Meika
Thành viên
- Tham gia
- 26/12/2023
- Bài viết
- 55
I
XÊDA ĐẾN BUỔI CỰC THỊNH (4)
Bấy giờ Xêda bốn mươi tuổi. Công việc ở xưởng sản xuất khiến ông đã có những vết nhăn sớm, cũng như mớ tóc dài bờm xờm đã lốm đốm bạc, sức ép của cái mũ lại đã làm bóng đi một vòng tròn quanh đầu. Tóc mọc xuống tận trán, vẽ thành năm mũi nhọn, đó là dấu hiệu của một đời sống giản dị. Cặp lông mày to, rậm nhưng không dữ, vì đôi mắt màu xanh có cái nhìn trong suốt, luôn luôn thẳng thắn hòa hợp với vừng trán của người lương thiện. Sống mũi đầu gãy đuôi to, làm cho gương mặt có vẻ ngơ ngác như những kẻ lêu lổng ở Pari. Mỗi rất dày, cắm bạnh, thẳng đứng. Gương mặt đỏ thẫm, cạnh góc vuông vắn, do cách sắp xếp các nếp nhăn, do dáng chung của khuôn mặt, trông ra vẻ một anh nông dân hồn nhiên và tinh quái. Thân hình lực lưỡng, chân tay to bự, lưng bè bè, bàn chân rộng, tất cả đều bộc lộ nguồn gốc của anh nhà quê dời ra ở tỉnh. Vả, nếu cả con người mà không còn dấu vết gì của gốc tích quê mùa, thì những bàn tay thô đầy lông lá, những đốt tay mập mạp trên những ngón nhăn nheo, những móng tay to và vuông cũng đã là những bằng chứng cho nguồn gốc ấy. Trên môi là nụ cười thiện ý thường có của những thương gia khi ta bước vào nhà họ ; nhưng nụ cười buôn bán ấy ở ông vẫn là hình ảnh của một tâm lý thỏa mãn và phản ảnh một trạng thái tâm hồn hiền hậu. Công việc làm ăn đến đâu thì ông mới nghi ngờ đến đó, chứ không quá ; ngón tinh khôn của ông cũng bay biến khi ông ra đến ngưỡng cửa của Thị trường chứng khoán hay khi ông xếp cuốn sổ cái lại. Lòng hoài nghi đối với ông cũng chỉ giá trị như những hóa đơn in, một điều cần thiết cho bản thân việc bán hàng. Nét mặt trông có vẻ gì như một lòng tự tin khôi hài, một tính tự phụ pha lẫn với thực thà chất phác, làm cho người ông xem có dáng độc đáo, mặc dù tránh được cho ông khỏi giống như in cái bộ mặt tầm thường của anh tư sản Pari. Thiếu cái vẻ tự tôn và tự tín ngây thơ đối với con người mình ấy, ông sẽ có dáng oai nghiêm buộc mọi người phải kính nể. Cứ như thế, ông gần gũi với mọi người bằng cách đóng góp phần đáng cười của mình. Thói thường, lúc nói năng, ông chắp tay sau lưng. Mỗi khi thấy mình nói được lời nào lịch sự hay đặc sắc, ông hơi hơi kiễng chân rướn người lên những hai lần, rồi hạ bàn chân xuống đánh thích một cái y như để nhấn mạnh lên câu mình nói. Có lúc tranh luận đến chỗ hăng, người ta thấy ông trở mình xoay tròn một vòng rất đột ngột, rồi bước đi vài bước tựa như đi tìm những lời phản bác, sau đó trở về với đối thủ của mình trong một cử chỉ bất ngờ. Không bao giờ ông ngắt lời người khác, do đó, ông phải chịu thiệt vì thái độ quá ư lễ phép ấy, vì người khác cứ giành lấy nói và cuối cùng con người hiền lành ấy đành rời chỗ mà chẳng nói được lời nào. Từng trải nhiều những công việc buôn bán, ông có những thói quen mà đôi người đánh giá là điệu. Có thương phiếu nào không được trả, ông gởi ngay đến mô tòa, và chỉ còn lo nhận vốn, lãi và lệ phí ; mô tòa sẽ phải kiện cho đến khi anh nhà buôn kia phá sản ; bấy giờ ông chấm dứt mọi thủ tục tố tụng, chẳng ra trước hội đồng chủ nợ nào và giữ lại các chứng khoán của mình. Cách xử sự ấy, thái độ khinh bỉ kịch liệt đối với những người phá sản, ông đều học được của ông Ragông. Ông này, trải qua cuộc đời thương nghiệp của mình, cuối cùng đã nhận thấy rằng người ta mất quá nhiều thì giờ trong các việc tranh chấp, và ông cho thấy rằng số phần chia ít ỏi và mong manh mà các khế ước hòa giải đem lại, người ta có thể kiếm bù lại một cách dư dả nếu đem dùng số thì giờ mất đi vì phải đi đi, lại lại, vận động xin xỏ, và chạy theo những lý do này nọ để làm điều thiếu ngay thẳngXÊDA ĐẾN BUỔI CỰC THỊNH (4)
– Nếu người phá sản là người lương thiện và gượng dậy được, họ sẽ trả nợ anh, ông Ragông nói. Còn nếu họ rỗng túi và đúng chỉ là người khổ sở, thì quấy rầy họ làm gì ? Hắn mà là đồ ăn cắp thì anh chẳng gỡ gạc được gì đâu. Tính nghiêm khắc nổi tiếng của anh khiến người ta coi anh là một người ráo riết và bởi không thể nào điều đình được với anh nên hễ còn có sức trả, họ sẽ trả cho anh.
Có hẹn, ông đến nơi đúng giờ qui định ; nhưng mười phút sau, ông bỏ đi với một thái độ cương quyết không gì lung lay nổi. Bởi vậy, cách làm việc đúng giờ giấc của ông cũng khiến cho những kẻ thương nghị với ông phải đúng giờ giấc. Quần áo ông mặc cũng ăn khớp với cử chỉ và nét mặt. Cho có thể lực nào cũng chẳng buộc ông từ bỏ được những cà vạt bằng lụa trắng có những góc do bàn tay vợ hay con gái thêu cho, và buông thõng dưới cổ. Áo gilê bằng vải chần trắng, cài khuy vuông vắn thông xuống rất thấp đến cái bụng khá phệ, vì ông đã hơi phát phì. Ông bận quần màu xanh, mang bít tất lụa đen và đi đôi giày thắt dải mà các nơ thường bung ra. Áo lễ của ông màu xanh ôliu, luôn luôn quá rộng, và cái mũ to vành khiển ông có vẻ một anh quây cơ. Đi dự các cuộc họp tối chủ nhật, ông mặc quần chẽn bằng lụa, đi đôi giày khóa vàng và nhất định có cái gilê vuông, hai chéo mở ra để lộ phần trên của lá sen nhiều nếp gấp. Áo ngoài bằng dạ màu nâu sẫm, vạt rộng và đuôi tôm dài. Đến 1819 ông còn giữ hai dây chuyền đồng hồ đeo song song, nhưng chỉ mặc lễ phục thì mới đeo dây thứ hai.
Xêda Birôttô như thế đấy. Đúng là con người đáng trọng, mà những gì huyền bí trong sự ra đời, đã cắt mất khả năng xét đoán toàn cảnh chính trị và cuộc đời, khả năng vươn lên cao hơn trình độ xã hội của tầng lớp trung lưu. Ở tầng lớp này, trong bất cứ việc gì, người ta cũng theo những thói quen bảo thủ. Toàn bộ các ý kiến đều do người ta mách bảo, ông chỉ vận dụng không cần xem xét gì. Mù mờ nhưng tốt bụng, ít thần bí nhưng thành tín một cách sâu xa, ông có một trái tim thật trong sáng. Trong trái tim ấy chỉ sáng ngời mỗi một tình yêu, nó là ánh sáng, là động lực của đời ông. Bởi vì lòng ham thích vươn lên, số kiến thức ít ỏi ông đã thu nhận được tất cả đều xuất phát từ lòng thương yêu vợ và con gái.
Bà Xêda, năm ấy mới ba mươi bảy. Bà giống in như tượng Vệ Nữ ở Milô, đến nỗi những người biết bà đều tưởng trông thấy chân dung bà trong pho tượng xinh đẹp ấy, khi quận công Rivie gởi về. Chỉ mấy tháng mà phiền muộn đã nhanh chóng phủ vàng lên nước da màu trắng sáng ngời, đào sâu và nhuộm thâm một cách ghê gớm cái quầng đen quanh đôi mắt biếc long lanh, kiều diễm. Bà ra dáng một Thánh mẫu già nua, bởi trong bao nhiêu phai tàn, bà hãy còn giữ được một vẻ ngây thơ hiền dịu, một làn mắt trong sạch mặc dù buồn bã, và thật là không thể nào không thấy rằng bà vẫn là một phụ nữ yêu kiều, tư thế khôn ngoan và lịch thiệp. Ở hội khiêu vũ mà Xêda trù tính trong đầu óc, nhất định nhan sắc bà sẽ còn hưởng những phút chói ngời cuối cùng, được mọi người để ý.
Mọi cuộc đời đều có đỉnh cực thịnh của nó ; đó là thời mà các nguyên nhân tác động và liên hệ chính xác với kết quả. Buổi trưa của một đời, lúc mà các thế lực của sự sống cân bằng với nhau, và phát huy tất cả độ rực rỡ của mình, buổi trưa ấy không chỉ có chung cho các sinh vật hữu cơ, mà còn chung cho các đô thị, các quốc gia, các học thuyết, các thiết chế, các việc buôn bán, các cuộc kinh doanh, những cái này đều giống như những dòng họ quí tộc, những triều đại, sinh ra, lên cao rồi đổ sụp. Từ đâu mà có cái qui luật phế hưng chi phối khắt khe mọi cơ thể, mọi tổ chức trên đời này ? Bởi vì cái chết, bản thân nó, trong những thời gian thiên tại nhân họa, cũng có lúc tiến bước, lúc chậm chân, lúc bồng bột, lúc im lìm. Ngay địa cầu chúng ta có lẽ cũng là một tên lửa lâu bền hơn các tên lửa khác chút ít thôi. Lịch sử luôn nhắc lại nguyên nhân thịnh suy của mọi vật trên thế gian này, cũng có thể báo trước cho con người giờ phút phải đình chỉ mọi khả năng hoạt động của mình. Có điều chẳng kẻ chinh phục nào, chẳng diễn viên nào, chẳng phụ nữ nào, chẳng tác giả nào lắng nghe tiếng nói lành mạnh đó.
Bấy giờ Xêda Birôtô đang cho mình như ở vào lúc cực thịnh của sự nghiệp, nên lại coi giờ phút phải ngừng ấy như một điểm xuất phát mới. Ông không biết điều đó. Với lại, có quốc gia nào, vua chúa nào đã thử viết lên thành chữ nghĩa không bao giờ phai nguyên nhân của những đảo lộn quá nhiều trong lịch sử, mà biết bao dòng họ để vương, hay thương nghiệp là những tấm gương tầy liếp đâu ! Tại sao những kim tự tháp mới lại không thôi nhắc nhở được cái nguyên lý lẽ ra phải chi phối chính trị của các quốc gia cũng như của tư nhân : Khi kết quả tạo ra không còn tỉ lệ thuận, cũng không còn tương đương với nguyên nhân của nó nữa, thì sự tan rã bắt đầu. Những lâu đài như vậy ở đâu mà không có. Truyền thống và đất đá kể lể với chúng ta về quá khứ, xác nhận cho chúng ta những chuyện vô thường của mệnh số bất trị, và chính bàn tay của số mệnh xóa đi mọi mơ tưởng của chúng ta, chứng minh cho chúng ta rằng những biến cố lớn lao nhất của lịch sử chỉ tóm lại có một ý. Tơroa và Napôlêông chỉ là những sử thi. Mong rằng câu chuyện này đây cũng là sử thi về những thăng trầm tư sản mà chẳng tiếng nói nào nghĩ đến, bởi nó có vẻ gì lớn lao đâu, trong khi thật sự nó cũng to rộng không kém. Đây không phải là vấn đề một con người, mà là của một quần chúng đau khổ.
Vừa thiu thiu ngủ, Xêda sợ ngày mai vợ mình lại có những ý kiến phản bác không sao cãi được, ông lập tâm phải thức dậy thật sớm để giải quyết cho xong tất cả. Tinh mơ, ông lặng lẽ trở dậy, để vợ ngủ yên trong gi.ường, nhanh nhẹn mặc quần áo và bước xuống nhà hàng vừa lúc anh trông hàng đang cất đi các ván cửa đánh số. Thấy chung quanh chẳng có ai, Birôttô chờ các người kỷ lục thức dậy, bước ra đứng chỗ cửa ra vào, xem xét thử cậu bé lao công, cậu Raghê, làm nhiệm vụ mình ra sao, – Birôttô đã từng quen làm việc ấy ! Thời tiết rét, mặc dù vậy, trời rất đẹp.
– Pôpinô, đi đội mũ, mang giày vào, gọi Xêlêxtanh xuống đây, hai chúng ta sẽ đi Tuylơri nói chuyện chơi, vừa trông thấy Angxem trên gác xuống, ông nói.
– Popinô thật xứng là một con người trái ngược hẳn với Tidê. Một sự may mắn khiến người ta nghĩ là có trời phật gì ở trong, đã đưa hắn đến bên cạnh Xêda. Trong câu chuyện này hắn đóng một vai trò khá quan trọng, đến mức phải vẽ chân dung hắn ra đây. Bà Ragông vốn là con gái họ Pôpinô. Bà có hai anh em trai. Người em út trong gia đình, hồi này đang làm thẩm phán dự khuyết ở tòa sơ thẩm tỉnh Xen. Người anh cả đi vào nghề buôn len sống, ăn hết vốn rồi qua đời, để lại cho ông bà Ragông và người em thẩm phán không con, đứa con trai độc nhất mồ côi mẹ ngay từ lúc lọt lòng. Để cháu mình có chút địa vị, bà Ragông đưa nó vào cửa hiệu chất thơm, hy vọng nó sẽ thừa kế Birôttô. Angxem Pôpinô nhỏ con và một chân co rút, cái tật mà Bairơn, Oantơ Xcốt, Đơ Talerăng ngẫu nhiên đều mắc phải, nói thế để khỏi nản lòng những kẻ cùng mang tật ấy. Da mặt hắn màu sáng rỡ, đầy những vết nâu là những dấu hiệu phân biệt những người tóc đỏ, nhưng vùng trán trong suốt, cặp mắt mã não có vân xam xám, cái miệng xinh tươi, nước da trắng muốt, và vẻ dễ ưa của tuổi trẻ thơ ngây, dáng rụt rè do chân cẳng không bình thường, tất cả đều gợi lên những tình cảm chở che, có lợi cho hắn : thói thường người ta hay thương kẻ hèn yếu. Trái lại, hắn cũng có cái khiến người ta để ý. Anh nhỏ Pôpinô, mọi người gọi hắn như thế, thuộc dòng dõi một gia đình bản chất mộ đạo. Trong gia đình này, đạo đức đi liền với sáng suốt, nếp sống lại khiêm tốn và đầy hành vi từ thiện. Bởi vậy, thuở bé ở với ông chú thẩm phán, dường như hắn đã tập họp được bao nhiêu đức tốt làm cho tuổi trẻ càng đẹp tươi : hắn vừa ngoan, vừa dễ mến, hơi cả thẹn một chút, nhưng rất hăng say, hiền như cừu non, mà lại dũng cảm trong công việc, trung thành, giản dị, nghĩa là hắn có đủ tất cả những đức tính tốt lành của một tín đồ Thiên chúa buổi sơ khai của Nhà thờ. Nghe nói đi chơi Tuylơri, một đề nghị vào loại kỳ quặc nhất vào giờ này ở ông chủ oai nghiêm của mình, Pôpinô tưởng ông muốn bàn về chuyện xây dựng. Anh ký lục bỗng nghĩ đến Xêdarin, cô nữ hoàng hoa hồng thực sự, cái biển sống của cửa hiệu, mà hắn đã đem lòng yêu ngay từ lúc bước vào cửa hàng Birôttô, trước Tidê hai tháng. Hắn bắt buộc phải dừng nghỉ khi leo lên thang gác ; tim hắn như dãn ra quá to, huyết quản đập mạnh dữ dội. Không bao lâu hắn trở xuống, theo sau là Xêlextanh, người trưởng ký. Angxem và chủ mình bước đi lặng lẽ về phía Tuylơri. Bây giờ Pôpinô đã hai mươi mốt tuổi, tuổi ấy Birôttô lấy vợ. Angxem không thấy trở ngại nào trong hôn nhân của mình với Xêdarin, dù rằng cảnh giàu có của nhà buôn chất thơm với nhan sắc của cô con gái ông ta là những chướng ngại lớn lao cho sự thành tựu của những ý nguyện quá ư tham lam. Có điều, tình yêu có lối đi bằng cánh tay của hy vọng, và cánh bay càng cuồng ngông bao nhiêu, tình yêu lại càng tin tưởng bấy nhiêu. Cho nên, tình nhân càng xa, h.am m.uốn càng nóng bỏng. Sung sướng thay chàng trai ấy ! Vào thời mà mọi sự đều san bằng, tất cả các mũ nón đều giống nhau, hắn lại tạo ra được những quãng cách giữa cô gái một nhà buôn chất thơm với bản thân hắn, con cháu của một cố gia Pari! Mặc dù hoài nghi, lo lắng, hắn vẫn sung sướng : ngày nào hắn cũng ăn cơm bên cạnh Xêdarin ! Rồi thì, chăm chú vào công việc của nhà hàng, hắn làm việc bền bỉ, nhiệt tình, quên hết mọi đắng cay ; lao động nhân danh Xêdarin, có bao giờ thấy mệt ! Ở một chàng trai hai mươi tuổi, tình yêu được nuôi dưỡng bằng tận tụy.
– Cậu ấy sẽ là một thương gia, Xêda nói về hắn với bà Ragông, cậu ấy sẽ làm nên. Xêda vừa nói vừa ca tụng hoạt động của Angxem ở các kho xếp của xưởng sản xuất, vừa khen ngợi hắn có khả năng hiểu được những tinh vi của nghệ thuật, vừa nhắc lại sự vất vả của công việc hắn làm những thời gian phải gởi hàng nhiều : áo xắn lên, tay để trần, anh chàng thọt đóng gói một mình mà được nhiều kiện hàng hơn tất cả các anh kỷ lục khác.
Kỳ vọng của Alécdăngđr Crôtta, luật sinh thứ nhất của Rôganh, những kỳ vọng ai cũng biết và cũng được đương sự nói ra, cơ nghiệp bổ nó, một nông dân giàu xứ Bri, cả hai đều là những chướng ngại trên đường chiến thắng của anh chàng mồ côi ; nhưng những khó khăn ấy chưa phải là những cái gay go nhất phải vượt qua : hắn còn giấu kín trong đáy lòng những điều bí mật đáng buồn, làm cho quãng cách giữa hắn và Xêdarin càng tăng thêm. Cơ nghiệp gia đình Ragông mà hắn mong có thể nhờ cậy, nay đã lâm nguy ; anh chàng mồ côi đang có cái hạnh phúc giúp đỡ cho gia đình sống được bằng đồng lương ít ỏi của mình. Mặc dù vậy, hắn vẫn tin ở thắng lợi ! Nhiều lần hắn đã bắt gặp Xêdarin nhìn hắn với cặp mắt lộ rõ kiêu hãnh ; trong đáy mắt biếc xanh của nàng, hắn đã đoán già được một ý nghĩ thầm kín khiến lòng hắn tràn đầy bao hy vọng vỗ về. Bây giờ thâm tâm hắn đang xao xuyến ước mong ; hắn bước đi, lặng lẽ, run run xúc động, cũng như mọi trái tim non trẻ khác trong trường hợp này.
– Pôpinô này, ông chủ hỏi, cô anh khỏe chứ ?
– Thưa ông, vâng.
– Thế mà ít hôm nay trông bà ấy có vẻ ưu tư ; có điều gì trục trặc trong nhà chăng ? Này, anh bạn, đừng có mà làm ra vẻ bí mật đối với tôi nhé ; đã hai mươi lăm năm nay tôi quen biết chú anh, tôi hầu như là người trong nhà rồi còn gì. Hồi ở quê lên, vào nhà chú anh, là tôi còn mang giày đanh to bự đó. Quê tôi gọi là Nữ thủ quỹ nhưng vốn liếng của tôi, tất cả chỉ có một đồng lui vàng mà bà cụ đỡ đầu tôi, cố nữ hầu tước Uyxen, họ với ngài quận công và phu nhân quận công Lơnông của, những vị này đều ở trong số khách hàng của chúng ta. Vì thế mà chủ nhật nào tôi cũng cầu nguyện cho bà và cho toàn thể gia đình bà ; tôi cũng gởi về Tuaren cho cô cháu gái bà, cô Đơ Moócxốp, tất cả chỗ chất thơm cô ấy cần dùng. Cũng nhờ các vị ấy mà tôi luôn luôn có thêm những khách hàng, ví như ông Đơ Văngđơnétx mua của chúng ta hàng năm những một nghìn hai trăm phrăng. Biết ơn biết nghĩa không phải chỉ có tấm lòng, biết ơn biết nghĩa là phải tính toán : nhưng tôi chỉ muốn điều hay cho anh, không ẩn ý gì và chỉ vì anh.
– Ồ, thưa ông, nếu ông cho phép thì tôi xin thưa là ông có những ý nghĩ cao cả.
– Không, anh bạn nhỏ ạ, không, như thế chẳng đủ gì đâu. Tôi không nói là đầu óc tôi thua kém gì kẻ khác, nhưng tôi trung thực, cứng cổ một chút ! Tôi cũng có đời sống đứng đắn, xưa nay tôi chỉ biết yêu có nhà tôi. Tình yêu là một vật chuyên tải lợi hại, đó là một từ rất đắt mà ông Đơ Vilen đã dùng hôm qua trên diễn đàn.
– Tình yêu ! Popinô nói. Ôi ! thưa ông, hay là...?
– Này, này, trông ông Rôganh kia kìa, ông ấy đang đi bộ qua đầu quảng trường Lu-i XV, mà mới có tám giờ. Không biết ông cụ làm gì ở đấy nhỉ ? Xêda lầm bầm một mình, quên khuấy cả Pôpinô lẫn dầu phỉ.
Những giả thiết của vợ anh liền hiện ra trong trí nhớ, và đáng lẽ đi vào vườn Tuylơri, anh lại tới gặp ông chưởng khế. Angxem theo sau chủ mình, cách xa một quãng, trong bụng không hiểu sao ông chủ bỗng dưng lại quan tâm đến một việc bề ngoài ít quan trọng đến như thế, nhưng cũng rất sung sướng với những nỗi khuyến khích qua lời nói của ông về đôi giày đanh, đồng lu-i vàng và tình yêu.
Ông Rôganh, một con người cao to, mặt đầy mụn, trán hói, tóc đen, ngày xưa chắc mặt mày cũng không đến nỗi ; có thời ông đã trẻ trung và táo bạo, bởi vì, từ một anh luật sinh nhỏ nhoi ông đã trở thành chưởng khế ; nhưng lúc này, dưới mắt người thạo quan sát, nét mặt trống đã có những co kéo, mệt mỏi của những thú vui săn tìm. Một khi con người lặn ngụp trong vũng bùn của mọi thái quá, thì khó mà mặt mày lại không có chỗ nào vấy bẩn. Bởi vậy, đường viền của nếp nhăn, hơi nóng của da mặt đều không vẻ gì cao nhã. Thay vào chất ánh sáng trong veo cháy rực trong thớ thịt của người đàn ông quả dục và in vào đó vẻ đẹp tươi của sức khỏe, lại thấy ở ông ta chất ô trọc của một dòng máu kích thích bởi những cố gắng mà cơ thể không sao kham nổi. Mũi hếch lên một cách thô lỗ, giống như những người mà nội dịch theo đường sống mũi sinh ra một cái tật thầm kín người ngoài khó biết. Tật ấy, một bà hoàng hậu đức hạnh của nước Pháp tưởng lầm một cách ngây thơ nó là một tai họa chung cho cả giống nòi, bởi lẽ bà chẳng đến gần một người đàn ông nào khác là nhà vua đủ để nhận ra rằng mình đã sai lầm. Ông ta nghĩ có thể che giấu chỗ bất tiện của mình bằng cách hít nhiều thuốc lá; nhưng như thể lại tăng thêm những bất tiện ấy, và đó là nguyễn nhân chính làm ông khổ sở. Phải chăng cứ ỉm đi một đôi khởi nhân thật sự của những biến thiên thường do bệnh tật sinh ra ở con người, và luôn luôn miêu tả họ với những sắc màu giả dối, đó là một thói nịnh hót xã hội hình như đã quá kéo dài ? Bệnh tật của cơ thể, nhận định từ góc độ những tàn phá tinh thần, hay xem xét qua ảnh hưởng đến cơ chế của cuộc sống, có lẽ cho đến nay vẫn chưa hề được các nhà sử học phong tục quan tâm nghiên cứu. Bà Xêda quả đã đoán đúng bí mật của gia đình ông.
Ngay đêm tân hôn, cô gái kiều diễm con một của ông chủ ngân hàng Sơvren đã thấy có một niềm ác cảm không sao vượt qua nổi đối với ông chưởng khế tội nghiệp, và muốn lập tức xin ly dị. Được cô vợ có món tiền đến năm mươi vạn phrăng, chưa kể những hy vọng khác, ông ta quá sung sướng, nên đã năn nỉ vợ đừng đề khởi một vụ kiện ly dị, với điều kiện ông để cho vợ được tự do và ông gánh chịu mọi hậu quả của một điều ước như vậy. Bà Rôganh trở thành một bà chủ vô thượng, cư xử với chồng như một gái giang hồ đối với người yêu cũ. Không bao lâu ông ta nhận thấy bà vợ quá đắt, và cũng như nhiều ông chồng ở Pari, ông có một tổ ấm riêng ngoài phố. Ban đầu, tiêu pha có hạn độ hợp lý, việc này cũng chưa tốn là bao.
Đầu tiên, ông ta chẳng tốn bao nhiêu mà gặp được những cô gái lao động lẳng lơ, rất thích thú được ông che chở, nhưng ba năm lại đây, ông như bị một trong những đam mê bất trị cắn rứt. Những đam mê ấy chiếm lấy con người trong quãng từ năm mươi đến sáu mươi tuổi. Một trong những sắc đẹp lộng lẫy của thời đại, lừng danh trong lịch sử giang hồ với cái tên đùa là cô ả Hà Lan xinh đẹp, sẽ xác nhận điều đó. Ả này sắp rơi trở vào cái vực thẳm ở đó cái chết sẽ làm ả rạng danh. Trước kia, một khách hàng của ông mang ả từ Bruygiơ sang Pari, rồi vì tình hình chính trị phải ra đi, người ấy đem tặng ông vào năm 1815. Ông tậu cho ả một ngôi nhà nho nhỏ ở Săng Elidê, trang bị rất sang, và chạy theo thỏa mãn các thử thị hiếu bất thường khá đắt tiền mà lại khá dồi dào của ả làm cho tài sản của ông chóng cạn.
Vẻ tối sầm in trên nét mặt ông, mỗi lần thấy có khách hàng lại tan ngay. Nó liên quan đến những sự việc thần diệu trong đó ẩn giấu cái bí quyết phất lên rất nhanh của Tidê. Hôm chủ nhật đầu tiên, hồi còn ở cửa hàng chủ mình, hắn quan sát được vị trí của hai vợ chồng Rôganh trong mối quan hệ với nhau, là hắn đổi ngay kế hoạch đã vạch sẵn. Hắn đến đó để quyến rũ bà Xêda thì ít mà mong được lấy Xêdarin thì nhiều hơn. Và hắn càng dễ dàng từ chối cuộc hôn nhân ấy khi tưởng Xêda giàu, té ra lại nghèo. Hắn do thám ông chưởng khế, len vào chỗ tin cậy của ông. Hắn được đưa đến giới thiệu với ả Hà Lan xinh đẹp, hắn nghiên cứu xem ả ăn ở với Rôganh như thế nào, và biết được rằng ả đang dọa tẩy chay người yêu nếu ông này cắt xén điệu sống sang trọng của ả. Ả thuộc vào loại phụ nữ cuồng ngông, chẳng bao giờ quan tâm đến việc từ đâu mà có tiền và có được bằng cách nào, cho nên ả có thể mở hội vui với tiền của một tên giết bố. Sống hôm nay ả không hề nghĩ đến ngày mai. Với ả, tương lai là sau bữa cơm, và đến cuối tháng tương lai lại chính là vĩnh viễn, khi ả có những đơn thanh toán phải trả. Hắn lấy làm thích thú được gặp cơ hội này, nên bắt đầu, hắn thuyết phục ả Hà Lan xinh đẹp đồng ý yêu ông Pôganh với giá ba vạn chứ không phải năm vạn phrăng một năm như trước nữa. Công ơn giúp đỡ này, ông già si tình chẳng khi nào quên được.
Cuối cùng, sau một bữa cơm chiều say khướt, Rôganh thú thật với Tidê tình hình khủng hoảng về tiền nong của mình. Bất động sản của ông, bà vợ đã đem cầm cố hợp pháp cả. Đề nuôi cô ả, ông đành phải lấy trong số tiền của các khách hàng một số lớn hơn nửa số thu nhập của ông. Nửa kia mà ăn hết, con người xấu số ấy sẽ tự nổ súng vào đầu mình, vì ông nghĩ như vậy sẽ buộc mọi người thương hại và do đó sẽ giảm bớt đi dư luận ghê tởm trước một vụ phá sản. Tidê vụt thấy một cơ hội làm giàu chắc chắn chói rực lên như ánh chớp trong đêm tối của cơn say. Hãn khuyên Rôganh yên tâm, thề thốt trung thành với ông và vẽ cho ông hãy cứ bắn chỉ thiên. Hắn bảo:
– Đã liều thì một người tầm cỡ như ông không nên xử sự như một thằng ngốc, lần mò từng bước, mà phải hành động can trường.
Hắn khuyên ông ngay từ bây giờ nên lấy một món tiền lớn giao cho hắn để đánh bạo đem đặt vào một ván bài nào đó ở Thị trường chứng khoán hay ở một vụ đầu cơ chọn trong trăm nghìn vụ đang tiến hành bấy giờ. Nếu canh bạc ăn được, riêng hai người sẽ sáng lập một ngân hàng để lợi dụng các khoản tồn trữ, mà tiền lời sẽ dùng để trang trải món nợ tình. Còn ví thử số phận không may thì Rôganh sẽ ra sống nước ngoài chứ không phải tự sát, bởi lẽ Tidê của ông sẽ trung thành với ông đến đồng xu cuối cùng. Thật là một sợi dây vừa tầm tay đối với người sắp chết đuối, và Rôganh chẳng hề thấy tên ký lục bán chất thơm đang quàng nó vào cổ mình.
Nắm được bí mật của Rôganh, Tidê liền lợi dụng để thiết lập quyền hành của mình đối với bà vợ ông ta, đổi với ả nhân tình, và cả đối với ông ta. Được hắn báo cho biết về một tai biến mà bà ta khó lòng ngờ đến, bà Rôganh tiếp nhận sự ân cần của hắn, vào lúc hắn vừa ra khỏi cửa hàng chất thơm và tin chắc ở tương lai mình. Cũng chẳng khó khăn gì mà hắn không thuyết phục được ả nhân tình chịu khó bỏ ra một số tiền để mãi mãi khỏi phải tính đến việc buôn phấn bán hương, nếu như có điều không may xảy đến với mình. Bà vợ thu xếp công việc làm ăn, nhanh chóng tập hợp được một số vốn nho nhỏ, đưa cho con người chồng bà tin cậy, bởi vì ông chưởng khế trước đó đã đưa cho tên đồng mưu mười vạn phrăng. Đến gần với người đàn bà xinh đẹp này, cốt để biến cảm tình của bà ta thành tình cảm thân thương, hắn đã làm cho bà sinh lòng đắm say dữ dội. Ba người xuất vốn thì hắn nghiễm nhiên trở thành một cổ phần. Ấy mà, chưa vừa lòng với cổ phần ấy, hắn còn cả gan đem vốn đó ăn thua ở Thị trường chứng khoán, bằng cách thỏa thuận với một đối thủ phải đền hắn số tiền lỗ giả thiết, bởi lẽ hắn chơi giùm cho khách hàng và cho cả bản thân. Vừa có được năm vặn phrăng, hắn chắc mẩm sẽ làm giàu to. Hắn đem cái nhìn phượng hoàng, đặc trưng của hắn, để soi vào các pha mà nước Pháp đang trải qua : hắn đầu cơ sự sụt giá trong chiến dịch trên đất Pháp, rồi đầu cơ sự lên giá lúc họ Buốcbông trở về. Hai tháng sau khi Lu-i XVIII hồi loan, bà Rôganh có được hai mươi vạn phrăng và Tidê mười vạn êqui. Phần ông chưởng khế, ông coi anh chàng thanh niên này là một thiên thần, và ông đã lấy lại được thế cân bằng trong công việc làm ăn của mình. Cô Hà Lan xinh đẹp phung phí hết tiền và đang là miếng mồi của một tên thổ tả dơ dáy, xưa kia là thị đồng của hoàng đế, gọi là Maxim Đo Tơray. Tidê phát hiện được tên thật của ả khi cùng làm giấy tờ với ả. Tên ả là Xara Gôpxéc. Ngạc nhiên thấy ả trùng tên với một lão cho vay nặng lãi hắn từng nghe tiếng, hắn chạy đến nhà chiết khấu già ấy, đấng cứu thế của con cháu các thế gia bấy giờ, để tìm hiểu tiếng tăm của cô bà con kia có thể ảnh hưởng đến ông ta mức nào.
Ông vua cho vay nặng lãi đối với cô cháu gái mình rõ là quyết liệt. Nhưng Tidê lại biết làm vui lòng ông ta bằng cách đứng ra tự nhận là nhà băng của Xara, và đang có nhiều vốn muốn sử dụng. Bản chất Noócmăng và bản chất cho vay nặng lãi, hai đằng liền thỏa thuận với nhau. Lúc ấy, Gôpxéc đang cần một người trẻ trung, lanh lợi đề trông coi một công việc ở nước ngoài. Một anh bồi tịch ở viện tham chính thấy họ Buốcbông kéo về đột ngột, muốn kiếm chút ân sủng, liền nảy ra ý sang Đức mua lại chứng phiếu của các món nợ mà các vương hầu đã vay trong thời gian xuất ngoại. Áp phe này đối với anh ta chỉ có ý nghĩa thuần túy chính trị, nên anh ta nhường số lãi lại cho những ai chịu cấp cho anh ta số vốn cần thiết. Lão cho vay nặng lãi chỉ muốn lòi tiền ra lần lần, mua số nợ đến đâu thì xuất đến đó và muốn có một đại diện tinh để xem xét kỹ lưỡng. Bọn cho vay nặng lãi có bao giờ tin ai ; chúng đòi phải có cái bảo đảm ; đối với bọn chúng, cơ hội là tất cả : từ chỗ lạnh như tiền khi chúng chẳng cần ai, chúng trở nên mềm mỏng và sẵn sàng tỏ ra từ thiện lúc cảm thấy có lợi cho mình. Tidê biết rõ vai trò to lớn, ngấm ngầm ở quảng trường Pari của bọn Vecbruyx và Gigônê, những tay chiết khấu thương mại các phố Xanh Đơni và Xanh Máctanh, của Panma chủ ngân hàng ở ngoại ô Póatxonniê, bọn này hầu như luôn luôn ăn cánh với Gôpxéc. Hắn đề nghị được chung một số tiền và được chia lãi, đồng thời đòi các ngài ấy sử dụng trong việc buôn bán của mình những món tiền hắn đem gởi cho các ngài : làm như thế hắn chuẩn bị cho hắn những chỗ dựa. Hầu cùng ông Clêmăng Sácđanh đê Luypô đi một chuyến sang Đức đúng trong thời kỳ Bách nhật và trở về vào thời gian cuộc Phục tích lần thứ hai. Hắn không giàu có thêm nhưng đã tăng thêm những nhân tố có thể làm nên giàu có. Những bí quyết của bọn tính toán sừng sỏ nhất ở Pari, hắn đều thâm nhập được. Hắn cũng đã chinh phục được lòng thân ái của người dùng hắn làm giám thị, bởi vì với tất cả mưu mẹo tài tình hắn đã lột trần cho lão ta thấy mọi thẩm cấp và sự phán quyết của giới chính trị cấp cao. Tidê thuộc loại người nghe chưa hết lời đã hiểu, và chuyển đi đã làm hắn trưởng thành một cách trọn vẹn. Trở về, hắn thấy bà Rôganh vẫn một lòng trung thành. Còn ông chưởng khế thì ông chờ hắn ta đến nóng gan nóng ruột không khác gì bà vợ. Riêng ả Hà Lan thì ả đã làm hắn rỗng túi một lần nữa. Hắn tra hỏi ả Hà Lan xinh đẹp thì không tìm thấy lại một khoản chi phí nào ngang với những số tiền đã tiêu tán. Hắn phát hiện ra điều bị mật mà Xara Gốpxéc giấu hắn một cách kỹ càng, đó là chuyện ả say mê Maxim Đơ Tơray. Tên này là người thể nào thì những bước đầu trong cuộc đời hư hỏng, trác táng đã báo hiệu rõ ràng : đó là một thứ vô lại trong chính giới rất cần thiết cho bất kỳ chính quyền tốt đẹp nào, mà cờ bạc lại càng làm cho lòng tham không sao thoả mãn nổi. Phát hiện ra điều này, Tidê mới hiền lòng chai đá của Gôpxéc đối với cô cháu gái của lão. Trong tình hình như vậy, ngân hàng gia Tidê — vì hắn đã trở thành ngân hàng gia—tham mưu mạnh bạo cho ông Rôganh là nên tích cốc phòng cơ, bằng cách lôi cuốn những khách hàng giàu có nhất của mình vào một áp phe, nhờ đó ông có thể để dành cho phần mình những món tiền lớn trong trường hợp nếu ông buộc phải tuyên bố phá sản khi bắt đầu trở lại việc đầu cơ công phiếu ở ngân hàng. Sau những chuyến lên giá, sụt giá, mà chỉ có Tidê và Rôganh được lợi, ông chưởng khể cảm thấy giờ khuynh bại của mình đã điểm. Cơn hấp hối của ông liền được anh bạn tốt nhất khai thác. Hắn bịa ra vụ đầu cơ liên quan đến đất đai chung quanh vùng Madelen. Dĩ nhiên, mười vạn phrăng Xêda Birôttô đặt ở Rôganh, trong khi chờ đợi được đem đặt lãi đều được trao lại cho hắn. Trong bụng muốn làm hại Xêda, hắn giảng giải cho Rôganh hiểu là ông ta sẽ ít gặp nguy hiểm hơn khi ông đánh bẫy những bạn thân của mình.
– Bạn bè, hắn bảo, dù đến nước nổi giận cũng còn giữ được chút dè dặt, nể nang.
Ngày nay ít người biết thời ấy một thước đất chung quanh vùng Mađơlen giá chẳng bao nhiêu, nhưng đất đai ấy nhất định sắp đem bán cao hơn giá tạm thời hồi đó, bởi vì người mua bắt buộc phải đi tìm các chủ điền và những người này chắc chắn phải lợi dụng thời cơ. Có điều Tidê chỉ muốn với tay là vơ được đồng lời mà không chịu thiệt trong một cuộc đầu cơ dài hạn. Nói một cách khác, kế hoạch của hắn là bóp chết ngay áp phe để chiếm lấy cái thây ma mà hắn biết có thể làm cho sống lại. Trong trường hợp như vậy, những Gôpxéc, những Panma, những Vecbruýt và Gigonnê thường chìa tay giúp đỡ lẫn nhau ; nhưng Tidê thì không đủ thân với họ để nhờ họ tương trợ. Với lại, mặc dù chính hắn điều khiển áp phe, hắn những muốn giấu kín bàn tay đề hắn có thể tóm thu những món lợi ăn cắp mà không chút hổ thẹn. Hẳn cảm thấy cần có một loại người giả sống thật mà ngôn ngữ buôn gọi là người rơm. Người ấy sẽ giả thiết là người đầu cơ ở Thị trường chứng khoán, và hắn xem là thích hợp để trở thành một linh hồn đày ải trong tay hắn. Và như vậy hắn đã kinh doanh trên mảnh đất uy quyền của Chúa bằng cách sáng tạo ra một con người. Từ một anh ký chào hàng cũ không phương tiện cũng chẳng năng lực gì trừ năng lực dông dài đủ thứ chuyện trên đời để không nói một cái gì cả, một đồng một chữ cũng không có, nhưng lại có thể lĩnh hội được một vai trò, và thủ vai ấy mà không làm hại gì đến toàn vở, lại có đầu óc danh dự hiếm có nhất, nghĩa là có khả năng giữ kín một bí mật và riêng mình chịu mất danh dự để có lợi cho đồng lõa, Tidê đã biến anh ta thành một chủ ngân hàng đang dựng lên và điều khiển những cuộc kinh doanh lớn nhất, chủ nhân của hãng Claparông. Số kiếp của Sáclơ Claparông là một ngày kia phải giao mình cho chủ cho vay lãi và cho bọn giả đạo đức, ví thử những áp phe mà Tidê tung ra đòi hỏi một vụ phá sản. Claparông biết rõ điều đó. Nhưng với một anh kiết xác đang bước buồn rầu trên các đại lộ, mà tương lai chỉ nằm vẻn vẹn trong bốn mươi xu dính túi khi ông bạn Tidê bắt gặp trên đường, thì những phần cỏn con mà xong một áp phe người ta thường vứt ra cho, đã là một kho vàng. Vì vậy, tình bạn rồi lòng trung thành đối với Tidê, cả hai được tăng cường bằng một sự biết ơn chẳng cần suy nghĩ gì, lại được kích thích thêm do những nhu cầu của một cuộc sống phóng đãng thất thường, tất cả đều khiến anh ta, trước mọi vấn đề, chỉ còn biết nói « a-men ». Tiếp theo, sau khi bán rẻ danh dự, anh ta lại thấy hắn gan liều một cách vô cùng thận trọng khiến anh ta cuối cùng phải gắn bó với hắn như con chó gắn chặt với ông chủ. Claparông là một con chó xù khá xấu xí, nhưng luôn luôn sẵn sàng hy sinh anh dũng. Trong âm mưu hiện giờ, anh ta phải đại diện cho nửa số người mua đất, giống như Xêda Birôttô đại diện cho nửa số người kia. Giá khoán mà Claparông nhận của Birôttô, sẽ đem chiết khấu nơi một nhà cho vay nặng lãi mà Tidê có thể mượn tên, để hất Birốttô xuống vực thẳm của một phá sản, khi Rôganh chiếm lấy số tiền được chia của Birôttô. Bọn quản tài phá sản sẽ hành động theo sự gợi ý của Tidê. Còn Tidê, trong tay nắm số tiền của của ông nhà buôn chất thơm, cả tiền của người đứng ra cho hắn vay nhưng lại mang nhiều tên khác nhau, hắn sẽ cho bán hóa giá các đất đai để hắn lại mua với giá chỉ bằng nửa, và trả bằng nửa số tiền được chia của Rôganh cộng với số phần chia trong vụ phá sản. Ông chưởng khế nhúng tay vào kế hoạch đó và tin rằng sẽ chia được phần kha khá trong số di sản quí báu của ông người buôn chất thơm và các người cộng đồng quan hệ với ông ta. Nhưng cái thằng ông tin là kín đáo khi đem thổ lộ tâm tình riêng, hắn nhất định phải giành lấy và đã giành lấy phần lớn nhất. Chẳng thể đem thưa nó ở một tòa án nào, Rôganh đành lấy làm sung sướng được gặm miếng xương mà dần dần hết tháng này đến tháng khác người ta vứt cho ở tận cùng nước Thụy Sĩ, nơi ông ta tìm được những sắc đẹp với giá hạ. Không phải trí óc của một tác gia bi kịch nghiền ngẫm để hư cấu một tình tiết, chính là hoàn cảnh đã đẻ ra kế hoạch ghê tởm này. Căm giận mà không h.am m.uốn trả thù, thì cũng giống như hạt cây rơi xuống đá hoa cương. Nhưng sự trả thù mà Tidê ấp ủ đối với Xêda lại là một vận động tự nhiên nhất, trong đó phải phủ nhận sự tranh chấp giữa các thiên thần tội lỗi và các thiên thần ánh sáng. Tide không thể tránh nhiều điều phiền phức lớn nếu ám sát con người độc nhất ở Pari biết rõ hắn là thủ phạm một vụ trộm trong nhà mình. Nhưng hắn có thể vứt người ấy xuống bùn và tiêu hủy đến mức không còn khả năng làm chứng được nữa. Trong một thời gian khá lâu, ý trả thù đã nảy mầm trong tim hắn nhưng không ra hoa, vì những kẻ căm hờn nhất cũng rất ít vạch kế hoạch ở Pari. Cuộc sống ở đó đi nhanh quá, xáo động nhiều quá, nhiều tai nạn bất ngờ quá. Nhưng như vậy, các dao động thường xuyên ấy, nếu không cho phép người ta có dự định trước trong đầu, thì cũng phục vụ đắc lực cho một ý nghĩ nép mình trong đáy trái tản chính trị, trái tim này khá khỏe để rình chờ những thời vận lên xuống rủi may. Lúc Rôganh bộc lộ tâm sự cho Tidê, tên ký lục này đã mơ hồ hệ thấy khả năng tiêu diệt Xêda, và hắn đã không nghĩ lầm. Vào lúc sắp từ giã thần tượng của mình, ông chưởng khế dốc cạn phần còn lại của liều thuốc bùa mê trong cái ly vỡ và ngày ngày ông đến Săng Elidê rồi trở về nhà vào lúc tinh mơ. Như vậy ý nghi ngờ của bà Xêda là có lý. Khi quyết định đóng vai trò thằng Tilê giao cho, Rôganh đã có được những tài năng của một kịch sĩ trứ danh, cái nhìn của mèo rừng và sự sáng suốt của một thầy bói. Ông ta biết cả cách thôi miền kẻ mình lừa dối. Vì vậy, ông thấy trước Birô tô từ lâu rồi Birôttô mới thấy ông, và khi ông nhà buôn chất thơm nhìn ông thì ông đã chìa tay ra từ xa.