Hỏa ngục - Tiểu thuyết mới nhất của Dan Brown



Chương 96


Thế là hết.
Elizabeth Sinskey đứng dưới chân cầu thang dẫn xuống bể chứa và trân trân nhìn cái lòng hang trống rỗng. Hơi thở của bà như tắc nghẽn qua lớp mặt nạ phòng độc. Mặc dù có lẽ đã bị phơi nhiễm với thứ dịch bệnh gì đó ở dưới này, nhưng Sinskey vẫn cảm thấy nhẹ nhõm trong bộ đồ phòng độc khi cùng nhóm SRS bước vào không gian tiêu điều này. Họ khoác trên người bộ đồ màu trắng phình lên với mũ bảo hiểm kín mít, và cả nhóm trông như một đội phi hành gia đang rời khỏi một con tàu vũ trụ xa lạ.
Sinskey biết rằng ngoài đường phố ở phía trên, hàng trăm người đi dự hòa nhạc và các nhạc công đang ngơ ngác túm tụm lại, nhiều người đang được điều trị các vết thương sau quá trình giẫm đạp. Những người khác đã rời khỏi khu vực. Bà cảm thấy may mắn vì đã thoát ra mà chỉ bị bầm tím một bên gối và vỡ mất chiếc bùa.
Chỉ có một dạng lây lan đi nhanh hơn vi rút, Sinskey nghĩ. Đó là tâm lý sợ hãi.
Giờ những cánh cửa bên trên đã được khóa chặt, niêm phong, và được chính quyền địa phương canh gác. Sinskey đã lường trước sẽ có một cuộc đối chất pháp lý với lực lượng cảnh sát địa phương đang trên đường đến đây, nhưng bất kỳ cuộc va chạm tiềm tàng nào cũng đều tan biến ngay lập tức khi họ nhìn thấy thiết bị chống chất độc sinh học của nhóm SRS và nghe Sinskey cảnh báo về một hiểm họa dịch bệnh.
Chỉ còn chúng ta tự xoay xở thôi, giám đốc WHO nghĩ thầm, mắt trân trân nhìn cả rừng cột trụ phản chiếu trong đầm nước. Không ai muốn xuống đây cả.
Phía sau bà, hai đặc vụ đang trải một tấm polyurethane lớn trên nền khu cầu thang và dính chặt nó vào tường bằng súng nhiệt. Hai người nữa đã tìm được một chỗ trống trên lối đi lót ván và bắt đầu bố trí các thiết bị điện tử, như thể đang chuẩn bị phân tích một hiện trường tội ác.
Chính xác là như vậy, Sinskey nghĩ. Một hiện trường tội ác.
Bà lại nghĩ đến người phụ nữ mặc áo choàng ướt sũng chạy trốn khỏi bể chứa. Rõ ràng, Sienna Brooks đã mạo hiểm mạng sống của mình để phá mọi nỗ lực ngăn chặn của WHO và hoàn thành nhiệm vụ điên rồ của Zobrist. Cô ta xuống đây và phá vỡ cái túi Solublon…
Langdon đã đuổi theo Sienna ngay trong đêm, và Sinskey vẫn chưa nhận được tin gì liên quan đến cả hai người.
Mình hy vọng giáo sư Langdon an toàn, bà nghĩ.
Đặc vụ Brüder đứng trên lối đi lót ván, nước từ trên người nhỏ xuống tong tong, đưa mắt nhìn vô định chiếc đầu Medusa xoay ngược và tự hỏi cần phải xử lý như thế nào.
Là một đặc vụ SRS, Brüder được đào tạo để học được khả năng suy nghĩ ở cấp vĩ mô, gạt hết những mối bận tâm về cá nhân hay đạo đức nhất thời để hoàn toàn tập trung vào việc cứu được càng nhiều sinh mạng càng tốt. Những đe dọa đối với sức khỏe của chính anh không còn quan trọng nữa kể từ thời khắc này. Ta đã lội xuống chỗ này, anh ấy nghĩ, thầm trách mình đã có hành động mạo hiểm nhưng cũng biết rõ là bản thân không có nhiều lựa chọn. Chúng ta cần đánh giá tình hình ngay lập tức.
Brüder buộc mình phải nghĩ đến nhiệm vụ trước mắt - triển khai kế hoạch B. Thật không may, trong một cuộc khủng hoảng ngăn chặn, kế hoạch B luôn như nhau: Mở rộng bán kính. Ứng phó với bệnh lây nhiễm thường giống như ứng phó với một đám rừng: Đôi khi bạn phải lùi lại phía sau và chấp nhận thua một trận để có hy vọng giành chiến thắng trong cả cuộc chiến.
Đến thời điểm này, Brüder vẫn không từ bỏ ý nghĩ rằng có thể
thực hiện ngăn chặn đầy đủ. Chắc chắn Sienna Brooks đã phá vỡ cái túi chỉ vài phút trước khi đám đông hỗn loạn và bỏ chạy. Nếu đúng như thế, thậm chí có hàng trăm người đã rời khỏi hiện trường và ở xa nguồn bệnh đủ để tránh được khả năng bị lây nhiễm.
Tất cả mọi người trừ Langdon và Sienna, Brüder nhận ra như vậy. Cả hai bọn họ đều đã ở địa điểm này, và hiện đang ở đâu đó trong thành phố.
Brüder còn một mối lo khác - một lỗ hổng trong logic vẫn tiếp tục bám riết lấy anh. Lúc ở dưới nước, anh không hề tìm thấy cái túi Solublon bị vỡ. Với Brüder, dường như nếu chính Sienna phá vỡ cái túi - bằng cách đá hoặc xé nó hay bất kỳ hình thức gì - thì anh cũng sẽ tìm thấy phần xác còn sót lại trôi nổi đâu đó trong khu vực.
Nhưng Brüder không tìm thấy gì cả. Dường như những gì còn lại của cái túi đã biến mất. Brüder rất nghi ngờ việc Sienna mang theo cái túi Solublon bên mình, vì đến thời điểm này nó chẳng là gì ngoài một thứ đồ bỏ đi nhớp nháp.
Vậy thì nó biến đi đâu?
Brüder có cảm giác rất bất an rằng mình đang bỏ qua một điều gì đó. Cho dù như vậy, anh vẫn phải tập trung vào chiến lược ngăn chặn mới, đòi hỏi phải trả lời một câu hỏi mấu chốt.
Bán kính phát tán hiện tại của dịch bệnh là đến đâu?
Brüder biết câu hỏi sẽ được trả lời chỉ trong vài phút nữa. Nhóm của anh đã thiết lập một loạt thiết bị dò tìm virut dọc lối đi lót ván theo khoảng cách tăng dần tính từ đầm nước. Những thiết bị này - gọi là các bộ PCR - dùng phản ứng tổng hợp dây chuyền nhờ Polymerase để phát hiện sự hiện diện của mầm bệnh dạng vi rút.
Đội trưởng SRS vẫn còn hy vọng. Với điều kiện nước trong đầm không hề lưu chuyển cùng với thời gian trôi qua chưa nhiều, anh tự tin rằng các thiết bị PCR sẽ phát hiện được một khu vực lây nhiễm tương đối hẹp để sau đó, họ có thể xử lý bằng hóa chất và sử dụng phương pháp hút thu.
“Sẵn sàng chưa?”, một kỹ thuật viên gọi qua bộ đàm.
Các đặc vụ có mặt ở trong khu vực bể chứa đều đưa ngón tay cái lên ra hiệu.
“Lấy mẫu”, tiếng bộ đàm vang lên.
Trong khắp lòng hang, các chuyên gia phân tích cúi xuống và bắt đầu khởi động máy PCR cá nhân của mình. Mỗi thiết bị đều bắt đầu phân tích một mẫu lấy tại điểm mà người sử dụng máy đứng, bố trí thành những vòng cung nới rộng dần quanh tấm biển của Zobrist.
Toàn bộ bể chứa chìm vào im lặng khi tất cả mọi người chờ đợi, cùng cầu mong sẽ chỉ nhìn thấy tín hiệu đèn màu xanh.
Và rồi điều đó xảy ra.
Trên chiếc máy gần Brüder nhất, một đèn phát hiện vi rút bắt đầu nhấp nháy đỏ. Các cơ của anh căng cứng, và mắt anh chuyển sang máy tiếp theo.
Nó cũng bắt đầu nhấp nháy đỏ.
Không.
Những tiếng lầm rầm lan khắp lòng hang. Brüder kinh hãi nhìn khi lần lượt tất cả các thiết bị PCR bắt đầu nhấp nháy đỏ, chạy khắp bể chứa ra đến tận lối ra vào.
Ôi, lạy Chúa! Anh nghĩ thầm. Cả một loạt đèn đỏ phát hiện vi rút đang nhấp nháy đã vẽ lên một bức tranh không thể nhầm lẫn.
Bán kính lây nhiễm rất rộng.
Toàn bộ khu vực bể chứa đang tràn ngập vi rút.
 


Chương 97


Robert Langdon trân trân nhìn Sienna Brooks ngồi thu lu bên vô lăng chiếc xuồng máy bị đánh cắp, và cố gắng hiểu những gì anh vừa chứng kiến.
“Em biết chắc anh khinh thường em”, cô thổn thức, ngước lên nhìn anh qua đôi mắt đẫm lệ.
“Khinh thường cô ư?!”, Langdon thốt lên. “Tôi không hề biết cô là ai! Tất cả những gì cô đã làm là lừa dối tôi!”
“Em biết”, cô nói khẽ. “Em xin lỗi. Em chỉ cố gắng làm điều đúng đắn thôi.”
“Bằng cách phán tán một thứ dịch bệnh à?”
“Không, Robert, anh không hiểu đâu.”
“Tôi hiểu quá đi chứ!”, Langdon đáp. “Tôi hiểu cô lội xuống nước để phá vỡ cái túi Solublon! Cô muốn giải phóng thứ vi rút của Zobrist trước khi có ai đó phong tỏa nó!”
“Cái túi Solublon ư?” Mắt Sienna toát lên vẻ ngơ ngác. “Em không biết anh đang nói gì nữa. Robert, em đến bể chứa để ngăn vi rút của Bertrand, để đánh cắp nó và cho nó biến mất mãi mãi, để không ai có thể tìm hiểu về nó, kể cả tiến sĩ Sinskey và WHO.”
“Đánh cắp nó? Tại sao phải giấu nó trước WHO chứ?”
Sienna hít một hơi dài. “Có rất nhiều điều anh không biết, nhưng giờ thì có thể thảo luận rồi. Chúng ta đã đến quá muộn, Robert ạ. Chúng ta chẳng bao giờ có cơ hội.”
“Dĩ nhiên, chúng ta đã từng có cơ hội! Thứ vi rút ấy sẽ không bị giải phóng cho tới ngày mai! Đó là cái ngày Zobrist đã chọn, và nếu cô không lội xuống nước…”
“Robert, em không hề giải phóng vi rút!”, Sienna hét lên. “Khi em xuống nước, em cố gắng tìm kiếm nó, nhưng đã quá muộn. Chẳng còn gì cả.”
“Tôi không tin cô”, Langdon nói.
“Em biết anh không tin. Và em không trách anh.” Cô thò tay vào túi và rút ra một tờ giấy ướt sũng. “Nhưng có thể thứ này sẽ giúp ích.” Cô ném tờ giấy cho Langdon. “Em tìm thấy nó ngay trước lúc em lội xuống đầm.”
Anh đón lấy nó và mở ra. Đó là chương trình hòa nhạc gồm bảy màn trình diễn bản Giao hưởng Dante tại bể chứa.
“Hãy nhìn ngày tháng xem”, cô nói.
Langdon đọc ngày tháng và sau đó đọc lại, cảm thấy bối rối trước những gì mình thấy. Vì một lý do gì đó, anh cứ đinh ninh rằng màn trình diễn tối nay là tối mở màn - màn trình diễn đầu tiên trong bảy buổi diễn suốt cả tuần lễ, được vạch ra nhằm thu hút người dân tới khu bể chứa toàn dịch bệnh. Tuy nhiên, chương trình này lại cho biết một câu chuyện khác hẳn.
“Tối nay là tối kết thúc sao?”, Langdon hỏi, đưa mắt khỏi tờ giấy. “Dàn nhạc đã biểu diễn trọn một tuần rồi sao?”
Sienna gật đầu. “Em cũng ngạc nhiên y như anh vậy.” Cô ngừng lại, mắt cô đầy u uất. “Thứ vi rút đó đã thoát ra rồi, Robert ạ. Nó đã thoát ra được một tuần rồi.”
“Không thể như vậy”, Langdon cố cãi. “Ngày mai mới đúng ngày. Zobrist thậm chí còn tạo ra một tấm biển ghi rõ ngày mai trên đó.”
“Phải, em đã nhìn thấy tấm biển đó dưới nước.”
“Vậy cô biết hắn chọn ngày mai mà.”
Sienna thở dài. “Robert, em hiểu rất rõ Bertrand, rõ hơn nhiều so với những gì em từng thừa nhận với anh. Anh ấy là một nhà khoa học, một người chú trọng đến kết quả. Giờ em nhận ra rằng ngày tháng ghi trên tấm biển không phải ngày phát tán vi rút. Nó là thứ khác, thứ quan trọng hơn đối với mục đích của anh ấy.”
“Và nó là… ?”
Sienna trịnh trọng từ dưới xuồng nhìn lên. “Là ngày lây nhiễm trên toàn cầu - một phép chiếu toán học về cái ngày vi rút của anh ấy truyền ra khắp thế giới… và nhiễm vào tất cả mọi người.”
Viễn cảnh ấy khiến Langdon rùng mình kinh hãi, nhưng anh vẫn không thể không nghi ngờ cô đang nói dối. Câu chuyện của cô có một chỗ hổng then chốt, và Sienna Brooks đã chứng tỏ cô vừa nói dối điều gì đó.
“Có một vấn đề, Sienna”, anh nói, mắt nhìn xuống cô. “Nếu thứ dịch bệnh này đã lây lan ra khắp thế giới thì tại sao không có ai bị bệnh?”
Sienna nhìn đi chỗ khác, đột nhiên không dám đón lấy ánh mắt anh.
“Nếu thứ dịch bệnh này đã thoát ra một tuần rồi”, Langdon nhắc lại, “thì tại sao không hề có người nào chết?”.
Cô chậm rãi nhìn lại anh. “Bởi vì…”, cô bắt đầu nói, từng lời như dính trong cổ họng cô. “Bertrand không tạo ra một dịch bệnh.”
Mắt cô lại ầng ậng nước. “Anh ấy tạo ra một thứ gì đó nguy hiểm hơn nhiều.”
 


Chương 98


Bất chấp luồng dưỡng khí chạy qua mặt nạ phòng độc của mình, Elizabeth Sinskey vẫn cảm thấy ngột ngạt. Năm phút đã qua kể từ lúc các thiết bị PCR của Brüder cho biết một sự thật hãi hùng.
Khả năng ngăn chặn của chúng ta đã tiêu tan từ lâu.
Cái túi Solublon rõ ràng đã tan hết từ tuần trước, chắc chắn là vào đêm khai mạc chương trình hòa nhạc, mà lúc này Sinskey biết đã biểu diễn bảy tối rồi. Chút ít dấu vết của Solublon gắn chặt với sợi dây không biến mất chỉ là vì nó được phủ một chất kết dính để không bị tác động bởi cái móc khóa của sợi dây.
Dịch bệnh đã thoát ra suốt một tuần rồi.
Giờ đây, khi không còn khả năng cô lập dịch bệnh, các đặc vụ SRS tập hợp mẫu phẩm tại phòng thí nghiệm tạm thời trong bể chứa và thực hiện quy trình thông thường của họ - phân tích, phân loại và đánh giá mức độ đe dọa. Cho đến giờ, các thiết bị PCR chỉ cung cấp một dữ liệu vững chắc duy nhất, và phát hiện đó không khiến mọi người ngạc nhiên.
Vi rút giờ đang ở trong không khí.
Những gì bên trong cái túi Solublon rõ ràng đã trồi lên mặt nước và các phân tử vi rút đã phát tán vào không khí. Không mất nhiều công sức, Sinskey biết. Đặc biệt trong khu vực kín mít như thế này.
Một loại vi rút - khác với vi khuẩn hay mầm bệnh hóa học - có thể lây lan trong dân chúng với tốc độ và khả năng xâm nhập cao đến kinh ngạc. Là loại sống ký sinh, các vi rút xâm nhập vào sinh vật và bám chặt vào tế bào chủ theo một quá trình gọi là “hút bám”. Sau đó, chúng bơm DNA hoặc RNA của chính mình vào tế bào đó, trưng dụng tế bào bị xâm chiếm, và buộc tế bào này phải sản sinh thật nhiều vi rút. Một khi đã có đủ số lượng nhân bản, các phân tử vi rút mới sẽ giết chết tế bào và phá vỡ thành tế bào, tràn ra tìm kiếm các tế bào chủ mới để tấn công, quá trình này cứ thế lặp đi lặp lại.
Một cá thể bị lây nhiễm sẽ thở ra hoặc hắt hơi, truyền những hạt khí nhỏ xíu ra khỏi cơ thể mình. Những hạt này sẽ lơ lửng trong không khí cho tới khi chúng lại được các chủ thể khác hít vào, và quá trình như vậy lại bắt đầu.
Tăng trưởng theo cấp số mũ, Sinskey thầm nhủ, trong đầu nhớ lại những biểu đồ của Zobrist chứng minh về tình trạng bùng nổ dân số loài người. Zobrist dùng phương pháp tăng trưởng cấp số mũ của vi rút để chống lại tăng trưởng cấp số mũ của loài người.
Tuy nhiên, câu hỏi nhức nhối lúc này là: Loại vi rút này sẽ hoạt động như thế nào?
Nói một cách lạnh lùng: Nó sẽ tấn công vật chủ như thế nào?
Vi rút Ebola làm suy yếu khả năng đông máu, gây ra tình trạng xuất huyết không ngừng. Vi rút Hanta làm suy phổi. Rất nhiều loại vi rút có tên oncovirus gây ra bệnh ung thư. Còn vi rút HIV tấn công hệ miễn dịch, gây ra bệnh AIDS. Trong cộng đồng y học, người ta đều biết nếu vi rút HIV biến thành loại lây lan trong không khí thì đó có thể là một thảm họa tuyệt chủng.
Cho nên loại vi rút của Zobrist gây nên chuyện quái quỷ gì?
Cho dù nó gây ra gì thì cũng phải có thời gian mới thấy được những hậu quả, và các bệnh viện gần đây đều chưa thông báo trường hợp bệnh nhân nào có những triệu chứng bất bình thường.
Nôn nóng muốn biết câu trả lời, Sinskey tiến lại phía phòng thí nghiệm. Bà nhìn thấy Brüder đứng gần cầu thang vì tín hiệu trên điện thoại di động rất yếu. Anh đang nói với ai đó bằng giọng khẩn trương.
Bà tiến vội lại, đến nơi vừa lúc anh kết thúc cuộc trò chuyện.
“Được, đã hiểu”, Brüder nói, vẻ mặt anh thể hiện một cảm xúc pha trộn giữa kinh hãi và không dám tin. “Một lần nữa, tôi không biết nói sao để nhấn mạnh mức độ tuyệt mật của thông tin này. Đến lúc này chỉ còn trông vào anh thôi. Gọi lại cho tôi khi anh có thêm thông tin. Cảm ơn.” Anh tắt máy.
“Có chuyện gì vậy?”, Sinskey hỏi.
Brüder từ từ thở hắt ra. “Tôi vừa nói chuyện với một người bạn cũ là chuyên gia vi rút hàng đầu tại CDC ở Atlanta.”
Sinskey nhảy dựng lên. “Anh thông báo cho CDC mà chưa được phép của tôi à?”
“Tôi thực hiện cuộc gọi trên tư cách cá nhân”, anh đáp. “Người bạn tôi sẽ rất kín tiếng, và chúng ta cần thêm nhiều dữ liệu khác chứ không phải chỉ trông vào cái phòng thí nghiệm tạm thời này.”
Sinskey liếc nhìn mấy đặc vụ SRS đang lấy mẫu nước và lúi húi bên các thiết bị điện tử cầm tay. Anh ấy nói đúng.
“Người bạn tôi ở CDC”, Brüder tiếp tục, “đang có mặt trong một phòng thí nghiệm vi sinh có đầy đủ trang thiết bị và đã xác nhận sự tồn tại của một mầm bệnh do vi rút có khả năng lây lan cực mạnh và chưa bao giờ được biết đến”.
“Khoan đã!” Sinskey xen vào. “Làm sao anh cung cấp mẫu cho anh ta nhanh như vậy được?”
“Tôi không cung cấp”, Brüder cay đắng nói. “Anh ta kiểm tra máu của chính mình.”
Chỉ trong khoảnh khắc Sinskey đã hiểu ra tất cả.
Nó đã lan ra khắp toàn cầu.
 


Chương 99


Langdon đi chầm chậm, cảm thấy mất phương hướng một cách lạ lùng, như thể đang đi qua một cơn ác mộng cực kỳ sống động. Còn thứ gì nguy hiểm hơn cả một đại dịch chứ?
Sienna không nói gì thêm kể từ lúc leo lên khỏi chiếc xuồng và ra hiệu cho Langdon theo mình rời khỏi cầu cảng, đi dọc một lối đi rải sỏi vắng vẻ, tránh xa bờ nước và đám đông.
Mặc dù Sienna đã thôi khóc, nhưng Langdon vẫn cảm thấy cả một cơn bão lòng đang hình thành trong cô. Anh nghe thấy những tiếng còi rít lên lanh lảnh phía xa, nhưng Sienna có vẻ không chú ý. Cô trân trân nhìn xuống đất, dường như đang bị thôi miên bởi tiếng sỏi lạo xạo nhịp nhàng dưới chân họ.
Họ tiến vào một công viên nhỏ, và Sienna dẫn anh tới một lùm cây rậm, nơi họ có thể lánh xa thế giới. Đến đây, họ ngồi lên một băng ghế nhìn xuống nước. Ở bờ bên kia, tháp Galata cổ kính sáng lấp lánh phía trên những khu nhà im ắng trên triền đồi. Từ đây, thế giới bình yên đến kỳ lạ, Langdon hình dung nó khác xa với những gì có lẽ đang diễn ra ở bể chứa nước. Anh cho rằng đến giờ này, hẳn nhóm SRS cũng đã nhận ra họ đến quá muộn và không thể ngăn chặn được dịch bệnh nữa.
Bên cạnh anh, Sienna đăm đăm nhìn ra biển. “Em không có nhiều thời gian, Robert”, cô nói. “Cuối cùng thì chính quyền cũng sẽ đoán ra em đã đi đâu. Nhưng trước khi họ làm được như vậy, em cần anh nghe toàn bộ sự thật…”
Langdon im lặng gật đầu.
Sienna gạt nước mắt và đổi tư thế để có thể đối diện hoàn toàn với anh. “Bertrand Zobrist…”, cô bắt đầu nói. “Anh ấy là tình yêu đầu của em. Anh ấy trở thành người dẫn dắt em.”
“Tôi đã được nghe kể rồi, Sienna”, Langdon nói.
Cô giật mình nhìn anh nhưng vẫn tiếp tục nói, như thể sợ sẽ đánh mất động lực của mình. “Em gặp anh ấy ở cái tuổi dễ rung động, và những ý tưởng cùng tri thức của anh ấy làm em mê mẩn. Giống như em, Bertrand tin rằng loài người chúng ta đang đứng trên bờ vực diệt vong… rằng chúng ta đang đối mặt với một kết cục đáng sợ, cái kết cục đang lao tới chúng ta còn nhanh hơn những gì bất kỳ ai trong chúng ta dám chấp nhận.”
Langdon không trả lời.
“Toàn bộ tuổi thơ của em”, Sienna nói, “em muốn cứu lấy thế giới. Và tất cả những gì người ta nói với em là: ‘Cô không thể cứu thế giới, cho nên đừng hy sinh hạnh phúc của mình để làm việc đó’”. Cô ngừng lại, mặt đầy căng thẳng, cố kìm nước mắt. “Rồi em gặp Bertrand - một con người xuất chúng, điển trai, anh ấy không chỉ nói với em rằng việc cứu thế giới là khả thi… mà còn nói rằng thực hiện việc đó là nhu cầu đạo đức. Anh ấy giới thiệu với em cả một cộng đồng những con người có cùng chính kiến - những con người với tri thức và năng lực phi thường… những con người thực sự có thể thay đổi tương lai. Lần đầu tiên trong đời mình, em không còn cảm thấy cô độc nữa, Robert ạ.”
Langdon khẽ mỉm cười, cảm nhận được nỗi đau trong những lời của cô.
“Trong đời mình, em đã phải gánh chịu một số việc kinh khủng”, Sienna tiếp tục, giọng cô càng lúc càng run rẩy. “Những điều em gặp phải làm xáo trộn quá khứ…” Cô dứt khỏi ánh mắt của anh và đưa bàn tay lóng ngóng xoa lớp da đầu nhẵn nhụi trước khi định thần và ngoảnh lại nhìn anh. “Và có lẽ đó là lý do tại sao điều duy nhất giúp em đi tới chính là tin rằng chúng ta có thể làm được tốt hơn hiện tại… có thể hành động để tránh một tương lai thảm khốc.”
“Và Bertrand cũng tin như vậy phải không?”, Langdon hỏi.
“Đúng vậy. Bertrand có niềm tin vô hạn dành cho nhân loại. Anh ấy là một người theo phong trào Siêu nhân học có niềm tin rằng chúng ta đang sống ở ngưỡng cửa của một kỷ nguyên ‘hậu nhân loại’ tươi sáng - một kỷ nguyên của biến đổi thật sự. Anh ấy có tư duy của một nhà vị lai, có đôi mắt nhìn ra con đường mà rất ít người có thể hình dung nổi. Anh ấy hiểu sức mạnh ghê gớm của công nghệ và tin rằng chỉ vài thế hệ nữa, loài người chúng ta sẽ trở thành một loài động vật hoàn toàn khác - được tăng cường về mặt di truyền để khỏe hơn, thông minh hơn, mạnh mẽ hơn, và thậm chí nhân ái hơn.” Cô ngừng lại. “Ngoại trừ một vấn đề. Anh ấy không nghĩ rằng chúng ta sống được đủ lâu với tư cách một giống loài để thực hiện được khả năng đó.”
“Do tình trạng quá tải dân số…”, Langdon nói.
Cô gật đầu. “Thảm họa theo thuyết Malthus. Bertrand thường nói với em là anh ấy cảm thấy giống như Thánh George cố gắng hạ gục con quái vật địa phủ.”
Langdon không hiểu kịp ý cô. “Medusa phải không?”
“Nói một cách ẩn dụ thì đúng vậy. Medusa và toàn bộ các thần linh địa phủ sống dưới lòng đất bởi vì họ có liên hệ trực tiếp với Mẹ trái đất. Về mặt phúng dụ, địa phủ luôn là biểu tượng của…”
“Sự sinh sôi”, Langdon nói, giật mình vì đã không nghĩ ra phép so sánh này sớm hơn. Sự sinh sôi. Dân số.
“Vâng, sự sinh sôi”, Sienna đáp. “Bertrand dùng thuật ngữ ‘quái vật địa phủ’ để thể hiện cho hiểm họa đáng sợ là tình trạng sinh bừa bãi của chính chúng ta. Anh ấy mô tả việc sinh sản quá nhiều con cháu giống như một con quái vật đang hiện dần ra ở đường chân trời… Một con quái vật chúng ta cần ngăn chặn ngay lập tức, trước khi nó làm thịt tất cả chúng ta.
Khả năng sinh sản của chúng ta làm hại chính chúng ta, Langdon nhận ra như vậy. Con quái vật địa phủ. “Và Bertrand chiến đấu với con quái vật ấy… bằng cách nào?”
“Xin hãy hiểu cho”, cô lên tiếng bênh vực, “có những vấn đề không dễ giải quyết. Việc lựa chọn thứ tự giải quyết luôn là một quá trình rối beng. Một người cắt rời chân của đứa bé ba tuổi là một tội ác khủng khiếp… trừ phi người đó là một bác sĩ muốn cứu đứa trẻ khỏi bị hoại tử. Đôi khi, lựa chọn duy nhất lại là chọn thứ ít tội lỗi hơn trong hai tội”. Cô lại bắt đầu ứa nước mắt. “Em tin Bertrand có một mục đích cao quý… nhưng phương pháp của anh ấy…” Cô nhìn đi chỗ khác, dường như sắp vỡ òa đến nơi.
“Sienna”, Langdon dịu dàng thì thầm. “Anh cần hiểu tất cả chuyện này. Anh cần em giải thích cho anh những gì Bertrand đã làm. Anh ta đã tung ra thế giới thứ gì?”
Sienna lại ngoảnh lại nhìn anh, đôi mắt nâu dịu dàng của cô toát ra một nỗi sợ hãi u ám hơn. “Anh ấy tung ra một loại vi rút”, cô thì thầm. “Một loại vi rút rất đặc biệt.”
Langdon như nín thở. “Kể cho anh đi.”
“Bertrand tạo ra thứ gì đó gọi là vi rút định hướng. Đó là một loại vi rút được tạo ra một cách chủ định nhằm chèn những thông tin di truyền vào tế bào mà nó tấn công.” Sienna ngừng lại để anh nắm được ý tưởng. “Một loại vi rút như thế… thay vì giết chết tế bào chủ… lại chèn một đoạn DNA đã được quyết định trước vào tế bào đó, cơ bản là thay đổi gene của tế bào.”
Langdon cố gắng hiểu ý nghĩa của cô. Loại vi rút này thay đổi DNA của chúng ta sao?
“Bản chất ngầm của loại vi rút này”, Sienna nói tiếp, “là không ai trong chúng ta biết nó đã nhiễm vào mình. Không ai bị bệnh. Nó không hề gây ra những triệu chứng cho thấy nó đang thay đổi chúng ta về mặt di truyền.”
Langdon cảm thấy mạch máu đập rộn lên mất một lúc. “Và nó tạo ra những thay đổi gì?”
Sienna nhắm mắt lại một lúc. “Robert”, cô thì thào, “ngay khi loại vi rút được giải phóng trong đầm nước ở bể chứa, một phản ứng dây chuyền bắt đầu. Tất cả những người xuống dưới cái hang đó và hít thở không khí đều bị nhiễm. Họ trở thành vật chủ… những đồng phạm vô thức lây truyền vi rút cho người khác, làm cho bệnh lây lan nhanh kinh khủng để đến giờ này đã loang khắp hành tinh như một đám cháy rừng. Đến giờ, vi rút đó sẽ xâm nhập vào dân số toàn cầu. “Anh, em… tất cả mọi người.”
Langdon đứng lên khỏi ghế và bắt đầu đi tới đi lui trước mặt cô. “Và nó gây ra điều gì với chúng ta?”, anh nhắc lại.
Sienna im lặng một lúc lâu. “Vi rút ấy có khả năng làm cho cơ thể người… thành vô sinh.” Cô thay đổi tư thế vẻ bứt rứt. “Bertrand tạo ra một loại dịch bệnh gây vô sinh.”
Những lời của cô tác động mạnh đến Langdon. Một loại vi rút làm cho chúng ta vô sinh sao? Langdon biết có tồn tại những loại vi rút có thể gây vô sinh, nhưng một loại bệnh dịch lây lan nhanh trong không khí có thể làm như vậy, bằng cách thay đổi chúng ta về mặt di truyền, dường như chỉ có ở thế giới khác… Một xã hội đọa đầy giả tưởng kiểu Orwell [60].
Bertrand thường đưa ra lý thuyết về một loại vi rút như thế này”, Sienna nói khẽ, “nhưng em chưa bao giờ nghĩ anh ấy sẽ tìm cách tạo ra nó… lại càng không thể thành công. Khi em nhận được lá thư của anh ấy và biết được những gì anh ấy đã làm, em rất sốc. Em ra sức tìm anh ấy, van nài anh ấy hủy bỏ công trình của mình. Nhưng em đã đến quá trễ”.
“Khoan đã”, Langdon xen ngang. “Nếu loại vi rút làm cho tất cả mọi người trên trái đất trở thành vô sinh, thì sẽ không thể có thế hệ mới, và loài người sẽ bắt đầu chết dần… ngay tức thì.”
“Đúng vậy”, cô đáp lời, giọng cô nghe rất nhỏ. “Trừ phi tuyệt chủng không phải là mục tiêu của Bertrand - mà ngược lại, thực tế là vậy - và đó là lý do tại sao anh ấy tạo ra một loại vi rút hoạt động ngẫu nhiên - vi rút Hỏa ngục. Mặc dù lúc này vi rút đã lây nhiễm vào toàn bộ DNA của loài người và sẽ truyền cho tất cả chúng ta từ thế hệ này trở đi, nhưng nó sẽ chỉ ‘hoạt động’ ở một tỷ lệ người rất nhỏ. Nói cách khác, loại vi rút này hiện có trong tất cả mọi người trên trái đất, nhưng nó sẽ chỉ gây vô sinh ở một bộ phận dân số được lựa chọn ngẫu nhiên mà thôi.”
“Bộ phận… nào?”, Langdon nghe rõ chính mình thốt lên, đầy vẻ hoài nghi khi đặt ra một câu hỏi như vậy.
“Chà, như anh đã biết, Bertrand rất lưu tâm đến Cái chết Đen - đại dịch đã giết chết một phần ba dân số châu Âu, không phân biệt ai cả. Anh ấy tin rằng tự nhiên biết cách tự chọn lọc. Khi tính toán tỷ lệ vô sinh, anh ấy đã rất phấn khởi khi phát hiện ra rằng tỷ lệ tử vong một phần ba do bệnh dịch hạch dường như là tỷ lệ chính xác cần thiết để bắt đầu sàng lọc dân số loài người theo một tốc độ có thể điều khiển được.
Đúng là quái đản, Langdon thầm nghĩ.
“Cái chết Đen làm vơi dân số và mở đường cho thời Phục Hưng”, cô nói, “và Bertrand tạo ra vi rút Hỏa ngục như một dạng chất xúc tác hiện đại cho quá trình phục hồi toàn cầu - một Cái chết Đen theo thuyết Siêu nhân học. Điểm khác biệt nằm ở chỗ những người bị mắc bệnh, thay vì tử vong, sẽ chỉ bị vô sinh. Giả định rằng vi rút của Bertrand phát huy tác dụng thì giờ đây một phần ba dân số thế giới không còn khả năng sinh sản… và luôn luôn có một phần ba dân số sẽ tiếp tục vô sinh. Ảnh hưởng cũng sẽ giống như tác động của một gene lặn, tức là di truyền cho tất cả con cháu, nhưng chỉ gây ảnh hưởng đến một tỷ lệ nhỏ trong số họ mà thôi”.
Tay Sienna run rẩy trong lúc tiếp tục nói, “Trong lá thư gửi cho em, Bertrand đầy tự hào nói rằng anh ấy coi vi rút Hỏa ngục là một giải pháp rất nhân văn cho vấn đề quá tải dân số”. Mắt cô lại ngân ngấn lệ, và cô vội gạt đi. “So với mức độ nguy hiểm của Cái chết Đen thì em phải thừa nhận cách tiếp cận này ít nhiều nhân hậu. Sẽ không có chuyện các bệnh viện quá tải người bệnh và người hấp hối, không có những xác chết thối rữa trên đường phố, và không có những người sống sót nhưng đau đớn trước cái chết của người thân yêu. Chỉ đơn giản là con người sẽ không có nhiều con cái. Hành tinh của chúng ta sẽ trải qua một giai đoạn suy giảm liên tục tỷ lệ sinh cho tới khi đường cong dân số thay đổi, và tổng số dân của chúng ta bắt đầu giảm xuống.”
Cô ngừng lại. “Kết quả sẽ hiệu nghiệm hơn hẳn dịch hạch, chỉ là khống chế số lượng của con người, tạo ra xu hướng đi xuống tạm thời trên đồ thị tăng dân số. Với Hỏa ngục, Bertrand tạo ra một giải pháp lâu dài, một giải pháp vĩnh viễn… một giải pháp Siêu nhân học. Anh ấy là một chuyên gia di truyền chuỗi phôi. Anh ấy giải quyết các vấn đề ở cấp độ căn nguyên gốc rễ.”
“Như thế là khủng bố di truyền…”, Langdon nói khẽ. “Nó làm thay đổi con người chúng ta lúc này, con người chúng ta vẫn luôn như vậy, ở cấp độ cơ bản nhất.”
“Bertrand không nhìn nhận mọi việc như thế. Anh ấy ao ước có thể giải quyết được khiếm khuyết cốt tử trong quá trình tiến hóa của nhân loại… Sự thật là loài người chúng ta sinh sản quá nhiều. Chúng ta là một sinh vật, mặc dù có trí tuệ vượt trội, song dường như lại không thể kiểm soát được số lượng của chính mình. Không có biện pháp tránh thai tự do, giáo dục hay lời vận động nào của chính phủ có tác dụng cả. Chúng ta cứ có con… cho dù muốn hay không. Anh có biết CDC vừa tuyên bố rằng gần một nửa ca mang thai ở Hoa Kỳ là do vỡ kế hoạch không? Và, ở những quốc gia kém phát triển, con số đó là hơn bảy mươi phần trăm!”
Langdon đã nhìn thấy những số liệu thống kê này trước đó nhưng chỉ đến lúc này anh mới bắt đầu hiểu ý nghĩa của chúng. Là một giống loài, con người cũng giống như giống thỏ rừng được đưa tới một số chuỗi đảo ở Thái Bình Dương, có thể sinh sản thoải mái tới mức tự phá hủy hệ sinh thái của chính mình và cuối cùng tự tuyệt chủng.
Bertrand Zobrist đã thiết kế lại giống loài chúng ta… nhằm cố gắng cứu lấy chúng ta… biến cải chúng ta thành loài có tỷ lệ sinh sản thấp.
Langdon hít một hơi thật sâu và đăm đăm nhìn ra eo biển Bosporus, cảm thấy lâng lâng, giống như những con tàu đang trôi nổi phía xa. Những tiếng còi hụ vẫn càng lúc càng to, đang vọng lại từ phía cầu cảng, và Langdon cảm thấy thời gian đang cạn dần.
“Điều khủng khiếp nhất”, Sienna nói, “không phải là vi rút Hỏa ngục gây ra tình trạng vô sinh, mà là nó có khả năng làm điều đó. Một vi rút định hướng tồn tại trong không khí là một bước tiến vượt bậc - vượt xa thời đại nhiều năm. Bertrand bỗng chốc đưa chúng ta thoát ra khỏi thời kỳ tăm tối của điều khiển di truyền và đẩy chúng ta tiến nhanh vào tương lai. Anh ấy đã mở khóa quá trình tiến hóa và cho nhân loại khả năng định nghĩa lại giống loài của mình bằng những hành động có quy mô và ảnh hưởng sâu rộng. Pandora đã thoát ra khỏi hộp chứa, và không thể nhốt nó trở lại được nữa. Bertrand đã tạo ra chìa khóa để thay đổi loài người… và nếu các chìa khóa đó rơi vào những bàn tay không xứng đáng thì khi đó xin Chúa phù hộ chúng ta. Công nghệ này đáng lẽ không bao giờ được tạo ra. Ngay khi em đọc bức thư của Bertrand giải thích cách anh ấy đạt được mục tiêu của mình, em đã đốt nó đi. Sau đó em thề tìm cho ra vi rút của anh ấy và phá hủy mọi vết tích của nó”.
“Anh không hiểu”, Langdon nói, giọng đầy giận dữ. “Nếu em muốn tiêu diệt loại vi rút đó, tại sao em lại không hợp tác với tiến sĩ Sinskey và WHO? Lẽ ra em nên gọi cho CDC hay ai đó.”
Anh nghĩ một cách nghiêm túc xem! Các cơ quan chính phủ là những chủ thể cuối cùng trên trái đất nên được trao quyền tiếp cận với công nghệ này! Hãy nghĩ về điều đó, anh Robert. Trong suốt lịch sử loài người, mọi công nghệ mang tính đột phá từng được giới khoa học nghĩ ra đều bị biến thành vũ khí - từ hỏa khí đơn giản tới năng lượng nguyên tử - và gần như luôn nằm trong tay các chính phủ mạnh. Anh nghĩ các vũ khí sinh học của chúng ta từ đâu mà ra? Chúng khởi nguồn từ những nghiên cứu được thực hiện tại các địa điểm như WHO và CDC đấy. Công nghệ của Bertrand - một loại vi rút dịch bệnh được sử dụng như một phần tử mang thông tin di truyền - là thứ vũ khí hùng mạnh nhất từng được tạo ra. Nó mở đường cho những điều kinh khủng mà chúng ta thậm chí không thể hình dung nổi, kể cả những vũ khí sinh học có mục tiêu. Hãy thử hình dung ra một loại dịch bệnh chỉ tấn công những người mà mã di truyền có chứa những tín hiệu chủng tộc nhất định. Điều đó có thể giúp thực hiện việc loại trừ chủng tộc quy mô lớn ở cấp độ di truyền!”
“Anh hiểu những lo lắng của em, Sienna, anh hiểu, nhưng công nghệ này cũng có thể sử dụng cho những điều tốt đẹp, phải không? Lẽ nào phát hiện này không phải là một may mắn bất ngờ cho lĩnh vực y học di truyền? Một con đường mới để thực hiện tiêm chủng toàn cầu chẳng hạn?”
“Có lẽ như vậy, nhưng rất tiếc, em đã đủ kinh nghiệm để nhận ra những điều tệ hại nhất từ những con người nắm giữ quyền lực.
Phía xa, Langdon nghe thấy tiếng rền vang của một chiếc trực thăng đang phá tan bầu không khí. Anh dõi mắt qua những tán cây về phía chợ Gia vị và thấy những ánh đèn của một chiếc máy bay đang lượn phía trên khu đồi, bay nhanh về phía cầu cảng.
Sienna tỏ ra bồn chồn. “Em cần phải đi”, cô nói, đứng lên và ngó về cầu Atatürk ở phía tây. “Em nghĩ em có thể đi bộ qua cầu, và từ đó tới…”
“Em không đi được, Sienna”, anh nói rất kiên quyết.
“Robert, em quay lại bởi vì em cảm thấy em nợ anh một lời giải thích. Giờ anh đã có rồi.”
“Không, Sienna”, Langdon nói. “Em quay lại bởi vì em đã trốn chạy cả đời mình rồi, và cuối cùng em nhận ra em không thể chạy thêm được nữa.”
Dường như Sienna co rúm lại trước mặt anh. “Em còn lựa chọn nào đây?”, cô hỏi, mắt nhìn chiếc trực thăng đang dõi khắp vùng nước. “Họ sẽ tống em vào tù ngay khi họ tìm thấy em.”
“Em chẳng làm gì sai trái cả, Sienna. Em không hề tạo ra loại vi rút này… cũng không hề giải phóng nó.”
“Đúng, nhưng em đã đi quá xa trong việc ngăn cản Tổ chức Y tế Thế giới tìm ra nó. Nếu không kết thúc mọi chuyện trong một nhà tù Thổ Nhĩ Kỳ thì em cũng sẽ đối mặt với một tòa án quốc tế nào đó với tội danh khủng bố sinh học.”
Khi tiếng động cơ trực thăng nghe to hơn, Langdon nhìn về cầu cảng phía xa. Chiếc máy bay đang lơ lửng tại chỗ, cánh quạt khuấy tung nước trong khi ánh đèn pha của nó quét qua những chiếc thuyền.
Trông Sienna như sẵn sàng lao đi bất cứ lúc nào.
“Nghe anh này”, Langdon nói, giọng dịu hẳn. “Anh biết em đã trải qua quá nhiều việc, và anh biết em sợ, nhưng em cần nghĩ đến một bức tranh lớn hơn. Bertrand tạo ra loại vi rút này. Còn em cố gắng ngăn chặn nó.”
“Nhưng em đã thất bại.”
“Đúng, giờ loại vi rút đó đã thoát ra, cộng đồng khoa học và y học sẽ cần phải hiểu nó một cách đầy đủ. Em là người duy nhất biết rõ về nó. Có lẽ có cách để vô hiệu hóa nó… hoặc làm gì đó để chuẩn bị.” Ánh mắt của Langdon nhìn như xoáy vào cô. “Sienna, thế giới cần biết những gì em biết. Em không thể biến mất được.”
Giờ thân hình mảnh dẻ của Sienna run lên bần bật, như thể toàn bộ nỗi đau khổ và tâm trạng không chắc chắn vỡ òa. “Robert, em… em không biết phải làm gì. Em thậm chí không biết mình là ai nữa. Hãy nhìn em đi.” Cô đưa một tay lên cái đầu trọc lóc của mình. “Em đã biến thành một con quái vật. Làm sao em có thể đối diện với…”
Langdon bước tới và vòng tay quanh người cô. Anh cảm nhận được cơ thể của cô run lên, cảm nhận được sự mỏng manh của cô truyền qua ngực mình. Anh khẽ thì thầm vào tai cô.
“Sienna, anh biết em muốn bỏ đi, nhưng anh sẽ không để em đi. Sớm muộn em cũng cần học cách tin tưởng ai đó.”
“Em không thể…”, cô thổn thức. “Em không chắc phải làm như thế nào.”
Langdon ôm chặt cô hơn. “Em hãy bắt đầu từ điều nhỏ thôi. Một bước đầu tiên đơn giản. Hãy tin tưởng anh.”
 


Chương 100


Tiếng va chạm chói tai của kim loại vang rền khắp khoang chiếc máy bay vận tải C-130 không có cửa sổ, khiến Thị Trưởng bật dậy. Bên ngoài, ai đó đang đập báng súng vào cửa máy bay và đòi vào trong.
“Tất cả mọi người ngồi yên”, phi công chiếc C-130 ra lệnh, và tiến về phía cửa. “Họ là cảnh sát Thổ Nhĩ Kỳ. Họ vừa tiếp cận máy bay.”
Thị Trưởng và Ferris nhìn nhau thật nhanh.
Căn cứ vào những cuộc gọi hoảng hốt của những nhân viên WHO trên khoang máy bay, Thị Trưởng linh cảm rằng nhiệm vụ ngăn chặn của họ đã thất bại. Zobrist đã thực hiện được kế hoạch của hắn, ông ta nghĩ thầm. Và có sự góp phần của mình.
Bên ngoài cửa máy bay, những tiếng nói đầy quyền lực bắt đầu vang lên bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ.
Thị Trưởng đứng bật dậy. “Đừng mở cửa!”, ông ta yêu cầu phi công.
Anh chàng phi công dừng sững lại, nhìn Thị Trưởng. “Tại sao lại không chứ?”
“WHO là một tổ chức quốc tế”, Thị Trưởng nói, “và chiếc máy bay này là một lãnh thổ có chủ quyền!”
Người phi công lắc đầu. “Thưa ông, chiếc máy bay này đang đỗ tại một sân bay Thổ Nhĩ Kỳ, và trừ khi nó rời khỏi không phận Thổ Nhĩ Kỳ, còn không nó vẫn chịu sự điều khiển của luật pháp nước này.” Người phi công tiến tới lối thoát và mở toang cửa ra.
Hai người đàn ông mặc đồng phục đăm đăm nhìn vào. Ánh mắt nghiêm nghị của họ không có một chút gì khoan nhượng. “Ai là cơ trưởng máy bay này?”, một người hỏi bằng giọng nặng trịch.
“Tôi đây”, người phi công nói.
Một viên sĩ quan đưa cho phi công hai tờ giấy. “Lệnh bắt giữ. Hai hành khách này phải đi cùng chúng tôi.”
Người phi công lướt qua tờ giấy và nhìn Thị Trưởng cùng Ferris.
“Gọi cho tiến sĩ Sinskey đi”, Thị Trưởng yêu cầu viên phi công WHO. “Chúng ta đang thực hiện một nhiệm vụ khẩn cấp quốc tế kia mà.”
Một trong hai viên sĩ quan nhìn Thị Trưởng với nụ cười khinh khỉnh. “Tiến sĩ Elizabeth Sinskey phải không? Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới chứ gì? Bà ấy là người ra lệnh bắt ông đấy.”
“Không thể như vậy được”, Thị Trưởng đáp. “Anh Ferris và tôi có mặt ở Thổ Nhĩ Kỳ này để giúp đỡ tiến sĩ Sinskey.”
“Vậy thì ông làm việc chưa được tốt rồi”, viên sĩ quan thứ hai đáp lời. “Tiến sĩ Sinskey đã liên hệ với chúng tôi và nói rõ cả hai vị là những kẻ âm mưu trong một kế hoạch khủng bố sinh học trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ.” Anh ta lôi ra còng tay. “Cả hai vị sẽ đến trụ sở để thẩm vấn.”
“Tôi đề nghị gọi luật sư!”, Thị Trưởng hét to.
Ba mươi giây sau, ông ta và Ferris đã bị còng tay, lôi qua hai hàng ghế và bị ấn vào khoang sau của một chiếc ô tô mui kín màu đen. Chiếc xe lao vụt đi, lướt qua đường băng tới một góc khuất của sân bay, nó dừng lại bên một dãy hàng rào lưới thép mỏng đã bị cắt thủng và kéo rộng ra cho xe đi qua. Khi ra khỏi hàng rào bao ngoài, chiếc xe băng qua một vùng đất trống bụi bặm chứa máy móc của máy bay hỏng và đỗ lại gần một tòa nhà dịch vụ đã cũ.
Hai người đàn ông mặc đồng phục nhảy ra khỏi xe và nhìn toàn khu vực. Thấy hài lòng vì không bị theo đuôi, họ lột bỏ đồng phục cảnh sát và ném sang một bên. Sau đó họ giúp Ferris và Thị Trưởng ra khỏi xe và tháo còng tay cho hai người.
Thi trưởng xoa xoa cổ tay, nhận ra mình cũng chẳng thể làm gì khi bị bắt giam.
“Chìa khóa xe ở dưới đệm”, một trong hai đặc vụ nói, giơ tay ra hiệu về phía một chiếc xe tải trắng đỗ gần đó. “Có một túi vải ở ghế sau với đầy đủ các thứ ngài yêu cầu - giấy tờ đi lại, tiền mặt, điện thoại trả trước, quần áo, cùng một vài thứ khác mà chúng tôi nghĩ có thể ngài cần.
“Cảm ơn”, Thị Trưởng nói. “Các anh cừ lắm.”
“Được đào tạo đâu ra đấy thôi, thưa ngài.”
Nói xong, hai người đàn ông Thổ Nhĩ Kỳ lại leo lên chiếc xe mui kín màu đen và phóng đi.
Sinskey sẽ không bao giờ để mình đi thoát, Thị Trưởng tự nhủ. Cảm nhận rõ điều đó khi bay tới Istanbul, Thị Trưởng đã gửi thư điện tử cầu cứu cho chi nhánh địa phương của Consortium, nói rõ rằng ông ta và Ferris cần thoái lui.
“Ngài có nghĩ bà ta sẽ truy đuổi chúng ta không?”, Ferris hỏi.
“Sinskey hả?”, Thị Trưởng gật đầu. “Chắc chắn rồi. Mặc dù tôi cho rằng lúc này bà ấy còn những mối bận tâm khác.”
Hai người leo lên chiếc xe tải trắng, và Thị Trưởng lục kỹ tất cả những thứ bên trong túi vải, sắp xếp mọi giấy tờ theo trật tự. Ông ta lôi ra một cái mũ bóng chày và đội lên đầu. Phía trong mũ, ông ta tìm thấy một chai rượu Highland Park nhỏ.
Mấy tay này rất được.
Thị Trưởng nhìn thứ chất lỏng màu hổ phách, tự nhủ mình rằng cần phải đợi cho tới ngày mai. Thế rồi, ông ta lại nhớ đến cái túi Solublon của Zobrist và tự hỏi ngày mai sẽ như thế nào.
Mình đã phá bỏ nguyên tắc cốt tử của mình, ông ta nghĩ thầm. Mình đã phản bội khách hàng của mình.
Thị Trưởng cảm thấy mông lung một cách kỳ lạ, biết rõ rằng những ngày tới sẽ tràn ngập tin tức về một thảm họa mà trong đó, ông ta đóng một vai trò rất quan trọng. Chuyện này sẽ không xảy ra nếu không có mình.
Lần đầu tiên trong đời, ông ta thấy rằng việc tỏ ra không biết gì không còn là nền tảng đạo đức nữa. Những ngón tay ông ta bóc lớp niêm phong trên chai Scotch.
Tận hưởng thôi, ông ta tự nhủ. Đằng nào chẳng vậy, những ngày tháng của mày đã được đánh số rồi.
Thị Trưởng uống một hơi dài, thưởng thức vị cay nóng trong cổ họng.
Đột nhiên, màn đêm sáng bừng lên những ánh đèn pha và những ngọn đèn xanh nhấp nháy của xe cảnh sát, lúc này bao vây họ từ mọi phía.
Thị Trưởng cuống cuồng nhìn tứ phía… và sau đó ngồi yên như tượng đá.
Chẳng còn lối thoát nào.
Khi những sĩ quan cảnh sát Thổ Nhĩ Kỳ có vũ trang tiến đến gần chiếc xe tải, súng giương sẵn sàng, Thị Trưởng uống nốt ngụm Highland Park cuối cùng và im lặng giơ tay lên đầu.
Lần này, ông ta biết, những sĩ quan đó không đứng về phía mình.
 


Chương 101


Lãnh sự quán Thụy Sĩ ở Istanbul nằm tại tòa nhà One Levent Plaza trong một tòa cao ốc siêu hiện đại. Phần mặt tiền lắp kính xanh lõm của tòa nhà trông như một tảng đá nguyên khối đến từ thời tương lai nằm trong đại đô thị cổ kính.
Gần một tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ lúc Sinskey rời khỏi bể chứa để thiết lập một sở chỉ huy tạm thời tại văn phòng lãnh sự. Các cơ quan tin tức địa phương tràn ngập bản tin về vụ giẫm đạp kinh hoàng trong đêm diễn cuối cùng bản Giao hưởng Dante của Liszt tại bể chứa. Chưa có chi tiết đặc biệt nào được đăng tải, nhưng sự hiện diện của một nhóm y tế quốc tế mặc đồ phòng độc đã làm dấy lên rất nhiều đồn đoán.
Sinskey đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm những ánh đèn thành phố và cảm thấy vô cùng đơn độc. Như một thói quen, bà đưa tay lên tìm chiếc vòng cổ có gắn bùa, nhưng trống không. Chiếc bùa gãy thành hai nửa đang nằm trên mặt bàn làm việc của bà.
Giám đốc WHO vừa kết thúc việc điều phối một loạt cuộc họp khẩn cấp sẽ được tổ chức tại Geneva trong vài giờ nữa. Các chuyên gia từ các cơ quan khác nhau đã lên đường, và bản thân Sinskey cũng có kế hoạch bay tới đó sớm để thông báo sơ lược tình hình cho họ biết. Thật may, ai đó trong nhóm nhân viên làm đêm đã mang tới cho Sinskey một cốc cà phê Thổ Nhĩ Kỳ thứ thiệt còn nóng hổi. Và bà đã uống hết veo.
Một người đàn ông trẻ tuổi trong số nhân viên lãnh sự quán ngó vào qua cánh cửa phòng để ngỏ của bà. “Thưa bà? Robert Langdon tìm đến đây xin gặp bà.”
“Cảm ơn anh”, bà đáp. “Nhờ anh dẫn ông ấy vào.”
Hai mươi phút trước, Langdon liên hệ với Sinskey bằng điện thoại và giải thích rằng Sienna Brooks đã lẩn tránh anh, đánh cắp một chiếc xuồng và bỏ trốn ra biển. Sinskey đã nghe được thông tin này từ giới chức, lúc này vẫn đang tìm kiếm khắp khu vực nhưng cho đến giờ vẫn tay trắng.
Bây giờ, khi cái dáng cao lớn của Langdon hiện ra ở ngưỡng cửa, bà gần như không nhận ra anh. Bộ đồ trên người anh bẩn thỉu, mái tóc đen rối bù, đôi mắt đầy mệt mỏi và trũng sâu.
“Giáo sư, anh ổn chứ?”, Sinskey đứng lên.
Langdon mỉm cười mỏi mệt. “Tôi đã có những buổi tối thư thái hơn.”
“Xìn mời”, bà nói, tay chỉ một chiếc ghế. “Mời anh ngồi.”
“Bệnh dịch của Zobrist”, Langdon bắt đầu mà không cần mào đầu trong khi ngồi xuống ghế. “Tôi nghĩ có lẽ nó đã được giải phóng từ một tuần trước rồi.”
Sinskey gật đầu nhẫn nại. “Đúng vậy, chúng tôi cũng có cùng kết luận đó. Chưa có triệu chứng gì được báo lại, nhưng chúng tôi đã tách các mẫu và đang đẩy nhanh quá trình kiểm nghiệm tập trung. Rất tiếc, có thể mất vài ngày hoặc hàng tuần mới thực sự hiểu được loại vi rút này là gì… và nó có thể gây ra chuyện gì.”
“Nó là một loại vi rút định hướng”, Langdon nói.
Sinskey nghiêng đầu vẻ ngạc nhiên, hơi giật mình khi nghe thấy rằng thậm chí anh cũng biết thuật ngữ đó. “Anh nói sao cơ?”
“Zobrist đã tạo ra một loại vi rút định hướng tồn tại trong không khí có khả năng làm thay đổi DNA của con người.”
Sinskey bật dây, xô văng cả ghế. Không thể như thế được! “Điều gì khiến anh khẳng định chuyện như vậy?”
“Sienna”, Langdon đáp nhanh. “Cô ấy nói với tôi. Nửa giờ trước.”
Sinskey chống tay xuống bàn và trân trối nhìn Langdon với vẻ không tin nổi. “Cô ta không bỏ trốn sao?”
“Chắc chắn là có”, anh đáp. “Cô ấy thoát rồi, trên một chiếc xuồng phóng ra biển, và cô ấy có thể dễ dàng biến mất mãi mãi. Nhưng cô ấy đã suy nghĩ kỹ càng hơn mọi việc. Cô ấy tự nguyện quay lại. Sienna muốn giúp giải quyết cuộc khủng hoảng này.”
Môi Sinskey bật lên một tiếng cười khan. “Xin thứ lỗi cho tôi nếu tôi không chịu tin tưởng quý cô Brooks, đặc biệt khi cô ta đưa ra một tuyên bố cường điệu như vậy.”
“Tôi tin cô ấy”, Langdon nói, giọng anh không hề nao núng. “Và nếu cô ấy tuyên bố rằng đó là một loại vi rút định hướng thì tôi nghĩ tốt hơn cả bà nên xem xét lời nói của cô ấy một cách nghiêm túc.”
Sinskey bỗng cảm thấy kiệt sức, đầu óc bà cố gắng phân tích những lời của Langdon. Bà đi tới bên cửa và đăm đăm nhìn ra. Một loại vi rút định hướng làm thay đổi DNA ư? Cái viễn cảnh ấy nghe đáng sợ và không mấy xác thực nhưng bà phải thừa nhận rằng ở nó có sự logic rất lạ. Nói cho cùng, Zobrist là một chuyên gia di truyền và biết rất rõ rằng chỉ một biến đổi nho nhỏ trong một gene duy nhất cũng có thể gây ra những hậu quả tai hại cho cơ thể - ung thư, rối loạn chức năng các cơ quan, và rối loạn máu. Thậm chí một căn bệnh đáng ghét như xơ nang - thứ bệnh khiến nạn nhân chết ngộp trong nước nhầy - cũng do một trục trặc rất nhỏ trong một gene điều tiết ở nhiễm sắc thể thứ bảy.
Ngày nay các chuyên gia đã bắt đầu điều trị những tình trạng di truyền này bằng các loại vi rút định hướng sơ đẳng, được bơm trực tiếp vào bệnh nhân. Những vi rút không gây bệnh này được lập trình để di chuyển khắp cơ thể bệnh nhân và lập ra DNA thay thế, giúp sửa chữa những phần đã bị tổn thương. Tuy nhiên, ngành khoa học mới mẻ này, cũng như tất cả những ngành khoa học khác, có mặt trái của nó. Những ảnh hưởng của một vi rút định hướng có thể tốt hoặc rất có hại, tùy thuộc vào ý định của người tạo ra nó. Nếu một vi rút được lập trình một cách ác ý để đưa DNA hư hại vào các tế bào khỏe mạnh thì hậu quả thật kinh khủng. Hơn nữa, nếu vi rút có hại đó lại được tạo ra với khả năng lây lan cao và tồn tại trong không khí thì…
Viễn cảnh đó làm Sinskey rùng mình. Zobrist nghĩ đến thảm họa di truyền gì không biết? Hắn âm mưu làm giảm dân số như thế nào đây?
Sinskey biết rằng việc tìm ra câu trả lời có thể mất hàng tuần. Mã di truyền của con người có chứa cả một mê cung bất tận những khả năng hoán vị hóa học. Khả năng tìm kiếm toàn bộ mê cung đó với hy vọng tìm cho ra một biến đổi cụ thể của Zobrist chẳng khác gì mò kim đáy bể, thậm chí còn không biết được cái đáy bể ấy nằm ở hành tinh nào.
“Bà Elizabeth?” Giọng nói thâm trầm của Langdon kéo bà trở lại.
Sinskey rời mắt khỏi cửa sổ và nhìn anh.
“Bà có nghe tôi nói không?”, anh hỏi, vẫn bình tĩnh ngồi nguyên. “Sienna muốn tiêu diệt loại vi rút đó giống như bà vậy.”
“Tôi thực sự nghi ngờ điều đó.”
Langdon thở hắt ra, giờ mới đứng lên. “Tôi nghĩ bà nên lắng nghe tôi. Không lâu trước khi chết, Zobrist viết một lá thư cho Sienna, nói cho cô ấy biết những gì anh ta làm. Anh ta nêu đích xác những gì vi rút này sẽ thực hiện… cách nó tấn công chúng ta… cách nó đạt được mục tiêu của anh ta.”
Sinskey cứng đờ người. Có một bức thư sao?!
“Khi đọc những mô tả của Zobrist về những gì anh ta tạo ra, Sienna vô cùng kinh hãi. Cô ấy muốn ngăn anh ta. Cô ấy xem thứ vi rút của anh ta nguy hiểm đến mức không muốn bất kỳ ai tiếp cận được với nó, kể cả Tổ chức Y tế Thế giới. Bà không thấy sao? Sienna đã cố gắng tiêu diệt vi rút đó… chứ không phải giải phóng nó.”
“Có một bức thư à?”, Sinskey hỏi lại, giờ chỉ quan tâm đến điểm mấu chốt. “Với mọi chi tiết phải không?”
“Đó là những gì Sienna nói với tôi, vâng.”
“Chúng tôi cần bức thư đó! Có được các chi tiết có thể tiết kiệm cho chúng tôi hàng tháng trời để hiểu được cái thứ này là gì và biết các xử lý nó.”
Langdon lắc đầu. “Bà không hiểu rồi. Khi đọc thư của Zobrist, Sienna rất kinh sợ. Cô ấy đã đốt bỏ nó ngay lập tức. Cô ấy muốn bảo đảm không có ai…”
Sinskey đập mạnh tay xuống bàn. “Cô ta hủy một thứ có thể giúp chúng tôi chuẩn bị cho cuộc khủng hoảng này sao? Và anh muốn tôi tin cô ta à?”
“Tôi biết điều đó rất có vấn đề, nhất là căn cứ vào những hành động của cô ấy, nhưng thay vì trừng phạt cô ấy, sẽ hữu ích nếu bà nhớ cho rằng Sienna có một trí thông mình tuyệt vời và khả năng ghi nhớ đến kinh ngạc.” Langdon ngừng lại. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô ấy có thể tái tạo đầy đủ bức thư của Zobrist để giúp bà?”
Sinskey nheo mắt, hơi gật đầu. “Chà, giáo sư, trong trường hợp đó, anh khuyên tôi nên làm gì?”
Langdon ra hiệu về phía cốc cà phê đã cạn sạch của bà. “Tôi gợi ý bà gọi thêm cà phê… và nghe một điều kiện mà Sienna đề nghị.”
Mạch của Sinskey đập nhanh hơn, và bà liếc nhìn điện thoại. “Anh biết cách liên lạc với cô ta phải không?”
“Đúng vậy.”
“Cho tôi biết cô ta đề nghị gì.”
Langdon nới với bà, và Sinskey im lặng, suy ngẫm lời đề nghị.
“Tôi nghĩ đó là một việc rất đúng đắn”, Langdon nói thêm. “Và bà phải mất gì nào?”
“Nếu mọi thứ anh nói là sự thật, thì tôi xin hứa với anh.” Sinskey đẩy điện thoại về phía anh. “Xin gọi điện đi.”
Trước vẻ ngạc nhiên của Sinskey, Langdon không ngó tới điện thoại. Thay vào đó, anh đứng dậy và tiến thẳng ra cửa, nói rằng anh sẽ quay lại sau một phút. Ngơ ngác, Sinskey bước ra sảnh và nhìn anh sải bước qua khu phòng chờ của lãnh sự quán, mở cánh cửa kính, và đi vào buồng thang máy phía trước. Nhất thời, bà nghĩ anh đang bỏ đi, nhưng sau đó, thay vì gọi thang máy, anh lặng lẽ lách vào phòng vệ sinh nữ.
Một lúc sau, anh xuất hiện cùng một người phụ nữ chỉ mới ngoài ba mươi. Sinskey phải mất một lúc lâu mới nhận ra rằng đây đúng là Sienna Brooks. Người phụ nữ tóc đuôi ngựa xinh đẹp mà bà gặp lúc trước trong ngày hôm nay đã thay đổi hoàn toàn. Đầu cô ấy trọc lóc, như thể đã được cạo nhẵn nhụi.
Khi vào văn phòng của bà, họ im lặng ngồi xuống ghế đối diện với bàn làm việc.
“Xin thứ lỗi cho tôi”, Sienna nói nhanh. “Tôi biết chúng ta có rất nhiều chuyện để thảo luận, nhưng trước tiên, tôi hy vọng bà sẽ cho phép tôi nói điều tôi thực sự phải nói.”
Sinskey nhận ra giọng nói của Sienna đượm vẻ u uất. “Dĩ nhiên rồi.”
“Thưa bà”, cô bắt đầu, giọng cô run run, “bà là giám đốc của Tổ chức Y tế Thế giới. Bà biết rõ hơn ai hết rằng chúng ta là giống loài trên bờ vực diệt vong… một cộng đồng vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Suốt nhiều năm, Bertrand Zobrist đã cố gắng liên hệ với những nhân vật có ảnh hưởng như bà để thảo luận về cuộc khủng hoảng đang đến gần. Anh ấy đã tới rất nhiều tổ chức mà anh ấy tin có thể tác động đến sự thay đổi - Viện Theo dõi Môi trường Thế giới, Câu lạc bộ Rome, Tổ chức các vấn đề Dân số, Hội đồng Quan hệ Đối ngoại - nhưng anh ấy chẳng tìm được ai dám tham gia vào cuộc thảo luận có ý nghĩa về một giải pháp thật sự. Tất cả các vị đều đáp lại bằng những kế hoạch như giáo dục phòng tránh thai tốt hơn, khuyến khích thuế cho những gia đình quy mô nhỏ, và thậm chí bàn cả đến việc chinh phục mặt trăng! Không có gì lạ khi Bertrand mất niềm tin.”
Sinskey chăm chú nhìn cô, không tỏ ra phản ứng gì.
Sienna hít một hơi thật sâu. “Tiến sĩ Sinskey, Bertrand đã tới gặp riêng bà. Anh ấy nài nỉ bà thừa nhận rằng chúng ta đang trên bờ vực… nài nỉ bà tham gia vào cuộc thảo luận. Nhưng thay vì lắng nghe những ý kiến đó, bà gọi anh ấy là một gã điên rồ, đưa anh ấy vào danh sách theo dõi, và xua đuổi anh ấy xuống lòng đất.” Giọng Sienna càng lúc càng nặng trĩu cảm xúc. “Bertrand chết vì những người như bà từ chối mở mang đầu óc để chấp nhận rằng tình cảnh bi thảm của chúng ta phải cần đến một giải pháp không lấy gì làm dễ chịu. Tất cả những gì Bertrand cố làm là nói lên sự thật… và vì điều đó, anh ấy bị tẩy chay.” Sienna gạt nước mắt và nhìn xoáy vào Sinskey bên kia bàn. “Hãy tin tôi, tôi biết cảm giác cô độc là như thế nào… Sự cô độc tệ hại nhất trên đời chính là bị cô lập do hiểu nhầm. Điều đó có thể khiến người ta đánh mất niềm tin vào thực tại.”
Sienna ngừng nói, để lại một không gian im lặng, căng thẳng.
“Đó là tất cả những gì tôi muốn nói”, cô thì thầm.
Sinskey nhìn cô một lúc lâu và sau đó ngồi xuống. “Cô Brooks”, bà nói, cố gắng bình tĩnh hết mức, “cô nói đúng. Có thể trước kia tôi đã không chịu lắng nghe…”. Bà khoanh tay trên bàn và nhìn thẳng vào Sienna. “Nhưng giờ thì tôi đang nghe đây.”
 


Chương 102


Đồng hồ trong đại lãnh sự quán Thụy Sỹ điểm 1 giờ sáng đã lâu.
Tập giấy ghi chép trên bàn Sinskey giờ là một mớ những dòng viết tay, câu hỏi và biểu đồ. Bà giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới chẳng hề nhúc nhích cũng không nói gì đã hơn năm phút rồi. Bà đứng bên cửa sổ, đăm đăm nhìn ra trời đêm.
Phía sau bà, Langdon và Sienna đang chờ đợi, ngồi im lặng, cố nhấp nốt những giọt cà phê Thổ Nhĩ Kỳ cuối cùng, mùi đất nghiền cùng hạt hồ trăn đậm đặc tràn ngập trong phòng.
Thứ âm thanh duy nhất là tiếng rè rè của những ngọn đèn huỳnh quang trên đầu.
Sienna cảm thấy tim mình đang đập thình thịch, và tự hỏi Sinskey đang nghĩ gì, sau khi đã nghe toàn bộ sự thật với thực tế trần trụi. Vi rút của Bertrand là một loại dịch bệnh vô sinh. Một phần ba dân số thế giới sẽ không có khả năng sinh sản.
Trong suốt quá trình giải thích, Sienna đã chứng kiến đủ mọi sắc thái cảm xúc của Sinskey, thể hiện rất rõ dù đã cố kiềm chế. Trước tiên, đó là thái độ sững sờ chấp nhận sự thật rằng Zobrist đã tạo ra một loại vi rút định hướng tồn tại trong không khí. Tiếp đến, bà thể hiện niềm hy vọng khi nghe nói vi rút ấy không được tạo ra để giết người. Rồi… rất từ từ, vẻ hãi hùng tăng dần khi sự thật được tiết lộ, và bà nhận ra rằng một bộ phận rất lớn dân số trên trái đất sẽ trở thành vô sinh. Việc biết được loại vi rút đó tấn công khả năng sinh sản của con người đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cá nhân Sinskey.
“Bà Elizabeth?”, Langdon đánh bạo lên tiếng.
Sinskey từ từ thoát ra khỏi luồng suy nghĩ, Khi đưa mắt nhìn lại chỗ họ, gương mặt bà vô cùng u uất. “Sienna”, bà bắt đầu nói bằng một giong buồn bã, “thông tin cô cung cấp sẽ rất hữu ích trong việc chuẩn bị một chiến lược để giải quyết cuộc khủng hoảng này. Tôi đánh giá cao sự thẳng thắn của cô. Cô biết đấy, các loại vi rút định hướng gây dịch bệnh đã được thảo luận trên lý thuyết như là một cách khả dĩ để miễn dịch cho đông đảo dân cư, nhưng tất cả mọi người đều tin rằng công nghệ này còn ở phía trước nhiều năm nữa.”
Sinskey trở lại bên bàn làm việc, và ngồi xuống.
“Xin thứ lỗi cho tôi”, bà nói, lắc đầu. “Ở thời điểm này, với tôi, toàn bộ chuyện này giống như một câu chuyện khoa học viễn tưởng.”
Không có gì lạ, Sienna nghĩ. Mọi bước nhảy vọt về y học đều luôn như thế - penicillin, thuốc gây tê, tia X, lần đầu tiên con người nhìn qua kính hiển vi và thấy một tế bào phân chia.
Tiến sĩ Sinskey chăm chú nhìn xuống tập giấy ghi chép của mình. “Trong vài giờ nữa, tôi sẽ đến Geneva để nghe cả loạt câu hỏi. Tôi tin chắc rằng câu hỏi đầu tiên sẽ là liệu có cách nào để ứng phó với vi rút này không.”
Sienna đoán rằng bà nói đúng.
“Và”, Sinskey tiếp tục, “tôi hình dung ra giải pháp đầu tiên được đề xuất sẽ là phân tích vi rút của Bertrand, hiểu rõ về nó hết mức có thể, và sau đó tìm cách tạo ra dòng thứ hai của nó - một dòng chúng ta lập trình lại để thay đổi DNA trở về dạng ban đầu”. Sinskey trông không mấy lạc quan khi đưa mắt nhìn Sienna. “Liệu có nên tạo ra một loại vi rút phản kháng hay không vẫn cần phải xem xét, nhưng về mặt giả thuyết, tôi muốn được nghe suy nghĩ của cô về hướng tiếp cận đó.”
Suy nghĩ của tôi ư? Sienna thấy chính mình lại vô thức đưa mắt nhìn về Langdon. Vị giáo sư nhìn cô gật đầu, gửi đi một thông điệp rất rõ ràng: Em đã đi đến nước này rồi. Hãy nói ra suy nghĩ của mình. Hãy nói sự thật đúng như em nhìn nhận nó.
Sienna hắng giọng, ngoảnh lại nhìn Sinskey, và nói thật mạnh mẽ, rõ ràng. “Thưa bà, giới điều khiển di truyền là nơi tôi cùng Bertrand làm việc đã nhiều năm… Bà biết đấy, bộ gene của con người là một kết cấu cực kỳ vi tế… một ngôi nhà bằng các lá bài. Chúng ta càng điều chỉnh, khả năng chúng ta thay đổi nhầm lá bài và khiến mọi thứ đổ sụp càng lớn. Cá nhân tôi tin rằng cố làm lại những gì đã làm là hiểm họa rất lớn. Bertrand là một chuyên gia di truyền với trình độ và tầm nhìn siêu hạng. Anh ấy đi trước các đồng nghiệp nhiều năm. Đến thời điểm này, tôi không dám chắc có ai đó khác dám tiến vào bộ gene người, hy vọng làm cho nó luôn đúng người. Thậm chí nếu bà tạo ra một thứ gì đó mà bà nghĩ có thể phát huy tác dụng thì việc thử nó cũng sẽ cần lây nhiễm lần nữa cho toàn bộ dân số.”
“Rất đúng”, Sinskey nói, dường như không mấy ngạc nhiên trước những gì bà vừa nghe thấy. “Nhưng dĩ nhiên, có vấn đề lớn lao hơn. Chúng ta thậm chí có thể không muốn phản kháng lại.”
Những lời nói của bà khiến Sienna ngơ ngác. “Tôi xin lỗi?”
“Cô Brooks, có thể tôi không tán thành phương pháp của Bertrand, nhưng cách đánh giá của anh ta về tình hình thế giới hoàn toàn chính xác. Hành trình này đang đối mặt với vấn đề quá tải dân số trầm trọng. Nếu chúng ta tìm cách vô hiệu hóa vi rút của Bertrand mà không có một kế hoạch dự phòng vững vàng… thì chúng ta sẽ chỉ lại trở về vị trí ban đầu mà thôi.”
Chắc chắn thái độ sửng sốt của Sienna thể hiện rất rõ, bởi vì Sinskey cười nhẹ với cô và nói thêm, “Không phải là một quan điểm mà cô nghĩ sẽ nghe được từ tôi phải không?”.
Sienna lắc đầu. “Giờ tôi không dám chắc sẽ trông đợi gì nữa.”
“Vậy thì có lẽ tôi lại làm cô ngạc nhiên lần nữa”, Sinskey tiếp tục. “Như tôi đã nói lúc trước, các nhà lãnh đạo những cơ quan y tế hàng đầu trên khắp thế giới sẽ tụ tập về Geneva chỉ trong vài tiếng nữa để thảo luận về cuộc khủng hoảng này và chuẩn bị một kế hoạch hành động. Tôi không nhớ trong suốt nhiều năm làm việc tại WHO đã từng có một cuộc họp nào lại mang tầm quan trọng lớn lao hơn thế hay chưa.” Bà đưa mắt nhìn cô bác sĩ trẻ. “Sienna, tôi muốn cô có mặt bên bàn nghị sự đó.”
“Tôi sao?”, Sienna bật dậy. “Tôi không phải một chuyên gia di truyền. Tôi đã nói với bà mọi điều tôi biết.” Cô chỉ tập giấy ghi chép của Sinskey. “Mọi thứ tôi phải nói đã nằm trên tập giấy của bà đấy.”
“Chưa đủ đâu”, Langdon xen vào. “Sienna, bất kỳ cuộc thảo luận có ý nghĩa nào về loại vi rút này đều sẽ cần đến bối cảnh. Tiến sĩ Sinskey và nhóm của bà ấy sẽ cần phát triển một khuôn khổ đạo đức để đánh giá phản ứng của họ trước cuộc khủng hoảng này. Rõ ràng bà ấy tin rằng em là người bổ sung duy nhất có thể giúp ích cho cuộc thảo luận đó.”
“Em e rằng khuôn khổ đạo đức của em sẽ không làm hài lòng WHO đâu.”
“Có thể không”, Langdon đáp, “đó chính là một lý do nữa để em có mặt ở đó. Em là thành viên của một thế hệ những nhà tư tưởng mới. Em đưa ra phản đề. Em có thể giúp họ hiểu suy nghĩ của những người có tầm nhìn như Bertrand - những cá nhân xuất chúng có niềm tin mạnh mẽ đến mức họ tự mình giải quyết vấn đề”.
“Bertrand không phải người đầu tiên đâu.”
“Không”, Sinskey xen vào, “và anh ta cũng sẽ không phải là người cuối cùng. Mỗi tháng, WHO lại phát hiện ra những phòng thí nghiệm nơi các nhà khoa học đang thâm nhập vào những mảng khuất của khoa học - tất cả mọi thứ, từ điều khiển tế bào gốc của con người tới lai tạo những giống lạ… những giống lai ghép không hề tồn tại trong tự nhiên. Thật rất phiền toái. Khoa học tiến bộ nhanh đến mức không ai biết mọi ranh giới được vạch ra ở chỗ nào nữa.”
Sienna phải thừa nhận như vậy. Chỉ mới gần đây, hai nhà vi rút học rất được kính nể - Fouchier và Kawaoka - đã tạo ra một vi rút H5N1 biến dị độc lực cao. Bất chấp ý định thuần túy học thuật của các nhà nghiên cứu, công trình sáng tạo mới mẻ của họ có khả năng khiến các chuyên gia an ninh sinh học phải cảnh giác và đã gây ra cả một làn sóng tranh cãi gây gắt trên mạng.
“Tôi sợ rằng nó sẽ chỉ càng ngày càng tệ”, Sinskey nói. “Chúng ta đang ở ranh giới của những công nghệ mới mẻ đến mức không thể hình dung nổi.”
“Và những triết lý mới nữa”, Sienna tiếp lời. “Phong trào Siêu nhân học sẽ phát triển từ bí mật thành dòng chính thống. Một trong những nguyên lý cơ bản của nó là con người chúng ta có nghĩa vụ đạo đức phải tham gia vào quá trình tiến hóa của mình… sử dụng công nghệ của mình để củng cố giống loài, tạo ra những con người tốt hơn - khỏe mạnh hơn, mạnh mẽ hơn, với bộ não hoạt động siêu việt hơn. Mọi thứ rồi sẽ trở thành hiện thực không xa nữa.”
“Và cô không nghĩ rằng những niềm tin như vậy xung đột với quá trình tiến hóa sao?”
“Không”, Sienna đáp lại không chút do dự. “Con người đã tiến hóa dần dần qua nhiều thiên niên kỷ, sáng tạo ra những công nghệ mới trong suốt chặng đường đó - xoay khúc cây để tạo lửa, phát triển nông nghiệp để nuôi sống bản thân, chế ra vắc xin để chống bệnh tật, và giờ đây, tạo ra những công cụ di truyền giúp điều khiển cơ thể, để chúng ta có thể sống sót trong một thế giới đang thay đổi.” Cô ngừng lại. “Tôi tin ngành điều khiển di truyền chỉ là bước đi tiếp theo trong chuỗi dài những tiến bộ của con người.”
Sinskey im lặng, chìm trong suy nghĩ. “Cho nên cô tin chúng ta cần dang rộng vòng tay đón nhận những công cụ này.”
“Nếu chúng ta không đón nhận chúng”, Sienna đáp, “thì chúng ta không xứng đáng với cuộc sống, chẳng khác gì những người ăn lông ở lỗ chịu rét đến chết vì sợ lửa”.
Những lời của cô dường như đọng lại trong phòng một lúc lâu trước khi có bất kỳ ai lên tiếng.
Chính Langdon là người phá tan không khí yên ắng. “Không phải lỗi thời”, anh bắt đầu nói, “nhưng dựa trên lý thuyết của Darwin, anh không thể không đặt câu hỏi về mức độ sáng suốt của hành động tăng tốc quá trình tiến hóa tự nhiên.”
“Robert”, Sienna nhấn mạnh, “ngành điều khiển di truyền không phải tăng tốc quá trình tiến hóa. Nó là một chuỗi sự kiện tự nhiên. Cái anh quên mất chính là quá trình tiến hóa đã tạo ra Bertrand Zobrist. Trí tuệ vượt trội của anh ấy là sản phẩm của quá trình mà Darwin đã mô tả… quá trình tiến hóa theo thời gian. Tầm hiểu biết hiếm có của Bertrand đối với di truyền học không phải là một cảm hứng thần thánh vụt đến… đó là sản phẩm của nhiều năm tiến hóa về mặt tri thức của con người”.
Langdon im lặng, rõ ràng đang suy ngẫm về quan điểm đó.
“Và là một người tin vào thuyết Darwin”, cô nói tiếp, “anh biết rằng tự nhiên luôn tìm ra cách kiểm soát dân số loài người bằng dịch bệnh, nạn đói, lũ lụt. Nhưng để em hỏi anh điều này - lần này lẽ nào tự nhiên lại không thể tìm được một cách khác sao? Thay vì giáng xuống chúng ta những thảm họa và thống khổ kinh hoàng… có lẽ tự nhiên, thông qua quá trình tiến hóa, đã tạo ra một nhà khoa học phát minh ra một phương pháp khác hẳn nhằm giảm bớt dân số chúng ta theo thời gian. Không phải những dịch bệnh. Không phải chết chóc. Chỉ là một giống loài hài hòa với môi trường của mình…”
“Sienna”, Sinskey ngắt lời. “Đã muộn rồi. Chúng ta cần phải đi. Nhưng trước khi lên đường, tôi cần nói rõ thêm một điều. Tối nay cô nói đi nói lại với tôi rằng Bertrand không phải một kẻ xấu… rằng anh ta yêu nhân loại, và anh ta chỉ tha thiết muốn cứu loài người chúng ta đến mức dám thực hiện những biện pháp táo bạo như vậy.”
Sienna gật đầu. “Mục đích biện minh cho phương tiện”, cô nói, trích dẫn lại câu nói của nhà lý thuyết chính trị người Florence khét tiếng Machiavelli [61].
“Vậy hãy cho tôi biết”, Sinskey nói, “cô có tin rằng mục đích biện minh cho phương tiện không? Cô có tin rằng mục tiêu cứu thế giới của Bertrand đủ cao quý để bảo đảm cho việc giải phóng loại vi rút này không?”.
Không khí im lặng căng thẳng bao trùm căn phòng.
Sienna khom người sát lại bàn, nét mặt đầy thuyết phục. “Tiến sĩ Sinskey, như tôi đã nói, tôi tin hành động của Bertrand là rất khinh suất và cực kỳ nguy hiểm. Nếu có thể ngăn chặn được anh ấy, tôi đã làm vậy ngay lập tức. Tôi cần bà tin tôi.”
Elizabeth Sinskey đứng dậy và dịu dàng nắm lấy cả hai tay Sienna. “Tôi tin cô, Sienna. Tôi tin tất cả mọi điều cô nói với tôi.”
 


Chương 103


Không khí trước buổi bình minh tại sân bay tại sân bay Atatürk khá lạnh và đẫm sương. Một màn sương mỏng phủ xuống, bao kín đường nhựa quanh nhà ga riêng này.
Langdon, Sienna, và Sinskey đến đây bằng xe hơi và được một nhân viên WHO đón sẵn bên ngoài, giúp họ ra khỏi xe.
“Chúng tôi đã sẵn sàng, thưa bà”, người đàn ông nói, dẫn cả ba người vào một tòa nhà khiêm nhường.
“Thế còn chuyện thu xếp cho ông Langdon sao rồi?”, Sinskey hỏi.
“Máy bay riêng tới Florence. Giấy tờ đi lại tạm thời của ông ấy đã để sẵn trên khoang.”
Sinskey gật đầu hài lòng. “Còn vấn đề khác mà chúng ta đã thảo luận?”
“Đã triển khai. Hành lý sẽ được chuyển đi sớm nhất có thể.”
Sinskey cảm ơn người nhân viên, lúc này đã băng qua sân nhựa đi về phía máy bay. Bà quay sang Langdon. “Anh có chắc không muốn đi cùng chúng tôi không?” Bà mỉm cười mệt mỏi, vuốt mái tóc bạc dài rồi vén ra sau tai.
“Xét tình hình”, Langdon dí dỏm đáp, “tôi không chắc một giáo sư nghệ thuật giúp được gì nhiều.”
“Anh đã giúp rất nhiều”, Sinskey nói. “Còn nhiều hơn anh biết đấy. Không kể ít nhất cũng là…” Bà ra hiệu về phía Sienna đi bên cạnh, nhưng cô gái trẻ đã không còn ở bên họ. Sienna tụt lại ra sau hai mươi thước, dừng lại bên một ô cửa sổ lớn và đăm đăm nhìn ra chiếc C-130 đang đợi sẵn, rõ ràng đang chìm trong suy tưởng.
“Cảm ơn đã tin tưởng cô ấy”, Langdon khẽ nói. “Tôi cảm thấy cô ấy không thường xuyên được nhận điều đó trong đời mình.”
“Tôi e rằng Sienna Brooks và tôi sẽ tìm thấy nhiều điều để học hỏi từ nhau.” Sinskey chìa tay ra. “Chúa ban phước cho anh, giáo sư.”
“Bà cũng vậy”, Langdon nói khi họ bắt tay. “Chúc may mắn ở Geneva.”
“Chúng tôi rất cần điều đó”, bà nói, và sau đó gật đầu về phía Sienna. “Tôi sẽ cho hai người vài phút. Chỉ để cô ấy đi khi anh thấy sẵn sàng thôi nhé.”
Khi băng qua nhà ga, Sinskey bất ngờ đút tay vào túi và móc ra hai nửa chiếc bùi vỡ, nắm chặt ở một bên tay.
“Xin đừng vứt bỏ cây gậy Asclepius đó”, Langdon gọi với theo sau bà. “Nó có thể sửa lại được mà.”
“Cảm ơn”, Sinskey vẫy tay đáp lại. “Tôi hy vọng mọi thứ đều như vậy.”
Sienna Brooks đứng một mình bên cửa sổ, nhìn ra những ngọn đèn dọc đường băng, trông như những bóng ma trong màn sương xuống thấp và những đám mây đang tích tụ. Trên đỉnh tháp điều khiển ở phía xa, lá cờ Thổ Nhĩ Kỳ bay phần phật đầy kiêu hãnh - lá cờ nền đỏ có hai biểu tượng cổ xưa là trăng lưỡi liềm và ngôi sao - những vết tích còn lại của đế chế Ottoman vẫn kiêu hãnh tung bay trong thế giới hiện đại này.
“Cược một lira Thổ Nhĩ Kỳ cho những gì em đang nghĩ nhé?”, một giọng nói trầm ấm vang lên sau cô.
Sienna không quay lại. “Bão đang đến.”
“Anh biết”, Langdon đáp khẽ.
Một lúc lâu sau, Sienna ngoảnh lại phía anh. “Em ước gì anh sẽ đi Geneva.”
“Rất vui khi nghe em nói như vậy”, anh đáp. “Nhưng em sẽ bận nói chuyện về tương lai. Điều cuối cùng em cần là một vị giáo sư đại học lỗi thời làm vướng chân em mà thôi.”
Cô nhìn anh khó hiểu. “Anh nghĩ anh quá già với em à?”
Langdon cười to. “Sienna, thực sự anh quá già với em còn gì!”
Cô có vẻ không thoải mái, cảm thấy xấu hổ. “Được rồi… nhưng ít nhất anh cũng biết tìm em ở đâu.” Cô cố gắng nhún vai rất dịu dàng. “Ý em là… nếu anh muốn gặp lại em.”
Anh mỉm cười với cô. “Anh rất muốn điều đó.”
Cô cảm thấy tinh thần mình phấn chấn hơn một chút, nhưng giữa họ lại là một khoảng im lặng kéo dài, không ai trong số họ biết chắc cần phải nói tạm biệt như thế nào.
Lúc ngước nhìn Langdon, Sienna cảm thấy lòng trào dâng một cảm xúc kỳ lạ. Không báo trước, cô kiễng chân và đặt một nụ hôn lên môi anh. Khi lùi lại, đôi mắt cô đã rơm rớm lệ. “Em sẽ rất nhớ anh”, cô thì thầm.
Langdon mỉm cười âu yếm và vòng tay qua người cô. “Anh cũng sẽ nhớ em.”
Họ đứng một lúc lâu trong vòng tay nhau, cả hai đều không đành lòng dứt ra. Cuối cùng, Langdon lên tiếng. “Có một câu nói xưa… thường được cho là của Dante…” Anh ngừng lại. “Hãy nhớ tối nay… vì nó là khởi đầu của mãi mãi.”
“Cảm ơn anh, Robert”, cô nói, nước mắt bắt đầu trào ra. “Cuối cùng thì em cũng tìm ra mục tiêu của cuộc đời mình.”
Langdon kéo cô lại sát hơn. “Em luôn nói em muốn cứu thế giới, Sienna. Có lẽ đây là cơ hội cho em đấy.”
Sienna khẽ mỉm cười và quay đi. Khi một mình bước về phía chiếc C-130 đang đợi, Sienna ngẫm lại mọi việc đã xảy ra… mọi thứ có thể vẫn xảy ra… và toàn bộ tương lai phía trước.
Hãy nhớ tối nay, cô nhắc lại, vì nó là khởi đầu của mãi mãi.
Khi leo lên máy bay, Sienna cầu mong Dante nói đúng.
 


Chương 104


Vầng mặt trời vàng vọt buổi chiều đã lặn xuống phía trên Cung điện Duomo, phản chiếu lên lớp gạch men trắng của tháp chuông Giotto và đổ những cái bóng dài ngang qua Thánh đường Santa Maria del Fiore tráng lệ của Florence.
Đám tang của Ignazio Busoni vừa mới bắt đầu lúc Robert Langdon vào thánh đường và tìm được một chỗ ngồi, lòng cảm thấy vui vì Ignazio được tưởng niệm tại đây, trong nhà thờ không nhuốm màu thời gian mà ông ấy đã trông coi suốt nhiều năm trời.
Mặc dù bên ngoài tráng lệ, nhưng bên trong nhà thờ lớn của Florence lại bình dị, trống trải và chân phương. Tuy nhiên điện thờ có phần khổ hạnh dường như lại tỏa ra một không khí ca tụng trong ngày hôm nay. Từ khắp nơi trên toàn nước Ý, các quan chức chính phủ, bạn bè, và đồng nghiệp trong giới nghệ thuật đều đổ về nhà thờ này để tưởng nhớ một con người vui vẻ được họ gọi bằng cái tên trìu mến Tiểu Mái vòm.
Giới truyền thông đưa tin rằng Busoni qua đời trong khi đang làm công việc mình yêu thích nhất - đi dạo quanh Duomo lúc đêm khuya.
Không khí đám tang vui vẻ đến ngạc nhiên trong những lời nhận xét hài hước từ bạn bè và gia đình. Một đồng nghiệp cho biết chính Busoni đã tuyên bố rằng tình yêu của ông dành cho nghệ thuật Phục Hưng, chỉ có thể so sánh với tình yêu của ông dành cho món mì ống Bolognese và món caramen budino.
Sau lễ truy điệu, trong khi những người dự tang lễ gặp gỡ nhau và trìu mến nhớ lại những sự kiện trong cuộc đời của Ignazio thì Langdon đi vẩn vơ bên trong Duomo, chiêm ngưỡng công trình nghệ thuật mà Ignazio vô cùng yêu mến - bức Phán xét cuối cùng của Vasari - ngay bên dưới mái vòm, những ô cửa sổ kính hoa Donatello và Ghiberti, chiếc đồng hồ của Uccello, và những lối đi khảm gốm thường hay bị bỏ qua tô điểm cho sàn nhà.
Một lúc, Langdon mới nhận ra mình đang đứng trước một gương mặt quen thuộc - gương mặt của Dante Aleghieri. Bức tranh tường huyền thoại của Michelino khắc họa cảnh đại thi hào đứng trước núi Luyện ngục, tay cầm kiệt tác Thần khúc của mình xoay ra ngoài, như thể đang kính cẩn dâng lên.
Langdon không thể không tự hỏi Dante nghĩ gì nếu ông ấy biết được tác động mà thiên trường ca của mình tạo ra cho thế giới, nhiều thế kỷ sau này, trong một tương lai ngay cả chính thi hào của Florence cũng không bao giờ hình dung được.
Ông ấy đã tìm thấy một cuộc sống vĩnh hằng, Langdon nghĩ, nhớ lại những quan điểm của các triết gia Hy Lạp cổ đại về danh tiếng. Chừng nào người ta còn nhắc đến tên ngươi, ngươi sẽ chẳng bao giờ chết.
Lúc chập tối, Langdon băng qua Quảng trường Sant’Elisabetta và trở lại khách sạn Brunelleschi trang nhã của Florence. Trong căn phòng trên gác, anh có cảm giác thư thái hơn khi tìm thấy một gói đồ khá lớn đang đợi sẵn.
Cuối cùng, hàng ký gửi cũng đã đến nơi.
Gói đồ mình yêu cầu từ Sinskey.
Langdon vội vã cắt băng keo niêm phong và nhấc những thứ quý giá bên trong ra, cảm thấy an tâm khi thấy nó đã được gói ghém cẩn thận và có đệm kỹ bằng giấy bọc bọt khí.
Tuy nhiên, Langdon hết sức ngạc nhiên khi thấy gói đồ còn có thêm một số thứ khác. Dường như Elizabeth Sinskey đã sử dụng uy lực rất lớn của mình để bù đắp cho anh nhiều hơn một chút so với yêu cầu. Gói đồ còn có cả quần áo của Langdon - chiếc áo sơ mi cài cúc, quần khaki, và chiếc áo khoác Harris Tweed tả tơi - tất cả được giặt giũ và là cẩn thận. Ngay cả đôi giày da thuộc đế mềm của anh cũng ở đây, được đánh bóng lại. Bên trong gói đồ, anh còn rất vui khi thấy chiếc ví của mình.
Tuy nhiên, khi phát hiện ra món đồ cuối cùng, Langdon đã bật cười. Phản ứng của anh lúc này có một nửa là tâm trạng nhẹ nhõm khi món đồ trở về, nửa còn lại là thái độ bẽn lẽn vì mình đã quá ư coi trọng nó.
Chiếc đồng hồ Chuột Mickey của mình.
Langdon lập tức đeo ngay chiếc đồng hồ cổ lỗ sĩ vào cổ tay. Cái cảm giác quai da ấm áp chạm vào d.a thịt khiến anh thấy bình yên một cách lạ lùng. Lúc mặc xong quần áo và xỏ hai chân vào đôi giày lười, Robert Langdon cảm thấy gần như lại được là chính mình.
Langdon ra khỏi khách sạn Brunelleschi, mang theo gói đồ trong một túi xách của khách sạn mà anh xin được từ nhân viên khuân vác đồ đạc. Buổi tối ấm áp khác thường, càng làm tăng thêm tính chất thi vị cho chặng đi bộ của anh dọc Đại lộ Calzaiuoli tới ngọn tháp duy nhất của Cung điện Vecchio.
Khi đến nơi, Langdon ký sổ tại bộ phận an ninh, nơi có tên của anh trong danh sách gặp Marta Alvarez. Anh được hướng dẫn tới Sảnh Năm trăm, lúc này vẫn rất đông du khách. Langdon đến vừa đúng giờ, cứ ngỡ sẽ gặp Marta tại lối vào, nhưng không nhìn thấy cô ấy đâu cả.
Anh chặn một thuyết trình viên đi ngang qua lại.
“Xin lỗi?”, Langdon hỏi bằng tiếng Ý. “Tôi có thể tìm Marta Alvarez ở đâu?”
Nhân viên thuyết trình cười tươi. “Bà Alvarez à?! Bà ấy không ở đây! Bà ấy sinh con rồi! Catalina! Xinh lắm!”
Langdon rất mừng khi nghe tin vui của Marta. “À… hay quá”, anh đáp. “Thật tuyệt vời!”
Khi nhân viên thuyết trình vội vã rời đi, Langdon tự hỏi sẽ phải làm gì với cái gói mình đang mang theo.
Anh nhanh chóng quyết định rồi băng qua Sảnh Năm trăm đông đúc, đi bên dưới bức tranh tường của Vasari và tiến thẳng vào khu bảo tàng trong cung điện, cố gắng không để bất kỳ nhân viên an ninh nào nhìn thấy.
Cuối cùng, anh cũng tới bên ngoài hành lang hẹp của bảo tàng. Khu vực này tối om, được chặn lại bằng cọc rào, một sợi dây chăng ngang, và tấm biển: CHIUSO/ĐÓNG CỬA.
Langdon cẩn thận nhìn quanh, sau đó luồn mình dưới sợi dây để lọt vào không gian tối om ấy. Anh thò tay vào chiếc túi và cẩn thận lấy gói đồ ra, tháo lớp giấy bọt.
Khi lớp nhựa rơi ra, chiếc mặt nạ người chết của Dante lại trừng trừng nhìn anh. Lớp thạch cao dễ vỡ vẫn còn nguyên trong chiếc túi Ziploc, được lấy lại từ ngăn két tại nhà ga tàu hỏa Venice đúng như Langdon yêu cầu. Chiếc mặt nạ vẫn trong tình trạng nguyên vẹn, không hề hư hại trừ một chí tiết nhỏ: Có thêm một bài thơ, được khắc thành hình xoáy trôn ốc trang nhã ở mặt trái của nó.
Langdon nhìn chiếc tủ trưng bày cổ. Mặt nạ người chết của Dante được trưng mặt phải ra đằng trước… sẽ không ai chú ý cả.
Anh cẩn thận lấy chiếc mặt nạ từ trong túi Ziploc. Sau đó, rất nhẹ nhàng, anh đặt nó trở lại chiếc đế bên trong tủ trưng bày. Chiếc mặt nạ lại nằm vào vị trí, yên ổn trong lớp nhung đỏ quen thuộc.
Langdon đóng tủ và đứng một lúc, chăm chú nhìn bộ mặt nhợt nhạt của Dante, một sự hiện diện ma quái trong căn phòng tối om. Cuối cùng cũng trở về nhà.
Trước khi ra khỏi phòng, Langdon còn thận trọng tháo bỏ hết rào cọc, dây và tấm biển ở lối vào. Khi đi qua phòng trưng bày, anh dừng lại để nói với một thuyết trình viên nữa còn trẻ.
“Thưa cô?”, Langdon nói. “Đèn phía trên cái mặt nạ người chết của Dante cần phải được bật lên. Xem trong bóng tối khó quá.”
“Tôi xin lỗi”, người phụ nữ trẻ nói, “nhưng khu trưng bày đó đóng cửa. Mặt nạ người chết của Dante không còn ở đây nữa”.
“Kỳ cục nhỉ.” Langdon cố tạo vẻ mặt ngạc nhiên. “Tôi vừa xem nó mà.”
Gương mặt của cô gái tỏ ra hết sức bối rối.
Khi cô ấy chạy về phía hành lang, Langdon lặng lẽ rời khỏi bảo tàng.
 


Chương 105


Bên trên khoảng không mờ tối của vịnh Biscay mười hai nghìn mét, chiếc máy bay hãng Alitalia bay tới Boston đang nhắm về phía tây trong một đêm trăng sáng.
Trên khoang, Robert Langdon ngồi đọc mải mê một bản Thần khúc bìa mềm. Nhịp điệu du dương của trường ca, cùng với tiếng ầm ĩ của động cơ phản lực cuốn anh vào trạng thái thôi miên. Những lời văn của Dante dường như chảy tràn trên trang giấy, ngân nga trong tim anh, như thể chúng được viết ra cho riêng anh vào đúng thời khắc này.
Giờ đây Langdon biết rằng, trường ca của Dante không nói nhiều về nỗi thống khổ chốn địa ngục bằng nói về sức mạnh của tinh thần con người khi chịu đựng thử thách, cho dù có gian nan đến đâu.
Bên ngoài cửa sổ, vầng trăng tròn đã nhô lên cao, sáng rõ vằng vặc, làm mờ hết những thực thể khác trên bầu trời. Langdon nhìn ra không trung, đắm mình trong suy nghĩ về tất cả những gì đã diễn ra trong mấy ngày qua.
Những nơi tối tăm nhất của địa ngục dành riêng cho những kẻ giữ thái độ trung dung trong những thời kỳ khủng hoảng đạo đức. Với Langdon, ý nghĩa của lời này chưa bao giờ rõ ràng hơn thế: Trong những thời khắc nguy hiểm, không có tội lỗi nào lớn hơn sự chây ì.
Langdon biết rằng bản thân mình, cũng như hàng triệu người khác, cũng mặc tội lỗi này. Khi thế giới xảy ra những hoàn cảnh khó khăn, thái độ từ chối đã trở thành một đại dịch toàn cầu. Langdon tự hứa sẽ không bao giờ quên điều đó.
Khi chiếc máy bay lao vùn vụt về phía Tây, Langdon nghĩ đến hai người phụ nữ dũng cảm giờ này đang ở Geneva, đương đầu với tương lai và chèo chống qua những điều phức tạp của một thế giới đã thay đổi.
Bên ngoài cửa sổ, một dải mây xuất hiện phía chân trời, chầm chậm nhích qua bầu trời. cuối cùng lướt qua mặt trăng và che khuất ánh sáng của nó.
Robert Langdon thả người trên ghế, cảm thấy đã đến lúc chợp mắt.
Khi tắt ngọn đèn phía trên đầu, anh đưa mắt nhìn ra bầu trời lần cuối cùng. Bên ngoài, trong màn đêm tối đen vừa mới hình thành, thế giới đã biến đổi. Bầu trời trở thành một thảm tinh tú sáng lấp lánh.
 



Ghi chú



[1] Uffizi Gallery là bảo tàng ở Florence, một trong những bảo tàng nghệ thuật lâu đời và nổi tiếng nhất. Tòa nhà được Giorgio Vasari xây dựng năm 1560 làm văn phòng cho các quan tòa - vì thế mà thành tên gọi “uffizi” (tức “office” hay “văn phòng”). (Chú thích trong sách này là của dịch giả).

[2] Cung điện Bargello, còn gọi là cung điện Nhân Dân (Palazzo del Popolo) vốn là trại lính và nhà tù, nay là bảo tàng nghệ thuật ở Florence, Ý. Đây là công trình công cộng cổ nhất Florence, được xây dựng năm 1255. Năm 1574, gia tộc Medici cho cảnh sát trưởng (bargello) của Florence đóng trụ sở tại tòa nhà này, vì thế thành tên gọi. Từ năm 1865, Bargello trở thành bảo tàng quốc gia (Museo Nazionale del Bargello) trưng bày bộ sưu tập lớn nhất về điêu khắc Gothic và Phục Hưng ở Ý (thế kỷ XVI-XVII).

[3] Badia Fiorentina là tu viện kiêm nhà thờ trên phố Via del Proconsolo ở trung tâm Florence. Người ta cho rằng thi hào Dante, tác giả Thần khúc, lớn lên ngay bên kia phố trong ngôi nhà được xây lại năm 1910 làm Bảo tàng Dante. Hiện nay, Badia là giáo đoàn của các tu sĩ và nữ tu dòng Tín hữu Gerusalemme, với các buổi cầu kinh hằng chiếu lúc 6 giờ.

[4] Biệt thự Torregalli (hay lâu đài Torre Galli) là một phần của hệ thống pháo đài ở vùng Soffiano, thuộc gia tốc Nerli. Đến thế kỷ 17, quyền sở hữu thuộc về gia tộc Galli và đến năm 1868, nơi này trở thành tài sản của Paolo Gentile Farinola, người cho xây lại các phần tường có lỗ châu mai theo phong cách Trung cổ. Năm 1991, nó được công nhận là di tích lịch sử nghệ thuật và hiện nằm trong chế độ công quản.

[5] Max Ernst (1891 – 1976) là họa sĩ, nhà điêu khắc và nhà thơ người Đức. Ông được coi là một trong những nhà tiên phong của phong trào Dada và chủ nghĩa siêu thực.

[6] Trong nguyên tác, các đơn vị đều sử dụng hệ đo lường Anh – Mỹ. Để tiện cho độc giả theo dõi, người dịch đã chuyển đổi sang hệ đo lường tương ứng thông dụng ở Việt Nam. Ví dụ, ở đây là 237 foot, tương đương 71,1m (1 foot = 0,3m).

[7] Filippo Brunelleschi (1377 – 1446) là một trong những kiến trúc sư và kỹ sư hàng đầu của thời Phục Hưng Ý. Ông nổi tiếng nhất với việc phát hiện ra luật xa gần (phối cảnh) cũng như kiến tạo mái vòm Vương cung Thánh đường Florence. Ông cũng có nhiều thành tựu về kiến trúc, điêu khắc, toán học và cả thiết kế tàu.

[8] Prigioni (Tù nhân) là tên gọi gian trưng bày bốn tác phẩm điêu khắc (Quattro Prigioni) của Michelangelo, vốn ban đầu được làm cho mộ của Giáo hàng Julius II. Sở dĩ có tên gọi này vì những nhân vật trong các tác phẩm như đang cố gắng thoát ra khỏi khối đá cẩm thạch tạc họ. Michelangelo mất khi chưa kịp hoàn thành chúng. Ở đây còn có tượng Thánh Matthew cũng của Michelangelo và các bức vẽ của những họa sĩ cùng thời với Michelangelo, như Ghirlandaio và Andrea del Sarto.

[9] Ebola là loại virus gây bệnh sốt xuất huyết ở người và các loài linh trưởng.

[10] Cổng Địa ngục (La Porte de l’Enfer) là cụm điêu khác của nghệ sĩ người Pháp Auguste Rodin, mô tả một cảnh trong “Hỏa ngục”. Tác phẩm điêu khắc này cao sáu mét, rộng bốn mét và dài một mét, với một trăm tám mươi nhân vật có kích thước cao từ mười lăm phân đến hơn một mét. Phiên bản gốc được lưu giữ từ năm 1917 và hiện trưng bày tại Bảo tàng d’Orsay ở Paris. Chi tiết Ba Vong linh (Les trois Ombres), nguyên bản cao chín mươi tám phân, gồm ba nhân vật riêng biệt chỉ tay vào dòng chữ “Lasciate ogne speranza, voi ch’entrate” (“Vứt bỏ mọi hy vọng, những kẻ bước vào đây”) trích từ Khổ III của Hỏa ngục.

[11] Phlegyas, con trai của Ares và Chryse, là vua của Lapith trong thần thoại Hy Lạp. Trong Hỏa ngục, Phlegyas chèo đò chở Virgil và Dante vượt sông Styx.

[12] Loại rượu Whisky chưng cất từ mạch nha theo quy trình đơn cất tại Scotland. Nhà máy rượu Highland Part đặt tại Kirkwall, Orkney là một trong rất ít cơ sở ủ rượu bằng loại lúa mạch riêng.

[13] Carbaret là loại hình giải trí bao gồm hài kịch, âm nhạc và khiêu vũ, thường diễn ra ở quán ăn hay hộp đêm với sân khấu. Chương trình này thường bắt đầu với câu chào bằng ba thứ tiếng Đức, Pháp, Anh như trên

[14] Haman the Agagite, hay Haman Xấu xa, là một nhân vật phản diện chính trong Sách Esther, theo truyền thống Cựu ước, là một quý tộc ở thế kỷ V trước Công nguyên. Haman là tể tướng của đế chế Ba Tư dưới thời vua Ahasuerus, tức Xerxec I, và là hậu duệ của Agag, vua của người Amalekite, dân tộc bị Vua Saul và David xua đuổi. Còn theo Kinh Do Thái, Haman cùng vợ là Zeresh chủ mưu giết hết người Do Thái ở Ba Tư cổ. Haman tìm cách thuyết phục vua Ahasuerus hạ lệnh giết người Do Thái trên lãnh thổ ông cai trị. Âm mưu này bị Hoàng hậu Esther, vốn là người Do Thái vạch trần. Haman bị treo cổ.

[15] Tiếng lóng: Teacher I’d like to F***(Tôi muốn ngủ cùng cô giáo).

[16] Trong nguyên bản tiếng Anh, “We… sorry” (Rấ… xin lỗi) đọc phát âm gần giống với “Va… Sari” – tên họa sĩ Giorgio Vasari, tác giả bức Trận Marciano

[17] Ở đây có sự chơi chữ. Trong bản gốc tiếng Anh, nhân vật dùng từ “WHO” vừa mang nghĩa “người nào, kẻ nào” đồng thời là tên viết tắt của Tổ chức Y tế Thế giới.

[18] Theo truyền thuyết, người La Mã thành lập thành phố Florence vào thế kỷ I trước Công nguyên. Họ xây hẳn một đền thờ lớn thờ thần Chiến tranh (Mars) như là vị thần bảo vệ thành phố, cùng với một bức tượng thần cưỡi ngựa. Sau này, khi người Thiên Chúa giáo đến Florence, một nhà thờ được xây dựng và ngoại giáo bị bài trừ. Người dân Florence di chuyển tượng thần Chiến tranh lên một cái bệ nằm bên sông Arno. Khi người Goth chiếm Florence, họ xô đổ bức tượng xuống sông. Đến thế kỷ VIII sau Công nguyên, khi Charlemagne xây lại thành phố, bức tượng được khôi phục và mặc dù đã hư hại, nó vẫn được đặt trên một cây cột gần đầu phía bắc cầu Ponte Vecchio. Bức tượng “bị thương” nhưng với người dân Florence, nó vẫn là biểu tượng cho sự bảo hộ của thần thánh. Bức tượng tồn tại qua cả thời kỳ của Dante và bị nhấn chìm trở lại sông Arno trong một trận lụt vào năm 1333.

[19] Nguyên tác là “Ashes, ashes”, vừa mang nghĩa là “tro tàn” sau khi người bệnh bị hỏa thiêu, nhưng cũng đồng âm với “Hắt xì” là dấu hiệu của hiện tượng chớm bệnh.

[20] Nguyên văn: “soccer mom”, chỉ những phụ nữ trung lưu sống ở ngoại ô Bắc Mỹ, dành phần lớn thời gian chở con cái tới các sự kiện thể thao hoặc hoạt động khác. Cụm từ này dần mang nghĩa tiêu cực vì những phụ nữ này thường bị phê phán về việc ép con cái tham giá quá nhiều hoạt động ngoại khóa thay vì để cho chúng được sống đúng tuổi thơ.

[21] Sảnh Mô hình kiến trúc.

[22] Ivy League là nhóm tám trường đại học danh tiếng tại Hoa Kỳ, gồm Đại học Brown, Đại học Columbia, Đại học Cornell, Cao đẳng Dartmouth, Đại học Harvard, Đại học Princeton, Đại học Pennsylvania và Đại học Yale.

[23] Trong thần thoại Hy Lạp, Apollo và Dionysus đều là con trai của thần Zeus. Apollo là thần Mặt trời, đại diện cho ước mơ và thể hiện sự sáng tạo của con người thông qua lý trí và tư duy logic. Ngược lại, Dionysus là thần rượu vang, thiên về tình cảm và bản năng.

[24] Nguyên văn: ‘Who Needs Agathusia?’.

[25] Trong bản gốc tiếng Anh, từ “who” vừa mang nghĩa “ai”, vừa là viết tắt của WHO - Tổ chức Y tế Thế giới.

[26] Mở cửa

[27] SPF (Sun Protection Factor): Tác nhân bảo vệ chống nắng. Đây là số đo mức độ bảo vệ trước tia tử ngoại và có phạm vi từ một đến bốn mươi lăm hoặc cao hơn. Một chiếc kính râm có SPF 15 sẽ lọc được chín mươi hai phần trăm tia tử ngoại. Nói cách khác, nó sẽ làm chậm quá trình cháy nắng trên da người sau một trăm năm mươi phút thay vì mười phút, tức là người đó có thể ở ngoài nắng lâu hơn mười lăm lần

[28] Nguyên bản: possessed.

[29] Nguyên văn: “ground zero”: Điểm trên mặt đất gần với một vụ nổ nhất. Thuật ngữ này thường gắn với các vụ nổ hạt nhân hay nổ bom lớn, nhưng nó cũng được dùng trong các trận động đất, đại dịch và những thảm họa khác để đánh dấu thiệt hại nặng nhất.

[30] biểu tượng của ngành y

[31] Câu trích từ sang thế kí 9:7

[32] Nguyên văn: whiteout. Đây là hiện tượng thời tiết thường xảy ra ở nơi tuyết rơi với mật độ dày. Khi một đám mây lớn kéo qua bầu trời, ánh sảng bị khuếch tán đi khăp nơi làm cho khung cảnh xung quanh biến thành toàn màu trắng.

[33] Nguyên văn: Transhumanism (viết tắt H+) là một phong trào tri thức về văn hóa với mục tiêu cuối cùng là cơ bản cải biến con người bằng công nghệ để tăng cường các năng lực trí tuệ, thể chất và tâm lý.

[34] Đại Vận Hà (Grand Canal) ở Venice, Ý, là dòng kênh lớn tạo thành hành lang giao thông đường thủy chính tại thành phố này. Kênh ăn thông vào đầm nước gần nhà ga Santa Lucia, đầu kia dẫn vào quảng trường St. Mark. Phần giữa kênh tạo thành một hình chữ S ngược lớn chạy qua các quận trung tâm của Venice.

[35] Ponte degli Scalzi (nghĩa đen là cầu 'Tu sĩ chân trần') là một trong bốn cây cầu bắc qua Đại Vận Hà ở Venice. Cầu nối quận Santa Croce ở phía nam với Cannaregio ở phía bắc. Cầu do Eugenio Miozzi thiết kế, xây bằng đá, hoàn thành năm 1934, thay thế cho một cây cầu sắt.

[36] Nguyên văn: “Old Master”, chỉ một họa sĩ Châu Âu truớc năm 1800, được đào tạo bài bản, là người đứng đầu một phường của các họa sĩ địa phương và có thể làm việc độc lập.

[37] Theo Kinh Phúc Âm: Mc 9 40-49 (HI 41-50),

[38] Tiếng Anh có nghĩa: Cách ly để kiểm dịch.

[39] Loại cocktail là hỗn hợp của rượu vang Prosecco và đào nghiền nhuyễn.

[40] Antonio Vivaldi (sinh năm 1678 tại Venice, mất năm 1741 tại Vienna) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ vĩ cầm, nhà sư phạm, chỉ huy dàn nhạc người Ý, cũng là linh mục chỉ huy dàn nhạc và dàn đồng ca “della Pieta” ở Venice

[41] Alhambra (tên đầy đủ Calat Alhambra) là một quần thể cung điện và pháo đài nằm ở Granada, Andalusia, Tây Ban Nha. Nguyên thủy, đây là một pháo đài được xây dựng năm 889 và sau đó bị bỏ quên cho tới khi được vua người Moor là Mohammed ben Al-Ahmar xây dựng lại vào giữa thế kỉ XI và được quốc vương Yusuf I biến thành hoàng cung năm 1333.

[42] Giacomo Casanova (1725-1798) là một nhà thám hiểm và tác gia Venice. Tự truyện của ông, Câu chuyện đời tôi được xem như một trong những nguồn đáng tin cậy về phong tục và tiêu chuẩn xã hội Châu Âu trong thế kỷ XVIII, ông nổi tiếng là tay quyến rũ phụ nữ, và kể nhiều chuyện phiêu lưu tình ái trong tự truyện của mình.

[43] Moonraker

[44] Nguyên văn: The Tetrarchs. Bức tượng điêu khắc mô tả bốn hoàng đế La Mã có niên đại khoảng năm 300. Chế độ “Tứ đế đồng trị” (Tetrarchy) là thể chất trong đó quyền lực được phân chia giữa bốn cá nhân, nhưng trong cách dùng hiện đại, thuật ngữ thường để chỉ một hệ thống do hoàng đế La Mã Diocletian khởi xướng năm 293, đánh dấu sự phục hồi của đế chế La Mã. Chế độ này kéo dài tới khoảng năm 313, khi cuộc xung đột huynh đệ tương tàn loại bỏ hầu hết những ứng cử viên quyền lực, chỉ còn lại Constantine ở phía đông và Licinius ở phía tây.

[45] Nguyên văn: Dancer’s Image, là tên một con ngựa đua Mỹ giống Thoroughbred và là chú ngựa duy nhất trong lịch sử giải đua Kentucky Derby giành chiến thắng nhưng bị truất quyền thi đấu. Chú ngựa này thuộc sở hữu của doanh nhân Peter Fuller, con trai của cựu Thống đốc bang Massachusetts Alvan T. Fuller, được Lou Cavalaris, Jr. huấn luyện và được kỵ sĩ Bobby Ussery điều khiển trong giải Derby.

[46] Theodosius II (401-450) thường được gọi là Theodosius Trẻ hoặc Theodosius Nhà thư pháp, là hoàng đế Đông La Mã từ năm 408 đến 450. Ông được biết đến nhiều về việc ban hành bộ luật Theodosius và công xây dựng các bước tường thành Theodosius quanh Constantinople.

[47] Hippodrome là sân vận động để đua ngựa hoặc đua xe kéo. Nhưng Hippodrome của Constantinople, thủ đô của đế chế Byzantine, là một đấu trường, được xem như trung tâm xã hội và thể thao của thành phố. Hiện nay, đây là một quảng trường mang tên Sultan Ahmet taaij thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ, với một số tàn tích của các công tình nguyên thủy từng tồn tại.

[48] Francesco Busone (1382-1432), thường được gọi là bá tước Carmagnola, là một nhà lãnh đạo người Ý. Ông sinh tại Carmagnola trong một gia đình nông dân nghèo. Ông bắt đầu sự nghiệp quân sự khi mới mười hai tuổi và nhanh chóng trở thành một chiến tướng xuất sắc. Ông bị chính Gian Galeazzo Viscontí, quận công Milan, người mà ông phục vụ, nghi ngờ và bỏ tù rồi kết án xử tử ngày 5/5/1432.

[49] Báo cháy.

[50] Cấm vào.

[51] Viết tắt của Europian Centre for Disease Perevention and Control.

[52] Hai loại thuốc an thần, chống trầm cảm.

[53] Nguyên văn: “Dim Mak”, hay tiếng Anh “Touch of Death” (điểm mạch), là một kỹ thuật trong võ thuật được cho là có thể giết người nhằm vào một số khu vực đặc biệt của cơ thể mà không phải dùng lực quá nhiều. Điểm mạch được mô tả là một bí kíp với những kỹ thuật tấn công vào các huyệt vị và kinh mạch, làm đối thủ mất năng lực hoặc gây chết người ngay lập tức hoặc từ từ.

[54] Mustafa Kemal Atatürk (1881-1938) là nhà cách mạng, tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. sau khi đế quốc Ottoman thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông lãnh đạo Phong trào Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, và kết quả là nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ ra đời năm 1923. Sau chiến tranh, Atatürk tiến hành cải cách chính trị, kinh tế vá văn hóa nhằm biến cựu đế quốc Ottoman thành một nhà nước hiện đại và thế tục. Những nguyên tắc cải cách đó được biết đến với tên “chủ nghĩa Kemal”.

[55] Mũi Vàng: Golden Horn là một vịnh nhỏ chia thành phố Istanbul và tạo thành một hải cảng tự nhiên cho các tàu thuyền của Hy Lạp, La Mã, Byzantine, Ottoman và các nước khác suốt hang nghìn năm. Đây là cửa biển có hình thanh đao, của các sông Alibeykoy và Kagithane, nối với Bosphorus đúng vị trí eo biển nhập vào biển Marmara, hình thành nên một bán đảo với phần đầu mút chính là “Istanbul” cũ (Byzantium cổ và Constantinople).

[56] Cột đồng Rắn biển (Serpent Column) là cột đồng cổ tại Hippodrome thuộc Constantinople, khu vực nay là Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là một phần của tháp ba chân hiến tế thời Hy Lạp cổ đại, nguyên đặt tại Delphi và được Constantine I Đại đế dời tới Constantinople năm 324. Tháp được xây dựng để tưởng niệm những người Hy Lạp đã chiến đấu và đánh bại đế quốc Ba Tư trong trận Plataea (479 trước Công nguyên). Phần đầu rắn của cây cột cao tám mét này vẫn còn nguyên vẹn cho đến cuối thế kỷ XVII và nay được trưng bày tại Bảo tàng Khảo cổ Istanbul gần đó.

[57] Justinian I (482-565) là hoàng đế Đông La Mã từ năm 527 đến khi qua đời. Ông được phong thánh bởi các tín đồ Chính Thống giáo Đông phương. Triều đại của Justinian được đánh dấu bởi tham vọng phục hồi lãnh thổ của đế quốc Tây La Mã nhưng chỉ có thể thực hiện được một phần ở Bắc Phi, khôi phục lại Dalmatia, Sicilia, Ý và Rome trở về đế quốc sau hơn một nửa thế kỷ nằm dưới sự kiểm soát của người man di. Justinian là người san định và hệ thống luật pháp La Mã. Ông đã thành lập một bộ luật được biết dưới cái tên “dân luật đại toàn” (Corpus Juris Civilis)

[58] Mehmed II (được biết là Mehmed Người Chinh phạt) (1432-1481) là vị Sultan thứ bảy của đế quốc Ottoman trong một thời gian ngắn từ năm 1444 tới tháng Chín năm 1446, và sau đó là từ tháng Hai năm 1451 tới 1481. Ở tuổi hai mươi mốt ông chinh phạt Constantinople, dẫn tới sự sụp đổ của đế quốc Đông La Mã. Mehmet tiếp tục chinh chiến ở châu Á, thống nhất lại Tiểu Á, và mở rộng lãnh thổ tới Beograd ở châu Âu.

[59] Thủy triều đỏ (red tide) là tên gọi quen thuộc chỉ hiện tượng các vi sinh vật biển, đặc biệt là các loại thực vật phù du, tập trung dày đặc gần mặt nước, khiến nước như đổi sang màu đỏ hoặc nâu. Một số trường hợp thủy triều đỏ sản sinh ra các độc tố tự nhiên, làm giảm ô xy trong nước và gây ra những tác động có hại khác. Ảnh hưởng đáng sợ nhất của hiện tượng này là khiến cho các loài cá, chim, động vật biển và những sinh vật đại dương và duyên hải khác chết hàng loạt.

[60] Nguyên văn: Orwellian dystopia, chỉ một dạng xã hội đối lập với chủ nghĩa xã hội không tưởng (utopia). Bởi vậy, xã hội “dystopia” có thể hiểu là cuộc sống như từ đáy địa ngục. Một tác phẩm tiêu biểu mô tả về xã hội này là 1984 của George Orwell. Ông là tiểu thuyết gia, nhà báo người Anh, nổi tiếng với những tác phẩm phê phán bất công xã hội, chế độ chuyến chế.

[61] Niccolò Machiavelli (1469-1527) là một nhà ngoại giao, nhà triết học chính trị, nhạc sĩ, nhà thơ, nhà soạn kịch, một trong những người sáng lập nền khoa học chính trị hiện đại. Ông được biết đến với các luận thuyết về chủ nghĩa hiện thực chính trị và chủ nghĩa cộng hòa. Ông còn là một nhân vật nổi bật của thời Phục Hưng Ý với vai trò đại pháp quan thứ hai của Cộng hòa Florence từ tháng Sáu năm 1498.
 
Ôi, tưởng bạn này đăng giới thiêu thôi chứ còn đăng cả sách thế này ai chưa đọc thì lội vào đọc trước khi ra rạp mua vé xem. :3
 
có liên quan đến mật mã da vinci không
 
GaKonKhoDai mật mã Da Vinci là 1 trong bộ ba tiểu thuyết mật mã Da Vinci, Thiên thần và ác quỷ, Biểu tượng thất truyền. Còn truyện này cùng series có nhân vật chính là giáo sư Langdon :p
 
×
Quay lại
Top