- Tham gia
- 18/5/2012
- Bài viết
- 2.973
Một thời, xà bông “Cô Ba” của tỷ phú Trương Văn Bền đánh bật hàng ngoại, trở thành thương hiệu Việt có tiếng nhất.
Ông Trương Văn Bền sinh ngày 10/10 năm Giáp thân thời vua Hàm Nghi (tháng 12/1884). Thưở thiếu thời, Trương Văn Bền học chữ Hán. Năm 1896, ông học ở các trường của Pháp: Ecole Municipale de Cholon, Collège de My Tho, Lycée Chasseloup-Laubat (Saigon).
Năm 1889, chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức lần đầu tiên kỳ thi Brevet élémentaire (cao đẳng tiểu học). Thường xuyên được sang Pháp, lại được theo học ở những trường danh tiếng, nhưng Trương Văn Bền chưa từng có bất cứ bằng cấp nào. Dù vậy ông vẫn được bổ nhiệm chức vụ Ký lục thượng thư. Năm 1901, ông không làm cho chính quyền Pháp nữa và trở lại nghề buôn bán của cha ông.
Từ bé, Trương Văn Bền đã quen với khung cảnh giao thương mua bán tấp nập, máu kinh doanh cũng thấm vào người ông như lẽ tự nhiên. Năm 31 tuổi, ông lập một đồn điền cao su cỡ nhỏ ở Thủ Đức, sau đó mấy năm, ông mở rộng kinh doanh bằng cách lập công ty khai khẩn ruộng ở Đồng Tháp Mười. Ông cũng hợp tác với Viện nghiên cứu Nông nghiệp Đông Dương trong việc trích nhựa thông và phục hồi các khu rừng quanh Đà Lạt, sản xuất mỗi năm khoảng 30 tấn dầu thông và hàng trăm tấn tùng hương.
Dù rất thành công với những lĩnh vực trên, nhưng khi nhắc đến Trương Văn Bền, người ta thường nhắc đến một lĩnh vực khác: kinh doanh xà bông.
Khi mới bỏ nghiệp công chức ra làm kinh doanh, lúc đầu Trương Văn Bền bán đậu phọng, đậu xanh, đường, trong một cửa tiệm nhỏ tọa lạc ở số 40 rue du Cambodge (Chợ Lớn). Sau đó ông khuếch trương mua các loại hàng sỉ từ các thương gia người Hoa rồi bán lại cho các tiệm bán lẻ ở Chợ Lớn.
Năm 1905, ông mở một xưởng sản xuất và tinh luyện dầu ở Thủ Đức. Ông dùng máy ép bằng hơi làm ở Mỹ, mua từ Pháp. Một năm sau, ông mở một nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn và một ở Rạch Các. Ông cũng có một khách sạn và một tiệm mỹ phẩm ở Chợ Lớn.
Tuy vậy các cơ sở này không thành công bằng cơ sở sản xuất dầu của ông ở Thủ Đức. Từng được sang Pháp nhiều lần, Trương Văn Bền có cơ hội tiếp xúc với kỹ nghệ sản xuất xà bông tại đây. Khi về Việt Nam, ông thấy xà bông Việt Nam thua xa xà bông Pháp.
Thuở đó, chỉ có các lò nấu nhỏ ở Chợ Lớn sản xuất xà phòng, giá không đắt nhưng chất lượng kém. Người Sài Gòn ưa chuộng các sản phẩm nhập khẩu từ Pháp - loại sản phẩm mà họ vẫn thường gọi là xà bông Marseille. Ở Việt Nam có hai nhà máy làm xà bông của Pháp do ông Mazet và ông Boris làm chủ cũng được ưa chuộng. Tuy nhiên những hãng xà bông này giá rất đắt, chỉ giới thượng lưu mới dám dùng.
Không buồn khi thấy dân chúng sính dùng hàng ngoại, ông Bền nhận ra một cơ hội ngàn vàng. Một mặt, Trương Văn Bền lân la đến hai nhà máy này, tìm cách học bí quyết sản xuất xà bông. Mặt khác, ông gởi một kỹ sư giỏi qua Paris để tìm hiểu kỹ thuật với một kỹ sư người Pháp ở nhà máy làm xà bông Mazet. Khi kỹ sư về Việt Nam, ông bắt tay vào sản xuất mặt hàng của riêng mình, với mục tiêu hướng tới người bình dân trước tiên và sau đó là tầng lớp thượng lưu.
Năm 1932, hãng xà bông Trương Văn Bền được thành lập tại đường Quai de Cambodge (trước chợ Kim Biên bây giờ), ban đầu sản xuất 600 tấn xà bông giặt mỗi tháng. Từ khi Xà bông Cô Ba tức xà bông thơm đầu tiên của Việt Nam ra đời, Cô Ba đã đánh bạt xà bông thơm của Pháp, nhập từ Marseille, nhờ chất lượng tốt, giá thành thấp.
Ông Trương Văn Bền sản xuất xà bông “Cô Ba” từ cây dừa Bến Tre. Theo ông Hồ Vĩnh Sang – Chủ tịch Hiệp hội Dừa Bến Tre thì người dân nơi đây đã làm dầu dừa bán cho Hoa kiều từ những năm đầu thế kỷ 20, bán cả cho ông Trương Văn Bền theo hai dạng: cơm dừa và dầu dừa thô; rồi chủ hãng mới chế thành dầu ăn, xà bông… Lúc đầu có xà bông đá giặt còn nghe mùi dầu dừa; sau ra loại xà bông thơm Cô Ba thì ai cũng chịu bởi nó thơm lâu. Dân miền Nam hồi đó toàn dùng xà bông Cô Ba, hàng ngoại không bán được.
Công thức sản xuất xà bông của ông Bền khi đó chỉ là “dầu dừa (72%), xút kết hợp vài phụ gia khác”. Tới giờ, vẫn chưa ai biết ông Bền có bí quyết nào chế ra được loại xà bông có mùi thơm vừa chân chất, gần gũi lại vừa kiêu sa, đài các.
Tuyệt chiêu của Trương Văn Bền
Trên hộp xà bông của hãng là hình một trong những mỹ nhân nức tiếng Sài Gòn lúc bấy giờ - Cô Ba. Xà bông Cô Ba xuất hiện trên khắp các báo chí với lời kêu gọi: “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” và “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam”. Trong các cuộc triển lãm, gian hàng của công ty luôn tạo ấn tượng cho khách bởi mô hình cục xà bông khổng lồ và giá cả sản phẩm rẻ hơn bình thường đến 25%.
Hơn thế, ông Bền còn tìm cách đưa hình ảnh sản phẩm vào khắp các loại hình nghệ thuật được người Việt ưa thích lúc bấy giờ như ca vọng cổ, thơ lục bát… "Cô Ba" đánh bại xà bông Marseille, và nhanh chóng được biết tới trên toàn Đông Dương, thậm chí còn xuất sang Hương Cảng, qua châu Phi và Tân Đảo. Cái tên Xà bông Cô Ba trở nên gắn bó với người Việt Nam vì chất lượng tốt và giá cả phải chăng.
Trong hồi ký, ông viết về sự chọn lựa tên sản phẩm xà bông của ông như sau: “Tôi đang tìm kiếm tên nào kêu, dễ gọi, dễ nhớ để đặt tên cho xà bông mà chưa kiếm ra. Ngoài Bắc, phong trào cách mạng Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu nổi lên nhiều chỗ và thất bại. Đến lúc Tây xử tử họ ở Yên Bái thì mười người như một, trước khi đút đầu vô máy chém đều bình tĩnh hô to: 'Việt Nam vạn tuế' gây một luồng dư luận sôi nổi ở trong nước và thế giới.
Tôi chụp lấy vụ này, lấy tên Việt Nam đặt cho xà bông do người Việt sản xuất để nêu lòng ái quốc đang bùng lên: xà bông của người Việt làm cho người Việt, người Việt yêu nước phải dùng đồ Việt Nam”.
Về biểu tượng của xà bông, ông dùng hình ảnh của một người con gái đẹp Việt Nam, đậm chất dân gian Nam bộ là “Cô Ba” – người phụ nữ có gương mặt phúc hậu, thuần Việt, tóc búi với nét đẹp có duyên. Biểu tượng này của vùng đất miền Nam đánh trúng tâm lý dễ nhận diện và quen thuộc của con người là một yếu tố quan trọng để sản phẩm của ông được tiếp nhận rộng rãi.
Dân gian đồn đại, “Cô Ba “chính là con gái Thầy Thông Chánh ở Trà Vinh, người đàn bà đẹp nhất Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20. Cô Ba có thể coi là người phụ nữ Việt đầu tiên làm người mẫu cho một thương hiệu hàng hóa Việt Nam. Thực tế, người phụ nữ ấy chính là vợ của Trương Văn Bền.
Trong hồi ký, ông Trương Văn Bền kể: “Tôi phải làm quảng cáo cho thương hiệu xà bông Cô Ba dữ lắm và phải kiếm cách ép mấy hàng tạp hóa mua xà bông Việt Nam về bán. Tiệm tạp hóa hầu hết chỉ mua các món đồ thông dụng, đem lại cho họ mối lợi hàng ngày.
Tôi bèn huy động một tốp người cứ lần lượt hàng ngày đi hết các tiệm tạp hóa hỏi có xà bông Cô Ba bán không. Hễ có thì mua một, hai xu, bằng không thì đi chỗ khác, trước khi bước chân ra khỏi tiệm nói với lại một câu:
'Sao không buôn xà bông Việt Nam về bán? Thứ đó tốt hơn xà bông khác nhiều'. Hết người này tới người khác rồi chủ tiệm cũng phải để ý, phải hỏi lại chỗ bán xà bông Việt Nam, mua thử về bán.
Tôi còn tổ chức những tốp quảng bá thương hiệu. Tốp thì ôm đờn ca vọng cổ tán dương tính chất của xà bông, tốp thì đi đánh võ rao hàng, rồi đá banh tôi cũng cho mặc áo thêu thương hiệu Cô Ba”.
Nhờ sức mạnh quảng cáo nên xà bông Cô Ba bán rất chạy, chỗ nào cũng bán, dùng xà bông Cô Ba. Thấy mối lợi, nhiều người cũng nhảy vào làm xà bông để cạnh tranh, như Bà Đốc phủ Mầu ra xà bông “Con Cọp”, Balet ra xà bông “Nam-Kỳ” cũng có biểu tượng người đàn bà Việt Nam như xà bông Cô Ba, Nguyễn Phú Hữu ra xà-bông “3 sao” ở Cần Thơ... Tuy nhiên, tất cả các nhãn hiệu này đều thất bại.
Theo Phụ nữ Today
Ông Trương Văn Bền sinh ngày 10/10 năm Giáp thân thời vua Hàm Nghi (tháng 12/1884). Thưở thiếu thời, Trương Văn Bền học chữ Hán. Năm 1896, ông học ở các trường của Pháp: Ecole Municipale de Cholon, Collège de My Tho, Lycée Chasseloup-Laubat (Saigon).
Năm 1889, chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức lần đầu tiên kỳ thi Brevet élémentaire (cao đẳng tiểu học). Thường xuyên được sang Pháp, lại được theo học ở những trường danh tiếng, nhưng Trương Văn Bền chưa từng có bất cứ bằng cấp nào. Dù vậy ông vẫn được bổ nhiệm chức vụ Ký lục thượng thư. Năm 1901, ông không làm cho chính quyền Pháp nữa và trở lại nghề buôn bán của cha ông.
Từ bé, Trương Văn Bền đã quen với khung cảnh giao thương mua bán tấp nập, máu kinh doanh cũng thấm vào người ông như lẽ tự nhiên. Năm 31 tuổi, ông lập một đồn điền cao su cỡ nhỏ ở Thủ Đức, sau đó mấy năm, ông mở rộng kinh doanh bằng cách lập công ty khai khẩn ruộng ở Đồng Tháp Mười. Ông cũng hợp tác với Viện nghiên cứu Nông nghiệp Đông Dương trong việc trích nhựa thông và phục hồi các khu rừng quanh Đà Lạt, sản xuất mỗi năm khoảng 30 tấn dầu thông và hàng trăm tấn tùng hương.
Dù rất thành công với những lĩnh vực trên, nhưng khi nhắc đến Trương Văn Bền, người ta thường nhắc đến một lĩnh vực khác: kinh doanh xà bông.
Khi mới bỏ nghiệp công chức ra làm kinh doanh, lúc đầu Trương Văn Bền bán đậu phọng, đậu xanh, đường, trong một cửa tiệm nhỏ tọa lạc ở số 40 rue du Cambodge (Chợ Lớn). Sau đó ông khuếch trương mua các loại hàng sỉ từ các thương gia người Hoa rồi bán lại cho các tiệm bán lẻ ở Chợ Lớn.
Năm 1905, ông mở một xưởng sản xuất và tinh luyện dầu ở Thủ Đức. Ông dùng máy ép bằng hơi làm ở Mỹ, mua từ Pháp. Một năm sau, ông mở một nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn và một ở Rạch Các. Ông cũng có một khách sạn và một tiệm mỹ phẩm ở Chợ Lớn.
Tuy vậy các cơ sở này không thành công bằng cơ sở sản xuất dầu của ông ở Thủ Đức. Từng được sang Pháp nhiều lần, Trương Văn Bền có cơ hội tiếp xúc với kỹ nghệ sản xuất xà bông tại đây. Khi về Việt Nam, ông thấy xà bông Việt Nam thua xa xà bông Pháp.
Thuở đó, chỉ có các lò nấu nhỏ ở Chợ Lớn sản xuất xà phòng, giá không đắt nhưng chất lượng kém. Người Sài Gòn ưa chuộng các sản phẩm nhập khẩu từ Pháp - loại sản phẩm mà họ vẫn thường gọi là xà bông Marseille. Ở Việt Nam có hai nhà máy làm xà bông của Pháp do ông Mazet và ông Boris làm chủ cũng được ưa chuộng. Tuy nhiên những hãng xà bông này giá rất đắt, chỉ giới thượng lưu mới dám dùng.
Không buồn khi thấy dân chúng sính dùng hàng ngoại, ông Bền nhận ra một cơ hội ngàn vàng. Một mặt, Trương Văn Bền lân la đến hai nhà máy này, tìm cách học bí quyết sản xuất xà bông. Mặt khác, ông gởi một kỹ sư giỏi qua Paris để tìm hiểu kỹ thuật với một kỹ sư người Pháp ở nhà máy làm xà bông Mazet. Khi kỹ sư về Việt Nam, ông bắt tay vào sản xuất mặt hàng của riêng mình, với mục tiêu hướng tới người bình dân trước tiên và sau đó là tầng lớp thượng lưu.
Gia đình Trương Văn Bền
Năm 1932, hãng xà bông Trương Văn Bền được thành lập tại đường Quai de Cambodge (trước chợ Kim Biên bây giờ), ban đầu sản xuất 600 tấn xà bông giặt mỗi tháng. Từ khi Xà bông Cô Ba tức xà bông thơm đầu tiên của Việt Nam ra đời, Cô Ba đã đánh bạt xà bông thơm của Pháp, nhập từ Marseille, nhờ chất lượng tốt, giá thành thấp.
Ông Trương Văn Bền sản xuất xà bông “Cô Ba” từ cây dừa Bến Tre. Theo ông Hồ Vĩnh Sang – Chủ tịch Hiệp hội Dừa Bến Tre thì người dân nơi đây đã làm dầu dừa bán cho Hoa kiều từ những năm đầu thế kỷ 20, bán cả cho ông Trương Văn Bền theo hai dạng: cơm dừa và dầu dừa thô; rồi chủ hãng mới chế thành dầu ăn, xà bông… Lúc đầu có xà bông đá giặt còn nghe mùi dầu dừa; sau ra loại xà bông thơm Cô Ba thì ai cũng chịu bởi nó thơm lâu. Dân miền Nam hồi đó toàn dùng xà bông Cô Ba, hàng ngoại không bán được.
Công thức sản xuất xà bông của ông Bền khi đó chỉ là “dầu dừa (72%), xút kết hợp vài phụ gia khác”. Tới giờ, vẫn chưa ai biết ông Bền có bí quyết nào chế ra được loại xà bông có mùi thơm vừa chân chất, gần gũi lại vừa kiêu sa, đài các.
Tuyệt chiêu của Trương Văn Bền
Trên hộp xà bông của hãng là hình một trong những mỹ nhân nức tiếng Sài Gòn lúc bấy giờ - Cô Ba. Xà bông Cô Ba xuất hiện trên khắp các báo chí với lời kêu gọi: “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” và “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam”. Trong các cuộc triển lãm, gian hàng của công ty luôn tạo ấn tượng cho khách bởi mô hình cục xà bông khổng lồ và giá cả sản phẩm rẻ hơn bình thường đến 25%.
Hơn thế, ông Bền còn tìm cách đưa hình ảnh sản phẩm vào khắp các loại hình nghệ thuật được người Việt ưa thích lúc bấy giờ như ca vọng cổ, thơ lục bát… "Cô Ba" đánh bại xà bông Marseille, và nhanh chóng được biết tới trên toàn Đông Dương, thậm chí còn xuất sang Hương Cảng, qua châu Phi và Tân Đảo. Cái tên Xà bông Cô Ba trở nên gắn bó với người Việt Nam vì chất lượng tốt và giá cả phải chăng.
Trong hồi ký, ông viết về sự chọn lựa tên sản phẩm xà bông của ông như sau: “Tôi đang tìm kiếm tên nào kêu, dễ gọi, dễ nhớ để đặt tên cho xà bông mà chưa kiếm ra. Ngoài Bắc, phong trào cách mạng Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu nổi lên nhiều chỗ và thất bại. Đến lúc Tây xử tử họ ở Yên Bái thì mười người như một, trước khi đút đầu vô máy chém đều bình tĩnh hô to: 'Việt Nam vạn tuế' gây một luồng dư luận sôi nổi ở trong nước và thế giới.
Tôi chụp lấy vụ này, lấy tên Việt Nam đặt cho xà bông do người Việt sản xuất để nêu lòng ái quốc đang bùng lên: xà bông của người Việt làm cho người Việt, người Việt yêu nước phải dùng đồ Việt Nam”.
Về biểu tượng của xà bông, ông dùng hình ảnh của một người con gái đẹp Việt Nam, đậm chất dân gian Nam bộ là “Cô Ba” – người phụ nữ có gương mặt phúc hậu, thuần Việt, tóc búi với nét đẹp có duyên. Biểu tượng này của vùng đất miền Nam đánh trúng tâm lý dễ nhận diện và quen thuộc của con người là một yếu tố quan trọng để sản phẩm của ông được tiếp nhận rộng rãi.
Dân gian đồn đại, “Cô Ba “chính là con gái Thầy Thông Chánh ở Trà Vinh, người đàn bà đẹp nhất Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20. Cô Ba có thể coi là người phụ nữ Việt đầu tiên làm người mẫu cho một thương hiệu hàng hóa Việt Nam. Thực tế, người phụ nữ ấy chính là vợ của Trương Văn Bền.
Trong hồi ký, ông Trương Văn Bền kể: “Tôi phải làm quảng cáo cho thương hiệu xà bông Cô Ba dữ lắm và phải kiếm cách ép mấy hàng tạp hóa mua xà bông Việt Nam về bán. Tiệm tạp hóa hầu hết chỉ mua các món đồ thông dụng, đem lại cho họ mối lợi hàng ngày.
Tôi bèn huy động một tốp người cứ lần lượt hàng ngày đi hết các tiệm tạp hóa hỏi có xà bông Cô Ba bán không. Hễ có thì mua một, hai xu, bằng không thì đi chỗ khác, trước khi bước chân ra khỏi tiệm nói với lại một câu:
'Sao không buôn xà bông Việt Nam về bán? Thứ đó tốt hơn xà bông khác nhiều'. Hết người này tới người khác rồi chủ tiệm cũng phải để ý, phải hỏi lại chỗ bán xà bông Việt Nam, mua thử về bán.
Tôi còn tổ chức những tốp quảng bá thương hiệu. Tốp thì ôm đờn ca vọng cổ tán dương tính chất của xà bông, tốp thì đi đánh võ rao hàng, rồi đá banh tôi cũng cho mặc áo thêu thương hiệu Cô Ba”.
Nhờ sức mạnh quảng cáo nên xà bông Cô Ba bán rất chạy, chỗ nào cũng bán, dùng xà bông Cô Ba. Thấy mối lợi, nhiều người cũng nhảy vào làm xà bông để cạnh tranh, như Bà Đốc phủ Mầu ra xà bông “Con Cọp”, Balet ra xà bông “Nam-Kỳ” cũng có biểu tượng người đàn bà Việt Nam như xà bông Cô Ba, Nguyễn Phú Hữu ra xà-bông “3 sao” ở Cần Thơ... Tuy nhiên, tất cả các nhãn hiệu này đều thất bại.
Theo Phụ nữ Today
Hiệu chỉnh bởi quản lý: