Katherine Solomon sẽ chết trong bóng tối tại cái bảo tàng của anh trai mụ. Một kết cục thật nên thơ. Mal’akh mong đợi giây phút được chia sẻ thông tin về cái chết của Katherine với anh trai mụ. Nỗi đau đớn của lão già chính là sự trả thù gã chờ đợi bao lâu nay.
Đột nhiên, trong bóng tối, Mal’akh vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một đốm sáng ở phía xa và nhận ra Katherine vừa phạm phải một sai lầm chết người. Mụ gọi điện cầu cứu ư? Màn hình điện tử vừa sáng lên ở độ cao ngang hông, cách đó khoảng 20 thước, như một ngọn đèn toả sáng trên đại dương tăm tối mịt mùng. Mal’akh đã sẵn sàng đợi Katherine tiến ra, nhưng giờ thì gã không phải đợi nữa.
Mal’akh hành động ngay, gã lao về phía có ánh sáng, biết rằng phải tới nơi trước khi con mồi kịp hoàn tất cuộc gọi kêu cứu. Chỉ mất vài giây là tới nơi, và gã nhảy xổ lại, hai cánh tay dang rộng bao lấy hai bên chiếc điện thoại đang bật sáng, sẵn sàng ôm chặt lấy con mồi.
Những ngón tay của Mal’akh va mạnh vào bức tường rắn chắc, dội ngược trở lại và gần như gãy lìa. Tiếp đến, đầu gã va mạnh vào một cái dầm thép. Gã rú lên đau đớn và đổ sụp xuống cạnh tường. Vừa chửi rủa, gã vừa lồm cồm bò dậy, bám vào thanh giằng nằm ngang tầm thắt lưng mà Katherine Solomon đã khôn ngoan đặt chiếc điện thoại mở sẵn lên đó.
Katherine lại chạy, lần này không còn phải lo sợ tiếng động phát ra khi tay chạm vào những núm thép bố trí đều đặn của Khoang 5. Chạy! Nếu cứ bám theo bức tường chạy vòng quanh khoang, cô biết rằng sớm muộn gì cũng sẽ tìm thấy cửa ra.
Bảo vệ đâu rồi nhỉ?
Khoảng cách đều đặn của những núm thép vẫn cứ xuất hiện trên đường chạy, Katherine dùng tay trái lần theo bức tường còn tay phải giơ ra trước mặt để đề phòng nguy hiểm. Khi nào thì mình mới tới góc phòng? Bức tường dường như cứ chạy mãi, nhưng đột nhiên các núm thép hẫng đi. Tay trái Katherine hụt vào khoảng trống trơn kéo dài vài bước liền, và sau đó lại thấy các núm thép. Katherine dừng phắt rồi quay trở lại, cảm thấy rõ mình đi qua một tấm thép nhẵn nhụi, trơn láng. tại sao lại không có núm thép ở chỗ này?
Bấy giờ, cô nghe thấy tiếng kẻ tấn công đang lết tới, dò dẫm men theo tường tìm đường tiến về phía mình. Nhưng còn một thứ âm thanh khác khiến Katherine kinh hãi hơn, tiếng một nhân viên an ninh đang nện cây đèn pin vào cửa Khoảng 5 ở phía xa.
Bảo vệ không vào được đây.
Mặc dù ý nghĩ trên thật hãi hùng nhưng chính vị trí của tiếng đập - hơi chếch về bên phải - lập tức giúp Katherine xác định được phương hướng. Giờ đây cô có thể hình dung ra mình đang ở chỗ nào trong Khoang 5. Một tia sáng lóe lên kéo theo một nhận thức bất ngờ.
Giờ thì cô biết rõ tấm thép phẳng lỳ trên tường là gì rồi. Tất cả các khoang đều có một ô mẫu vật - một bức tường di động có thể kéo sang bên để chuyên chở những tiêu bản quá khổ vào và ra khỏi khoang. Cũng giống như trong các ga ra chứa máy bay, cánh cửa này rất lớn, và Katherine chưa bao giờ nghĩ đến việc cần phải mở nó ra cả. Nhưng lúc này, dường như đó lại là hy vọng duy nhất của cô.
Chẳng rõ có mở nổi không đây?
Katherine sờ soạng trong bóng tối, cố lần tìm cánh cửa cho tới khi sờ thấy tay nắm bằng thép rất lớn. Tóm lấy nó, cô dồn hết trọng lượng ra phía sau, cố đẩy cánh cửa trượt ra. Vô ích. Cô thử lại lần nữa. Nó không hề nhúc nhích.
Giờ thì cô nghe rõ kẻ tấn công mình đang tiến lại rất nhanh, nhắm thẳng về phía có tiếng động do cô tạo ra. Cửa bị khoá rồi! Hoảng loạn, cô đưa hai tay sờ khắp cánh cửa, cố tìm một cái chốt hoặc đòn bẩy. Đột nhiên tay cô vấp phải thứ gì đó giống như một cái cọc nằm dọc. Cô lần xuống tận nền nhà, luồn tay theo cọc và thấy nó gài vào một cái lỗ trên nền xi măng. Then an toàn! Cô đứng lên, nắm chặt cái cọc cố kéo mạnh để nâng cái chốt ra khỏi lỗ.
Hắn gần tới nơi rồi
Katherine dò dẫm tìm tay nắm cửa. Vừa thấy nó, cô cô gắng dồn hết sức kéo nó sang bên. Cả tấm thép đồ sộ dường như không nhúc nhích, nhưng một tia sáng bất ngờ lọt vào Khoang 5. Katherine lại kéo mạnh. Cột ánh trăng từ bên ngoài toà nhà chiếu vào rõ hơn.
Thêm chút nữa thôi!
Cô kéo lần cuối cùng, cảm thấy rõ kẻ tấn công mình chỉ còn cách đó vài bước chân.
Tung người về phía có ánh sáng. Katherine cố lách thân hình mảnh mai của mình qua khe hở. Một bàn tay hiện ra trong bóng tối, bấu chặt lấy cô, cố kéo cô trở lại. Katherine gồng người lách qua khe hở, một cánh tay trần phủ kín những hình xăm bám theo sát. Cánh tay khủng khiếp đó chờn vờn như một con rắn đang nổi điên cố gắng tóm lấy cô.
Katherine xoay người và chạy nhanh dọc theo bức tường dài dằng dặc bên ngoài Khoang 5. Nền đá dăm chạy quanh toàn bộ khuôn viên SMSC cứa vào gan bàn chân đi tất mỏng trong khi cô chạy, nhưng cô vẫn tiếp tục lao thẳng về phía lối ra vào chính. Đêm đen như mực, nhưng mắt cô đã quá quen với bóng tối mịt mùng trong Khoang 5 nên giờ cô có thể nhìn rất rõ - chẳng khác gì giữa ban ngày. Phía sau cô cánh cửa nặng nề mở ra, và tiếng bước chân thình thịch đang tăng tốc đuổi theo dọc toà nhà. Tiếng bước chân dường như rất nhanh.
Không tới kịp lối vào chính mất. Cô biết mình đang đến gần chiếc Volvo, nhưng cũng vẫn còn quá xa. Không kịp mất.
Sau đó Katherine nhận ra chỉ còn một con bài duy nhất.
Khi đến gần góc tường Khoang 5, cô nghe rõ tiếng bước chân kẻ tấn công đang bắt kịp mình rất nhanh trong bóng tối. Lúc này hoặc không bao giờ nữa. Thay vì vòng qua góc tường, Katherine đột ngột ngoặt ngang sang bên trái, rời khỏi toà nhà, chạy ra bãi cỏ. Cô nhắm chặt hai mắt, đặt cả hai bàn tay lên mặt và bắt đầu chạy băng qua bãi cỏ.
Hệ thống chiếu sáng cảm ứng quanh Khoang 5 lập tức bị kích hoạt, làm đêm đen sáng rực như ban ngày. Katherine nghe thấy tiếng thét đau đớn phía sau mình. Cả luồng sáng chói chang với cường độ tương đương 25 triệu cây nến rọi thẳng vào đôi mắt đang quen bóng tối của Katherine nghe rõ tiếng gã ngã vật ra trên đá dăm.
Cô vẫn nhắm nghiền hai mắt, lao mình qua bãi cỏ. Khi cảm thấy đã đủ xa toà nhà và những ngọn đèn, cô mới mở mắt, xác định lại phương hướng và chạy thục mạng qua bóng tối.
Chìa khoá chiếc Volvo vẫn ở nguyên chỗ cất bình thường, trong hộc giữa. Thở không ra hơi, cô vồ lấy chìa khoá mà tay vẫn còn run bắn và lần tìm ổ điện. Động cơ xe nổ giòn, ánh đèn pha xe bật sáng, soi rõ một cảnh tượng hãi hùng.
Một hình nhân gớm guốc đang lao bổ về phía cô.
Katherine chết sững trong giây lát.
Cái sinh vật xuất hiện trong ánh đèn pha của cô là một con thú trần trùng trục, đầu trọc lốc, da dẻ phủ kín những hình vẽ, biểu tượng và văn tự xăm trổ. Gã vừa gầm rống vừa chạy bổ vào quầng sáng đèn, hai tay giơ cao trước mắt như một con thú chuyên sống trong hang lần đầu tiên nhìn thấy ánh mặt trời. Katherine với tay cài số nhưng không kịp, gã kia đã tới tận nơi, xô mạnh vai qua cửa bên của chiếc xe, làm cả một trận mưa kính trút tới tấp xuống lòng cô.
Một cánh tay phủ kín hình xăm thò qua cửa sổ, quờ quạng điên loạn, cố tìm cách thít lấy cổ Katherine. Cô cho xe chạy lùi lại, nhưng kẻ tấn công đã bám được cổ họng cô và siết chặt với một sức mạnh ghê gớm. Cô cố xoay đầu nhằm thoát khỏi bàn tay gọng kìm của gã, nhờ đó trông thấy gương mặt gã trừng trừng nhìn mình. Ba vệt đen thẫm, như những vết cào do móng tay, rạch qua lớp hoá trang trên mặt gã, đe lộ ra những hình xăm bên dưới. Đôi mắt gã toát lên vẻ hoang dại và tàn độc.
- Lẽ ra ta đã phải giết chết ngươi từ mười năm về trước, - gã gào lên - Vào cái đêm ta giết mụ già mẹ ngươi ấy.
Khi những lời ấy vọt ra, một ký ức hãi hùng ập đến Katherine: chính ánh mắt hung dữ kia - cô đã từng nhìn thấy. Chính là hắn.
Có lẽ cô đã kêu thét lên nếu như không có bàn tay đang bấu chặt cổ họng.
Katherine dận mạnh bàn đạp ga, chiếc xe ngoằn ngoèo chạy lùi lại, gần như làm cổ cô tắc nghẹn vì kẻ tấn công vẫn bám chặt lấy sườn xe.
Chiếc Volvo đảo từ bên này sang bên kia, Katherine cảm thấy cổ họng mình sắp đứt lìa trước sức nặng của gã. Đột nhiên, có mấy cành cây tạt mạnh vào sườn xe, quất qua mấy ô cửa bên, và sức nặng kia biến mất.
Chiếc xe rồ qua mấy hàng cây và lao vào tầng trên bãi đậu xe.
Katherine đạp mạnh chân phanh. Dưới kia, gã đàn ông cởi trần gượng đứng lên, nhìn chòng chọc vào đèn pha của cô. Với vẻ bình thản đến lạnh người, gã giơ cánh tay xăm trổ đầy hăm doạ lên và trỏ thẳng vào cô.
Máu trong người Katherine sôi sục vì sợ hãi và căm hận. Cô xoay mạnh vô lăng rồi nhấn ga. Chỉ vài giây sau, cô đã ra tới đường Silver Hill.
 
CHƯƠNG 48


Trong lúc bối rối, sĩ quan Nunez không có lựa chọn nào khác là giúp Kiến trúc sư Điện Capitol và Robert Langdon trốn thoát. Nhưng giờ đây, trở lại trụ sở cảnh sát ở tầng hầm, anh nhận thấy những đám mây giông đang quần tụ rất nhanh.

Chỉ huy Trent Anderson chườm một túi đá lạnh vào đầu trong khi một sĩ quan khác chăm sóc những vết bầm tím của Sato. Cả hai đang đứng cùng nhóm giám sát video, xem lại các đoạn ghi hình nhằm xác định vị trí của Langdon và Bellamy.
- Kiểm tra kỹ từng đoạn phim tất cả các hành lang và lối ra - Sato ra lệnh - Tôi muốn biết họ đi đâu?
Nunez trông cảnh đó mà bồn chồn. Anh hiểu rằng chỉ mất vài phút là người ta sẽ tìm ra đúng đoạn hình video và biết rõ sự thật.
Mình đã giúp họ trốn thoát. Tệ hơn nữa là có một nhóm bốn nhân viên CIA vừa đến và đang loanh quanh gần đó, chuẩn bị đuổi theo Langdon và Bellamy. Những gã này không như Cảnh sát Điện Capitol. Những gã này là loại chiến binh lạnh lùng… nguỵ trang tối màu, kính đi đêm, súng ống trông rất lạ.
Nunez cảm thấy nôn nao. Cố trấn tĩnh tinh thần, anh kín đáo ra hiệu cho Anderson.
- Tôi xin gặp riêng Chỉ huy một lát được không ạ?
- Có chuyện gì vậy? - Anderson theo Nunez ra sảnh.
- Chỉ huy, tôi đã phạm một sai lầm nghiêm trọng, - Nunez nói, mồ hôi mồ kê đầm đìa - Tôi xin lỗi, và tôi xin từ chức - Vài phút nữa thì các ông cũng sa thải tôi mà thôi.
- Tôi không hiểu?
Nunez nuốt khan.
- Lúc trước, tôi đã nhìn thấy Langdon và Kiến trúc sư Bellamy tại trung tâm khách tham quan, trên đường ra khỏi toà nhà này.
- Sao cơ?! - Anderson gầm lên - Sao anh không nói năng gì?!
- Kiến trúc sư dặn tôi không được hé một lời.
- Anh làm việc cho tôi, mẹ kiếp! - Giọng Anderson ầm ĩ trong hành lang. - Bellamy nện đầu tôi vào tường đây này, lạy Chúa!
Nunez đưa cho Anderson chiếc chìa khoá mà Kiến trúc sư đã giao cho anh lúc trước.
- Cái gì đây? - Anderson hỏi.
- Chìa khoá mở lối vào đường hầm mới bên dưới Đại lộ Độc lập. Kiến trúc sư Bellamy đưa cho tôi. Họ thoát ra theo lối ấy đấy.
Anderson chằm chằm nhìn chiếc chìa khoá, không nói lên lời.
Sato thò đầu ra hành lang, ánh mắt dò xét.
- Có chuyện gì ngoài đó vậy?
Nunez cảm thấy như nhũn ra. Anderson vẫn cầm chiếc chìa khoá, và rõ ràng Sato đã nhìn thấy nó. Khi người đàn bà nhỏ thó gớm ghiếc ấy tiến lại gần, Nunez cố nặn ra một câu chuyện, với hy vọng bảo vệ Chỉ huy của mình.
- Tôi tìm thấy một chiếc chìa khoá trên sàn tầng đáy. Tôi vừa hỏi Chỉ huy Anderson xem anh ấy có biết nó dùng để làm gì không.
Sato bước tới, mắt nhìn chiếc chìa khoá.
- Thế Chỉ huy có biết không?
Nunez liếc nhìn Anderson, rõ ràng đang cân nhắc tất cả các trường hợp trước khi lên tiếng. Cuối cùng, Chỉ huy lắc đầu.
- Không thể nói ngay được. Tôi phải kiểm tra…
- Đừng phí thời gian, - Sato nói - Chìa khoá này để mở đường hầm dẫn ra khỏi trung tâm khách tham quan.
- Thật sao? - Anderson nói - Sao bà biết rõ vậy?
Chúng tôi vừa tìm thấy đoạn video theo dõi. Sĩ quan Nunez đây đã giúp Langdon và Bellamy trốn thoát rồi khoá cửa đường hầm lại cho họ. Chìa khoá là do Bellamy đưa cho Nunez.
Anderson quay sang Nunez với vẻ giận dữ.
- Có đúng vậy không hả?
Nunez gật đầu rối rít, cố gắng đáp cho ăn khớp.
- Tôi xin lỗi, thưa Chỉ huy. Kiến trúc sư bảo tôi không được nói gì.
- Tôi mặc mẹ lão Kiến trúc sư nói gì với anh - Anderson gào lên - Tôi định…
- Im đi, Trent, - Sato quát - Cả hai anh đều là những kẻ dối trá tồi tệ! Hãy đợi đến lúc giải trình với CIA - Bà ta giật lấy chiếc chìa khoá đường hầm từ tay Anderson - Các anh không còn việc gì ở đây nữa.
 
CHƯƠNG 49


Robert Langdon tắt điện thoại di động, càng lúc càng cảm thấy lo lắng.

Vì sao Katherine không bắt máy. Cô hứa sẽ gọi lại ngay sau khi thoát khỏi phòng thí nghiệm và sẽ tới đây gặp anh, nhưng mãi mà cô chưa đến, cũng không gọi điện.
Bellamy ngồi cạnh Langdon bên bàn đọc. Ông cũng vừa gọi cho một người mà theo lời ông, có thể thu xếp cho họ một nơi trú ẩn, một chỗ an toàn để náu mình. Rủi thay, người này cũng không trả lời, nên Bellamy phải để lại một tin nhắn khẩn cấp, dặn người đó gọi vào số điện thoại của Langdon ngay.
- Tôi sẽ tiếp tục thử - Bellamy bảo Langdon - nhưng tạm thời phải tự xoay xở thôi. Chúng ta cần thảo luận một kế hoạch về cái kim tự tháp.
Kim tự tháp. Với Langdon, khung cảnh đầy ấn tượng của phòng đọc gần như không còn tồn tại, thế giới của anh đã co hẹp lại phạm vi những đồ vật đang hiện hữu trước mặt - ngọn kim tự tháp bằng đá, cái gói rù êm phong bên trong chứa phần chóp - và một quý ông da đen nhảy ra từ trong bóng tối, cứu anh thoát khỏi cuộc thẩm vấn cầm chắc với CIA.
Langdon trông đợi nhận được chút thông tin hữu ích từ viên Kiến trúc sư Điện Capitol, nhưng xem ra Warren Bellamy cũng không lý trí gì hơn cái gã điên từng nói Peter đang trong giai đoạn chuộc tội. Bellamy khăng khăng bảo ngọn kim tự tháp đá này trên thực tế chính là Kim tự tháp Tam điểm trong truyền thuyết. Một tấm bản đồ cổ? Nó sẽ dẫn chúng ta đến với vốn tri thức hùng mạnh?
- Ông Bellamy - Langdon nhã nhặn lên tiếng - tôi không chấp nhận nổi cái ý tưởng về sự tồn tại của một loại tri thức cổ xưa biết mang lại sức mạnh lớn lao cho con người.
Ánh mắt Bellamy vừa thất vọng vừa tha thiết, khiến Langdon đâm lúng túng với luận thuyết của mình.
- Vâng, thưa Giáo sư, tôi cũng biết là anh sẽ cảm thấy như vậy, nhưng tôi không lấy làm ngạc nhiên. Anh nhìn nhận từ bên ngoài. Có những thực tế của Hội Tam điểm mà chắc chắn anh sẽ cho là huyền hoặc, bởi vì anh chưa được khai tâm đầy đủ và chưa sẵn sàng để hiểu chúng.
Langdon cảm thấy như bị thương hại. Tôi đâu phải thành viên trong thuỷ thủ đoàn Odyesseus, nhưng tôi tin chắc bọn khổng lồ một mắt chỉ là truyền thuyết.
- Thưa ông Bellamy, cho dù huyền thoại có là sự thật… thì cái kim tự tháp này cũng không thể là Kim tự tháp Tam điểm được.
- Không ư? - Bellamy rê một ngón tay qua dòng ký hiệu của Hội Tam điểm khắc trên đá - Tôi thấy nó hoàn toàn khớp với mô tả. Một kim tự tháp đá với chóp kim loại sáng ngời, mà, theo bản chụp X quang của Sato, chắc chắn chính là thứ Peter tin tưởng gửi gắm anh.
Bellamy nhấc cái gói hình hộp xinh xắn lên, ướm ướm sức nặng của nó trên tay.
- Kim tự tháp đá này cao chưa tới 0,3 mét - Langdon nói tiếp - trong khi mọi khảo dị đều khẳng định Kim tự tháp Tam điểm rất lớn.
Rõ ràng Bellamy đã lường trước chi tiết này.
- Anh biết đấy, truyền thuyết kể về một cái kim tự tháp vươn cao tới tận tầm với của Chúa.
- Chính xác.
- Tôi có thể hiểu sự băn khoăn của anh, thưa Giáo sư. Tuy nhiên, cả những Bí ẩn cổ xưa và triết lý Tam điểm đều ca ngợi tiềm năng của Chúa ngay trong mỗi chúng ta. Về mặt hình tượng, người ta có thể nói rằng bất kỳ thứ gì trong tầm với của một người đã được khai sáng… thì cũng trong tầm với của Chúa.
Langdon không hề dao động trước cách chơi chứ đó.
- Thậm chí Kinh thánh cũng có cùng quan điểm. - Bellamy nói - Sáng Thế ký kể "Chúa tạo ra loài người theo trí tưởng tượng của Người", từ đó chúng ta nên chấp nhận hàm ý của câu này, rằng loài người không hề thấp kém hơn Chúa. Kinh Phúc âm Luca 20:17 còn khẳng định "Vương quốc của Chúa nằm ngay trong chính các ngươi".
- Xin lỗi, theo chỗ tôi biết, bất kỳ tín đồ Thiên Chúa giáo nào cũng không dám coi mình ngang hàng với Chúa.
- Dĩ nhiên là không rồi, - Bellamy nói, giọng đanh lại - Bởi vì hầu hết các tín đồ Thiên Chúa giáo muốn tiếp nhận quan điểm đó theo cả hai cách. Họ muốn được tự hào tuyên bố rằng bản thân tin vào Kinh thánh, nhưng cũng lại bỏ qua những phần họ thấy là quá khó hoặc quá bất tiện để tin theo.
Langdon chẳng nói chẳng rằng.
- Nhưng dù sao, - Bellamy nói tiếp - bấy nay những mô tả cho rằng Kim tự tháp Tam điểm đủ cao để chạm tới Chúa trời đã dẫn tới nhiều cách hiểu sai lầm về kích thước của nó. Cũng khá tiện, vì nó làm cho những học giả như anh tin chắc rằng kim tự tháp chỉ là huyền thoại và chẳng ai tìm kiếm nó nữa.
Langdon nhìn ngọn tháp đá.
- Tôi xin lỗi vì làm ông thất vọng, - anh nói - Tôi thường nghĩ rằng Kim tự tháp Tam điểm chỉ là một huyền tích.
- Lẽ nào anh không thấy thật phi lý khi người ta khắc bản đồ của những người thợ đá lên đá ư? Xưa nay, người ta chỉ khắc đá những thứ quan trọng mà thôi, chẳng hạn các cột chỉ đường, hay những tấm thẻ Mười điều giới răn chỉ dẫn cách hành xử của loài người mà Chúa trao cho Moses…
- Tôi hiểu, nhưng người ta luôn cho rằng luận thuyết về Kim tự tháp Tam điểm là Truyền thuyết. Truyền thuyết ấy ngụ ý nó chỉ là một huyền tích.
- Phải, truyền thuyết - Bellamy cười khan - Tôi sợ rằng anh cũng đang gặp phải cùng vấn đề của Moses.
- Tôi không hiểu?
Bellamy lộ vẻ thích thú, ông xoay người trên ghế, phóng mắt nhìn lên bao lơn tầng hai, nơi có mười sáu bức tượng đồng đang ngó xuống họ.
- Anh thấy Moses không?
Langdon ngước nhìn bức tượng được nói đến.
- Có chứ.
- Ông ấy có cặp sừng.
- Tôi đã chú ý thấy điều đó.
- Nhưng anh có biết tại sao Moses lại có sừng không?
Cũng như hầu hết các giáo viên. Langdon không thích bị người khác lên lớp. Ngài Moses ở phía trên họ kia có cặp sừng vì chính cái lý do khiến hàng nghìn tấm hình Thiên Chúa giáo mô tả Moses có sừng - một cách hiểu sai về cuốn Xuất Ai Cập ký. Văn bản Do Thái nguyên gốc mô tả Moses có "karan ‘ohrpanav" (lớp da mặt toả ra những tia sáng) - nhưng khi Nhà thờ Công giáo La Mã sáng tạo bản dịch chữ La tin chính thức của Kinh thánh, dịch giả đã dịch sai phần mô tả về Moses, diễn đạt thành "comuta esset facies sua", nghĩa là "mặt ông ấy có sừng". Từ đó trở đi, các hoạ sĩ và nghệ sĩ điêu khắc, do e ngại bị trả thù nếu không theo đúng Sách Phúc âm, bắt đầu mô tả Moses với cặp sừng.
- Đó là một lầm lẫn thuần tuý, - Langdon đáp - Saint Jerome đã dịch sai, vào khoảng 400 năm sau Công nguyên.
Bellamy có vẻ rất ấn tượng.
- Chính xác. Một trường hợp dịch sai, và kết quả là… Moses tội nghiệp giờ dị dạng mãi mãi.
"Dị dạng" là một cách nói rất hay. Khi còn bé, Langdon đã vô cùng khiếp hãi khi nhìn thấy pho tượng "Moses có sừng" của Michelangelo, pho tượng trông như quỷ dữ, đặt ở trung tâm Đại Thánh đường St. Peter thành Rome.
- Tôi nhắc chuyện Moses có sừng để chứng minh rằng một từ duy nhất, khi bị hiểu sai, có thể viết lại lịch sử như thế nào. - Bellamy nói.
Lập luận rất thuyết phục, Langdon nghĩ bụng, vì anh đã từng trực tiếp trải nghiệm tình huống này ở Paris vài năm về trước. SanGreal: Chén Thánh. SanReal: Hoàng gia.
- Trong trường hợp Kim tự tháp Tam điểm, - Bellamy quay lại câu chuyện của họ - người ta nghe đồn về một "truyền thuyết", và ý tưởng nảy sinh. Truyền thuyết[1] về Kim tự tháp Tam điểm, nghe giống một huyền tích. Nhưng từ truyền thuyết thực ra ám chỉ thứ khác. Nó đã bị dịch sai. Giống từ bùa chú - ông ta mỉm cười - Ngôn ngữ có thể rất hữu dụng trong việc che giấu sự thật.
- Đúng như vậy, nhưng tôi chưa hiểu ý ông.
- Robert, Kim tự tháp Tam điểm là một bản đồ, và như tất cả các loại bản đồ, nó có mục chú giải- một chìa khoá cho anh biết cách đọc nó - Bellamy cầm cái gói hình hộp và giơ nó lên - Anh không thấy sao? Cái chóp này là lời chú giải cho kim tự tháp. Nó chính là chìa khoá cho anh biết cách đọc thứ hiện vật uy thế nhất trên Trái đất… một tấm bản đồ chỉ nơi cất giấu kho báu vĩ đại nhất của nhân loại, đó là vốn tri thức bị thất truyền của mọi thời đại.
Langdon im lặng.
- Tôi khiêm tốn gợi ý rằng, - Bellamy nói - Kim tự tháp Tam điểm đồ sộ trong suy nghĩ của anh thực ra chỉ là thứ này… một khối đá khiêm nhường với phần chóp bằng vàng vươn cao đủ để Chúa chạm tới. Đủ cao để một người được khai sáng có thể cúi xuống và chạm tới nó.
Sự im lặng bao trùm hai người đàn ông trong vài giây.
Langdon ngó cái kim tự tháp, quan sát nó bằng một nhãn quan mới và cảm nhận một niềm phấn khích bất ngờ. Ánh mắt anh lại di chuyển tới phần mật mã Tam điểm.
- Nhưng đoạn mật mã này… dường như…
- Đơn giản phải không?
Langdon gật đầu.
- Gần như bất kỳ ai cũng có thể giải mã nó.
Bellamy mỉm cười, rút ra một cây bút chì và giấy cho Langdon.
- Vậy thì có lẽ anh nên khai sáng cho chúng tôi?
Langdon lưỡng lự trước việc đọc đoạn mật mã, và nếu cân nhắc các tình huống thì dường như đây là hành vi phản bội lại niềm tin của Peter. Hơn nữa, cho dù dòng chữ khắc nói gì thì anh cũng không tin rằng nó sẽ tiết lộ nơi cất giấu một thứ nào… càng không thể cất giấu một trong những kho báu kỳ vĩ nhất lịch sử.
Langdon nhận lấy bút chì từ Bellamy và gõ gõ nó vào cằm mình trong khi nghiên cứu đoạn mã. Mật mã đơn giản đến mức anh gần như chẳng cần bút chì và giấy. Tuy vậy, anh vẫn muốn bảo đảm không gây ra sai sót nên cẩn thận đặt bút lên giấy và viết ra chìa khoá giải mã phổ biến nhất cho một đoạn mật mã của Hội Tam điểm. Chìa khoá gồm 4 hệ chia ô - hai để trơn và hai có dấu chấm - và cho bảng chữ cái lần lượt xuất hiện theo trình tự. Mỗi chữ cái trong bảng chữ giờ được bố trí vào bên trong một "ô" hoặc "quầy". Hình dạng của mỗi ô chữ cái trở thành biểu tượng cho chữ cái đó.
Ý đồ đơn giản như vậy nên gần như rất dễ dàng.
Langdon kiểm tra kỹ lại bản viết tay của mình. Cảm thấy tự tin rằng chìa khoá giải mã hoàn toàn đúng, giờ anh mới chuyển trọng tâm chú ý đoạn mật mã được khắc trên kim tự tháp. Để giải mã nó, tất cả những gì anh phải làm là tìm cho ra hình dạng ăn khớp trên chìa khoá giải mã của mình và viết ra chữ cái bên trong.
Ký tự đầu ăn trên kim tự tháp trông như một mũi tên hướng xuống dưới hoặc một đài hoa. Langdon nhanh chóng tìm ra cái ô có hình dạng đài hoa trên chìa khoá giải mã. Nó nằm ở góc bên trái phía dưới và có chứa chữ cái S.
Langdon viết ra chữ S.
Biểu tượng tiếp theo trên kim tự tháp là một ô vuông có dấu chấm nhưng khuyết cạnh bên phải. Hình dạng đó trên hệ ô giải mã có chứa chữ cái ô.
Anh lại viết ra chữ O.
Biểu tượng thứ ba là một ô vuông giản dị, có chứa chữ cái E
Langdon viết chữ E
Anh cứ tiếp tục, tốc độ càng lúc càng nhanh cho tới khi hoàn tất toàn bộ, Bấy giờ, nhìn xuống bản dịch vừa kết thúc của mình, Langdon thở phào bối rối. Có thể ví như khoảnh khắc tìm ra rồi!
Gương mặt Bellamy thoáng một nụ cười.
- Như anh biết đấy. Giáo sư, Bí mật cổ xưa chỉ được giữ gìn cho những người thật sự được khai sáng.
- Phải - Langdon nói và cau mày. Rõ ràng, mình không đủ tư cách!
Chú thích
[1] Ở đây có sự chơi chữ rất khó dịch. Nguyên bản từ "legend" vừa có nghĩa là truyền thuyết" nhưng đồng thời cũng có nghĩa là "mục chú giải, chú thích" trên những tấm bản đồ, tranh ảnh - ND.
 
CHƯƠNG 50


Trong một văn phòng dưới tầng hầm sâu bên trong tổng hành dinh CIA ở Langley, Virginia, bức mật mã Tam điểm gồm 16 ký tự giống với bản Langdon đang diễn giải nhấp nháy hiện ra trên một màn hình máy tính độ nét cao. Chuyên gia phân tích cao cấp của Văn phòng An ninh Nola Kaye ngồi một mình và nghiên cứu hình ảnh được chính sếp của cô, Giám đốc Inoue Sato gửi bằng thư điện tử tới vào quãng mười phút trước.

Vụ này có phải là một trò đùa không nhỉ?
Dĩ nhiên Nola biết không phải như vậy. Giám đốc Sato không có khiếu hài hước, mọi sự kiện tối nay có thể là bất cứ chuyện gì trừ bông đùa. Được vào hàng ngũ cao cấp của Văn phòng An ninh CIA, Nola đã biết thế nào là mặt tối của quyền lực. Nhưng những gì chứng kiến trong 24 giờ qua đã mãi mãi làm thay đổi ấn tượng của cô về bí mật của các nhân vật quyền thế.
- Vâng, thưa Giám đốc, - Nola tì chiếc điện thoại lên vai trong khi trò chuyện với Sato - Hình khắc quả đúng là mật mã Hội Tam điểm. Tuy nhiên, bản giải mã chẳng có ý nghĩa gì cả. Trông như thể một hệ thống các chữ cái xếp ngẫu nhiên - Cô đăm đăm ngó xuống nội dung đã giải mã.
- Dứt khoát nó phải nói lên điều gì đó, - Sato vẫn quả quyết.
- Không hề, trừ phi có một lớp mã hoá thứ hai mà tôi vẫn chưa nhận ra.
- Có manh mối nào không? - Sato hỏi.
- Đây là một ma trận kẻ ô vuông, nên tôi có thể áp dụng những quy trình thông thường, chẳng hạn hệ mật mã Vigenere, vỉ nướng, lưới mắt cáo và vân vân, nhưng chưa có gì hứa hẹn cả, đặc biệt nếu đó là một dạng mã không còn phổ biến.
- Hãy làm những gì có thể, và thật nhanh vào. Thế còn X quang thì sao?
Nola xoay ghế ngồi tới hệ thống khác, trên đó hiển thị hình chụp X quang của một chiếc túi. Sato đã đòi hỏi mọi thông tin về cái thứ nhang nhác kim tự tháp thu nhỏ đặt trong hộp hình vuông này. Thông thường, một vật chỉ cao 5 centimét sẽ không thể là vấn đề an ninh quốc gia, trừ phi nó được chế tạo từ plutoni giàu. Nhưng vật này không phải vậy. Nó được làm bằng một chất liệu cũng gây bất ngờ không kém.
- Bản phân tích định lượng - hình ảnh rất thuyết phục, - Nola đáp - 29,3g mỗi centimet khối. Làm bằng vàng nguyên chất. Rất, rất giá trị.
- Còn gì nữa không?
- Thực ra là còn. Máy quét định lượng thể hiện những chỗ không đồng đều rất nhỏ trên bề mặt kim tự tháp bằng vàng này. Hoá ra ở đây cũng có khắc nội dung văn bản.
- Thật sao? - Giọng Sato đầy hy vọng - Nó nói gì?
- Tôi chưa thể nói được. Phần chữ khắc cực kỳ mờ. Tôi đang cố cải thiện bằng cách lọc nhưng độ phân giải trên máy X quang không lớn.
- Được rồi, thử tiếp đi. Hãy gọi cho tôi khi cô thu được kết quả gì đó!
- Vâng, thưa Giám đốc.
- Mà này Nola? - giọng Sato nghe như thể hăm doạ - Trong mọi điều cô biết suốt 24 tiếng qua, hình ảnh của kim tự tháp đá và phần chóp bằng vàng là các cấp độ an ninh cao nhất. Cô chẳng phải tham khảo ý kiến ai cả. Cô báo cáo trực tiếp cho tôi. Tôi muốn bảo đảm mọi việc rành rẽ.
- Dĩ nhiên, thưa sếp.
- Tốt. Giữ liên lạc nhé! - Sato tắt máy.
Nola dụi mắt và mệt mỏi nhìn lại các màn hình máy tính của mình. Cô đã không ngủ suốt hơn 36 tiếng qua, và cô biết rất rõ rằng cô sẽ không ngủ lại được chừng nào vụ này chưa đi tới hồi kết.
Có thể là bất kỳ chuyện gì.
o O o
Trở lại Trung tâm Khách tham quan của Điện Capitol, bốn chuyên gia tác chiến hiện trường mặc đồ đen của CIA đứng ở cửa đường hầm, hau háu nhìn lối vào tranh tối tranh sáng, y như thể đàn sói háo hức trước cuộc săn.
Sato tiến lại, vừa tắt máy sau khi nhận một cú điện.
- Này, - bà ta nói, vẫn cầm chiếc chìa khoá của Kiến trúc sư - các anh đã rõ phạm vi nhiệm vụ của mình chưa?
- Rõ rồi, - viên đội trưởng đáp - Chúng tôi có hai mục tiêu. Thứ nhất là kim tự tháp đá có chữ khắc, cao xấp xỉ 0,3 mét. Thứ hai là một cái gói hình hộp, nhỏ hơn, cao xấp xỉ 5 centimét. Nơi cất giữ chúng gần đây nhất là túi của Robert Langdon.
- Đúng. - Sato xác nhận - Phải thu hồi cả hai thứ, nhanh chóng và nguyên vẹn. Các anh còn câu hỏi nào nữa không?
- Phạm vi cho phép sử dụng vũ lực?
Vai Sato vẫn run run do bị Bellamy nện bằng một khúc xương.
- Như tôi đã nhấn mạnh, thu hồi hai vật đó là điều quan trọng nhất.
- Rõ - Bốn người quay đi và tiến thẳng vào đường hầm tối om.
Sato châm một điếu thuốc và nhìn theo cho tới khi bóng họ khuất hẳn.
 
CHƯƠNG 51


Katherine Solomon luôn rất cẩn thận khi lái xe, nhưng lúc này cô đang nhấn mạnh ga chiếc Volvo và phóng bạt mạng với tốc độ hơn 90 dặm trên đường Suitland Parkway. Bàn chân áp trên chân ga cứ run bắn suốt cả một dặm đường dài cho tới khi cơn hoảng loạn của cô lắng dần. Bấy giờ, cô cũng nhận ra nỗi sợ hãi không còn là nguyên cớ khiến cô run đến mức mất hết kiểm soát như thế nữa.

Mà là do lạnh.
Khí đêm giá buốt tràn qua cửa sổ xe vỡ nát, trùm lên cơ thể Katherine như trận gió miền cực bắc. Nhận ra hai bàn chân đi tất mỏng đã tê cứng, cô bèn lần tìm đôi giày dự phòng vẫn cất sẵn dưới gầm ghế bên cạnh. Trong khi tìm giày, cô cảm thấy đau nhói ở vết bầm tím trên cổ họng, nơi bàn tay của kẻ tấn công siết vào.
Kẻ đập nát cửa sổ xe cô chẳng có nét gì của quý ông tóc vàng mà Katherine vẫn nghĩ là bác sĩ Christopher Abaddon. Mái tóc dày và nước da mịn màng của hắn đã biến mất tăm, thay vào đó là cái đầu trọc lốc, bộ ngực trần và gương mặt vằn vện những hình xăm trổ gớm ghiếc.
Katherine lại như nghe thấy giọng nói của hắn, thì thào trong tiếng gió hú bên ngoài cửa sổ xe vỡ nát. Katherine, lẽ ra ta đã phải giết chết ngươi từ mười năm về trước… vào cái đêm ta giết mụ già mẹ ngươi ấy.
Katherine rùng mình, không còn nghi ngờ gì nữa. Chính là hắn.
Cô không bao giờ quên vẻ hung bạo dữ tợn trong đôi mắt ấy. Cô cũng chưa bao giờ quên tiếng súng duy nhất của anh trai mình, tiếng súng đã hạ sát gã đàn ông này, hất hắn từ một vách đá cao xuống dòng sông lạnh giá phía dưới, hắn chìm luôn qua lớp băng và không thấy nổi lên nữa. Các điều tra viên đã tìm kiếm hàng tuần liền nhưng không bao giờ thấy xác hắn, cuối cùng họ kết luận rằng hắn đã bị nước cuốn ra Vịnh Chesapeake.
Họ nhầm rồi, giờ thì cô biết rõ như vậy. Hắn vẫn còn sống.
Và hắn đã trở lại.
Ký ức ồ ạt tràn về làm Katherine lặng người đau đớn. Đã tròn mười năm rồi. Đúng Lễ Giáng sinh. Katherine, Peter, và mẹ của họ - toàn bộ gia đình cô - quây quần tại lâu đài đá ở Potomac. Lâu đài này toạ lạc trên khu đất có rừng rộng hai trăm mẫu, có dòng sông chảy ngang qua.
Theo truyền thống, mẹ cô miệt mài ở trong bếp, sung sướng thực hiện truyền thống ngày nghỉ lễ là chuẩn bị đồ ăn cho hai người con. Dù đã ở tuổi 75, Isabel Solomon vẫn là một đầu bếp xuất sắc, và tối nay, mùi thịt quay, nước xốt củ cải, khoai tây nghiền tỏi toả khắp nhà, thơm đến chảy nước miếng. Trong khi bà mẹ chuẩn bị bữa ăn thì Katherine và anh trai thư giãn bên nhà kính trồng cây, thảo luận về niềm đam mê gần đây nhất của Katherine - một lĩnh vực lạ lẫm mang tên Lý trí học. Là hình thức kết hợp mới mẻ giữa vật lý hạt hiện đại và chủ nghĩa thần bí cổ xưa, Lý trí học hoàn toàn chinh phục được cô.
Vật lý gặp gỡ triết lý.
Katherine kể cho Peter nghe về một vài thí nghiệm mà cô ao ước được thực hiện, và nhận thấy vẻ thích thú trong ánh mắt anh mình. Katherine cảm thấy rất vui vì có thể giúp anh khuây khoả trong dịp Giáng sinh, bởi ngày lễ này cũng gợi nhớ một bi kịch kinh khủng và đau xót.
Con trai của Peter, Zachary.
Sinh nhật lần thứ 21 của đứa cháu trai cũng chính là sinh nhật cuối cùng của nó. Cả gia đình đã trải qua một cơn ác mộng, dường như chỉ đến lúc này Peter mới có thể cười vui trở lại.
Zachary là một thanh niên có lớn nhưng không có khôn, hư hỏng ương bướng, dễ nổi loạn và hay cáu bẳn. Mặc dù được nuôi dạy trong tình yêu thương và sự chiều chuộng, thằng bé dường như vẫn quyết tâm tách mình khỏi "chuẩn mực" của gia đình Solomon. Nó bỏ học trung học, đua đòi nhậu nhẹt và lảng tránh những nỗ lực đến tuyệt vọng của bố mẹ nhằm hướng cho nó đi vào đường ngay nẻo chính.
Nó làm trái tim Peter tan nát.
Không lâu trước sinh nhật 18 của Zachary, Katherine đã cùng ngồi với mẹ và anh trai cô để nghe họ tranh luận xem có nên truất quyền thừa kế của Zachary cho tới khi cậu ta trưởng thành hơn không.
Quyền thừa kế của gia đình Solomon - một truyền thống đã tồn tại hàng trăm năm trong gia đình - để lại một khoản tài sản khổng lồ cho tất cả mọi đứa trẻ của gia đình Solomon vào đúng sinh nhật lần thứ 18. Gia đình Solomon tin rằng một khoản tài sản thừa kế sẽ có ích ngay từ giai đoạn đầu cuộc đời người ta hơn là về cuối đời. Trao khối tài sản lớn của gia đình Solomon vào tay những cô cậu thanh niên đầy nhiệt huyết cũng chính là chìa khoá để làm cho tài sản của gia đình sinh sôi hơn nữa. Tuy nhiên, trong trường hợp này, mẹ Katherine cho rằng sẽ rất nguy hiểm khi trao cho cậu con trai quậy phá của Peter một khoản tiền lớn như vậy. Peter thì không nhất trí.
- Tài sản thừa kế của gia đình Solomon, - anh trai cô đã nói - là một truyền thống gia đình không nên phá bỏ. Khoản tiền này có thể buộc Zachary phải sống có trách nhiệm hơn.
Buồn thay, anh trai cô đã nhầm.
Ngay khi nhận được tiền, Zachary đã bỏ nhà đi biệt, không hề mang theo bất kỳ thứ gì, vài tháng sau, nó xuất hiện trên các báo lá cải: TAY CHƠI GIÀU CÓ VỚI LỐI SỐNG VƯƠNG GIẢ KIỂU ÂU CHÂU. Các báo "lá cải" thích thú săn tin về cuộc sống sa đoạ của Zachary.
Những bức ảnh ghi lại các buổi tiệc tùng trác táng trên du thuyền và những trận say sưa bốc trời trong các vũ trường quả là khó chấp nhận với gia đình Solomon, nhưng những bức ảnh về đứa con hoang dã của họ chuyển từ thất vọng sang hãi hùng khi báo chí đưa tin Zachary bị bắt trên đường vận chuyển cocaine vào biên giới Đông Âu: TRIỆU PHÚ SOLOMON TRONG NHÀ TÙ THỔ NHĨ KỲ.
Họ được biết nhà tù đó mang tên Soganlik - một trại tạm giam mạt hạng và khắc nghiệt nằm ở quận Kartal ngay ngoại ô Istanbul. Peter Solomon, vì lo lắng cho sự an toàn của con trai, đã bay sang Thổ Nhĩ Kỳ để cứu nó. Ông trở về tay không, thậm chí còn không được gặp mặt Zachary. Tin hứa hẹn duy nhất là những người quen biết rất có thế lực của gia đình Solomon tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đang nỗ lực làm thủ tục dẫn độ thằng bé càng nhanh càng tốt.
Tuy nhiên, hai ngày sau, Peter nhận được một cuộc gọi đường dài đầy hãi hùng. Sáng tiếp theo, báo chí đưa tin: THÁI TỬ SOLOMON BỊ SÁT HẠI TRONG TÙ.
Các bức ảnh chụp trong tù thật kinh khủng, vậy mà báo chí vẫn nhẫn tâm đăng tất cả lên, thậm chí sau khi lễ an táng của gia đình Solomon qua đi đã lâu. Vợ Peter không bao giờ tha thứ cho chồng vì đã không thể giải cứu được Zachary, sáu tháng sau cuộc hôn nhân của họ kết thúc. Peter cô độc từ đó.
Phải mất nhiều năm sau Katherine, Peter và mẹ của hai người, bà Isabel, mới lại sum họp nhân lễ Giáng sinh. Nỗi đau vẫn còn hiện diện trong gia đình họ, nhưng cũng đang phôi pha dần theo mỗi năm tháng qua đi. Lúc này, tiếng nổ lách tách vui tai phát ra từ nhà bếp khi bà mẹ chuẩn bị bữa ăn tối truyền thống. Còn trong nhà kính, Peter cùng Katherine đang khoan khoái ăn một chút pho-mát mềm và trò chuyện thoải mái.
Rồi bất ngờ có một âm thanh vang lên.
- Xin chào, cả nhà Solomon, - ai đó cất tiếng nhẹ hẫng phía sau họ.
Giật mình, Katherine cùng anh trai quay phắt lại và nhìn thấy một kẻ cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn bước vào nhà kính. Anh ta đeo chiếc mặt nạ trượt tuyết màu đen che kín cả gương mặt, chỉ để lộ đôi mắt ánh lên nét hung bạo man dại.
Peter định thần lại ngay.
- Anh là ai?! Làm sao anh vào được đây?
- Tôi quen Zachary, con trai ông, trong tù. Nó cho tôi biết chìa khoá giấu ở đâu - Kẻ lạ mặt giơ ra một chiếc chìa khoá cũ và cười hềnh hệch như một con thú dữ - Ngay trước khi tôi đập chết nó.
Miệng Peter há hốc.
Một khẩu súng xuất hiện, nhắm thẳng vào ngực Peter.
- Ngồi xuống.
Peter ngã ngồi xuống ghế.
Khi gã kia bước vào phòng, Katherine cứng đờ người. Sau chiếc mặt nạ, ánh mắt hắn man dại không khác gì của một con thú điên.
- Này? - Peter kêu lên, như thể tìm cách báo động cho bà mẹ đang ở trong bếp - Anh là ai chứ, cứ lấy thứ gì anh muốn, và ra khỏi đây ngay!
Gã đàn ông chìa súng vào ngực Peter.
- Vậy ông nghĩ tôi muốn thứ gì?
- Cứ nói thử xem bao nhiêu - Peter đáp - Chúng tôi không có tiền mặt trong nhà, nhưng tôi có thể…
Con quái vật cười phá lên.
- Đừng phỉ báng tôi thế. Tôi không đến đây vì tiền. Tối nay tôi đến đây vì một quyền thừa kế khác của Zachary - Gã cười nhăn nhở - Nó kể cho tôi nghe về cái kim tự tháp.
Kim tự tháp ư? Katherine ngẫm nghĩ trong nỗi hãi hùng. Kim tự tháp gì?
Peter tỏ ra thách thức.
- Tôi không hiểu anh đang nói về cái gì.
- Đừng tưởng lừa được tôi! Zachary nói với tôi về thứ ông cất giữ trong phòng nghiên cứu. Tôi muốn có nó. Ngay bây giờ.
- Bất kể Zachary đã nói gì, thì cũng là lầm lẫn, - Peter bác bỏ - Tôi không biết anh đang nói về chuyện gì.
Không ư? - Kẻ đột nhập quay phắt lại và chĩa súng vào mặt Katherine - Giờ thì sao nào?
Mắt Peter đầy vẻ sợ hãi.
- Anh phải tin tôi! Tôi không biết anh muốn thứ gì?
- Nếu ông dối trá tôi một lần nữa thôi, - gã kia đe doạ, vẫn chĩa súng vào Katherine - tôi thề rằng sẽ khiến ông mất bà ta - Gã mỉm cười - Theo lời Zachary, cô em gái bé bỏng của ông đối với ông còn quý giá hơn cả…
- Có chuyện gì vậy? - bà Isabel quát lên, bước vào phòng với khẩu súng Browning Citori của Peter, nòng chĩa thẳng vào ngực gã đàn ông. Kẻ đột nhập xoay về phía bà, nhưng bà già 75 tuổi không hề lãng phí thời gian. Bà nã ngay một phát súng đinh tai nhức óc. Kẻ đột nhập bật người về phía sau, bóp cò tứ tung làm mấy ô cửa sổ vỡ tan rồi chạy lao qua cửa, đánh rơi cả khẩu súng ngắn.
Peter phản ứng tức thì, ông tung người chộp lấy, khẩu súng vừa rơi. Katherine ngã khuỵu xuống, bà cụ Solomon chạy vội đến bên con gái, quỳ xuống cạnh cô.
- Chúa ơi, con có đau không?!
Katherine lắc đầu, choáng váng đến nỗi không nói được gì. Bên ngoài ô cửa kính đã vỡ tan, gã đàn ông đeo mặt nạ lồm cồm bò dậy và chạy vào rừng, ôm chặt lấy mạng sườn. Peter Solomon liếc nhìn lại để biết chắc rằng mẹ và em gái vẫn an toàn. Thấy họ đều ổn cả. Ông mới cầm khẩu súng và lao ra cửa đuổi theo kẻ đột nhập.
Mẹ Katherine cầm lấy tay cô, run bắn.
- Ơn Chúa, con không sao - rồi đột nhiên bà giật nảy mình. -Katherine! Con đang chảy máu kìa! Có máu! Con bị thương!
Katherine nhìn thấy máu. Rất nhiều máu. Trên khắp người cô. Nhưng cô không hề cảm thấy đau.
Bà cụ cuống cuồng tìm kiếm vết thương trên cơ thể Katherine.
- Vết thương ở chỗ nào nhỉ?
- Mẹ, con không biết, con không hề cảm thấy gì cả!
Bất chợt phát hiện ra chỗ chảy máu, Katherine lạnh toát người.
- Mẹ, không phải con… - Cô chỉ vào sườn chiếc áo khoác bằng sa tanh màu trắng của bà cụ, chỗ máu đang chảy ra xối xả, và rõ ràng có một lỗ thủng nhỏ. Mẹ cô nhìn xuống, trông bà còn ngơ ngác hơn bất kỳ điều gì khác. Bà nhăn mặt và rúm lại, cứ như thể đến bây giờ cơn đau mới tác động đến bà.
- Katherine? - Giọng bà vẫn rất bình tĩnh, nhưng đột nhiên nó như mang toàn bộ sức nặng của cả bảy mươi lăm năm - Mẹ cần gọi cấp cứu.
Katherine chạy bổ tới điện thoại trong sảnh và gọi cấp cứu. Khi trở lại nhà kính, cô thấy mẹ mình nằm bất động trên vũng máu.
Katherine chạy nhào tới bà, quỳ xuống, ôm chặt xác mẹ trên tay.
Thời gian trôi không biết lâu hay chóng, cuối cùng Katherine nghe thấy tiếng nổ xa xăm trong rừng. Cuối cùng, cửa nhà kính cũng bật mở, và anh trai cô. Peter, lao vào, mắt trừng trừng, tay vẫn cầm khẩu súng. Khi nhìn thấy Katherine nức nở, tay ôm chặt xác bà mẹ đã bất động, gương mặt ông rúm lại đau đớn. Tiếng thét vang động khắp nhà kính là thứ âm thanh mà Katherine Solomon sẽ không bao giờ quên.
 
CHƯƠNG 52


Mal’akh chạy phăm phăm quanh toà nhà về phía cánh cửa vẫn còn để ngỏ của Khoang 5, những phần cơ mang hình xăm trên lưng gã co giật theo bước chạy.

Ta phải đến phòng thí nghiệm của mụ.
Việc Katherine trốn thoát là ngoài dự liệu… và rất lôi thôi. Cô không chỉ biết chỗ Mal’akh sống mà còn biết nhân dạng đích thực của gã… và biết chính gã là kẻ đã đột nhập vào nhà họ mười năm về trước.
Mal’akh không quên đêm ấy. Gã đã gần có được cái kim tự tháp thì số phận lại cản đường. Ta chưa sẵn sàng. Nhưng giờ thì gã đã sẵn sàng. Mạnh mẽ hơn. Nhiều quyền năng hơn. Đã phải chịu đựng những thử thách nghiệt ngã không thể hình dung nổi để chuẩn bị cho việc trở về của mình, đêm nay Mal’akh sẵn sàng hoàn tất số phận của mình. Gã tin chắc rằng trước khi đêm nay qua đi, gã sẽ được nhìn xoáy vào đôi mắt hấp hối của Katherine Solomon.
Đến cửa, Mal’akh tự trấn an mình rằng Katherine thực sự chưa trốn thoát được, cô chỉ kéo dài điều không thể tránh khỏi mà thôi. Gã lách người qua khe hở và bình tĩnh rảo bước trong bóng tối cho tới khi chân chạm tới lớp thảm. Sau đó, gã rẽ sang phải và tiến thẳng tới Khối vuông. Tiếng đập cửa Khoang 5 đã dừng hẳn, và Mal’akh tin rằng người bảo vệ lúc này đang cố tìm cách moi đồng xu mà Mal’akh đã tọng vào khe chìa khoá để vô hiệu hoá nó.
Tới cánh cửa dẫn vào Khối vuông, Mal’akh tìm bảng khoá ngoài và nhét thẻ của Trish vào. Bảng điện tử sáng lên. Gã nhập PIN của Trish rồi bước vào trong. Toàn bộ đèn sáng bừng lên. Khi tiến thẳng vào khu vực vô trùng. Mal’akh ngạc nhiên lướt nhìn cả dãy thiết bị.
Gã không xa lạ gì với sức mạnh của công nghệ, bản thân gã cũng đã tiến hành thứ khoa học của riêng mình ở tầng hầm nhà riêng, và đêm qua, một phần thứ khoa học ấy đã cho ra kết quả.
Chân lý.
Cách giam h.ãm rất độc đáo đối với Peter Solomon - nhốt một mình ở "quãng giữa" - đã moi được toàn bộ bí mật của người đàn ông này. Ta có thể nhìn thấy linh hồn của lão. Mal’akh đã biết một số bí mật mà gã mong đợi từ trước, ngoài ra có những bí mật gã chưa biết, kể cả thông tin về phòng thí nghiệm của Katherine và những phát kiến gây sửng sốt của cô. Khoa học đang ngày càng tiến xa, Mal’akh nhận ra như vậy, và ta sẽ không cho phép nó soi sáng đường cho những kẻ đê tiện.
Công trình của Katherine ở đây bắt đầu sử dụng khoa học hiện đại để trả lời những câu hỏi triết học cổ xưa. Liệu có ai nghe thấy lời nguyện cầu của chúng ta không? Có cuộc sống sa u khi chết không? Con người có linh hồn không?
Thật phi thường, Katherine đã trả lời được tất cả những câu hỏi này, và còn nhiều câu khác nữa. Bằng khoa học. Rất thuyết phục. Những phương pháp mà cô sử dụng là không thể phủ nhận được. Thậm chí những người hoài nghi nhất cũng sẽ bị thuyết phục trước kết quả thí nghiệm của cô. Nếu thông tin này được công bố rộng rãi, nó sẽ tạo ra sự thay đổi căn bản trong ý thức con người. Họ sẽ bắt đầu tìm đường đi của họ. Nhiệm vụ cuối cùng của Mal’akh đêm nay, trước khi gã biến đổi, là không để điều này xảy ra.
Khi đi qua phòng thí nghiệm, Mal’akh xác định được phòng dữ liệu mà Peter đã nói. Gã chăm chú nhìn qua bức tường kính đồ sộ, bên trong là hai hộp lưu trữ dữ liệu sử dụng công nghệ đa sao lưu toàn ảnh đúng như lời lão nói. Mal’akh thấy thật khó tin rằng nội dung của những cái hộp nhỏ xíu này lại có thể làm thay đổi tiến trình phát triển của loài người, và Chân lý vẫn luôn là thứ xúc tác có uy lực nhất.
Nhìn các hộp đĩa sao lưu một lượt. Mal’akh lại lấy thẻ của Trish nhét vào bảng khoá ở cửa. Gã ngạc nhiên khi bảng điện tử không sáng lên. Rõ ràng, Trish Dunne chưa được phép vào phòng này. Giờ gã mới lấy chiếc thẻ tìm thấy trong túi áo choàng của Katherine ra.
Thẻ vừa nhét vào khe, bảng điện tử liền bật sáng.
Nhưng vấn đề mới lại nảy sinh. Ta chưa biết PIN của Katherine Gã thử bằng PIN của Trish nhưng vô hiệu. Xoa xoa cằm, gã bước lùi lại và kiểm tra cánh cửa bằng kính Plexiglas dày gần 8 cm. Gã biết rằng dù có dùng rìu thì gã cũng không thể phá nổi để lấy những ổ dữ liệu bên trong.
Tuy nhiên, Mal’akh đã chuẩn bị cho tình huống này.
Bên trong phòng cấp điện, đúng như Peter mô tả, Mal’akh xác định được giá để vài chiếc bình kim loại giống như những bình khí thở cho thợ lặn, loại lớn. Các bình này đều có chữ LH số 2, và ký hiệu dễ cháy nổ. Có một đầu chụp của bình được nối với pin nhiên liệu hydro của phòng thí nghiệm.
Mal’akh vẫn để nguyên đầu chụp nối như vậy và cẩn thận nhấc một bình dự trữ xuống chiếc xe đẩy dựng bên cạnh giá. Sau đó, gã đẩy chiếc bình ra khỏi phòng cấp điện, băng qua phòng thí nghiệm, tới chỗ cánh cửa Plexiglas của phòng lưu trữ dữ liệu. Mặc dù vị trí này đủ gần nhưng gã vẫn chú ý thấy cánh cửa Plexiglas nặng trịch có một điểm yếu, đó là khoảng trống nhỏ giữa rầm cửa và chân cửa.
Ngay chỗ ngưỡng cửa, gã cẩn thận đặt cái đầu chụp nằm nghiêng và nhẹ nhàng luồn ống cao su xuống dưới cửa. Gã phải mất một lúc mới tháo được niêm phong và xử lý xong van bình chứa, nhưng hoàn thành các thao tác này rồi, gã vẫn không thể mở nổi khoá van. Qua lớp kính Plexiglas, Mal’akh nhìn thấy rõ chất lỏng trong suốt, sủi bọt đang rỉ ra khỏi ống và tràn khắp sàn phòng lưu trữ. Gã theo dõi thứ chất lỏng loang dần ra khắp sàn và bốc hơi ngùn ngụt. Hydrogen ở nguyên dạng lỏng chỉ khi còn lạnh, và khi nóng lên, nó bắt đầu bay hơi. Rất tiện lợi là cái thứ khí sinh ra đó còn dễ cháy hơn chất lỏng.
- Hãy nhớ lại vụ tai nạn Hindenburg[1]
Giờ thì Mal’akh vội vã đi vào phòng thí nghiệm và lấy chiếc bình nhiên liệu đèn Bunsen hiệu Pyrex - một thứ dầu rất dễ cháy nhưng không gây nổ. Gã mang nó tới cánh cửa Plexiglas, hả hê nhìn chiếc bình hydrogen lỏng vẫn đang chảy, vết loang của thứ chất lỏng đang bốc hơi bên trong phòng lưu trữ dữ liệu giờ đã kín cả nền nhà, bao chặt lấy những cái bệ đỡ các hộp lưu trữ. Bấy giờ, khi hydrogen lỏng chuyển thành dạng khí, một màn sương trắng đục bắt đầu bốc lên… dâng kín đặc trong không gian chật hẹp.
Mal’akh nhấc bình nhiên liệu đèn Bunsen và phun mạnh lên bình hydrogen, đường ống cao su, và phun cả vào cái khe hẹp bên dưới cánh cửa. Sau đó, rất cẩn thận, gã bắt đầu lùi dần ra khỏi phòng thí nghiệm, để nguyên dòng dầu tiếp tục phun chảy trên sàn.
o O o
Tối nay, nhân viên trực xử lý các cuộc gọi khẩn cấp 911 khu vực Washington D.C. bận rộn một cách bất thường. Bóng bầu dục, bia, và đêm rằm, cô nghĩ bụng khi một cuộc gọi khẩn cấp nữa xuất hiện trên màn hình, lần này là từ bốt điện thoại trả tiền của một trạm xăng ở đường Suitland Parkway tại Anacostia. Có lẽ là một vụ tai nạn xe hơi.
- Chín-một-một. - cô trả lời máy - Quý vị gặp tình huống khẩn cấp gì vậy?
- Tôi vừa bị tấn công tại Trung tâm Hỗ trợ Bảo tàng Smithsonian, - giọng nữ đầy hốt hoảng vang lên - Xin hãy phái cảnh sát tới số 4210 phố Silver Hill.
- Vâng, cứ bình tĩnh, - nhân viên trực đáp - Bà cần…
- Tôi cần chị cử ngay cảnh sát đến một toà nhà ở Kalorama Heights, tôi nghĩ rằng anh trai tôi đang bị giam giữ ở đó!
Nhân viên trực thở dài. Đêm rằm.
Chú thích
[1] Khí cầu khổng lồ Hindenburg của Đức dài 245m - gấp 3 lần chiều dài một chiếc siêu phản lực, có thể chở 117 hành khách từ châu Âu sang Mỹ. Năm 1937, nó bùng cháy khi đáp xuống New Jersey ở Hoa Kỳ, làm thiệt mạng 36 người - ND.
 
CHƯƠNG 53


- Như tôi đã cố giải thích với anh - Bellamy nói - kim tự tháp này có nhiều ý nghĩa hơn những gì chúng ta nhìn thấy.

Rõ ràng là như vậy. Langdon phải thừa nhận rằng với anh, ngọn kim tự tháp có vẻ bí ẩn hơn lúc trước rất nhiều. Việc giải mã đang chững lại ở một ma trận chữ cái xem chừng vô nghĩa.
Mất một lúc khá lâu, Langdon kiểm tra ô chữ, cố dò mối liên hệ giữa các chữ cái này, nào là ghép từ, đảo chữ và đủ mọi manh mối khác nhưng anh chẳng tìm thấy gì cả.
- Người ta nói rằng Kim tự tháp Tam điểm giấu kín bí mật của nó dưới rất nhiều lớp màn nguỵ trang - Bellamy giải thích - Cứ vén được một tấm màn, anh lại đối mặt với một tấm khác. Anh đã giải được những con chữ này, nhưng chúng chẳng nói lên điều gì cho tới khi anh bóc được một lớp nữa. Dĩ nhiên, chỉ người nào nắm giữ cái chóp mới biết cách bóc. Tôi cho rằng cái chóp cũng có chữ khắc, mách bảo ta cách giải mã kim tự tháp.
Langdon liếc nhìn cái gói hình hộp trên bàn. Từ những gì Bellamy nói, Langdon hiểu rằng cái chóp và kim tự tháp là một "mật mã được tách rời ra" thành từng phần. Các chuyên gia mật mã hiện đại vẫn thường xuyên dùng mật mã tách rời mặc dù ý tưởng bảo mật này được phát minh tại Hy Lạp cổ đại. Người Hy Lạp, khi muốn lưu giữ thông tin bí mật, thường khắc thông tin ấy lên một phiến đất sét rồi đập vỡ nó thành từng mảnh, cất giữ rải rác ở những địa điểm khác nhau. Chỉ khi tất cả các mảnh được gom lại thì bí mật mới hiện hình. Loại phiến đất sét có khắc chữ này - gọi là biểu hình - trên thực tế chính là nguồn gốc của từ biểu tượng.
- Robert, - Bellamy lên tiếng - Người ta đã tách rời kim tự tháp đá và phần chóp của nó suốt nhiều thế hệ qua nhằm bảo đảm tính an toàn cho bí mật - Giọng ông bỗng trở nên thiểu não - Tuy nhiên tối nay, hai phần lại đến gần nhau một cách quá nguy hiểm. Tôi định không nói điều này… nhưng nhiệm vụ của chúng ta là ngăn ngừa việc ráp liền kim tự tháp.
Langdon cảm thấy Bellamy hơi quá quan trọng hoá vấn đề. Ông ấy đang nói đến cái chóp và kim tự tháp… hay là thiết bị kích nổ và quả bom hạt nhân? Anh vẫn không hoàn toàn tán thành quan điểm của Bellamy, nhưng cũng chẳng sao.
- Cứ cho đây là Kim tự tháp Tam điểm, và coi như phần chữ khắc này sẽ thật sự hé lộ vị trí của kho tri thức cổ xưa thì làm thế nào kho tri thức ấy có thể tạo ra sức mạnh như người ta đồn đại?
Peter luôn nói với tôi rằng anh là người rất khó thuyết phục, một học giả thích có bằng chứng để suy xét.
- Vậy là ông thật sự tin huyền thoại đó phải không? - Langdon vặn lại, cảm thấy mất hết mọi kiên nhẫn - Xin thứ lỗi… ông là một con người thời hiện đại, có học thức. Tại sao ông tin nổi một chuyện như thế chứ?
Bellamy nở nụ cười nhẫn nại.
- Công việc ở Hội Tam điểm dạy tôi phải kính nể những điều vượt quá hiểu biết của con người. Tôi đã học được cách không bao giờ khép chặt trí óc của mình trước một ý tưởng đơn giản chỉ vì nó có vẻ huyền hoặc.
 
CHƯƠNG 54


Nhân viên tuần tra vòng ngoài của SMSC cuống cuồng lao bổ theo lối đi lát sỏi viền quanh toà nhà. Anh vừa nhận được cuộc gọi của nhân viên bên trong, thông báo ổ khoá Khoang 5 đã bị phá, và đèn an ninh cho biết cửa chuyển mẫu vật của Khoang 5 đang mở.

Chuyện quái gì thế nhỉ? Người bảo vệ đến cửa chuyển mẫu vật, quả nhiên thấy nó đã mở rộng đến vài thước. Quái quỷ, anh ta nghĩ bụng. Cửa này chỉ mở được từ bên trong thôi chứ? Anh rút đèn pin bên thắt lưng và soi vào khoảng tối mịt mùng trong khoang. Chẳng thấy gì cả. Anh không có ý định bước vào, nên chỉ di chuyển theo ngưỡng cửa, chĩa ngọn đèn qua chỗ hở, xoay sang trái và sau đó sang…
Hai bàn tay rắn chắc chụp lấy cổ tay người bảo vệ và kéo tuột anh vào bóng tối. Người bảo vệ thấy mình bị xoay tít bởi một sức mạnh vô hình. Mùi ethanol xộc lên. Ngọn đèn pin văng khỏi tay, anh ta chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra thì đã bị một cú đấm nặng như búa tạ nện thẳng xuống ức. Người bảo vệ gục xuống nền xi măng… rên rỉ vì đau. Lúc đó một bóng đen cao lớn bước qua người anh và đi ra.
Người bảo vệ nằm nghiêng, cố thở. Ngọn đèn pin của anh nằm kế bên, rọi sáng mặt sàn và soi rõ một thứ gì đó giống như thùng kim loại. Nhãn thùng cho biết đó là dầu nhiên liệu dùng cho đèn Bunsen.
Một chiếc bật lửa sáng lên, và ngọn lửa màu cam soi sáng một cái bóng không hẳn là người. Lạy Chúa! Người bảo vệ không đủ thời gian để nghĩ xem mình vừa nhìn thấy gì thì cái sinh vật cởi trần đó đã quỳ xuồng và dí ngọn lửa xuống sàn.
Một vệt lửa lập tức xuất hiện, chạy rất nhanh khỏi chỗ họ, tiến thẳng vào khoảng trống phía trước. Người bảo vệ hoảng hốt ngó lại, nhưng sinh vật kia đã lách ra khỏi cánh cửa để ngỏ, biến vào màn đêm.
Người bảo vệ cố gắng ngồi dậy, nhăn mặt vì đau, mắt vẫn nhìn theo vệt lửa. Chuyện quái quỷ gì vậy? Ngọn lửa thoạt trông rất nhỏ, không có vẻ quá nguy hiểm, nhưng đến lúc này, người bảo vệ mới nhìn thấy thứ thật sự khủng khiếp. Ngọn lửa không chỉ chiếu sáng khoảng tối mịt mùng nữa. Nó đã chạy tới tận bức tường phía sau, soi rõ một kết cấu chống cháy đồ sộ. Người bảo vệ chưa bao giờ được phép vào bên trong Khoang 5, nhưng anh biết rất rõ kết cấu đó là gì.
Khối vuông.
Phòng thí nghiệm của Katherine Solomon.
Ngọn lửa chạy một đường thẳng băng tới cửa ngoài phòng thí nghiệm. Người bảo vệ cố gượng đứng lên, biết rất rõ rằng vệt lửa kia có thể tiếp tục chui qua cửa phòng thí nghiệm… và sẽ phát cháy bên trong. Anh ta đang định chạy đi kêu cứu thì một luồng không khí bất ngờ tràn tới.
Trong tích tắc, toàn bộ Khoang 5 rực sáng.
Người bảo vệ không bao giờ nhìn thấy quả cầu lửa hydrogen phụt lên trời, phá tung mái Khoang 5 và vọt cao hàng trăm mét trong không trung. Anh cũng không thể nhìn thấy cả cơn mưa vụn titan, thiết bị điện tử và các mảnh silicon nóng chảy từ những hộp lưu trữ của phòng thí nghiệm từ trên không rào rào trút xuống.
o O o
Katherine Solomon đang cho xe chạy về phía bắc thì nhìn thấy ánh sáng đột ngột nhá lên qua kính chiếu hậu. Một tiếng nổ trầm đục rền vang qua màn đêm, khiến cô giật mình.
Pháo hoa à? Cô băn khoăn. Đội áo đỏ trình diễn giờ giải lao giữa hiệp chăng?
Cô lại tập trung chú ý vào đường đi, tâm trí vẫn luẩn quẩn về cuộc gọi tới số 911 mà cô đã thực hiện từ bốt điện thoại ở một trạm bơm xăng vắng tanh vắng ngắt.
Katherine đã thuyết phục được nhân viên điều phối 911 phái cảnh sát tới SMSC để điều tra một kẻ đột nhập xăm trổ khắp mình và cô cũng mong họ tìm thấy trợ lý Trish của cô. Thêm vào đó, cô còn giục nhân viên điều phối tới kiểm tra tư gia của bác sĩ Abaddon ở Kalorama Heights, nơi cô nghĩ Peter đang bị giam giữ.
Thật không may, Katherine lại không thể gọi được tới số di động của Robert Langdon vì cô không lưu sẵn trong máy. Cho nên lúc này, chẳng còn lựa chọn nào khác là phóng đến Thư viện Quốc hội, Langdon đã báo với cô rằng anh sẽ tới đó.
Việc nhận ra nhân dạng đích thực của bác sĩ Abaddon đã làm thay đổi mọi thứ. Katherine không biết phải tin điều gì nữa. Tất cả những gì cô biết chắc là chính gã đàn ông đã sát hại mẹ cô và cháu trai của cô nhiều năm về trước nay lại bắt giam anh trai cô và tìm tới để giết cô. Gã điên loạn này là ai chứ?Hắn muốn gì? Câu trả lời duy nhất cô nghĩ ra lại chẳng có ý nghĩa gì cả. Một cái kim tự tháp ư? Điều khó hiểu không kém là tại sao gã này lại mò tới phòng thí nghiệm của cô tối nay. Nếu hắn muốn làm hại cô thì tại sao hắn không thực hiện như vậy ngay tại nhà hắn hôm nay? Tại sao phải phiền phức gửi tin nhắn và mạo hiểm vào tận phòng thí nghiệm của cô?
Ngọn lửa trong gương chiếu hậu càng lúc càng chói lọi, chớp sáng ban đầu kéo theo nó một cảnh tượng bất ngờ - một quả cầu lửa màu cam nóng bỏng bùng lên phía trên những hàng cây… và chẳng có vẻ gì gần sân Fedex của đội bóng áo đỏ cả. Lo lắng, Katherine cố gắng xác định xem phía sau những hàng cây ấy, ngay phía đông nam đại lộ là cơ sở công nghiệp nào…
Sau đó, như có tia chớp nhá lên trong óc, cô nghĩ ra.
 
CHƯƠNG 55


Warren Bellamy khẩn trương bấm phím điện thoại di động, cố gắng liên lạc với ai đó có thể giúp họ, bất kỳ ai.

Langdon nhìn Bellamy, nhưng tâm trí anh ở bên Peter, cố gắng nghĩ xem cách nào tốt nhất để tìm ra ông. Giải mã nội dung chạm khắc, kẻ bắt cóc Peter ra lệnh như vậy, nó sẽ cho ông biết nơi cất giấu báu vật vĩ đại nhất của nhân loại… Chúng ta sẽ đi cùng nhau… và thực hiện giao kèo của chúng ta…
Bellamy tắt máy, cau mày. Vẫn không ai trả lời.
- Tôi thật không hiểu nổi - Langdon lên tiếng - Cứ cho là tôi chấp nhận sự tồn tại của kho tri thức bí mật… và đúng là kim tự tháp này sẽ chỉ lối tới vị trí ngầm của nó… thì tôi phải tìm kiếm cái gì đây? Một căn hầm ư? Hay một boong ke?
Bellamy yên lặng hồi lâu rồi thở dài do dự và thận trọng đáp.
- Anh Robert này, theo những gì tôi nghe kể nhiều năm qua thì kim tự tháp dẫn tới lối vào một cầu thang xoắn ốc.
- Một cầu thang ư?
- Phải. Một cầu thang dẫn xuống lòng đất… sâu hàng trăm thước.
Langdon không tin vào tai mình. Anh cúi xuống gần Bellamy.
- Tôi nghe nói rằng kho tri thức cổ xưa được chôn ở dưới đáy.
Robert Langdon đứng lên và bắt đầu rảo bước. Một cầu thang xoáy ốc dẫn xuống lòng đất hàng trăm thước… tại Washington D. C. - Và chưa ai nhìn thấy cầu thang ấy?
- Nghe đồn có một khối đá khổng lồ chặn lối vào.
Langdon thở dài. Ý tưởng một hầm mộ được lấp kín bằng tảng đá khổng lồ bắt nguồn từ các thuyết trong Kinh thánh kể về mộ phần của Chúa Jesus. Mô típ này đã lưu truyền rất lâu rồi.
- Warren, ông cũng tin rằng cái cầu thang bí mật dẫn xuống lòng đất ấy có tồn tại hả?
- Cá nhân tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó, nhưng vài ba tín hữu Tam điểm lớn tuổi thề rằng nó tồn tại. Tôi đang cố liên lạc với một trong số những người ấy đây.
Langdon tiếp tục rảo bước, không biết phải nói gì nữa.
- Anh Robert, anh để cho tôi một nhiệm vụ khó khăn liên quan đến kim tự tháp này - ánh mắt Warren Bellamy sắt lại trong luồng sáng dìu dịu của đèn đọc sách - Tôi biết không thể ép buộc người khác tin vào những điều họ không muốn tin. Nhưng tôi hy vọng anh hiểu được nghĩa vụ của anh đối với Peter Solomon.
Phải, tôi có nghĩa vụ giúp ông ấy, Langdon nghĩ bụng.
- Tôi không cần anh tin vào sức mạnh tiềm năng của kim tự tháp.
- Tôi cũng không cần anh tin rằng ngọn tháp này sẽ dẫn lối tới một cầu thang. Nhưng tôi thật sự cần anh tin rằng anh có nghĩa vụ bảo vệ bí mật này… cho dù nó là gì - Bellamy ra dấu về phía cái gói hình hộp - Peter tín nhiệm giao chóp tháp cho anh vì tin rằng anh sẽ làm theo mong muốn của ông ấy và giữ bí mật. Giờ anh phải thực hiện đúng như vậy, cho dù phải hy sinh mạng sống của Peter.
Langdon khựng lại và xoay người.
- Sao cơ?!
Bellamy vẫn ngồi, sắc diện tái nhợt nhưng đầy quả quyết.
- Đó chính là những gì Peter muốn. Anh hãy quên ông ấy đi. Peter đã biến mất sau khi hoàn thành phần việc của mình, cố gắng hết sức để bảo vệ kim tự tháp. Còn lúc này, công việc của chúng ta là bảo đảm những nỗ lực của ông ấy không trở thành vô ích.
- Thật khó tin những lời này lại thốt ra từ miệng ông! - Langdon kêu lên phẫn nộ - Cho dù kim tự tháp có phi thường như ông nói thì hai người cũng là huynh đệ Tam điểm. Ông đã thề sẽ bảo vệ ông ấy hơn hẳn mọi thứ, kể cả tổ quốc kia mà?
- Không, Robert. Một hội viên Tam điểm phải bảo vệ tín hữu của mình trên hết mọi thứ… trừ bí mật vĩ đại mà hội chúng tôi giữ gìn cho toàn thể nhân loại. Bất kể vốn tri thức bị thất truyền này có sức mạnh như lịch sử nói hay không thì tôi cũng đã thề giữ kín nó trước những kẻ vô đạo, và tôi sẽ không trao nó cho bất kỳ ai… thậm chí là để đổi lấy mạng sống của Peter Solomon.
- Tôi biết rất rõ về Hội Tam điểm, - Langdon giận dữ nói - kể cả những chi tiết mới nhất, và tôi dám chắc hội viên không thề hy sinh mạng sống của mình vì một cái kim tự tháp đá, và tôi cũng dám chắc không ai trong số họ tin vào cầu thang bí mật dẫn xuống một kho báu chôn sâu trong lòng đất.
- Trong nhóm này lại có những nhóm khác, anh Robert ạ. Không phải ai cũng biết được mọi thứ.
Langdon thở hắt ra, cố gắng kiểm soát cảm xúc của mình. Anh, cũng như tất cả mọi người, từng nghe đồn đại về các nhóm tinh tuý ngay trong Hội Tam điểm. Tuy nhiên, điều đó đúng hay sai dường như không liên quan đến tình huống này.
- Warren, nếu kim tự tháp và cái chóp thực sự hé lộ bí mật tối thượng của Hội Tam điểm thì tại sao Peter lại kéo tôi vào cuộc? Tôi thậm chí không phải là tín hữu… chẳng hề thuộc bất kỳ nhóm nào cả.
- Tôi biết, và tôi cho rằng đó chính là lý do khiến Peter chọn anh để bảo vệ bí mật. Trước đây kim tự tháp này đã bị nhòm ngó, nhiều kẻ còn tìm cách thâm nhập vào hội của chúng tôi với những động cơ hèn hạ. Việc Peter cất giữ nó bên ngoài hội là một lựa chọn khôn ngoan.
- Ông có biết tôi cầm cái chóp không? - Langdon hỏi.
- Không hề, và nếu Peter có tiết lộ thì chỉ với một người thôi - Bellamy rút điện thoại di động ra và bấm nút gọi lại - Nhưng đến giờ, tôi vẫn chưa thể gọi được người đó - ông nhận một lời nhắn thoại và tắt máy - Chà, anh Robert, có vẻ như anh và tôi phải tự xoay xở một thời gian rồi. Sau đó chúng ta cần ra một quyết định.
Langdon nhìn chiếc đồng hồ Chuột Mickey. Đã 9 giờ 42 phút tối.
- Ông cũng biết đấy, kẻ bắt cóc Peter yêu cầu tôi giải mã kim tự tháp tối nay và nói cho gã biết nó nói gì.
Bellamy cau mày.
- Các vĩ nhân trong lịch sử đã hy sinh bản thân để bảo vệ những Bí mật cổ xưa. Anh và tôi cũng phải làm như vậy - ông ấy đứng lên - Chúng ta nên đi tiếp. Sớm hay muộn thì Sato cũng sẽ biết chúng ta ở đâu.
- Thế còn Katherine thì sao? - Langdon gặng hỏi, vẻ không muốn đi. - Tôi không thể liên lạc được với cô ấy, mà cũng chưa thấy cô ấy gọi lại.
- Rõ ràng là gặp sự cố rồi.
- Nhưng chúng ta không thể bỏ rơi cô ấy được!
- Quên Katherine đi? - Bellamy nói, giọng ra lệnh - Hãy quên Peter! Quên tất cả mọi người! Anh không hiểu sao, Robert, rằng anh đã được giao phó một nhiệm vụ nặng nề hơn tất cả chúng ta: anh, Peter, Katherine và chính tôi nữa? - ông ấy chằm chằm nhìn Langdon - Chúng ta cần tìm một nơi an toàn để giấu kim tự tháp và cái chóp này thật xa khỏi…
Tiếng kim loại loảng xoảng rất to vọng vào từ hướng đại sảnh.
Bellamy xoay người, mắt đầy vẻ sợ hãi.
- Nhanh thế sao?
Langdon quay ra phía cửa. Tiếng động vừa rồi rõ ràng là phát ra từ cái xô sắt mà Bellamy đặt lên thang chắn chỗ cửa đường hầm. Họ đến tìm chúng ta rồi.
Sau đó, thật bất ngờ, tiếng loảng xoảng lại vang lên.
Lần nữa.
Rồi lần nữa.
o O o
Gã vô gia cư trên chiếc ghế băng trước cửa Thư viện Quốc hội dụi mắt và nhìn cảnh tượng lạ lùng đang diễn ra trước mắt gã.
Một chiếc Volvo màu trắng chồm lên vỉa hè, lạng qua lối đi bộ vắng tanh và phanh kít dưới chân lối vào thư viện. Một phụ nữ tóc sẫm màu, rất quyến rũ nhảy vội ra, lo lắng nhìn quanh một lượt và kêu lên khi chạm mắt vào gã vô gia cư.
- Anh có điện thoại không?
Quý bà ơi, tôi còn chẳng có chiếc giày bên trái đây này.
Rõ ràng đã nhận ra tình hình, người phụ nữ phăm phăm lao lên bậc cấp về phía cửa chính của thư viện. Khi đến bậc trên cùng, cô nắm lấy tay kéo và cố sức mở ba cánh cửa đồ sộ.
Thư viện đóng cửa rồi thưa quý bà.
Nhưng người phụ nữ dường như không để tâm. Cô túm lấy những tay nắm hình khuyên to nặng, giật về phía mình rồi thả ra để nó va mạnh vào cửa. Sau đó cô làm lại.
Lần nữa.
Rồi lần nữa.
Trời ạ, gã vô gia cư nghĩ bụng, chắc cô ta cần mượn sách lắm đây.
 
CHƯƠNG 56


Khi cánh cửa đồng nặng trịch của thư viện mở ra trước mắt, Katherine cảm thấy như cửa xả cảm xúc vừa được kéo lên. Bao nỗi sợ hãi và rối loạn mà cô phải dồn nén suốt tối được dịp vỡ oà.

Bóng người đứng ở cửa thư viện là Bellamy, một người bạn tâm giao của anh trai cô. Nhưng chính người đứng lẩn trong bóng tối đằng sau ông ta mới khiến Katherine thực sự sung sướng vì được gặp mặt. Rõ ràng cả hai đều có cảm giác ấy. Mắt Robert Langdon thể hiện rõ sự nhẹ nhõm khi cô chạy lao qua cửa… nhào vào vòng tay anh.
Katherine đắm mình trong vòng tay an ủi của người bạn cũ, Bellamy đóng cửa trước lại. Tiếng sập khoá khiến Katherine cảm thấy cuối cùng mình cũng được an toàn. Nước mắt bỗng trào ra, nhưng cô cỗ kìm lại.
Langdon ôm lấy cô.
- Thế là được - anh thì thầm - Chị ổn rồi.
Vì anh đã cứu tôi đấy. Katherine muốn nói với Langdon như vậy.
Hắn đã phá tan phòng thí nghiệm… phá tan toàn bộ công trình của tôi! Bao nhiêu năm nghiên cứu… tan thành mây khói. Cô muốn kể cho anh nghe mọi việc, nhưng cô còn không kịp thở.
- Chúng ta sẽ tìm Peter - Giọng trầm ấm của Langdon dội vào ngực Katherine, khiến cô khuây khoả phần nào - Tôi hứa đấy.
- Tôi biết kẻ gây ra việc này! Katherine muốn hét to lên. Chính cái gã đã giết mẹ và cháu tôi! Cô chưa kịp giải thích thì một tiếng động bất ngờ phá tan sự im lặng của thư viện.
Tiếng loảng xoảng rất to vang lên phía dưới họ ở cầu thang tiền sảnh, nghe như thể một vật gì đó bằng kim loại vừa rơi xuống sàn đá hoa. Katherine cảm thấy các cơ của Langdon cứng lại.
Bellamy bước lên trước, vẻ mặt sợ hãi.
- Chúng ta đi thôi. Ngay bây giờ!
Katherine hoảng hốt theo Kiến trúc sư và Langdon băng qua đại sảnh về phía phòng đọc của thư viện, nơi vẫn còn sáng đèn. Bellamy nhanh chóng khoá hai lớp cửa lại phía sau họ, đầu tiên là cửa ngoài, tiếp đến là cửa trong.
Katherine còn đang thảng thốt thì Bellamy đã đẩy cô và Langdon về phía giữa phòng. Cả ba đến bên một chiếc bàn, trên đó có cái túi xách bằng da nằm dưới một ngọn đèn. Bên cạnh cái túi có một gói nhỏ hình hộp mà Bellamy cầm vội lên và bỏ vào trong túi, cùng với một…
Katherine sững lại. Một kim tự tháp ư?
Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy kim tự tháp đá có chạm khắc này, Katherine cũng cảm thấy toàn thân chấn động. Ít nhiều thâm tâm cô đã đoán biết sự thật. Cô vừa chạm trán với cái vật huỷ hoại cuộc đời cô Kim tự tháp.
Bellamy kéo khoá và đưa túi cho Langdon.
- Đừng để thứ này rời khỏi tầm mắt anh.
Một tiếng nổ bất ngờ làm chấn động cửa ngoài căn phòng. Tiếp đến là tiếng mảnh kính vụn rơi rào rào.
- Lối này! - Bellamy nói to, nhớn nhác xua cả nhóm tới chiếc bàn tròn ở chính giữa: gồm tám ô quầy quây xung quanh một cái bục bát giác lớn. Ông dẫn họ ra sau những chiếc quầy và trỏ một chỗ mở trên bục.
- Chui vào đó!
- Vào đó ư?- Langdon gặng hỏi - Họ sẽ tìm thấy chúng ta mất!
Tin tôi đi. - Bellamy nói - Không như anh nghĩ đâu.

 
CHƯƠNG 57


Mal’akh phóng chiếc Limousine lên hướng bắc, về phía Kalorama Heights. Vụ nổ trong phòng thí nghiệm của Katherine khủng khiếp hơn gã dự đoán và rất may mắn là gã thoát ra mà không xây xước gì. Cũng tiện, tình trạng hỗn loạn tiếp theo vụ nổ đã giúp việc đào tẩu thuận lợi. Gã dễ dàng phóng chiếc Limousine qua một người bảo vệ đang cuống quít gào vào máy điện thoại.

Ta phải rời đường lớn, gã nghĩ thầm. Dù Katherine chưa kịp gọi cho cảnh sát thì vụ nổ chắc chắn cũng gây chú ý cho họ. Một gã đàn ông cởi trần lái xe Limousine khó lòng qua mắt bọn cớm.
Sau nhiều năm chuẩn bị, Mal’akh tin tưởng rằng đêm nay hoàn toàn tuỳ thuộc vào gã. Hành trình cho tới thời điểm này quả là một hành trình đằng đẵng, khó khăn. Những gì bắt đầu nhiều năm về trước trong cay đắng… sẽ kết thúc đêm nay trong vinh quang.
Vào cái đêm mọi việc bắt đầu, gã chưa mang tên Mal’akh. Thực ra, lúc ấy gã chẳng có tên gọi nào cả. Thằng tù số 37. Như hầu hết những kẻ bị tù tội ở Trại giam Soganlik tàn bạo nơi ngoại ô Istanbul, Thằng tù số 37 phải vào đây vì ma tuý.
Gã nằm trên gi.ường trong một phòng giam bê tông tăm tối, bụng đói và rét run, tự hỏi không biết còn bị giam giữ bao lâu nữa. Người bạn tù cùng phòng, mà gã mới gặp hai mươi tư giờ trước đó, đang ngủ trên chiếc gi.ường ngay phía trên gã. Viên quản ngục vừa tắt hết đèn đóm. Lão ta béo, nghiện rượu, không thích thú với công việc của mình và thường trút bực bội lên đám tù nhân.
Khoảng gần 10 giờ thì Thằng tù số 37 nghe thấy tiếng trò chuyện vọng qua đường ống thông hơi. Giọng nói thứ nhất không lẫn đi đâu được đó là giọng cắm cảu, chói lói của tay quản ngục, rõ ràng không thích thú gì việc bị đánh thức dậy lúc khuya khoắt.
- Vâng, vâng, ngài vừa đi cả chặng đường dài, - lão nói - nhưng không có chuyện thăm nom trong tháng đầu tiên. Quy định của Nhà nước mà. Không có ngoại lệ.
Giọng đáp lại rất nhẹ nhàng và lịch thiệp, mà cũng đầy đau khổ.
- Con trai tôi có được an toàn không?
- Nó nghiện ma tuý.
- Nó có được đối xử tử tế không?
- Cũng ổn, - lão quản ngục nói - Đây có phải là khách sạn đâu.
Một khoảng im lặng tái tê.
- Ông biết Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ sẽ yêu cầu dẫn độ mà.
- Vâng, vâng, họ luôn làm như vậy. Người ta sẽ đồng ý thôi, mặc dù khâu giấy tờ thủ tục có thể làm chúng ta mất đến vài tuần… hoặc thậm chí cả tháng… còn tuỳ.
- Tuỳ cái gì?
- Chà - lão quản ngục đáp - chúng tôi rất thiếu nhân viên - Lão dừng lại - Dĩ nhiên, thỉnh thoảng các bên liên quan như ngài quyên góp một số khoản cho nhân viên nhà lao để giúp chúng tôi thúc đẩy mọi việc nhanh hơn.
Vị khách nín lặng.
- Ngài Solomon - lão quản ngục nói tiếp, giọng hạ thấp - với một người mà tiền bạc không thành vấn đề như ngài, luôn có rất nhiều lựa chọn. Tôi quen khối người trong chính phủ. Nếu ngài hợp tác với tôi, chúng ta có thể đưa con trai ngài ra khỏi đây… ngay ngày mai, sạch sẽ hoàn toàn. Thằng bé thậm chí còn không hề bị truy tố khi về nước.
Người kia trả lời ngay.
- Quên gợi ý của ông đi, tôi không định dạy cho con trai tôi biết rằng tiền có thể giải quyết được mọi rắc rối hoặc là cuộc đời không cần biết đến trách nhiệm, đặc biệt là với một vấn đề nghiêm trọng thế này.
- Ngài muốn bỏ thằng bé lại đây sao?
- Tôi muốn nói chuyện với nó. Ngay bây giờ.
- Tôi đã thông báo rồi, chúng tôi cớ quy định. Không thể gặp gỡ gì hết… trừ phi ngài thu xếp phóng thích cho nó ngay lập tức.
Sự im lặng lạnh lùng kéo dài một lúc.
- Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ sẽ liên hệ với ông. Hãy giữ an toàn cho Zachary. Tôi tin nó sẽ lên máy bay về nước trong tuần tới. Chào ông.
Cửa đóng sầm lại.
Thằng tù 37 không tin vào tai mình. Sao lại có loại bố bỏ con trai mình ở cái địa ngục này để dạy cho nó một bài học chư? Peter Solomon thậm chí còn không chấp nhận lời đề nghị tẩy sạch lý lịch của Zachary.
Khuya hôm đó, nằm thao thức trên gi.ường, Thằng tù số 37 đã nhận ra cách để tự giải thoát mình. Nếu tiền là thứ duy nhất khiến một thằng tù mất tự do thì Thằng tù số 37 sẽ có tự do. Peter Solomon có thể không chịu chi tiền nhưng, đúng như bất kỳ ai đã từng đọc các báo lá cải đều biết, con trai ông ta, Zachary, cũng có rất nhiều tiền.
Ngày hôm sau, Thằng tù số 37 nói chuyện riêng với lão quản ngục và đề xuất một kế hoạch, một âm mưu táo bạo, khéo léo sẽ đem lại cho cả hai đúng những gì chúng muốn.
Zachary Solomon phải chết thì kế hoạch mới có kết quả. - Thằng tù số 37 giải thích - Nhưng chúng ta đều có thể biến mất ngay lập tức. Ông cứ lui về quần đảo Hy Lạp. Ông sẽ chẳng bao giờ phải nhìn lại nơi này nữa.
Sau khi thảo luận, hai tên bắt tay nhau.
Chỉ ít lâu nữa Zachary Solomon sẽ chết, Thằng tù số 37 nghĩ, mỉm cười khi thấy mọi việc quá dễ dàng.
Hai ngày sau, Bộ Ngoại giao liên hệ với gia đình Solomon để thông báo tin dữ. Những bức ảnh chụp trong tù cho thấy xác con trai họ bị đánh đập dã man, nằm co quắp và bất động trên sàn phòng giam. Đầu bị nện mạnh bởi một thanh sắt, phần cơ thể còn lại bằm dập không tưởng tượng nổi. Có lẽ nó bị tra tấn rồi bị giết. Nghi can chính là tay quản ngục, kẻ đã biến mất, có lẽ cùng với tất cả tiền bạc của thằng bé bị sát hại. Zachary đã ký giấy tờ chuyển toàn bộ tiền bạc của mình sang một tài khoản bí mật và tài khoản này được rút hết ngay sau cái chết của nó. Không dò ra nổi tiền chảy đi đâu.
Peter Solomon bay sang Thổ Nhĩ Kỳ bằng máy bay riêng và trở về cùng với bình tro hài cốt của con trai để an táng trong nghĩa trang gia đình Solomon. Người ta không tìm thấy lão quản ngục. Sẽ không bao giờ thấy, Thằng tù số 37 biết rõ điều đó. Thân hình phì nộn của lão Thổ giờ đang yên vị dưới đáy biển Marmara, xực lũ ghẹ xanh di cư tới qua Vịnh Bosporus. Toàn bộ tài sản khổng lồ thuộc về Zachary Solomon đã được chuyển sang một trương mục ngân hàng hoàn toàn bí mật. Thằng tù số 37 lại trở thành người tự do, một người tự do với khối tài sản khổng lồ.
Các quần đảo ở Hy Lạp thật là thiên đường. Với ánh sáng. Nước. Và đàn bà.
Chẳng có gì là không mua được bằng tiền - nhân dạng mới, hộ chiếu mới, hy vọng mới. Gã chọn một cái tên Hy Lạp là Andros Dareios, Andros nghĩa là "chiến binh", còn Dareios nghĩa là "giàu có". Những đêm tăm tối trong tù khiến gã khiếp sợ, và Andros thề sẽ không bao giờ quay lại nơi ấy. Gã cạo trọc đầu, đoạn tuyệt hoàn toàn với thề giới ma tuý, bắt đầu một cuộc đời mới và khám phá những kh.oái lạc trần tục chưa hề nghĩ đến trước kia. Cảnh thanh bình một mình dong buồm trên biển Aegean xanh như mực trở thành cơn nghiện, khoái cảm khi hút chất dịch trên món thịt cừu nướng kiểu Hy Lạp trở thành niềm đam mê, và trò nhảy từ trên vách đá xuống những suối nước ngầu bọt ở Mykonos trở thành ma tuý mới của gã.
Ta đã phục sinh.
Andros mua một biệt thự sang trọng trên đảo Syros và sinh sống bên những con người lịch lãm tại thị trấn Possidonia. Cộng đồng mới này không chỉ giàu có mà còn rất văn minh và hoàn hảo về thể chất.
Những người hàng xóm của gã vô cùng tự hào với hình thể và trí tuệ của họ, mà cái sự hãnh diện đó rất dễ lây lan. Kẻ mới đến đột nhiên thấy mình cũng hăng hái tập chạy trên bãi biển, tắm nắng để cho cơ thể xanh xao trở nên dạn dày với nắng gió, và chịu khó đọc sách.
Andros đọc trường ca Odyssey của Homer, say mê hình ảnh những con người mình đồng da sắt mạnh mẽ chiến đấu trên quần đảo này.
Ngày hôm sau, gã bắt đầu tập tạ, ngạc nhiên khi thấy ngực và tay nở nang rất nhanh. Dần dà, gã cảm nhận ánh mắt phụ nữ thường hướng về phía mình. Sự ngưỡng mộ là một thứ tạo men say, gã thèm được nở nang hơn nữa, và đúng như vậy. Với sự hỗ trợ của các loại steroid trộn với hormone tăng trưởng bán ngoài chợ trời cùng những giờ miệt mài tập tạ, Andros đã biến đổi mình thành một người mà gã chưa bao giờ hình dung ra - một mẫu đàn ông hoàn hảo. Gã phát triển cả về chiều cao và cơ bắp, ngực căng phồng, chân tay gân guốc nở nang, nước da rám nắng đẹp tuyệt vời.
Tất cả mọi người đều phải ngắm nhìn.
Nhưng như đã được cảnh báo trước, các loại steroid và hormone không chỉ làm cơ thể Andros thay đổi mà còn tác động cả vào thanh quản, khiến giọng gã thành lào phào, nhẹ hẫng nhưng điều đó lại làm cho gã cảm thấy mình thêm phần bí ẩn. Cái chất giọng nhẹ, gây tò mò, kết hợp với cơ thể mới cùng tiền bạc của gã, và việc gã không chịu nói về quá khứ bí ẩn của mình, khác nào một thứ bùa mê đối với đám phụ nữ. Họ sẵn sàng hiến mình, và gã làm cho tất cả thoả mãn, từ những người mẫu thời trang tới đảo để chụp ảnh, những sinh viên đại học khêu gợi đi nghỉ mát đến những bà vợ cô đơn của hàng xóm láng giềng, đôi khi cả mấy cậu choai choai nữa. Bọn họ luôn đầy khát khao.
Ta là một kiệt tác.
Tuy nhiên, năm tháng qua đi, những cuộc phiêu lưu tình ái của Andros bắt đầu bớt dần tính ly kỳ. Mọi thứ khác cũng vậy. Hòn đảo thôi hấp dẫn, sách vở không còn thú vị, và thậm chí những buổi hoàng hôn đẹp mê hồn nhìn từ biệt thự cũng chán ngắt. Biết làm thế nào bây giờ? Hắn chỉ mới hai mươi tư tuổi và gã chưa cảm thấy già. Cuộc đời này còn những gì nữa? Gã đã nhào nặn cơ thể mình thành một kiệt tác, đã bồi bổ kiến thức và nuôi dưỡng trí tuệ mình bằng văn hoá, đã biến căn nhà của mình thành thiên đường, và vui thú với bất kỳ ai mà gã muốn.
Nhưng lạ thay, gã cảm thấy trống rỗng hệt như lúc còn ngồi trong nhà tù ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Ta thiếu thứ gì?
Vài tháng sau, câu trả lời đến với gã.
Andros đang ngòi một mình trong biệt thự, lơ đãng dò các kênh truyền hình phát vào lúc nửa đêm, thì tình cờ chọn tới một chương trình nói về những bí mật của Hội Tam điểm. Chương trình rất tệ, đưa ra nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời, nhưng gã lại thấy vô cùng thích thú với vô số luận điểm hoài nghi xung quanh hội ái hữu này.
Người dẫn chương trình đề cập hết huyền thoại này đến huyền thoại khác.
Hội Tam điểm và Trật tự thế giới mới…
Quốc ấn đầy tinh chất Tam điểm của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ…
Tổng bộ P2 của Hội Tam điểm…
Những bí mật thất truyền của Hội Tam điểm…
Kim tự tháp Tam điểm…
Andros giật mình nhổm dậy. Kim tự tháp. Người dẫn chương trình bắt đầu kể lại chi tiết câu chuyện về một kim tự tháp bằng đá bí ẩn có những dòng chữ khắc đã được mã hoá hứa hẹn dẫn tới nhiều tri thức thất truyền cùng nguồn sức mạnh vô biên. Câu chuyện có phần hoang đường ấy gợi gã nhớ lại một ký ức xa xăm… một hồi tưởng mờ nhạt về thời kỳ tăm tối. Andros nhớ ra rằng Zachary Solomon đã từng nghe cha mình nhắc đến một kim tự tháp huyền bí.
Hay chính là nó? Andros căng óc lục lại các chi tiết.
Khi chương trình kết thúc, gã bước ra ban công, để không khí mát mẻ giúp tâm trí khôi phục sự sáng láng. Giờ thì gã nhớ ra nhiều hơn, và khi hồi ức hiện về trọn vẹn, gã cảm thấy có một phần sự thật trong huyền thoại này. Nếu đúng như vậy thì Zachary Solomon - mặc dù đã chết từ lâu - vẫn có chỗ để tận dụng.
Ta còn gì để mất đâu?
Ba tuần sau, kế hoạch được vạch ra rất kỹ lưỡng, Andros đứng trong gió lạnh cắt thịt bên ngoài nhà kính tại tư gia Solomon ở Potomac. Qua lớp kính, gã nhìn thấy Peter Solomon đang trò chuyện và cười với em gái ông. Rõ ràng họ chẳng ngại ngùng gì mà không quên đi Zachary, gã nghĩ bụng.
Trước khi kéo chiếc mặt nạ trượt tuyết xuống, Andros hít một chút cocaine, lần đầu tiên sau nhiều năm không dùng, cảm giác táo tợn quen thuộc trở về với gã. Andros rút một khẩu súng, sử dụng chiếc chìa khoá cũ để mở cửa, và bước vào trong.
- Chào cả nhà Solomon.
Rủi thay, đêm hôm đó lại diễn ra không đúng như kế hoạch. Thay vì đoạt được kim tự tháp - cái mục tiêu khiến gã mò đến - gã lại bị dính đạn và phải chạy tháo thân qua bãi cỏ phủ đầy tuyết về phía khu rừng gần đó. Gã rất ngạc nhiên thấy Peter Solomon đuổi theo đằng sau, tay vung vẩy khẩu súng. Andros lao vào rừng, chạy men theo lối mòn dọc một khe suối sâu. Tít phía dưới, tiếng thác nước đổ ầm ầm trong không khí mùa đông lạnh lẽo. Gã chạy qua một khu trồng toàn cây tùng và ngoặt sang trái, vài giây sau, gã trượt xuống lối đi tuyết phủ dày, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Lạy Chúa!
Chỉ vài bước chân nữa là con đường kết thúc, lao thẳng xuống dòng sông băng giá phía dưới. Tảng đá lớn ở cạnh đường vẫn còn nguyên nét khắc vụng về của một bàn tay trẻ dại: CẦU CỦA ZACH
Phía bên kia khe suối, con đường lại chạy tiếp. Cây cầu đâu? Ma tuý trong người không còn tác dụng nữa. Ta mắc kẹt rồi! Hoảng hốt, Andros quay người chạy ngược lên lối mòn, nhưng Peter Solomon đã đứng chắn trước mặt, thở hổn hển, tay vẫn lăm lăm khẩu súng.
Andros nhìn khẩu súng và lùi lại một bước. Từ chỗ gã xuống dòng suối băng phủ kín phải cao ít nhất 15 mét nữa. Hơi nước phía đầu nguồn thác nước bốc lên ngùn ngụt, khiến gã lạnh thấu xương.
- Cây cầu của Zach mục nát từ lâu rồi. - Solomon nói - Nó là đứa duy nhất lần mò xa tới tận đây - ông cầm chắc khẩu súng - Vì sao mày giết hại con tao?
- Nó chẳng là gì cả, - Andros đáp - Một thằng nghiện ma tuý. Tôi làm thế là ban phước cho nó đấy.
Solomon tiến lại gần hơn, khẩu súng nhằm thẳng vào ngực Andros.
- Có lẽ tao cũng ban phước như vậy cho mày - Giọng ông dữ tợn đến ngạc nhiên. "Mày đánh đập con trai tao tới chết. Một con người sao lại làm việc đó?
- Con người làm những việc không ai nghĩ tới khi bị dồn vào đường cùng.
- Mày đã giết hại con trai tao!
- Không, - Andros đáp, vẻ giận dữ - Chính ông đã giết con trai ông. Làm gì có loại người bỏ mặc con trai trong tù khi có khả năng giải thoát cho nó! Chính ông đã giết con trai ông! Không phải tôi.
- Mày không biết gì cả! - Solomon quát lên, giọng đầy đau đớn.
Ông nhầm rồi, Andros nghĩ thầm. Tôi biết tất cả.
Peter Solomon tiến lại gần hơn, chỉ còn cách năm thước, súng vẫn chĩa thẳng. Ngực Andros bỏng rát, gã thấy rõ là mình đang chảy máu rất ghê gớm, hơi ấm đang lan xuống bụng. Gã ngoảnh nhìn vực sâu phía sau. Không thể được. Gã quay lại phía Solomon.
- Tôi hiểu ông nhiều hơn ông nghĩ đấy - gã thì thào - Tôi biết ông không phải loại máu lạnh giết người.
Solomon bước lại gần hơn, ngắm thật chính xác.
- Tôi cảnh cáo ông, - Andros nói - nếu ông bóp cò, tôi sẽ ám ảnh ông suốt đời.
- Vậy mày đã được như ý rồi - Nói xong. Solomon nổ súng.
o O o
Khi phóng chiếc Limousine đen về phía Kalorama Heights, kẻ giờ đây tự gọi mình là Mal’akh hồi tưởng lại điều kỳ diệu đã giúp gã thoát khỏi cái chết cầm chắc tại khe suối băng giá đó. Gã đã được chuyển thân mãi mãi. Phát súng chỉ vang xa trong khoảnh khắc nhưng ảnh hưởng của nó thì còn tác động qua hàng chục năm. Cơ thể gã, từng rám nắng gió và rất hoàn hảo, nay đầy sẹo… những vết sẹo mà gã che giấu bên dưới các biểu tượng xăm trổ dùng làm đặc điểm nhận dạng mới.
Ta là thiên thần Mal’akh.
Đây đúng là số mệnh của ta từ lâu.
Gã đã đi qua lửa đỏ, bị biến thành tro tàn, và giờ đây lại hồi sinh… chuyển thân một lần nữa. Đêm nay sẽ là bước cuối cùng trong hành trình dài và phi thường của gã.
 
CHƯƠNG 58


Lực lượng Đặc biệt chế tạo được một loại chất nổ có biệt danh Key4, chuyên dùng để mở những cánh cửa khoá kín với mức độ thiệt hại nhỏ nhất. Thành phần chủ yếu gồm cyclotrimethylenetrinitramine và chất làm dẻo diethylhexyl, về cơ bản là một mảnh C-4 quấn trong mấy tờ giấy mỏng để nhét vào rầm cửa. Thứ chất nổ này rất đắc dụng với trường hợp phòng đọc sách tối nay.

Trưởng nhóm, đặc vụ Turner Simkins, bước qua tàn tích của những cánh cửa, nhìn khắp căn phòng bát giác rộng mênh mông xem có dấu vết di chuyển nào không. Chẳng có gì cả.
- Tắt hết đèn đi, - Simkins nói.
Đặc vụ thứ hai tìm thấy bảng điện trên tường, bèn với tay tắt các công tắc khiến căn phòng chìm trong bóng tối. Cả bốn người đồng loạt kéo mặt nạ dạ hành, điều chỉnh cặp kính đeo trên mắt. Họ đứng im, quan sát căn phòng đang hiện ra dưới sắc xanh lục của lớp kính đi đêm.
Mọi vật vẫn không thay đổi.
Chẳng ai lao ra trong bóng tối cả.
Những kẻ trốn chạy có lẽ không có vũ khí, nhưng cả đội tác chiến vẫn tiến vào phòng với súng ống sẵn sàng. Trong bóng tối, súng của họ phát ra bốn tia la-de đầy hăm doạ. Cả nhóm quét những chùm tia sáng theo mọi hướng, qua nền nhà, trên những bức tường phía xa, ra ban công, xuyên qua bóng tối. Thông thường, bóng dáng một khẩu súng ngắm bắn bằng tia la-de trong căn phòng tối om là đủ để buộc đối phương đau hàng ngay lập tức.
Nhưng tối nay không như vậy.
Vẫn không có gì chuyển động.
Đặc vụ Simkins giơ tay, làm hiệu cho đồng đội tiễn vào. Cả bọn lặng lẽ toả ra. Simkins thận trọng men theo lối đi chính giữa, đồng thời bật công tắc trên kính của mình, kích hoạt thiết bị bắt hình bằng nhiệt chi tiết mới nhất bổ sung cho vũ khí của CIA. Công nghệ bắt hình bằng nhiệt ra đời đã nhiều năm, nhưng những tiến bộ gần đây về kỹ thuật thu nhỏ, cảm biến vi sai và tích hợp nguồn kép còn góp phần tạo ra một thế hệ thiết bị hỗ trợ thị lực rất mới, tăng cường khả năng quan sát của các đặc vụ tác chiến.
- Chúng ta nhìn được trong bóng tối. Nhìn xuyên qua tường, và giờ đây còn nhìn ngược cả thời gian.
Thiết bị bắt hình bằng nhiệt nhạy với độ chênh nhiệt đến mức có thể xác định được không chỉ vị trí của một người… mà cả vị trí trước đó của họ. Khả năng nhìn thấu quá khứ là tiện ích quý báu hơn hết thảy Và đêm nay, một lần nữa nó lại chứng tỏ giá trị của mình. Lúc này, đặc vụ Simkins đã phát hiện được mấy hình ảnh nhiệt tại một chiếc bàn đọc sách. Hai chiếc ghế gỗ phát quang trong kính anh ta, toả ra thứ ánh sáng màu đỏ-tím, chứng tỏ chúng ấm hơn những chiếc khác trong phòng. Đèn bàn toát ánh sáng màu cam. Rõ ràng có hai người đã ngồi ở chiếc bàn này, nhưng vấn đề là hiện nay họ đã đi về hướng nào.
Anh ta tìm được câu trả lời của mình ở giữa phòng, chỗ có dãy quầy quây lấy một chiếc bục lớn. Trên quầy in vết tay đỏ lờ mờ.
Simkins giơ cao vũ khí, tiến về phía cái bục bát giác, quét thiết bị nhìn la-de qua bề mặt của nó. Anh ta vòng quanh bục và phát hiện một chỗ để ngỏ ở mé bên. Chẳng lẽ họ rúc được vào cái bục này. Tay trưởng nhóm đặc vụ nhìn kỹ viền cửa và phác giác một vết tay nữa đang phát sáng. Rõ ràng có người đã vịn mép chỗ hổng để chui vào bên trong cái bục.
Giờ thì không cần giữ im lặng nữa.
- Có dấu nhiệt! - Simkins nói to, chĩa súng vào chỗ hổng - Các cánh dồn lại đi!
Hai nhân viên mé bên tiến vào từ hai hướng đối diện nhau, vây chặt lấy bục bát giác.
Simkins tiến về phía chỗ hổng. Còn cách mười bước chân, anh ta đã phát hiện ra một nguồn sáng bên trong.
- Có ánh sáng trong khối hộp - anh ta nói to, hy vọng lời mình sẽ buộc ngài Bellamy và ngài Langdon phải chui ra khỏi bục, tay giơ cao trên đầu.
Chẳng có gì xảy ra.
Được chúng tôi sẽ có cách khác.
Simkins tiến lại gần chỗ hổng, và nghe thấy tiếng ầm ì mơ hồ vọng ra. âm thanh ấy rất giống tiếng máy chạy. Simkins dừng lại, cố gắng nghĩ xem vật gì tạo ra tiếng ồn trong một không gian chật chội như vậy. Anh ta nhích tới gần hơn, giờ đã nghe rõ tiếng ồn đó quả đúng là tiếng máy chạy. Nhưng khi anh ta tiếp cận chỗ hổng, mọi ánh sáng trong bục liền tắt ngấm.
Cảm ơn quý vị, anh ta thầm nghĩ, điều chỉnh lại thiết bị nhìn đêm của mình. Chúng tôi vẫn chiếm lợi thế cơ mà!
Đến chỗ hổng. anh ta ngó vào, hoàn toàn bất ngờ trước cảnh tượng bên trong. Đây không phải là một cái bục mà đúng hơn là phần trần được nâng cao của một cầu thang dốc dẫn xuống căn phòng phía dưới. Tay đặc vụ chĩa súng xuống cầu thang và bắt đầu dò dẫm tiến.
Tiếng máy chạy càng lúc càng to.
Đây là chỗ quái nào?
Căn phòng phía dưới phòng đọc là một không gian nhỏ, đầy máy móc. Tiếng ầm ì đúng là tiếng máy, Simkins chưa đoán ra nó hoạt động vì Bellamy và Langdon kích hoạt hay vẫn luôn vận hành như vậy. Nhưng dù thế nào thì cũng chẳng có gì khác nhau cả. Những kẻ chạy trốn đã để lại dấu nhiệt trên lối thoát duy nhất của căn phòng, đó là một cánh cửa thép nặng trịch với bảng khoá còn hiện rõ bốn dấu tay trên các phím số. Những đốm sáng màu cam loe ra quanh mép cửa, chứng tỏ rằng mé bên kia có ánh sáng.
- Phá cửa - Simkins ra lệnh - Đây chính là lối thoát của họ.
Mất có tám giây để kích nổ một tờ thuốc nổ Key4. Khi khói tan, cả nhóm tác chiến cùng trợn mắt nhìn cái thế giới ngầm lạ lùng mà ở đây người ta gọi là "kho sách".
Các giá sách của Thư viện Quốc hội trải dài hàng dặm, hầu hết đều nằm dưới lòng đất. Những dãy sách bất tận trông như một dạng ảo giác "vô hạn" trong gương.
Một tấm biển đề rõ:
KHU VỰC KIỂM SOÁT NHIỆT ĐỘ.
Đề nghị luôn đóng chặt cánh cửa này!
Simkins đẩy mấy cánh cửa đã bị phá hỏng và cảm nhận không khí mát mẻ phía trước. Anh ta phì cười. Không ngờ lại dễ đến thế này.
Trong các môi trường có kiểm soát nhiệt độ, dấu nhiệt thường hiện lên rõ rệt chẳng khác gì ánh sáng mặt trời, thiết bị nhìn la-de lập tức phát hiện một vệt đỏ trên tay vịn trước mặt, chắc hẳn Bellamy và Langdon đã nắm lấy trong khi chạy qua.
- Các vị có thể chạy. - Simkins tự nhủ - nhưng các vị không trốn nổi đâu.
Cả nhóm tiến vào mê cung giá sách, Simkins nhận ra rằng sân chơi này rất thuận lợi cho anh ta, thậm chí chẳng cần dùng đến thiết bị nhìn đêm để xác định đối phương nữa. Trong điều kiện bình thường, mê cung kiểu này sẽ là một nơi trú ẩn rất tốt, nhưng Thư viện Quốc hội sử dụng loại đèn kích hoạt nhờ cử động của người để tiết kiệm năng lượng, và lộ trình đào tẩu của những kẻ chạy trốn lúc này hiện rõ như một đường băng. Một dải đèn chạy dài về phía xa, thỉnh thoảng lại đổi hướng.
Tất cả các nhân viên công lực đều tháo thiết bị nhìn đêm của họ. Với những đôi chân đã được rèn luyện kỹ càng, cả nhóm bám sát theo lối đi sáng đèn đó, luồn lách qua mê cung sách dường như bất tận. Chỉ lát sau. Simkins bắt đầu thấy ánh sáng nhấp nháy trong khoảng tối trước mặt. Chúng ta tới rồi. Anh ta chạy nhanh hơn, cho tới khi nghe thấy tiếng bước chân và tiếng thở nặng nhọc phía trước. Cuối cùng anh ta phát hiện một mục tiêu.
- Tôi nhìn thấy rồi! - anh ta tri hô.
Cái bóng cao lênh khênh của Warren Bellamy hiện rõ. Quý ông da đen ăn mặc chải chuốt loạng choạng luồn qua các giá sách, rõ ràng là thở không nổi nữa. Không ích gì đâu, ông già ạ.
- Dừng lại ngay, ông Bellamy! - Simkins hô to.
Bellamy vẫn tiếp tục chạy, ngoặt gấp, len lách qua những dãy sách. Mỗi lần ông rẽ, đèn trên đầu lại sáng lên.
Khi cả nhóm chỉ còn cách Bellamy chừng hai mươi thước, họ lại hô to nhưng viên Kiến trúc sư vẫn không dừng bước.
- Hạ ông ta đi! - Simkins ra lệnh.
Một đặc vụ vung khẩu súng an toàn của cả đội lên và bóp cò.
Loại đạn có biệt danh Dây nhợ Ngớ ngẩn vọt ra và quấn chặt lấy chân Bellamy, tên gọi như vậy nhưng nó chẳng hề ngớ ngẩn tí nào.
Là một công nghệ quân sự được sáng chế tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Sandia, "thứ công cụ vô hiệu hoá" không gây chết người này là một sợi polyurethane dính lớp nhớp có khả năng đông cứng ngay khi tiếp xúc, tạo thành một mạng chất dẻo cứng ngắc bám ở khoeo chân của kẻ chạy trốn. Hiệu ứng đối với mục tiêu di chuyển tương đương với cây gậy đâm ngang nan hoa xe đạp đang quay.
Chân Bellamy bị chụp dính khi đang nhấc lên, ông chúi người về phía trước và ngã nhào xuống sàn, trượt thêm mười bước nữa vào lối đi tối om rồi mới dừng lại được, những ngọn đèn trên đầu ông nhấp nháy lúc sáng lúc tắt.
- Tôi sẽ giải quyết Bellamy, - Simkins hô to - Các anh tiếp tục đuối theo Langdon! Hắn ta ở phía trước đấy…
Tay trưởng nhóm bỗng im bặt vì phát hiện ra những giá sách trước mặt Bellamy hoàn toàn tối om. Rõ ràng, không hề có ai khác chạy cùng viên Kiến trúc sư. Ông ta chỉ có một mình thôi sao.
Bellamy nằm sấp, thở nặng nhọc, chân và mắt cá dính đầy thứ chất dẻo đã đông cứng. Tay trưởng nhóm đặc vụ bước lại và dùng chân lật ông già nằm ngửa lên.
- Hắn đâu rồi?! - anh ta hỏi.
Môi Bellamy rớm máu do cú ngã.
- Ai ở đâu rồi?
Đặc vụ Simkins nhấc chân lên và đặt giày ngang chiếc cà vạt bằng lụa của Bellamy. Sau đó, anh ta nhấn chân xuống.
- Tin tôi đi, Bellamy, ông không muốn chơi trò này với tôi đâu.
 
CHƯƠNG 59


Robert Langdon cảm thấy mình như một xác chết.

Anh nằm ngửa, tay khoanh trên ngực, mắc cứng trong một không gian tù túng, tối như bưng. Katherine nằm cạnh đó trong tư thế tương tự, ngay trên đầu anh, nhưng Langdon không thể nào nhìn thấy cô.
Anh nhắm mắt lại để khỏi phải trông thấy, dẫu là trong một thoáng, tình trạng ngột ngạt của mình.
Không gian xung quanh anh thật chật chội.
Rất chật chội.
Mới sáu mươi giây trước, khi những cánh cửa đôi của phòng đọc sách đổ rầm xuống, anh và Katherine đã theo Bellamy chui vào khối tủ bát giác, chạy xuống cầu thang và ẩn mình trong khu vực ít ai ngờ bên dưới.
Langdon nhận ra ngay họ đang ở đâu. Trung tâm hệ thống lưu thông sách của thư viện. Tương tự hình ảnh thu nhỏ của khu trả hành lý ở sân bay, phòng lưu thông sách có rất nhiều băng chuyền bố trí theo nhiều hướng khác nhau. Thư viện Quốc hội được sắp xếp ở ba toà nhà tách biệt nên sách vở đưa lên phòng đọc thường phải vận chuyển bằng băng chuyền qua cả quãng dài những đường hầm trong lòng đất.
Bellamy lập tức băng ngang phòng đến một cánh cửa sắt, nhét thẻ cá nhân vào, bấm một chuỗi phím rồi đấy mạnh cửa. Không gian phía sau tối om, nhưng khi cửa mở, một loạt đèn cảm biến chuyển động lập tức nhấp nháy sáng.
Ngắm không gian trước mắt, Langdon nhận ra mình đang nhìn thấy thứ mà rất ít người từng thấy. Các giá sách của Thư viện Quốc hội. Anh phấn chấn hơn về kế hoạch của Bellamy. Còn nơi ẩn náu nào tốt hơn một mê cung khổng lồ?
Thế nhưng Bellamy không dẫn họ về phía các giá sách. Thay vào đó ông chặn một cuốn sách vào khe cửa để giữ cho cửa mở rồi ngoảnh lại nói với hai người.
- Tôi hy vọng có thể giải thích được nhiều hơn với hai người, nhưng chúng ta không đủ thời gian - ông đưa thẻ của mình cho Langdon - Anh sẽ cần cái này.
- Ông không đi cùng chúng tôi sao? - Langdon hỏi.
Bellamy lắc đầu.
- Chúng ta mà cứ túm tụm với nhau thì chẳng làm ăn gì được cả. Điều quan trọng nhất là giữ kim tự tháp và phần chóp ở nơi an toàn.
Langdon không nhìn thấy đường thoát nào ngoại trừ lối thang bộ dẫn trở lại phòng đọc.
- Thế ông định đi đâu?
- Tôi sẽ lừa họ vào những giá sách để tránh xa chỗ hai người, - Bellamy nói - Đó là tất cả những gì tôi có thể làm để giúp các vị thoát ra.
Langdon chưa kịp hỏi xem anh và Katherine có thể đi, đâu thì Bellamy đã nhấc một thùng sách khá nặng ra khỏi băng chuyền.
- Nằm lên băng chuyền đi - ông dặn - Để tay gọn vào nhé.
Langdon trố mắt nhìn. Ông đùa đấy à! Băng chuyền trải ra thêm một đoạn ngắn rồi biến mất sau một cái lỗ đen ngòm trên tường. Cái lỗ trống khá lớn, đủ cho cả một thùng sách to lọt qua, nhưng cũng chí đến mức ấy thôi, không rộng hơn. Langdon liếc lại những giá sách.
- Thôi mà, - Bellamy nói - Đèn cảm biến chuyển động sẽ làm anh không trốn nổi đâu.
- Có dấu nhiệt! - một giọng nói vang lên phía trên - Các cánh dồn lại đi!
Rõ ràng Katherine đã hiểu được những việc cần làm. Cô leo lên băng chuyền, đầu chỉ cách cái lỗ có vài bước chân. Cô đặt chéo hai tay trên ngực như một xác ướp nằm trong quách.
Langdon đứng trơ ra.
- Robert, - Bellamy giục - dù anh không định làm vì tôi, thì cũng hãy làm vì Peter.
Giọng nói phía trên nghe đã gần hơn.
Như trong cơn mộng du, Langdon tiến lại băng chuyền. Anh quăng chiếc túi của mình lên trước rồi leo lên sau, đặt đầu ngay sát chân Katherine. Mặt chuyền cao su lạnh ngắt dưới lưng anh. Langdon trân trân nhìn trần nhà và cảm thấy mình như một bệnh nhân sắp được đưa vào máy cộng hưởng từ.
- Cứ bật điện thoại nhé, - Bellamy dặn - Sẽ có người gọi đến… và giúp anh. Cứ tin tưởng người ta.
Có người gọi đến ư? Langdon biết rằng Bellamy đã cố gắng liên hệ với ai đó nhưng không gặp, đành để lại tin nhắn. Chỉ vài phút trước, khi họ vội vã chạy xuống cầu thang xoắn trôn ốc, Bellamy cố gắng lần chót và gặp may, nhưng chỉ kịp thì thào vài câu vắn tắt bằng giọng rất vội vã rồi tắt máy.
- Cứ theo băng chuyền tới tận cùng, - Bellamy dặn - Và nhảy ra thật nhanh trước khi nó đưa các vị vòng trở lại. Dùng thẻ của tôi để thoát ra.
- Thoát ra khỏi đâu? - Langdon hỏi lại.
Nhưng Bellamy đã kéo các cần gạt. Tất cả băng chuyền trong phòng cùng rù rì khởi động. Langdon cảm thấy mình nảy lên và tiến tới trần nhà bắt đầu di chuyển phía trên.
Xin Chúa cứu con.
Khi băng chuyền tiến đến lỗ hổng trên tường. Langdon nhìn lại và thấy Warren Bellamy chạy băng qua cửa, lẩn vào giữa các giá sách.
Cửa sập lại. Một lát sau, bóng tối thư viện nuốt chửng lấy Langdon và Katherine Solomon… vừa lúc một đốm sáng la-de đỏ lòe nhảy nhót trên đường xuống cầu thang.
 
×
Quay lại
Top