Tuổi thơ dữ dội

Chương 20


Đã hơn một tiếng đồng hồ, Vịnh Sưa lặn lội, mò mẫm trong khu vực giặc đóng tìm bạn bị lạc. Trời tối quá, cách ba bước là không nom thấy gì, nhưng em không dám gọi to. Em sợ bọn giặc núp đâu đó nghe tiếng. Em khẽ huýt sáo rồi giả tiếng cú kêu (ám hiệu của tổ đã được quy định trước, lúc cần tìm nhau). Không có tiếng trả lời Em lại tiếp tục dò dẫm tìm kiếm. CÓ lúc em nghe vẳng như có tiếng Quỳnh gọi em đâu đó. Em nhắm tìm đến.

Em chui bừa qua những lỗ tường đục thủng, trèo bừa qua những đống nhà cửa đổ nát lởm chởm sắt, gỗ, gạch, đá, tảng bê tông. . . Mấy lần em suýt bước hụt xuống những miệng giếng nằm lấp dưới những cành cây gấy nát. Em vấp ngã liên tiếp, có khi lộn nhào mấy vòng, nhưng chỉ dám nhăn nhó xuýt xoa khe khẽ.

Em ngồi phịch xuống đất thở dốc, ứa nước mắt vì cực quá. Xung quanh chuột chạy huỳnh huỵch như người. Một mùi thối khảm đến lợm mửa - có lẽ là múi xác chết - xộc vào mũi em. Em thấy sợ đến dựng cả tóc gáy Mấy lần em muốn tìm đường quay trở về nhưng nghĩ đến nhiệm vụ tổ trưởng, nhớ đến câu nói của tổ trưởng trong buổi họp đội: "Bỏ bạn lúc lâm nạn là điều xấu xa tồi tệ nhất đối với người chiến sĩ". Đang ngồi em đứng bật ngay dậy chùi nhanh nước mắt, tiếp tục lặn lội đi tìm bạn.

Em bỗng giật bắn người. Ánh chớp lửa nhoang nhoáng và tiếng súng giặc nổ toang toác ngay trên đầu em. Cả mặt trận, tiếng nổ vang dậy cả bốn phía không còn phân biệt hướng nào vào hướng nào. Em nép mình sau một gốc cây to để tránh đạn. Đứng ở đó khoảng một tiếng đồng hồ, khi tiếng súng bốn phía đã êm êm em lại dò dẫm tìm lối đi trong cái biển bóng tối đầy họng súng giặc. Nhưng em đã hoàn toàn mất phương hướng. Bóng tối lúc này càng dầy đặc hơn, tưởng lấy đũa mà quấy được như quấy bánh đúc. Đất trời, địa hình. địa vật chung quanh hòa thành một khối đen đặc.

Mệt quá, lại lạnh nữa, bấy giờ em mới nhận ra áo quằn mình ướt sũng nước. Trời đổ mưa mỗi lúc thêm nặng hạt. Đang dò dẫm đi, em chợt vấp phải thềm một ngôi nhà có hàng hiên với cột trụ rất cao. Trèo lên năm bậc thềm xi măng xây hình cánh cung, em ngồi phịch xuống nền đá hoa lạnh ướt, dựa lưng vào một cột trụ...

Bao nhiêu câu chuyện em nghe được về các anh lớn bị thương, bị lạc, phải nằm lại trong khu vực giặc, lúc này hiện ra dồn dập trong ta nhớ em . . . Bọn giặc phát hiện được các anh, chúng đã giết các anh hết sức dã man. Chặt đầu, cắt cổ, lưỡi lê xuyên nát ngực... Em thấy ớn lạnh rùng mình, càng nóng ruột lo lắng cho bạn. "Chưa chừng lúc ni Quỳnh đang bị thương nằm chèo queo ở một góc nhà đổ nát nào đó . . . Chuột bò cả lên người lên mặt...". Em buồn rầu nghĩ vậy và nước mắt lâm râm trên hai gò má. Cơn buồn ngủ đột ngột ập đến, em cố hết sức chống chọi . . . Trong trạng thái nửa mơ nửa thức, chợt em ngửi thấy quanh đâu đây có mùi ét xăng nồng nặc, và cả những mùi gì khen khét, hăng hắc rất lạ... Em chưa kịp hiểu ra mùi gì đã ngủ thiếp đi. Em cứ ngồi dựa cột như vậy mà ngủ. Tưởng chừng lửa đạn có nổ ngay bên tai cũng hay biết.

Vịnh giật bắn người tỉnh dậy như có ai dí lửa vào gan bàn chân. Trời đã sáng trưng. Có tiếng nói xì xồ lạ tai vẳng đến rất gần, nghe như ở ngay trên đầu.
"Chết cha rồi?" Em buột miệng khẽ kêu, trườn mình rất nhanh, nép ra phía sau cái chân cột bê tông. Em dụi mắt nhìn kỹ chung quanh thấy mình đang ở dưới mái hiên một tòa nhà lớn có nhiều tầng. Xung quanh là vườn cây rậm rạp. Thấp thoáng sau những tán cây là những ngôi nhà hai ba tầng, các cửa sổ đều chất kín bao cát. Những ngôi lầu vị trí giặc. Tiếng xì xồ lạ tai vừa rồi chắc là vẳng đến từ những ngôi lầu hung hiểm kia.

Em để ý về phía tay trái có một dãy tường rất cao nằm gần kề sát tường hồi ngôi nhà em đang núp Bên trên dãy tường có hàng cọc sắt nghiêng nghiêng, chăng dây thép gai. Phía bên kia đường chợt vọng sang tiếng ô tô nổ máy. Tiếng sắt thép va chạm, tiếng người xì xồ gọi nhau "Đúng là tụi giặc rất đông ở bên đó! Vịnh cố cúi thấp người hơn. mắt không rời khỏi hướng bức tường.

Như một người đi câu bất ngờ nhìn thấy đàn cá, ý thức của người chiến sĩ ttinh sát lúc bất ngờ phát hiện ra kẻ địch, trỗi dậy trong em mạnh mẽ đến nỗi làm em quên phắt mọi sợ hãi lo lắng của hoàn cảnh mình hiện nay.
"Phải điều tra coi tui mũi lõ đang làm cái chi bên đó mới được". Em tự ra lệnh cho mình như vậy và lập tức hành động.

Rời chỗ núp, em bò men theo bức tường, đến phía sợi dây cáp thu lôi. Em bám vào sợi dây cáp, thận trọng leo lên. Em cũng là một tay leo trèo giỏi của đội. Thoắt một cái, em đã trèo được đến tầng gác hai ngôi nhà.

Đứng cao hơn bức tường chăng dây thép gai, em đưa mắt nhìn sang một khu nhà kho lớn một tầng, mái lợp tôn, chất đầy những khuy xăng, những hòm đạn lớn nhỏ.. Hàng chục chiếc ô tô vận tải đang rù rù nổ máy.

Bọn giặc lố nhố đi lại trước sân kho. Tây trắng có, Tây đen, Việt gian có... Sợ đứng cheo leo ở đây lâu, bọn giặc bên để ý nhìn thấy, em bám theo sợi dây thu lôi trèo tuốt lên tầng gác tư ngôi lầu. Một cánh cửa chớp sơn xanh mở rộng, cách em chùng một với tay. Em nhoài người bám được vào cánh cửa. Bám chắc rồi, em đạp mạnh chân vào sợi dây cáp thu lôi. Cánh cửa chớp mang theo em áp sát vào bậu cửa sổ. Cảnh tượng này giống hệt trò em mê chơi ngay còn nhỏ... Cách nhà bác em hai đường kiệt, là nhà lão bang tá nối tiếng giàu có nhất vùng An Cựu. Xung quanh nhà, hàng rào sắt bao bọc, có hai cánh cổng sắt rất lớn, sơn xanh. Em thường lẻn trốn bác gái, chạy đến cổng nhà lão ta, nhìn trước nhìn sau không có ai, em liền bám vào cánh cửa, một chân đứng lên thanh sắt ngang cuối cùng, một chọi mạnh xuống đất. Thế là cánh cửa đưa em đi theo hình rẻ quạt.

Với tiếng gió ù ù bên tai, nhanh chậm tùy em điều khiển. Em tưởng tượng mình là người lái ô tô, người lái tàu hỏa... Lần này chỉ có khác, cánh cửa đưa em đi cách mặt đất những bốn tầng lầu!

Em bám một tay rồi hai tay lên bậu cửa sổ. Thu hút bao nhiêu hơi sức còn lại, em rướn người nằm. ngang lên bậu cửa và nhào vào bên trong. Em rớt bịch xuống sàn đá hoa, đau gần chết giấc Nằm im một lúc để lấy lại sức, em đưa mắt xung quanh. Em đang ở giữa một gian buồng lớn, không có đồ đạc gì ngoài một cái tủ đứng đồ sộ kê sát tường.

Cạnh tủ là một vuông cửa sổ hai cánh cửa chớp đóng kín nhìn về phía khu kho xăng đạn của giặc. Vinh vùng ngay dậy, chạy đến khung cửa, ghé mắt vào một lỗ thủng trên các nan chớp, nhìn xuống. Cái kho xăng và đạn giặc nằm dưới chân em...

Trời chợt ửng nắng. Cái màu nắng hiện ra sau những ngày dài mưa rả rích, thối đất, thối cát, mới tươi trông rực rỡ làm sao? Người chiến sĩ trinh sát mới mười bốn tuổi đời, trong cái dây phút gay go quyết liệt nhất đời mình, cũng phải ngẩn ngơ một lúc trước cái màu tươi trong, lộng lẫy, rực rỡ đến huyền hoặc của nắng...

Bầu trời mùa đông ẩm ướt, ngổn ngang những đám mây chì đen bẩn, mỗi lúc thêm quang quẻ như có cái chổi khống lồ vô hình đang ra sức quét dọn Da trời xanh thao thiết, cao vời vợi, hiện ra cùng với màu nắng mới trong veo... Điều lạ kỳ hơn hết là cái màu nắng mới rực rỡ ấy lại làm cho đầu óc con người bỗng trở lên sáng suốt tươi vui, táo bạo, tự tin gấp bội phần. Và làm cho lòng người bừng bừng, náo nức, muốn lập nên những kỳ tích thật vang dội, những chiến công thật lẫy lừng...

Sau một hồi quan sát, Vịnh nhận thấy ngôi lầu mình đang đứng, cao vượt hẳn lên những ngôi lầu chung quanh. Ngôi lầu hoàn toàn bỏ trống. Hình như bọn giặc định dùng nó làm bình phong che cho cái kho xăng đạn bí mật của chúng ngay ở phía sau. Đây quả là một vị trí quan sát không chê vào đâu được! Vịnh reo thầm trong bụng. Bọn giặc ở các ngôi lầu xung quanh bắt đầu hoạt động. Những cái mũ sắt, những khuôn mặt râu ria xồm xoàm, thập thò sau các bao cát, những chấm nòng súng lấp ló sau các lỗ châu mai một cái váy đỏ thấp thoáng sau một khuôn cửa kính vỡ. Phía dưới khu nhà kho, tiếng máy Ô tô nổ rền. Những khuy xăng lăm ầm ầm trên sân đổ bê tông. Bọn giặc ra vào đi lại, lố nhố dưới các mái kho. Chúng sì sồ quát tháo, la hét.

Một thằng Tây cao lớn, lưng đeo súng lục, tay cầm một chai bia hoặc rượu gì đó, đứng dạng hai chân, ngửa cổ tu.

Quan sát kỹ địa hình địa vật chung quanh, Vịnh đã xác định được vị trí ngôi lầu này. Tuy nằm rất sâu trong khu vực giặc, nhưng nếu tính theo đường chim bay, nó không xa khu vực trường Kỹ Nghệ mấy. Trường Kỹ Nghệ là vị trí hiện quân ta đang chiếm giữ. Tổ cậu Hiền hiện đang tham gia chiến đấu tại đơn vị đóng ở đấy. Em còn biết trên chót vót nóc lầu cao nhất trường, có một đài quan sát bí mật mà Ban chỉ huy đơn vị giao cho tổ Thiếu nhi trinh sát phụ trách. Cách đây hai hôm, em chạy liên lạc qua đây, được Hiền dẫn cho lên xem đài quan sát, đồng thời cũng muốn khoe . . Đứng ở đài quan sát có thể nhìn bao quát toàn bộ khu vực giặc đóng. Và nếu có ống nhòm tốt có thể nhìn rõ lâu đài cung điện, phố xá bên kia bờ sông Hương.

Chưa biết chừng lúc ni, các cậu Hiên, Đồng, Hòa Đen, Nghĩa, đang đứng trên đó chĩa ống nhòm nhìn đúng vô cái buồng mình đang đứng, chuyện trò, cười nói vui như Tết! Các cậu ấy có ngờ mô mình đang ở bên trong, chơ vơ một mình, vừa đói vừa mệt bốn phía họng súng giặc tua tủa... ". Ý nghĩ đó làm cho Vịnh rơm rớm nước mắt. Và cũng chính ngay lúc đó một quyết định táo bạo vụt lóe trong óc em: Trèo lên nóc lầu, dùng cờ tín hiệu báo cho đài quan sát bí mật của cậu Hiền biết về kho xăng đạn núp kín dưới trên ngôi lầu này.

"Nếu đài quan sát nhận được tin mình đánh về, chắc chắn ban chi huy mặt trận phải cho ca-nông móc-chê rót sau đây hoặc cho Quyết Tử Quân mang bom vô đánh. Một cái kho xăng đạn to ra ri, đánh trúng thì tha hồ mà cháy, mà nổ? Cả ba đời dòng họ tụi Tây kéo đến đây dập cũng đừng hòng tắt!". Ý nghĩ làm cho tim em đập rộn lên vì vui thích hả hê. Phút chốc quên tất cả đói, cả mệt, cả khát.

Em vốn có tiếng trong đội là tay tháo vát, nhanh trí. Chỉ mấy phút sau em đã vạch xong kế hoạch hành động. Trước tiên phải kiếm được hai tấm vải trắng và đỏ lâm cờ tín hiệu. Vải trong kia rồi, em chạy lại giật phắc cái rèm cửa có thêu đăng - ten rất đẹp. Rèm quá rộng, em ghé răng cắn, xé làm đôi cho vừa khuôn khố lá cờ Nhưng còn vải đỏ, không biết làm cách chi mà kiếm được đây Em chợt nhìn trật xuống cái quần quân phục làu mận chín, bê bết bun đất đang mặc. Cái quần này trước đây là của một anh ở đại đội bộ. Nó vốn màu "be" anh đem nhuộm màu mận chín để diện. Không may nhuộm phải màu tươi quá, mặc trông rợ, anh đành tặc lưỡi cho em. "Vải đỏ đây rồi chứ còn phải kiếm mô ". Em khẽ reo lên mừng rỡ, cởi phăng luôn cái quần lẽn ngấm nghía. Bên trong em không có quần đùi. Nhưng kệ ở đây toàn Tây với đầm, việc cóc chi mà xấu hổ! Em xé quần theo đường chỉ, chọn một khoảng rộng nhất xé thành hình vuông. Vải cờ tuy không phải mầu đỏ như quy định, nhưng em tin cậu Hiền sẽ nhận ra: "Cậu ta thông minh và giỏi môn cờ tín hiệu nhất đội mà..." Em tìm được hai cái que thông nòng súng nằm lăn lóc xó tủ, làm cán cờ. Em thất chặt hơn cái thắt lưng da to bản quanh lưng. Cuộn tròn hai lá cờ tín hiệu, dắt chéo sau lưng để hai tay được rảnh mà bấu víu, leo trèo.

Một chân chọi tường, một chân chọi vào vách tủ, em trèo lên nóc tủ. Ngay trên đầu em là một lỗ vuông ăn thông lên trần nhà. Nhón chân em bám vào thành mép lỗ vuông, ráng hết sức đu người lên, chui qua. Phía trên trần nhà tối om, chuột chạy huỳnh huỵnh. Mái ngói và những rui, đòn tay xà ngang đã ở ngay sát đầu em. quờ quạng hai tay, tìm chỗ thuận tiện, em bắt đầu dỡ ngói như một một tay đạo tặc lành nghề. Trên đầu em, một vuông trời xanh rực rỡ nắng tươi đột ngột hiện ra như có phép lạ.

Vuông trời to dần theo bàn tay dỡ ngói của em. ước đã chui lọt người, em trèo lên cái xà gỗ, chui đầu qua mái ngói, giữa khoảng cách hai rui Bám vào hai cái rui gỗ, em nhún mạnh chân, lọt hẳn cà người ra ngoài. Mát em bông hoa lên vì chói nắng và choáng ngợp. Ruột em co thắt như muốn nôn. Chao ôi, chưa bao giờ em đứng cao đến thế, gần nắng, gần gió, gần mặt trời đến thế.

Gió thổi ù ù bên tai. Mái ngói dốc đứng đáng sợ. Và trơn nữa, rất nhiều rêu... Gan bàn chân em rợn lên, lạnh dọc suốt xương sống. . Không khéo mình trượt chân ngã lăn xuống mất... Mà ngã lăn từ đây xuống đất thì người cứ gọi là là... Em không dám nghĩ tiếp nữa.
Nhưng Vịnh đâu có dễ chịu lùi.

"...Ra đi thà chết không lui..." . Câu hát em đội thường hay hát chợt vẳng đến tai em, như thôi thúc cổ vũ: - Vịnh Sưa ơi, hãy đứng vững.

Lòng khao khát được tiêu diệt kẻ thù như các bạn cùng lứa tuổi: Đuốc Sống, Bát Sắt... trong lòng chú "thợ súng nhỏ" còn mãnh liệt hơn cả cảm giác choáng ngợp, sợ hãi.

Em cúi khom người bám chặt đường sống mái lầu, như con chim gõ kiến bám chặt cành cây. Em mở to mắt nhìn thẳng lên bầu trời một phút làm quen với cảm giác choáng ngợp, với độ cao chóng mặt. Rồi với tất cả thận trọng, em bò nhích lên từng tí một theo đường sống mái lầu Tay em đã với được chóp nóc ngôi lầu có cây cột thép thu lôi như một ngọn giáo búp đa đâm thẳng lên bầu trời. ôm chặt cây cột thép thu lôi. Em đứng thẳng người lên, em cởi áo quân phục màu cỏ úa, xoắn lại làm dây thừng và buộc chặt người vào cây cột thép ngang chỗ bụng. Lúc này em hoàn toàn trần truồng ngoài cái thắt lưng da và sợi thừng ngang bụng.

Sau khi đã buộc chắc, vững vàng, em đưa mắt nhìn bao quát cảnh vật trải rộng dưới tầm mắt. Chỗ em đứng cao vượt hẳn lên những cao điểm quanh đó. Dưới mắt em mái ngói lô xô, chen lẫn giữa những tán cây um tùm. Ngoảnh về phía sau, con sông Hương xanh ngời màu thép mạ. Hai nhịp cầu Tràng tiền bị giật đổ, gục xuống nước như một chữ V hoa khổng lồ. Cột cờ kia, Phú Văn Lâu kia... Kia là cửa Thượng Tứ, kia là bến đò Trường Súng... Toàn cảnh thành phố như được thu gọn lại dưới tầm mắt em. Em bỗng thấy cổ mình nghẹn lại, muốn khóc: "Chao ôi. Huế mình đẹp biết mấy " Em quài tay ra sau lưng, rút hai cây cờ tín hiệu cầm sẵn hai tay. Em đưa mắt tìm cây thập tự trên nóc nhà thờ Phú Cam để làm chuẩn. Em đưa hai lá cờ lên, hướng về phía đài quan sát bí mật, đánh đi bức điện mà em đã tính toán, suy nghĩ làm sao thật rõ, thật ngắn, thật chính xác:

- Một kho xăng, đạn lớn ngay phía sau ngôi lầu tôi đứng. Yêu cầu bắn!

Vị trí Vịnh đứng đánh tín hiệu ngay giữa lòng quân giặc, nhưng vì cao quá nên chúng bất ngờ. Từ trước tới nay chúng vẫn quen nhìn quân ta từ dưới đất xông lên - và chúng cho rằng ta cũng chi có thể từ dưới đất xông lên mà thôi. Chúng vẫn đinh ninh bầu trời và các điểm cao trong khu vực chúng là thuộc về chúng. Chúng chỉ nhìn lên cao khi có máy bay đến thả dù tiếp tế.
Bởi vậy mãi cho đến hai tiếng đồng hồ sau, khi Vịnh đã đánh lặp đi làm lại ít nhất là năm mươi lần bức điện, chúng mới phát hiện được..
 
Chương 21



Sáng sớm hôm đó, Hiền được điện của đội trưởng từ chỉ huy sở mặt trận khu C gọi lên gặp anh có việc khẩn. Hiền giao lại cho Đồng phụ trách tổ. Vốn tính cẩn thận, trước khi đi, Hiền dặn đi dặn lại các bạn:

- Các cậu nhớ đừng mải chơi mà bỏ trống đài quan sát đó nghe. Một phút cũng không được bỏ. Lỡ có việc chi thì thật xấu mặt cho cả đội.

Mỗi lần có việc phải về chỉ huy sở là Hiền mừng rơn. em có sẽ có dịp gặp Vệ To Đầu học thêm vài môn xiếc để về tự luyện. Hai em bây giờ thân nhau nhất đội. Tập xiếc cũng gian nan vất vả ghê người. Trán Hiền hôm bầm tím, hôm mọc sừng vì tập cái môn nhào lộn, đi bằng hai tay...

Tổ của Hiền được Ban Quân Nhu mặt trận cấp phát một cái ống nhòm cũ. Việc cấp phát đặc biệt này làm bốn em hết sức hãnh diện. ống nhòm có bao da hẳn hoi, nhưng chẳng mấy khi các em chịu bỏ bao. Hết em này đến em khác, chuyền tay nhau đeo lủng lẳng trước ngực như đeo huân chương. Cả lúc ăn cơm các em cũng đeo.

Sợ các bạn giành nhau vỡ, Hiền quy định chỉ bạn nào đến phiên trực đài quan sát mới được phụ trách ống nhòm.

Ngày ngày đứng trên đài quan sát, các em thay phiên nhau lia ống nhòm sang khu vực Pháp, lòng khấp khởi hy vọng sẽ phát hiện được một vị trí chỉ huy, một hỏa điểm quan trọng để lập công. Nhưng đáng tiếc là chưa em nào vớ được cái may mắn đó. Chính nhờ sự quan sát chăm chỉ và liên tục này, mà sáng hôm đó Hòa Đen phát hiện được Vịnh đánh cờ tín hiệu...

Giờ đó, phiên Hòa Đen trực đài qua sát. Dựa ngực vào thành công sự xây bằng bao cát, hai tay nâng ống nhòm lên nên mắt em nhìn về phía khu vực Pháp, từ tây sang đông. Em bỗng chững lại, khu to giật giọng:

- Các cậu ơi lạ quá! Lại đây, mau lên!

Đồng và Nghĩa đang chơi cờ chó trong khoảng bóng râm của thành công sự. Hai em bỏ bàn cờ, lao đến.

Hòa Đen mắt không rời ống nhòm nói:

- Có một người không biết làm cái chi mà đứng chót vót giữa khu vực Tây, phất phất hai cái chi như hai lá cờ.

Đồng cầm ngay lấy cái ống nhòm trong tay Hòa Đen. Đặt lên mắt, chĩa về phía Hòa Đen chỉ. Từ đài quan sát đến nóc lầu Vịnh đứng, tính theo đường chim bay không xa lắm, nhưng chiếc ống nhòm cũ quá nên không phân biệt được tầm vóc người đánh tín hiệu. Sau chừng hai phút chăm chú qua sát, Đồng thoảng thốt kêu lên:

- Người này đang phất cờ "moóc" đánh tín hiệu về phía đài quan sát của ta. Mình đã đọc được một chữ B và một chữ U các cậu ơi!

Cả ba em vốn dốt môn cờ tín hiệu. Trước đây, khoa mục này được đội trưởng huấn luyện rất kỹ, nhưng cả ba đều lười học. Hôm thi khoa mục, cả ba đều bị đội trưởng cho xơi" trứng vịt". Hiền giỏi nhất môn cờ tín hiệu, nhưng thật không may, lúc này Hiền đi vắng.

Tuy chịu không nắm được nội dung của tín hiệu đánh về, nhưng hoàn cảnh đặc biệt của người đánh tín hiệu làm cho Đồng cảm thấy ngay trong việc này có một điều gì hết sức hệ trọng có liên quan đến cuộc chiến đấu của quân ta. Em gọi to:

- Hòa Đen, cậu chạy ngay xuống chỗ máy điện thoại, gọi về chỉ huy sở mặt trận, báo cáo cho thật rành rọt:

"Có một người hiện đang đứng chót vót giữa khu vực giặc, phất cờ đánh tín hiệu về phía đài quan sát. Cần cho cậu Hiền về ngay để đọc. Còn cậu Nghĩa thì chạy xuống báo cáo với ban chỉ huy đại đội".
 
Chương 22



Trong gian chính điện chùa Từ Đàm - Chỉ huy sở mặt trận khu C - Hiền và đội trưởng đang làm ngồi làm việc cạnh chỉ huy trưởng. hai anh em lúi cúi trên tấm bản đồ thành phố Huế trải gần kín mặt bàn, dùng com pa, ê ke, thước đo, kẻ lên bản đồ, vừa rì rầm thảo luận vừa ghi chép vào sổ tay. Chỉ huy trưởng ngồi viết ở cái bàn khác nhỏ hơn, kê gần đó. Khẩu súng săn voi dựng ở mép bàn, máy điện thoại ở góc bàn.

Ngoài môn cờ tín hiệu, Hiền còn khá giỏi về môn đồ bản. Em sử dụng bản đồ thành thạo không kém gì một sĩ quan tham mưu. Trước ngày Huế nổ súng, em đã được học và làm việc tại Ban Họa Đồ của trung đoàn.

Chuông điện thoại réo gắt. Chỉ huy trưởng ngừng viết cầm lấy ống nghe. Trán ông nhíu lại, đầu lắc lắc.

Ông gọi đội trưởng, trao ống nghe cho anh. Anh nhận ngay ra tiếng Hòa Đen. Nhưng không hiểu sao em nói lắp bắp vừa thở hổn hển trong máy, nên không nghe rõ em nói gì. Anh đoán chắc có chuyện gì quan trọng lắm đây Là một người chỉ huy có kinh nghiệm, anh biết bây giờ mà quát to. Hòa Đen sẽ càng líu lưỡi hơn. Anh liền nói vào máy, thong thà từng tiếng một:

- A lô, a lô. Em hãy để ống nghe xuống, rồi làm động tác hít thở đúng năm lần. Sau đó em cầm ống nghe báo cáo. Rõ chưa?

Chừng nửa phút sau tiếng Hòa Đen trong máy nghe đã khá rành rọt:

- A lô, báo cáo anh, đài quan sát chúng em vừa phát hiện được một người đứng chót vót trên nóc lầu giữa khu vực Pháp đánh tín hiệu bằng cờ về phía đài quan sát. Nhưng chúng em không đọc được tín hiệu... tại ống nhòm mờ quá... Anh cho Hiền về ngay để đọc.

Chỉ huy trưởng chăm chú nghe đội trưởng báo cáo lại tin vừa nhận được. Cặp mắt sâu của ông lúc này nom càng sau hơn. Ông chợt hỏi:

- Anh thấy thế nào? Tôi đoán chắc có điều gì hết sức quan trọng đây. Người đánh tín hiệu rõ ràng là người của ta.

- Báo cáo chỉ huy trưởng, tôi cũng phán đoán như vậy.

Anh quay sang nói với Hiền:

- Em gắng chạy thật nhanh về đài quan sát, đọc và ghi lại tín hiệu, rồi gọi ngay điện thoại về đây báo cáo.

- Rõ! - Hiền đứng nghiêm lại trả lời, chụp vội cái mũ cứng lên đầu, định lao ra cửa. Nhưng chỉ huy trưởng đã kịp đứng lên, đưa tay ngăn em lại. ông nói:

- Người đánh tín hiệu chắc không thể đứng lâu trên nóc lầu ấy được. Bọn giặc trước sau cũng sẽ phát hiện ra. Em chạy về e chậm mất...

Trán ông nhíu lại, những ngón tay dài xương xấu bóp bóp mạnh chiếc cằm như được đẽo bằng đá, râu mọc tua tủa vì đã hai hôm nay ông chưa kịp cạo...

Ông hỏi Hiền:

- Em có giỏi môn cờ tín hiệu không?

- Báo cáo chỉ huy trưởng, giỏi ạ.

- Em cưỡi ngựa được chứ?

Hiền lúng túng:

- Báo cáo chỉ huy trưởng, em chưa được cưỡi ngựa bao giờ . . .

- Chà gay quá hè! - Chỉ huy trưởng buột miệng nói.

Những đường nhăn trên trán ông càng nhíu sâu hơn.

Tình hình quá cấp bách làm thế nào bây giờ? Ông vắt óc tự hỏi.

Vừa lúc đó, như một ngọn gió bất tình hình thổi đến. Vệ To Đầu và Mừng ngoài hiên chùa đẩy mạnh cửa bước vào. Vệ đưa tay vành mũ chào chỉ huy trưởng, đứng nghiêm nói, giọng đứt quãng vì quá hồi hộp:

- Báo cáo! Nếu chỉ huy trưởng cho phép em có thể dùng ngựa đưa Hiền về đài quan sát.

Chỉ huy trưởng nhìn hai em rồi quay lại nhìn đội trưởng như muốn hỏi. Đội trưởng nói:

- Báo cáo đồng chí, hai em này đều là đội viên đội Thiếu Niên Trinh Sát. Các em hiện đang tham gia chiến đấu lại đại đội anh Thới. Em này là Vệ, tham gia Vệ Quốc Đoàn từ mặt trận Nha Trang. Còn em này là Mừng, chú bé đã leo gần khắp các ngọn cây cao thành phố để tìm thuốc cho mẹ mà hôm nọ tôi kể với đồng chí...

Sáng nay, Mừng cõng được Quỳnh về tới đơn vi thì trời đã hửng sáng. Quỳnh bắt đầu lên cơn sốt giật và mê man. Bàn chân dẫm mảnh chai sưng tấy, đỏ lựng. Y tá đại đội sợ em có thể bị nhiễm trùng uốn ván nên lập tức cho hai chiến sĩ cáng em về trạm quan y của mặt trận. Vệ và Mừng xin đi theo bạn. Hai em chạy lúp xúp theo hai bên cáng, vừa chạy vừa khóc. Từ trạm Quân Y trở về, hai em tạt vào chỉ huy sở mặt trận, định báo cáo với đội trưởng về việc Quỳnh, và chuyện Vịnh Sưa bị mất tích, vừa vặn đúng lúc chỉ huy trưởng hỏi Hiền có biết cưỡi ngựa không.

Chỉ huy trưởng hỏi Vệ:

- Em biết cưỡi ngựa?

- Dạ...

- Cưỡi có khả không?

- Em cưỡi được cả ngựa không yên cương.

- Em chạy ra tàu ngựa bất con ngựa trắng của anh đã đóng yên sẵn. Em cố đưa Hiền thật nhanh về đài quan sát.

- Báo cáo rõ!

Chỉ vài phút sau Vệ đã ngồi chễm chệ trên lưng con ngựa trắng cao lớn, từ phía tàu ngựa sau sân chùa chạy ra.

Chỉ huy trưởng với tay lấy chiếc ống nhòm treo trước bàn làm việc trao cho Hiền:

- Em dùng cái ống nhòm này tốt hơn.

Vệ cho ngựa đứng ghé sát vào thềm chùa gọi Hiền:

- Cậu trèo lên đi. Nhớ vòng hai tay ôm ngang bụng mình cho thật chắc. Mình phi nước đại đây!

Hiền quàng dây cái ống nhòm qua cổ, trèo lên lưng ngựa phía sau Vệ. Vệ giật mạnh dây cương, thúc gót vào hông ngựa. Con ngựa hí lên dựng bờm gõ móng, vọt ra khỏi cổng Tam Quan. Vệ ra roi, con ngựa lồng bốn vó, phi nước đại. Một làn bụi đỏ khé cuộn lên dưới vó ngựa, mỗi lúc một xa hút.
Chi huy trưởng đứng giữa sân chùa, tay bóp bóp cằm, nhìn theo cho đến lúc bóng ngựa khuất hẳn sau khúc đường cong. Không ngờ chú bé cưỡi ngựa khá thế! Không khác gì một tay kỵ mã nhà nòi! - Chi huy trưởng gật đầu tấm tắc khen. Từ chỉ huy sở vê đến đài quan sát không phải gần nhưng nhờ con ngựa rất hay và tài cưỡi ngựa tuyệt giỏi của Vệ, sau hơn hai mươi phút Hiền đã về được đến nơi Hiền tụt xuống ngựa: Nhảy hai ba bậc thang một.
nhào lên tầng thượng ngôi lầu, nơi có đặt đài quan sát bí mật.

- Hiền! - Đồng, Hòa và Nghĩa cùng reo lên mừng rỡ đến nghẹn ngào.

- Còn không? - Hiền hỏi qua tiếng thở gấp.

- Còn. Vẫn còn...

Không kịp nói gì thêm, Hiền tựa ngực vào bờ công sự, chĩa ống nhòm về phía người đánh tín hiệu.

Chiếc ống nhòm của chi huy trưởng thật tốt. Vừa chinh hình xong, Hiền đã mừng rỡ reo to:

- Tín hiệu đã đọc được! Các cậu lấy ngay giấy bút ra đi! Em nói như ra lệnh.

- Ghi nghe.

Hiền cao giọng đọc to rành rọt từng tiếng một, tưởng như em đang đánh vần những tiếng đó từ cái khoảng trời xanh ngập nắng mênh mông đằng trước:
"Sau ngôi nhà tôi đứng. Xì tốp. Yêu cầu bắn. Xì tốp Một kho xong đạn lớn ngay phía sau ngôi nhà tôi đứng. Xì tốp. Yêu cầu bắn!" Đồng và Nghĩa chân qùy chân chống, kê sổ tay lên thành công sự, cắm cúi ghi. Có con gì cắn ngứa điên ở cổ, hai em không dám ghi sợ bỏ sót một chữ nào trong bức điện. Trong lúc đó dưới chân cầu thang, các anh lớn trong đơn vị đứng chen chúc nhau, mặt hếch hết cả lên, hồi hộp theo dõi cuộc nhận điện. Nếu không có lệnh cấm của đại đội trưởng chắc các anh đã ùa hết lên.

Hiền đọc đi đọc lại bức điện ngắn đánh bằng cờ tín hiệu trên đúng được bốn lần thì từ phía khu vực Pháp tiếng súng rộ lên, súng trường, trung liên lẫn đại liên.

Tùng tràng, tùng tràng, tiếng súng kéo dài mãi tưởng như không bao giờ dứt.
úi chao ơi! - Hiền bỗng kêu to thất thanh.

- Cậu làm răng rứa? - Đồng và Nghĩa đứng bật ngay dậy, tái mặt hỏi.

Nhưng không thấy Hiền trả lời, hai mắt em vẫn dán chặt vào kính ống nhòm. Qua màn kính, người đánh tín hiệu đang đưa cao hai lá cờ rồi bắt chéo trước ngực ra hiệu dứt câu, bỗng đột ngột buông thõng hai tay xuống như bị chém sả hai vai. Chừng hai phút sau người đánh tín hiệu như vụt bừng tỉnh dậy sau một cơn ngủ thiếp mê man, vung mạnh hai lá cờ tín hiệu lên. Hiền chưa kịp hiểu nguyên nhân đã phải vội vàng đọc to từng chữ cái một, tù hai lá cờ tín hiệu tung ra.

- Vê i en nớ... hát... nặng! Trời ơi, thằng Vịnh Sưa! - Hiền sửng sốt la lên, cùng một lúc ở phía xa, hai lá cờ tín hiệu tuột khỏi tay Vịnh, lăn lông lốc theo chiều dốc mái lầu.

- Úui chao ôi ! . . . Rứa mà ai cũng đoán chắc cậu ấy đã hy sinh giữa vòng vây giặc đêm qua rồi... - Hoàn toàn kiệt sức. Hiền ngồi phệt xuống thềm công sự, một tay cầm ép cái ống nhòm vào giữa ngực. Cả người em run lên bần bật như vừa phải nhấc xong một vật gì nặng quá sức Em há hốc miệng thở dốc, mặt trắng bệch như tờ giấy.

Khoảng nửa giờ sau. Chỉ huy trưởng và đội trưởng có mặt ở đài quan sát. Hai người chuyền tay nhau cái ống nhòm nhìn về phía người chiến sĩ thiếu niên hy sinh, đứng cao lồng lộng giữa bầu trời thành phố. Điều làm cho cả hai người hết sức ngạc nhiên là chắc chắn em đã bị bọn giặc giết mà làm sao em vẫn đứng thẳng được trên nóc lầu. Không chịu ngã? Vệ cũng có cặp mắt rất tinh, em cầm lấy cái ống nhòm trong tay đội trưởng, đưa lên mắt. chỉ sau một phút nhìn chăm chú, em đã phát hiện ra Vịnh - sưa được buộc vào cột thép thu lôi, ngang giữa bụng. Em còn thấy thêm nửa người trên của Vịnh hơi ngả về đằng trước.

Chỉ huy trưởng mở xà cột lấy tấm bản đồ Mặt trận, trải rộng ra trên nền sân thượng. ông cầm ống nhòm quan sát địa hình địa vật chung quanh ngôi lầu Vịnh đứng, chốc chốc lại cúi xuống ghi lên bản đồ những ký hiệu bằng chì xanh đỏ.

Gấp bản đồ bỏ vào xà cột, ông đọc lại một lần nữa bức điện ngắn ngủi mấy chục chữ mà mà chú bé chiến sĩ của ông phải đổi bằng cả cuộc đời mười bốn tuổi của mình.

Chỉ huy trưởng rời khỏi đài quan sát, phi ngựa về thẳng khu A gặp Trung đoàn trưởng. ông trao bức điện cho trung đoàn trưởng, và báo cáo lại hoàn cảnh đánh điện, trường hợp hy sinh của em Vịnh.

Đọc bức điện đến câu: "Yêu cầu bắn". Trung đoàn trưởng thấy d.a thịt mình nổi gai và máu trong huyết quản bùng sôi. ông tưởng chừng như đó là mệnh lệnh được ngưng tụ lại qua mấy chục ngày đêm chiến đấu, để lúc này bất thần vang to lên bên tai ông như một tiếng sét.

Chỉ huy trưởng mở bàn đồ, trình bày với ông kế hoạch tác chiến...

Năm giờ ba mươi chiều. Trung đoàn trưởng điều động và bố trí xong những lực lượng cần thiết để đánh kho xăng và đạn bí mật của giặc. Ngoài "ông già bảy lăm" ông còn điều động ở các mặt trận về năm khẩu cối tám mốt ly với rất nhiều đạn. Đại đội Quyết Tử Quân cử một trung đội được trang bị súng ba - zô - ca và súng phóng bom do Ban Quân Khí trung đoàn chế tạo, bí mật luồn sâu vào đến ngôi nhà Vịnh Sưa đứng, phối hợp chiến đấu.

Trước giờ nổ súng quy định, trung đoàn trưởng gọi điện đến từng đơn vị một, kiểm tra lần cuối cùng, và nói:

- Các đồng chí. Đứa em trai thân yêu, người đồng đội nhỏ tuổi của chúng ta tuy đă hy sinh nhưng hiện vẫn còn đứng sừng sững trên đầu bọn giặc nước! Em đứng để làm chuẩn cho các đồng chí bắn trúng, và để nhìn chúng ta chiến đấu. Các đồng chí hãy cố gắng làm sao cho đêm hôm nay, ngọn lửa các đồng chí thiêu đốt quân giặc, bốc lên thật to, thật cao, soi thật rõ cho cả thành phố nhìn thấy tư thế lẫm liệt của em!

Mười giờ tối. Cả mặt trận thành Huế phút chốc rung lên trong tiếng gầm nổ dữ dội của các loại súng đạn cầu vồng.

Nửa giờ sau, như không thể chịu nổi sức nổ dồn dập, quyết liệt của quân ta, một cột lửa đỏ khé vụt dựng lên chính giữa trung tâm khu vực bọn Pháp đóng. Cột lửa mỗi lúc dựng cao hơn, tỏa rộng, chiếu đỏ rực cả bầu trời thành phố. Thân hình trần trụi, nhỏ bé mà lẫm liệt của người chiến sĩ thiếu niên đứng chon von trên đầu bọn giặc nước, cùng với cây cột thép thu lôi, mỗi lúc càng thêm lồ lộ rực rỡ trên cái nền đỏ chói chang dữ dội ấy, tưởng như chính lửa đã tạc khắc lên . . .

* *

Sau cái đêm ngọn lửa đốt kho xăng và đạn giặc chiếu sáng cho cả mặt trận nhìn thấy một đội viên của đội Thiếu Niên Trinh Sát đã chiến đấu và lập công như thế nào, thì không ai được các anh bộ đội chiều chuộng bằng các em trong đội. Các em đến đâu cũng được các anh vồn vã, niềm nở tiếp đón.

- Chú có phải là đội viên đội Thiếu Niên Trinh Sát không?

- Dạ phải ạ. - Các em hãnh diện trả lời.

- Rứa thì vô đây cái đã, vô đây! - Các anh tíu tít kéo các em vào ụ súng, chiến hào, hoặc nơi trú quân. Các anh bày lên một hòn đạn nào bánh, nào kẹo, nào đồ hộp chiến lợi phẩm... bắt các em ăn. Các anh nài nỉ các em kể cho nghe ngọn ngành đầu đuôi câu chuyện cái chú tự buộc mình vào cột thép thu lôi... chết đứng như Từ Hải trên đầu bọn giặc...

Cả đội, em nào cũng nhận: "Cậu ấy cùng một tổ với em. Đêm mô ngủ cũng đắp chung với em một mền..." Tư Dát kể, giọng tỉnh khô: "Cái đêm trước buổi sáng trèo lên buộc mình nào cột thép thu lôi đánh tín hiệu cậu ấy và em còn ăn chung với nhau một đòn bánh tét.

Cậu ấy cắn một miếng. Em Cắn một miếng. ăn đến quá nửa đòn. Cậu ấy thôi không an nửa, nói với enl: "Thôi cậu ăn hết đi, Vịnh ăn rứa đủ rồi. Vịnh sợ ăn nhiều nặng bụng khó trèo.

Rồi bao nhiêu đức tính tốt đẹp nhất mà trí tưởng tượng phong phú của các em có thể nghĩ ra được, các em đều đem gán hết cho Vịnh. Cứ như vậy, cuộc đời "Chú-thợ-súng-nhỏ" mỗi ngày càng đi xa hơn cuộc đời thực. và dần biến thành một nhân vật truyền thuyết của thành Huế.
 
Chương 23



Trạm Quân Y mặt trận khu C đóng ở Nam Giao, trong 1 dinh cơ của một chủ hãng buôn giàu có nổi tiếng ở Huế. Chủ nhà và gia đình đã tản cư trước ngày Huế nổ súng. Mặt trận khu trưng dụng dinh cơ làm trạm Quân Y.

Cả dinh cơ rộng hơn một mẫu tây, gồm một tòa nhà hai tầng nằm chính giữa, và nhiều dãy nhà một tầng vây xung quanh. Khu vườn trước và sau xanh rợp bóng cây ăn quả: mít, xoài, thanh trà, chôm chôm, vú sữa...

Hàng trăm thương binh của mặt trận được đưa về đây điều trị. Quỳnh-sơn-ca được bố trí nằm điều trị trong khu nhà chơi mát góc bên trái vườn. Là thương binh bé nhất trạm, em được cả trạm từ bác sĩ đến các chị hộ lý đặc biệt chiều chuộng.

Vết thương ở chân em bị nhiễm trùng rất nặng.

Sáng hôm đó, đến trạm chỉ vài giờ sau là em lên cơn sốt giật và bắt đầu mê sảng. Nhiệt độ lên đến bốn mươi độ.

Bàn chân đau sưng đỏ đến tận đầu gối. Chốc chốc cả người em lại co rúm, mắt dại hẳn đi. Chứng tỏ em đang phải chịu đựng những cơn đau nhức khủng khiếp. Lúc mê sảng tay em cứ đưa lên quờ quạng trước mắt như đang gắng xua đuổi một vật gì đó, và em cứ nhắc đi nhắc lại một câu: "...Không. Không... Con không về mô... Con đi Vệ Quốc Đoàn cho tới chết..." Và gương mặt em lúc này thật tội nghiệp, thật dễ thương và đẹp lạ lùng. Các chị y tá cứu thương mỗi lần ngang qua, đều cúi xuống hôn em. Vùng trán em trắng xanh như cẩm thạch, bao quanh vừng tóc tơ rối quăn quăn như mũ miện các hoàng tử trong cổ tích. Đôi mắt em mở to bừng bừng ánh lửa sốt, che rợp hai hàng mi dài cong vút, cái miệng thiên thần. Nhìn một đứa trẻ như em lên cơn mê sảng quả là một cực hình quá mức chịu đựng của người lớn. Bác sĩ, y tế, hộ lý và các anh thương binh nhúc nhắc đi lại được kéo đến đứng ngấp nghé ngoài cửa sổ nhìn em đều phải quay mặt đi chùi nước mắt.

Hai hôm đầu tình trạng của em có thể nói vô cùng nguy kịch. Bác sĩ trạm trưởng mấy lần đã định cắt bỏ chân em quá gối. Nhưng rồi ông bỏ ý định đó. ông cứ lắc lắc cái đầu đội mũ vải trắng ba cạnh thêu chữ thập đỏ trước trán, chép chép miệng nói lẩm bẩm một mình:

"Tội nghiệp quá đi... Tội nghiệp quá đi ". ông quyết đấu với thần chết giành bằng được người chiến sĩ bé bỏng này ra khỏi tay lão ta. Ông tập trung những thứ thuốc tốt nhất của trạm cứu chữa cho em, kết quả ông đã thắng. Tình trạng em khá dần. Em đã thôi mê sảng, cơn sốt bị đánh lui, chân tuy vẫn còn sưng đỏ nhưng bớt nhức buốt, ít co giật. Sau một tuần, em đã nhúc nhắc ngồi dậy được, và ngủ được những giấc dài. Bàn chân đau của em bớt sưng đỏ trông thấy. Và cũng chỉ trong vòng một tuần mà em nổi tiếng cả trạm về tài gan chịu đau. Vết thương dưới bàn chân em phải xẻ rộng khoét hết những chỗ thịt thối, mà trạm lúc này không còn lấy một giọt thuốc tê. Lên bàn chân mổ, các chị y tế lấy băng trói chân tay em lại và đoán chắc em sẽ khóc thét vùng vẫy ghê gớm lắm. Nhưng em nói với các chị:

- Đừng trói em, em không vùng mô mà các chị sợ!

Không ngờ đến lúc mổ, các chị y tá, bác sĩ và mấy anh thương binh đứng ngoài nhìn vào, đều sững sờ kinh ngạc trước sức chịu đựng khó tin của em. Suốt gần một tiếng đồng hồ xẻ rộng vết thương, cắt bỏ thịt thối. Làm thuốc, băng bó em nằm như dán chặt vào bàn mổ, da mặt tái nhợt, hai hàm răng nghiến chặt đến nỗi người nhìn phải lo sợ rằng em có thể bị vỡ vụn. Nhưng em không một tiếng kêu khóc, không một chút vùng vẫy. Cả người em chỉ co giật nhè nhẹ. Chính những người nhìn em lại khóc, có người phải lấy tay che mặt quay đi.

Sau khi mổ, các chị y tá đưa em trở lại gi.ường hỏi:

- Lúc đó em có đau lắm không?

- Em tưởng chết mất.

- Thế làm sao em chịu đựng được?

Em mỉm cười, yếu ớt:

- Em... em dạo lại trong trí nhớ những bản nhạc mà em yêu thích. Em dạo được ba bản xô-nát thì bác sĩ mổ xong... Em chợt im lặng, mắt mở to đăm đăm nhìn lên trần nhà, hàng mi dài cong vút chớp chớp, như đang mài lắng nghe một âm điệu gì đổ hay lắm, từ một nơi rất xa vọng lại. Em bỗng chép miệng nói tiếp: "Lúc đó mà em được nghe lại bản nhạc Dòng Sông Da-nuýp Xanh"... chắc em sẽ đỡ đau hơn nhiều...". Mấy chị y tá nghe em nói càng ngơ ngác, sững sờ hơn.
 
Chương 24



Gần như ngày nào Mừng và Vệ To Đầu cũng thay nhau chạy lên trạm Quân Y thăm Quỳnh. Sau ngày Vịnh Sưa hy sinh, đội trưởng cử Vệ làm tổ trưởng. Hai em phải đảm đương công việc của cả tổ nên khá vất vả. Cả hai phải chạy như cờ lông công suốt ngày trên khắp mặt trận, liên lạc, truyền tin, trinh sát, đưa công văn giấy tờ...

Và bao nhiêu công việc vặt vãnh khác mà người chiến sĩ liên lạc lúc lâm trận phải đảm đương. Hai em phải tranh thủ mọi thời cơ để có thể hàng ngày tạt vào trạm Quân Y ngồi chơi với bạn một lúc.

Một buổi chiều, Mừng chạy liên lạc lên chỉ huy sở trở về, tạt vào trạm Quân Y thăm Quỳnh. Quỳnh vừa tiêm thuốc xong, chị y tá ngồi ở đầu gi.ường nói chuyện với em, tay vẫn cầm cái hộp xi-ranh và hộp thuốc. Mừng đẩy nhẹ cửa bước vào phòng. Em đội mũ cứng Tiếp Phòng Quân, vành mũ sụp xuống che kín trán, áo trấn thủ, ngang lưng thắt xanh - tuy - rông, bên hông giắt quả lựu đạn O.F, quần xắn quá gối, hai bàn chân trần đen đũi trát bùn đã khô se. Em bước đến cạnh gi.ường bạn, để lại trên nền đá hoa những lốt chân đen ngòm.

- Chào chị?... - Em lễ phép chào chị y tá, rồi hất vành mũ lên cao, nhìn bạn cười rạng rỡ.

Quỳnh cười với bạn, ngoảnh sang nói với chị y tá:

- Bạn em là vua trèo cây đó chị ạ. Bao nhiêu cây cao nhất của Huế mình cậu ta đều đã trèo tuốt lên ngọn...

- Úui chao, em nghịch đến nước ấy à?

Mừng đỏ mặt, bối rối.

- Không phải cậu ta trèo nghịch mô chị ạ...- Quỳnh nhìn bạn, ánh mắt âu yếm - Mình kể chuyện trèo cây cho chị nghe, cậu đừng giận mình hí...? Quỳnh... Đừng...?

Quỳnh tảng lờ như không nghe bạn gọi, vừa cười cười vừa kể cho chị y tá nghe chuyện Mừng đi tìm thuốc cho mẹ. Chuyện Mừng nhập Vệ Quốc Đoàn bằng cách chui bừa vào giữa hàng ngũ của đội...

Nghe chuyện, chị y tá miệng cười mà mắt rớm lệ. Chị cầm cổ tay đen đũi của Mừng kéo em lại đứng sát vào mình, nhìn em và nói:

- Chị ước chi có quyền được gọi tất cả những kẻ hắt hủi cha mạ, đối xử cha mạ không ra chi, đến ngay đây để được nhìn thấy mặt em...

Quỳnh thổ lộ với chị một niềm mơ ước mà em ấp ủ từ lâu:

- Khi mô Huế mình được giải phóng, em sẽ xin học trường nhạc. Em sẽ gắng học thật giỏi.... Em sẽ sáng tác một vở nhạc kịch, kể chuyện Mừng đi tìm thuốc cho mẹ. Em tin chắc vở nhạc kịch của em sẽ hay, rất hay... hay không kém gì vở "Cây Sáo Thần" của nhạc sĩ Mô-da. Chị không tin à? Thì chính Mô-da sáng tác vở nhạc kịch đó khi ông ta còn ít tuổi hơn em bây giờ...

Chị y tá xem chừng chẳng biết mô tê gì chuyện nhạc kịch với Mô-da. Chị chăm chăm nhìn em rồi chợt hỏi:

- Em Mừng thì do đi tìm thuốc cho mẹ mà vô Vệ Quốc Đoàn, còn em thì do cái chi rứa?

Quỳnh mỉm cười khẽ lắc lắc cái đầu xinh đẹp, đội vừng mũ miện tóc tơ quăn rối, chực đánh trống lảng.

Nhưng trước ánh mắt chăm chăm đợi chờ của bạn và chị y tá, em nhỏ nhẻ nói:

- Em đi Vệ Quốc Đoàn vì những bài hát cách mạng... Chị không thể tưởng tượng được, em yêu nhạc đến như thế nào... Cũng bởi em được nghe nhạc, học nhạc từ ngày chập chững biết đi. Cả nhà em, mạ em, hai chị em đều biết chơi dương cầm, nhất là chị Hoài Trang của em, chị ấy chơi dương cầm hay mê hồn. Nhiều đêm đang ngủ em chợt tỉnh giấc, xung quanh vắng lặng hoàn toàn, em nghe các bức tường trong phòng em ngân nga hòa nhạc với nhau... lạ lắm chị ạ, nói chắc chị không tin, nhưng em nghe thật mà. Chúng hòa lại những bản nhạc mà các chị em với em thường đàn. Lên năm tuổi em đã chơi thạo những bàn nhạc ngắn của Mô-da và em cũng sáng tác được một bản nhạc đầu tiên tên là "Cái Chết Của Con Ếch Xanh Tội Nghiệp". Ở đây mà có đàn, em sẽ đàn cho chị nghe. Chị và Mừng sẽ khóc và thương con ếch xanh của em cho coi. Hồi còn ở nhà, hễ bao giờ dạo lại bản nhạc này em cũng khóc. Em thương con ếch xanh quá. Em nghe chị Hoài Trang em chơi những bản nhạc của Mô-da, của Su-be... em cũng khóc...

- Nghe buồn quá à?- chị y tá hỏi.

- Không phải vì buồn đâu chị ạ. - Quỳnh lại lắc lắc nhè nhẹ cái đầu tóc quăn rối.- Không những bản nhạc ấy không buồn chút nào hết, mà vì nó hay quá, hay đến phát khóc lên. Nhiều lần chỉ mới nghe chị em nhấn mấy hòa âm đầu tiên là mũi em đã cay xè. Em dễ khóc thật... Cả nhà em vẫn gọi em là thằng-cu-khóc. Thế rồi Cách Mạng Tháng Tám, các bạn bằng tuổi em trong vùng Vĩ Dạ, đều vào các đội Nhi Đồng Cứu Quốc, tập một hai, đi biểu tình, mít tinh vui nghê lắm. Em thèm được vào đội như các bạn quá, nhưng ba mạ, ba mạ không cho. Ba mạ em bảo: Mình là con nhà quyền quý, chơi chung chơi lộn với con nhà khố rách áo ôm sao được con! Không hiểu sao, nghe ba mạ em nói rứa, em bỗng thấy buồn và giận ba mạ em quá chừng. Em chỉ muốn bỏ nhà trốn đi. lạ cái là từ trước đến nay, em chưa giám giận ba mạ em lần mô. Ba mạ em cưng chiều em ghê lắm, em là con trai út độc nhất của ba mạ mà.
Hồi đó có một đơn vị Vệ Quốc Đoàn đến đóng ở ngôi chùa cách nhà em không xa. Một bữa, em đi chơi ngang qua, em thấy các anh đang tập họp trước sân chùa, vừa vỗ tay vừa hát những bài "Bao Chiến Sĩ Anh Hùng", "Đoàn Vệ Quốc Quân Một Lần Ra Đi", "Diệt Phát Xít", "Đuốc Gươm Thiêng Vung Cho Nước Nhà", "Mắng Việt Gian.. em đứng sững lại lắng nghe, và da em tự nhiên nổi hết gai ốc...". Những bài hát cách mạng em được nghe lần đầu tiên do các anh Vệ Quốc Đoàn hát lên, làm cho em cảm động hơn cả nhạc của Su-be, của Mô-da, mặc dầu các anh hát có sai nhạc. Tuy chưa được đọc những bản nhạc ấy, nhưng vì được học nhạc từ bé nên em biết là các anh hát còn sai nhạc. Thế là em chạy bay về nhà. Mở đàn dạo lại theo trí nhớ những bài hát vừa được nghe. Em ghi nó ra giấy, cố mày mò sửa lại cho đúng theo phép tắc hòa âm trong âm nhạc. Nhưng mất cả buổi chiều em vẫn thấy không kết quả lắm. May quá vừa lúc đó có anh Hoàng Cương, bạn thân của chị Hoài Trang em, đến chơi. Anh là học sinh năm thứ hai ban tú tài triết học trường Khải Định. Anh rất giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, cũng là một cây mê nhạc. Anh ấy có thể ngồi suốt cả buổi, kiến đốt không nhúc nhích để nghe chị Trang em đàn. Khi biết em đang làm gì, anh nói: "Em không phải mất công mày mò làm gì. Anh có cậu bạn có một tập đầy đủ hết các bài hát Cách Mạng. Ngày mai cậu ta đã lên đường Nam tiến rồi. Tối nay anh sẽ đến thăm cậu ta, đề nghị cậu ta tặng lại cho em tập bài hát đó". Sáng hôm sau anh Cương đến rất sớm mang đến cho em một tập bài hát chép tay, những bài hát Cách Mạng. Trên trang đầu có ghi dòng chữ với nét chữ ngang tàng nhưng thật đẹp:

"Anh tặng Quỳnh, chú bé nhạc sĩ tương lai mà anh chưa được biết mặt. Anh mong em dùng những bài hát này như người chiến sĩ dùng thanh gươm, khẩu súng, sát cánh cùng các anh, tiêu diệt kẻ thù không đội trời chung của tổ quốc. Anh Lê Xanh". Em hỏi anh Cương:

"Anh Lê Xanh học cùng lớp với anh à?" - "Không, anh ấy là thợ điện. Cả nhà anh ba đời là thợ điện. Anh chưa được cắp sách đến trường bao giờ. CÓ lẽ do gần điện từ nhỏ mà anh ấy sáng láng vô cùng. Tự học mà biết cả nhạc, cả vẽ, đọc được sách truyện bằng tiếng Pháp. Anh hoạt động cách mạng từ hồi bí mật, có chân trong ủy ban khởi nghĩa thành phố Huế mình. Anh ấy là Đảng viên Cộng Sản". Chỉ mới nghe kể thôi mà tự nhiên em thấy yêu anh ấy quá. Em hôn lên chữ ký của anh ấy ba bốn lần và ước được gặp anh ấy một lần... Ngày hôm đó em đàn suốt lượt cả tập bài hát anh Xanh cho. Bài nào cũng hay lạ lùng chị ơi! Hay đến phát khóc lên được?

Nghe âm thanh những bài hát ấy vang lên dưới mười ngón tay em, không hiểu sao em muốn bỏ nhà đi, em muốn đi theo các anh hoạt động bí mật, muốn làm cách mạng, làm Vệ Quốc Đoàn Nam tiến, làm đảng viên Cộng sản như anh Lê Xanh... Bữa đó em đang vừa đàn vừa hát thì ba em bước vào buồng, cau mặt nói: "Mấy cái bài hát ấy ra cái chi mà con cứ đàn đi đàn lại hoài làm cho cả nhà điếc tai?" Em sửng sốt nhìn ba em: "Hay lắm chứ ba?" Ba em tự nhiên quát lên: "Chỉ có quân khố rách áo ôm, chỉ có tụi cóc nhái nhảy lên làm người mới thích cái thứ bài hát ấy?" Nếu ba em đánh em, tát em lúc đó em cũng không ngạc nhiên bằng nghe ba nói như vậy. Em đứng phắt ngay dậy khỏi ghế kêu lên: "Sao ba lại nói rứa ba? Đó là những bài hát cách mạng mà". Bỗng nhiên ba em bước đến, giật tập bài hát đó em đang dựng trên nạp đàn xé roạt roạt thành hàng chục mảnh, ném qua khung cửa sổ, nói: Cách với mạng này! Em khóc suốt cả buổi chiều hôm đó, mạ em dỗ chi em cũng nhất định không ăn cơm. Sáng hôm sau, em dậy lúc cả nhà còn đang ngủ, em lấy cái đàn măng-đô-lin mà từ lâu lắm em không sờ đến, lẻn trốn ra khỏi nhà. Em đi thẳng đến chỗ đơn vị Vệ Quốc Đoàn, gặp anh chỉ huy, nói: "Anh cho em vô Vệ Quốc Đoàn với. Em còn nhỏ, em chưa làm được việc chi thì em đàn em hát cho các anh nghe. Em dạy hát cho các anh. Các anh hát sai ghê". Rồi không đợi cho anh chỉ huy phải hỏi, em vừa đàn vừa hát một lượt tất cả những bài hát trong tập bài hát cách mạng của anh Lê Xanh. Cả đơn vị liền vây quanh lấy em. Em đàn hát xong một bài, các anh lại vỗ tay hoan hô rầm rầm. Thế là anh chỉ huy đồng ý lấy em vào đơn vị vừa làm liên lạc vừa dạy hát cho các anh.

- Sau đó cha mạ em không đến tìm bắt em về à? - Chị y tá lấy năm ngón tay làm lược, chải chải tóc cho em, hỏi.

- Có chứ chị. Mạ em, hai chị em, đến tìm em hàng chục lần. Nhưng em cương quyết không về. Em nói: "Con đi Vệ Quốc Đoàn cho đến lúc chết thì thôi, con không về nhà nữa mô!". Lúc nhắc lại câu này, cặp mắt mớ to mênh mông của em bỗng tối sầm lại, và trên vàng môi thơ ngây của em hằn lên một nếp buồn giận không thể gì nguôi được.
 
Chương 25




Buổi trưa ở trạm Quân Y. Quỳnh đang nằm, một tay áp dưới má, ngủ say. Em bỗng choàng tỉnh dậy như bất thình lình có ai quát gọi sát bên tai. Gương mặt em lộ vẻ bàng hoàng, ngơ ngác. Em chớp chớp mất, đầu nghiêng nghé như cố hết sức lắng tai nghe một cái gì đó từ xa vọng tới. Em nhận ra hình như tiếng đàn dương cầm vẳng lại từ phía tòa nhà chính, nhưng lạ một cái là từng âm thanh rời rạc, vô nghĩa không ra một giai điệu, hòa âm gì hết. Giống như có một bọn trê nghịch phá, gõ lung tung bậy bạ lên các phím đàn. Em dụi dụi mắt: "Hay là mình nằm mê?" Không, rõ ràng em tinh ngủ rồi mà. Và lúc này tiếng đàn vẳng đến càng vang to hơn. Có những âm thanh như kêu thét, có những âm thanh rền rĩ, chen lấn nhau hỗn loạn. Là một người chơi dương cầm, những âm thanh như vậy làm cho em cảm thấy nhức nhối khó chịu. em muốn gọi chị y tá lại hỏi, nhưng không thấy có chị nào thấp thoáng bên ngoài cả. Em ngồi hẳn day, bàn chân đau băng kín, tráng toát, gác lên thành gi.ường. Tiếng đàn lại càng rên rú hỗn loạn hơn. Em phải bịt tai lại, vì không thể chịu đựng được hơn nữa. Em định bước xuống gi.ường, cố lần tìm đến chỗ có tiếng đàn lạ lùng kỳ quái ấy. Nhưng bàn chân đâu vừa cham đất em phải rụt ngay lại. Đau quá, em chưa thể đi một mình được. Vừa vặn lúc đó Mừng từ ngoài vườn chạy vào, tay cầm một vật gì sáng trắng mà lúc đầu Quỳnh không để ý. Thấy bạn gần như ngồi xổm trên gi.ường, Mừng ngạc nhiên hỏi:

- Cậu đang làm chi rứa? Rứa mà mình cứ tưởng lúc ni chắc cậu đang ngủ.

Quỳnh hấp tấp hỏi lại bạn:

- Cậu có nghe tiếng gì không?

Mừng dỏng tai lên nghe, toét miệng cười:

- À tiếng kêu cái thùng chi chi ấy, đẹp lắm, ở trong cái buồng nhỏ phía sau ngôi lầu ấy mà.

Rồi Mừng vui vẻ kể cho bạn nghe. Phía sau ngôi lầu có một gian buồng hẹp, mấy lần cửa khóa kín. Có mấy anh thương binh tìm được ở đâu cái xà beng rất bự, nậy cửa ra coi bên trong chủ nhà cất giấu cái chi mà khóa đến hai lớp khóa Vừa lúc đó mình đi ngang qua, thấy rứa cũng tò mò ghé lại coi chút cho biết tưởng có chi quý giá lắm. Té ra chỉ có một cái bàn rất to. Mà cái bàn ni coi hình thù tức cười ghê lắm, có đến năm cái chân!

Ba chân to ba góc lại thêm hai chân nhỏ nằm giữa gần sít nhau - Mừng bật cười to và hình ảnh ngộ nghĩnh cái bàn năm chân - Chắc họ sợ hắn đứng không vững nên mới đóng thêm hai chân phụ nữa cậu hè? Cái nắp bàn rất dài, mở ra đóng lại được. Mở nắp ra bên trong có một hàng dài những miếng gỗ nằm sít nhau, trắng như hàm rồng giữa những cái răng trắng nằm chen những cái răng đen nhỏ hơn mà ngắn hơn. Mấy anh đụng tay vô hàm răng đó tự nhiên trong bụng cái bàn kêu toáng lên. Đụng mạnh hắn kêu to, đụng nhẹ hẳn kêu nhỏ. Lúc đầu bất thình lình nghe hắn kêu các anh hoảng nhảy lùi cả lại Có anh còn nằm rạp xuống đất sợ hắn nổ bất từ như lựu đạn. Một lúc không có việc chi, các anh mới thi nhau đấm tay vô hàm răng để hắn kêu chơi. Uúi chao? Hắn mới kêu dữ chứ cậu. Mình cũng hùa mô đấm chơi, đấm cả răng trắng, cả răng đen đều kêu hết! Đấm chán các anh lấy mũi dao găm cậy răng hắn ra coi chơi. Mình cũng cạy được một cái răng trắng đây, định đem cậu coi cho biết. - Mừng đưa cho Quỳnh cái vật trăng trắng từ nãy tời giờ vẫn cầm lăm lằm trong tay. - Mà gỗ hắn đẹp ghê lắm cậu ơi, chùi lớp bụi đi cái, bóng loáng soi gương được Rứa là các anh lại lấy mũi dao găm, lưỡi lê thi nhau nậy gỗ định đem cưa làm "ra két" đánh kiện. Mình cũng muốn cạy một miếng chơi nhưng không mượn được dao, tiếc quá Mải hào hứng kể, Mừng không để ý gương mặt bạn mỗi lúc một thêm tái nhợt. Quỳnh thảng thốt kêu lên như bất chợt bị ai chọc mạnh vào vết thương dưới gan bàn chân:

- Ui chao! Cái pi-a-nô!

Mừng ngơ ngác nhìn bạn:

- Cậu làm răng rứa? Vết thương lại đau à?

- Không, không phải, cái bàn năm chân đó chính là cái đàn dương cầm đó cậu ơi! Đàn à? - Mừng trố mắt hỏi. - Giống như cái ở nhà cậu mà hồi trước lần mô đi ngang qua mình cũng nghe tiếng không?

- Đúng rồi! Mà cái bàn này còn quý hơn gấp bao nhiêu lần cái đàn ở nhà mình ấy! Hắn có đàn được bài "Bao Chiến Sĩ Anh Hùng" với "Vệ Quốc Quân Một Lần Ra Đi" không?

- Đàn được tất! không có bài chi là đàn được.

- Ui chao, rứa mà các anh cạy ván vặn răng hắn e hắn hư mất thôi cậu ơi. - Bây giờ đến lượt Mừng sửng sờ nói. Nỗi lo lảng của bạn đã thật sự lây sang em, mặc dầu là lần đầu tiên em được nhìn thấy cây đàn dương cầm mà tất cả giá trị của nó đối với em là đàn được bài "Bao Chiến Sĩ Anh Hùng", bài "Vệ Quốc Quân Một Lần Ra Đi" Để mình chạy ngay lên can các anh, may ra còn kịp. - Mừng vội vàng chớm chân định chạy.

Nhưng Quỳnh rất nhanh chồm ra khỏi gương vòng hai tay ôm choàng cổ bạn, nói giọng vô cùng khẩn khoản:

- Cậu cõng mình đi theo với. Đã lâu lắm mình không được mó tay đến các phím đàn. Mình thèm quá, nhớ quá cậu ơi?

Không kịp suy nghĩ lâu la. Mừng ngoặc luôn hai tay ra sau lưng ôm vòng hai chân bạn, xốc bạn lên lưng rồi cứ thế chạy thẳng một mạch không kịp thở, đến gian phòng có để chiếc dương cầm qúy giá sắp bị phá nát.

Chưa đến cửa, Mừng đã la to đến hụt hơi:

- Các anh ơi, đừng phá! Đừng phá! Cái đàn, cái đàn...nó hát được "Bao Chiến Sĩ Anh Hùng" với "Vệ Quốc Quân Một Lần Ra Đi" các anh ơi...

Trong phòng, quanh cái đàn dương cầm lớn chiếm gần kín nửa gian buồng, năm sáu anh thương binh người băng trán, người băng chân... người cầm dao, người cầm mã tấu, nậy, chặt lớp gỗ màu cánh dán bóng loáng của chiếc đàn. Quang cảnh giống hệt những người đi săn lúc hè nhau cắt xẻo con thú rừng to lớn vừa bị bắn hạ. Nghe tiếng kêu hớt hải của Mừng. Các anh dừng tay cả lại. Mừng đặt bạn ngồi xuống chiếc ghế đẩu mặt tròn kê sát tường, há hốc miệng thở đến muốn đứt hơi. Quỳnh nhìn chiếc đàn bị cạy chặt nham nhở miệng bỗng mếu xệch sắp khóc:

- Ui chao! - Các anh phá sập cả cái cầu Tràng Tiền em cũng không tiếc bằng....

Không còn nhớ gì đến cái chân đau. Quỳnh nhảy xuống ghế chạy nhào đến. Mừng thất sắc kêu:

- Ui Quỳnh! Em chụp lấy cái ghế chạy theo đặt cho bạn ngồi.

Ngồi trước chiếc đàn dương cầm to lớn đồ sộ, nom Quỳnh lại còn nhỏ bé hơn. Mặt em vụt tái đi khi tia mắt long lanh của em chạm phải màu sáng trắng lấp lánh những phím đàn. Hai bàn tay ngón thon dài như tạc bằng cấm thạch của em bỗng như hai cánh chim lướt bay là là trên dãy phím đàn. Cả gian buồng tranh tối tranh sáng phút chốc tràn ngập những âm thanh thánh thót, trầm bổng du dương. hay đến nỗi các anh đang đứng vây quanh đánh rơi cả mã tấu dao găm xuống đất Các anh đứng sửng miệng há hốc nhìn em như nhìn một nhân vật trong truyền thần tiên Gương mặt Quỳnh sáng bừng rạng rỡ như cây đèn lồng bỗng được thắp sáng ngọn nến ở bên trong. Ôi may mắn làm sao, cây đàn vỏ ngoài tuy bị phá hỏng khá nặng nhưng âm thanh vẫn còn nguyên vẹn. Em ngước lên nhìn khắp lượt các anh. hai tay em vẫn không ngừng chơi đàn ánh mắt em nồng nàn âu yếm, như thằm cảm ơn các anh đã không động đến âm thanh quý báu của nó. Cây đàn pi-a-nô lúc này sao mà giống con sơn ca bi người ta vặt trụi nhiều mảng lông. nhưng tiếng hót của nó may mắn chưa suy chuyển. Và nó đang hót lên những giai điệu tuyệt vời dưới hai bàn tay điều khiển của chú bé liên lạc. Mấy anh Vệ Quốc Đoàn đang đứng vây quanh cây đàn nhìn em kia, đều là những nông dân cùng khổ vùng Kế Môn, Đại Lược. Cả một đời họ chỉ được biết cây đàn qua câu chuyện Thạch Sanh: "Tích tịch tình tang, ai mang công chúa dưới hang lên lầu".

Đây là lần đầu tiên họ được nghe tiếng đàn, thấy cây đàn có thật trong cuộc đời. Họ nhìn em với cặp mắt hối lỗi, như muốn nói: "Em đừng giận các anh mà tội. Dưới thời nô lệ thằng Tây, các anh phải sống trong cùng khốn, đói rét, u mê, tối tăm. Các anh mô có biết cái bàn năm chân ni là cái đờn, nên các anh mới lỡ phá... Chừ được em nói cho biết rồi, đứa mô mà dám làm hư hoại nó, các anh sẽ cho biết tay".

Quỳnh lúc này đă hoàn toàn đắm mình vào âm nhạc. Tiếng đàn của em mỗi lúc một thêm ngân vang, dồn dập, quyến rũ... Từ những giai điệu dịu dàng, mơ màng, uyển chuyển như dòng sông Hương êm đềm trôi dưới ánh trăng, em vụt chuyển sang những giai điệu hùng tráng sôi sục của những ca khúc cách mạng. Dưới hai bàn tay mềm mại trẻ thơ của em, cây đàn phút chốc hóa thành một đơn vị Vệ Quốc Đoàn đang rầm rập tiến ra Mặt trận trong tiếng hát vang trời:

"Ra đi ra đi bảo tồn sông núi. Ra đi ra đi thà chết không lui... Cờ tay phất phới..."

Gian phòng đứng chật kín người từ lúc nào không ai hay. Thương binh, bác sĩ, y tá, hộ lý khắp cả trạm Quân Y nghe tiếng đàn dương cầm đột ngột vang lên, liền gọi nhau, dắt nhau, dìu nhau kéo đến mỗi lúc một đông. Âm nhạc cách mạng sục sôi nghĩa khí cuốn hút họ như một dòng thác, một cơn lốc. Một người nào đó, rồi tất cả đám đông, đứng vây quanh cây đàn và chú bé liên lạc, cùng cất vang tiếng hát hòa theo:

"Ngựa phi nơi xa kia nghe tiếng súng bên trời điệu kèn rộn ràng..."

Ở tầng gác hai, có một anh thương binh trẻ măng bị thủng nát hết ruột, đang giờ phút hấp hối, nghe tiếng đàn từ tầng dưới vẳng lên, tự nhiên anh tỉnh táo hẳn lại. Anh nằng nặc đòi các chị y tá khiêng anh xuống chỗ có tiếng đàn để anh được nghe rõ hơn trước khi chết. Thương anh quá, các chị phải chiều anh, vực anh vào cáng, sẽ sàng khiêng anh xuống. Đám đông rẽ ra nhường lối cho cáng anh đi vào sát bên chỗ Quỳnh ngồi đánh đàn. Anh mở to đôi mắt nhìn Quỳnh. Ánh mắt anh như ánh lửa xao xuyến, rung rinh sắp lụi tắt, trân trân dõi theo đôi bàn tay con nít trắng xanh của chú bé chiến sĩ múa lượn trên dãy phím đàn trắng, đen, lấp lóa. Miệng anh he hé như muốn uống cạn tiếng đàn để lấp kín những chỗ gan ruột của mình bị đạn giặc phá thủng nát. Đàn ngân lên một giai điệu cao vút, anh bung chống mạnh hai khuỷu tay xuống cáng, cố hết sức dưới cao đầu lên nhìn Quỳnh, tia nhìn ngầm ngập yêu thương. Đôi môi trắng bệch của anh mấp máy thì thào:

- Cảm ơn em...

Rồi anh vật đầu xuống cáng, thở hắt ra, trút hơi thở cuối cùng.
 
Chương 26



Tình hình mặt trận Huế lúc này có những biến chuyển hết sức quan trọng. Cục diện chiến đấu xoay chiều mỗi ngày thêm bất lợi cho quân ta. Ngày 17 tháng 1 năm 1947, quân tiếp viện của giặc từ Pháp sang đã đồ bộ lên vùng Thừa Lưu, Lăng Cô, phía cực nam của tỉnh Thừa Thiên. Từ Huế đến Lăng CÔ chi hơn sáu mươi cây số. Tụi giặc tiếp viện gồm những binh đoàn tinh nhuệ nhất của quân viễn chinh Pháp. Khoảng năm nghìn tên do hai tên thực dân cáo già là Đại Tá La-rô-cờ và Trung Tá Đô-rê chỉ huy.

Vừa đặt chân lên đất liền, bọn giặc đã nhanh chóng chia thành nhiều mũi, hình thành nhiều gọng kìm, ồ ạt tấn công ra phía Bắc Thừa Thiên. Chúng cố tiến thật nhanh đến Huế để giải vây cho đồng bọn bị vây h.ãm, có nguy cơ bị quân ta tiêu diệt.

Tiểu Đoàn 18 có nhiệm vụ trấn giữ mặt trận phía Nam đã chiến đấu hết sức quyết liệt để ghìm chân bọn giặc đổ bộ lại. Trong khi đó, các đơn vị vây h.ãm giặc ở Huế cũng dồn hết sức để tấn công địch, với hy vọng tiêu diệt được chúng trước khi bọn tiếp viện đến kịp. Trong đợt tấn công này quân ta đã thắng những trận xuất sắc: Tiêu diệt vị trí miếu Đại Càng, bắn ba chiếc máy bay Mô-ran ở vùng núi Tam Thai.

Nhưng thế giặc lúc này đang quá mạnh. Phòng tuyến phía nam quần ta phải vừa đánh vừa lùi, rút bỏ hết phòng tuyến phòng ngự này đến phòng tuyến phòng ngự khác.

Trước tình hình khẩn cấp, ban chi huy trung đoàn điều động một số đơn vị đang tham chiến ở Huế, tăng viện cho mặt trận phía Nam. Chỉ huy trưởng mặt trận khu C Phùng Đông cũng được điều động về chỉ huy mặt trận này.
Gần một chục đội viên Thiếu Niên Trinh Sát được cử đi theo các đơn vị tăng viện.

Vệ to đầu được chỉ huy trưởng mặt trận khu C lấy đi theo làm liên lạc cho ông. Một giờ trước lúc lên đường, em gọi điện thoại cho Hiền:

- A lô, Hiền đấy à. Hai giờ chiều nay mình phải theo chỉ huy trưởng vào mặt trận phía nam. Gấp quá mình không đến gặp cậu được. Quân ta đang chặn tụi Tây ở đèo Mũi Né đánh nhau đã hai ngày nay rồi chỉ huy trưởng bảo phải phi ngựa suốt cả đêm hôm nay mới kịp đến để chỉ huy. Trận ni chắc gay go ghê lắm. Không biết có còn dịp gặp lại cậu không... Nếu có chuyện gì cậu đừng quên mình nghe. À, mình được phát một con ngựa cậu ạ. Con ngựa đen, bộ dạng thì xấu đui nhưng chạy hay tuyệt trần đời. Mình dám thách đua với tất cả ngựa của trung đoàn, kể cả con Ca-tê-lin của Bảo Đại. Cậu đã luyện được cái môn lộn nhào hai vòng liền chưa? Chưa à? Kém thế... Vệ khúc khích cười - Bữa mô gặp lại, mình sẽ kể chuyện cho cậu Mình phải sắm sẵn cái roi mây thật vót, luyện không chăm, ăn roi cấm khóc nghe! à, mình gửi cho cậu cái mũ ca lô của mình ở chỗ đội trưởng ấy...

Ở đầu giây đàng kia, Hiền cầm máy nghe những lời bông đùa của bạn mà tự nhiên rơm rớm nước mắt. Hai đứa mê nhau lạ lùng. Hiền đêm nằm ngủ, nói mớ cũng gọi tên Vệ To Đầu.
 
Chương 27



Khoảng ba giờ chiều Vệ To Đầu, từ trong cái biển lửa và khói dọc tuyến phòng ngự ven sông Ruồi cưỡi con ngựa đen như đã bị lửa nung thành than, phi về phía ngôi nhà ban chỉ huy mặt trận đóng.

Chỉ cần nhìn em cũng đủ biết công tác liên lạc ở mặt trận ở phía Nam này vất vả biết chừng nào. Thay mũ ca lô em đội cái mũ cát bẹp dúm dó. Mặt em, đen nhẻm, lấm lem cát bụi, khói đạn... Cái áo quân phục ca ki dày như mo nang rách toạc hai ba chỗ trên vai, trên lưng. Chiếc quần dài ướt sũng nước đến thắt lưng, hai ống quần bê bết bùn.

Suốt ngày hôm nay, hầu như không mấy lúc em rời khỏi lưng ngựa. Mỗi ngày em phải phi ngựa không biết bao nhiêu lần dọc phòng tuyến lửa đạn bời bời, để truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu của chỉ huy trướng đến các đơn vi và lấy tin tức cái đơn vị về báo cáo với chỉ huy trưởng. Nhiều bữa em vội đến nỗi ăn vắt cơm nắm cũng phải ngồi trẽn lưng ngựa mà ăn.

Là liên lạc của chỉ huy trưởng, phạm vi phải chạy liên lạc của em rất rộng, khắp cả phòng tuyến. Nếu không có sự nhanh nhẹn lạ kỳ, sức dẻo dai hiếm có và lòng gan dạ đến liều lĩnh của một diễn viên xiếc chuyên nghề nhào lộn, và đứng làm bia sống cho trò ném dao găm, thì chắc em khó mà đảm đương nổi nhiệm vụ.

Chỉ huy trưởng vừa ra dứt lệnh đã thấy em ngồi chễm chệ trên lưng ngựa, mũ đội hất lên trước trán, tay cầm dây cương, mái tóc quăn đen như lông quạ, lâu ngày không cắt buông lòa xòa quanh mũ, phủ kín cả gáy Em giống một kỵ sĩ xưa minh họa trong sách. Và mặc cho đạn đại bác nổ đinh tai, choáng óc, mặc cho đạn súng trường, súng máy bay vù vù quanh mình như một đàn ong vỡ tổ, mặc cho nhà cháy, tường sập, cây đổ, em vẫn cúi rạp trên mình ngựa, thúc gót, giật cương, lao vút đi như một mũi tên đen. Em phi ngựa vọt qua những hàng rào xương rồng cao ngất nghểu, bay qua những mương nước rộng đầy nước. Trong cách phi ngựa của em vừa có cái gan dạ của người chiến sĩ lúc lâm trận lại có cái tài ba của một tay diễn xiếc lành nghề. Nhiều lúc đang phi ngựa rất nhanh chợt nghe tiếng đạn súng cầu vồng kêu xoẹt xoẹt muốn rơi gần, em ghìm ngay ngựa lại, đâm bổ cả người lẫn ngựa xuống giao thông hào để tránh đạn. Chỉ huy trưởng và các anh lớn nhìn em phi ngựa mà lo sợ thay cho em.

Nhiều lần thấy đạn giặc nổ rát trên dọc lối đi, các anh hớt hải chạy đuổi theo gọi:

- Vệ! Vệ! Quay lại đã! Dứt đợt súng rồi hãy đi!

Nghe các anh gọi em càng thúc ngựa phi nhanh hơn, ngoái đầu lại nói to:

- Không can chi mô! Đạn nó tránh em mà?

Cặp mắt to, đen láy, dịu dàng như mắt nai, sáng long lanh dưới vành mũ cứng. Dọc đường em thường gặp các bạn trong đội cũng đang chạy liên lạc. Các bạn cũng vất vả không kém, chạy như cờ lông công suốt ngày, mà lại chạy chân đất.

Thường vội quá nên mỗi lần gặp nhau chúng chi kịp hỏi. "Cậu đó à?" Rồi lao vút đi. Vừa rồi, lúc phi ngựa vọt qua dãy giao thông hào, em gặp Tê ở tổ Năm, cởi trần, mặt độc cái quần đùi rách toạc đến bẹn, lưng đeo hai quả lựu đạn mỏ vịt, đang lội ào qua một con hói. Vệ ghìm cương lại:

- Tề, cậu đi mô đó?

- Tớ đi tìm o cứu thương đến chuyển mấy anh thương binh đi.

Vệ ngồi trên lưng ngựa, Tề đứng dưới con hói, nước ngập đến thắt lưng.

- Lai bị thương cậu biết chưa? Vệ hỏi.

- Tớ cõng hắn về trạm quân y chớ ai - Tề nói. - Lúc đánh bi cõng hắn nhẹ tưng mà răng lúc bị thương hắn nặng đến rứa không biết! Liệu phòng tuyến có giữ nổi không cậu?

- Khó lắm. Tụi hắn nhiều súng đạn quá. Cậu có đói không?

- Gần chết! Vệ thò tay vào trong bụng áo lấy vắt cơm lĩnh từ sáng đến giờ chưa kịp ăn.

- Bắt nghe! - Em tì chân vào hai bàn đạp, nhón cao người ném vắt cơm cho bạn.

Tề nhảy lên, bát trượt. Vắt cơm rơi tõm xuống nước Tề liền nhào theo vắt cơm, chổng mông mò lặn như con vịt mò mồi. Mò được vắt cơm ướt nhoét, Tề cầm chặt hai tay, đưa lên miệng nhá luôn. Vùa nhồm nhoàm nhai, em vừa nhìn lên bạn, đầu gật gật tỏ ý ngon lắm. Rồi vừa nhá cơm em vừa tiếp tục lội qua con hói.

Đạn giặc từ phía bờ sông bắn sang kêu chịu chịu trên đầu em. Tề đưa tay lên đầu phủi phủi tỏ ý coi khinh.

Vệ đến ngôi nhà chỉ huy sở đóng cách phòng tuyến chừng hơn cây số, Vệ To Đầu cho ngựa phi thẳng vào đến cửa nhà bếp. Em nhảy xuống đất, nói với mấy chị cấp dưỡng:

- Còn vắt cơm mô cho em một vắt. Em đói xều mểu.. .

Một chị mở thúng lấy vắt cơm nắm và gói thịt heo kho mặn gói trong mảnh lá chuối hơ lửa, đưa cho em.

Em vắt dây cương ngựa lên chốt cửa, chùi hai bàn tay lấm lem và nồng nặc mùi mồ hôi ngựa vào đít quần, đón lấy vắt cơm và gói thịt. Em bẻ đôi vắt cơm đút một nửa vào mồm con ngựa đang đứng thở phì phò rồi dựa lưng vào khung cửa, đưa vắt cơm lên miệng cắn. Mới cắn được một miếng thì chỉ huy trưởng từ trên nhà đi xuống. Đầu ông đội mũ cát và mặc bộ quân phục lấm lem đất bùn. ông đưa cho em một mảnh giấy gấp làm tư và nói:

- Em xuống ngay chỗ đại đội anh Vị, đưa lá thư này cho tôi.

Cặp mắt sâu hoắm của ông chợt dừng lại trên gương mặt lấm lem khói đạn, bộ áo quần rách toạc dính đầy bùn đất, ướt sũng, và cái thân hình bé nhỏ mệt nhoài của em run run dựa vào khung cửa...

- Em mệt quá phải không? - ông hỏi giọng trầm hẳn xuống. - Em lên nhà nằm nghỉ đi một lúc, tôi gọi đồng chí Phương đi thay cũng được.

Nhưng Vê To Đầu đã nhanh nhẹn đứng thẳng lên, luồn nửa nắm cơm cắn dở lẫn gói thịt heo kho mặn vào bên trong áo sơ mi. Em chùi hai tay vào đít quần, cầm lấy bức thư trong tay chỉ huy trưởng, cẩn thận đút vào túi áo sơ mi. Một tay cần lấy cương ngựa, tay kia trở mu bàn tay chùi miệng, nói:

- Báo cáo anh, em đi được. Em chỉ hơi đói tí thôi. Đường từ đây đến chỗ đại đội anh Vy bây giờ bị đạn đại bác, moóc-chê nó làm lung tung cả lên. Anh Phương không thạo đường sẽ lạc mất.

Chưa kịp để cho chỉ huy trưởng có ý kiến, em đã dắt con ngựa ra giữa sân, nhẹ nhàng phục lên yên. Em thúc gót giật dây cương, con ngựa tung bốn vó bay qua hàng rào chè tàu trước mặt. Chỉ huy trướng chỉ còn biết đứng lặng lẽ nhìn theo. Ông lẩm bẩm: "Hết chiến tranh mình phải đưa thằng bé về nhà cho nó đi học...".

Vệ đến gặp Đại Đội Trưởng Vỵ đúng vào lúc đại đội ông đánh bật được đợt "a-la-xô" thứ nhất của giặc. ông cầm lấy bức thư em trao chưa kịp đọc thì giặc dưới sông lại ào lên "a-la-xô" đợt thứ hai. Ông vọt nên khỏi chiến hào, chạy! thẳng đến chỗ bố trí cầm khẩu trúng liên F.M. Độc nhất của đại đội, định cho đưa súng ra mé sông để quét bọn giác đổ bộ. Nhưng mới chạy được chục bước thì ông bị trúng đạn. ông ngã dúi, mặt úp xuống đất bị đạn cày nát, khẩu cạc bin cầm trong tay văng ra bên cạnh. Mác cho đạn bắn mỗi lúc một rát, Vệ nhảy lên khỏi chiến hào, lăn tròn như con quay thẳng đến chỗ đại đội trưởng. Nó tưởng ông chỉ bị thương, nhưng khi thấy trán ông vỡ toác thì nó khóc òa lên, và nép sau xác ông để tránh đạn. Hai anh ban trung liên cũng vừa lăn đến kịp, kéo xác ông về phía sau. Vệ bò sát đất đến chỗ khẩu cạc bin, chụp lấy khẩu súng lăn trở về giao thông hào.

Khoác khẩu súng lên vai, nó phi ngựa như bay về báo cáo với chỉ huy trưởng.
 
Chương 28


Sau đó chỉ hơn nữa tiếng đồng hồ, phòng tuyến sông Ruồi bị chọc thủng. Chỉ huy trưởng quyết định để lại một bộ phận nhỏ kìm chân giác, còn đại bộ phận rút lui về giữ phòng tuyến sông Nong cách sông Ruồi chừng mười cây số.

Chỉ huy trưởng, Vệ, anh Phương cần vụ là những chiến sĩ cuối cùng rời khỏi phòng tuyến sông Ruồi.

Trời chiều đột nhiên hửng nắng. Ba người đã lui cách sông Ruồi chừng ba cây số. Họ cùng cúi rạp người trên mình ngựa, cố thúc phi thật nhanh vượt qua một quãng đường rất trống. Dọc hai bên con đường rải nhựa không một bóng cây, những vồng khoai lang mới trồng chạy dài tít tắp. Anh Phương cưỡi ngựa phi sau cùng, bỗng kêu hét lên:

- Máy bay nó đuổi theo ta đế ế ế...!

Chỉ huy trưởng và Vệ ngồi trên mình ngựa cùng ngoái đầu lại. Trên nền trời chiều vàng nắng, cuồn cuộn lửa khói và vang ầm tiếng nổ phía sau, bốn chiếc máy bay cổ ngỗng đang cắm đuôi nhau lao vùn vụt về phía ba người. Thoáng nhìn, chỉ huy trưởng biết lũ máy bay đã nhìn thấy mình vì mục tiêu di động của ba người trên quãng đường quá trống trải. ông hô lớn:

- Tản ngay ra hai bên đường!

Phương cuống quá, quất ngựa chạy bừa xuống ruộng khoai rồi hai tay ôm chặt lấy cổ ngựa mặc cho nó muốn đưa mình đến đâu thì đến. Chỉ huy trưởng kéo cương thật nhanh, rời khỏi đường nhựa và phóng đến một lùm cây thấp cách đường chừng trăm mét.

Vệ ghìm cương ngựa, đưa mắt rất nhanh nhìn bao quát địa hình chung quanh. Em thấy không có một chỗ nào gần đó khả dĩ núp được. Nhưng không một chút rối ta, em chợt nhận ra con ngựa cho nằm ẹp xuống mặt đường, và em nằm ép sát vào một bên, đầu gối lên cố ngựa, em ngửa mặt chăm chú quan sát bầu trời. Lũ máy bay cồ ngỗng đen trùi trũi to dần lên một cách khủng khiếp. Tiếng gầm rít của chúng như những chiếc khoan xoáy sâu vào màng nhĩ. Chiếc máy bay đầu đàn bỗng chúc đầu lao thằng hướng lùm cây mà chỉ huy trưởng vừa nhảy vào núp. Em kinh hoàng thét lên "ối" tim như muốn ngừng đập. Cặp mắt em mở to, thất sắc, dán chặt vào đường lao chênh chếnh với tốc độ chóng mặt của chiếc máy bay. Tuy vậy em vẫn còn đủ trí tỉnh táo để hiểu ra tại sao chiếc máy bay lại lao đúng lùm cây mà chỉ huy trưởng núp. Chỉ vì con ngựa! con ngựa trắng cao lớn, quá hoảng vì tiếng gầm rít của máy bay đã không chạy đi lại rúc đầu đúng bụi cây đó.

Hai vó sau nó đã hất lia lịa như lúc gặp thú dữ. Cái thân hình trắng toát của con ngựa chuyển động liên tiếp trên nền xanh của lùm cây, đứng xa hàng cây số cũng nhìn thấy.

Hai cánh máy bay chớp chớp lửa. Một tràng nổ xé tai. Đất đá quanh lùm cây và con ngựa bị cày tung lên mờ mịt. Bắn xong loạt đạn chiếc máy bay ngóc đầu nhào lên."Không đuổi ngay con ngựa trắng đi thì chỉ huy trưởng nguy mất. Ba chiếc máy bay sau cũng đang hằm hè sửa soạn lao xuống". Ý nghĩ đó làm Vệ To Đầu quên hết sợ hãi, hiểm nguy. Em đứng bật ngay dậy, lôi mạnh con ngựa đứng lên theo, thót lên yên, phi thẳng đến lùm cây chỉ huy trưởng núp. Em hỏi to:

- Chỉ huy trưởng có việc gì không ạ?

- Không, không sao cả! - Tiếng chỉ huy trưởng bình tĩnh đáp lại trong lùm cây. Em núp ngay đi, chiếc thứ hai sắp sửa bổ nhào đấy!

Nhưng Vệ không kịp đáp lại. Thời gian phải tranh thủ từng khắc một. Em kẹp chặt đùi vào hông ngựa nhoài người túm lấy dây cương con ngựa trắng, nghiến răng giật mạnh lôi đầu nó ra khỏi lùm cây. Con ngựa hý vang, cất cao cổ, dẫm bốn vó như muốn cưỡng lại. Nó tức giật vung báng súng cạc-bin quật mạnh vào bông con ngựa, rồi thúc gót con ngựa đen phi thẳng ra giữa đồng trống, lôi theo cả con ngựa trắng. Chỉ huy trưởng núp trong lùm cây nhìn ra, ông đã hiểu chú bé liên lạc của ông muốn làm gì. ông thấy cổ mình đau nghẹn: "Ôi, chú bé nguy mất". Và ông cũng không nén được cảm phục chú bé liên lạc của ông. ông tự hỏi: "Ai dạy cho và từ bao giờ, mà trong cái phút hiểm nguy ngàn cân treo sợi tóc như vậy, nó đã cưỡi ngựa, bắt ngựa, đánh ngựa lôi ngựa đi với những động tác tuyệt vời khéo léo và chính xác của những trang kỵ mã lão luyện tài ba nhất?".

Chiếc máy bay thứ hai đã ầm ầm lao đến về phía vệ to đầu, nó vừa phi ngựa vừa ngoái nhìn chiếc máy bay. Nó cố phi sao cho thật lộ, hút được cả lũ máy bay về phía sau mình.

Mất mục tiêu, chiếc máy bay sửa soạn bổ nhào nhả đạn, đành phải chuyển sang lượn vòng tìm kiếm.

Vệ To Đầu dắt con ngựa trắng mỗi lúc một xa hơn lùm cây chi huy trưởng núp. Nó nhìn chiếc máy bay bị mất mục tiêu đang gầm rít tức tối lượn đảo quanh bầu trời. Nó khoái chí quát to với chiếc máy bay:

- Mi tưởng mi giết được cấp chi huy của tao là dễ lắm à? Đừng hòng! Tao chấp cả cha con dòng họ thực dân nhà bay đó!

Nhưng chiếc máy bay thứ ba đã nhìn thấy mục tiêu. Nó vùn vụt lao đuổi theo hai con ngựa và tay kỵ mã tí hon, đang phi như đùa chơi giữa cánh đồng không một bóng cây này.

Chà, cái tụi ni có vẻ cay cú, muốn giết cho bằng được kẻ yếu thế dưới mặt đất này! Vệ lúc này đã hoàn toàn yên tâm về chi huy trưởng.

Em phấn chấn hẳn lên khi thấy mình đã đánh lừa được tụi máy bay giặc. Vè mát em trở nên ranh mãnh như lúc cùng các bạn chơi trò trốn tìm. Em buộc cương hai con ngựa vào nhau. Mặt em vênh vênh nhìn lên trời, mắt bám sát đường bay của thằng giặc. Chờ cho chiếc máy bay bổ nhào lao thẳng về phía mình, em mới nhún mạnh hai bàn đạp. quăng mình như bay từ trên lưng ngựa xuống cái rãnh giữa hai luống khoai. Động tác em nhanh nhẹ đến nỗi con ngựa đen không hề hay biết cứ tiếp tục lồng bốn vó phi về phía trước kéo theo con ngựa bạch. Tiếng đạn nổ xé tai. Vạt đất bị cày tung toé cách xa em hàng chục mét. Chiếc máy bay thứ tư cắn đuổi chiếc thứ ba. chúc đầu lao thẳng xuống hai con ngựa đang lồng chạy. Cánh máy bay chớp chớp lửa.

Nằm giữa hai luống khoai, ngửa mặt nhìn lên, tim Vệ như muốn nhảy thót ra khỏi lồng ngực. Em lo sợ cho hai con ngựa. - Trượt cha chúng mày rồi! - Vệ ngồi bật dậy reo to khi thấy dứt loạt đạn hai con ngựa lại càng lồng lên phi nhanh hơn.

Chắc đã bắn hết đạn, bốn chiếc máy bay họp thành đội hình hàng dọc, cắn đuôi nhau bay trở vê hướng Nam. Bầu trời bỗng trở nên yên tĩnh một cách dị thường. Vệ vùng ngay dậy, nhảy vọt qua từng hai ba vồng khoai một, chạy về phía chỉ huy trưởng. Chỉ huy trưởng cũng từ trong lùm cây chui ra. ông bước lên mô đất gần đó, một bàn tay khum khum đưa lên mày che ánh nắng chiều chênh chếch sắp tắt, nhìn theo bốn chiếc máy bay lúc này chi còn là bốn chấm đen.

Có tiếng sột soạt phía sau lưng. Hai người cùng quay lại. Hai con ngựa dây cương buộc vào nhau đã quay về từ lúc nào và đang bình thản rứt những mầm khoai lang mới nhú non mơn mởn.
 
Phần Thứ Ba

1.
Trời sập tối.
Lượm và Tư-dát giục Mừng đến lần thứ tư:
- Cậu lên gặp đại đội trưởng ngay đi! ông sắp xuống dẫn trung đội ba đi phối hợp tấn công trường Thiên Hựu.
- Tối ni mà cậu không tranh thủ xin phép về thăm mạ thì chưa biết đến khi mô mới về được-.. Tớ vừa nghe điện thoại trên Mặt trận bảo là phòng tuyến Ruồi bị vỡ rồi, quân ta đang rút về lập phòng tuyến sông Nong. CÓ lệnh của đội trưởng, năm giờ sáng mai tất cả đội ta phái có mặt tại chùa Vạn Phước để chuẩn bị đi nhận nhiệm vụ mới.
- Lần ni mà mi không về gặp mạ thì chẳng còn khi mô được thấy mặt mạ nưa mô nghe! - Tư-dát vừa cuộn áo quần thành nắm tọng đại vào ba lô, vừa nói với Mừng
- Tại răng rứa anh?
- Tao nghe được tin tối mật là chỉ một hai hôm nữa, chiến sĩ toàn Mặt trận không kể người lớn con nít, mỗi người sẽ được phát một trái bom ba càng- Trung đoàn trưởng sẽ cho nổ một trái bom còn to hơn trái nổ Ở cầu Tràng Tiền làm hiệu lệnh. Tất cả sẽ ôm bom ba càng hét xung phong rồi lao thẳng vô vị trí giặc. Mạng đổi mạng.
- Cậu đừng tin cái miệng hắn. - Lượm nói. - Hắn nói chơi để dọa cậu đó.
Tư-dát nói với Mừng, giọng vẫn tỉnh khô:
Nếu cậu được về thăm mạ mà lỡ không lên kịp thì xuất bom ba càng của cậu tớ sẽ. lãnh luôn. Một mình tớ chơi hai trái mới đã sức! Cấm cậu không được đòi lại nghe?
- Không, răng tui cũng về kịp trước năm giờ sáng.
Mừng nói rồi cắm đầu chạy biến lên tầng gác, đến phòng của đại đội trưởng. .
ông Thới đã nai nịt gọn gẽ, đang lúi húi bên ngọn đèn dầu, nạp đạn vào băng khẩu pạc-hoọc- Mừng rón rén bước vào phòng, đến đứng nghiêm trước mặt ông, lắp bắp run rẩy nói:
-DẠ... dạ... thưa anh.... Anh cho em về thăm mạ em, sáng mai em trở lại sớm.
Miệng nói mà trong bụng em không chắc gì ông sẽ cho phép. Tối ni coi mặt ông nghiêm lắm mà tình hình Mặt trận lại đang gay go..
Ðại đội trưởng lắp băng đạn vào súng, ngẩng lên nhìn em, trán cau lại, hỏi?
- Về thăm mạ à? Tối tăm mưa gió thế này chú mày về thế nào được? Mà mạ Ở mô?
.- Dạ gần đây thôi.. dưới Bao Vinh. Tối tăm mưa gió mấy em cũng đi được... Tối chi bằng cái hôm đánh nhà thằng Lơ bơ rít. - Ðược cho chú mày về, nhưng đúng năm giờ sáng mai là chú mày phải có mặt để tập trung về đội.
Thật -khó mà tả được- vẻ mặt mừng rỡ của em lúc này- Em vọt ra cửa quên cả chào đại đội trưởng- Phải xuống báo ngay cho anh lượm biết, rồi mở máy hết bộ giò mới có thể đi về kịp trong đêm nay. Em nghĩ vậy.
Lượm là tổ trưởng thay vệ, Ngay chiều hôm Vệ theo chỉ huy trưởng đi vào mặt trận phía nam, đội trưởng liền điều Lượm và tư dát ở mặt trận khu B về bổ xung. Và cử Lượm làm tổ trưởng. Ra đến đầu cầu thang Mừng vấp phải Lượm và Tư dát từ dưới chạy lên. H ai em định lên gặp đại đội trưởng để xin giúp cho Mừng. Em chụp lấy tay hai bạn thì thào mừng rỡ:
- Được rồi được rồi, ông cho phép rồi. ông dặn năm giờ sáng mai phải có mặt.
Xuống đến chân cầu thang, Mừng bỗng đứng sững lại, gương mặt thẫn thờ, em buồn rầu nói:
- Tui ngu quá đem gởi bó lá tầm gởi cho anh So mất rồi, Chừ về thăm mạ mà chẳng có cái chi đem về cho mạ.
- Hay cậu mang về cho mạ tấm nhung đổ cậu Bồng cho dạo nọ.
- Tấm nhung tui cho Quỳnh mất rồi…
- Để tớ vào lục ba lô coi có cái chi mang về cho mạ.
Tư dát nói rồi chạy biến vào phòng. Lượm cũng chạy theo.
- Cậu chịu khó đứng chờ đay chút nghe!
Lóang một cái hai đứa chạy ra, tay cầm mấy thứ đồ vật linh tinh mà chúng nhặt nhạnh được ở những lần đi trinh sát khu vực giặc.
Tư dát trải xuống nền xi măng một miếng vải bạt rồi xếp vào đó ba cái dù pháo tín hiệu, một tấm màn che cửa viền đăng ten,hai hộp thịt, một cái gương soi và ba vỏ đạn dui xết. Luợm kêu:
- Mạ lấy vỏ đạn làm chi, Mạ có phải con nít mô?
- Để mạ làm cán dao nhíp không tốt à?
Tư dát vừa trả lời vừa gói tất cả lại, lấy dây điện thọai ràng buộc cẩn thận, rồi dúi gói quà gửi mạ vào tay Mừng giục:
- Mi đi ngay đi mà về cho kịp Về không kịp tau lãnh mất xuất bom ba càng thì đừng có kêu!
- Cho tụi mình gửi lời thăm mạ nghe?
Mừng ôm gói đồ vào lòng, đi thẳng ra khu vườn bên trái doanh trại. Ngang qua một bụi chuối nó dừng lại sờ soạng tìm một tàu lá chuối nguyên lành, ghé răng cắn đứt, rồi tách cọng lá Ở giữa làm đôi. Em luồn đầu qua lỗ hổng, bẻ gập tàu lá chuối lại thành cái áo đi mưa. Ra đến đường em chạm trán một tổ tuần tra mặt trận, các anh hỏi:
- Ai? Đứng lại.
Em trả lời dõng dạc
- Em là hên lạc đây!
Các anh hỏi mật khẩu:
- Kháng chiến!
- Em đáp:
- Quyết thắng.
Các anh để cho em đi. HỌ không lạ gì những chú liên lạc như em giờ này đi lại trong khu vực Mặt trận.
Một anh tò mò hỏi:
Em đi mô đó?
- Bí mật. - Em trả lời đầu không ngoái lại.
Anh này cười hề hề.
- Nhóc mà cũng ra vẻ gớm?
Một anh nhìn hút theo em đang lặn sâu vào bóng tối, không biết nghĩ gì, buột miệng nói:
Cả đất nước gian truân ghê người!
 
2.
Khoảng hai giờ sau, vừa chạy vừa đi, Mừng về đến Bao Vinh.
Nhưng Bao Vinh bây giờ không còn giống như hôm em trốn nhà ra đi- đường xá vắng tanh vắng ngắt. Nhà cửa hai bên đường cửa đóng im ỉm, không có lấy một tiếng động, như nhà đã bỏ hoang lâu ngày.
Mấy hôm nay tin về dồn dập bọn viện binh giặc đã chọc thủng phòng tuyến sông Ruồi và đang ào ạt tiến về phía thành phố, nên đồng bào Ở đây đã chạy tản cư hết.
Mỗi xóm chỉ còn vài người già liều mạng không chịu đi, Ở lại trông nom nhà cửa, vườn tược. Những người trai tráng thì xung phong lên Mặt trận.
Càng về đến gần nhà, Mừng càng thấy ruột gan bồn chồn. Em lo không biết mẹ còn Ở nhà hay cũng đi tản cư mất rồi. Ðến chỗ con đường rẽ vào xóm thì em bật vùng chạy. Con đường hẻm ngoằn ngoèo, tối như hũ nút, đầy những vũng bùn nước. Em ngã chúi mấy lần nhưng gượng lại được và tiếp tục chạy. Em về đến ngõ, kêu to: "Mạ ơi?" và vọt vào sân. Em đứng như chôn chân giữa mảnh sân nhỏ bằng hai chiếc chiếu, nước mưa xăm xắp đến mắt cá chân. Nhà em cũng cửa đóng chặt, hoang vắng lạnh lẽo chẳng khác chi ngoài đường. Trước đây, vào giờ này, bao giờ bếp vẫn còn sáng rực lửa- Mẹ nấu xáo bò để ngày mai đi chợ sớm. Bây giờ thì cửa bếp đóng kín, giọt tranh rơi lách tách, đều đều nghe buồn đến đứt ruột.
Như người mất hồn em chạy đến vỗ liên tiếp vào cánh cửa liếp đóng kín, run rẩy gọi:
- Mạ ơi Mạ! Mạ ơi!
Em gọi một cách tuyệt vọng vì biết chắc rằng mạ đã đi tản cư mất rồi. Rồi không nén được nữa, em òa khóc, khóc thật to. Tiếng gọi, tiếng khóc của Mừng làm cho ông cụ Mộc - người độc nhất còn Ở lại trong xóm - Ở cách đó hai nhà, phải tỉnh giấc. Cụ nhổm dậy, thõng hai chân xuống bức phản mọt, sờ soạng tìm đôi guốc đẽo bằng gốc tre, miệng lẩm bẩm:
- Lạ quá hè? Ðêm hôm khuya khoắt ri mà bên nhà chị Niệm có tiếng ai như tiếng con nít khóc, gọi chị ta.
Cụ sờ tìm bật lửa dưới cái gối mây bật lửa châm vào một thanh đóm củi thông- Cụ đẩy cửa liếp, tay khum khum che ngọn lửa, đi sang nhà chị Niệm. Trời đã ngớt mưa. Trên cao tít một vài ngôi sao xanh biếc lấp lánh hiện ra như những con đom đóm đang bay bổng bị vướng vào những đám mây đen xỉn- Bước qua hàng rào, cụ trông thấy một thằng bé đầu đội mũ Vệ Quốc đoàn. Lưng khoác tàu lá chuối loang loáng nước mưa. Cụ ngạc nhiên cất giọng khản đặc những đờm, hỏi:
- Chớ đứa mô đứng khóc đó?
Thằng bé quay lại, mắt ráng mở nhìn cụ qua ánh lửa đóm lay lắt, khẽ kêu:
Cụ Mộc!
Cụ Mộc bước-đến gần hơn, đưa ngọn lửa soi vào giữa mặt Mừng, cặp mắt cụ hấp hem nhìn mãi vẫn không nhận ra.
Cháu là thằng Mừng đây mà...
Thằng Mừng con mụ Niệm à? Trời ơi! Cháu còn sống thực đó hở Mừng- Tây cụ run run cầm lấy cánh tay em kéo lại, cúi nhìn sát tận mặt xem có phải đúng thằng Mừng thật không. Khi nhận đúng là thật rồi, ông cụ càng tỏ vẻ kinh ngạc hơn.
- Cháu Ở mô mà mò về được đây? Bấy lâu cả xóm tưởng cháu chết sông. chết hói rồi.
- Cháu có chết mô! Cháu đi Vệ Quốc Ðoàn.
- Cháu đi Vệ Quốc Ðoàn à? Cha cái thằng! Rứa mà làm mạ cháu khóc hết nước mắt nước mũi! Ði sang bên nhà ông rồi ông kể chuyện cho nghe! Mạ cháu đi tản cư về làng Phò rồi, Ở nhà cái bà mệ nuôi của cháu ấy. - Cụ Mộc cầm tay dắt nó về nhà. Cụ xuống bếp ôm lên ôm rơm,- đốt lên giữa nhà một đống lửa, bảo nó cởi quần áo vắt nước mà hơ cho khô.
Một già, một con nít ngồi trước đống lửa ấm áp, khói cay mắt, nói chuyện. Cụ kể: Cái hôm cháu bỏ nhà trốn đi, mạ cháu đi chợ về, chạy tìm khắp xóm. Tìm không thấy, mạ cháu ra ngồi đợi trước ngõ suốt cả đêm hôm đó, khóc như mưa như gió- Rồi suốt cả tuần liền, đêm mô mạ cháu, cũng ra ngõ đợi, khóc hai mắt sưng húp như hai quả nhót- Cứ chiều chiều mạ cháu lại ra bờ sông, chạy dọc theo bờ, đầu tóc rũ rượi, hú hồn hú vía cháu. "Hu ba hồn bảy vía Mừng con ơi! Về với mạ, đừng bỏ mạ một thân một mình tội mạ lắm con ơi!" .
Cụ Mộc kể chừng nào, nước mắt Mừng chảy ra chừng đó- Em ngồi không vững nữa, gục đầu vào cánh tay cụ khóc nấc lên. Cụ Mộc cũng khóc, đặt bàn tay khô héo lên đầu nó, dỗ dành:
- Thôi, nín đi cháu... Mạ cháu tản cư về làng Phò, cách đây chừng nửa ngày đường. Cháu Ở lại ngủ với ông đêm nay rồi sớm sáng mai chạy ù về thăm mạ cho mạ cháu mừng, kẻo tội nghiệp.
Mừng quệt nước mắt, lúc lắc đầu, nói:
- Cháu không Ở lại được mô. Không gặp được mạ cháu cháu cũng phải về thôi. Kỷ luật của bộ đội nghiêm lắm.
- Chứ cháu về mô?
- Về bên khu vực Mặt trận C tê.
- Chứ bấy lâu nay cháu làm công việc chi?
- Cháu đánh Tây chứ làm chi nữa ông?
đánh Tây à? Thằng con mụ Niệm giỏi quá hè. Cháu nhỏ rứa mà cũng đánh Tây được à?
- Nhỏ có việc nhỏ, lớn có việc lớn. ông không nghe nói là toàn dân kháng chiến đó à?
CÓ có, ông cũng có nghe nói. - Cụ gật gật mái đầu bạc phơ. - Cháu mới đi bộ đội có ít lâu mà ăn nói khôn ngoan hẳn ra đó Mừng ạ. Cháu mà cũng biết chuyện toàn dân kháng chiến à?
- Cháu được học chính trị- Học chính trị còn biết được nhiều cái hay hơn nữa tề, cái toàn dân kháng chiến thì đã ăn thua chi ông.
- Cha cha! Cháu mà cũng biết cả chánh trị nữa à? ông tưởng cả nước Nam mình chỉ có Cụ HỒ mới biết chánh trị thôi chứ?
Chánh trị thì khó chi mà không biết- Cả đội cháu đứa mô cũng biết. Cháu còn học cả quân sự nữa. Cháu biết bắn cả súng nữa, cháu được bắn ba phát rồi.
- Rứa cháu bắn có chết được thằng Tây mô không?
- Dạ chưa..- suýt nữa thì chết. Tại cháu còn nhỏ, cầm súng tay còn run. Chứ mai mốt lớn lên, cháu bắn nhất định chết.
- Rứa cháu không Ở lại đây với ông để mai sớm về làng Phò thăm mạ thật à cháu?
Dạ, thật ông ạ- Ðại đội trưởng chỉ cho cháu về trong đêm ni. Năm giờ sáng mai là cháu phải có mặt Ở đơn vị rồi- Ðã đi bộ đội là phải giữ đúng kỷ luật ông ạ.
Ừ, rứa thì cháu cứ về đi- CÓ chi ông sẽ tìm cách nhắn tin cho mạ cháu biết .
Mừng đứng lên, mặc áo quần hong đã gần khô. Em quay mặt nhìn sang phía nhà em, nước mắt lại ứa ra giọt ngắn giọt dài. Em đưa ống tay áo quệt vội nước mắt, nói với cụ Mộc qua tiếng nấc:
- Cháu đi ông hí...
Cụ Mộc cũng đứng lên rơm rớm nước mắt.
- Cháu có đói không- ăn bát cơm nguội rồi về, cơm ông mới nấu lúc chiều ủ còn nóng.
- Thôi ông ạ-.. Chừ cháu chẳng thiết ăn uống chi hết.
Mừng ôm cái gói đồ biếu mạ vào lòng, lui cui bước ra khỏi nhà.
Cụ Mộc tựa cửa nhìn theo em cho đến lúc mất hút vào khoảng tối, lòng bỗng thấy buồn lạ; buồn chẳng khác chi cái hôm nhìn thấy cả xóm sập liếp, cài cửa mạ mô con nấy, gồng gánh, bế bồng kéo nhau đi, chỉ còn độc một mình cụ Ở lại.
 
3.
Cũng đêm hôm đó trung đoàn trưởng đi kiểm tra tình hình Mặt trận. Cùng đi có em Nghi, liên lạc của ông.
Trung đoàn trưởng vóc người tầm thước, mảnh khảnh, nhiều dáng dấp thư sinh hơn là một người chỉ huy quân sự- ông trạc ba mươi tuổi. ông đội mũ cứng Tiếp Phòng Quân, mặc bộ quân phục ka ki màu cỏ úa, khoác áo đi mưa, cưỡi con ngựa tía cao lớn. Con ngựa tên là Ca-rô-lin, nòi Anh Cát Lợi, trước đây là của Vua Bảo đại. NÓ là con ngựa qúy nhất của Bảo đại, y thường cưỡi đi săn hoặc đi dạo.
Nghi cũng trạc lứa tuổi với các đội viên Thiếu niên trinh sát, khoảng mười ba, mười bốn- Em cưỡi con ngựa lông đen tuyền, thấp nhỏ, cụt đuôi, vai khoác khẩu cạc-bin, báng súng chạm trỗ rất đẹp. Khẩu súng này trước cũng của Bảo Ðại, ta lấy được cùng một lần với khẩu súng săn voi của Chỉ huy trưởng Mặt trận C - Tuy mới mười ba tuổi nhưng Nghi đã là một kỵ sĩ khét tiếng của Trung đoàn- Tài cưỡi ngựa của Nghi ngay cả Vệ-to-đầu cũng vì nể- con ngựa đen cọc đuôi em cưỡi là của Nhật, nghe đâu nòi ngựa chiến Mông Cổ. Con ngựa thấp nhỏ vậy nhưng dữ như một con báo, chuyên môn cất hậu, sa tiền, cắn, đá, thường giở chứng quẳng người cưỡi xuống đất- Cả đơn vị kỵ binh của trung đoàn không ai dám cưỡi, thế mà chú bé liên lạc này đã trị được nó- Thấy Nghi cưỡi ngựa giỏi, các anh lớn tò mò hỏi mới biết, trước khi gia nhập vệ Quốc Ðoàn em Ở chăn ngựa cho một chủ xe ngựa.
Trung đoàn trưởng và chú bé liên lạc cho ngựa nước kiệu trên con đường rải đá vắng tanh vắng ngắt, sáng trắng nhưng vũng nước mưa Bỗng xa xa phía trước mặt có tiếng khóc vẳng lại Khi ngựa đến gần hơn, ông nhận ra tiếng khóc con nít- ông rất ngạc nhiên, trong khu vực Mặt trận. giữa đêm hôm mưa lạnh. tối tăm, vắng vẻ thế này sao lại có một em bé nào khóc- ông thúc ngựa rút, cây đèn bấm trong túi áo đi mưa. bấm rọi thẳng về phía trước Một bó ánh sáng màu vàng nhạt từ mặt kính đèn bấm tuôn ra thành hình cái loa. khoét thủng một quãng dài bóng tối Giữa cái loa ánh sáng ấy hiện ra một chú bé đang cắm cúi bước. quay lưng lai phía ông- Chính chú bé này đang vừa đi vừa khóc Chỉ thoáng nhìn. trung đoàn trưởng cũng đoán biết chú là liên lạc viên của bộ đội. một trong hàng nghìn chiến sĩ của ông Chú bé đội mũ cứng.
mặc chiếc áo trấn thủ rộng thùng thình phủ kín mông đít, cái quần người lớn cắt ngắn ống đáy rộng như cái váy. . - ngang lưng thắt lưng da to bản có dắt quả lựu đạn O.F.
ÐÓ là thứ binh phục quen mắt của các chú liên lạc nhỏ mà ông thường gặp trên khắp các mặt trận khu A, B, C. ông thúc gót ủng cho ngựa phi đến gần sát sau lưng chú bé, cất tiếng hỏi:
- Này, chú bé! Chú đi đâu về mà khuya khoắt thế này?
Chú bé còn mải khóc nên không nghe tiếng vó ngựa, cũng không chú ý tới ánh đèn- Nghe gọi đột ngột, nó giật bắn người quay ngoắt lại- Chú đưa ống tay áo, quệt vội nước mắt, chớp chớp nhìn. Chú đã nhận ra người cưỡi con ngựa cao lớn đang đứng trước mặt là ai. Chứ vội rút chân về tư thế đứng nghiêm, ngước cặp mắt nhòe ướt lên nhìn ông, cố nuốt tiếng nấc, trả lời.
Dạ.-. Em được cấp chỉ huy cho phép về thăm mạ.
Nhìn cái dáng vội vã đứng nghiêm với gương mặt con nít nhòe nhoẹt nước mưa lẫn nước mắt của chú bé liên lạc, ông thấy nó tội quá- Ong dịu dàng nói:
Cho em "nghỉ". Em gặp chuyện gì buồn mà phải khóc thế?
- Dạ.-. Em được cấp chỉ huy cho về thăm mạ. nhưng em về nhà thì mạ em đi tản cư mất rồi .
Nước mắt chú bé lại ràn ra. Chú lại đưa tay quệt vội nước mắt.
- Thế mạ em tản cư về đâu có biết không?
- Dạ- Tận dưới làng Phò tê.
- Thế em không ngủ lại nhà rồi sáng mai về làng Phò thăm mạ có được không?
- Cấp chỉ huy chỉ cho phép em đi đến năm giờ sáng mai là phải có mặt Ở đơn vị...
- Em Ở đơn vị nào?
- Dạ, đơn vị đóng Ở trường Kỹ Nghệ.
- Ðại đội anh Thới phải không?
- Dạ phải.
- Thế thì được. Anh sẽ cho em thêm một ngày phép nữa. Bây giờ em quay lại nhà ngủ, sáng mai về làng Phò thăm mạ. Anh viết cho em cái giấy. Lúc trở về đơn vị, em đưa giấy cho anh Thới là không việc gì hết. Em tên là gì?
- Dạ, em tên là Mừng.
 
Trung đoàn trưởng mở nắp chiếc xà cột da đeo bên hông, định lấy giấy bút viết mấy chữ cho đại đội trưởng Thới- Mừng bỗng rụt chân lại đứng nghiêm, giọng run run nói:
- Dạ thưa anh, anh có viết giấy em cũng chẳng Ở lại đi thăm mạ được mô...
Sao lại thế? - Trung đoàn trưởng ngạc nhiên hỏi.
- Em không muốn về thăm mạ nữa à?
- Dạ em muốn lắm - . . Nhưng chiều này có lệnh của đội trưởng là sáu giờ sáng mai tất cả đội phải có mặt tại Chỉ huy sở Mặt trận khu C để nhận công tác mới- Em sợ về trễ mất một ngày, các bạn nhận hết công tác, em không được nhận.. Trung đoàn trưởng ngồi sửng trên lưng ngựa. Vẻ mặt và giọng nói của người chiến sĩ nhỏ bé của ông làm ông xúc động. ông chỉ muốn nhảy xuống ngựa ôm chú vào lòng mà vỗ về an ủi như một người cha. ông nói:
- Anh là trung đoàn trưởng mà chẳng thể làm gì giúp được em sao?
- Chẳng ai giúp được cho em hết...- Mừng quệt nước mắt, miệng mếu xệch. - CÓ trời cũng chẳng giúp được cho em-.. Em vừa muốn về thăm mạ lại muốn về cho kịp để được đi công tác với đội... hu hu hu... Mừng òa khóc to.
- Dạ em, em có thể giúp được bạn ấy. - Em Nghi từ nãy đến giờ gò ngựa đứng cạnh trung đoàn trưởng, lúc này mới lên tiếng. - Ðề nghị anh cho phép em chở Mừng về làng Phò thăm mạ, xong em lại trở về đơn vị- Thế nào chúng em cũng về kịp đơn vị trước năm giờ sáng.
Trung đoàn trưởng vui vẻ gật đầu:
- được Nghi làm như thế rất tốt! Nhớ đi cho cẩn thận!
Em đưa khẩu cạc-bin đây anh mang về trước cho. Con ngựa ấy hai em cưỡi có được không?
- Dạ được anh ạ. Nhưng em sợ hơi nặng, nó phi không được nhanh.
Thế thì anh đổi cho hai em con Ca-rô-lin.
Trung đoàn trướng và Nghi cùng xuống ngựa. Nghi trao dây cương con ngựa đen, khẩu cạc-bin cho ông, và dặn:
- Anh nhớ, chú ý nó hay sa tiền lắm. Lúc nào anh thấy nó hơi khuỵu hai chân trước xuống, anh cứ quất thật mạnh vào cho em.
Nghi nhanh nhẹn phóc lên lưng con ngựa của trung đoàn trưởng- Mừng chưa được cưỡi ngựa bao giờ, lạch mãi mới trèo lên được, ngồi sát sau lưng bạn. Trung đoàn trưởng còn đứng dưới đất, nói với Mừng:
- Cho anh gửi lời thăm mạ nghe!
- Dạ...
Nghi kéo dây cương quay ngược về phía sau. Con ngựa thấy phải quay lại đường cũ, dậm vó liên tiếp xuống đường, hý lên ầm ĩ tỏ vẻ phản đối- Em quất cho một roi vào sườn ba. Con ngựa cất cao vó, lao như bay về phía trước- Tiếng vó nện xuống đường đá nghe rầm rập- Nghi hét to:
- Cậu quàng tay ôm chặt ngang lưng tớ không thì ngã đấy!
Ngồi trên yên ngựa sát sau lưng bạn, Mừng bắt chước nhún người lên xuống theo nhịp ngựa phi. Thích chí em bật cười khanh khách. Bao nhiêu buồn khổ đã làm em khóc hết nước mắt phút chốc vụt tan biến đi đâu hết- Em vui sướng kêu to:
ôi chà, ôi chà! êm đít quá! êm đít quá!
Lây nỗi vui thích của bạn. Nghi cũng phá lên cười giòn giã. Tay nới dây cương cho ngựa phi nước kiệu, Nghi quay đầu lại hỏi:
Cậu chưa được cưỡi ngựa bao giờ à?
Chưa! Con mạ Niệm bán bún bò làm chi có ngựa mà cưỡi . . . Dạo Ở nhà tớ được cưỡi dê một lần, còn chó thì cưỡi luôn . Một bữa tớ cưỡi con chó mực nhà cụ Mộc, định thúc chó nó phi; nó nổi cáu đợp cho tớ một cú vô bắp chân còn sẹo đây này.
Nghi vung roi lên cười khanh khách, nói giọng ngang tàng.
Còn tớ thì sống nửa đời trên lưng ngựa! - Câu nói này Nghi học được của một tay anh chị làm nghề đánh xe ngựa hồi còn đi Ở chăn ngựa.
Mừng bỏ một tay ôm bạn ra, vỗ vỗ vào hông con ngựa, hỏi:
Con ngựa ni là ngựa chi mà to dữ ri cậu?
- Cậu chưa biết à? NÓ là con ngựa qúy nhất của vua Bảo đại. Trước kia chỉ có vua mới được cưỡi nó thôi.
Chỗ cậu đang ngồi là đúng chỗ trước -kia vua Bảo đại ngồi đó nghe!
- Rứa à? - Mừng kêu lên ngạc nhiên. Em gục vào vai bạn cười ngặt nghẽo. - Hơ hơ! Ai ngờ thằng Mừng con mạ Niệm bán bún bò Ở chợ Bao Vinh, bữa ni lại được ngồi đúng vô chỗ vua Bảo đại ngồi! Hơ hơ! hớ hơ! - Em vừa reo vừa nhổm đít lên dằn đít xuống mấy cái liền cho hả cơn khoái.
Nghi cũng lây nỗi vui bồng bột của bạn, cười to nói- Nhưng cậu cũng chưa bằng tớ? Tớ đã được làm vua rồi nghe!
- Thôi đi! Cậu chỉ nói trạng thôi!
- Tớ nói thật mà! Tuần trước tớ vô Ðại Nội đưa thư của trung đoàn trưởng cho ông Chủ tịch ủy ban tỉnh.
Tớ lẻn vô điện Cần Chánh, tót lên ngai vàng ngời vắt chân chữ ngũ làm vua chơi.
- Rứa cậu có vuốt râu không?
- Hứ! Vuốt râu cái chi?
- Tớ đi xem hát bội, thấy vai vua ra là vuốt râu.
Nhưng tớ làm cóc chi có râu?
vuốt giả đò ấy mà.
Hai đứa cùng cười rúc lên. Con ngựa phi nước kiệu đều đều Con đường loang loáng những vũng nước mưa trôi dưới chân ngựa. Mừng bỗng nghe bạn vừa lắc lư đầu miệng vừa rì rầm ti tỉ cái gì, nghe không rõ. Em lay lay vai bạn, hỏi:
Cậu hát à? Hát bài chi, hát to lên cho tớ hát cùng với.
Tớ làm thơ.
- Làm thơ là làm cái chi?
- Cậu không biết thơ à? Bài thơ thường in trên các tờ báo, câu ngắn, câu dài, có vần với nhau, đọc lên nghe như câu hò chèo đò, câu hát ru em ấy mà.
- Rứa thì tớ biết rồi. Ó đội tớ có cậu Tư-dát học giỏi nhất, cũng biết làm thơ nghe! Cậu ấy đọc lên gì gì nghe hay lắm. Làm thơ có khó không cậu? Cậu học ai mà làm được thơ tài rứa?
- Hồi Ở Mặt trận An Khê, có một anh nhà báo nhận tớ làm em nuôi, dạy tớ làm thơ. Anh ấy bị đạn đại bác Tây, chết mất rồi. Thơ anh ấy hay ghê lắm. Mỗi lần nghe anh ấy ngâm thơ là nước mắt tớ cứ chảy ra.
- Như lúc ăn ớt cay ấy à?
- Không phải- Như lúc về phép thăm mạ mà không được gặp mạ ấy.
- Rứa cái thơ cậu làm đã xong chưa? Ðọc lên cho tớ nghe với.
- Không phải cái thơ mà bài thơ. Cậu chẳng biết cóc chi hết! - Giọng Nghi trách bạn âu yếm - Mình làm bài thơ kể chuyện tụi mình tối nay. Tớ đọc thử cậu nghe có xuôn tai không nghe...
Nghi thả lỏng dây cương cho ngựa chạy chậm lại cất giọng ngâm nga:
Lóc cóc, lóc cóc cóc.
Có hai vệ quốc quân
Cưỡi một con ngựa hồng
Bốn vó mềm như sắt.
Nhỏ hơn một con rồng...
Ngựa này xưa của vua.
Tên là Bảo Ðại ngốc.
Cách Mạng và bác Hồ.
Bắt vua xuống đi đất.
Còn ngựa lấy đem cho.
Hai cháu liên lạc nhóc.
Cưỡi phi về làng Phò.
Thăm mạ bán bún bò...
Lóc cóc, lóc cóc cóc.
 
Nghi ngâm thơ xong một lúc lâu mà không thấy bạn nói gì, khen, hoặc chê, cứ ngồi im thin thít sau lưng - Em sốt ruột quay đầu lại hỏi:
- Cậu thấy thơ tớ nghe có xuôi tai không ?
Mừng bồng gục đầu vào vai bạn, giọng run run:
Mạ tớ bán bún bò mà cũng được cậu làm vào trong cái thơ... Cậu tốt quá!
Con Ca-rô-lin đã đưa hai chú bé liên lạc về đến đầu làng Phò. Trời xem chừng đã khuya lắm, có lẽ phải quá nửa đêm. Xóm làng tối hăm chín Tết năm đó như một người nửa thức nửa ngủ- Nhiều nhà cửa đóng im ỉm- Một vài nhà còn thấp thoáng ánh lửa. Trên đường cái làng thỉnh thoảng có người gồng gánh đi lại. Giữa cảnh tịch mịch, chốc chốc lại vang lên tiếng quát giật giọng- "Ai! Ðứng lại!" đó là tiếng hô của các anh chị dân quân tự vệ canh gác đầu các ngã đường. Phía thành phố súng vẫn nổ rền như mọi đêm- Nhưng Ở đây nghe tiếng súng hiền lành hơn; không chí chát dữ tợn như Ở ngoài Mặt trận. Chốc chốc từ một góc nào đó trong thành phố vọt lên trời một quả pháo hiệu đỏ lòm như một hòm than đậm lửa văng ra từ một bếp lò rèn khổng lồ.
- Nhà cậu Ở đường mô? - Nghi ghìm cương lại hỏi:
- Cậu cứ đi thẳng, lúc nào nhìn cái giếng xây cạnh cây bồ đề thì quẹo qua trái một khúc là đến nơi.
- Cậu nhớ vô thăm mạ một phút rồi phải trở ra ngay để- về cho kịp nghe.
Mừng ghé vào tai bạn thì thầm.
Tớ lo quá cậu ạ. Chốc nữa gặp mạ e tớ không về được đơn vị thôi. - Tại răng rứa? Mạ bắt cậu phải Ở nhà à? .
Mừng không trả lời mà chỉ gật đầu. Dáng bộ em trở nên ủ rũ, buồn bã.
- Mạ có bắt thì cứ vùng ra mà đi, sợ chi? Cậu cứ nói là nếu mạ không cho trở về đơn vị thì bộ đội sẽ về đây bắt con đi Ở tù. Chắc mạ phải sợ mà cho cậu đi.
Nhưng chỉ sợ đến lúc thấy mạ thấy mạ nằm lăn ra giữa nhà đập đầu thìch thịch vào cột nhà rồi khóc như mưa như gió, e tớ thương mạ quá mà không đi được thôi cậu ạ.
Trời tối quá, không nhìn thấy mặt bạn, nhưng nghe giọng nói Nghi cũng đoán được lúc này bạn đang bối rối buồn khổ ghê gớm... Em liền cho ngựa dừng lại, lo lắng hỏi:
- Rứa cậu định Ở lại với mạ chứ không trở về đơn vị nửa à?
- Không, không mô... Không đời mô--. Cậu có cách chi giúp cho tớ với!
- Hai đứa ta nhảy xuống cho ngựa nghỉ lưng một tí rồi bàn coi có cách chi không?
Hai đứa xuống ngựa, dưới chân chúng lép nhép những bùn.
Mừng đứng nép vào bơ tre, khóc thút thít, Nghi cố moi óc nghĩ cách giúp bạn nhưng không nghĩ được cách gì- Chà.-. chuyện này rắc rối quá. Mừng bỗng cầm tay bạn lay lay, nói:
- Nghi này, hay là tớ chỉ nhà cho cậu, cậu vô thăm mạ giúp tớ. Cậu nói với mạ: thằng Mừng,của mạ vẫn còn sống. NÓ đi Vệ Quốc đoàn đánh Tây bên Mặt trận khu C . - . NÓ đang mắc công tác trinh sát, liên lạc nên chưa về thăm mạ được. NÓ xin mạ đừng giận nó mà tội nghiệp. Bữa mô rỗi việc nó sẽ xin phép cấp chi huy về thăm mạ...".
- Rứa còn cậu?
- Mình đứng ngoài đường giữ ngựa, chờ cậu ra..
Nghi một tay cầm cương ngựa, một tay nắm chặt tay bạn, giọng nghe chừng muốn khóc:
Khổ cậu hè.-. Cậu có biết chữ không?
- Chưa. Hồi còn Ở nhà mình có đi học bình dân học vụ sắp đọc được viết được thì mạ bị đau, lên cơn suyễn nặng. Mình phải bỏ học, tối tối phải rang muối chườm ngực mạ. Rứa là mình quên hết mặt chữ...
- Tiếc quá hè- Nếu biết chữ cậu viết cho mạ cái thư tớ mang vô cho mạ, chắc mạ sẽ càng tin hơn, mừng hơn.
Mừng sực nhớ gói đồ đeo lủng lẳng bên vai, liền cởi ra đặt vào tay bạn:
Mình có cái gói ni nhờ cậu đưa cho mạ..
- Gói chi ri? - Nghi vừa hỏi vừa bóp bóp cái gói- - Mấy thứ lặt vặt của anh Lượm với anh Tư-dát góp lại gửi về biếu mạ. Chừ mình đưa cậu đến trước ngõ nhà kẻo sợ trời tối quá cậu tìm không ra.
Nhưng lỡ cậu trông thấy mạ, cậu thương quá khóc to lên mạ nghe tiếng thì nguy!
- Tớ có khóc cũng phải bặm môi lại, cậu đừng lo- Ó đội đêm tớ nằm ngủ với thằng Vệ, thằng Quỳnh, nhớ mạ quá tớ khóc mà chẳng đứa mô nghe tiếng cả. CÓ tài không?
Mừng đi trước dẫn đường, Nghi dắt ngựa theo sau.
đang đi ngoằn ngoèo trong con đường kiệt tối ngửa bàn tay không thấy, Mừng bỗng đứng sững lại, nói như bị hụt hơi.
- đến nhà rồi..- đó, cái nhà trước cổng có cây sầu đâu ( Cây xoan) cao cao tê - Trong nhà không thấy có đèn lửa chi, chắc mạ với mệ đi ngủ rồi.
Nghi đưa dây cương ngựa cho bạn, giục:
- Cậu dắt ngựa quay lại đứng chờ tớ Ở chỗ lúc nãy nghe.
- Cậu cho tới đứng ngoài hàng rào, chờ lúc mạ ra, ngó mặt mạ một tí tì ti thôi. Mạ ra đến giữa sân, tớ dắt ngựa chạy lui cũng còn kịp...
Nghi ứa nước mắt thương bạn. Em đưa tay tìm tay bạn trong bóng tối, siết chặt.
- Úi chao, răng tay cậu run dử ri? Hay cậu đau?
Không. . - Tại tớ ăn có một cái chân gà - . . - Mừng thì thào qua nước mắt.
- Mạ dặn ăn chân gà phải ăn cả hai chân. ăn một chân thì mắc bệnh run tay run chân. Bữa đó tớ mới ăn một chân thì gặp thằng Thúi bị di ghẻ đập đuổi ra đường. Tớ thương quá cho nó một chân, chứ mới khổ ri.
Hai đứa dắt nhau đi đến trước cổng ngôi nhà có cây sầu đâu.
- CÓ ai trong nhà ra cho tui hỏi nhờ một chút!
Nghi gọi to.
Gọi hai, ba lần thì trong nhà có tiếng hỏi vọng ra:
Ai kêu chi ngoài đó rứa?
- Dạ em! Em Ở bộ đội hỏi Niệm bán bún bò Ở Bao Vinh tản cư về đây. Không biết có nhà không?
Trong nhà lóe sáng ánh đèn- Tiếng cánh cửa kẹt mở. Một người đàn bà mặc áo cộc, trùm khăn, tay cầm cây đèn dầu hỏa, một tay chị khum khum che gió, bước ra sân.
Mừng rúc đầu vào cái lỗ trống hàng rào bông cẩn, cố mở to mắt nhìn vào sân- Con ngựa dẫm vó lộp cộp ngay phía sau lưng.
Vùa trông người đàn bà bước ra, Mừng nức nở thì thào gọi qua lỗ trống:
- Mạ? Mạ! Con đây mạ!
Nghi khẽ suýt:
- Chạy ngay đi! Mạ sắp ra rồi đó? - Rồi em bước nhanh qua cổng đón gặp người đàn bà trước sân.
Mừng như bị ai đuổi, túm chặt dây cương, lôi con ngựa chạy biến vào khoảng bóng tối dầy đặc trước mặt.
Em vừa chạy vừa khóc.
Ra đến chỗ bụi tre lúc nãy, em dừng lại, nép sát vào một bên lề- Em đứng chờ một lúc rất lâu vẫn không thấy Nghi trở ra. Ruột gan em cồn cào như lửa đốt. Em đoán chắc lúc ni Nghi đang ngồi nói chuyện với mạ. Mạ rót nước cho Nghi uống, lấy bánh tét, bánh ít cho ăn.
Còn mình là con của mạ thì phải đứng dưới bụi tre dọc đường "Ủi chao, con cực quá mạ ơi" Ý?ĩ đó làm cho Mừng khóc òa lên thành tiếng.
Em thấy mình không còn đủ sức để đứng chờ thêm nữa.
Thôi, mình cứ liều chạy vô thăm mạ. Nếu mạ có bắt Ớ lại cũng đành chịu. Em dắt ngựa, cúi đầu xăm xăm bước. Mới bước được mấy bước đã nghe tiếng Nghi.
- Mừng ơi! Mừng!
- Tớ đây?- Mừng chạy lại đón bạn, hỏi không kịp thở.
Mạ hỏi cậu chuyện chi? Cậu có nói như tớ dặn không?
- CÓ có hết! Chút nữa tớ sẽ kể cho nghe. Chừ phải lên ngựa phi thật nhanh không thì về đơn vị trễ mất.
Hai đứa trèo lên lưng ngựa. Nghi ra roi, cho ngựa phi mỗi lúc một nhanh.
- Té ra mạ đã biết chuyện cậu còn sống, đang Ở Vệ Quốc Ðoàn. Mạ kể là cách đây hơn nửa tháng, có một anh bộ đội tên là... anh chi hè? Anh So? - đúng rồi, anh So. Anh tìm vô nhà gặp mạ, kể với mạ anh ấy gặp cậu đang theo đội đi qua bên Mặt trận, rồi đưa cho mạ bó lá thuốc suyễn của cậu gửi. Mạ vô buồng lấy bó lá ra cho tớ coi Mạ khen lá hay lắm, mới sắc uống có hai chén mà bệnh đã đỡ nhiều- Tớ nói với mạ y như lời cậu dặn. Mạ khóc ghê quá làm tớ cũng khóc theo luôn. Mạ dặn nói lại với cậu mạ không giận chuyện con trốn nhà đi Vệ Quốc Ðoàn mô- Nghe tin con còn sống mà lại nên người, mạ mừng lắm. Khi mô rảnh rang công việc của Mặt trận thì gắng xin phép cấp chỉ huy về nhà cho mạ thăm...
- Mạ còn dặn chi nữa không?
- Ó mạ còn dặn là làm việc chi cũng phải làm cho chăm chỉ, đùng để cho người ta chê bai mình. Với lại không được đầu trần mà đi giang nắng, lỡ cảm đau thì mạ khổ lắm.
Lúc tớ Ở nhà mạ cũng hay dặn như rứa. . .
Mạ ngó bộ hiền quá cậu hí - Mạ cứ ôm chặt lấy tớ mà khóc suốt- Nước mắt mạ rớt xuống mặt tớ nóng phỏng- . .
Nghi bỗng đưa tay lên sờ má, tưởng như nước mắt của ngươi mẹ vẫn còn nóng ướt trên hai má em.
 
Gần năm giờ sáng, Nghi đã đưa được Mừng về đến khu vực trường Kỹ Nghệ.

4.
Trưa ngày mồng 6 tháng 2 năm 1947, quân tiếp viện của giặc đã chọc thủng phòng tuyên sông Nong.
Cũng trưa hôm đó các em trong đội Thiếu niên trinh sát đang chiến đấu Ở Huế cùng với nhiều đơn vị khác, được lệnh chuẩn bị rút khỏi thành phố. Ngoài cánh quân lớn tiến dọc theo đường quốc lộ số Một, bọn giặc tiếp viện đã cho đổ bộ thêm nhiều cánh quân dọc bờ biển Phú Vang, Quảng Ðiền, hình thành những gọng kìm với ý đồ bao vây tiêu diệt quân ta.
Tờ mờ sáng trời đổ mưa tầm tã. đến chiều mưa có tạnh bớt, nhưng gió lạnh thổi hun hút không ngớt. Mặt sông Hương dăn dúm, sóng ì oạp vỗ bờ.
Khắp thành phố tiếng súng của bọn giặc bị vây h.ãm nổ ran ran. Phấn chấn vì tiếng súng giải vây mỗi lúc một thêm gần, chúng chui hết ra khỏi những hang Ổ bấy lâu ẩn náu, liên tiếp mở những trận phản kích điên cuồng vào những đơn vị quân số ít ỏi của quân ta Pháo hiệu xanh đỏ chúng bắn lên tới tấp từ bốn phía, như những lằn roi bầm tím quất lên bầu trời thành phố u ám mây chì.
Một giờ ba mươi chiều, đội trưởng Lê Thắng dẫn các em từ Mặt trận khu C, vượt cầu Bạch Hổ, trở về bên này sông. Chỉ vắng hơn chục em mà hàng ngũ đội thưa hẳn đi.
Mới chưa đầy hai chục ngày tham gia chiến đấu mà các em trông cũng khác lạ hẳn so với cái hôm náo nức vượt sông sang Mặt trận- Cuộc sống căng thẳng, hiểm nghèo và nỗi vất vả kinh người của chiến trận đã in lên gương mặt và dáng dấp của các em sâu đậm hơn gấp bao nhiêu lần so với người lớn.
Em nào cũng đen nhẻm, gầy sắt, ánh mắt mệt mỏi vì đói ngủ, vì phải làm việc quá sức- áo quần, ba lô, túi dết, ướt sũng nước mưa, lấm láp bùn đất chiến hào. ÐỒ đạc trong ba lô túi dết có vợi đi, nhưng trên thắt lưng em nào cũng thêm lỉnh kỉnh nào lựu đạn, dao găm, lưỡi lê...
Ðặc biệt trên gương mặt trẻ thơ của các em đều hằn lên khá rõ cái vẻ suy nghĩ lo toan thường thấy trên gương mặt những người phải đảm đương những trách nhiệm nặng nề và nghiêm trọng- tình nguyện gắn bó đời mình với vận mệnh và sự sống còn của Nhân Dân và Ðất Nước.
Tính nết các em cũng thay đổi nhiều như vẻ mặt.
Không một tiếng cười đùa, không một lời trêu chọc.
Chúng đi lặng lẽ, lầm lủi, đầu cúi thấp nghiêng nghiêng để tránh làn mưa bay chênh chếch như kim châm tạt vào mặt. Thỉnh thoảng có em trượt chân vồ ếch, nhưng chẳng có bạn nào cười- Và em vồ ếch lồm cồm đứng dậy, sửa sang cái gì đó trên người rồi tiếp tục lặng lẽ chạy đuổi theo các bạn. Ngay cả Tư-dát, vốn tính liến láu suốt ngày cũng chẳng thấy mở miệng.
Nỗi uất ức đau buồn vì sắp bỏ lại thành phố quê hương cho quân giặc, cũng nặng trĩu trong tim các chiến si nhỏ tuổi này không kém gì với các chiến sĩ lớn tuổi khác. bởi vậy mà các em chẳng còn lòng dạ nào để cười đùa.
Hiền đi cuối đội, đầu đội mũ ca lô của Vệ-to-đầu để lại đeo tòng teng cái ống nhòm trước ngực- Từ hôm Vịnh-sưa hy sinh, gần như không một phút nào cái ống nhòm rời khỏi ngực em. Em quả quyết nói với các bạn- "Mỗi lần đưa ống nhòm lên mắt, mình đều thấy Vịnh-sưa đứng trong đó, Trần truồng, buộc ngang người vào cột thép thu lôi, đang phất phất cờ tín hiệu đánh "móc" về cho đài quan sát".
Tư-dát xin bạn cho nhìn thử. Ðưa ống nhòm lên mắt, vẻ mặt rất chăm chú, sau một lát Tư-dát nghiêm trang gật đầu.
- Ðúng là cậu Vịnh-sưa đang đứng trong đó thật các cậu ạ.
Vẻ mặt và giọng nói của Tư-dál làm nhiều đứa trong đội dựng cả tóc gáy.
 
5.
về đến cửa Chánh Tây, đội trưởng cho đội dừng lại.
Khắp cả khu vực cửa Chánh Tây, người đi lại nhộn nhạo- Vệ Quốc Ðoàn, tự vệ. cán bộ các cơ quan tỉnh. - Tất cả đều ướt át lấm láp, mệt mỏi. Từng tốp, từng tốp ngồi phệt xuống bờ cỏ trát đầy bùn, bên các gốc cây, hút thuốc, uống nước, chuyện trò nho nhỏ... đội trưởng cho đội tập họp dưới bóng một cây mù u rồi chạy đi tìm cơ quan chỉ huy cuộc rút lui- Lát sau anh chạy về, vỗ vỗ tay nói:
- Mỗi tổ cử ngay một em theo anh vào trạm tiếp lương, lãnh bánh tét ăn đường.
Nghe nói bánh tét, nét mặt cả đội tươi tỉnh lên một chút.
Bánh tét lãnh về, các tổ khác mỗi đứa được một đòn, riêng tổ Tư-dát - do nó đi lãnh - mỗi đứa được hai đòn. Cả đội nhao nhao hỏi:
Cậu làm răng mà tài dữ rứa?
Tư-dát đắc chí cười hề hề.
Tớ ba hoa thiên địa với mấy chị phát bánh một hồi làm các chị cứ ôm bụng là cười, rồi quăng luôn cho tớ thêm ba đòn nữa - "Ði đi ông tướng! - Các chị nói, - chú mà còn đứng đây thì các chị cười đến đứt ruột mà chết thôi!". Lần đầu tiên cả đội thấy cái miệng liến láu của Tư-dát được việc.
Ba giờ chiều, có tin quân giặc đã tiến đến sân bay Phú Bài. Lệnh trên: Tất cả phải cấp tốc rời khỏi thành phố.
Trước lúc xuất phát, đội trưởng tập hợp đội thành hàng ngũ chỉnh tề. Anh báo cho cả đội biết: Sẽ phải hành quân suốt cả đêm hôm nay. Chúng ta sẽ rút lên chiến khu- Các em soát lại ba lô đồ đạc, xem có thứ gì không cần thiết thì vứt bỏ lại để đi đường xa đỡ nặng.
Cả đội yên lặng nhìn anh- Như đoán biết các chiến sĩ nhỏ bé của anh trong giờ phút nghiêm trọng này, đang nghĩ gì và đang chờ đợi cái gì, anh bước ra chính giữa hàng quân, hắng giọng nói:
- Các em! Chúng ta phải rút khỏi thành phố, nhưng không phải chúng ta chịu thua chúng! Không! - Anh quắc mắt chặt mạnh bàn tay vào không khí, nét mặt đanh hẳn lại- Theo chủ trương của HỒ Chủ Tịch và của Chính Phủ, cuộc kháng chiến của chúng ta được chia ra làm ba giai đoạn. giai đoạn thứ nhất: phòng ngự, giai đoạn thứ hai: cầm cự, giai đoạn thứ ba: tổng phản công- Hiện nay chúng ta đang bắt đầu giai đoạn thứ nhất- Thế giặc lúc này đang còn mạnh, chúng ta tạm thời rút khỏi thành phố, lên vùng núi cao thành lập chiến khu- Chúng ta vừa củng cố xây dựng lực lượng vừa tổ chức đánh giặc. Lúc đầu đánh nhỏ, dần dần ta đánh lớn. Khi thế giặc đã suy yếu, bấy giờ ta sẽ chuyển sang giai đoạn tổng phản công. Chúng ta sẽ dùng đại quân đánh chiếm lại thành phố, làng mạc quê hương, giải phóng hoàn toàn đất nước. Giành lại hoàn toàn độc lập. Bấy giờ tất cả chúng ta sẽ được sống cuộc sống sung sướng hạnh phúc như có lần anh đã nói với các em.
Những lời giải thích tình hình kháng chiến hết sức đơn giản đó của đội trưởng đã làm cho gương mặt ỉu xìu của cả đội vụt rạng rỡ phấn chấn hẳn lên. Thật ra các chiến sĩ nhỏ bé này đâu có cần đến những lời giải thích thật thuyết phục với lý lẽ thật đích đáng, điều mà lúc này chúng cần là được người chúng hoàn toàn tin cậy, khẳng định niềm tin. khẳng định chiến thắng- Mà khẳng định không phải bằng lý lẽ mà bằng thái độ, tình cảm. Bởi một lẽ, các em yêu Cách Mạng, yêu TỔ Quốc, yêu những lý tưởng .cao đẹp của cuộc sống với tình yêu thơ ngây gần gũi như tình yêu cha, yêu mẹ, yêu ông bà... Lẫn trong nỗi đau khổ, uất ức chân chính của người chiến sĩ khi cảm thấy mình phải tạm thời thua giặc có cả lòng tự ái của trẻ con khi bị thua một keo vật, một trận bóng đá...
Hòa-đen hôm về tập trung đội, dọc đường ghé vào quán mua viên kẹo bi ngậm chơi. Trong quán, ngoài bà bán hàng còn có hai ông khách mặc áo dài đen quần lụa xa xị trắng, đang ngồi sát vách hút thuốc lá Cẩm Lệ.
Nhìn qua cách ăn mặc, Hòa-đen cũng đoán biết hai ông này thuộc loại giầu có hoặc làm quan ngày trước. Hai ông vừa hút thuốc vừa nói chuyện thời thế. Lúc đầu em chẳng để ý câu chuyện của hai ông- Em còn mải mê với viên kẹo bi của bà bán hàng vừa trao cho. Chà, viên kẹo dinh dính trong như thủy tinh, có điểm những vằn xanh, đỏ đẹp mê người. em thận trọng đút viên kẹo vào mồm, ngậm vào một bên má để mút dần- Chất ngọt mát cứ lan dần Ở đầu lưỡi- Ðịnh bước ra khỏi quán em bỗng nghe một trong hai ông khách nói:
- Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay? Tây họ đuổi cho chạy ré còi vẫn còn nói cứng- Những là toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, những là trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi! Thắng lợi chạy dài!
ông khách thử hai có hàng ria mép đen nhánh, vắt vẻo điếu thuốc lá sâu kèn trên cặp môi thâm sì cười khẩy tiếp lời:
Bác không nhớ ngay cái bữa đầu tiên nổ súng tôi đã nói ngay: Việt Minh răng cũng thua Tây. Ðời thuở mô mác lào đâm thủng xe tăng!
Hòa-đen đứng khựng lại Ở ngưỡng cửa. Em đỏ mày say mặt vì tức. còn tức hơn cả cái hồi còn Ở nhà, khi có đứa réo tên cha mẹ ra mà chửi. Em muốn cãi lại hai cái lão già mặc áo đen ni để bênh vực cho kháng chiến, cho Việt Minh, cho Vệ Quốc Ðoàn. Nhưng em không biết phải cãi như thế nào- Ðúng là quân ta phải rút lui Ở Mặt trận Ruổi thật. Nhưng.-- nhưng...em giận run lên vì cảm thấy mình bất lực, vì bị xúc phạm một cách cay đắng. viên kẹo bi vừa ngậm, mới suýt được có hai cú nước bọt, ngọt ngon đến chết được, thế mà em nhổ phăng ngay xuống đất, em quay lại nhìn hai ông khách, trợn mắt chửi:
- TỔ cha bay? Hai đứa bay là đồ Việt gian?
Rồi ù té chạy- ông khách có ria mép chụp chiếc guốc đang xỏ Ở chân, nhảy chồm ra cửa ném theo.
Thằng cha ném rất bợm, suýt nửa trúng đầu em- Em vừa chạy vừa chổng mông về phía ông khách, vỗ bồm bộp. gào to:
- TỔ cha hai thằng Việt gian có ăn đít tao đây!
Chửi, vỗ đít mà cơn giận vẫn không sao nguôi được.
Càng nghĩ đến câu chuyện của hai lão già mặc áo dài đen, máu trong người em càng sôi lên. Em bặm môi, nghiến răng, trợn mắt, quát to lên một mình:
- Tao mà có khẩu súng, tao nã cho hai thằng bay hai phát vô giữa lỗ miệng ngay! . . .
Lúc này đứng trong hàng, Hòa- đen như nuốt từng lời giải thích của đội trưởng- Em chặc lưỡi xuýt xoa tiếc mãi chưa được đội trưởng giảng cho nghe về ba giai đoạn kháng chiến như bữa ni. Mình sẽ giảng cho hai cái thằng già mặc áo đen dài phải cứng họng, trắng mất ra.
Mình mô có thèm chửi cho nhớp miệng, vỗ đít cho nhớp tay. Tư-dát quay sang nói với Lượm đứng bên cạnh, giọng buồn buồn:
- Nếu rút lên chiến khu mà đánh không thắng thì làm răng mi hè? Chắc tụi mình phải Ở luôn trên đó, làm lấy nhà mà ở, trồng lấy khoai sắn mà ăn, rồi đóng khố để tóc dài như người thượng cà răng căng tai CÓ chết thì chôn luôn trên đó.
Lượm sửa lại hai quả lựu đạn mỏ vịt đeo trước bụng, nói giong lộ vẻ đau đớn.
Theo tao thà Ở luôn trên núi, ăn sắn đeo gùi đóng khố, chết thì chôn luôn trên đó, còn hơn là phải về Ở chung Ở lộn với ba thằng Tây. ba thằng Việt gian. ngày ngày phải ngó tụi hắn đi lại nghênh ngang trên đường phố mình như ngày chưa Cách Mạng!
- Ðúng đó anh Lượm ạ. Em cũng nghĩ như anh rứa.
- Mừng đứng sau lưng Lượm, bật lên nói- Em a, em thà chết đói chứ không thèm ăn một hột cơm của tụi Tây, tụi Việt gian!
Mừng níu tay Tư-dát hỏi:
Anh Tư này, ba giai đoạn cái chi chi anh hè?
Tư-dát giọng chê trách:
- Phòng ngự, cầm cự, tổng phản công! có rứa mà không nhớ- Tối bụng tối dạ như mi mà đi học thì cứ gọi lấy bồ mà đựng trứng vịt lộn.
Mừng không để ý đến lời chê trách của Tư-dát. Em còn mải nhẩm đi nhẩm lại cho nhớ: "Phòng ngự, cầm cự, tổng phản công. Phòng ngự, cầm cự, tổng phản công..." Tự nhiên em rớm rớm nước mắt nghĩ thầm:
"Chao, ước chi chừ được gặp mạ, nói cho mạ nghe cái ba giai đoạn, để mạ khỏi lo khỏi buồn mà bệnh thêm nặng. Mạ ơi, Vệ Quốc đoàn ta răng cũng đánh đuỗi được tụi Tây, nước mình răng cũng được độc lập, mạ răng cũng được Chính phủ cho vô nhà thương to nhất, nhiều thứ thuốc qúy nhất chữa cho mạ lành bệnh suyễn . . . Mạ đừng lo chi cả mạ ơi! ".

 
6.
Các đơn vị lũ lượt lên đường rời khỏi thành phố. Một hồi còi dài. Ðội Thiếu niên trinh sát nối theo sau một đơn vị Vệ Quốc đoàn, rời khỏi cửa Chánh Tây, theo con đường số Một, đi về phía cầu An Lỗ.
Chốc chốc các em ngoái đầu lại, cặp mắt buồn rười rượi, thương tiếc xót xa- Một ngọn lửa rất to bùng lên từ phía cầu Bạch Hổ. Quân ta đang rưới xăng đốt cầu.
Lúc này mưa đã bớt nặng hạt và chuyển thành một màn bụi mờ dày đặc. gió lạnh thổi bời bời. thành phố xa dần, chìm khuất sau màn mưa. Chốc chốc trong cái biển bụi mưa đặc sệt đó lại rộ lên những tràng súng dài ằng ặc- Tiếng súng như muốn nhắc cho đoàn quân rút lui biết:
"Huế Ở phía ni, Huế Ở phía ni!"- Xa xa, phía nam thành phố, tiếng đại bác giặc nổ rền như sấm đất.
Tư-dát mải ngoái đầu nhìn Huế chân vấp phải hòn đá, kêu "ối!" Mặt em nhăn nhó xuýt xoa, nhắc bàn chân đau lên nhảy lò cò một quãng:
- Tớ vấp sứt mất cái móng chân rồi các cậu ơi - Em rên rỉ.
Bồng cúi lượm một hòn đá, ném ngược trở lại căm tức chửi:
Mả cha ba thằng Tây? Lúc ni trong các vị trí chắc cha con giòng giống tụi hắn đang ôm nhau mà nhảy đầm với hát xì lô, xì la điếc cả đít?
Hình ảnh Bồng bất ngờ gợi lên đó làm khơi ngòi giận đang ám ỉ trong lòng cả đội. Các em cùng nhao lên thi nhau tìm hết lời độc địa để nguyền rủa tui thực dân cướp nước.
ôi! quả thật không gì làm cho người chiến sĩ đau đớn uất giận hơn khi hình dung quân thù đang ôm nhau nhảy múa trên đất đai quê hương mình!
Tư-dát chân vẫn nhảy lò cò, nói như muốn an ủi các bạn.
- Ðược, cứ để cho tụi hắn ôm nhau nhảy đầm với hát xì lô xì la. đến ngày tổng phản công, tụi ta về chiếm lại Huế- Tụi ta sẽ dùng súng cắm lưỡi lê lùa tuốt tuốt cả Tây đầm, lớn, nhỏ, già, trẻ ra sân vận động Ðất Mới Xung quanh sân vận động, tụi ta sẽ bố trí toàn F.M- Hốt kít- Chiêu Hòa hai nòng, rồi ra lệnh cho cha con tụi hắn phải ôm nhau mà nhảy đầm với hát xì lô xi la đúng như hôm ni. đứa mô không chịu nhảy, chiu hát, ta kéo cổ ra, tạch tạch "phơ" luôn? Rồi các cậu coi tụi hắn vừa nhảy vừa hát vừa đái hết cả ra quần, ra váy làm thối inh cả sân vận động?
Cái viễn cảnh trả thù giặc mà Tư-dát vừa tưởng tượng ra đó làm cho cả đội nguôi nguôi bớt giận. Chúng tranh nhau bàn tán thêm bớt cách thức tổ chức trả thù của Tư-dát.
Ra đến cầu An Lỗ, người chạy giặc ùn ùn càng đông. Ngoài bộ đội, cán bộ, còn cơ man nào là đồng bào- Kẻ gánh người khiêng, người dắt xe đạp, người đẩy xe bò, người dắt con, người bế cháu..- ồn ào nhốn nháo như vỡ chợ. Nhiêu đoạn đường bị tắc nghẽn không sao nhích lên được- suốt dọc đường đồng bào vứt lại không biết bao nhiêu đồ lề, của nả mà chẳng ai buồn nhặt- Ngang qua Hương Cần cái làng có xuýt ngon nổi tiếng, đội đuổi kịp một đơn vị súng cối tám mốt ly..- Anh Vệ Quốc Quân vác cái nòng súng đi giữa hàng quân cao vượt lên. Anh vác cái nòng thép to như cột nhà mà coi bộ nhẹ không. Ðầu anh đội mũ sắt, quần xắn đến bắp-vế, hai cẳng chân to và đen không khác chi hai cái nòng súng cối tám mốt. Trông bộ anh quen quen- Mừng nhận ra anh đầu tiên. NÓ mừng rỡ chạy vượt lên gọi to:
- Anh So? Anh So?
Anh đổi vai vác nòng súng, rồi quay lại, phướn mày nhìn bọn trẻ- Anh mở rộng miệng cười hồn hậu phô hết cả hai hàm răng to, vàng khè khói thuốc lá, cả đội liền nhận ra chính là cái anh công binh phụ trách bom cầu Bạch HỒ hôm nào.
Ðội trưởng bước lại, bắt tay anh:
- đồng chí lại chuyển qua moóc-chê tám mốt à? Răng không Ở công binh nữa?
Anh So cười hề hề:
- Trời sinh ra tui là cốt để ăn no vác nặng. Cấp trên thấy tui sức vóc ra ri mà giao cho cầm sợi dây bom quá nhẹ, uổng! Các ông mới điều tui qua để vác cái cột nhà sắt ni đây đồng chí ạ. Anh đưa bàn tay hộ pháp vỗ đánh bộp cái vào nòng súng moóc-chê.
Tư-dát đứng gần đó làm bộ hớt hải kéo.tay anh:
ối, anh vỗ nhè nhẹ chớ vỗ mạnh rứa lỡ bẹp mất nòng súng, Tây đến lấy chi mà bắn anh?
Chú đưa tay sờ vào chỗ nòng súng anh vừa vỗ miệng xuýt xoa: .
- Chết cha rồi, hơi bẹp, hơi bẹp!
Anh trung đổi trưởng moóc-chê cho trung đội nghỉ giải lao mười phút. Ðội trưởng cũng thổi còi cho đội lánh sang bên đường nghỉ cùng với các anh moóc-chê- Mừng từ nãy tới giờ vẫn đứng sát sau lưng anh So- Em ngập ngà ngập ngừng muốn hỏi anh cái gì nhưng thấy anh còn mải nói chuyện nên lại thôi. Anh So sực nhớ, quay lại:
- Mừng đó em? Chút nữa thì anh quên mất. Cách đây nửa tháng, anh có công tác phải về Bao Vinh.
Ngang qua nhà em anh tranh thủ tạt vô, thì may cách chi, đúng lúc mạ em đang sửa soạn đồ lề gánh gióng để đi tản cư. Anh liền kể với mạ chuyện anh gặp em- thằng con chị nó đi Vệ Quốc Ðoàn Ở Dội Thiếu niên trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân coi bộ oách lắm".
Nhưng mạ em nhất định không tin, cứ khăng khăng nói:
" Chú thương chị, bảy đặt chuyện ra mà nói cho chị vui lòng, chứ thằng con chị còn sống làm răng được chú ơi? Từ ngày cháu mất đi không đêm mô chị không nằm mê thấy cháu về ngồi dưới chân gi.ường chị, ôm mặt khóc tỉ tê: " con chết oan uổng lắm mạ nớ.. Anh chưa biết làm cách răng cho mạ em tin thì vừa vặn sực nhớ đến bó lá tầm gửi em gửi anh dạo nọ. Rứa là anh mở ba lô lấy ra đưa luôn cho mạ em- Chị không tin thì đây, lá tầm gửi thằng con chị nó nhờ tui mang về cho mạ nó, để mạ nó sắc uống lành bệnh suyễn kinh niên đây NÓ còn dặn chị chặt nhỏ lá ra, sao vàng, hạ thổ, đổ năm bát nước sắc lấy một. Uống bốn năm lần là khỏi bệnh. Chị biết không nó khoe với tui là phải trèo lên đọt ngọn cây bút bút cao nhất Huế vào giữa lúc nửa đêm để hái nó đó. Công trình hắn ra rứa nên tui phải giữ cái bó lá nớ con hơn cả thần giữ của. chị nghĩ coi, nếu con chị nó không nói thì làm răng tui biết được chị mắc bệnh suyễn kinh niên? Với lại làm răng tui có sẵn lá tầm gửi trong ba lô để đưa ra ngay cho chị?" Lúc đó mạ em mới cầm lấy bó lá, ngó trân trân một lúc, mặt coi bộ dại hẳn đi Anh sợ quá tưởng mạ em mừng quá hóa điên. Mạ em kêu lên một tiếng làm anh rúng cả tim : "ỦI chao ôi! - Ðúng là thằng con tui nó còn sống thiệt rồi chú ơi" Rồi mạ ôm rịt bó lá vô ngực vừa khóc vừa cười và nói- "Ai ngờ con còn sống con ơi? Rứa mà con làm mạ khóc hết nước mắt nước mũi-.." Mạ kể với anh: "Hồi còn Ở nhà hễ mỗi lần tui lên cơn hen, là cháu của chú ngồi bên tui suốt ngày suốt đêm chườm ngực cho tui. Rồi lần mô hắn cũng nói: "Mạ ạ, con nghe cụ Ba Trà nói thứ lá cây tầm gửi đậu trên ngọn cây bút bút thật cao, trèo lên đúng lúc nửa đêm mà hái về, phơi khô, sao vàng rồi sắc uống, thì bệnh suyễn nặng mấy cũng lành. Con ước chi có cây bút bút ngọn cao thấu trời, đậu thật nhiều tầm gửi, để con trèo lên hái về sắc cho mạ uống. Cháu của chú nó hiếu nghĩa như rứa đó chú nớ...". rồi mạ em lục gánh, lôi trong bị quần áo ra một bộ áo quần của em còn mới tinh, quần sóc xanh với áo sơ mi trắng cụt tay- Ðưa bộ áo quần cho anh, mạ nói: "Bộ áo quần ni chị may cho cháu nhưng cháu chưa kịp mặc- Mấy lần cháu nó đòi mặc chị lại không cho, nói để dành đến Tết mặc, mình con nhà nghèo, ăn mặc tùng tiệm răng xong thì thôi...
Hôm chị mời thầy pháp làm lễ cầu hồn cho cháu chị định đốt về dưới đó cho cháu nó mặc. Nhưng thầy pháp nói ma chỉ biết mặc quần áo giấy thôi- Rứa là chị phải thuê thợ mả dán một bộ quần áo giấy giống in như bộ ni, đốt cho cháu-.. Chừ may mắn được gặp chú đây, chị muốn nhờ chú đưa giúp cho cháu, nói với cháu giúp chị:
Biết con còn sống, theo Vệ Quốc Ðoàn mạ mừng lắm, mạ không giận con mô. Con phải cố gắng theo kịp bầu bạn, anh em, Vệ Quốc Ðoàn giao cho việc chi phải làm đến nơi đến chốn, phải chăm chỉ giỏi giang. Với lại con nhớ đừng đi giang nắng nhiều mà phải cảm thì khổ mạ.--" Anh nói với mạ em- "Chuyến ni về chưa chắc tui đã gặp lại được nó. Tôi sợ mang theo mà làm mất của cháu thì tội cháu lắm. Chị cứ giữ lấy, răng rồi cũng có bữa hắn được cấp trên cho về phép thăm chị thôi..." Kể đến đó anh tắc lưỡi: "Tiếc quá, biết rứa hôm đó anh mang bộ áo quần đi cho xong. có phải chừ em được mặc áo mới rồi không?" Nghe chuyện mạ, Mừng cơ hồ ngồi không vững nữa- Bàn tay nhỏ bé, đen đũi, các ngón tay bị móp vì dầm lạnh, cứ bíu chặt lấy vai áo anh, như sợ ngã. em úp mặt vào ngực anh, nước mắt nó thấm qua áo anh, nóng bỏng.
Và lạ lùng chưa, cả đội và cả các anh trong trung đội moóc-chê, mắt người nào cũng đỏ hoe.
Chiều hôm sau, đội rút đến cầu Hiền Sĩ- CÓ tin quân giặc đã tràn vào thành phố.
đi bộ một ngày một đêm, bàn chân đứa nào cũng rộp phồng. đây là lần đầu tiên trong đời các em phải chuyến đi bộ xa đến thế. Nhiều em phải cởi cả áo, cả quần dài, xé ra bọc bàn chân mới bước nổi- đội trưởng đi giày săng-đá không bít tất. hai bàn chân anh cũng rộp phồng, nhưng nhất định anh không cởi giày. Phải lội qua nhiều quãng đường ngập nước mưa nhen thỉnh thoảng anh lại nằm dài xuống đất, giơ ngược hai chân lên trời để dốc nước trong giày ra. Các em gọi đùa ỉa Ðội trưởng tập xiếc- Nhắc đến xiếc, cả đội lại nhớ đến những bạn hiện vắng mặt: Vệ-to-đầu, Lai, Du, Nghĩa, Ðoàn, Trà, Tề.- Từ hôm các bạn rời Huế theo các đơn vi bổ sung cho Mặt trận phía Nam, không em nào có tin tức gì về- Hiện lúc này các bạn đang Ở đâu- có còn đầy đủ cả không- có bạn nào bị thương hay hy sinh- Trưa hôm qua, các em gặp một đơn vị thuộc tiểu đoàn Mười tám, vừa từ trong đó rút ra. Các anh kể: "Trong trận kịch chiến Ở đèo Mũi Né, có một chú liên lạc không rõ Ở đơn vị nào, trạc tuổi các em, đã trúng đạn hy sinh.
chú ta chết mà mặt cứ tươi rói, không ai dám nhìn lâu đau ruột quá! vì phải rút lui gấp nên không mang chú ta theo được, phải dùng lưỡi lê đào huyệt chôn trên đỉnh đèo. Trước khi chôn, các anh đã cẩn thận lấy cái áo súng khẩu đại liên Hốc-kít bọc xác. Chú ta nằm vừa vặn cái áo súng. . ." Một anh trong đơn vị này nghe xong câu chuyện đã trầm ngâm kết luận: "Rứa đó các em ạ. đời chiến sĩ Vệ Quốc chúng ta không phải là da ngựa bọc thây mà áo súng bọc thây? Cuộc chiến đấu của chúng ta hôm nay dữ dội và quyết liệt hơn xưa nhiều lắm".
Không hiểu sao cả đội em nào cũng nghĩ chú liên lạc "áo súng bọc thây" đó có thể là Vệ-to-đầu. Cả đội đều biết đứa thân nhất với Vệ là Hiền. Hai đứa đã nhận nhau làm anh em kết nghĩa. Chúng hẹn nhau khi mô đánh Tây xong sẽ về Ở với nhau. Cùng làm cùng ăn, cùng sống cùng chết.
Bởi vậy em nào cũng tránh nói ý nghĩ đó ra trước mặt Hiền, sợ bạn buồn tội. Riêng Hiền không mấy khi thấy nhắc đến Vệ. Và hễ thấy bạn nào đang nói chuyện Vệ-to đầu là em lảng xa, Nhưng đêm đến, nhiều bạn ngủ cạnh em phải bừng tỉnh vì tiếng Hiền khóc thổn thức trong mơ-em ú Ớ gọi tên bạn-..
 
7.
vượt qua cầu Hiền Sĩ, các đơn vị rút lui rời bỏ quốc lộ số Một, rẽ trái theo con đường rải đá đi về phía làng CỔ Bi.
Bây giờ núi xanh đã Ở trước mặt đoàn quán rút lui- Ðêm đến, đội cùng với các đơn vị rút lui được lệnh nghỉ lại Ở làng CỔ Bi. đồng bào Ở đây đã chạy lên núi hết- Nhà cửa bỏ trống toang.
Làng nằm cạnh con sông BỒ nước xanh rợn người- Khoảng hai giờ sáng, đội trưởng đánh thức cả đội dậy, đi ra bến sông. Ngoài bến đứng đặc người, lố nhố súng đạn, ba lô, túi dết... Dưới sông, đò đậu thành dãy dài.
Từng toán, từng toán lần lượt xuống đò- đội xuống một con đò dài như con thoi có một ông cụ và một o chèo đò.
Bóng tối nhòa nhòa không nhìn rõ mặt. Con đò rẽ nước nối đuôi các đò đi trước, ngược sông. Mặt sông gợn sóng lốm đốm sao và ánh lửa chài đây đó. Nhiều quãng núi đá dựng thành vại sát bờ sông- Con đò lướt đi trong bóng núi đen thăm thẳm như chui vào hang sâu- Tảng sáng, đò cập bến làng Trò. Làng nằm giữa một thung lũng hẹp, một mặt là sông xanh rợn người, ba mặt kia vây quanh núi cao trùng điệp, bên kia sông cũng là núi, vách núi hoang vu, chim kêu vượn hú, san sát chuối rừng, song mây.
Nhân vật quan trọng đầu tiên các em gặp lại khi vừa đặt chân lên bến làng Trò là "ông-già-bảy-lăm" khẩu sơn pháo cổ lỗ độc nhất của trung đoàn và đồng thời là niềm tự hào đặc biệt của toàn Mặt trận Huế - Thừa Thiên. Bây giờ nhìn "ông" mới tiều tụy làm sao?
Nòng một nơi, bánh, càng một nẻo. Tất cả các bộ phận trên th.ân thể "ông" được tháo rời ra chất thành một đống lủng củng dưới gốc cây mít. Nòng ông bị đạn đại bác bô-pho của giặc bắn toe mất đầu hôm ông đứng dưới chân cột cờ khạc đạn- Các anh Ở xưởng quân giới phải cưa đứt chỗ bị đạn, dài đến hơn gang tay. dạo đó được tin này chiến sĩ cả mặt trận lo lắng buồn rầu, coi là một tổn thất không gì bù đắp được . . .
Cả đội xúm xít quanh ông, em sờ nòng, em sờ càng, em sờ bánh... nét mặt em nào cũng rầu rầu xót xa. Các em có một mối cảm tình đặc biệt đối với "ông"- "ông" đã góp phần làm nên vinh quang cho đội, với chiến công lừng danh Mặt trận của Vịnh-sưa. Bởi vậy mà cả đội nhìn cái th.ân thể tiều tụy, tàn phế của "ông", lòng cứ xót xa quyến luyến không dứt- .
Các anh xưởng quân giới khiêng ra một hòm mỡ súng, tọng vào nòng "ông" chuẩn bị thả "ông" xuống đáy sông Bồ, để "ông" khỏi lọt vào tay giặc- Cả làng Trò nhà nào cũng chật ních cán bộ, bộ đội rút lui- Rất nhiều kho tàng, công xưởng của tỉnh được di chuyển lên đây từ trước.
Các em chạy loanh quanh khắp làng- Trong một vườn mít râm như rừng, các em gặp một cái kho năm gian lớn, chất toàn nôi đồng- Nồi chất cao từ mặt đất đến nóc nhà đủ các cỡ, từ nồi nấu một hai người ăn đến loại nồi ba mươi luộc được năm sáu chục đòn bánh tét- Cái nào đáy cũng bị chọc thủng. ÐÓ là nồi của đồng bào trong tỉnh ủng hộ trong Tuần-lễ-đồng, để đúc đạn bắn giặc.
Không hiểu sao đứng nhìn cái kho nồi đồng thủng đáy này, cả đội thấy lòng nao nao buồn- Chao, nếu những chiếc nồi này mà biết nói, chúng có thể kể lại biết bao điều cảm động, thú vị về cuộc sống của hàng chục nghìn gia đình khác nhau-.- có những chiếc nồi quanh năm chỉ nấu toàn cơm độn khoai, sắn, lại có những chiếc mỗi năm chỉ được một vai lần bén hơi lửa, những cái miệng trẻ con mếu máo, gào khóc bên miệng những chiếc nồi không còn đính hạt cơm.
Các em bàn cãi, ước tính nếu đúc hết tất cả số nồi đồng này thì được bao nhiêu viên đạn?
Tư-dát chỉ một cái nồi sứt quai nằm gần sát mái nhà, quả quyết nói- - Ðúng là cái chú nồi đồng điếu của nhà tớ- Tớ chỉ -nhìn thoáng là nhận ra ngay- Chú ta sứt mất một quai.
mỗi lần bắc chú xuống bếp, mạ tớ cứ phải lót gié vô bên mép chú.
Tư dát rút cái súng cao su trong túi ra, lắp viên sỏi bắn một phát trúng luôn cái nồi sứt quai vừa chỉ. Em nói với cái nồi .
Chớ em không nhận ra anh à em? Anh là anh Tư-dát yêu dấu của em đây mà. Hay tại bữa nỉ anh mặc áo quần Vệ Quốc Ðoàn oai quá, nên em lạ? Mạ anh đưa em đi Vệ Quốc Ðoàn từ cái hồi Tuần-lễ- đồng năm ngoái, cùng với em mâm, anh xanh, em còn nhớ không?
Từ đó đến nay cả nhà ai cũng chắc là em đã chui vô nằm trong ngực tụi Tây thực dân rồi chớ. Ai ngờ em còn nằm với đơn vị Ớ đây.
Tư-dát nghiêng đầu, khum lòng bàn tay đặt lên vành tai, mắt hấp ha hấp háy làm bộ đang chăm chú lắng nghe cái nồi trả lời Tư-dat hất hất cằm, làm tuồng mặt giận, hỏi lại:
Răng, em nói là em không nhớ ra anh Tư mô à?
Trí nhớ em răng kém dữ rứa? Hèn chi đít em đen thui?
Em quay lại nói với các bạn - Các cậu không biết, tớ đã học qua. sách xem tướng nồi, anh nồi đồng mô mà đít đen thui là rất kém trí nhớ- - Em lại nói tiếp chuyện với chú nồi- - Anh Tư mà mỗi lần đi học về là chạy ngay xuống bếp dỡ vung em ra, thò luôn tay còn dính đầy mực vô hông em, vét cơm nguội cục ra ăn với nước mắm dầm ớt ấy mà...
Cậu chuyện ba hoa thiên địa của Tư-dát làm cho cả đội đâm ngùi ngùi nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ cha. Mừng cũng bắt chước Tư dát nhớn nhác nhìn ngó khắp kho, tìm cái nồi nhà mình- tìm một lúc em mới sực nhớ nhà mình không có nồi đồng- Từ trước đến nay mạ em chỉ nấu cơm bằng nồi đất.
 
8.
Ðội được lệnh nghỉ lại làng Trò một ngày: chuẩn bị cơm nắm, muối mè để hành quân vượt núi lên chiến khu Hòa Mỹ.
Sáng sớm hôm sau, khi cảnh vật còn tối mờ sương núi, đội đã tập hợp thành hàng ngũ, đến trạm tiếp lương, linh cơm nắm, muối mè- Mờ sáng, đội thành hàng một, đi theo một ông lão dẫn đường, rời làng Trò, tiến về phía dãy núi cao trước mặt. ông lão dẫn đường đầu cạo trọc trụi như sư cụ râu cằm lơ thơ chỉ chừng vài chục sợi. Cặp mắt ông lúc nào cũng nheo nheo như bị chói nắng hoặc bị khói cay- Hai bên mép ông có hai đường nhăn sâu hoắm như lấy dao mà trổ, ôm vòng lấy cái miệng rộng hơi móm, nhìn rất hóm. ông đội cái nón mê đan bằng tre cật nặng không thua gì cái mũ sắt, mặc bộ bà ba vải nâu bạc phếch dầy đặc những mụn vá xanh đen và cái quần xà lỏn màu cháo lòng dải đến gối. đặc biệt ông có cái bụng to tướng như bụng đàn bà chửa bảy tám tháng - bụng của người sốt rét kinh niên thành báng- Chắc do đó mà tên ông là Bụng.
ông Bụng người làng Hòa Mỹ, làm nghề bứt tranh đốt than. ông được Ban chi huy Mặt trận trưng dụng cùng một số bà con khác trong địa phương, sang làng Trò dẫn đường cho các đơn vị rút lên chiến khu.
ông Bụng dẫn đội vượt núi theo một con đường dốc ngoằn ngèo, còn nguyên dấu rựa mở đường. Hai bên lối đi lau sậy, cây cối um tùm, hoang vu đến rợn người- Dây leo, giang, mây song bò ngang bò dọc trên đường như đàn trăn, đàn rắn- Nhiều cây gỗ ba bốn người ôm, mục gãy đổ ngang lối đi phải khom mình chui qua Trên mặt đất lớp lớp lá rụng thối, vắt sên như trấu ngo ngoe, ngo ngoe - . Bàn chân vừa lướt qua là chúng bám ngay lấy, cắn hút máu- còn lũ vắt xanh thì đậu trên lá cây, rình bám vào cổ, vào vai, chui tọt vào nách, vào bẹn, lúc nào không hay. Chúng cắn hút máu cho đến lúc no tròn như quả sim rồi rụng xuống- Cả đội lúc đầu em nào bị vắt sên bám phải, cũng sợ rúm người lại. Nhưng rồi thấy sợ không xong với cái tụi hút máu người này, càng co người lại tui hắn càng bám dử. Các em đành phải nhắm mắt, nghiến răng túm lấy cái mình trơn nhớt của bọn sên vắt dứt ra ném đi- Vài lần đầu còn thấy ghê tay, nhưng chỉ sau một buổi đường là hết sợ. Hai cẳng chân em nào cũng nhoe nhoét máu- con sên dứt ra rồi, máu vẫn cứ tiếp tục chảy, cái giống này rất tài, bao giờ cũng nhằm trúng mạch máu.
Lần đầu tiên được nếm mùi leo dốc núi, các em mặt bạc trắng vì mệt thở cả mắt lẫn tai. Nhiều em bò ra dốc- Leo một đoạn dốc ông Bụng lại phải dừng lại đợi.
ông ngồi xuống một gốc cây, lôi từ trong túi áo một nùi thuốc lá ngọn rứt ra và quấn những điếu thuốc to bằng ngón chân cái- ông đánh lửa châm thuốc bằng một con dao nhíp, một hòn đá to bằng nắm tay và một cái bùi nhùi - Các em nhìn ông đánh lửa kiểu này phục lăn.
Lạ hơn nữa là hai chân ông không thấy một con vắt nào cắn.
- Làm răng vắt lại không cán ông? - Các em xúm tại hỏi. - hay ông có bôi thứ thuốc chi?
Ông Bụng cười:
- Rứa dọc đường các cháu không gặp cái tụi vắt sên cứ ngo ngoe mà không chịu cắn à? đó là tụi vô phước cắn nhầm chân miềng nên bị mẻ hết răng đó.
Bọn tẻ trợn tròn mắt nhìn ông, nửa tin nửa ngờ.
ông phả khói thuốc dày đặc như một đám mây, ho khục khắc nói tiếp:
Cái thứ răng sên răng vất đã thấm béo chi. Mới bữa tê đây thôi, miềng đi từ Hòa Mỹ qua Trò, dọc đường một con chó sói núp trong bụi rậm, nhảy chồm ra, táp luôn vô bắp chân miềng hai miếng, nhay nhay rồi kêu ăng ắng bỏ chạy. Miềng thấy bắp chân hơi ngưa ngứa, sờ tay xuống gãi thì thấy rớt xuống đất tám cái răng chó trắng hếu mà nhọn quá đinh. Té ra anh ta táp mạnh quá, răng dắt luôn vô da miềng, coi như nhổ răng. Tội nghiệp cái con chó sói đó rồi đến chết đói mất thôi. Rụng mất tám cái răng cửa thì còn ăn uống cách răng- ông Bụng tặc tặc lưỡi tỏ vẻ thương xót cho con chó sói đã cắn ông. Các em hoang mang không biết ông nói chơi hay nói thật, vì nét mặt, giọng nói của ông không có vẻ một chút gì là đùa vui hết.
Qua khỏi một dốc núi khá cao, ông chỉ cho các em xem những bãi cứt voi to bằng cái thúng úp, còn nóng hôi hồi- Chứng tỏ đàn voi vừa đi qua đây xong- Tư dát ngó bãi cứt voi cười nói:
- Ước chi tụi minh cũng ỉa được những bãi cứt to như ri hè? Tụi mình chỉ việc kéo nhau đến trước cổng đồn tụi Tây, ỉa mỗi thằng một bãi, tụi Tây ngó thấy cũng đủ khiếp mà chết.
Qua khỏi núi rậm, tiếp đến vùng đồi cỏ tranh bạt ngàn san sát như bát úp. ông Bụng chỉ cho các em những dấu chân cọp mới nguyên, in trên mặt đất ướt.
Các em nhìn những dấu chân hệt dấu chân mèo nhưng to bằng cái bát, sợ xanh mắt, vội vàng đi sát vào nhau.
- Bồng hỏi:
- ông ơi ông! Ó trên Hòa Mỹ có nhiều cọp không ôông?
ông Bụng ềࠦ#224; nói:
- Tưởng chi chớ cái giống cọp beo thì chẳng thiếu!
Nhiều bữa miềng đi bứt tranh, gánh tranh về nhà mở ra phơi, thấy có hai ba cái đuôi cọp máu me đỏ lòm, ngúc nga ngúc ngắc, nằm lẫn trong tranh. Té ra miềng mải bứt, bứt luôn đuôi cả một bày cọp đang ngồi rình mồi mà không biết!
Cả đội phá lên cười, nhao nhao nói:
- ông nói trạng chi trạng gớm rứa ông ơi!
Ông Bụng mặt vẫn tỉnh khô, ề à kể tiếp:
- Cách đây chừng nửa tháng, một bữa miềng đi bứt tranh về, vừa mở bó tranh ra thì có một cục chi to cỡ bằng trái bưởi, tròn tròn, nâu nâu, nhăn nhăn, lăn ra kêu cái bịch- Miếng lượm lên ngó coi, té ra cả một đùm.-- dái cọp! Cái liềm mới đưa cho thợ rèn cắt lại chấu, sắc đã gớm, bứt dái cọp mà cứ ngọt xớt như bứt chuối chín!
Tư-dát hỏi ông:
Rứa chừ mô rồi ông?
Cái chi?
- đùm dái cọp ấy?
- Miềng luộc chấm muối ớt ngay bữa đó. Ðể lâu sợ ôi.
- ông chép miệng- - Cái anh dái cọp lơ mơ rứa mà ngọt đáo để, có phần ngọt hơn anh dái voi.
Cả đội bò lăn ra bãi cỏ tranh mà cười, còn ông Bụng mặt vẫn tỉnh khô, thủng thẳng quấn một điếu thuốc lá cũng to bằng ngón chân cái, đánh đá lửa hút.
ông Bụng nói trạng chơi mà Mừng cứ tưởng thật.
Em hoảng quá, đi nép sát vào Tư-dát, một tay bíu chặt thắt lưng da. Tư-dát quay sang nói:
- Nì, lỡ cọp nó có nhảy ra vồ thì cậu nhớ bỏ nịt tớ ra nghe, cậu mà níu chặt quá, hắn tha luôn cả tớ đi thì chết tớ đó nghe!
Qua làng Sơn Qua qua khe Nước Nóng, qua làng Thanh Tân. rồi làng Ðất Ðỏ, mọc đặc một giống tre lồ Ô Từ làng đất đỏ đi men theo bờ con sông Ô Lâu uốn lượn quanh có nước chảy rì rào giữa hai bờ lau sậy um tùm.
 
9.
Năm giờ chiều hôm đó, Ðội đặt chân lên đất chiến khu Hòa Mỹ.
Chiến khu! Hai tiếng mới mẻ này đã từng gợi lên trong trí tưởng tượng các chiến sĩ nhỏ tuổi trong đội Thiếu niên trinh sát biết bao hình ảnh hùng tráng thơ mộng. . .
Sau Cách Mạng tháng Tám, lần đầu tiên các em được nghe hai tiếng chiến khu qua bài hát: "Nhớ chiến khu".
" chiều nay xa chiến khu trong rừng chiều Bên bờ tiếng suối reo ngàn thông réo..." Hồi còn Ở mặt trận Huế, mỗi lần sinh hoạt đội cất tiếng hát bài "Nhớ chiến khu" các em lại thấy hiện ra trước mắt những rùng thông vi vu trong gió ngàn, dòng suối bạc lấp lánh chảy róc rách giữa hai bờ đá trắng phau-.. Một đoàn chiến sĩ ngồi bên suối mài gươm, lau súng- Một toán chiến sĩ khác cưỡi ngựa phi vun vút qua đèo.
Bởi vậy mà chiều hôm đó, khi đã đặt chân lên đất chiến khu Hòa Mỹ rồi mà cả đội vẫn không ngớt mồm hỏi ông Bụng:
-Sắp đến chiến khu chưa ông?
- đi chừng bao lâu nữa mới tới chiến khu ông?
ông Bụng khoát tay chỉ bao quát vùng đồi núi trước mặt nói:
- Chiến khu ta đây chớ mô nửa các cháu.
Cả đội sửng sốt:
Chiến khu là đây thiệt hả ông?
Ông Bụng lên giọng giảng giải:
- Cái vùng núi non ni từ đời thủy tổ thì gọi là Hòa Mỹ- Mới đây Chính phủ cải ra tên mới là chiến khu- Chiến khu với Hòa Mỹ cũng là một cả thôi.
Cả đội nhìn nhau tưng hửng. Chẳng có gì giống với những điều các em tưởng tượng trước đây.
Hòa Mỹ là một cái làng ven núi, lơ thơ chừng vài chục nóc nhà nằm rải rác trên một rẻo đất dài và hẹp.
Một bên là núi cao trùng điệp, một bên là con sông Ó Lâu quanh co uốn khúc. Sông hẹp, nhiều khúc vén quần lội qua được, phơi cả sỏi đá dưới dòng. Từng quãng, từng quãng, người ta đắp những cái kè bằng cọc gỗ và đá chắn ngang sông. Nước chảy ào ào qua những chỗ kè để hở, đẩy những chiếc guồng nước nặng nề, kĩu kịt quay đều đều vục nước sông lên đổ vào những cái máng nước trên cao, tưới những thửa ruộng ven sông- Những ngôi nhà tranh, vách đất nép mình dưới những rặng tre lồ Ô dày rậm như rừng. Một lối đi nhỏ ngoằn ngoèo chạy xuyên qua làng- Dọc hai bên lối đi là những dãy sán, khoai chen lẫn với những đám cỏ tranh cao quá đầu người- Trên các vồng khoái, sán rất nhiều dấu chân lợn lòi CÓ những đám sán rất rộng bị lợn lòi dũi nát.
Ðồng bào Ở đây người nào nước da cũng xanh mai mái bởi bệnh sốt rét kinh niên.
Về chiều, khí núi một màu trắng đục, dâng lên mờ mịt- Mưa rả ních. gió núi thổi ào ào- BỘ đội cán bộ, công nhân các cơ quan, công xưởng của tỉnh, từ các ngả đường rút lui khác cũng lần lượt nối nhau đổ lên Hòa Mỹ Người nào cũng mệt nhoài, mặt mày phờ phạc ướt mèm lấm láp suốt từ đầu đến chân.
Khắp làng nhà nào cũng chật ních người, súng đạn ba lô đồ đạc- Những cây sào lồ Ô dài phơi đầy quần áo- Ðường đi lối lại, bùn sục lên dưới hàng trăm bàn chân mang vác nặng nề, trơn như đổ mỡ. Tiếng gọi nhau í a ới suốt từ đầu làng đến cuối làng.
Làng Hòa Mỹ được gọi là tiền-chiến-khu. Chiến khu chính nằm sâu trong dãy núi xanh rì đằng sau làng. Ðội Thiếu niên trinh sát trực thuộc Trung đoàn bộ, phải vào đóng Ở chiến khu Một, gọi tắt là Xê-ca Một. Từ Hòa Mỹ vào đến Xê-ca Một xa vào quãng hai cây số, qua một dải rừng thấp bằng phẳng. Một con suối khá rộng nước chảy Ổ ồ, với những tảng đá xanh rêu trơn nhẫy, đâm sâu vào dãy núi miên man trùng điệp. Men theo bờ suối đi thêm chừng nửa cây số là đến nơi đóng quân- Một dãy lán một mái, dựng ngay bên bờ suối. Dãy lán này mới dựng cách đây chỉ vài hôm, lá lợp, cột, kèo, rui, lạt buộc vẫn còn tươi nguyên. Mỗi bên có một dãy sạp dài suốt từ đầu lán đến cuối lán, để làm gi.ường nằm. Mặt sạp lát bằng những cành cây còng queo, so le, gồ ghề, nằm lên đó khác nào nằm lên một bó củi.
Ðội được chỉ định Ở cái lán số ba kể từ dưới lên.
Tư-dát sờ tay lên mặt sạp, gật gù nói- Người ta nói đời chiến sĩ nằm gai nếm mật là như ri đây anh em ạ.
Tức cảnh sinh tình, em ứng khẩu đọc luôn một đoạn thơ nhỏ vừa chợt nghĩ ra:
, Sống thời nằm trên cành cây,
Chết thời áo súng bọc thây chiến trường
Nhưng ta là Vệ Quốc Ðoàn
Gian nguy đâu có sờn gan anh hùng-. ".
Hay! Hay! - Cả đội nhiệt thành khen ngợi. Nhiều em yêu cầu Tư-dát đọc lại để học theo. Chỉ một tí là cả đội thuộc. Em hát, em ngâm nhộn nhạo cả khu rừng.
Không khí trong đội phút chốc tươi vui phấn chấn hẳn lên.
Vừa đặt ba lô, túi dết xuống sạp nằm, đội trưởng liền huy động cả đội ra rừng phát củi khô. Trời sập tối, đội trưởng cho nhóm lên Ở giữa lán một đống lửa to như đống lửa trại. Khói xông mù mịt- ánh lửa bập bùng. Cả đội vây quanh lấy đống lửa, cởi áo quần ướt ra hơ, trêu chọc nhau cười nói râm ran.
Hành quân mệt lả thế mà cả đêm đó cả đội đều thao thức đến quá nửa đêm, không sao ngủ được- Một phần tại cái sạp nằm cứ đâm nhói nhói giữa lưng, một phần vì những tiếng động dễ sợ của rừng đêm- tiếng hoẵng kêu, vượn hú, tiếng một đàn voi ào ào đi qua đâu đó trên dốc núi, làm cành cây gãy răng rắc, tiếng chim từ quy khắc khoải buồn thảm và nhiều tiếng rừng huyền bí khác làm cho cả đội cứ sởn hết gai ốc, cứ nhích dần nép sát vào nhau.
Hôm sau, đội ăn bữa ăn đầu tiên của chiến khu. Cơm gạo lức với muối tráng, phải bẻ lá rừng cuộn lại làm bát và bẻ cành cây làm đũa ôi, nhớ sao xiết, kể sao hết những gian khổ thiếu thốn của chiến khu những ngày đầu tiên ấy.
Mười năm sau một nhà chép sử đã ghi lại mấy nét tổng quát của hoàn cảnh chiến khu Hòa Mỹ ngày đó như sau:
" Việc tổ chức các chiến khu Ở các vùng rừng núi đều làm rất sơ sài. Lương thực dự trữ rất thiếu thốn ở Thừa Thiên lúc rút lên núi, lương thực vẻn vẹn chỉ còn hai tấn gạo. Trong lúc đó số người ăn kể cả cán bộ, bộ đội nhân viên các ngành, tự vệ chiến đấu, công nhân cơ xưởng có tới hai ngàn người.." Chỉ mấy dòng vắn tắt đó cũng đủ gợi cho chúng ta ngày nay hình dung được một phần sự gian khổ thiếu thốn đáng sợ của hoàn cảnh chiến khu Hòa Mỹ những ngày đầu tiên ấy.
 
Quay lại
Top Bottom