Meika
Thành viên
- Tham gia
- 26/12/2023
- Bài viết
- 57
I
XÊDA ĐẾN BUỔI CỰC THỊNH (6)
Sau một thời gian dài xem xét sở thích thường xuyên thay đổi của những người thuê nhà, nó chẳng có vẻ gì bình thường cả, những người thuê nhà ấy, kẻ sau lại lật đổ những thiết chế của kẻ trước, chẳng khác gì các triều đại vua chúa, lão tự ban cho mình một hiến chương, và lão thi hành với tất cả lòng thành kính. Như vậy, lão chẳng cần phải sửa chữa gì ráo. Bởi vì chẳng có lò sưởi nào hun khói, cầu thang đều sạch sẽ, trần nhà trắng bong, các đường chạm đầu cột sắc không chê, sàn nhà vững chắc trên dầm gỗ, nước sơn rất vừa ý, ở khóa không dùng quá ba năm, không cửa nào thiếu một miếng kính, không chỗ nào có một đường nứt, lão chỉ thấy dấu vỡ trên gạch sản nhà khi người thuê đã dọn đi, và khi nhận lại các nơi, lão phải nhờ đến giúp lão một thợ khóa, một thợ sơn lắp cửa, những người lão cho là dễ dãi. Người thuê nhà ta hồ mà sửa sang ; nhưng nếu thiếu cảnh giác mà tu bổ nhà của lão, thì đêm ngày lão nghĩ cách mời ra khỏi nhà để lão chiếm lại căn nhà vừa mới trang trí ; lão rình, lão chờ, lão thi hành từng bước cái chuỗi những thủ đoạn xấu xa. Tất cả những tinh vi của lập pháp ở Pari về khế ước cho thuê, lão biết hết. Hay kiện tụng, thích viết nguệch ngoạc, lão nháp những bức thư dịu ngọt và lễ phép cho người thuê nhà ; nhưng ở đằng sau thứ văn phong ấy, cũng như dưới gương mặt nhạt nhẽo và săn đón, thường ẩn nấp linh hồn của Sailôc. Thường lão đòi sáu tháng tiền ứng trước trừ vào hạn cuối cùng của giao ước cho thuê, và một loạt những điều kiện khó khăn mà lão bịa đặt ra. Lão xem lại thử các nơi đã đủ bàn ghế chưa rồi mới trả lời về tiền thuê. Người nào mới đến thuê nhà của lão, lão đều đưa qua bộ máy của cảnh sát điều tra, bởi vì có những tình trạng sinh sống nào đó lão không ưa, ví dụ, một cái búa dù nhẹ nhất cũng làm lão sợ chết khiếp. Rồi khi phải làm khế ước cho thuê, lão giữ tờ khế và đánh vần từng chữ một trong tám ngày, sợ cái lão gọi là những cái vân vân của chưởng khế.XÊDA ĐẾN BUỔI CỰC THỊNH (6)
Bỏ qua cái quan niệm chủ nhà đó, Giăng Bápxtit Môlinơ lại có vẻ tốt bụng, hay giúp người. Lão đánh bài mà gặp nước đánh chặn lại mình không đúng lúc cũng chẳng phàn nàn. Cái gì làm các người tư sản cười lão cũng cười, cái gì họ bàn đến lão cũng bàn, nào cách hành động độc đoán của anh hàng bánh mì có dã tâm cân lượng sai, nào chuyện cảnh sát thông đồng trong việc này việc nọ, nào chuyện mười bảy dân biểu cánh tả anh hùng. Lão đọc tập Lương tri của cha xứ Mêliê, và đi lễ nhà thờ vì không chọn được giữa thần giáo tự nhiên và Cơ đốc giáo ; nhưng lão không hề trả lại bánh thánh và đi kiện để thoát khỏi những tham lấn át của tăng lữ. Con người thỉnh nguyện không biết mệt đó, về vấn đề ấy, viết nhiều thư cho nhiều tờ báo, mà chả báo nào đăng, cũng chẳng trả lời. Tóm lại, lão giống như một anh tư sản đáng quí trọng, đêm lễ giáng sinh trịnh trọng đặt một khúc củi vào lò sưởi, chơi bài ba lá, bịa ra những chuyện lạ, đi dạo hết các đại lộ ngày tốt trời, đi xem trượt băng, và hai giờ đã ra chỗ lễ đài ở quảng trường Lu-i XV những hôm có pháo hoa, với bánh mì bỏ túi, để được chiếm chỗ ngồi hạng nhất.
Khu Batav, nơi lão già bé nhỏ này ở, là sản phẩm của một trong những vụ đầu cơ kỳ quặc mà người ta không thề cắt nghĩa được khi nó đã hoàn thành. Kiến trúc tu hành này xây bằng đá hộc, có những vòm cuốn, những hành lang bên trong, một giếng nước phun trong suốt làm cảnh. Nhưng giếng lại khô rang cứ há hốc cái mồm sư tử, không phải để phun nước ra mà đề xin nước khách qua đường. Công trình này chắc là được sáng tạo để làm cho khu Xanh Đơni có được một thứ lâu đài vương giả. Lâu đài này, thiếu vệ sinh, lại như bị chôn giữa bốn bên nhà cao, vì thế chỉ náo nhiệt ồn ào ban ngày. Đó là nơi các lối đi băng tăm tối gặp nhau rồi nối liền khu Chợ thành với khu Xanh Máctanh bằng con đường Canhcăngpoa nổi tiếng. Nhưng lối đi ấy là những đường hẻm ầm ướt, bao nhiêu người chen chúc nhau ở đó mà nhiễm bệnh đau khớp. Nhưng ban đêm không đâu ở Pari lại quạnh hiu như ở đấy, có thể nói là như một khu nhà mồ của giới đi buôn. Nhiều hố đổ rác công nghiệp, lèo tèo mấy người Batav và khá nhiều những nhà tạp hóa. Tất nhiên là các căn phòng của lâu đài thương mại này chỉ nhìn ra khu sân công cộng, bao nhiêu cửa sổ đều mở ra đó, cho nên tiền thuê nhà ở đây không đáng là bao. Lão Môlinơ ở một góc, lầu sáu. Vì lý do sức khỏe : cách mặt đất bảy mươi bộ, không khí mới có thể trong lành được. Ở đó, ông lão chủ nhà cho thuê này được thưởng thức quang cảnh mê ly của các cối xay Môngmátr trong khi bách bộ theo đường ống máng là nơi ông trồng các thứ hoa, mặc dù đã có chỉ thị của cảnh sát về các vườn treo Babilôn ngày nay. Nhà ở của lão gồm bốn gian, không kể những phòng xếp ở tầng trên. Lão đã nắm chìa khóa nên các phòng ấy là của lão, lão đã bày biện ở đấy, như vậy lão đã ở đấy hợp pháp. Bước vào nhà, quang cảnh trống trơ khiếm nhã bộc lộ ngay tính keo kiệt của chủ nhân. Trong phòng chờ, sáu chiếc ghế rơm, một bếp lò bằng sành, và trên tường căng giấy màu da chai bốn bức chạm mua ở các đám phát mại. Trong phòng ăn, hai tủ buypphê, hai lồng đầy chim, một cái bàn phủ vải tráng sáp, một áp kế, một cửa ra vào lắp kính mở ra chỗ vườn treo, và mấy chiếc ghế tựa bằng gỗ đào hoa tâm có đệm cỏ nhưng đã thủng. Phòng khách có những bức màn nhỏ bằng hàng tơ cũ màu lục, một cái bàn gỗ sơn trắng mặt lót nhung Uytơrết màu xanh lá cây. Còn buồng ngủ của lão già độc thân này lại bày biện những bàn ghế thời Lu-i XV dùng lâu quá nên không còn ra hình thù gì nữa, và ngồi lên đẩy, một người đàn bà bận đồ trắng sẽ sợ vấy bản. Trang hoàng lò sưởi là một chiếc đồng hồ treo gồm hai cột hai bên ôm chặt một khung mặt kính làm bệ cho tượng Panlát của huyền thoại đang vung ngọn giáo. Sàn nhà lổn nhổn những đĩa đồ ăn thừa dành cho mèo, ai vào cũng lo giẫm phải. Bên trên một tủ ngăn bằng gỗ huê mộc một chân dung bột màu (Môlinơ thời trẻ). Rồi là sổ, là biểu với những tấm bìa màu lục gớm ghiếc ; xác mấy con chim hoàng yến đã độn rơm cùng một chiếc gi.ường mà vẻ lạnh lẽo đáng làm gương cho một tu nữ.
Xêda Birôttô lấy làm thích thú trước lễ độ thanh nhã của Môlinơ. Ông bước vào thì lão bận bộ quần áo ngủ bằng vải có tuyết màu xám, đang trông coi chỗ sữa đặt trên bếp bằng tôn trong góc lò sưởi và chỗ rượu bã đang sôi trong cái ấm đất con màu nâu mà lão rót từ từ vào ấm pha cà phê. Để khỏi phiền đến chủ nhà của mình, ông buôn ô đi ra mở cửa cho Birôttô. Môlinơ rất tôn kính các ông thị trưởng và phụ tá thị trưởng của thành phố Pari, lão gọi họ là những quan chức thành phố. Thoáng thấy ông thẩm phán, lão đứng dậy, và tay cầm mũ lưỡi trai, lão cứ đứng mãi khi Birôttô chưa chịu ngồi xuống.
- Thưa ông, không... thưa ông, vâng.... À, thưa ông, giá tôi được vinh dự biết tôi có trong lòng những tệ xá của mình một ủy viên của chính quyền thành phố Pari, thì xin ông tin rằng tôi sẽ coi như là nhiệm vụ phải đến nhà ông, dù rằng tôi là chủ nhà hay... sắp trở thành như vậy.
Birôttô giơ tay yêu cầu lão đội mũ vào.
- Không sao, không sao, tôi chưa dám đội mũ khi ông chưa chịu ngồi và đội mũ vào nếu ông bị cảm ; trong phòng tôi có hơi lạnh, thu nhập của tôi chẳng bao nhiêu nên tôi chẳng dám... Ông sống lâu, thưa ông phụ tá.
Birôttô vừa hắt xì hơi mấy cái trong khi lục lọi các giấy tờ. Ông đưa cho lão, và để tránh mọi sự chậm trễ, không quên nói rằng các giấy má đó đều thuê ông Rôganh chưởng khế làm cho cả.
Tôi không phủ nhận sự sáng suốt của ông Rôganh, một tên tuổi quen thuộc trong giới chưởng bạ Pari ; nhưng tôi lại có những thói quen nho nhỏ của tôi, tôi làm lấy các giấy má của tôi, một thói tục tha thứ được, và chưởng khế của tôi là..
- Nhưng công việc của chúng ta hết sức đơn giản, ông nhà buôn chất thơm nói, quen với cách quyết định chóng vánh của nhà hàng.
- Hết sức đơn giản ? Môlinơ kêu lên. Chẳng có gì đơn giản trong việc thuê mướn. A, ông không phải chủ nhà, thưa ông, và như thế là ông sung sướng nhất. Giá ông biết các người thuê nhà họ vô ơn đến đâu, và biết bao nhiêu việc đề phòng mà chúng tôi buộc phải làm ! Thưa ông, đây này, tôi có một người thuê nhà...
Lão kể lề suốt mười lăm phút như thế nào mà ông Giăngđranh, thợ vẽ, lừa được người gác cổng, phố Xanh Ônôrê, rồi ông Giăngranh làm những việc xấu xa xứng đáng với một Mara, nghĩa là những bức vẽ tục tĩu mà cảnh sát lại dung thứ, bởi vì cảnh sát cũng đồng mưu mà ! Ông Giăngranh là một nghệ sĩ vô luân xấu xa nhất, ông ta lôi về những phụ nữ tung tích bất hảo, và làm cho cầu thang không đi lại được! Nói đùa như vậy là xứng đáng với một con người đi vẽ những biếm họa chống chính phủ. Hỏi vì sao lại có những hành vi bất lương như vậy ?... Chỉ vì người ta đòi tiền nhà vào ngày 15 ! Ông Giăngđranh ấy và Môlinơ tội dều đi kiện, bởi vì, không trả tiền mà ông nghệ sĩ cứ cho là mình có quyền ở trong căn nhà rỗng. Môlinơ tôi lại nhận được những thư nặc danh trong đó ông Giăngđranh nhất định là dọa ám sát, buổi tối, ở những đường quanh về khu Batav.
- Đến nỗi mà, thưa ông, lão kề tiếp, ông cảnh sát trưởng sau khi nghe tôi tâm sự về chỗ khó xử của tôi. ( tôi cũng nhân cơ hội đề nói với ông mấy lời về những chỗ thay đổi cần đưa thêm vào luật pháp có liên quan ), đã cho tôi được phép mang súng ngắn để bảo đảm an ninh cho bản thân.
Lão già bé nhỏ đứng dậy đi tìm các súng ngắn.
- Nó đây này, thưa ông, lão kêu lên.
- Nhưng, thưa ông, ông chẳng có gì phải sợ những điều như vậy ở trường hợp tôi, Birôttô vừa nói vừa nhìn Kerông và mỉm cười. Trong cái nhìn đó lại bộc lộ một niềm thương hại đối với một người như lão.
Cái nhìn ấy, lão bắt chợt được ; lão cảm thấy tổn thương khi gặp một biểu hiện như vậy ở một nhà chức trách của thành phố, đáng lý ra phải che chở cho kẻ bị trị của mình. Đối với người khác, có thể lão tha thứ, nhưng lão không tha thứ cho Birôttô.
- Thưa ông, lão nói tiếp, vẻ khô khan, một ông thẩm phán tòa án thương mại vào hàng được tín nhiệm nhất, một ông phụ tá thị trưởng, một nhà buôn phẩm giá, đời nào lại phải hạ cố tới những thứ nhỏ mọn này, bởi vì đây chỉ là những cái nhỏ mọn ! Có điều, trong loại nhỏ mọn đó, có cái việc đục thủng tường phải được chủ nhà của ông, ngài bá tước Đờ Grăngvin, đồng ý, có những khoản giao ước phải nêu ra về việc bí lại tường khi hết hạn thuê ! tiền thuê nhà thì thấp quá, nó sẽ tăng lên, quảng trường Văngđom sẽ có lợi, nó đã có lợi ! Phố Caxtigliôn sắp xây dựng ! Tôi tự buộc mình... tôi tự buộc mình...
- Xin ông chấm dứt cho, Birôttổ nói, sửng sốt, ông muốn gì ? Tôi khá hiểu công việc để đoán được rằng bao nhiều lý lẽ của ông sẽ nhường cho lý lẽ mạnh nhất, tiền ! Vậy thì ông đòi bao nhiêu ?
- Chỉ xin đúng giá thôi, thưa ông phụ tá. Ông định thuê trong bao nhiêu lâu ?
- Bảy năm, Birôttô đáp.
- Bảy năm nữa, lầu một của tôi giá trị bao nhiêu! Môlinơ kêu lên. Ai mà chẳng muốn thuê hai buồng đầy đủ tiện nghi ở khu phố đó ! Phải trên hai trăm phrăng một tháng là chắc ! Tôi tự buộc mình bằng một văn khế cho thuê. Chúng tôi phải nâng giá thuê lên một nghìn năm trăm phrăng. Với giá ấy, tôi đồng ý trừ hai buồng ấy ở tiền thuê của ông Kerông đây, lão vừa nói vừa liếc nhìn ông buôn ô một cách gian giảo, và tôi cho ông thuê bảy năm liền. Đục tường do ông chịu, với điều kiện là ông thông báo cho tôi hay ngài bá tước Đờ Grăngvin đã đồng ý và từ bỏ mọi quyền hạn của ngài. Ông sẽ chịu trách nhiệm những gì xảy ra khi đục tường, ông cũng không buộc phải khôi phục lại tường đối với tôi, ông chỉ cần đền bù cho tôi ngay từ bây giờ một khoản tiền là năm trăm phrăng : chưa biết rồi ai chết ai sống, tôi không muốn sau này phải chạy theo ai để bít lại bức tường làm gì.
- Các điều kiện đó tôi coi như gần chính đáng cả, Birôttô nói.
- Với lại, Môlinơ nói, ông tính luôn cho tôi bảy trăm năm mươi phrăng, tức thì và ngay đây(1), qui vào sáu tháng cuối, trong văn khế sẽ ghi đã trả tiền. Ồ, tôi xin nhận loại thương phiếu nhỏ, giá khoán bằng tiền thuê nhà, để tôi được bảo đảm, còn thời hạn tùy ông. Trong công việc làm ăn, tôi tròn và vắn, thưa ông. Chúng ta qui định là ông sẽ bít cái cửa dưới cầu thang cho tôi và ông không có quyền bước vào đó... ông chịu cho phí tổn... và bằng gạch. Ông yên trí, tôi không đòi khoản đền bù nào để khôi phục lại khi hết hạn thuê ; tôi coi như gộp cả trong số năm trăm phrăng. Thưa ông, ông xem, tôi luôn luôn chính đáng.
1. Trong nguyên văn là thành ngữ tiếng latinh hic et nunc.
- Nhà buôn chúng tôi lại không khó tính đến như vậy, nhà buôn chất thơm nói, khó mà làm ăn được với nhiều thủ tục như thế.
- Ồ, trong thương trường, khác hẳn đi chứ lị, nhất là trong nghề chất thơm, ở đó cái gì cũng vừa vặn như một bao tay, lão già bé nhỏ nói với một nụ cười chanh chua. Nhưng, thưa ngài, trong việc thuê mướn, ở Pari, không có gì bỏ qua được. Này, trước đây tôi có một người thuê nhà, phố Môngtoóngơi...
- Thưa ông, Birôttô nói, tôi lấy làm phiền lòng đã làm muộn bữa ăn sáng của ông. Các văn khế đây, ông chữa lại cho, tất cả những gì ông đòi tôi đều đồng ý cả. Ngày mai chúng ta ký, hôm nay chúng ta hứa miệng với nhau, vì ngày mai nhà kiến trúc của tôi phải nắm được các nơi.
- Thưa ông, Môlinơ nói tiếp, mắt nhìn vào ông buôn ô, có số tiền thuê đã đến hạn, ông Kerông không muốn trả, vậy chúng ta gộp nó vào các thương phiếu nhỏ để cho hạn của văn khế cho thuê tính từ tháng giêng này đến tháng giêng kia vậy. Như thế sẽ hợp lệ hơn.
- Đồng ý ! Birôttô nói.
- Còn phần của người gác cổng...
- Nhưng, Birôttô nói, ông tước mất cái cầu thang, rồi cả cửa đi vào, như vậy là không chính đáng...
- Ồ, ông là người đi thuê nhà, lão già bé nhỏ nói, giọng kiên quyết, ông mà vượt qua nguyên tắc, ông sẽ phải chịu thuế cửa lớn cửa con, và các thuế phần ông nữa. Khi mọi điều đều thỏa thuận, thưa ông, thì chả còn gì khó khăn nữa. Thưa ông, ông mở rộng nhà ra nhiều nhỉ ? Công việc làm ăn của ông tốt chứ ?
- Vâng, Birôttô nói. Nhưng vì một lý do khác kia. Tôi định mời họp mặt một số bạn bè để mừng lãnh thổ được giải phóng mà cũng để khao nhân dịp tôi được thưởng Bắc Đẩu bội tinh...
- À, a, Môlinơ nói, một phần thưởng rất xứng đáng !
- Vâng, Birôttô nói, có thể là do tôi đã tỏ ra xứng đáng được hưởng ân huệ đặc biệt ấy của nhà vua vì tôi đã tham gia tòa án thương mại và đã chiến đấu cho dòng họ Buốcbông ở bậc cấp Xanh Rốc ngày 13 tháng Hải Nho, nơi tôi đã bị Napôlêông bắn bị thương; những thành tích ấy...
- Là ngang với thành tích các binh sĩ dũng cảm của quân đội ngày xưa. Dải thắt của bội tinh màu đỏ, vì nó đã nhuộm trong dòng máu hy sinh.
Nghe mấy lời lấy trong tờ Hợp hiến ấy, Birôttô không ngăn nổi mình, nên mời luôn lão già bé nhỏ Môlinơ, còn lão thì rối rít cám ơn và cảm thấy sẵn sàng tha thứ cho Birôttô về thái độ khinh thường ban nãy. Lão tiễn người thuê mới của lão ra tận đầu cầu thang và làm ông ta phát mệt với lễ phép của lão.
Xuống giữa khu Batav, ông nhìn Kerông, ra vẻ khôi hài.
- Tôi không tin được trên đời lại có những con người... tàn tật đến thế! Ông vừa nói vừa giữ lại không nói ra tiếng ngu.
- Ồ, thưa ông, Kerông nói, không phải ai cũng có tài như ông.
Birôttô có thể tin mình là hạng người thượng đẳng khi đứng trước lão Môlinơ ; câu trả lời của ông buôn ô lại làm ông nở một nụ cười khoái chá và ông chào ông ta một cách hết sức cao đạo.
- Ta đang ở giữa Chợ thành. Birôttô nghĩ bụng, mua thử cái món hạt phỉ xem sao.
Sau một giờ tìm kiếm, Birôttô bị các bà hàng đẩy từ khu Chợ trở lại phố Người Lôngba, ở đó hạt phỉ được tiêu thụ để làm ra kẹo hạnh nhân. Bạn anh, gia đình Matipha, cho anh biết rằng quả phỉ khô chỉ có một nơi trữ nhiều là cửa hàng của một bà tên là Anggiêlic Mađu, nhà ở phố Peranh Gátxơlanh ; đó là nơi có hạt trăn thật xứ Prôvăng và hạt phỉ trắng chính cống vùng Anp.
Phố Peranh Gátxơlanh là một trong những đường hẻm của cái mê lâu đóng khung thật sự giữa bờ sông, phố Xanh Đơni, phố Hàng sắt và phố Tiền lẻ, và từa tựa như mớ ruột của thành phố. Chen chúc ở đây là vô số những hàng hóa linh tinh, lẫn lộn. Hàng nặng mùi và hàng đóm dáng, cá mòi và sa lượt, lụa là và mật ong, bơ và tuyn, nhất là những thứ buôn thúng bán bưng mà người ta không nghĩ lại có ở Pari cũng như người ta số đông chẳng ai nghĩ đến cái gì đang tiêu hóa trong lá lách của mình. Nhưng những thứ buôn thúng bán bưng ấy lại có kẻ hút máu là tên Biđô nào đó ; bí danh là Gigonnê, nhà chiết khấu, cư ngụ ở phố Grơnêta. Ở đây, những chuồng ngựa cũ biến thành chỗ chứa hàng tấn dầu, những nhà xe chất không biết cơ mang nào là bít tất sợi. Đó là nơi trữ các thứ hàng sẽ đem bán lẻ ngoài Chợ. Bà Maiu, trước kia buôn lại cá tươi, mười năm lại đây lại bắn sang nghề buôn quả khô, lý do là vì bà dan díu với ông chủ cũ, là người xuất vốn cho bà. Việc dan díu ấy, một thời gian dài đã cung cấp đầu đề cho các chuyện ngồi lê đôi mách của cửa Chợ. Bà Mađu lại là người có cái sắc đẹp khỏe mạnh và khiêu khích, nhưng bây giờ sự phì nộn quá đáng đã xóa mất. Bà ở tầng trệt của một ngôi nhà màu vàng đang đổ nát, nhưng ở các tầng đều có những chữ thập bằng sắt chống đỡ. Ông người tình quá cố đã làm được việc gỡ mình ra khỏi những kẻ cạnh tranh và biến việc buôn bán của mình thành một độc quyền. Mặc dù có đôi thiếu sót nhỏ do thiếu giáo dục, người phụ nữ thừa kế của ông ta có thể tiếp tục việc buôn bán theo vết cũ, quanh quẩn trong các kho hàng đặt vào chỗ những nhà xe, những chuồng ngựa, những xưởng thợ ngày xưa, nơi mà bà ta chiến đấu có kết quả với mọi loài sâu bọ. Không quầy hàng mà cũng chẳng két, chẳng sổ, vì bà có biết đọc biết viết đâu. Nhận được một cái thư, bà xem như đó là một lời chửi rủa, nên bà giơ nắm đấm để trả lời. Bình sinh bà lại là một phụ nữ tốt bụng, da dẻ đỏ thắm, đầu quàng một cái khăn phủ lên chiếc mũ nồi. Bằng một giọng nói kèn đồng, bà chiếm được cảm tình của những người đây xe ba gác để những người này chở hộ hàng hóa đến cho mình ; đối với họ, những cuộc đấu khẩu của bà chấm dứt bằng một xị chất cay. Bà cũng không thể có mắc míu nào với các nhà trồng trọt. Họ gởi đến cho bà hoa của họ, tương ứng với số tiền mặt, chỉ có cách đó là họ thỏa thuận được với nhau. Còn bà thì mùa nắng tốt bà lại đi thăm họ. Birốttô trông thấy bà hàng hoang dại này giữa mớ bao hạt phỉ, hạt dẻ và hạt hồ đào.
- Xin chào bà, bà hàng thân mến của tôi, Birôttô nói giọng nhẹ nhàng.
- Thân mến của con ! bà nói. Thế thì con ơi, con biết ta vì đã có với ta những quan hệ dễ chịu ! Có phải chúng ta đã cùng nhau canh gác những ông vua không nhỉ !
- Tôi sản xuất chất thơm, và hơn nữa, tôi là phụ tá thị trưởng ở quận nhì Pari ; với tư cách là thẩm phán, và người tiêu thụ, tôi có quyền đòi bà phải có một giọng lưỡi khác đối với tôi.
- Tôi muốn lấy chồng hồi nào tôi lấy hồi ấy, người phụ nữ tướng đàn ông nói ; tôi chẳng tiêu thụ gì ở tòa thị chính, và cũng không làm gì phiền các ông phụ tá. Còn trong thực tế, khối kẻ tôn thờ tôi, và tôi nói chuyện với họ theo ý tôi. Họ mà không bằng lòng, thì họ đi nơi khác mà chịu lừa phỉnh.
- Đó là kết quả của sự độc quyền ! Birôttô lẩm bẩm.
- Quyền ! Hắn là con đỡ đầu của tôi : có lẽ nó làm điều gì dại dột ; ông đến đây vì nó, phải không ông thảm phán ? bà nói, giọng dịu đi.
- Không, tôi xin nói với bà là tôi đến đây với tư cách là một người tiêu thụ.
- Thế thì, anh tên gì, anh con trai ? Tôi chưa bao giờ thấy anh đến đây.
- Nói cái giọng ấy, chắc bà phải bán hạt phỉ của bà giá rẻ nhỉ ? Birôttô nói, và tự giới thiệu tên họ, chức tước.
- À ! Ông là ông Birôttô nổi tiếng có bà vợ đẹp. Ông cần bao nhiêu loại quả phỉ ngọt ngào này, ông yêu quí của tôi ?
- Sáu nghìn, nặng bao nhiêu, tùy
- Tất cả chỗ tôi có là vừa đủ, bà hàng nói, giọng khàn khàn. Ông thân mến ơi, ông không ở trong số những kẻ lười biếng để làm đám cưới các cô con gái và rảy nước hoa lên người họ ! Chúa phù hộ cho ông, ông có công việc phải làm. Xin ông thứ lỗi cho ! Ông sắp trở nên một bạn hàng rất đáng tự hào, và ông sẽ được ghi tên trong trái tìm một người đàn bà mà tôi yêu nhất trên đời...
- Ai vậy ?
- Ai à ? Bà Madu thân mến.
- Quả phi của bà giá bao nhiêu?
- Đối với ông, ông tư sản ạ, hai mươi lăm phăng một trăm, nếu ông lấy tất cả.
- Hai mươi lăm phrăng, Birôttô nói, một nghìn rưỡi phrăng ! Mà ta cần có lẽ đến hàng trăm nghìn mỗi năm !
- Nhưng ông xem này, hàng tốt lắm, leo chân không mà hái đó ! Bà vừa nói vừa chọc cánh tay đỏ chót vào trong một túi đựng hạt trăn. Và chẳng có lép đâu ! thưa ông thân mến. Ông nghĩ các người buôn tạp hóa họ còn bán bốn thứ quả trộn với nhau, vả, nho, hạnh nhân, hồ đào mà đã hai mươi bốn xu một cân, và cứ bốn cân, họ trộn vào hơn một cân quả phỉ. Chẳng lẽ tôi bán lỗ đề làm vui lóng ông à ? Ông dễ thương thật, nhưng ông chưa làm tôi vui lòng đến mức ấy ! Nếu ông cần nhiều đến như vậy, người ta có thể tính cho ông theo giá hai mươi phrăng, bởi vì không lý lại để một ông phụ tá về không, điều đó sẽ đem lại tai họa cho những cặp vợ chồng mới cưới ! Xin mời ông nắn thử món hàng tốt, và nặng ! Không đến năm mươi quả một cân ! Quả đặc lắm, không sâu bọ gì hết !
- Thôi được, sáng sớm ngày mai, bà gởi đến cho tôi sáu nghìn với giá hai nghìn phrăng, thời hạn trả là chín mươi ngày, gởi đến phố Ngoại ô khu Tăngplơ, ở xưởng sản xuất của tôi.
- Xin nhanh chân như một cô dâu. Thôi nhé, chào ông thị trưởng, ông đừng giận nhé. Mà này, bà vừa theo ra đến sân vừa nói với Birôttô, nếu ông thấy không gì trở ngại, xin ông làm ơn cho tôi những thương phiếu trả trong hạn bốn mươi ngày, vì bán cho ông thế này quá rẻ, tôi không thể nào lại chịu mất thêm tiền chiết khấu nữa ! Cái nhà ông Gigonnê, ông ấy ra vẻ hiền từ, nhưng hút hết xương tủy chúng tôi chẳng khác gì con nhện nhấm nháp con ruồi.
- Vâng, hạn năm mươi ngày vậy. Nhưng cứ cân từng trăm cân, để khỏi có những hạt lép. Không như vậy thì thôi.
- À, chó má thật, hắn cũng thạo gớm, bà Madu nghĩ bụng, không thể nào qua mặt hắn được. Chắc là mấy thằng chó chết phố Người Lôngba đã mách cho hắn ! Cái bọn cá lớn ấy, chúng hùa nhau để nuốt lũ cá bé chúng mình mà.
Cá bé đến năm bộ chiều cao, và ba bộ vòng tròn ; bà giống như một trụ vôi bận quần áo vải sọc và không có thắt lưng.
Ông sản xuất chất thơm, đầu óc chìm đắm trong các tính toán của mình, vừa đi dọc theo phố Xanh Onôrê vừa nghiền ngẫm cách đánh bại dầu Macátxa. Ông nghĩ tới nghĩ lui về những cái nhãn, về hình dáng các chai lọ, cách cấu tạo cái nút, màu sắc tờ quảng cáo. Thế mà người ta bảo trong buôn bán làm gì có chất thơ ! Niutơn cũng không tính toán về cái nhị thức trứ danh của mình nhiều hơn Birôttô tính toán về tinh dầu mọc tóc của ông. Bởi vì dầu trở lại thành tinh dầu, và từ từ ngữ này ông đổi sang từ ngữ khác mà không hiểu gì giá trị của sự thay đổi. Mọi sự tính toán chen nhau trong đầu, và ông coi sự hoạt động trong trống không ấy là hành động có thực chất của tài năng. Đang suy nghĩ bận rộn như vậy, ông đi quá phố Buốcđônne nên đành phải trở lui khi nhớ đến chú mình.
Clốt Giôdép Pidơrô xưa kia là nhà buôn kim loại ở cửa hiệu Chuông vàng. Ông là một trong những con người tốt mà danh xứng với thực : ăn mặc và cư xử, trí tuệ và tâm tình, lời nói và cách nghĩ, tất cả ở ông đều như một bản nhạc hài hòa. Trong cuộc đời buôn bán của mình ông đã mất vợ rồi đứa con trai, cả anh con trai của người nấu bếp mà ông nhận làm con nuôi. Chỉ còn cô cháu gái, bà Birôttô là ruột rà duy nhất, ông tập trung tất cả tình thương vào bà và con cháu Xêdarin. Những cái tang đan đớn ấy đã đưa ông đến chủ nghĩa khắc kỷ Cơ đốc giáo, cái học thuyết tốt đẹp đã làm cho đời ông tươi tỉnh, và những ngày tàn của ông có được một màu vừa ấm vừa lạnh như màu vàng những hoàng hôn mùa đông. Đầu ông gầy và lõm, dáng khắc khổ, màu vàng và màu nâu hòa vào nhau. Trông giống hết sức hình ảnh của thời gian mà các họa sĩ hình dung ra và làm cho thông tục đi, bởi vì thói quen của cuộc đời thương nhân đã giảm đi cái vẻ to lớn và khó thương mà các họa sĩ, các nhà tạc tượng và các nhà đúc đồng hồ hay cường điệu lên. Ông Pidơrô dáng người tầm thước, lùn hơn là béo. Tạo hóa hun đúc ông thành một con người sinh ra để làm việc và sống lâu. Đôi vai ngang chứng tỏ một cốt xương vững chắc. Tính khi ông là loại khô khan, không dễ xúc động nhưng không phải không tình cảm. Người ông ít bộc lộ ra ngoài, cử chỉ ung dung, gương mặt không thay đổi nói lên điều đó. Nhưng tình cảm ở ông lại chủ yếu ẩn vào trong, ít nói năng, không ồn ào. Đôi mắt, tròng nhỏ màu lục lốm đốm những điểm đen, lại khiến người ta chú ý vì độ tinh tường không hề bị giảm. Vùng trán nhỏ, hẹp, cứng, nếp nhăn kẻ thành những đường thẳng, màu da ám vàng thời gian. Mái tóc hoa râm cắt ngắn và mịn như lông tơ. Cái miệng thanh là dấu hiệu của đức thận trọng chứ không phải của tính keo kiệt. Cái nhìn linh lợi bốc lộ một cuộc đời kiềm chế. Cuối cùng là tính trung thực, ý thức trách nhiệm, đức khiêm tốn chân thật, đều như tạo cho ông một thứ hào quang, làm cho gương mặt nổi rõ lên sự cường tráng của cơ thể. Suốt sáu mươi năm, ông đã sống cuộc đời khó khăn, thanh bạch của một người làm việc cật lực. Lịch sử đời ông từa tựa như đời của Xêda, trừ những cơ hội may mắn. Ba mươi tuổi vẫn còn làm ký lục, vốn liếng của ông đều đầu tư vào việc buôn bán ; lúc ấy, Xêda đang biến những dành dụm của mình thành thực lợi ; cuối cùng ông bị đẩy tới cảnh khó khăn tột đỉnh : bao nhiêu cuốc sắt, đồ sắt của ông đều bị trưng dụng. Tính khôn ngoan và dè dặt, biết phòng ngừa và biết suy nghĩ rành mạch đã ảnh hưởng đến phong cách làm việc. Phần lớn các công việc làm ăn của ông đều quyết định bằng miệng, nhưng chẳng mấy khi ông gặp rắc rối. Có thói quen quan sát, cũng như mọi người trầm mặc, ông nghe người khác chuyện trò mà tìm hiểu họ ; có những mối hàng rất có lợi nhưng ông từ chối ; nhiều ông láng giềng vội hứng lấy rồi về sau mới hối hận tự bảo là ông Pidơrô thế mà đã biết trước những quân ăn cắp. Ông chuộng những món lợi nhỏ và chắc hơn là những vụ táo bạo, đòi hỏi những món tiền lớn. Ông buôn những tấm sắt che lò sưởi, những rá sắt nướng thịt, những giá đỡ củi xấu xí, những chảo gang chảo sắc, những lưỡi cuốc và những dụng cụ nhà nông. Mặt hàng ít lãi này lại đòi hỏi một sự lao động quá sức. Đồng thời lại không tương xứng với công bỏ ra. Những thứ này lãi ít mà nặng nề, khó di dịch, khó tàng trữ. Vì vậy mà ông đã đóng đanh không biết bao nhiêu thùng, gói ghém không biết bao nhiều lần, dỡ và nhận không biết bao nhiêu xe. Không một sự nghiệp làm nên nào mà lương thiện, chính đảng, danh dự hơn sự nghiệp của ông. Chẳng bao giờ ông trèo cao, cũng chẳng bao giờ chạy theo sau các áp phe. Những ngày cuối cùng trong nghề, người ta thấy ông thản nhiên phì phèo cái tàu, ngồi trước cửa ra vào, nhìn người qua lại ngoài đường và trông các anh ký làm việc. Năm 1814, lúc ông rút lui, tiền của của ông trước hết nằm ở bảy mươi nghìn phrăng trong số cái mà ông đem đặt lãi và thu được năm nghìn và mấy phrăng thực lợi ; rồi đến bốn mươi nghìn phrăng trả trong thời hạn năm năm, không lãi, nó là tiền các tài sản ông đem bán cho một anh kỷ lục của mình. Ba mươi năm ròng đầu tư vào việc làm ăn của mình mỗi một trăm nghìn phrăng, ông thu hoạch chỉ bảy phần trăm của số đó, mà cuộc sống của ông lại hút đi hết nửa. Bilăng của ông là như vậy. Những người hàng xóm chả ghen ghét gì tình hình làm ăn tầm thường ấy, lại cứ khen sự khôn ngoan của ông, khen nhưng không hiểu gì. Ở góc phố Tiền lẻ và phố Xanh Ônôrê có quán cà phê Đavit, đó là nơi mấy nhà buôn già, cũng như ông Pidơrô , đến uống cà phê buổi tối. Ở đó, có khi, người ta đem câu chuyện ông nhận anh con trai của mụ nấu bếp làm con nuôi ra làm đề tài đùa cợt, nhưng đó cũng chỉ là những câu đùa cợt đối với một người được kính trọng, bởi vì ông hàng kim loại được lòng tin yêu kính mến của mọi người, điều ấy ông không tìm mà lại được : lòng tin yêu của cậu bé, ông coi là đủ cho trái tim ông. Vì vậy mà, khi cậu bé tội nghiệp kia mất, dễ có hơn vài trăm người đi theo xe tang cho đến tận nghĩa địa. Dạo ấy, ông tỏ ra rất anh hùng. Nỗi đau lòng của ông được kiềm chế cũng như ở tất cả những người có bản lĩnh mà không phô trương càng làm tăng lòng thiện cảm của cả khu phố đối với con người quí hóa ; danh từ đọc tặng Pidơrô với một giọng điệu vừa mở rộng ý nghĩa vừa làm nó thêm cao thượng. Tính thanh đạm của ổng vốn đã thành thói quen không chịu uốn mình theo các thú vui của cuộc đời nhàn hạ khi ông ra khỏi thương trường để bước vào cuộc đời nghỉ ngơi, cuộc đời nặng nề biết bao nhiêu đối với các nhà tư sản Pari. Ông tiếp tục cung cách sống của mình và làm cho tuổi già rộn rã lên bằng những xác tín chính trị, nói rõ ra là thuộc khuynh hướng cực tả. Ông là thành viên của thành phần công nhân mà Cách mạng đã nhận vào giới tư sản. Chỉ có một vết tì trong tính tình của ông là ông rất coi trọng những gì đã giành được : ông chú ý đến các quyền hạn, đến tự do, đến thành quả của Cách mạng ; ông tin rằng sự thoải mái và sự vững vàng chính trị của mình đều bị tổn hại do bàn tay người Dòng tên mà những người phái tự do tố cáo quyền hành bí mật, hoặc bị đe dọa do ý kiến mà tờ Hợp hiến gán cho một nhân vật gọi là ÔNG. Tuy vậy ông vẫn nhất quán với đời ông, với quan niệm của ông ; ông chẳng có gì hẹp hòi trong chính kiến của mình, ông chẳng bao giờ chửi bới địch thủ, ông sợ những kẻ nịnh hót, ông tin tưởng ở đạo đức của nền cộng hòa; ông tưởng Manuyen không bao giờ thái quá, đại tướng Phoi là một vĩ nhân. Cadimia Pêriê không có tham vọng. La Phaygiét một nhà tiên trị về chính trị, Cuariê đứng đắn. Cuối cùng ông cũng có những mơ tưởng tốt đẹp. Ông vẫn có đời sống gia đình. Ông đến chơi nhà ông bà Ragông, nhà cô cháu gái, nhà ông thẩm phán Pôpinô, ông Giôdep Lơba, ông bà Matipha. Riêng bản thân ông, một nghìn năm trăm phrăng là đủ cho mọi chi dùng. Thu nhập còn bao nhiêu, ông đem dùng vào việc từ thiện, hoặc mua quà tặng cô cháu gái. Hàng năm bốn lần ông mời cơm bạn bè ở hàng ăn Rôlăng, phố Rủi may và đưa đi xem hát. Ông cũng đóng vai ông già còn muốn chơi trống bỏi để cho phụ nữ có chồng rút ruột những hối phiếu trả ngay : đi chơi dã ngoại, xem biểu diễn ở Opera, di thăm núi Bôgiông. Những lúc ấy ông lấy làm sung sướng vì đã làm vui mọi người, và ông tận hưởng cái vui trong lòng kẻ khác. Bán xong các tài sản, ông không muốn rời khỏi khu phố từ lâu đã quen thuộc tính nết ông, nên thuê ở đường Buốcdonne một căn phố nhỏ ba gian ở lâu bốn, trong một ngôi nhà cũ kỹ. Nếu như nết ăn nết ở của Môlinơ in dấu trên bộ đồ gỗ kỳ lạ của lão, thì cuộc sống giản dị, trong sạch của Pidơrô cũng thể hiện ở cách xếp đặt bên trong của căn nhà với một phòng chờ, một phòng khách và một căn buồng. Nếu tính rộng hẹp thì đây gần như là nhà ở của người tu hành. Phòng chờ lát gạch men đỏ đánh bóng, chỉ có một cửa sổ treo một bức màn bằng vải chúc bâu viền đỏ, mấy chiếc ghế đào hoa tâm bọc da cừu đỏ đóng đanh mạ vàng. Trên tường căng giấy màu xanh ở liu, chưng bức tranh Hội thề người Mỹ, chân dung Bônapác trong y phục đệ nhất tổng tài, và bức tranh Trận Ôtxtéclit. Phòng khách, chắc là do người thợ thảm xếp đặt, có một bộ bàn ghế màu vàng hình hoa thi, một bức thảm ; đồ bày biện trên lò sưởi bằng đồng thau không mạ vàng ; mặt trước lò sưởi quét sơn, một chân quì đỡ một chậu hoa úp trong lồng kính, một cái bàn tròn trải thảm, trên đặt một bình đựng rượu. Đồ đạc còn mới chứng tỏ ông hàng sắt già nua cũng chịu khó hy sinh cho nếp sống thời thượng, bởi vì mấy khi ông mời mọc ai đâu. Trong buồng ngủ giản dị như buồng ngủ một tu sĩ hay một người lính già, là hai nhân vật biết đánh giá cuộc đời hơn ai hết, một cây thánh giá trên chậu nước thánh đặt trọng ô tường làm mọi người phải chú ý. Cách bày tỏ tín ngưỡng ấy ở một người cộng hòa khắc kỷ làm người ta xúc động rất sâu xa. Một bà cụ đến giúp ông việc nhà, nhưng vì có lòng kính trọng phụ nữ rất cao, ông không để cho bà cụ đánh xi giày mình mà thuê trước kỳ hạn một người thợ lau, đánh hộ. Y phục của ông giản dị và không biến đổi. Thường ông mặc một áo lễ và một quần dạy xanh, một gilê vải màu Ruăng, thắt một cà vạt trắng và mang đôi giày khá rộng ; ngày lễ, ông vận một áo vét có các bằng kim loại. Các thói quen thức giấc, ăn trưa, đi chơi, ăn tối, tham gia dạ hội, trở về nhà đều răm rắp đúng giờ đúng giấc, bởi vì cách sống điều độ khiến người ta sức khỏe và sống lâu. Chẳng bao giờ chính trị lại thành vấn đề giữa Xêda, ông bà Ragông, tu sĩ Lôrô và ông, bởi lẽ trong cái xã hội nhỏ này, họ thừa biết nhau để có thể đi đến công kích nhau trên lĩnh vực thuyết phục người khác theo mình. Cũng như cháu mình và ông bà Ragông, ông rất tin ở Rôganh. Đối với ông, người chưởng khế Pari luôn luôn là một người chân chính, một tấm gương sống của lòng trung thực. Trong vụ đất đai này, ông đã tiến hành phúc tra, và việc phúc tra đó làm cớ cho Xêda đánh đổ những linh cảm của vợ mình một cách gan dạ.